Welcome Guest! To enable all features please Login or Register.

Notification

Icon
Error

9 Pages«<56789>
Bàn về ca dao, tục ngữ, thành ngữ
viethoaiphuong
#121 Posted : Friday, October 23, 2009 11:29:53 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
VỀ MỘT BÀI CA DAO NAM BỘ

Xưa nay ta vẫn quen với câu: "Tưởng giếng sâu anh nối sợi dây dài", nay bỗng nhiên lại được nghe một câu hết sức "trái khoáy" ("Tưởng giếng sâu qua nối sợi dây cụt"). Lối nhập đề ngay từ đầu đã gây được sự chú ý, bởi vì nó quá lạ tai. Ngộ thật! Dây cụt thì làm sao mà đo được giếng sâu?

Tưởng giếng sâu qua nối sợ dây cụt
Ai dè giếng cạn nó hụt cái sợi dây
Qua tới đây mà không cưới được cô Hai mầy
Qua chèo ghe ra biển… đợi nước đầy qua chèo vô.

Bài ca dao này tôi được biết do nhà văn Lê Đình Bích đọc cho nghe.
Về phần Lê Đình Bích, anh nói rằng anh sưu tầm được từ một lão nông ở Bạc Liêu. Mới nghe xong tôi đã thích liền. Rõ là một bài ca dao ngồ ngộ, được thể hiện như là một truyện ngắn cực ngắn. Nhân vật là một chàng trai (có thể lắm), có tính cách cũng rất ngồ ngộ.
Xưa nay ta vẫn quen với câu: "Tưởng giếng sâu anh nối sợi dây dài", nay bỗng nhiên lại được nghe một câu hết sức "trái khoáy" ("Tưởng giếng sâu qua nối sợi dây cụt"). Lối nhập đề ngay từ đầu đã gây được sự chú ý, bởi vì nó quá lạ tai. Ngộ thật! Dây cụt thì làm sao mà đo được giếng sâu? Rõ là có sự cố ý tinh nghịch gì đây. Mà cũng có thể là anh chàng đã biết, bởi vậy chàng mới bày đặt ra cách nói ngộ kỳ đời (dây cụt mà còn hụt thì giếng ấy là giếng gì?).

Tiếp tục lung khởi nội dung, câu hai viết tiếp: "Ai dè giếng cạn nó hụt cái sợi dây". Đương nhiên quá đi rồi còn gì. Đã là dây cụt thì còn nhằm nhò gì mà đo với chẳng đo. Nó khác hẳn với câu ta đã biết: "Ai ngờ giếng cạn anh tiếc hoài sợi dây". So sánh hai câu này với nhau, ta lại thấy lấp lánh cái ngồ ngộ rất cố tình của lối kể, lối dẫn chuyện.
Sang tới câu ba thì cốt truyện bộc lộ đã quá rõ. "Qua tới đây mà không cưới được cô Hai mầy", câu này đã dẫn ra thêm một nhân vật nữa. Cái cô Hai nào đó chắc cũng phải có nét gì đó ngồ ngộ mới khiến nhân vật chính của chúng ta bộc lộ quyết tâm làm vậy. Câu chuyển này thực ra không chuyển hẳn về ý nhưng rõ ràng nó vẫn tạo ra sức chuyển rất mạnh cho bài ca dao, giúp ta thấy ràng ràng tính cách "ăn sóng nói gió" của một anh chàng hạ bạc lặn lội đường xa đến tìm gặp người đẹp và quyết "yêu" cho bằng được người đẹp.

Câu thứ tư dùng kết thúc câu chuyện cũng hết sức bất ngờ. Câu này phải đọc ngắt ra làm hai mới thấm hết cái độc đáo, cái thần khí đầy sắc sảo của bài ca dao. "Qua chèo ghe ra biển/ đợi nước đầy qua chèo vô". Ở trên là câu thề độc, cho nên đọc vế đầu của câu dưới, hẳn sẽ khiến ta liên tưởng tới cái chết, cái kết cục bi thương của một cuộc tình đơn phương bốc lửa. Không yêu được "cô Hai mầy" thì qua chèo ghe ra biển qua ùm xuống chết cho "cô Hai mầy" coi. Ấy vậy mà không!.. Ngu gì qua chết lãng òm cơ chứ! "Đợi nước đầy qua chèo vô". Lối kết thúc này xui tôi nhớ một bài Tanka Nhật Bản:

Sông Hô Nô Xê nước rất nông
Lội ra giữa dòng vẫn không ướt váy
Hỏi một người cũng nông như vậy
Làm sao tôi có thể yêu sâu?

Cái cô Hai nào đó trong bài ca dao của chúng ta có "nông" không nhỉ? Anh chàng kể chuyện cho chúng ta nghe, hẳn đã nếm mùi kiểu như "con cáo với chùm nho" của La Phông Ten rồi là cái chắc. Dùng dây cụt thì không làm sao đo được giếng mà biết sâu hay cạn. Cứ theo cốt truyện mà suy, thì nhân vật của chúng ta hẳn đã bị hạ đo ván tới thấm mùi, nên mới biến được chuyện riêng của mình thành một truyện cực ngắn, hay tới mức độc đáo làm vậy.

Ở Nam Bộ có một câu rất hay: "Nói vậy mà không phải vậy". Bài ca dao là một câu chuyện thuộc loại "nói vậy mà không phải vậy". Hệ thống ngôn ngữ dùng kể chuyện rất thống nhất, bố cục chặt chẽ, kết cấu bất ngờ, cho ta thấy rõ một bản lĩnh sáng tạo văn bản rất tài hoa. Mới nghe, ta tưởng như nhân vật trong bài ca dao chỉ kể chuyện để giỡn chơi tưng tửng cho vui lúc trà dư tửu hậu, nhưng càng đọc ta càng thấy lấp lánh một khía cạnh rất thật trong đời: với tình yêu thì không thể đùa giỡn được. Đùa giỡn thì không thể thành tình yêu, nhưng lỡ không thành được tình yêu thì cũng phải vui lên mà sống chứ. Vậy là thoắt một cái, anh chàng phải lòng cái cô Hai đa tình nào đó, bỗng trở nên sâu sắc lạ đời.

Tưởng giếng sâu qua nối sợi dây cụt
Ai dè giếng cạn nó hụt cái sợi dây
Qua tớ đây mà không cưới được cô Hai mầy
Qua chèo ghe ra biển… đợi nước đầy qua chèo vô.

HỒ TĨNH TÂM (Vĩnh Long)
viethoaiphuong
#122 Posted : Saturday, October 24, 2009 7:07:52 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
Hoa Quả Trong Ca Dao




Có hoa có quả mới hay,
Một trăm thứ quả em nay đã từng.
Cứng thì quả ổi còn ương,
Mềm thì quả thị chín vàng đã lâu.
Ðỏ lòng thì đúng quả nâu,
Nhuộm khăn, đan áo, đẹp mầu đời ta.
Thơm thơm, mát mát quả na,
Biếu cha, biếu mẹ hơn là chén son.
Ðắng thì bồ kết bồ hòn,
Ðể ta tắm gội cho trơn mái đầu.
Ngọt thì long nhãn, táo tàu,
Bưởi đường, cam, quít, lựu đào nâng niu.
Chua thì quả hạnh, quả mai,
Quả sấu, quả rọc, quả gai trái mùa.
Ðôi ta còn ngọt chửa chua,
Ðừng tham táo rụng, đừng chê khế rừng.
Thanh yên, phật thủ thơm lừng,
Quả thơm mặc quả, xin đừng quên nhau.
Bé thì quả vối, quả dâu,
Nhớn thì quả mít chia nhau mới đành.
Ðể ta chọn cá nấu canh,
Cà chua chín đỏ rấp ranh đi tìm.
Tình cờ ta gặp nhau đây,
Quả cau ta bổ, chia tay mời chào.
Ðôi ta kết nghĩa tương giao,
Nào là quả mận quả đào đong đưa.
Bùi ngùi quả ấu quả dừa,
Xanh xanh quả mướp, quả dưa, quả bầu.
Hạt tiêu cay đắng đã dầu,
Ớt kia cay đắng ra mầu xót xa.
Mặt kia mà tưới nước hoa,
Ai đem mướp đắng mà hoà mạt cưa ?
Thủy chung cho bác mẹ ưa,
Ðừng như đu đủ nắng mưa dãi dầu.
Yêu nhau đá bắc nên cầu,
Bồ quân lúc chín ra màu tốt tươi.
Hẹn chàng cho đủ mười mươi,
Thì chàng kết tóc ở đời với em.


[img]http://e-cadao.com/images/hoatigon.jpg [/img][/i]

Ca Dao


# posted by HVLN - TV-VB
viethoaiphuong
#123 Posted : Sunday, October 25, 2009 5:30:14 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
quote:
Gởi bởi Vi_Hoang

...
...
Có mấy câu nầy cho vô luôn nghen:

Trời mưa bong bóng phập phồng
mẹ đi lấy chồng con ở với ai
con về ở với dì hai
để cha thoải mái mà hai ba …bà.







Originally posted by Hoang Thy Mai Thao

chị LN ơi .. và các anh / chị thích về ca dao quê hương VN ..
dưới nầy có phải là ca dao không ạ ?
Cái nầy là HP đem mấy bài viết rất hay từ đây để chia sẻ nơi cõi ảo khác .. rồi tình cờ thấy trong đó cũng có những điều ngộ nghĩnh và lý thú bàn về ca dao, tục ngữ, thành ngữ VN ..

Trời mưa bong bóng phập phồng
mẹ đi lấy chồng con ở với ai
con về ở với dì hai
để cha thoải mái mà hai ba …bà.











Đúng thế, 2 câu đầu là một bài ca dao rất nổi tiếng, riêng 2 câu sau thì Hoài tôi chưa từng thấy. Tặng HP thêm 2 câu có chữ trời mưa bong bóng

Trời mưa bong bóng phập phồng
Mẹ đi lấy chồng con ở với ai ?
Chẳng thà ăn sắn ăn khoai
Không ở dượng ghẻ om tai láng giềng

Trời mưa bong bóng phập phồng (2)
Em đi lấy chồng để khổ cho anh

và mấy câu có chữ phập phồng

Đứng gần em, gan nọ phập phồng
Nghiêng tai hỏi nhỏ, nước mắt hồng vội tuôn
Gặp mình giữa đám ruộng vuông,
Lời phân chưa hết, nước mắt tuôn theo liền.

Nón treo quai gãy khi không,
Can chi bậu sợ phập phồng lá gan.

hph
viethoaiphuong
#124 Posted : Monday, October 26, 2009 4:46:43 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)

Gởi bởi Phượng Các

Nhạn đậu cành thung
giương cung bắn nhạn;
Con nhạn lụy rồi, làm bạn với ai?

Ca dao

Có bạn nào biết cành thung là cành gì? xin cho biết với! Rose



Gởi bởi Bình Nguyên
Chị PC ơi,

Cành Thung chắc là cái cành dẻo chăng, tức là uốn lên uốn xuống được?

BN.




Gởi bởi Phượng Các
Có cơ sở gì chăng, hay đoán đại hả BN? Phải mà biết nhạn hay sống ở đâu thì mình phăng tới. thung hình như là một vũng lớn, giống như cái đầm, không biết có vị nào biết?




Gởi bởi Song Anh

Theo từ điễn Thiều Chửu :
蓯 thung
Cỏ thung.
Nhục thung dong 肉蓯蓉 một giống thực vật mọc nhờ ở cây khác, rò mềm nhủn, dùng làm thuốc.
Đừng ai hỏi tới nó ra làm sao nghenEight BallQuestion...từ từ chừng nào...S.A tìm ra hình rồi sẽ đưa lên sau...TongueBig Smile


Gởi bởi Phượng Các
mình nghĩ thung trong hai câu này phải là từ thuần Việt, vì không lẽ bỗng nhiên ca dao miền Nam lại đi dùng một từ Hán mà ngôn ngữ thường ngày ta không hề dùng tới. Question


Gởi bởi Song Anh

Theo Đại Từ Điển tiếng Việt của Nguyễn Như Ý :

-Thung :Cây cao đến 20m, vỏ thân nức nẻ, xám xịt, lá hình bầu dục, mép có răng ngắn, hoa họp thành chùy hình tháp, có thể dùng vỏ làm thuốc nhuận tràng và thanh huyết, còn gọi là cây búng.

-Thung : Thung lũng, nói tắt : triền thung.



===================================


Bài từ bên nhà TV-VB


Originally posted by Hoang Thy Mai Thao

chị LN, anh HPH và quí anh/chị - quí bạn thân mến,
HP thấy có người hỏi về câu ca dao dưới đây :

Nhạn đậu cành thung
giương cung bắn nhạn;
Con nhạn lụy rồi, làm bạn với ai
?

Ca dao



đọc cũng thấy ngộ nghĩnh lắm thay - vì HP có nhỏ em út tên là Nhạn Lì ... quá xá là lì .. nên HP đem về đây nhờ các anh chị "giải mã" giùm cành thung là cành gì?

HP cám ơn trước thật nhiều .
Thân mến,
HP


=======


Originally posted by haphuonghoai

HP quý mến:

Câu hỏi của HP cũng khá hóc búa vì Câu:
Nhạn đậu cành thung
giương cung bắn nhạn;
Con nhạn lụy rồi, làm bạn với ai
?


có 2 chữ cổ "Cành Thung" hoặc là phương ngữ mà nay chẳng còn ai xài;

Đây là vài tài liệu có thể phần giải thích ý nghĩa của "Cành Thung"


1. Tuyển tập các bài văn cúng cổ truyền có bài Văn khấn Lễ Tiểu Tường, Đại Tường (Giỗ đầu, giỗ thứ 2)

Nam mô a di Đà Phật!
- Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư phật mười phương.
- Con lạy Đức Đương cảnh Thành hoàng chư vị Đại vương
- Con kính lạy ngài Đông trù Tư mệnh Táo phủ Thần quân
- Con kính lạy chư gia tiên Cao Tằng Tổ Khảo,
Cao Tằng Tổ tỷ
Hôm nay là ngày…. Tháng ……. Năm ……….. Con trai trưởng (hoặc cháu đích tôn) là………vâng theo lệnh của mẫu thân (nếu là mẹ hoặc phụ mẫu nếu là cha), các chú bác, cùng anh rể, chị gái, các em trai gái dâu rể, con cháu nội ngoại kính lạy.
Nay nhân ngày Giỗ Đầu (Giỗ thứ Hai) theo nghi lễ cổ truyền,
Kính dâng lễ mọn biểu lòng thành.
Trước linh vị của: Hiển………………chân linh.
Xin kính cẩn thưa rằng:
Than rằng: Mây che núi Hổ (nếu là cha hoặc núi Dĩ nếu là mẹ)
muôn dặm mơ màng Gió thổi cành Thung (nếu là cha thì Cành Thung hoặc cành Huyên nếu là mẹ) một vùng nghi ngút
Nhớ thưở trước, một nhà sum họp, vui vầy những ước, đặng trăm năm
Mà bấy nay, đôi ngả cách xa, nông nỗi nào ngờ, nên một phút.
Ơn chín chữ, trời cao biển rộng, hiểm chưa chút công đền nghĩa trả, gánh cương thường, nghĩ nặng trên vai;
Đêm năm canh, than vắn thở dài, những mơ màng tiếng nói điều ăn, lòng tưởng vọng, thấm đau trong ruột.
Cõi trần thế, xuân qua thu lại, ngày trời kể, chẵn một năm tròn; (hoặc hăm bốn tháng tròn).
Giỗ Tiểu Tường (hoặc Đại Tường) lễ bạc tâm thành, chén rượu dâng một vài tuần rót.
Nhà đơn bạc, còn nhiều bề khiếm khuyết, hương thơm, nến đỏ, việc lễ nghi, tạm gọi theo thời;
Bài văn ai kể mấy khúc nôm na, tâm động, thần tri, miền minh phủ, may chi thấu chút. Xin kính mời: Hiển:…………………………………………. Hiển:…………………………………………. Hiển:………………………………………….
Cùng các vị Tiên linh Tổ bá, Tổ Thúc, Tổ Cô và các vong linh phụ thờ theo Tiên Tổ về hâm hưởng.
Kính cáo: Liệt vị Tôn thần, Táo Quân, Thổ Công, Thánh Sư, Tiên Sư, Ngũ tư Gia thần cùng chứng giám và phù hộ cho tòan gia an ninh khang thái, vạn sự tốt lành.
Chúng con lễ bạc tâm thành, cúi xin được phù hộ độ trì.
Nam mô a di Đà Phật!
Nam mô a di Đà Phật!
Nam mô a di Đà Phật!
Cẩn cáo!


2. Trong sách Bích Câu Kỳ Ngộ,câu 19 được học giả Hoàng Xuân Hãn đọc Nôm là “Phúc lành nhờ ấm thung huyên”.
Cụ chú thích “Thung huyên": cha mẹ. Chính âm là Xuân-huyên. Chữ thung là cối giống chữ Xuân, nên có sự sai ấy.
Nhưng sự sai có từ xưa. Tự vị Alexandre de Rhodes xuất bản năm 1651 cũng đã chép vậy.
Và trong văn vần ta như Kiều có câu:
“ở trên còn có nhà thung.
Lượng trên trông xuống biết lòng có thương”.


Chữ vần thung kia không thể đổi được…” Tạ Trọng Hiệp về sau còn bổ sung thêm các chứng cứ cho việc chữ XUÂN phải đọc là THUNG trong văn thơ Nôm như sau:

- Tống Trân số phận long đong
Lên ba bỗng bị nhà thung chầu trời.
(Tống Trân Cúc Hoa, 25,26)


- Tuyết sương trắng điểm cành thung
Phan phu nhân mới rướm dòng nước hoa
(Phan Trần, 35,36)

- Con giữ đạo tam tòng Riêng còn một cội huyên thung
Muộn mằn chưa nảy chồi lan quế.
(chèo Quan Âm Thị Kính)

- Tủi thân sớm vắng nhà thung
Lấy ai dạy dỗ cậy trông sau này
(Thạch Sanh, 115,116)

- Chị nhờ em gánh hiếu trung
Chồi huyên gần cỗi gốc thung gần già
(Nhị Độ Mai, 973,974).


Như vậy Cành Thung có thể là cành xuân
Hoặc Cành Thung là Nhà Cha

Hà Phương Hoài


viethoaiphuong
#125 Posted : Monday, October 26, 2009 8:06:55 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
Chuyện Vui Ca Dao:


Chuyện kể về một anh sinh viên người Hungary sang Việt Nam làm nghiên cưú sinh môn tiếng Việt.

Cuối đợt nghiên cứu trường ĐHQG Hà Nội tổ chức một kỳ thi gọi là khảo sát trình độ của từng nghiên cứu sinh. Đề văn ra như sau:

"Anh (chị) hãy giải thích câu ca dao:

Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương."

Đọc xong đề, anh chàng sinh viên khoái chí lắm vì nghĩ rằng không có gì là khó, nhất là khi anh có mang theo cả từ điển. Sau một hồi tra cứu chảy nước mắt, xem ra anh ta đã tường tận nhiều điều:

"Gió đưa (được) cành trúc" thì ắt hẳn phải là gió to, ý hẳn là có bão.
Với từ "la" anh phân vân giữa hai cách hiểu:
+"la" là sự kết hợp giữ lừa và ngựa.
+"la" anh đoán rằng đề đã in sai, phải là lao mới đúng. Và anh đã chọn cách hiểu này.
"Đà" là thanh tà vẹt để tàu có thể chuyển động trên đó.
"Thiên mụ" : đàn bà trời - ý hẳn là vợ trời.|
" Thọ" : nhiều lần (lâu)

Và cuối cùng anh ta đã cho ra đời một sản phẩm bất hủ:

Trời nổi cơn bão lớn
Lao xuống tà vẹt đường
Vợ trời đánh một tiếng chuông
Canh gà húp vội, hóc xương mấy lần




nguồn : http://e-cadao. com


# s/t by Linh Phuong
viethoaiphuong
#126 Posted : Monday, October 26, 2009 8:56:58 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
From: group ThuHa - Paris
Date: 26 oct. 2009 16:19
Subjec :
Ca Dao Viet Nam : Chuyen Vui


Phản ứng của "chàng....":


Nếu biết rằng em đã lấy chồng





"Bắc Kỳ":

-----------------------------------------------

Nếu biết rằng em đã lấy chồng

Anh về chửi đổng giữa đám đông

Mẹ bố tiên sư nguyên giòng họ

Ngựa chứng! Sao mày dám bỏ ông ?



"Trung Kỳ":

-----------------------------------------------

Nếu biêt rằng O nợ có chồng...

Tui về núi Ngự nhảy xuộng sông...

Sông sâu nước lạnh tui lại hớp

Tự tử mần răng cũng chẳng xong



" Nam Kỳ":

-----------------------------------------------

Nếu biết rằng em đã lấy chồng

Mèn ơi! Em chê tui nhà nông

Ruộng nương, nổi nóng tui đốt hết

Không gạo cho em đói nức lòng



"Ba Tàu":

-----------------------------------------------

Nếu piết rằng lị đã có chồng

Ngộ dzề ngộ pán nốt Hồng Kông

Mang tiền ngộ đổ vào Chợ Lớn

Lời dzốn đầu tư... Ngộ mát lòng



"Việt kiều":

-----------------------------------------------

Nếu biết rằng em đã có chồng

Anh về bên bển thế là xong

Trăm cô ngồi đó cho anh lựa

Cũng "bốc" như em "but" ....cho không.



"Dân học trường Pháp" style:

-----------------------------------------------

Nếu biết rằng toa đã lấy chồng

Ca va, moa cũng tỉnh như không

Bạn gái secours moa cả đống

Buồn chi cho khổ n'est ce pas?



"Bùi Chu, Phát diệm 1":

-----------------------------------------------

Nếu biết rằng em đã có chồng

Tim anh nở noét như nợn nòng

Nòng thòng nê nết nằm na niệt

Nâu nâu nại ngứa mấy sợi nông



"Bùi-Chu, Phát Diệm 2":

-----------------------------------------------

Nâu nắm mới biết em nấy chồng

Anh về nạnh nẽo một phòng không

Nưu nuyến chỉ nàm thêm đau khổ

No nắng chi cho thêm ná-nông!



"Chế- Linh ":

-----------------------------------------------

Thôi rồi em đã bước sang sông

Bỏ anh lái đò mình đơn không

Ðôi đường đôi ngã nay từ biệt

Em về nhà khách, anh xuống ....ơơơơơ...sông!!!



"Tây Bồi":

-----------------------------------------------

Toa đi lấy autre saucisson

A quoi bon ở lại làm con

Moa đi chạy theo autres jupons

Ðầm mập Tó Vu cũng khá bon!



"An ủi":

-----------------------------------------------

Nếu biết rằng em đã lấy chồng

Anh như bị shock có thiệt không?

Thế gian ai nghĩ anh xấu số

Nhưng có người hơn chịu làm chồng





"C'est la vie":

-----------------------------------------------



Nếu biết rằng em đã lấy chồng

Anh về lấy vợ thế la xong

Vợ anh không đẹp bằng em lắm

Nhưng đẹp hơn em cái tấm lòng





"Cổ Ðiển"

-----------------------------------------------

Nếu biết rằng em đã lấy chồng

Anh về xách vịt nhổ sạch lông

Tiết canh làm đại vài ba dĩa

Mượn rượu cho nguôi vết thương lòng



"Du đãng"

-----------------------------------------------

Nếu biết rằng em đã lấy chồng

Em đừng tưởng thế cũng là xong

Anh về mài nhọn con dao sắc

Thọc huyết chồng em nấu cháo lòng





"Tuyệt Vọng"


-----------------------------------------------

Nếu biết rằng em đã lấy chồng

Anh về tự tử thế là xong

Mộ anh cỏ dại vàng xơ xác

Khi viếng thì em hiểu nỗi lòng





"Tị Nạn"

-----------------------------------------------

Nếu biết rằng em đã lấy chồng

Anh về le gót tận biển đông

Lên tàu vượt biển đi qua ... Mỹ

Xa mặt mong sao sẽ cách lòng



"Kiếm sĩ"

-----------------------------------------------

Nếu biết rằng em đã lấy chồng

Anh về luyện kiếm thế là xong

Kiếm anh sắc bén hơn em nghĩ

Sẽ dzớt trăm em, trả hận lòng !



"Samurai"

-----------------------------------------------

Nếu biết rằng em đã lấy chồng

Anh về cắt dế thả trôi sông

Dế anh trôi nổi theo giòng nước

Em đứng nhìn theo có tiếc không ?



"Xúi Dại"

-----------------------------------------------

Nếu biết rằng em đã lấy chồng

Anh về cạo trọc thế là xong

Trao em mớ tóc làm dây tóc

Ðể tối hôm nay riết cổ chồng



"Thi Sĩ"

-----------------------------------------------

Nếu biết rằng em đã lấy chồng

Anh đau anh khổ suốt ngàn đông

Chắc anh phải làm thơ tình ái

Ðể cho đau khổ khỏi chất chồng





"Dối lòng"

-----------------------------------------------

Nếu biết rằng em đã lấy chồng

Lòng thề không nhớ kẻ sang sông

Nhưng rồi những lối trong tim nhỏ

Vẫn tìm ngả ngách để ngóng trông



"Thời đại văn minh điện tính"

-----------------------------------------------

Nếu biết rằng em đã lấy chồng

Anh về tưởng tượng đại là không

E-mail cứ viết, phone cứ gọi

Cứ thế mà theo chẳng ngại ngùng



hay là:



Nếu biết rằng em đã lấy chồng

Dại gì mà nghĩ "thế là xong !"

E-mail cứ viết, phone cứ gọi

Cũng có ngày em .. ly dị chồng



"Họa Sĩ Vincent Van Gogh"

-----------------------------------------------

Nếu biết rằng em đã lấy chồng

Ði về tự thiến thế là xong

Móc ruột móc gan trao em hết

Ðể ngày Vu Quy nấu cháo lòng



"Bất cần"

-----------------------------------------------

Nếu biết rằng em đã lấy chồng

Anh về thay nệm lẫn chăn bông

Phủi sạch hương xưa, vùi kỷ niệm

Chẳng vấn, chẳng vương, chẳng nặng lòng



"Lạc quan"

-----------------------------------------------

Nếu biết rằng em đã lấy chồng

Anh về giặt nệm chải chăn bông

Sửa lại song thưa rèm buông lõng

Mở tiệc đêm đêm tuyển ngựa hồng



"Cố đấm..."

-----------------------------------------------

Nếu biết rằng em đã lấy chồng

Anh men suối vắng kiếm chùm bông

Kết bó hoa tươi làm lưu niệm

Lén tặng cho em, lúc vắng chồng



"Trăm năm trồng người..."

----------------------------------------- ------

Nếu biết rằng em đã có dù (chồng)

Anh dìa cưới vợ đếch thèm tu

Mai này khi có con trai lớn

Xúi lấy con em để trả thù


hay là:



Nếu biết rằng em đã lấy chồng

Anh dzìa cưới dzợ, trỏ núi sông:

"Mai này khi có con trai lớn

Xúi "dzớt" con em rửa hận lòng !"



"Tẩy trần"

-----------------------------------------------

Nếu biết rằng em đã lấy chồng

Anh về tắm gội với xà-bông

Tình thương ngày cũ bay đi mất

Ðể kẻ sang ngang khỏi chạnh lòng



"Vũ Phu"

-----------------------------------------------

Nếu biết rằng em đã lấy chồng

Anh về ẩn núp ven bờ sông

Ðợi em qua đò sang bên ấy

Cầm dao chém đầu cho bõ công



"Tam Tạng..."

-----------------------------------------------

Nếu biết rằng em đã lấy chồng

Anh về tâu với Tôn Ngộ Không

Rằng em ích kỷ yêu giàu có

Mà bỏ mặc anh sầu nỗi lòng



"Sầu đông"

-----------------------------------------------

Nếu biết rằng em đã lấy chồng

Ta về làm bạn với sầu đông

Cay đắng chôn vùi trong bầu rượu

Ngây cười nhìn nhân thế long đong



"Hài lòng"

-----------------------------------------------

Nếu biết rằng em đã lấy chồng

Sao ta còn thấp thoáng niềm mong

Lần chót mơ về ta em khóc

Trăm năm không thẹn một nỗi lòng



"Cu Tí"

-----------------------------------------------

Nếu biết rằng bé đã lấy chồng

Cu Tí về vớt cá lòng tong

Nấu nồi canh thơm tựa: "khắc chồng"

Thêm hành thêm tỏi thỏa tấm lòng ...



hay là:



Nếu biết rằng bé đã lấy chồng

Cu Tí xách vợt vớt lòng tong

Canh chua đậu bắp hì hục nấu

Thêm hành thêm tỏi đớp thoả lòng !



"Que sera"

-----------------------------------------------

Nếu biết rằng em đã lấy chồng

Lập đền khai miếu cúng hồn vong

Khấn vái thập phương tam thế cõi

Chỉ mong cho em sớm goá chồng



"Hy vọng"

-----------------------------------------------

Nếu biết rằng em đã lấy chồng

Nè, đừng tưởng thế nghĩa là xong

Nay thời hai cưới ly dị một

Năm chục phần trăm cơ hội hồng



"Sở Khanh"

-----------------------------------------------

Nếu biết rằng em sẽ lấy chồng

Anh về vớt em bụng cho xong

Chơi trò đểu cáng thì không lỗ

Em chẳng bỏ anh anh cũng dông



"Yếm thế"

-----------------------------------------------

Nếu b iết rằng em đã lấy chồng

Anh về anh cắt ... thế cho xong

Cuộc đời nay chẳng còn em nữa

Thì có làm chi cũng như không !



"Ðệ tử Phim Hồng Kông 1"

-----------------------------------------------

Nếu biết rằng em đã lấy chồng

Anh buồn anh nhớ đến .. Hồng Kông

Một lần tới đó, giờ còn nhớ

Huệ Mẫn kia ơi, vẫn chưa chồng



"Ðệ tử Phim Hồng Kông 2"

-----------------------------------------------

Nếu biết rằng em đã lấy chồng

Anh về vượt biển tới Hồng Kông

Cưới cô ca sĩ Châu Huệ Mẫn

Em ở quê nhà, tức cành hông !



hay là:



Nếu biết rằng em đã lấy chồng

Anh buồn anh mới nói lông bông

Nói đến trời đông cua Huệ Mẫn

Sau đó anh về cưới Cô Long ! (Trần Ngọc Liên)



"Thoát nợ"



Nếu biết rằng em đã lấy chồng

Anh mừng anh nhảy giống trúng phong

Từ nay không ai .. bẹo tai nữa

Thiệt mừng, mừng lắm, biết hay không ?



hay là:



Nếu biết rằng em đã lấy chồng

Anh mừng biết mấy, biết hay không ?

Ba năm quen biết ... ba năm mệt

Tình gì cứ khổ mấy năm dòng



"Thản nhiên"

-----------------------------------------------

Nếu biết rằng em đã lấy chồng

Anh về may áo thế là xong

Xúng xính bộ mới đi dự tiệc

Quen đại một cô để đỡ lòng ...



"Sòng phẳng"

-----------------------------------------------

Nếu biết rằng em đã lấy chồng

Mỗi ngày trước ngõ để mà trông

Xoè tay đòi nợ "bồi thường chớ

Tình tui chia xẻ chẳng cho không !" ...



"Hóa học gia"

---------- -------------------------------------

Nếu biết rằng em đã lấy chồng

Lo soạn đồ nghề chẳng ngồi không

Ðứng trước nhà em anh la lớn

"Tui tạt acide chớ đừng hòng !" ...



"Tài xế xe hàng"

-----------------------------------------------

Nếu biết rằng em lấy chồng

Anh ngồi ôm hận chỉ thầm mong

"Xe cán phanh thây thằng chết dở"

Ðể khỏi ngứa mắt hay phiền lòng ...



"Thật thà"

-----------------------------------------------

Nếu biết rằng em đã lấy chồng

Không buồn không trách với em đâu

Về anh .. mở tiệc mời anh ấy

Ðã lãnh giùm anh một đống phiền .....



hay là:



Nếu biết rằng em đã lấy chồng

Không buồn, không trách, chỉ ước mong

Ðãi được chồng em .. nhậu một bữa

Ðể cảm ơn chàng .. lãnh dùm gông !





" Thầy đồ"

-----------------------------------------------

Nếu biết rằng em đã lấy chồng,

Anh thề kinh sử "nấu" cho xong.

Mai này danh rạng, tên đề bảng,

Lỡ làng, em tiếc đã sang sông ...



"Nhà binh"

-----------------------------------------------

Nếu biết rằng em đã lấy chồng,

Anh vào quân dịch cứu non sông.

Phá giặc, công thành, anh trở lại

Hiểu lòng chinh tướng, có buồn không ?



"Ðệ tử đạo Phật"

-----------------------------------------------

Nếu biết rằng em đã lấy chồng,

"Hữu duyên, vô phận" thế là xong.

Trăm năm, biết có còn thương mãi ?

Sáu trần, năm uẩn cũng là "không" ...



"Ðệ tử đạo Lão"

-----------------------------------------------

Nếu biết rằng em đã lấy chồng,

"Thế thời phải thế" chẳng cầu mong .

Mong rằng em trọn đường gia thất,

Anh tường lẽ Ðạo, vẫn thong dong ...



"Lịch sự"


-----------------------------------------------

Nếu biết rằng em đã lấy chồng,

Lòng thành, anh chúc kẻ sang sông.

Trăm năm duyên đẹp bên người mới,

Cháu hiền, con thảo đúng như lọng





"Chim sợ cành cong"

-----------------------------------------------

Nếu biết rằng em đã lấy chồng

Anh về mở tiệc, đốt pháo bông

Phen này anh quyết không "dại" nữa

Chả dám đeo thêm "chướng quần hồng" !



"Cải tử"


-----------------------------------------------

"Nếu biết rằng em đã lấy chồng"

Xời ơi ! Em chớ nghĩ viễn vông

Mà rằng: "anh có buồn không hở ?"

Ở đó mà ham ! Thứ "sát chồng" !!!



"Có-còn-hơn-không"

------------------ -----------------------------

Nếu biết rằng em đã lấy chồng

Lang thang đi kiếm lá diêu bông

Chờ khi con gái em khôn lớn

Tán tỉnh con em .. mới mát lòng



"Râu quặp"

-----------------------------------------------

Nếu biết rằng em đã lấy chồng

Giời ơi ! Mừng lắm bạn biết không ?

Vẫy chào cấu xé, chào rủa xả

Thoải mái đi rông, chả phập phồng



"Thân trai 12 bến nước"


-----------------------------------------------

Nếu biết rằng em đã lấy chồng

Anh về bày cỗ cúng Táo Công

Thuyền nay thoát khỏi vùng bến đục

Nguyện ước bến sau phải thật trong !



"5 thê - 7 thiếp"


-----------------------------------------------

Nếu biết rằng em đã lấy chồng

Trời ơi ! Buồn lắm, một phòng không

Chắc đành đi tán thêm em khác

Kẻo uổng công xây Thập Nhị phòng !



"Tiếc của, công cốc"

-----------------------------------------------

Nếu biết rằng em đã lấy chồng

Người ta tiếc chết ! Có biết không ?

Dã tràng xe cát, rành công cốc

Nuôi cò cho béo, chúng vặt lông !!!



"Thất tình"

-----------------------------------------------

Nếu biết rằng em đã lấy chồng

Anh về, trên lối cũ rêu phong

Em đi, băng giá vùi phiến mộng

Cả dải Ngân Hà, dải nhớ mong





Ca dao



Đàn ông miệng rộng thì sang

Đàn bà miệng rộng... vẫn sang như thường



Đàn ông bụng bự thì sang

Đàn bà bụng bự... mua than để dành .



Gặp thời cưỡi ngựa bắn cung

Hết thời xuống ngựa... lượm thun bắn ruồi .



Đèo cao mặc kệ đèo cao

Nhưng mà cao quá thì ta chả trèo .



Đường xa mặc kệ đường xa

Nhưng mà xa quá thì ta quay về .



Trời mưa mặc kệ trời mưa

Nhưng mà mưa quá thì ta vô nhà .



Vợ la mặc kệ vợ la

Nhưng mà la quá thì ta theo… bồ .



Trèo cao té đau ... trèo thấp té cũng đau



Trồng trầu thì phải khai mương

Làm trai nhiều vợ biết thương vợ nào ?



Lên chùa thấy bụt muốn tu

Về nhà ngó vợ muốn " xù " em ngay !



Lấy chồng từ thuở mười ba

Ðến năm mư mười tám em ra bà già .



Trên đồng cạn dưới đồng sâu

Chồng cày , vợ ở nhà lầu ngồi chơi !



Hửu duyên thiên lý năng tương ngộ

Vô duyên đối diện cự om sòm .



Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ

Vô duyên đối diện thấy thương liền !





Nhà sạch thì mát

Bát sạch tốn xà bong .



Một người lên " net "

Cả nhà kẹt " phone ."
viethoaiphuong
#127 Posted : Saturday, October 31, 2009 10:21:34 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
Ca Dao Tục Ngữ Và Đồng Dao

Qua bài khảo luận của Trần Xuân Toàn đã nhấn mạnh nhiều đến đồng dao với nhiều chi tiết rất là lý thú.

Nhưng để tìm hiểu thêm tương quan giữa Ca Dao và Đồng Dao, xin trích phần giải thích toàn bộ văn chương bình dân của 2 tác giả: Nhà nghiên cứu Lê Gia và cụ Trần Ngọc Ngải và một trích đoạn của bài Ca Dao Nhi Đồng Giáo Sư Doãn Quốc Sỹ

Theo Ông Lê Gia trong bộ sưu tập "Tâm Hồn Mẹ Việt Nam" (NXB Văn Nghệ, 1994) đưa ra những nhận định khá khác biệt với những Sưu tầm ca dao trước đây. (Trang 13 - 30 Quyển Một)


a. Tục Ngữ: Câu nói dựa theo phong tục ăn sâu vào tư tưởng mọi người, được mọi người chấp nhập và truyền tụng. (trang 13)

Có người hiểu theo nghĩa thứ 2 (Tầm thường thấp kém, tục tằn (t.13) mà cho rằng Tục ngữ là câu nói thô tục, quê mùa không văn vẻ (Bất thành văn) thuộc đám bình dận. (t. 14)

a1. Thành ngữ: là một phần câu, do một số tiếng góp nên, nhưng lại là phần quan trọng. (t. 18)

Thí dụ: Trong câu tục ngữ
Nói phải như gãi chỗ ngứa (Tục Ngữ)

Cũng như trong câu phong giao:
Một ngày hai bữa cơm đèn
Còn gì má phấn răng đen hỡi chàng

Thì "Gãi chỗ ngứa" và "Má phấn răng đen" là hai thành ngữ.
Nhưng gãi trúng chỗ ngứa lại là một câu tục ngữ vì nó có ngụ ý (nghĩa bóng) và thay cho một câu trọn nghĩa: Làm đúng việc, làm có lơi...
a2. Ngạn Ngữ: Câu nói có từ lâu đời, được lưu truyền trong một nước, một vùng. Có nhiều người dùng "Ngạn ngữ" thay cho "Tục ngữ" (t.22)
a3. Sấm Ngữ: Nghiệm đúng sự việc sẽ xảy ra ... như "Mặt rỗ, tổ ghen"
"Chớp Đông hay nháy, gà gáy thì mưa" (Sấm Trạng)(t.22)
a4. Mê Ngữ (Câu đố): Mơ hồ, không rõ... Mê ngữ là các câu đố, có ẩn nghĩa như: Đầu bằng con ruồi đuôi bằng cái đĩa (t.23)
a5. Phương ngôn: 1. Tiếng nói hoặc một câu văn hay của một vùng nào đó như: "Trai Cầu Vồng yên Thế, gái Nội Duệ Cầu Lim" 2. Câu nói hay, chỉ phương hướng cho ta theo là phương pháp cho ta dùng, như: Bầu ơi thương lấy bí cùng , Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn. (t.23)
a6. Cách Ngôn: Lề lối, phép tắc (t.24)
a7. Châm Ngôn: Có nghĩa là răn đời, lời nói dùng làm kim chỉ đường cho cuộc sống (t.24)
a8. Ngụ ngôn: Lời nói có ý nghĩa bên trong (t.24)
a9. Túy ngôn: Theo Hán tự Túy là: Của cải, gia sản, tức cái hay cái quý cái đẹp. (t.25)
Phân tách cho kỹ, ta thấy: Phương ngôn, cách ngôn, châm ngôn, túy ngôn... là lọai tục ngữ nói về cách cư xử, còn sấm ngữ, mê ngữ nói về việc làm ăn chơi bời. Tất cả đều gọi chung là Tục Ngữ(t.25)
b. Phong Dao: - Hát ngắn, bài hát câu hát không thành chương khúc, ít giọng điệu, chỉ dùng thanh nhạc, không có nhạc khi phụ họa, dùng hát hát ngâm chơi tùy hứng, không trình diễn với sân trường và bối cạnh
- Lời đồn đại, lời nói vô bằng cớ, không biết xuất xứ (Dao ngôn, Dao tục)
Vậy phong dao có nghĩa là những câu , những bài hát ngắn chưa thành chương khúc, ít giọng điệu, dựa theo phong tục tập quán và được truyền tụng lâu đời, không rõ tác giả và xuất xứ, đôi khi có tính cách đồ đại một sự việc gì. (t.26)
b1. Đồng dao: Những câu hát ngắn, không rõ xuất xứ, của trẻ con hát chơi hay đồn đại một sự việc gì như:
"Ông tiển ông tiên
Ông có đồn tiền ...." (t.27)
b2. Lý ca hay Lý ngữ: ...là câu hát nơi đồng quê, được hát một cách thản nhiên, một cách nhàn nhã như:
"Trời mưa lâm râm
Cây trâm có trái... (t.28)
Vè của ta vừa là Thi vừa là Dao....(t.29)
c. Dân Ca: Hát lên, tiếng hát, bài hát có giọng điệu, tiết tấu, chương khúc (có bài bản) (t.29)
d. Ca Dao: Như trên ta đã thấy, hai chữ "Ca" và "Dao" có hai nghĩa khác nhau cũng như hai chữ "Thi" và "Phú" vậy.
Sách "cổ dao ngạn" (Phong dao, ngạn ngữ) xưa có viết: Ca va Dao khác nhau ở chỗ là Dao có thể dùng làm lời Của Ca.
Sách Mao Truyện (Truyện hay chọn lọc) nói: "Khúc hợp nhạc viết Ca, đồ ca viết Dao" có nghĩa là khúc hát có đệm nhạc là Ca, hát trơn là Dao.
Vậy một bài hát không thể vừa Ca vừa Dao nên cũng không thể có bài hát nào được gọi là bài Ca Dao cả (t.30)

Để rộng tầm nhìn chúng xin đưa thêm trích đoạn giải thích của Cụ Trần Ngọc Ngải (Chicago, USA)

Theo định nghĩa trong Tập "Tục Ngữ, Thành Ngữ Ca Dao và Dân Ca Việt Nam" của cụ Trần Ngọc Ngải, Chicago, Illinois, USA 1997:
Ca Dao (petit chanson populaire) = Câu hát ngắn thành khúc điệu được phổ thông trong dân gian
Cách Ngôn (Précepte, Maxime) = Lời nói làm khuôn phép (cách kiểu mẫu, khuôn mẫu)
Châm Ngôn ((Précepte, conseil) Lời văn có vần điệu để khuyên đời
Dân Ca (Chanson populaire) Bài ca có tính cách dân tộc, dễ hiểu và hợp với tâm tình đơn giản của nhân dân
Ngạn Ngữ (Proverbe, dicton populaire) Câu nói ngắn gọn của dân gian với mục đích răn dạy
Phong Dao (Chanson populaire) = Lời ca câu hát của dân gian tại các địa phương mà có thể hiểu được phong tục tập quán của một dân tộc trong lịch sử
Phương Ngôn (Proverbe) = Lời nói thông dụng của từng địa phương có ý nghĩa như câu tục ngữ
Tục Ngữ (Proverbe) = Câu nói có tính cách răn dạy hay châm biếm chuyện đời
Thành Ngữ = Là những câu nói ngắn gọn dân gian thường dùng trong khi nói hay viết cho có vẻ mầu mè. (Trang 3)

Mời đọc thêm: http://e-cadao.com/tieul...ao/cadaomiennam-lvd.htm

Trong Ca Dao Nhi Đồng Giáo Sư Doãn Quốc Sỹ cho ta thấy những điểm tác động tâm lý và tinh thần trẻ con qua Ca Dao và Đồng Dao:

I. TÁC DỤNG CỦA CA DAO NHI ĐỒNG
Bàn về tác dụng của ca dao nhi đồng, nữ giáo sinh Lý Đức Mỹ lớp Đệ Nhất - 5, niên khoá 1968-69, trường Sư Phạm Sài Gòn có ghi :
“ Khi đọc những ca dao nhi đồng, bao giờ chúng ta cũng cảm thấy mình như trẻ lại, và những ảnh tượng xa xưa của thời thơ ấu tự nhiên xuất hiện, nó dàn cảnh trước mắt ta, gây cho ta một cảm giác lâng lâng yêu đời, và để lại trong lòng ta một nuối tiếc về thời vàng son của tuổi trẻ mà chẳng bao giờ ta còn trở lại được nữa.

Tuy thời gian mang đi mất tuổi thơ ngây hồn nhiên, nhưng cũng chính thời gian làm cho sự hiểu biết trưởng thành và nhờ đó ta hiểu được và tìm về tuổi thơ với tất cả chân tình trìu mến. Và nhất là vào những lúc nhàn hạ, bỗng dưng tự đáy lòng ta dường như thoát ra tiếng hát trong trẻo ngây thơ đáng yêu vô cùng. Tiếng hát ấy mang hồn ta ra khỏi cái thực tại đầy ưu tư mệt nhọc đang bám sát người ta. Thế là ta hòa mình với trẻ và cùng nô đùa với chúng. Trong giây phút tươi trẻ lại này, ta không còn là chính ta nữa, mà là một đứa bé như muôn ngàn đứa bé đang cười rỡn trên khắp vùng quê hương; ta cũng bày trò, cũng hành động như chúng thôi; và chính ta cũng không hiểu tại sao ta lại có thể làm được như thế khi mà thực tế dằng dặc ưu tư luôn luôn níu kéo ta lại với nó.

Xét cho kỹ, ta được tận hưởng những giây phút có thể nói là thần tiên ấy là do trí khôn ngoan của ta đã biết tích trữ những tinh hoa : tinh hoa đó chính là những bài hát thơ ngây sống mãi muôn đời, vì chỉ những gì người ta thích, cái đó mới gây được hạnh phúc mà thôi”.

Nữ giáo sinh Nguyễn thị Vãng lớp đệ nhị-I cũng ghi như sau:
“Tự ngàn xưa trên mảnh đất hiền hoà này, những bà mẹ, những người chị thường vẫn cất cao giọng ngọt ngào ru ngủ con thơ, em thơ bằng những câu hát êm đềm có ngụ ý về luân lý, phong tục trẻ trung, hồn nhiên, đôi khi có tính cách trữ tình lãng mạn. Những bài hát câu hò đó thấm vào giấc ngủ của trẻ Việt như mưa xuân tưới thấm đất mầu và kho tàng thi ca của ta như hoa lá mùa xuân kia phồn thịnh biết chừng nào. Há chẳng đã có người cho rằng mỗi người Việt là một thi nhân và tình yêu gia đình, tổ quốc, dân tộc và nhất là tình mẫu tử thiêng liêng thể hiện trong văn chương Việt Nam thật đã dạt dào và sâu đậm hơn bất cứ dân tộc nào trên thế giới.

Khi lớn lên ai mà chẳng thấy lòng xúc động khi nghe những câu đồng dao ngộ nghĩnh, những bài hát trò chơi của trẻ em! Trong dịp đó tâm hồn ta tìm về thời thơ ấu trọn vẹn, đó là thuở vàng son đầy nắng ấm và hoa hồng, nụ cười điểm trên môi ta lúc bấy giờ nhuộm trọn màu thánh thiện vô tư.

Ôi! Tuổi ngọc thực đã xa vời, nhưng tiếng hát mẹ hiền ngày nào vẫn còn vang mãi. Những kỷ niệm thời thơ dại đã sống lại bởi dư âm của bài đồng dao êm đềm trong ký ức. Âm thanh sâu thẳm đó tháp cho ta đôi cánh thiên thần bay ra khỏi vùng ưu tư thực tại để đến một cõi nào có toàn trăng sao, hoa bướm, với một lũ trẻ áo màu rực rỡ, ngày tháng tung tăng”.

Chính vì trẻ Việt đã sớm được hưởng trọn vẹn tác dụng nhiệm màu của ca dao ngay từ thuở trứng nước, giữa bầu không khí đùm bọc của gia đình như vậy, nên vấn đề chỉ còn đặt lên là chúng ta sẽ sử dụng những bài đồng dao ra sao đây ở nhà trường. Vấn đề sẽ được đề cập tới kỹ càng hơn ở cuối bài này.

Sau đây là vài bài thí dụ về Đồng dao hay là Trò chơi Trẻ con (Trích từ : Ca Dao Nhi Đồng của Giáo Sư Doãn Quốc Sỹ)
II.
NHỮNG BÀI HÁT VUI

21. CHÈ LA, CHÈ LÍT
Chè la, chè lít,
Bà cho ăn quýt,
Bà đánh đau tay,
Chắp tay lạy bà.

22. KÉO CƯA LỪA XẺ
Kéo cưa lừa xẻ,
Thợ khoẻ cơm vua,
Thợ thua cơm làng,
Thợ nào dẻo dang,
Về nhà bú tí.

……………………

27. CHIỀU CHIỀU CON QUẠ LỢP NHÀ
Chiều chiều con quạ lợp nhà,
Con cu chẻ lạt, con gà đưa tranh *
Chèo-bẻo nấu cơm nấu canh,
Chìa vôi đi chợ mua hành về nêm

(*) Đưa tranh đây tức là đưa gianh (cỏ) lên để lợp nhà

28. CÁI BỐNG LÀ CÁI BỐNG BANG (I)
Cái bống là cái bống bang.
Mẹ bống yêu bống, bống càng làm thơ.
Ngày sau bống đỗ ông đồ,
Đi võng lá sắn, đi dù lá khoai.

29. CÁI BỐNG LÀ CÁI BỐNG BANG (II)
Cái bống là cái bống bang,
Cơm ăn bằng sàn, bốc muối bằng vung.
Mẹ giận mẹ giẩy xuống sông,
Con ra đường biển lấy chồng lái buôn.
Khát nước thì uống nước nguồn,
Lạc đường thì bảo lái buôn đưa về.

30. CÁI BỐNG LÀ CÁI BỐNG BÌNH
Cái bống là cái bống bình,
Thổi cơm nấu, nướng một mình mồ hôi.
Sáng ngày có khách đến chơi,
Cơm ăn, rượu uống cho vui lòng chồng.
Rạng ngày ăn uống vừa xong,
Tay nhắc mâm đồng, tay giải chiếu hoa.
Nhịn miệng đãi khách đằng xa,
Aáy là của gửi chồng ta ăn đàng *

(*) Ý nói nhịn miệng đãi khách như vậy cũng như chuẩn bị gửi của cho chồng đi xa vào những dịp sau này. Ý nghĩ thật thực tế!

………………………..

36. TÌNH TÍNH TANG TANG TÌNH TANG
Tình tính tang, tang tình tang,
Súng vác vai, hoả mai tọng nạp,
Gươm tuốt trần, giáo cắp, mộc mang.
Tang tình tang.
Giương cung mà bắn con cò,
Con cốc nó lội con cò nó bay.
Tính tình tang, tang tình tang.

37. CON GÀ CỤC TÁC LÁ CHANH
Con gà cục tác lá chanh
Con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi.
Con chó khóc đứng khóc ngồi,
Bà ơi đi chợ mua tôi đồng riềng.

38. CON KIẾN MÀY KIỆN CỦ KHOAI
Con kiến mày kiện củ khoai,
Mày chê tao khó lấy ai cho giầu.
Nhà tao chín đụn mười trâu,
Lại thêm ao cá bắt cầu rửa chân.

…………………………………….

43. THẰNG CUỘI NGỒI GỐC CÂY ĐA
Thằng cuội ngồi gốc cây đa,
Để trâu ăn lúa gọi cha lời ời.
Cha còn cắt cỏ trên trời,
Mẹ còn cưỡi ngựa đi chơi cầu vồng.

44. THẰNG BỜM CÓ CÁI QUẠT MO
Thằng Bờm có cái quạt mo,
Phú ông xin đổi ba bò chín trâu.
Bờm rằng : Bờm chẳng lấy trâu!
Phú ông xin đổi ao sâu cá mè.
Bờm rằng : Bờm chẳng lấy mè !
Phú ông xin đổi một bè gỗ lim.
Bờm rằng : Bờm chẳng lấy lim!
Phú ông xin đổi con chim đồi mồi.
Bờm rằng : Bờm chẳng lấy mồi !
Phú ông xin đổi nắm xôi, Bờm cười.

…………………..

49. THÌA LA THÌA LẢY
Thìa-la thìa lảy!
Con gái bảy nghề *
Ngồi lê là một,
Dựa cột là hai,
Theo trai là ba,
Ăn quà là bốn,
Trốn việc là năm,
Hay nằm là sáu,
Láu táu là bảy.

* Bảy nghề : đây tức là bảy tật xấu.

50. XẤU HỔ
Xấu hổ,
Lấy rổ mà che
Lấy nong mà đè,
Lấy đấu mà đong,
Lấy chầy đâm bong.

CHÚ THÍCH : Bài hát riễu em hay xấu hổ này thường được nghe thấy ở các vùng Hà-đông và Bắc-ninh.

51. GIÓ ĐẬP CÀNH ĐA
Gió đập cành đa,
Gió đánh cành đa,
Thầy nghĩ là ma,
Thầy ù thầy chạy.
Ba thằng ba gậy,
Đi đón thầy về.

CHÚ THÍCH : Bài nầy hát riễu thầy phù-thủy nhát ma. Cũng như hai bài tiếp đây riễu thầy bói dốt.

52. SỐ CÔ CHẲNG GIÀU THÌ NGHÈO
Số cô chẳng giàu thì nghèo,
Ba mươi tết có thịt treo trong nhà.
Số cô có mẹ có cha,
Mẹ cô đàn bà, bố cô đàn ông.
Số cô có vợ có chồng,
Sinh con đầu lòng chẳng gái thì trai.

53. NHẤT HÀO NHỊ HÀO TAM HÀO
Nhất hào, nhị hào, tam hào …
Chó chạy bờ ao.
Chuột chạy bờ rào.
Quẻ này có động.
Nhà này có quái trong nhà,
Có con chó đực cắn ra đằng mồm.

…………………
57. CON CÔNG HAY MÚA
Con công hay múa,
Nó múa làm sao?
Nó rụt cổ vào.
Nó xòe cánh ra.
Nó đậu cành đa,
Nó kêu ríu-rít.
Nó đậu cành mít,
Nó kêu vịt chè.
Nó đậu cành tre,
Nó kêu bè muống.
Nó đáp xuống ruộng,
Nó kêu tầm vông.
Con công hay múa …


………………………..

64. CÁI NGỦ MÀY NGỦ CHO LÂU
Cái ngủ mày ngủ cho lâu,
Mẹ mày đi cấy đồng sâu chưa về.
Bắt được mười tám mười chín con trê,
Cầm cổ lối về cho cái ngủ ăn.
Cái ngủ ăn chẳng hết
Để dành đến tết mùng ba.
Mèo già ăn trộm,
Mèo ốm phải đòn,
Mèo con phải vạ,
Con quạ đứt đuôi,
Con ruồi đứt cánh,
Đòn gánh có mấu,
Củ ấu có sừng,
Bánh chưng có lá,
Con cá có vây,
Ông thầy có sách,
Thợ ngạch có dao,
Thợ rào có búa,
Sảy lúa có sàng,
Việc làng có mõ,
Cắt cỏ có liềm,
Câu liêm có lưỡi,
Cây bưởi có hoa,
Cây cà có trái,
Con gái có chồng,
Đàn ông có vợ,
Kẻ chợ có vua,
Trên chùa có bụt,
Cái bút có ngòi,
Con voi có quản.

CHÚ THÍCH : bài này và một số bài kế tiếp thuộc loại vô nghĩa, chỉ cần có vần có điệu, tương đương với
……………………………….

70. BẮT ĐƯỢC CON CÔNG
Chú bé bắt được con công,
Đem về biếu ông,
Ông cho con gà,
Đem về biếu bà,
Bà cho quả thị.
Đem về biếu chị,
Chị cho quả chanh.
Đem về biếu anh,
Anh cho tu-hú.
Đem về biếu chú,
Chú cho buồng cau,
Chú thím đánh nhau,
Buồng cau trả chú,
Tu hú trả anh,
Quả chanh trả chị,
Quả thị trả bà,
Con gà trả ông,
Con công phần tôi.

Doãn Quốc Sỹ
Sưu tập
Mời xem thêm : http://www.e-cadao.com/t...vanchuongnhidong-1b.htm
viethoaiphuong
#128 Posted : Wednesday, November 4, 2009 6:40:49 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
CA-DAO VIỆT-NAM, VĂN-HÓA NHÂN-BẢN


"Một cây làm chẳng nên non,
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao."

Đạo-lý Việt-Nam, gọi là Việt Đạo, được truyền tụng từ thời thái-cổ đến nay bằng ca-dao, tục-ngữ và Kinh-Việt với những truyện dân-gian mà người ta còn gọi là Sử-thi hay Sử-ngôn. Ngày nay, muốn hiểu cho tường-tận những ca-dao tục ngữ đó, ta cần suy-luận theo người thái-cổ với những âm điệu và ngôn-ngữ xưa nay kèm những hình tượng xưa. Một trong những hình-tượng xưa nhất nằm trong Kinh-Dịch, nói cho chính xác là Việt-Dịch.

[Việt Dịch với biểu tượng Âm Dương như sau:

* 1 khuyên-tròn, nằm trên trục thẳng đứng, là Dương --------> O

* 2 khuyên-tròn, đối-xứng qua trục-Dương, là Âm --------> -------0--------0---

Trễ hơn về sau, người Hán Mông (vốn là dân du-mục) đánh chiếm lấy "Trung-Nguyên"(là lãnh thổ vùng Động Đình Hồ và phía nam sông Dương-Tử sau này) rồi nhận vơ độc quyền nền văn-minh Dịch-Lý Nông-Nghiệp của Tộc Bách-Việt (Chinese Mithology of Anthony Christie/ Library of the World’s Myths and Legends, page 5; họ cũng đã thiêu hủy Liên-Sơn Dịch và Quy-Tàng Dịch thuộc thời Hạ, Thương, Ân (các nhà Dịch Học như Thiệu Vĩ Hoa/dòng dõi Thiệu Khang Tiết; Lê Văn Quán . . . đều cho biết hiện những sách này không còn) sau khi đã đúc kết lại và sửa đổi biểu tượng Âm Dương thành "vạch-liền" và "vạch-đứt" (trong khi vẫn dựa trên Hà-Đồ và Lạc-Thư với những "nút kết-thằng", tác-phẩm của Nòi Việt () rồi gọi là Chu-Dịch (mà đành phải bỏ quên trục không-gian; mặc dầu như về cách cấu-tạo chữ viết, người Trung-Hoa luôn nói đến "ngang bằng, sổ ngay" như một câu thiệu nằm lòng. Sự thực là vì do "tiến-bộ" của dụng-cụ dùng để viết, họ không thể khoanh tròn nhỏ được nữa; vả lại khi điểm các chấm rời liền nhau thì chúng lại bị nối liền với nhau / Chinese Character by Dr. L. Wieger and Davrout)].

Muốn giải thích cho rốt ráo những Sử-ngôn xưa, ta không thể dùng biểu-hiệu Âm Dương của Chu Dịch sinh sau đẻ mụôn được, mà phải xử-dụng đến ký-hiệu Âm Dương là những "khuyên tròn"(đã xuất-hiện rất sớm trên Hà-Đồ và Lạc-Thư, và trên trống-Đồng Lạc-Việt về sau) của Việt Dịch (đầu tiên chỉ là những "chấm" tạo-hình, trên 2 lần 9 ô vuông của 2 Đồng-Bánh-Chưng-lớn 4 lạt kết lại, để hoàn-tất 36 quân Trò-chơi KIANO công-bố năm 1993) như trong trường-hợp câu ca-dao:

"Một cây làm chẳng nên non,
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao."

Trong câu ca-dao này, NON và NÚI là tiếng Việt, chúng có cùng nghĩa nhưng chữ thì khác; chữ Nôm gọi là SƠN, chữ Hán gọi là CẤN. Theo Việt Dịch:

* CÂY được khoác Tượng LÔI (Chấn) có hình như 1 gốc mọc lên 2 cành, hoặc hình 2 luồng điện xẹt nhau gây ra

* NÚI NON được khoác Tượng SƠN (Cấn) như hình ngôi nhà hay hang động, lànơi Người trú ngụ vào thời tiền-sử.

Xem thế, ta thấy 2 hình của LÔI và SƠN là hình lật úp (quay 180 độ) của nhau theo trục dọc: Một đằng giống hình cái bát úp xấp, một đằng giống hình cái bát lật ngửa. Cũng chính vì vậy, Tổ-Tiên ta đã để hai hình đó kề nhau mà ví von, mà so-sánh vì khi lật ngược lên thì "CÂY chẳng khác gì NÚI" (nhưng Chấn và Cấn lại là 2 hình nghịch nhau). Đây mới chính là cái thú-vị của Việt Dịch trong văn-chương chữ nghĩa.

[Chúng tôi xin mở ngoặc ở đây để nói rằng, một khi nhìn Tượng LÔI / SƠN qua Việt Dịch như nói trên, chúng ta nhận ra rõ ràng đó là hình vẽ "cái chầy" để giã; trong khi đáng buồn cho các tác-giả người Đức và Mỹ, họ đã không dám vẽ "cái chầy / PESTLE” để dãn-chứng kèm với quẻ Tượng TIỂU QUÁ theo Chu Dịch trong đề mục “History of Civilization” (đương nhiên là viết theo lời các Đại Dịch-Sư người Hán)/ Sách The I CHING or Book of Changes của Wilhelm/Baynes, Princeton University Press , seventh printing 1971, trang 334].

Hình ảnh đối chứng của CÂY và NÚI cũng đã được các nhà Dịch-Học, tiền bối của chúng ta xử-dụng trong bài thơ sau đây:

Bắc Nam đâu cũng một non sông,

Đi, ở can chi phải bận lòng. - - 0 - - - - - 0- -

Vận nước hãy còn đang Kiển, Bĩ, - - 0 - - - - - 0 - -

Làm trai chi sá ngại lao-lung. O

Gió mưa mấy độ cây không chuyển, O

Sấm sét nhiều phen núi chẳng rung. - -0- - - - - -0- -

Việc trải qua rồi, rồi mới biết, - -0- - - - - -0- -

Non sông muốn thử khách anh-hùng.

Bài thơ này do cụ Phan-Chu-Trinh làm (năm 1908, khí các cụ Võ Hữu Kiên, Trần Cao Vân, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Tiểu La và Phan Chu Trinh đang cùng mgồi tù ở nhà lao Quảng-Nam, thì các cụ Huỳnh, cụ Phan, cụ Nguyễn phải lên đường trước vì bị đầy đi tù chung-thân tại Côn-Đảo) để nói lên tâm-sự của kẻ ở người đi. Trong bài, “gió mưa”, “sấm sét” được ví với những tra-tấn, khủng-bố của thực-dân Pháp và tay-sai; còn "cây" và "núi" được ví như chí-khí của các Cụ với một lòng vì Nước thương Nòi, không thể bị lay chuyển.

Trong ca-dao và thơ, CÂY và NÚI được đối nhau về bằng trắc đã đành, 2 Tượng của chúng còn đối nhau chan chát vì chúng là hình lật ngửa của nhau nữa (một đằng là “bát úp”, một đằng là "bát ngửa"), mà chúng ta đã thấy rõ qua biểu-tượng bằng Việt Dịch như ở trên.

Ta hiểu và thấy rõ ràng NÚI có khối chóp đặc 3 chiều; về CÂY thì khi nhìn phần phía ngọn, ta cũng thấy có hình NÚI, vậy thì làm gì có “đối” thật sự! Tiền nhân đã muốn ta nhìn thấy "đối qua Dịch Tượng".

Thường khi nói đến “cây” là người ta muốn nói đến chiều cao (bởi vì nói đến cây là nói đến “trèo", "trèo cao té nặng" v.v.) Đơn-giản-hóa đi, cây được vẽ bằng 1 đoạn thẳng đứng, có cành và tàn lá như chóp núi (cây thông là loại cây chịu rét rất giỏi là một thí-dụ) (h..

Để suy bì với NÚI, Tổ-Tiên ta đã nghĩ đến chuyện chụm ngọn 3 cây lại với nhau

(ngọn giao nhau và gốc choãi ra ở 3 hướng) hầu tạo được một hình khối tam-giác 3 chiều rất khó bị lật chuyển, tương-tự như núi (h.2).

Khi so sánh CÂY với NÚI thì đúng là các Cụ đứng ở gần cây, và núi thì ở xa xa, hướng sau cây. Cây gần hơn nên ta thấy cây cao hơn núi, lớn hơn núi (chẳng khác nào khi ta đưa ngón tay chỉ mặt-trăng, di chuyển ngón tay càng gần mắt hơn thì có lúc thấy "ngón tay ta lớn hơn mặt Trăng vậy" vậy. Phải nói là phương-pháp nhận-xét tỉ-giảo của Tổ-Tiên ta vào thời xua cũng đã tinh-tế lắm! mà vì chưa có chữ viết nên chỉ truyền-khẩu lại.

Nhìn hình 2 và 3 ta thấy: Khi để 3 cây chụm lại với nhau, ta tạo được môt hình trái núi. Lúc cây ở gần, núi ở xa thì núi chẳng khác nào như một "hòn"(hòn non bộ) mà thôi. Chắc hẳn thời-gian xuất-hiện câu ca-dao này là thời-gian Tổ-Tiên ta biết dùng Tượng của Việt Dịch, và vào lúc đó mới chỉ có Việt Dịch thôi (Thời-gian hoàn-thành Việt Dịch phải là thời-gian ngay sau khi 2 bảng Hà-Đồ và Lạc-Thư xuất-hiện, với những chấm-tròn đen và trắng). Hồi đó các Ngài sống ở vùng Trung-nguyên nông-nghiệp, chỉ có đồi mà không có núi, khong như dân du-mục Hán Mông sống trên vùng cao-nguyên có núi cao và chuyên nghề săn bắn. Phải chăng câu ca-dao là một bài học đơn-giản nhưng chính yếu, nói lên nét giáo-dục từ thời Hùng-Vương dựng nước; cũng là sự chống-đối giữa văn-minh nông-nghiệp và nhóm người sống bằng du-mục săn bắn.

Thực sự khi truyền-tụng câu ca-dao này, Tổ-Tiên ta muốn nói nhiều về nghĩa bóng của nó, chẳng khác nào câu hát "Đèo cao thì mặc đèo cao, lòng ta quyết-chí còn cao hơn đèo!" hoặc "Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông!"v . v . Hầu hết là những câu ca-dao tục-ngữ nhằm đề cao những giá-trị Nhân-Bản Việt Nam, đầy tính giáo-dục cao-cả, nhắc-nhở con cháu đoàn-kết vượt khó-khăn. Ba cây “chụm” lại mới có hình quả núi , chớ 3 cây nối lại thì tuyệt-nhiên không phải. Ba cây chụm lại là một biểu-tượng "vững như núi", nhất là khi 3 ngọn cây lại được cột lại với nhau. Ta còn thấy 3 cây chụm lại (cây dễ kiếm và rẻ tiền nhất là cây tre) như giàn treo gầu sòng, tát nước từ vũng thấp lên ruộng cao ở những miền quê thuộc Văn-Lang Bách-Việt xưa.

Chỉ với Tượng của Việt Dịch, chúng ta mới tìm thấy những hình ảnh đích-thực diễn-tả được đầy-đủ lý nghĩa của Văn-Hóa Dân-Tộc. Thế mới biết, muốn hiểu rõ di-sản Văn-Hóa của Tổ-Tiên mà ta từng nghe nói "năm ngàn năm văn-hiến”, ít nhất chúng ta phải có tấm-lòng Việt và tâm-tư Việt trước đã; Tâm-tư Việt dầy đặc trong Việt Dịch và Việt Đạo. Không như những kẻ “cá-nhân chủ nghĩa”, may mắn được sống tạm ổn để “nuôi thân” (làm nô-tài) là đã vội thỏa-mãn, không biết rằng đa số đồng-bào ta vẫn còn bị khinh chê (mà ngay mình cũng vậy) nên ta vẫn rất cần quảng-bá Văn-Hóa Việt Nam với các cộng-đồng bạn để cùng tôn-trọng nhau. Khi người Việt-Nam được tôn-trọng chung như vậy, sự làm việc của chúng ta mới được chú-ý và do đó dễ đem lại hiệu-quả hơn. Lại có kẻ, vì cá-nhân mình tạm thất-bại, đã bất-mãn với tiền-nhân, để buông lời rẻ rúng những biểu-tượng văn-hóa cố-hữu, như Chùa-Một-Cột chẳng hạn; có kẻ viết "Không thể cứu dù có là Thánh. . . ." (lại nêu hẳn tên riêng ra), mới đáng trách. Kẻ khác, tự nhận mình là "văn sĩ”, lại trắng trợn sủa đổi cả những sự-tích thần-kỳ làm nên lịch-sử hào-hùng của Dân-Tộc; họ đã không hiểu nổi Gậy-Thần 9 đốt có 2 đầu Sinh Tử (một bộ mặt mới của “cửu cung bát-quái” mà có lẽ họ quen thấy nhưng không nhận ra được) lại bịa ra là Gậy-Thần 3 đốt .v .v . Thậm-chí có ngừơi, đã không hiểu nổi những nhân-thoại trong Cổ-Sử lại dám đề-nghị lấy Việt-lịch từ khi có Thành Cổ-Loa thôi; họ không hiểu gì về ẩn-dụ "Thần Kim Qui" cả. Để đến nỗi có kẻ muối mặt viết “Tổ-Quốc Ăn-năn”; họ chẳng hiểu gì hai chữ Tổ-Quốc, họ cho rằng là L’état (tiếng Pháp) hay Government (tiếng Mỹ) chăng? ( Chỉ những “Đại Trượng Phu” mới biết coi nhẹ mình, mở lối cho đại khối đồng-bào, đại đa-số trầm lặng nơi đáy-tầng Dân-Tộc vẫn bị thế-giới hiểu lầm. Có những nước cho rằng dân ta là dân Tầu, nước ta là một quận huyện của Tầu, Văn-hóa ta là vay mượn của Tầu .v . v . Những dân-tộc khác đó đâu biết rằng chỉ duy-nhất dân Việt ta thờ cúng Tổ-Tiên bằng Đồng Bánh-Chưng-lớn buộc bằng 4 lạt, (9 ô vuông/ Magic Square 3) và Cây Mía (dựng cạnh bàn-thờ) tượng-trưng Gậy-Thần 9 đốt (mà người bình-dân, ngay cả tại Bùi-Chu Phát-Diệm tỉnh Nam-Định, thường gọi là "Gậy Ông-Vải").

Để tạm kết-thúc, chúng tôi xin nhắc lời của một nhà giáo-dục, cũng là nhà nghiên-cứu Trống-Đồng Lạc-Việt, Giáo-Sư Tiến-Sĩ Dương–Thiệu-Tống: "Hãy nên có một tâm-tư Việt khi nói về Văn-Hóa Việt", bởi vì Văn-Hóa Việt là Văn-Hóa Nhân-Bản.

Nguyên-Thái Nguyễn Văn-Thắng
Who’s Who of American Inventors
Viện KIANO Văn-Hóa Việt
3/ 1998, Việt lịch 4877

( Vài điều cập-nhật-hóa vào năm 2001.
viethoaiphuong
#129 Posted : Monday, November 16, 2009 6:55:31 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)

Đặc sản miền Trung qua ca dao - tục ngữ

(Bài sưu tầm)
Nguồn: Đặc Trưng

Dải đất duyên hải miền Trung nhỏ hẹp chạy dài từ Thanh Hóa đến Bình Thuận. Mỗi địa phương đều có phong tục tập quán, thổ săn khác nhau và miếng ngon vật lạ chẳng bao giờ thiếu vắng. Bởi vậy, nhiều đặc sản từng vùng, từ món ăn bình dân cho đến các loại sơn hào hải vị được khách sành ăn chọn lựa, phẩm bình. Nhiều đặc sản đã nổi tiếng từ ngàn xưa và đã đi vào văn học dân gian.

Nhân dịp Xuân về, Tết đến xin mượn mấy dòng ca dao, tục ngữ để giới thiệu cùng bạn đọc bốn phương các loại đặc sản của miền Trung đã được ông bà ta chọn lựa và truyền tụng qua nhiều thế hệ :

Ở Thanh Hóa có:

Hà Trung mạch phạn
Ngự lĩnh kê thang (Huế)

(Cơm nếp Hà Trung
Cháo gà núi Ngự)

Hoặc ở Nghệ An xưa nay nổi tiếng với:

Cam xã Đoài
Xoài Bình Định

Hay:

Ra đi anh nhớ Nghệ An,
Nhớ Thanh Chương ngon nhút, nhớ Nam đàn thơm tương.

"Nhút Thanh Chương, tương Nam Đàn" đã gợi nhớ biết bao kẻ tha hương.

Ở vùng đầu nguồn Lam Giang, còn có những đặc sản của vùng cao như :

Tiếng đồn cá mát sông Găng,
Dẻo thơm ba lá, ngon măng chợ Cồn.


Vô đến Quảng Bình thì có các loại sơn hào hải vị, là những món "thượng thừa" trong khoa ẩm thực.

Yến sào Vinh Sơn
Cửu khổng cửa Ròn
Nam sâm Bố Trạch
Cua gạch Quảng Khê

Sò nghêu quán Hàn...
Rượu dâu Thuận Lý...



Đến Thừa Thiên - Huế, sẽ được dịp thưởng thức các loại trái cây ngọt ngào, thơm ngon:

Quýt giấy Hương Cần
Cam đường Mỹ Lợi
Vải trắng cung diên

Nhãn lồng phụng tiêu
Đào tiên Thế miếu
Thanh trà Nguyệt biếu
Dâu da làng truồi
Hạt sen hồ Trịnh...

Khi táo xứ Quảng thì được dịp thưởng thức tiếp các món:

Nem chả Hóa Vang
Bánh tổ Hội An
Khoai lang Trà Kiệu
Thơm rượu Tam kỳ...

ở thượng nguồn Quảng Nam - Đà Nẵng còn có:

Quế sơn cam mít mấy từng
Thương bòn bon Đại lộc, nhớ rượu cần Trà mi

Trái bòn bon hay còn gọi là trái Nam trân rất quý hiếm, ngày xưa thuộc loại "tiến kinh", nay thì được nhắc nhở qua câu hò tâm tình mà ý nhị:

Trái bòn bon trong tròn ngoài méo
Trái sầu đâu trong héo ngoài tươi
Em thương anh ít nói ít cười
Ôm duyên ngồi đợi chín mười con trăng...



Trong khi cô nàng ôm duyên ngồi đợi thì các bạn đã lặn lội vào đất Quảng Ngãi nổi tiếng với món "don", ngon nhất là "don Vạn Tượng"

Cô gái làng Son,
Không bằng tô don Vạn tượng!

Và, một đặc sản của vùng sông nước không thể bỏ qua, đó là "cá bống" sông Trà Khúc.

Em đi em nhớ quê nhà,
Nhớ con cá bống sông Trà kho tiêu

Còn món ngọt nổi tiếng thời có:

Mứt gừng Đức Phổ
Bánh nổ Nghĩa Hành
Đậu xanh Sơn Tịnh



Nói chung, xứ Quảng nổi tiếng là đất mía đường, các bạn sẽ được người đẹp ở đây mới đón hết sức ngọt ngào như mật:

Ai về Quảng Ngãi quê ta,
Mía ngon đường ngọt trắng ngà dễ ăn
Mạch nha, đường phổi, đường phèn
Kẹo gương thơm ngọt ăn quen lại ghiền

Đến Bình Định, quê hương miền đất võ, thì có:

Gỏi chính Châu Trúc
Bánh tráng Tam quan
Nón lá Gò Găng
Nem chua chợ huyện



Và thêm món chả cá Đề gi được mọi người ca tụng:

Ai về qua cửa Đề gi,
Nghe mùi chả cá chân đi không đành

Bình Định còn là quê hương của xứ dừạ Dừa Tam quan mọc như rừng, với câu ca truyền tụng từ bao đời naỵ

Công đêm công uổng công thừa
Công đâu gánh nước tưới dừa Tam quan

Từ xưa, Bình Định là xứ lắm cá mắm.

Nước mắm ngon thì không đâu bằng:

Gò Bồi có nước mắm thơm
Ai đi cũng nhớ cá tôm Gò Bồi

Nhiều nhất là cá chuồn, phải nhắn nhủ người vùng cao Tây Nguyên - nơi có nhiều măng le ngon - đem về miền biển để trao đổi, mua bán:

Ai về nhắn với nẫu nguồn
Măng le gởi xuống, cá chuồn gửi lên

Từ Bình Định vượt đèo Cù Mông vào đất Phú Yên - nơi nổi tiếng có xoài ngon Đá Trắng - được nhắc nhở qua câu:

Xoài Đá Trắng
Sắn Phương lụa



Phú Yên cũng là xứ mía đường, nhiều chẳng thua gì Quảng Ngãi - nhất là vùng La Hai, Đồng Bò.

Tiếng đồn chợ Xẩm nhiều khoai,
Đất đỏ nhiều bắp, La Hai nhiều đường.



Nổi tiếng nhất phải kể đến sò huyết ở đầm Ô Loan, huyện Tuy An và cước cá Phú Câu ở thị xã Tuy Hòa, đã được thi sĩ Tản Đà ca tụng:

"Phú câu cước cá, Ô Loan miếng hàn"

Vô Khánh Hòa, nơi có nhiều di tích danh lam, phảng phất những nét kiến trúc của nền văn minh Chămpa, có thành phố Nha Trang thơ mộng .... cũng có lắm hải vị sơn hào, như:

Yến sào hòn Nội
Vịt lội Ninh Hòa
Tôm hùm Bình ba (Cam Ranh)
Nai khô Thiên Khánh
Cá tràu Võ Cạnh
Sò huyết Thủy triều (Cam Ranh)



Vào đến Phan Rí, Phan Thiết là quê hương của cá mắm ngon được cả nước truyền tụng. Nhờ cà mắm nhiều mà có lắm cuộc tình duyên mặn mà và dí dỏm:

Cô kia bới tóc cánh tiên
Ghe bầu đi cưới một thiên cá mòi
Chẳng tin giở thử ra coi
Rau răm ở dưới cá mòi ở trên...



Đất đai miền Trung khô cằn, đồng bằng thì nhỏ hẹp nhưng biển cả mênh mông, núi rừng trùng điệp, có lắm miếng ngon vật lạ, sản vật khắp miền .....

# posted by HPH - VB
viethoaiphuong
#130 Posted : Sunday, November 22, 2009 8:11:24 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
Mỗi năm vào dịp xuân sang
Em về Triều Khúc xem làng hội xuân
Múa cờ, múa trống, múa lân
Nhớ ai trong hội có lần gọi em…



LỄ HỘI TRIỀU KHÚC



Nằm tại km số 8, trên đoạn đường Hà Nội - Hoà Bình, làng Triều Khúc còn có tên gọi là Kẻ Đơ, nay thuộc xã Tân Triều, huyện Thanh Trì, Hà Nội. Kẻ Đơ xưa vốn đã là một vùng quê nổi tiếng với nghề làm nón quai thao, vì thế, làng còn được gọi là làng Đơ Thao. Ngoài quai thao, làng còn nổi tiếng bởi nghề thêu may những đồ thờ như: lọng, tàn, trướng, y môn, tán tía.
Tương truyền, nghề này do một người họ Vũ truyền dạy lại. Do có nghề thủ công nên từ xưa dân làng Triều Khúc đã sống tương đối phong lưu. Để nhớ ơn người đã đem lại cuộc sống ấm no cho mình, dân làng đã thờ ông tổ nghề tại đình Lớn cùng với vị Thành hoàng là Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng (770 -798). Hằng năm, làng tổ chức lễ hội tại đình Lớn để ghi nhớ công ơn tổ nghề và thao diễn lại trận đánh oanh liệt của vị Đại vương mà dân làng vẫn tôn kính phụng thờ.

Lễ hội Triều Khúc được tổ chức trong ba ngày từ 9 đến 12 tháng Giêng. Mở đầu là lễ rước long bào - triều phục của Hoàng đế Phùng Hưng từ đình Sắc về đình Lớn (Triều Khúc có hai đình) để bắt đầu cuộc tế gọi là lễ “hoàn cung”. Khi cuộc tế lễ trong đình bắt đầu thì ngoài sân đình các trò vui cũng được tổ chức, một trong những trò vui được nhiều người ưa thích nhất là trò “đĩ đánh bồng”. Đây là một điệu múa cổ do hai chàng trai đóng giả gái biểu diễn, trong bộ quần áo mớ ba mớ bẩy, cộng với hoá trang má phấn môi son, răng đen hạt huyền, mắt lá răm, khăn mỏ quạ, hai “cô gái” vừa nhún nhảy vừa vỗ trống Bồng đeo trước bụng một cách nhí nhảnh, nom rất vui mắt và cũng gây cười. Tiết mục này thường thu hút người dự hội nhiều nhất và cũng là tiết muc sinh động và độc đáo nhất trong lễ hội Triều Khúc.

Ngoài ra, trong hội làng Triều Khúc còn có nhiều trò vui khác như múa lân hí cầu, đấu vật, hát Chèo Tàu. Sới vật Triều Khúc cũng là một trong những sới nổi tiếng, thu hút khá đông các đô vật nơi khác về tham dự: Bắc Ninh, Gia Lâm, Mai động... Múa rồng trong hội Triều Khúc cũng có nhiều nét độc đáo, kỹ thuật điêu luyện. Tương truyền đây là điệu múa có từ thời Bố Cái Đại Vương. Do múa hay, múa đẹp như vậy nên hằng năm đội múa rồng Triều Khúc thường được mời về tham dự và múa rồng ở hội Đống Đa.

Ngày 12 là ngày rã hội. Trong ngày này có lễ rã đám, và kết thúc bằng điệu múa cờ (còn gọi là chạy cờ). Điệu múa phản ánh sự tích Phùng Hưng kén chọn người tài để bổ sung quân ngũ trước lúc lên đường quyết chiến với quân xâm lược. Khi mọi nghi lễ kết thúc, cũng là lúc mọi người cùng ngồi vào chiếu hưởng lộc thánh. Họ cùng nhau chia vui chén rượu, miếng trầu. Hội kết thúc trong niềm vui tươi phấn khởi và hy vọng của dân làng về một năm mùa màng bội thu, nghề nghiệp sẽ thịnh đạt, dân làng sẽ khoẻ mạnh hơn trước



# posted by HVLN & HPH / TV-VB
viethoaiphuong
#131 Posted : Tuesday, November 24, 2009 4:52:06 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
Ca Dao Trái Quỳnh Châu

Con chim quỳnh nhung ăn trái quỳnh châu,
Chàng đà phụ thiếp, thiếp đâu phụ chàng.
Không tới lui thì ra chỗ từ nan,
Tới lui thì sợ miệng thế gian chê cười.
Nguyện cùng nhau đất chín, trời mười,
Trăm năm không bỏ nghĩa người bạn ơi!


Trong Ca Dao có bài nầy nhưng đi tìm trên mạng mà không thấy trái Quỳnh Châu là trái gì. Tìm Hoa Quỳnh Châu cũng chẳng thấy. Chắc Cô Hoàng Quỳnh Châu biết???

Kính thỉnh giáo chư vi.

Yêu Ca Dao




Trăm Năm không bỏ

Theo bài chim Quỳnh Châu cho ta thấy Tình yêu trong ca dao sao nó trường kỳ đăng đẳng. Ngươi nào cũng thọ để chứng tỏ sự chung thủy của mình. Đời người có bao lăm sống trăm tuổi à cùng thế mà chung thủy đến trăm năm thì chắc chắn họ phải sống đến 120 tuổi! Ta hãy nghe:


Con chim quỳnh nhung ăn trái quỳnh châu,
Chàng đà phụ thiếp, thiếp đâu phụ chàng.
Không tới lui thì ra chỗ từ nan,
Tới lui thì sợ miệng thế gian chê cười.
Nguyện cùng nhau đất chín, trời mười,
Trăm năm không bỏ nghĩa người bạn ơi!
* Xuất xứ: - Miền Trung (Câu số 26561 )

Được vàng được bạc trên tay,
Em không mừng rỡ bằng nay gặp chàng.
Trèo lên khung cửi dệt hàng,
Cửi kêu lăng líu, dạ thương chàng líu lăng.
Lời nguyền dưới nước trên trăng
Trăm năm không bỏ đạo hằng cùng anh.
* Xuất xứ: - Miền Trung (Câu số 26672 )

Nguyện cùng nhau đất chín, trời mười
Trăm năm không bỏ nghĩa người cố tri.
* Xuất xứ: - Miền Trung (Câu số 26837 )

Thân em như áo mới may
Như cau bửa miếng bỏ trên khay trầu
Trăm năm không bỏ ngãi chàng đâu
Vì bà Nguyệt Lão đã bắc cầu lương duyên
* Tục ăn trầu có ở hầu hết các nước Đông Nam Á; Xuất xứ: - Miền Trung (Câu số 27174)

Trăm năm không bỏ nghĩa chàng,
Quạt Tàu rách nát ngọc vàng con xinh.
Vải thưa nhuộm lấy mầu đen,
Trăm năm lòng gắng dạ ghi.
Dầu ai đem bạc đổi chì cũng không,
Trăm năm chí quyết một chồng.
Dầu ai thêu phụng vẽ rồng mặc ai.
Dầu cho đá nát vàng phai,
Trăm năm duyên nợ chẳng phai chút nào.
* Xuất xứ: - Miền Nam (Câu số 26078 )

Trăm năm lòng gắn dạ ghi,
Dầu ai đem bạc đổi chì cũng không.
Trăm năm chí quyết một chồng,
Dầu ai thêu phụng vẽ rồng mặc ai.
Dầu cho đá nát vàng phai,
Trăm năm duyên nợ chẳng sai chút nào.
Trăm năm không bỏ nghĩa chồng,
Vải thưa nhuộm lấy màu đen,
Vải thưa mặc vải mằu xinh khen màu.
Trăm năm tạc một chữ đồng,
Dầu ai thêu phụng vẽ rồng cũng không.
Trăm năm trăm tuổi trăm chồng,
Dầu ai thêu phụng vẽ rồng mặc ai.
* Xuất xứ: - Miền Nam (Câu số 26083 )

Trồng hường quên đậy, quên che
Tưởng đâu hường héo ai dè hường tươi
Trăm năm không bỏ nghĩa người
Chim kêu trên núi cá cười dưới sông
* Xuất xứ: - Miền Trung (Câu số 27301 )




Hà Phương Hoài
viethoaiphuong
#132 Posted : Monday, January 25, 2010 6:34:31 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
Trầu cau qua ca dao - thi ca

________________________________________
Duyên anh sánh với tình anh tuyệt vời
Trầu vàng nhá lẫn trầu xanh

Ngày xưa người Việt thường có thói quen ăn trầu trở thành phong tục, chuyện cổ tích Trầu Cau (truyền tụng qua dân gian nêu lý do tại sao có tục ăn trầu). Thời đó đàn ông hay đàn bà thường có mang theo túi trầu, trong nhà có giỏ trầu cau, bình vôi bằng sứ hay bằng sành, con dao nhỏ để bổ cau, rọc trầu, cái khay gỗ hình vuông cẩn ốc xa cừ để dĩa trầu mời khách.

Qua thi ca trầu cau liên quan đến tình duyên, về hôn nhân đôi khi không đòi hỏi mâm cao cổ đầy, bạc vàng châu báu, nhưng tuyệt đối phải có trầu cau, các vùng thôn quê đôi khi hai gia đình nhận lễ vật trầu cau, chai rượu trở thành suôi gia. Mặc dù ngày nay, con người đã tiến xa hơn trong nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội - văn hóa, nhưng đây là một phong tục đẹp, thể hiện bản sắc riêng, lưu lại mỹ tục đó, trầu cau làm sính lễ tăng thêm phần long trọng, nhà gái nhận lễ vật tặng bà con, hàng xóm gói trà, cái bánh, trái cau lá trầu, dù ít người còn ăn trầu chẳng ai từ chối.

Tuy nhiên đời sống tại Việt Nam các vùng quê ít người lớn tuổi còn ăn trầu có hàm răng đen. Các quốc gia Âu châu không trồng trầu cau, như Việt Nam và các nước Tích Lan, Lào, Cambodia, Thái Lan, còn tục ăn trầu và trồng trầu cau. Nguồn gốc cây cau dây trầu ở Mã Lai, được ảnh hưởng nhiều người sinh sống vùng bán đảo Ðông Nam Á, từ đó du nhập vào Việt Nam. Các nước Cambodia, Mã Lai, Indonesia, Ấn Độ còn ăn trầu. Tôi phỏng vấn một số sinh viên du học từ các nước trên, được biết ở vùng quê của họ còn tục lệ ăn trầu. Tích Lan (Srilanka) ngày nay mọi nghi lễ đều dùng trầu; ngay cả việc dâng cau trầu lên cúng Phật.

Sự tích Trầu Cau của Việt Nam có thể hoang đường? Câu chuyện ấy dù sáng tạo nhưng khuyên người đời sống phải thủy chung, đạo đức gia đình luôn được đề cao, phong tục thời xa xưa đàn bà dù không ăn trầu nhưng phải nhộm răng đen "bỏ công trang điểm má hồng răng đen". Dù giàu hay nghèo tại thôn quê đều có trồng trầu cau. Qua ca dao hay các hội hè đình đám, xướng họa nhiều đề tài về trầu cau, được các nhạc sĩ phổ thành những ca khúc bất hủ. Ca dao phản ảnh tình cảm, gia đình và xã hội. Hòa hợp giữa con người với thiên nhiên, thi ca phát xuất tận đáy lòng đơn sơ, bóng bẩy, ấm áp như ánh nắng ban mai, mát mẽ như ngọn gió chiều dịu dàng như ánh trăng non.

Trầu cau không phải thứ đắt tiền, dùng nó làm lễ vật hôn nhân như là giao ước giữa hai họ. Trong vườn miền quê thường trồng cau ngay hàng thẳng lối, thân cây cau có dây trầu leo quanh. Từ Sài Gòn theo quốc lộ 1 về phía Tây Bắc khoảng 10km, qua cầu Tham Lương, rẽ trái một đoạn vào tỉnh lộ 14 là đến địa danh 18 thôn Vườn Trầu (còn gọi là Thập Bát Lưu Viên) Hóc Môn - Bà Điểm.

Em về, anh gởi buồng cau
Buồng trước kính mẹ, buồng sau kính thầy


Lịch sử ghi lại vua Lê Ðại Hành ngồi trên mình ngựa mời sứ giả nhà Tống cùng ăn trầu, đó cũng là nghi lễ ngoại giao.Trầu cau giúp cho nhiều người nên vợ chồng. Ngày xưa quan niệm hôn nhân cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy. Cha mẹ hai bên quyết định rồi con cái không thể cãi lại. Chàng yêu nàng tha thiết “tình trong như đã mặt ngoài còn e”. Cha mẹ nàng nhận lễ vật trầu cau qua lễ hứa hôn của người khác. Chàng trách nàng sao vội lấy chồng, để chàng chờ đợi biết mặn nồng cùng ai? Nhưng nàng nhẹ nhàng giải thích:

Ba đồng một mớ trầu cay
Sao anh không hỏi những ngày còn không
Bây giờ em đã có chồng
Như chim vào lồng như cá cắn câu
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ
Chim vào lồng biết thưở nào ra

Tục lệ trao trầu cau là một trong những nghi lễ không thể bỏ qua trong việc biểu lộ tình yêu của thanh niên nam nữ. Đó cũng là một trong những lệ làng được quy định trước khi đôi trai gái tiến đến hôn nhân. Trầu cau làm sính lễ, người con gái băn khoăn muốn từ chối ngay từ lúc đầu trong lễ cầu hôn:

Ai bưng cau trầu đến đó
Xin chịu khó mang về ,
Em đang theo chân thầy gót mẹ
Ðể cho trọn bề hiếu trung

Miếng trầu là đầu câu chuyện, gặp nhau thường mời trầu, để dễ dàng gợi chuyện thăm hỏi:

Tiện đây mời ăn miếng trầu
Hỏi thăm quê quán ở đâu chăng là?

Có trầu mà chẳng có cau
Làm sao cho đỏ môi nhau thì làm

Nhưng người con gái khi đã yêu đôi lúc giấu cha giấu mẹ, têm trầu đưa cho bạn trai ngầm nói với bạn trai khi vào nhà, biết cách cư xử:

Miếng trầu có bốn chữ tòng
Xin chàng cầm lấy vào trong thăm nhà
Nào là chào mẹ chào cha
Cậu cô chú bác... mời ra xơi trầu

Vườn quê thơm mùi hoa của những buồng hoa cau đang nở rộ dưới nắng ấm đôi trai tài gái sắc qua một lần gặp gỡ, để rồi nhớ rồi thương tình yêu chân thành thiết tha:

Vào vườn hái quả cau xanh
Bổ ra làm tám mời anh xơi trầu
Trầu này têm những vôi Tàu
Ở giữa đệm quế, đôi đầu thơm cay
Mời anh sơi miếng trầu này
Dù mặn, dù nhạt, dù cay, dù mồng
Dù chẳng nên đạo vợ chồng
Xơi năm ba miếng kẻo lòng nhớ thương



Khi bước vào tuổi trưởng thành, con trai, con gái được tự do trong tình yêu đôi lứa. Họ biết nhau rồi quen nhau nhờ các buổi làm nương rẫy hay những lần gặp nhau trong dịp lễ hội của làng, và miếng trầu đã làm môi giới cho tình yêu của họ để rồi hứa hẹn mơ ước tương lai tươi sáng, hay để rồi tuyệt vọng ngẩn ngơ:

Cho anh một miếng trầu vàng
Mai sau anh trả cho nàng đôi mâm

Yêu nhau chẳng lấy được nhau
Con lợn bỏ đói, buồng cau bỏ già

Anh về cuốc đất trồng cau
Cho em trồng ké dây trầu một bên
Mai sau trăm họ lớn lên
Cau kia ra trái làm nên cửa nhà.

Tùy theo phong tục mỗi địa phương sính lễ thường khác nhau, tuy nhiên không thể thiếu được buồng cau, anh chàng kín đáo với nghệ thuật tán gái tinh tế hoặc với giọng bông lơn như chuyện nhờ khâu áo nhờ khâu hộ chỉ đường tà để khi nào lấy chồng sẽ trả công, người tình nguyện giúp từ lễ nghi cho đến việc ăn ở chiếu nằm, chăn đắp... chàng không nói rõ mà người con gái đó thừa hiểu chú rể là chàng rồi:

Giúp em một thúng xôi vò
Một con lợn béo một vò rượu tăm
Giúp em đôi chiếu em nằm
Ðôi chăng em đắp đôi tằm em đeo.
Giúp em quan tám tiền cheo
Quan năm tiền cưới lại đèo buồng cau

Nếu chẳng may tình duyên không thành mà tình cảm còn nguyên vẹn, lời chàng cũng xót xa đưa:

Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc
Em có chồng anh tiếc lắm thay

Các bà mẹ thường răn dạy con gái lúc trưởng thành, phải có những đức tính: công - dung - ngôn - hạnh, không nên vội vàng lẳng lơ nhận trầu cau của người khác, luân lý gia đình được xem là một nền tảng vững chắc:

Ði đâu cho đổ mồ hôi
Chiếu trải không ngồi trầu để không ăn
Thưa rằng bác mẹ tôi răn
Làm thân con gái chớ ăn trầu người

Có thể nàng từ chối miếng trầu, cũng có nghĩa từ chối sự tiếp xúc để tiến đến tình yêu với thái độ dè dặt, kín đáo nghi kỵ:

Sáng nay tôi đi hái dâu
Gặp hai anh ấy ngồi câu thạch bàn
Hai anh đứng dậy hỏi han
Hỏi rằng cô ấy vội vàng đi đâu
Thưa rằng tôi đi hái dâu
Hai anh mở túi đưa trầu cho ăn.
Thưa rằng bác mẹ tôi răn
Làm thân con gái chớ ăn trầu người

Trầu cau dù gói đẹp xanh tươi hấp dẫn, nhưng cần cẩn thận, khi ăn phải kín đáo mở ra xem có nhiều vôi hay bùa mê thuốc độc trong đó chăng?

Ăn trầu thì mở trầu ra
Một là thuốc độc hai là mặn vôi

Miếng trầu ăn nặng bằng chì
Ăn rồi em biết lấy gì đền ơn
Miếng trầu ăn chẳng là bao
Muốn cho đông liễu, tây đào là hơn

Người nghiện trầu đôi khi run tay dù đói no phải ăn một miếng trầu cau. Nhưng với tình yêu mời nhau ăn trầu có những băn khoăn thương nhớ đợi chờ? Có khi lời nói thì bình tĩnh nhưng không che giấu mối cảm tình nồng nhiệt đang như chìm xuống để thấu tâm can nàng. Miếng trầu như là một phương tiện mở đầu, là chất keo cố kết những tình cảm thiêng liêng, thầm kín mà cả đôi bên không thể nói bằng lời. Miếng trầu quả cau sẽ là "người mối" nói hộ tình yêu cho họ.

Vào vườn hái quả cau xanh
Bổ ra làm tám mời anh xơi trầu
Trầu này têm những vôi Tầu

Giữa thêm cái cánh hai đầu quế cay (Dị bản: Giữa đệm cát cánh, hai đầu quế cay)
Trầu này ăn thật là say
Dù mặn, dù nhạt, dù cay, dù nồng
Dù chẳng nên vợ nên chồng
Xơi dăm ba miếng kẻo lòng nhớ thương

Trầu bọc khăn trắng cau tươi
Trầu bọc khăn trắng đãi người xinh xinh
Ăn cho nó thỏa tấm lòng
Ăn nó thỏa sự mình sự ta

Từ ngày ăn phải miếng trầu
Miệng ăn môi đỏ dạ sầu đăm chiêu
Một thương hai nhớ, ba sầu
Cơm ăn chẳng được, ăn trầu cầm hơi.

Những giao tiếp giữa nam nữ thời phong kiến thường bị giới hạn, tình yêu trai gái tưởng như xa xôi rời rạc... nhưng tình yêu chân thành và nồng nhiệt tương tư:

Từ ngày ăn phải miếng trầu
Miệng ăn môi đỏ, dạ sầu đăm chiêu
Biết rằng thuốc dấu bùa yêu
Làm cho ăn phải nhiều điều xót xa
Làm cho quên mẹ, quên cha
Làm cho quên cửa, quên nhà
Làm cho quên cả đường ra, lối vào
Làm cho quên cá dưới áo
Quên sông tắm mát, quên sao trên trời

Con gái xa gia đình về nhà chồng làm dâu, ngày xưa thường va chạm sinh hoạt gia đình "mẹ chồng nàng dâu", hoặc bị ép buộc lấy nhau để rồi đêm nằm cạnh chồng thở than cuộc tình:

Ðêm khuya thiếp mới hỏi chàng
Cau khô ăn với trầu vàng xứng không?

Người đời thường nói “thương nhau bỏ chím làm mười", hay "thương nhau trái ấu cũng tròn, ghét nhau trái bồ hòn cũng méo“, trái cau cũng được phân chia cho sự ghét thương:

Thương nhau cau sáu bổ ba
Ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười

Yêu nhau trầu vỏ cũng say
Ghét nhau cau đậu đầu khay chẳng màng

Các hội hè đình đám trai tài gái sắc dùng đề tài trầu cau hát đối nhau hồn nhiên trong sáng, lời hát đối đáp ngọt ngào trong lễ giáo gia đình không sàm sỡ, nhưng vượt qua ảnh hưởng lâu đời của nho giáo "Nam nữ thụ thụ bất thân".

Gặp nhau ăn một miếng trầu
Gọi là nghĩa cũ về sau mà chào
Miếng trầu đã nặng là bao
Muốn cho đông liễu tây đào là hơn!
Miếng trầu kể hết nguồn cơn
Muốn cho đây đấy duyên nào hợp duyên

Hay là:

Trầu này trầu quế, trầu hầu
Trầu loan trầu phượng, trầu tôi lấy mình
Trầu này, trầu nghĩa, trầu mình lấy nhau
Trầu này têm tối hôm qua
Giấu cha giấu mẹ đem ra cho chàng
Trầu này không phải trầu hàng
Không bùa không thuốc sao chàng không ăn
Hay là chê khó chê khăn
Xin chàng đứng lại mà ăn miếng trầu.

Nữ sĩ Hồ Xuân Hương lận đận tình duyên, đời sống tình cảm kém may mắn, làm cho bà nghi ngờ màu xanh của lá trầu, màu trắng của vôi (lạt như ốc bạc như vôi).

Quả cau nho nhỏ miếng trầu ôi
Này của Xuân Hương đã quẹt vôi
Có phải duyên nhau thì thắm lại
Ðừng xanh như lá bạc như vôi

Tiếng hát ru con của mẹ hiền, đề cập đến trầu cau nhu cầu không thể thiếu trong những lần đi chợ:

Ru con con thét cho muồi
Ðể mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu
Mua vôi chợ Quán chợ Cầu
Mua cau Nam phổ mua trầu chợ Dinh
(Tùy theo mỗi điạ phương có thể thay đổi tên chợ )

Các cụ bà nhai trầu khó khăn, nên dùng cối đá nhỏ giã trầu, hay cái ống ngoáy bằng đồng, có chìa dài phần dưới có 3 cái răng nhỏ, bỏ trầu cau vào đó ngoáy nhỏ. Ăn trầu cũng có nghệ thuật, chọn lựa cau tươi vỏ mỏng ruột nhiều, trầu tươi kèm theo quế hay vỏ của loại cây chay, ăn kèm với cục thuốc lá nhỏ, vôi phải màu hồng... Trần Tú Xương thi hỏng mãi, bất mãn với đời nghe người ta chúc Tết sống lâu hưởng phước lộc cho đến đầu bạc răng long... làm thơ trào phúng:

Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau
Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu
Phen nầy ông quyết đi buôn cối
Thiên hạ bao nhiêu đứa giã trầu

Ngày xưa đàn ông hay đàn bà thường bới tóc, họ quan niệm “cái răng cái tóc là vóc con người”, thời ấy hàm răng đen tuyền thì sang trọng quý phái. Nhưng vào thế kỷ thứ 19. Văn hóa Tây phương du nhập vào Việt Nam, đời sống văn minh thay đổi. Phong trào Duy Tân phát xuất từ Quảng Nam (1905 - 1908) khởi đầu cuộc cách mạng khai trí dân sinh đả phá các hủ tục, kêu gọi đàn ông hớt tóc ngắn, cắt móng tay dài lá răm, mặc âu phục… Mỹ phẩm nhập vào Việt Nam như son, phấn dầu thơm... giúp đàn bà trang đìểm cho nét đẹp, sống ở thành phố phần nhiều bỏ hẳn tục nhộm răng đen ăn trầu... Bởi vậy khuynh hướng thay đổi qua thi ca:

Năm quan mua lấy miệng cười
Mười quan chẳng tiếc, tiếc người răng đen

Ðời sống thay đổi đàn ông ít mặc áo dài khăn đóng, hay khăn nhiễu bịt đầu được thay thế bộ Âu phục gọn gàng, khăn điều vắt vai đôi guốc gỗ từ từ biến mất thay vào đó đôi giày da, thêm chiếc cà-vạt xinh đẹp. Hàm răng của các nàng trắng đẹp như hạt bắp, môi son đỏ tươi nở nụ cười đẹp như hoa. Làm cho các chàng say đắm nên hỏi nàng rằng:

Người về có nhớ ta chăng?
Ta về ta nhớ hàm răng người cười

Ca dao được ca tụng qua dân gian, hiện hữu trong đời sống của người dân Việt. Chúng ta rời quê hương, khó tìm được lại kỷ niệm như những ngày sống tại quê nhà trong những buổi trưa hè, đêm trăng thanh gió mát mùi hương cau từ những buồng non mới nứt thơm ngát, nghe tiếng hát ru con của mẹ hiền với những câu ca dao quen thuộc len lỏi vào hồn .

Nguyễn Quý Đại
viethoaiphuong
#133 Posted : Monday, February 1, 2010 6:06:11 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)

Hình ảnh người phụ nữ trong ca dao xưa


Cập nhật: 08/05/2009

Ca dao là khúc hát tâm tình của người dân quê Việt Nam được lưu truyền qua bao năm tháng.Nó bồi đắp tâm hồn ta từ những ngày thơ bé qua lời ru êm đềm của bà của mẹ. Nó rực rỡ, thơm ngát như bông sen trong đầm, gần gũi, quen thuộc như luỹ tre bao bọc xóm làng, như cánh cò bay lả trên ruộng đồng. Nó bồi đắp tâm hồn ta từ những ngày thơ bé qua lời ru của bà của mẹ, giúp ta cảm nhận sâu sắc về vẻ đẹp bình yên nơi thôn quê, nỗi nhọc nhằn cũng như vẻ đẹp khoẻ khoắn của người lao động, tình cảm gia đình thắm thiết, nghĩa vợ chồng tao khang của những con người quê chân chất, mộc mạc.

Trong thế giới đó, lắng sâu hơn cả vẫn là hình ảnh của những người phụ nữ xưa – đau khổ, cay đắng đến cùng cực nhưng cũng đẹp đẽ, cao quý đến vô ngần. Có thể nói, ca dao đã làm tròn sứ mệnh của nó trong việc lưu giữ những nỗi lòng của người phụ nữ bình dân xưa và mang đến cho ta cái nhìn toàn diện về họ, trong khổ đau cũng như những vẻ đẹp tâm hồn ngời sáng.

Xã hội phong kiến phụ quyền tồn tại hàng nghìn năm với những quan niệm bất công, khe khắt “tại gia tong phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tong tử”, quan niệm trọng nam khinh nữ “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, đã dành mọi ưu tiên, ưu đãi cho người đàn ông và đẩy người phụ nữ xuống địa vị thấp kém nhất trong gia đình cũng như xã hội. Nỗi niềm ấy được họ gửi gắm vào những câu ca dao than thân:


- “Thân em như tấm lụa đào

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”

- “Thân em như hạt mưa sa

Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày”

- “Thân em như chổi đầu hè

Phòng khi mưa gió đi về chùi chân

Chùi rồi lại vứt ra sân

Gọi người hàng xóm có chân thì chùi”


Có biết bao nhiêu nỗi khổ mà người phụ nữ phải chịu đựng, nỗi khổ vật chất “ngày ngày hai buổi trèo non”, “ngày thì dãi nắng đêm thì dầm sương”. Nhưng nỗi khổ lớn nhất, xuất hiện với tần số cao nhất vẫn là nỗi khổ về tinh thần, nỗi khổ của thân phận mong manh, bị động, ít giá trị. Những người phụ nữ ở đây bị “đồ vật hoá”, được định giá theo giá trị sử dụng. Thân phận họ chỉ được ví với “hạy mưa sa”, “chổi đầu hè”...Ta có thể cảm nhận được bao nỗi xót xa của người phụ nữ khi cất lên những lời ca ấy. Không phải người phụ nữ không ý thức được vẻ đẹp và phẩm giá đáng quý của mình. Họ luôn ví mình với “tấm lụa đào”, “giếng nước trong”...nhưng những phẩm chất ấy đâu có được xã hội , người đời biết đến và coi trọng. Cả đời họ chỉ lầm lũi, cam chịu trong sự đau khổ, nhọc nhằn. Và dường như sự bất hạnh ấy của người phụ nữ trong xã hội xưa là một hằng số chung, ở tất cả các vùng miền. Người phụ nữ dân tộc Thái cũng từng đau đớn thốt lên: “Thân em chỉ bằng thân con bọ ngựa, con chão chuộc thôi”.

Có ai đó đã nói, nếu dùng một từ để nói về số phận của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến thì đó là “tủi nhục”. Quãng thời gian họ sống trên đời được đong đếm bằng những nỗi đau khổ mà họ phải gánh chịu. Khi còn nhỏ, sống trong gia đình, người thiếu nữ đã phải chịu sự bất công của quan niệm “trọng nam khinh nữ”:


- “Cô kia cắt cỏ đồng màu

Chăn trâu cho béo làm giàu cho cha

Giàu thì chia bày chia ba

Phận cô là gái được là bao nhiêu”

- “Em như quả bí trên cây

Dang tay mẹ bứt những ngày còn non”


Khi đi lấy chồng, họ còn chịu thêm trăm điều cay cực. Quan niệm “xuất giá tòng phu”, “lấy chồng làm ma nhà chồng” đã khiến bao người phụ nữ xa quê phải ngậm ngùi nuốt đắng cay, thấm thía nỗi buồn, nhớ khi nghĩ về quê mẹ:


- “Chiều chiều ra đứng bờ sông

Muốn về với mẹ mà không có đò”

- “Chiều chiều ra đứng ngõ sau

trông về quê mẹ ruột đau chín chiều”

- “Chiều chiều xách giỏ hái rau

Ngó lên mả mẹ ruột đau như dần”


Nhớ nhà nhớ mẹ mà không được về, những người đi làm dâu còn phải chịu sự đày đoạ của gia đình nhà chồng, đặc biệt là mẹ chồng. Trong chế độ cũ, những người mẹ chồng xưa kia thường là “nỗi kinh hoàng” của những nàng dâu vì xã hội phog kiến với quan niệm hôn nhân gả bán cho phép người ta “mua” vợ cho con khác nào mua người lànm không công, trả cái nợ đồng lần mà chính người mẹ chồng trước đây phải gánh chịu:


- “Tiếng đồn cha mẹ anh hiền

Cắn cơm không vỡ cắn tiền vỡ tan”

- “Trách cha, trách mẹ nhà chàng

Cầm cân chẳng biết là vàng hay thau

Thực vàng chẳng phải thau đâu

Đừng đem thử lửa mà đau lòng vàng”


Trong hoàn cảnh ấy đại đa số những người phụ nữ phải cam chịu, nín nhịn nhưng cũng có trường hợp, người con dâu tỏ thái độ phản kháng có phần quyết liệt, cô “đội nón về nhà mình” dẫu biết hành động ấy sẽ bị lên án, bị không ít tiếng thị phi, cay độc vì trong xã hội xưa còn gì đáng sợ hơn bằng tội “trốn chúa, lộn chồng”:


“Cô kia đội nón đi đâu

Tôi là phận gái làm dâu mới về

Mẹ chồng ác nghiệt đã ghê

Tôi ở chẳng được, tôi về nhà tôi”


Sở dĩ họ phải phản kháng là do không còn nơi để bấu víu, tựa nương. Mẹ chồng đã vậy, lại còn chịu thêm nỗi khổ của “cảnh chồng chung”. Xã hội phong kiến cho phép “trai quân tử năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên chỉ có một chồng” đã gây ra bao cảnh đau lòng. Nhân dân hướng về những người vợ lẽ - những người chịu nhiều thua thiệt hơn cả để cảm thông, để lắng nghe những tiếng giãi bày xót xa, cay đắng:


- “Lấy chồng làm lẽ khổ thay

Đi cấy đi cày chị chẳng kể công

Tối tối chị giữ mất chồng

Chị cho manh chiếu, nằm không chuồng bò

Mong chồng chồng chẳng xuống cho

Đến khi chồng xuống, gà o o gáy dồn

Chém cha con gà kia, sao mày vội gáy dồn

Để tao mất vía kinh hồn về nỗi chồng con”

- “Thân em làm lẽ chẳng nề

Có như chính thất, ngồi lê giữa đường”


Khao khát của người phụ nữ ở đây không phải là cái khao khát mang tính chất bản năng thuần tuý mà là những khát khao hạnh phúc chính đáng nhất của một con người. Vì thế họ đã nhắn nhủ nhau:


- “Đói lòng ăn nắm lá sung

Chồng một thì lấy, chồng chung thì đừng”

- “Chồng con là cái nợ nần

Thà rằng ở vậy nuôi thân béo mầm”.


Nhưng dù sống trong bất hạnh, tâm hồn người phụ nữ vẫn sáng lên lấp lánh ánh sáng của trái tim đôn hậu, cao thượng, vị tha. Từ trong khổ đau, bất hạnh, từ trong tiếng hát than thân đầy tủi cực, tâm hồn trung hậu, đẹp đẽ, thuỷ chung của người phụ nữ vẫn vươn lên, toả sáng khiến cho tiếng hát than thân kia không mang vẻ bi luỵ mà vẫn toả sáng, ấm áp tình đời, tình người. Ca dao đã phản ánh đầy đủ những vẻ đẹp đó của họ - những con người thuỷ chung son sắt, giàu nghĩa tình.

Quên đi những nhọc nhằn, vất vả của cuộc sống lao động, những người phụ nữ bình dân ấy cũng có những phút giây sống cho cảm xúc riêng tư, cũng trải qua các cung bậc nhớ nhung của một trái tim mới yêu:


- “Gió sao gió mát sau lưng

Dạ sao dạ nhớ người dưng thế này”

- “Nhớ ai bổi hổi bồi hồi

Như đứng đống lửa như ngồi đống than”

Có cô gái thì hồn nhiên, tinh nghịch. Họ không quá câu nệ như các cô gái khuê phòng:

Ước gì sông rộng một gang

Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi”


Cũng có khi thật tế nhị, ý ứ, nết na:

“Sáng ngày tôi đi hái dâu

Gặp hai anh ấy ngồi câu thạch bàn

Hai anh đứng dậy hỏi han

Hỏi rằng cô ấy vội vàng đi đâu

Thưa rằng tôi đi hái dâu

Hai anh mở túi đưa trầu mời ăn

Thưa rằng bác mẹ tôi răn

Làm thân con gái chớ ăn trầungười”


Họ biết đề cao tình yêu thương, lòng chung thuỷ:


- “Trăng tròn chỉ một đêm rằm

Tình duyên chỉ hẹn một lần mà thôi”

- “Muối ba năm muối đang còn mặn

Gừng chín tháng gừng hãy còn cay

Đạo cương thường chớ đổi đừng thay

Dẫu có làm nên danh vọng hay rủi có ăn mày ta cũng theo nhau”


Người phụ nữ đảm đang, vị tha, chung thuỷ đã thể hiện cảm nghĩ của một cách giản dị mà vẫn có sức cuốn hút lạ thường. Cả khi khó khăn họ vẫn nhẫn nại:


- “Chồng em áo rách em thương

Chồng người áo gấm , sông hương mặc người”

- “Râu tôm nấu với ruột bầu

Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon”


Chỉ những lời ca ngắn ngủi mà chất chứa trong đó bao ý tình sâu xa. Đó là lời nhắn nhủ của những người phụ nữ trọn nghĩa vẹn tình. Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, họ vẫn đồng cam cộng khổ cùng chồng, xây dựng một gia đình đầm ấm yên vui.

Ở thời nào cũng vậy, vẻ đẹp của người phụ nữ như một hằng số, bất biến ngàn đời. Đó là sự nhẫn nại, cam chịu, là sự thuỷ chung son sắt. Dù bao khổ đau, bất hạnh vẫn không thể vùi lấp được những vẻ đẹp đó. Nó như những viên ngọc thô mà thời gian, những bất hạnh khổ đau là chất xúc tác mài giũa, càng ngày càng toả sáng lấp lánh.

Văn học, nghệ thuật ngày nay cũng rất chú ý đến việc lưu giữ những vẻ đẹp của người phụ nữ. Nhưng những làn điệu dân ca từ thuở sơ khai vẫn chính là kho tàng vô giá lưu giữ trọn vẹn nhất về những con người kì lạ ấy: càng trong đau khổ lại càng ngời sáng, thanh cao.

Sẽ còn mãi lắng đọng trong tâm hồn những người dân đất Việt hình ảnh những người phụ nữ sáng lấp lánh trong những câu ca dao tự ngàn xưa.

Sao Thụy
viethoaiphuong
#134 Posted : Friday, February 19, 2010 10:51:49 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
TRẦU CAU

Chắc hẳn chúng ta, không ai là không biết sự tích Trầu Cau, câu chuyện tình éo le của hai anh em cùng một cô gái làng bên, câu chuyện đã được phổ vào nhạc:

“Ngày xưa có hai anh em nhà kia cùng yêu thương một cô gái làng bên”

Và từ nội dung huyền thoại này mà lá trầu, quả cau đã đóng một vai trò tối ư quan trọng trong hôn lễ cổ truyền của dân tộc Viêt Nam ta.Trong sính lễ hay hôn lễ bao giờ họ nhà trai cũng phải cử một thân nhân đội trên đầu một mâm trầu cau, trịnh trọng dâng lên cho vị chủ hôn bên đàng gái, rồi sau đó mới hạ hồi phân giải, toan tính chuyện “xỏ mũi”… kéo về. Nhưng mà Ai xỏ mũi Ai? Đấy mới là vấn đề! Cô nàng xỏ mũi chồng kéo về nhà bắt ở rể hay anh chàng xỏ mũi vợ kéo vào phòng hoa chúc mây mưa chăn gối cho bõ những ngày:

“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông”

Thật ra tất cả đều tùy thuộc vào:

Chí làm trai dặm nghìn da ngựa
GieoThái sơn nhẹ tựa hồng mao
Bước vào nhà vợ quơ quào
Múa Nhất Dương Chỉ ào ào gió thu

Nếu đường đường là đấng trượng phu thì xỏ mũi giai nhân, sau hôn lễ, rồi hành xử quyền “Chồng chúa vợ tôi”. Còn nếu học đòi theo văn hóa Tây thì bài học ngữ vựng đầu đời đã chỉ dạy rõ ràng:

Cheveu, sợ vợ ai ơi
Vợ kêu chồng dạ, Em thời dạy chi?

Miếng trầu, miếng cau là đầu mối câu chuyện. Phải có trầu cau mới nên duyên chồng vợ:

Thiên duyên kỳ ngộ gặp chàng
Khác nào như thể phượng hoàng gặp nhau
Tiện đây ăn một miếng trầu
Hỏi thăm quê quán ở đâu chăng là

Têm trầu bổ cau là một “ngón nghề” mà người con gái phải biểu diễn cho chàng trai hay họ đàng trai thấy rõ được cái đảm đang, khéo léo, duyên dáng của nàng. Đây cũng là cơ hội để cho chàng và nàng “nghía” nhau trong khuôn phép được cha mẹ đôi bên bật đèn xanh như một thỏa thuận ngầm cho đôi trẻ tìm hiểu nhau:
Con dao vàng rọc lá trầu vàng
Mắt anh anh liếc, mắt nàng nàng đưa.

Miếng trầu là một biểu tượng của hôn nhân, một khởi đầu cho sự ràng buộc trong đời sống lứa đôi có tính cách quan trọng tiền duyên, tình nghiệp nên Mẹ già mới ân cần dặn dò con gái:

Ra đi Mẹ có dặn rằng
Làm thân con gái chớ ăn trầu người

Ăn nhằm miếng trầu của ngưòi ta cũng như ngày nay tròng chiếc nhẫn đính hôn vào ngón tay áp út, xem như đã thề non hẹn biển, đã mất một nửa tự do trong đời, suốt ngày ra ngẩn vào ngơ như ăn nhằm bùa, nuốt nhằm ngãi:

Chăn đơn nửa đắp, nửa hong
Cạn sông lở núi, ta đừng quên nhau
Từ ngày ăn phải miếng trầu
Miệng ăn, môi đỏ, dạ sầu đăm chiêu
Biết rằng thuốc dấu hay là bùa yêu
Làm cho ăn phải nhiều điều xót xa
Làm cho quên mẹ, quên cha, quên cửa, quên nhà
Làm cho quên cả đường ra lối vào
Làm cho quên cá dưới ao
Quên sông tắm mát, quên sao trên trời.

Trong ca dao, con trai tán tỉnh con gái, không màu mè hoa lá hẹ, không sến như con hến mà đi thẳng vào chuyện lứa đôi tự nhiên như người Hà Nội lúc vào Nam:

Cho anh một miếng trầu vàng
Mai sau anh trả lại nàng đôi mâm.

Hay hiện thực hơn, đốp chát hơn, gạ gẫm theo kiểu đẹp trai không bằng chai mặt:

Có trầu, có vỏ không vôi
Có chăn có chiếu không người nằm chung.


Mối tình quê chơn chất mộc mạc bắt đầu bằng miếng trầu, khởi điểm của những mối “Tình nghèo”cũng đã được nhạc sĩ Phạm Duy đưa vào giòng nhạc của ông với làn điệu dân ca thật trữ tình, lãng mạn:

“Nhớ, nhớ thuở nào anh là cày thuê em là dắt trâu, đôi ta cùng gặp nhau dưới cầu, bóng mát dưới cầu. Nhớ, nhớ thuở nào, anh đây làm công, em là gánh dong, miếng trầu cau nên đôi vợ chồng , đôi vợ chồng…”

Không những tình nghèo cần đến trầu cau mà con gái nhà giàu muốn nên đôi chồng vợ cũng cần đến trầu cau:

Em là con gái nhà giàu
Mẹ cha thách cưới ra màu xinh sao
Cưới em trăm tấm lụa đào
Một trăm hòn ngọc, hai mươi tám ông sao trên trời
Tráp tròn dẫn đủ trăm đôi
Ống thuốc bằng bạc, ống vôi bằng vàng

Dù con gái ở vào lứa tuổi nào, bà mẹ lúc thách cưới cũng không bao giờ quên cái dzụ trầu cau. Dĩ nhiên là số lượng trầu cau sẽ giảm dần khi cô con gái đi sâu vào tuổi sắp ế chồng:

Mẹ ơi, năm này con mười tám tuổi rồi,
Chồng con chưa có, mẹ thời tính sao?
Con chim khách nó mách có hai bà mối
Mẹ ngồi thách cưới: Tiền chẵn năm quan
Cau chẵn năm ngàn,
Lợn béo năm con
Áo quần năm đôi.

Lúc con gái hai mươi ba tuổi rồi thì mẹ ngồi thách cưới:

Tiền chẵn ba quan
Cau chắn ba ngàn

Con gái ba mươi hai tuổi rồi thì

Tiền chẵn một quan
Cau chẵn một ngàn

Rồi đến khi con gái đã bốn bó lẽ vài que thì không còn thách còn đố gì nữa mà:

Mẹ thời cho không

Thường thường ta cứ nghĩ rằng chỉ có phụ nữ mới ăn trầu. Thực ra, liền ông con trai thời xa xưa, thế hệ Ông, Cha chúng ta, họ cũng ăn trầu như điên:

Trầu này têm tối hôm qua
Giấu cha, giấu mẹ đem ra mời chàng
Trầu này không phải trầu hàng
Không bùa, không thuốc, sao chàng không ăn
Hay là chê khó, chê khăn
Xin chàng đứng lại mà ăn miếng trầu

Nói tóm lại, chàng và nàng đều ăn trầu chứ không phải chỉ riêng nàng mới thèm trầu và đã được mẹ khuyên nhủ phải cẩn thận “chớ ăn trầu người”. Nhưng, con gái đến tuổi dậy thì, ngu sao nghe lời mẹ dạy, để phòng không chiếc bóng, ế thiu, ế chảy, hâm đi hâm lại chẳng ai xơi. Xét cho cùng, bà mẹ quá thận trọng vì sợ con gái bạ trầu ai cũng ăn, ai mời cũng ăn, chứ trầu của người tử tế thì tội gì không ăn. Hơn nữa, ngoài chuyện ăn trầu nên duyên vợ chồng, ăn trầu còn mang lại một cái lợi cho nhan sắc người con gái:

Vì chưng ăn miếng trầu anh
Cho nên má đỏ, tóc xanh đến giờ

Trai gái thời xưa, thay vì mời nhau thỏi kẹo Chewing Gum, (Cũng có khi nguy hiểm lắm! Ăn nhằm kẹo khích dâm thì tàn một đời bông!) thì họ lại mời nhau một miếng trầu cho môi thắm má hồng, mắt long lanh:

Yêu nhau trao một miếng trầu
Giấu thầy, giấu mẹ, đưa sau bóng đèn

À, thì ra thuở xa xưa, con trai, con gái thôn quê cũng hò hẹn, tình tự dưới ánh đèn leo lét, đồng lõa với cuộc tình trăng hoa, chứ không phải chỉ có thanh niên, thiếu nữ chốn thị thành mới lãng mạn vai kề, má tựa bên nhau, dưới ánh trăng thanh như trong ca khúc “Em tôi” của nhạc sĩ Lê Trạch Lựu:

Bao giờ tôi về gần em, cùng đếm
Này trăng, này sao chia nhé em!

Miếng trầu, trong ca dao, tượng trưng cho tình nghĩa đằm thắm, mặn nồng của đôi lứa yêu nhau. Chàng và nàng cùng ăn trầu để gá nghĩa trăm năm:

Trầu xanh, cau trắng khay vàng
Vôi pha với nghĩa, thuốc nồng với duyên
Trách người cầm lái không minh
Cơi trầu bịt bạc, thiếp mời chàng ăn chung

Trai gái thường lấy lá trầu, quả cau làm hình ảnh tượng trưng cho tình yêu để mà ví von tình tự, chẳng cần trăng sao hò hẹn xa vời, trừu tượng lôi thôi rách việc:

Yêu nhau trầu vỏ cũng say
Ghét nhau, cau đậu đầy khay chẳng màng
Hay:
Yêu nhau thì ném bã trầu
Ghét nhau, ném đá vỡ đầu nhau ra
Hoặc:
Yêu nhau, cau sáu bổ ba
Ghét nhau, cau sáu bổ ra làm mười

Con gái buồn duyên tủi phận cũng đem trầu cau ra mà hờn, mà trách mà đay nghiến làm như lá trầu, miếng cau là nguyên nhân của duyên phận bẽ bàng:

Cau non, trầu lộc mỉa mai
Da trắng tóc dài đẹp với ai đây.
Hay:
Miếng trầu ăn nặng bằng chì
Ăn thì ăn vậy, lấy gì trả ơn

Con trai đến chơi nhà người yêu, được mời trầu, mời thuốc, lúc ra về nhớ nhớ, nhung nhung, cũng lãng mạn ra phết chứ đâu phải quê mùa mộc mạc đồng ruộng “Hai Lúa” như ta vẫn tưởng:

Ra về nhớ nước giếng khơi
Nhớ điếu ăn thuốc, nhớ cơi ăn trầu
Ra về giả nước giả non
Giả người, giả cảnh, kẻo còn nhớ nhung

Vậy, tại sao khi chúng ta muốn “chê” một người đàn bà quê mùa, luống tuổi, ta thường dùng ba chữ “Bà già trầu” hàm ý coi thường nếu không muốn nói là miệt thị. Thật là thiện vị và bất công vì ta chẳng bao giờ gọi “Ông già trầu” để chỉ một người đàn ông thuộc loại “già dịch” dù rằng họ cũng nhai trầu.
Nếu ta chịu khó quan sát kỹ thì ta sẽ thấy trong cử chỉ nhai trầu của người đàn bà có một cái gì đó thật duyên dáng đắm say. Cái duyên như ta đã biết là một nét đẹp không bao giờ già vì vậy mà thiếu nữ hay thiếu phụ, hay lão bà, tất cả đều có một nét duyên dáng riêng, bất chấp tuổi tác. Này nhé: hai ngón tay êm ái, dịu dàng, uyển chuyển, mềm mại quẹt vào vành môi để tóm gọn nước trầu làm cho đôi môi hồng thắm, đều đặn, sắc nét như được tô vẽ bằng thỏi son môi thời nay. Sao mà duyên dáng thế! Lúc nhai trầu, bậc nữ lưu “má đỏ au lên đẹp lạ thường” (Thơ Hàn Mặc Tử) và đôi mắt long lanh gợi tình phải biết!
Các bạn chắc không lạ gì rằng trầu cọng với vôi và cau tạo nên một chất xúc tác mang lại cho người nhai trầu một luồng hơi ấm, một luồng nội lực quy tụ tại đơn điền và rồi lan khắp châu thân gây cho tâm hồn sảng khoái đê mê. Phê thật phê!
Vậy thì “Bà già trầu” là hình ảnh gơi cảm, gợi tình, rất bắt mắt. Dĩ nhiên “Bà già trầu” của chúng ta phải là một người đàn bà chưa già lắm, nghĩa là xuân xanh vào độ chín muồi, tuổi hồi xuân, lòng xuân phơi phới đang thênh thang bước nhẹ trên “đường số 5” Tôi còn nhớ lúc tôi bắt đầu bước vào lứa tuổi cập kê, tuổi mới lớn bắt đầu biết “hư” tôi đã ngẩn ngơ nhìn một thiếu phụ còn xuân sắc ngồi đánh tứ sắc với bà ngoại tôi. “Nàng” cũng bắt chước Ngoại tôi nhai trầu bõm bẽm và mắt “Nàng” long lanh, má hồng, môi thắm đỏ, ướt mềm như miếng thạch xoa, chắc là phải ngọt lắm. Nàng duyên dáng gợi tình khiến tôi nhìn như si dại, tưởng chừng như nàng là hiện thân của Thần Cupidon. Nhớ về kỷ niệm thuở đầu đời, tôi thấy mình thật “hoang” sớm trong tuổi đời ngây thơ vô số tội.

Đấy là câu chuyện xưa lắm rồi! Bây giờ tôi xin chia xẻ cùng quý vị độc giả của tôi dung nhan “Một bà già trầu” thời nay, một nhan sắc hiện đại nhưng không hại điện nghĩa là điện nước còn đầy đủ như mô tả trong bài thơ sau đây tôi tình cờ đọc được:

Người tôi yêu ở bên tê
Nói năng ngọt lịm như chè hạt sen
Ngũ tuần niên kỷ còn son
Ra đường như gái một con mặn mòi
Ngày xưa tiên nữ trên trời
Nương mây nàng xuống chịu đời đắng cay
Khi vui nàng nói tiếng Tây
Ngày ngày tiếng Đức, một cây xanh dờn
Tay ngà êm lướt phím đàn
Ngân nga khúc nhạc trăng tàn ngoài hiên
Ước gì nhung nhớ nên duyên
Trầu cau mang đến dâng lên hầu nàng
Tôi hong ngàn sợi tơ vàng
Buộc tình tôi lại thành tràng hạt châu
Em ơi xơi một miếng trầu
Cho tình thắm mãi một màu sắt son.

Phiếm luận Trầu Cau đến đây xin chấm dứt.

Hoàng Đức

viethoaiphuong
#135 Posted : Monday, April 5, 2010 6:43:37 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
Thăm miền “quan họ”

Nghe bà chủ hotel kể rằng ở Lim, bọn đàn anh đàn chị, đang chuẩn bị tập dượt cho ngày hội quan họ. Thấy rằng đây là một cơ hội không thể thiếu nên từ Hà Nội, chúng tôi lên đường đi thăm làng Ngăm sớm hơn dự định. Để có thể thưởng thức một bát phở gia truyền Bát Đạt, chúng tôi đã phải đi thật sớm, khi trời Hà Nội còn phủ kín sương mù và dưới cơn mưa phùn, gió bấc. Chúng tôi đây là tôi và bác tài của công ty Hương Giang, mà tôi đặt thuê từ Thụy Sĩ.

6 giờ sáng, trời Hà Nội còn tối và đèn đường chỉ đủ sức tỏa ra những tia sáng vàng vọt, dưới những lớp sương mù dày đặc. Những bác tài xế xích lô vẫn còn quấn mình trên những ghế đá công viên, dưới những hàng sấu già. Những hàng quà rong, cất tiếng rao lanh lảnh, nghe rất lạ tai. Những người phu quét đường, mang áo tơi, quơ những đường chổi mệt mỏi. Những con chó được các nhà chủ cho chạy rong ra đường, tìm những chỗ tiểu tiện buổi sáng. Đường phố Hà Nội ngập mùi cống rãnh. Hiệu phở Bát Đạt còn trống vắng, chúng tôi kiếm một cái bàn gần với nhà bếp nhất để từ đây có thể quan sát mọi diễn biến trong tiệm phở này. Nhà phố Hà Nội chật hẹp, những anh nhân công phải xổm dưới đất để có thể cắt lọc thịt. Những tảng thịt khổng lồ, được đặt trên những lớp giấy báo, có vẻ không mấy vệ sinh. Những thúng hành, ngò được cắt sẵn từ đâu đem tới, hòa lẫn với mùi thơm nước lèo, bay mùi thơm ngát. Những chồng bát được chất cao vút.

Cứ mải mê quan sát những người nhân công cắt, lẻo thịt mà chúng tôi không để ý một điều là muốn có được một tô phở thì phải ra ngoài đường xếp hàng và tự bưng vào bàn. Nhìn ra đường, chúng tôi đã thấy một hàng dài người xếp hàng dưới cơn mưa xuân lún phún. Chúng tôi nối đuôi sau đoàn người chờ đợi và phải mất nửa tiếng đồng hồ mới tới phiên. Cách phục vụ phở ở đây thật là ngộ nghĩnh. Những người múc phở cũng là kẻ thu ngân. Tay vừa cầm thu những đầu tiền bụi bậm, dơ bẩn, vừa cầm những miếng thịt nạm, gầu thoăn thoắt bỏ vào bát. Họ làm việc, im lặng như kẻ câm. Phở ở đây chỉ có 3 loại, đưa tiền loại nào thì nhà hàng bán cho loại ấy. Tái nạm gầu 6.000, tái 5.000 và nạm gầu 4.000. Cứ như thế mà trao đổi, nhà hàng bù đầu với công việc, không hơi đâu mà trò chuyện.

Phòng ăn, bàn ghế không mấy sạch sẽ, khách cứ việc vứt bỏ những cuống rau thơm, vỏ chanh xuống ngay nền đất dưới gậm bàn một cách vô tội vạ. Khách hàng cứ lầm lì mà thưởng thức món ăn, ít ai trò chuyện với ai, kể cả những cặp nhân tình có vẻ đang còn rất mặn mòi, âu yếm. Người ta ăn nhanh như vẻ sợ nguội, sợ những hương vị thơm ngon, để lâu sẽ bay mất? Chúng tôi thấy có một cặp vợ chồng trẻ ngồi bên cạnh, tính bắt chuyện làm quen nhưng thấy không khí nặng nề trang nghiêm quá nên không dám. Tuy dù vẻ bề ngoài cũ kỹ, trông có vẻ mất vệ sinh nhưng hương vị phở ở đây thơm ngon đặc biệt. Những miếng nạm, miếng gầu được cắt bạt một cách tài tình, ẩn lộ một lớp gân trong suốt và cho một hương vị phở thật ngạt ngào. Thấy nhiều người đã có tô phở trong tay nhưng chưa có chỗ ngồi, chúng tôi húp vội những ngụm nước lèo sau cùng, đứng lên nhường chỗ. Phở ở đây chỉ bán từ 6g30 tới 9g sáng và chậm chân là hết nên khách hàng quen thuộc cũng như những người hiếu kỳ như chúng tôi qua lời giới thiệu, muốn tò mò tới ăn một tô cho biết nên đa số đã đến đây từ rất sớm. Ăn một cách quá ư là vội vàng nên rời tiệm phở, thấy còn sớm lắm, chúng tôi rủ nhau qua cà phê Giảng. Tiệm cà phê này có cả một lịch sử huyền thoại của nó. Tọa lạc ngay phố Hàng Gai, đối diện với phố Hàng Đào, nằm trong một địa thế kinh tế và du lịch lý tưởng nhất Hà Nội, giá tiền đất nhà lên đến 48 lượng vàng một mét vuông và nếu bán đi hoặc kinh doanh một thứ hàng khác, hoặc dù cho thuê thì lợi tức hàng tháng cũng cao gấp rất nhiều lần kinh doanh quán cà phê nhỏ bé này. Vậy mà cà phê Giảng vẫn cứ chễm chệ ngay giữa khu trung tâm thương mại sầm uất nhất của thủ đô.

Đối diện với bàn của chúng tôi là một ông cụ già râu tóc bạc phơ, ông cụ vừa nhấp nhi ly cà phê lọc, vừa quay vào phía trong trò chuyện. Giọng nói của ông cụ oang oang, chứng tỏ sức mạnh của ông cụ còn cường tráng lắm. Thấy ông cụ vui tính, tôi ngỏ lời chào ông cụ làm quen. Cụ mời chúng tôi sang ngồi cùng bàn và tôi lên tiếng hỏi cụ:
- Dạ thưa! Cụ đã uống cà phê ở đây lâu chưa ạ!
- Thưa ông, chẳng nói giấu gì, tôi đã uống cà phê ở đây từ đời ông Giảng bố, tới đời ông Giảng con, cho tới nay, đời Giảng cháu. Trải dài từ thời Pháp thuộc, tới thời bao cấp và cho tới tận ngày nay.
Cụ vừa nói, vừa ngụm một hớp cà phê, coi vẻ thích thú và tận hưởng. Đợi cho ông cụ nhả một làn khói được hít sâu trong tận cùng của buồng phổi. Tôi hỏi cụ.
- Thưa cụ bao cấp có nghĩa là sao ạ!
- Ối giời ơi! Thưa ông! Nói tới cái thời này thì nó rắc rối và khốn nạn lắm! Ai đời một hột muối, hột đường cũng phải tem, phiếu, sổ sách, hộ khẩu. Ngay như lão đây đã bị mấy lần phê bình kiểm thảo trước dân phố chỉ vì la cà lâu giờ ở tiệm cà phê. Đến như ông Văn Cao, một ông cụ già hết sức lao động và là tác gỉa của bài quốc ca, còn không được ngồi yên để nhấp nháp vài giọt cà phê nữa là....
- Thưa cụ, thế nhạc sĩ Văn Cao có thường uống cà phê ở quán này không ạ!
- Ông Văn Cao thì lại thường đóng đô ở cà phê Lâm. Trời cho mỗi người một ý thích, một con mắt, một khẩu vị. Lão thì chỉ ở đây thôi. Không phải cà phê ở đây ngon hơn ở chỗ khác nhưng vì cái chỗ ngồi, cảnh trí và con người ở đây đã quen lâu rồi, đã lọt vào tận trong cùng của tâm tưởng rồi. Khó thay đổi lắm! Chẳng những lão chỉ ngồi thưởng thức cà phê ở quán này mà ngay cả cái chỗ xó này nữa. Chẳng vậy mà mỗi khi lão có chuyện tới trễ, những khách hàng khác cũng không đếm xỉa đến và cứ để trống cái chỗ, đợi lão đến. Những khách hàng uống cà phê ở đây đều là những khách hàng trung thành lâu ngày, hễ cứ thấy thiếu một người là thấy thiếu vắng nhiều lắm! Họ đến đây đều theo thời khắc quen thuộc cả. Đấy, hôm nay những khuôn mặt này, sáng mai ông đến cũng thế mà thôi. Lâu lâu, có khách vãng lai, nhàn tản dạo cảnh bờ hồ ghé vào như ông đây nhưng không nhiều lắm.

Ông cụ vừa nói, vừa chỉ vào những bàn bên trong, họ chia ra từng toán một, chụm đầu vào nhau vừa nhấp nhi cà phê, vừa thả khói thuốc nói chuyện. Trông họ có vẻ tâm đắc, tâm tình và quen biết lâu ngày.
Quán cà phê này thật chật hẹp nhỏ bẻ, khiến nhà chủ chỉ dùng những chiếc ghế độc nhỏ bé, giống như tại các quán cà phê chồm hổm ở vỉa hè Sài Gòn. Bề ngang căn nhà chỉ chừng chưa đầy 4m, vậy mà lại phải chia ra làm hai gian, ngăn cách nhau bởi một cầu thang cho người ngụ trên gác lên xuống. Khách ngồi ngăn cách trong cả hai gian, phía sau cầu thang để trống, làm đường thông giữa hai bên, nhà chủ làm việc và pha chế cà phê ở phía gian sau, nhỏ chừng vài mét vuông.

Ông cụ nhấp nhi một ngụm cà phê rồi gật gù kể tiếp:
- Quán cà phê này nhỏ bé là thế nhưng nó có cả một lịch sử và đặc thù văn hóa của nó đấy, ông ạ! Tôi là khách hàng quen từ đời ông Giảng bố, ông bố chết rồi truyền lại cho con, ông con chết vào thời mở cửa, đất đai Hà Nội quý như vàng vậy mà khi hấp hối, ông ta còn truyền lại cho 2 người con trai rằng: “Sở dĩ gia phong nhà ta, trên thuận dưới hoà và có thể sinh sống cho đến ngày nay, cũng là vì phát sinh từ đây. Vậy sau này, có làm gì thì làm, các con cũng cố giữ lấy cái quán này để mà sống. Trước là để ghi nhớ công ơn ông bà gầy dựng, sau là để nương tựa nhau mà sống. Trong chúng con, sau này nếu có đứa nào thế này thế nọ thì phải rộng lượng mà bảo ban nhau. Hạt gạo nếu có lọt sàng thì cũng xuống nong, không mất mát đi đâu mà sợ”. Đấy ông trông vào trong kia kìa, hai chị em dâu cứ cật lực vui vẻ chung sức mà chung sống với quán cà phê này đấy! Thật là đáng khen và quý hiếm.

Tôi nhìn vào bên trong, hai người đàn bà trạc độ ngoài 30 đang vui vẻ nói cười, người nào việc nấy, người thì đang pha nước sôi vào bình thủy, kẻ thì đang pha chế cà phê, trông dáng vẻ của họ thật là vui tươi, thơ thới.

Những cánh cửa sắt của các gian hàng đối diện và chung quanh đồng loạt theo nhau mở ra, gây những tiếng kêu ken két của những thanh sắt khô khan va chạm vào nhau, xe cộ ngoài đường cũng bắt đầu tấp nập qua lại, báo hiệu một ngày mới của phố thị Hà Nội. Chúng tôi xin nhà chủ tính tiền và ngỏ lời chào tạm biệt ông cụ cùng những người khách ngồi gần bàn.

Một ngày của Hà Nội bắt đầu chậm hơn ở Sài Gòn. Nếu ở Saigon thì xe cộ bắt đầu qua lại nhộn nhịp từ lúc 5, 6 giờ sáng thì ở Hà Nội bắt đầu chậm hơn, phải đến 7, 8 giờ xe cộ mới tấp nập ngược xuôi và phải đợi đến 8, 9g, các gian hàng mới bắt đầu mở cửa. Đường phố Hà Nội chật hẹp và ít xe cộ hơn Sài Gòn nhiều. Ở đây chủ yếu là xe gắn máy, nhất là loại xe gắn máy Wave nhái Honda của Nhật. Thú thật, nếu không có bác tài thì tôi không thể nào phân biệt được chiếc Wave nào của Nhật và chiếc nào của Tàu. Họ nhái cắp kiểu mã thật là tinh vi.
Phải ra tới cầu Chương Dương mới nếm được cái màn ùn tắc xe cộ. Hàng lượt người từ vùng ngoại thành đổ xô vô nội thành làm việc. Xe cộ từ các tỉnh đông bắc tuôn đổ về thành phố với đủ loại hàng hóa chất chồng, nhiều xe ngập cả mui, những chiếc xe đò nhét chật người bên trong như những hộp cá mòi, những chiếc xe đạp thồ nông sản từ vùng ngoại ô về thành phố, những con lợn được nhốt trong rọ, bị lật ngửa chổng 4 vó lên trời.

Nhìn mấy chiếc xe chở, thồ những lồng chở lợn đi ngang, bác tài kể rằng: “Cái loài lợn này buồn cười lắm! Để sấp để ngiêng gì thì chúng cũng giãy giụa và kêu la eng éc nhưng để ngửa thì nằm êm ru, chịu chết”. Bác tài rất dí dỏm và kể chuyện rất có duyên và chuyện gì, đề tài gì bác cũng nhập cuộc một cách dễ dàng, khiến đoạn đường xa xôi, gập ghềnh trở nên gần gũi hơn.

Xe qua cầu Chương Dương được một quãng thì tiến sâu hơn vào vùng nông thôn Bắc Ninh. Những cánh đồng ruộng ở đây vuông vắn nhưng lại quá nhỏ bé, không giống như ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Trên cánh đồng vẫn như những bức tranh nông thôn quen thuộc. Những cô gái kéo gầu tát nước, những con trâu thè lưỡi kéo cầy. Mà trâu ở đây sao nhỏ quá! Giống như những con nghé con trong miền nam. Bác tài kể rằng, ngoài này đồng ruộng nhỏ bé, hơn nữa đâu có nhiều đồng cỏ để nuôi trâu nên đa số nông dân phải tìm nuôi những con trâu thật nhỏ bé, không cần cho ăn nhiều và chỉ cần đủ sức kéo cày những ruộng đồng nhỏ. Ngoài các cánh đồng, chúng tôi thấy hầu hết là các bà, các cô gái làm việc, ít thấy bóng dáng đàn ông. Điều này, bác tài cho biết. Ruộng đồng đâu có đủ ăn, vừa canh tác, vừa giữ đất. Trông vào ruộng đồng mà thôi, chỉ có mà treo mõm. Đàn ông thì phải đi làm việc khác, hoặc làm nhân công trong các xí nghiệp. Đời sống nông thôn ngoài này chật hẹp lắm! Quanh năm chẳng biết đồng bạc là cái gì, nhà nào có người biết buôn bán thêm hoặc làm việc xí nghiệp thì có đồng ra đồng vào, mua sắm.

Trên đường rẽ vào làng Lim, chúng tôi đi ngang một cái chợ nhỏ, hàng hóa sơ sài vài món hàng nông sản cùng vài hàng tôm tép chài lưới từ dưới sông trong vùng đem lên. Ở đây cá tép quý ít để có thể bán bằng cân mà đơn vị tính bằng con hay từng nhúm. Sức mua sắm ở đây rất yếu vì như bác tài nói, nông dân có rất ít tiền mặt. Vùng này xu hào và táo dai rất nhiều, những trái xu hào to bằng những bát điếu và xanh tốt, những trái táo dai tròn trĩnh và tươi xanh, cho vị thơm ngon, ngọt lịm mà giá cả chỉ 2, 3 ngàn một ký. Ở đây cũng có loại mía tía mềm và ngọt lịm, bày bán khắp chợ nhưng chẳng thấy ai đoái hoài, có lẽ nhà nào cũng có một vài bụi nên không mấy người thiết mua?
Ao làng Lim khá rộng và nước trong ao đục ngầu. Bên bờ ao là một chiếc cầu gỗ nối dài với hai chiếc thuyền, neo đậu ở giữa ao. Thấp thỏm trên 2 chiếc thuyền là những đàn anh, đàn chị đang tất tả chuẩn bị cho buổi tập dợt. Những chiếc nón quai thao, những chiếc áo dài tứ thân đã được móc, treo sẵn đâu đó. Chung quanh bờ ao, người già trẻ em đã vây quanh khá đông. Con gái vùng này khá xinh xắn và cân đối. Họ trao đổi với nhau với giọng nói cao vút như những con chim sơn ca cất cao tiếng hót, nghe thật khó hiểu. Quê tôi ở không xa đây mấy nhưng vì đã lưu lạc từ lâu, nay về nghe lại như một âm thanh xa lạ.

Tiếng trống triệu tập bắt đầu, những đàn anh, đàn chị lũ lượt từ đâu kéo đến. Họ ăn bận quần áo màu sắc rất đẹp mắt. Nhìn những cô gái quan họ, trong những chiếc áo dài tứ thân, để hở lộ chút thăn vú ra ngoài cái yếm thắm, tôi nhớ lại mấy câu ca dao ví von, tả sắc đẹp người con gái Bắc Ninh.

Em là con gái Bắc Ninh
Em nghiêng vành nón, mái đình nghiêng theo.

Hay

Tòa sen Phật muốn lặng thinh
Nghe em ca bỗng thấy mình trần gian.

Tôi rất thích đi coi chèo Bắc và nghe hát quan họ. Nhưng cho đến nay, tôi chỉ mới được coi hát quan họ qua các băng nhựa hay qua các chương trình tv nên lòng tôi rất hồi hộp trông chờ buổi tập dượt bắt đầu.

Hai cô gái rất xinh đẹp, chân không trắng nõn, từ trong một ngôi đền đi ra, một cô, hai tay bưng một mâm trầu, còn cô kia thì bâng một mâm rượu. Tôi đoán họ sắp hát bài “Người ơi! ở lại đừng về”. Tôi nao núng giống như chính mình là người khách mà chút nữa đây sẽ được các em gái làng Lim dâng trầu, dâng rượu với những lời mời đầy quyến rũ, trữ tình: “người ơi! ở lại đừng về”.

Tiếng trống chầu văn bắt đầu và tiếng nhạc cũng đả nổi lên. Tôi nghĩ rằng mình thật khó có thể bước chân ra về sớm hơn. Hòa cùng tiếng trống tiếng kèn là một đoàn rước ăn vận trang phục của vùng đồng bằng Kinh Bắc. Đi đầu là mấy cụ già, sau đó là lớp đàn chị, đàn anh (dân địa phương đọc là liền chị, liền anh) và sau cùng là mấy mâm xôi, mỗi mâm, trên đặt một con gà luộc vàng ngậy.

Đi ngoài đoàn rước là hai thiếu nữ đi giật lùi, bưng một vỏ bình tích, trong đựng thứ gì không biết. Hai cô liền tay cho vào bình lấy đồ phân phát cho bọn đàn anh, đàn chị. Thấy lạ, tôi tiến tới một anh thanh niên đánh trống khẩu gần đó kiếm cớ làm quen rồi hỏi:
- Anh ơi! Hai cô kia đang phân phát thứ gì đó?
- Thì là vỏ trám trắng với nhúm oản chứ có gì!
- Mà vỏ trám trắng để làm gì?
- Để ngộ nhỡ tắc giọng thì ngậm vào cho thông. Anh hỏi gì mà ỡm ờ!
Anh ta vừa luôn tay đánh trống khẩu, vừa quay lại nhìn tôi. Có lẽ thấy tôi là khách phương xa nên đã dịu giọng.
- Ấy chết! Ông anh là khách phương xa, em lại cứ tưởng bọn nhãi ranh làng Vọng tới đây phá phách.
- Ủa, chỉ là buổi diễn tập mà sao lại trịnh trọng thế?
- Tuy gọi là diễn tập nhưng hôm nay có cả liền anh liền chị ở Nhồi, Nội Duệ kéo đến nên ta phải thết đãi cho tử tế.
- Thết đãi chỉ bằng xôi gà thôi à!
- Bọn con hát không dám xơi thịt lợn đâu, mỡ vào tắc cổ thì hát thế chó nào được. Mà ngay cả thịt gà, gọi là thịt chứ họ cũng ăn đãi bôi qua loa gọi là mà thôi.
- Thế hôm nào mới là ngày hội chính?
- Ngày hội chính thức là ngày 13 nhưng từ nay tới đó, con hát kéo tới lai rai, hát hoài. Anh cứ ở lại đây chơi vài bữa, mặc sức mà coi. Mà anh từ đâu đến đây?
- Tôi sinh đẻ ở Yên Phong, cũng là quê hương quan họ nhưng đi xa lâu rồi, nay chắc là lạc điệu.
- Đã là dân quan họ thì lạc điệu thế đếch nào được. Nếu đi xa lâu ngày quên thì mình tham gia giọng phụ, miễn là có trí nhớ tốt, thuộc bài nhắc tuồng cho anh chàng giọng diễn và có chút giọng ò ơ là được rồi.
- Thế mình phải đăng ký ở đâu mới được phép tham dự?
- Thế làng anh có đoàn hát nào kéo tới đây không?
- Chắc là không có, vậy tôi có thể tham gia vào một làng khác được không?
- Anh đứng đây đi, tôi nhờ một tay đánh trống giúp rồi dẫn anh đi gặp mấy tay liền anh, liền chị, coi họ có cho nhập đoàn hay không?
Ngay từ nhỏ, ảnh hưởng những bài viết về quan họ, tôi hằng ao ước được một lần mặc áo dài khăn đống, đứng cạnh một cô gái mặc áo tứ thân, đội nón quai thao để cất cao tiếng hát quan họ. Không ngờ cái ước mơ nhỏ bé lại gần thành sự thực.

Anh đánh trống khẩu bỏ đi một hồi thì quay lại, anh dẫn tôi vào trong một góc đình, nơi các đoàn quan họ đang trang sức, mỗi người ngồi một góc, những cái gương để dựa vô những chiếc cột đình. Các cô đa số vẫn còn mặc yếm. Yếm hồng, yếm thắm đủ màu, áo tứ thân hình như chỉ được mặc vào trước lúc diễn.

Tôi có một xấu tật mà có lẽ người khác nhìn vào mới thấy. Cặp mắt tôi ít khi nào bỏ lỡ cơ hội trước những tác phẩm ưu việt của thượng đế. Đối với tôi cảnh vật thiên nhiên đẹp đẽ đến mấy, cũng chỉ là thứ yếu. Tác phẩm tuyệt trần phải là thân xác đàn bà. Nhất là những cô gái che khép thân hình nửa hở nửa kín bằng những vuông yếm thắm ở làng Lim này.

Tôi được đưa tới anh Lâm cùng chị Nga, một đàn anh, đàn chị. Có lẽ cả hai người đều đã ngoài 30 và cũng đã có gia đình. Nhìn vào cặp vú đu dưa của chị Nga trong miếng yếm ngắn, tôi đoán như thế. Anh chị chào hỏi tôi rất thân tình và cuối cùng hỏi tôi có biết hát không? Tôi trả lời rằng hát thì không có giọng nhưng có thể thuộc bài và ú ớ phụ họa. Họ nhìn nhau có vẻ ngạc nhiên rồi hỏi:
- Chết thật, nếu ông anh không có giọng và chưa bao giờ hát quan họ thì không thể nào một sớm một chiều luyện giọng được. Nếu quả thực ông anh thích tham gia thì chúng tôi xin ghép ông anh vào một vai phụ diễn nhưng khi anh em hát thì xin ông anh chỉ mấp máy môi thôi chứ đừng hát thành tiếng nhé! Chen vào lạc giọng anh chị em thì chết cả lũ.

Chị Nga thêm vào:
- Ô cái anh Lâm này hay nhỉ! Người ta tay ngang khi không lại cho vào tham gia. Bưng mâm, bưng trà gì thì cũng phải có điệu bộ cả chứ, bây giờ cận rồi, giờ dâu mà chỉ bày.
- Nhìn mặt mũi ông anh sáng láng lắm, chắc không đến nỗi.
- Nhưng cũng phải có quần áo cho anh ấy mặc chứ! Béo tròn béo trục như vậy thì quần áo đâu mà mặc vừa?
- Thì anh Hợi đấy! Anh ấy đang kiếu ốm, người nặng cả tạ làm gì mà mặc không vừa!
- Ấy chết! Tôi chỉ có 65 ký mà thôi. Nhìn thấy phốp pháp vậy chứ không béo lắm đâu.

Thấy tôi thanh minh, cả hai anh chị đàn anh, đàn chị cùng nở một nụ cười cảm thông vui vẻ. Thế là tôi sắp được trở thành con hát quan họ.
Cô Thúy, một cô gái trẻ đem đến cho tôi một bộ quần áo, bộ quần áo có lẽ đã mặc qua nên tôi hơi ngần ngại. Từ nhỏ, tôi vốn sợ cái bệnh hôi nách nên ít khi dùng quần áo chung của ai. Những năm học tiểu học ở Sông Cầu, nghèo khổ là vậy, đi học chỉ duy nhất một bộ vậy mà khi chú tôi cho mượn áo, tôi cũng không dùng thế mà giờ này, tôi lại phải bận một bộ quần áo của người lạ. Thấy tôi có vẻ ngần ngại, cô Thúy hiểu ý, nói:

- Ông anh cứ mặc vào đi, quần áo này được giặt giũ sạch sẽ rồi!
Tôi nhìn vào khuôn mặt khả ái của cô gái. Chắc đang ở độ đương thì, cặp vú nở tròn căng nhung nhúc, để lộ hai đầu vú nhọn tròn như hai đầu con quay. Tôi thầm khen cho người tạo mẫu ra cái yếm thắm này. Cái yếm này, tôi đã thấy cô tôi rồi các bạn học của tôi bận từ ngày tôi còn trẻ lắm vậy mà ngày nay, ở các xứ Âu tây người ta mới vẽ ra cái mẫu yếm này. Năm ngoái, nhờ cái mẫu yếm này mà vợ tôi bán được một số hàng khá lớn. Giờ này mới là cuối đông mà các nhà tạo mẫu Âu tây đã cho ra cái hình mẫu yếm mới, nó nằm xéo và mang màu sắc mới. Thế mới biết rằng tổ tiên của chúng ta có cái nhìn tinh tế và đi trước bọn Âu tây hằng trăm năm.

Phải đứng trước dung nhan của cô Thúy, cũn cỡn trong chiếc yếm mỏng manh mới thấy được rằng các nhà vẽ mẫu của chúng ta ngày xưa thật là phóng khoáng và tinh đời. Chỉ cần một vuông vải mỏng, với hai sợi dây cột buộc sau lưng, đã bó tròn được cặp vú nhung nhúc, bềnh bồng nổi gợn màu hồng da thịt mờ ảo, ẩn hiện trong lớp vải mỏng. Để hở cái lưng trần trắng nõn, toát tỏa mùi thơm da thịt, hòa quyện thơm ngát mùi hương đồng.

Hãy nhìn kỹ cô Thúy kìa! Phải chăng thượng đế tạo nặn ra cô để tôi đứng nhìn ngây ngất không nhỉ!

Thúy đã choàng chiếc áo dài cho tôi, chiếc áo khá vừa vặn. Tưởng thế là xong, đàn anh đến xem, bắt tôi phải tỉa cắt lông mày và xoa lên mặt một lớp son phấn. Thú thật hai cái điều này là cái điều cấm kỵ đối với tôi. Hầu như ai nhìn vào cặp lông mày của tôi cũng ác cảm, họ bảo dữ quá! Nhiều người bạn đề nghị cắt bỏ, vợ tôi cũng thế, nhiều lúc định rằng đợi đến lúc tôi ngủ say sẽ cầm kéo cắt bớt nhưng rồi nàng sợ cái gương Quan Âm Thị Kính nên chưa ra tay. Tôi cũng chúa ghét mấy anh chàng nam ca sĩ thoa son, trát phấn trên mặt mỗi khi trình diễn. Nhiều lúc tôi đang nghe mấy bản nhạc khá hay, bỗng đâu xuất hiện anh ca sĩ gương mặt đầy son phấn, tôi cảm thấy nhột nhạt, kỳ kỳ làm sao ấy, tắt bài nhạc đang nghe dở, đi làm chuyện khác.

Bây giờ tôi phải bôi mặt làm nghệ sĩ. Người ta nói: “Ghét của nào, trời cho của ấy!” Không hiểu có đúng với tôi trong trường hợp này không? Tôi định bụng không chấp nhận nhưng nhìn cặp vú nhung nhúc của Thúy cùng các cô gái khác. Tôi buộc lòng phải trở thành hoạn quan.

Anh Lâm và chị Nga đưa tôi lên đền Cả để nhập vô đoàn hát của họ. Thì ra họ chưa tập luyện hát ngay mà phải tập trung để nhập lễ rồi rước Thành Hoàng từ đây xuống đồi Lim. Gọi là đồi Lim vì ở đây trứơc kia có rất nhiều cây Lim. Mục đích của cuộc rước này là để dân làng bắt đầu dọn dẹp đường cái, nhà cửa hai bên đường và để cho con hát có dịp tập dượt, chuẩn bị cho lễ hội.

Đồi Lim không cao lắm nhưng từ đây có thể quan sát một con đường thẳng tắp từ đồi xuông tới ao làng. Hai bên đường cờ xí rợp trời, những chiếc cờ đuôi nheo căng gío tung bay phất phới với đủ mọi màu sắc, nhìn rất vui mắt. Chung quanh ao làng, hàng ngàn khách thập phương kéo đến xem kín mít, những chiếc thuyền chút nữa đây sẽ được các liền anh, liền chị biến thành sân diễn đã được neo đậu ngay những chiếc cầu gỗ, bên cạnh những cánh sen tím ngát. Những cô gái mặc áo tứ thân, đầu đội nón quai thao vẫn tất tả ngược xuôi. Đang còn quan sát cảnh người tấp nập kéo đến nối dài đoàn rước, cô Thúy từ dưới ao làng đi lên, trên đỉnh nón quai thao, cô đội một nia toàn là táo dai, trái nào trái ấy to tròn và chín mộng, phát cho mọi người trong đoàn. Tôi cầm lấy 2 trái, cô dí thêm vào tay tôi thêm mấy trái nữa. Tôi làm theo anh Lâm, chùi trái táo vào đùi rồi đút vô miệng cắn một miếng. Táo ở đây ngon giòn và thơm phức, một vị ngọt dịu và mát miệng. Tôi đoán là họ ăn táo cho trong tiếng chăng?
Không thể nào tôi lại có thể bỏ qua cái nhìn dán chặt vào thân hình cô Thúy. Hai vạt áo đung đưa, lúc lắc qua lại theo dáng đi, để lộ hai thăn vú ngoài góc yếm, trắng nõn, tròn trĩnh và căng đầy. Tôi lén lấy máy hình ra chụp một vài pô, may là máy nhỏ và có màn hình nên không cần phải đưa lên nhắm. Chắc là không có ai nhìn thấy? Tôi định bụng rằng chút nữa đây, tôi sẽ làm một bài quan họ tặng Thúy.
Cô Thúy đã đi khuất nhưng tôi vẫn đứng chết trân cho tới khi anh Lâm vỗ vào vai tôi.
- Anh bạn ơi! Mình đi thôi! Tương tư rồi ả?

Tôi giật mình khi biết được người khác đọc được ý nghĩ của mình. Tôi thán phục Lâm nhưng lại tự an ủi. Thằng đàn ông nào chẳng thế, khác nhau là hắn ta nhìn quen hình ảnh này quá rồi nên đã nhàm mắt.
Đoàn rước bắt đầu khởi hành và đủ mọi loại nhạc cụ được trổi lên. Mỗi đoàn đều có những thanh âm và bài hát riêng của mình. Tôi không rành âm nhạc và có cặp lỗ tai không thính nên đã không phân biệt được những âm thanh phát ra. Có bài thì nghe có vẻ quen thuộc, có bài thì nghe lạ lắm, không hiểu ở thể điệu nào.

Trong đoàn tôi, cô Nga cũng đã bắt đầu trổ lên tiếng hát và tiếp đó là Lâm. Họ hát điệu gì tôi không biết, nghe na ná như những giọng điệu mà tôi thường nghe trong các tuồng chèo cổ Bắc phần. Sau Nga và Lâm là các con hát trai gái phụ họa. Họ vừa hát, vừa quay vòng bên nhau, thỉnh thoảng đưa chén rượu, cơi trầu lên mời nhau. Tôi cảm thấy lạc lõng, thỉnh thoảng cũng định lên tiếng phụ giọng ò ơi nhưng sợ người khác lạc giọng nên không dám. Lâm biết ý, đưa cho tôi chiếc quạt rồi chỉ tay về một phía một ông bô lão đang vừa vung quạt, vừa hất cẳng theo nhịp. Tôi hiểu ý làm theo. Thấy chỉ một động tác thông thường mà làm theo sao mà khó thế! Thấy ông lão kia làm động tác gì thì tôi làm theo như thế. Thấy ông lão cầm quạt, rồi kiễng cẳng quay vòng, tôi làm theo. Thình lình tôi thấy chóng mặt, mất thăng bằng, tựa hồ như muốn đứng không vững. Cô Nga nhìn tôi, lấy quạt che miệng cười. Tôi tự cảm thấy thật là vô dụng, đúng là “văn dốt võ dát” nên định bụng khi đoàn rước xuống tới cầu ao là xin phép cáo từ, rút ra khỏi đoàn.

Cô Thúy lại từ cầu ao đi lên, vẫn cái eo thon nõn nà, vẫn với cái vạt yếm cũn cỡn, không đủ che kín thân hình. Cô nhìn tôi, miệng cô nở nụ cười tươi như hoa, khiến tôi cảm thấy háo hức, rạo rực khôn tả. Tôi dán chặt mắt nhìn cô, cô ngượng ngùng sao đó, quay nhìn đi nơi khác.

Tai tôi không còn nghe rõ lời nhạc tiếng ca nữa mà chỉ nghe rõ tiếng hát ngâm của chính mình, tiếng ngâm lập lờ trong tâm não. Thì ra tôi đang làm một bài ca quan họ. Tôi chẳng rành thể điệu, nghe thấy âm thanh và lối hát láy và cứ thế nhẫm theo và tạo vào ý thơ của mình.

Em gái quan họ
(Tặng Thúy và đoàn ca Lim)

Em che yếm thắm nửa người
Hở lưng trần nõn, để đời lên hương
Giọng ca em hát du dương
Nghe em láy giọng, anh thương vô vàn!

Về đây Quan họ ngút ngàn
Lời ca trầm bổng mở màn yêu đương
Liền anh, liền chị mến thương
Miếng trầu, ly rượu nhớ thương ngút ngàn

Về đây quan họ kết đoàn
Bên em yếm thắm, nõn nàng yêu đương
Nhìn em sao thấy vấn vương
Bên em sao thấy yêu thương nồng nàn!

Tôi nhẫm đi nhẫm lại cho thuộc hẳn rồi viết vội ra tờ giấy, chờ Thúy đến để nhét vội vô tay nàng. Nghĩ thì nghĩ thế nhưng mỗi lần Thúy qua lại, tôi lại cứ cảm thấy ngường ngượng làm sao ấy! Cứ định đưa rồi lại thôi. Tôi cảm thấy mình như thằng con trai mới lớn, cảm thấy thân xác yếu mềm trước một cô gái mình để tâm để ý.

Lâm lại hiểu ý tôi, anh nói:
- Thôi đưa đây anh hai, để đàn em làm ông tơ bà nguyệt cho.
Thấy Lâm có vẻ ma mãnh nhưng rất thân tình, tôi đề nghị Lâm đọc bài thơ trước khi trao cho Thúy. Đọc xong bài thơ tôi viết, Lâm tiếp:
- Được quá đi chứ! Thế này là nhất rồi! Làm gì mà cô Thúy lại không “phải lòng”?
- Ấy chết! Anh đừng nói như vậy không nên. Tôi không có ý đó đâu. Qua đường thấy người tài sắc thì nổi chút thi hứng vậy thôi.
- Ấy làm gì mà phải khéo lời! Chút nữa đây bọn em sẽ hát mấy vần này cho ông anh nghe nhé!

Vừa nói xong, Lâm tiến nhanh bước, bắt kịp cô Thúy đang ve vẩy phân phát thứ gì cho ai đó! Không hiểu Lâm đang nói gì với Thúy, chỉ thấy thỉnh thoảng cô ta nhìn về phía tôi, đập chân, giẫy nảy. Từ lúc đó cho tới khi đoàn rước xuống tới ao làng, tôi không thấy Thúy đâu nữa.
Thấy vai trò của mình trong đoàn thật vô duyên và vô tích sự, vả lại cũng đã đến giờ lên đường đi Ngăm Giáo nên tôi buộc lòng phải kiếu từ đoàn ra đi. Anh Lâm và chị Nga cố giữ tôi lại nhưng rất tiếc tôi không thể trì hoãn lâu hơn. Trước khi ra đi, tôi nhét vội hai tờ giấy bạc vào hai tờ giấy, gấp lại rồi trao cho anh Lâm và chị Nga. Một tờ biếu đoàn và một tờ biếu cô Thúy. Biếu đoàn vì đoàn đã cho tôi được một nửa ngày trời vui thú hứng khởi, cho tôi nhập đoàn, bôi son thoa phấn diễn tuồng. Tiếc một điều là tôi vụng về quá, không làm gì nên chuyện. Một tờ biếu cô Thúy, phần vì cái nét đẹp kiêu sa lãng mạn của cô, một phần tạ tội với cô vì đã gây cho cô những ngượng ngùng, mắc cở.

Không giữ tôi được lâu hơn, anh Lâm chị Nga đã tặng tôi một gói xôi, một ít trái táo dai cùng một lá cờ đuôi nheo làm kỷ niệm. Sau đó, anh chị huy động mọi người vào góc bờ ao, nơi dành cho đoàn tập dượt để hát một bài tặng và tiễn chân tôi. Tôi rất cảm động và muốn bật khóc khi tôi được nghe chính cô Thúy (chứ không phải cô Nga) và anh Lâm trổ bài thơ của tôi tặng Thúy sang thể quan họ.

Em che “này” yếm thắm “chứ” nửa người
Hở lưng “này” trần nõn “chứ”, để đời “là đời” lên hương í ì í i
Giọng ca “này” em hát “chứ” du dương
Nghe em “này” láy giọng “chứ”, anh thương “là thương” vô vàn! í ì .
....................................................

Nhì n em “mà” sao thấy “chứ” vấn vương
Bên em “thì” sao thấy “chứ” yêu thương “là thương” nồng nàn! í ì i

Giọng ca của Thúy cao vút tới tận trời xanh rồi rơi quyện vào lòng tôi, khiến lòng tôi nức nở tới tận cùng. Tôi cảm động và thấy thân thể mình như mất trọng lực, tôi thả hồn xa xa, hòa quyện với lời ca tiếng hát. Trên bầu trời xanh và cao vút, những con nhạn đang bay lượn, đong qua đan lại, như đang chào đón một mùa xuân tình ái.
Tôi phải dằn lòng để không bật lên tiếng thổn thức vì cảm động. Những ca viên quan họ, diễn ngâm hay quá, những tiếng láy giọng của họ như chọc thủng vào tận tâm can của tôi. Tôi liếc mắt nhìn Thúy, cô vẫn đang say sưa hát lại lần thứ hai như một điệp khúc mang nặng tình cảm để trao tặng tôi trước khi ra đi.

Tôi tiếp tục lên đường đi thăm viếng làng Ngăm. Những cánh đồng làng Lim xanh ngắt cứ thi nhau tụt lùi xa tít nhưng bên tai tôi vẫn còn văng vẳng những lời quan họ yêu thương chan tình và chan chưa tình người.

Trước mắt tôi, trên cánh động mạ non xanh mướt, lại chợt hiện lên hình ảnh một giai nhân, đeo yếm thắm nửa người.

Hoàng Ngọc Lễ ( cadao)
viethoaiphuong
#136 Posted : Monday, April 12, 2010 7:00:02 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)



Chiều ca dao

Cơn mưa chiều đã tạnh từ lâu
Trời đằm thắm như chưa hề mưa nắng
Để em bảo lũ chuồn chuồn cánh mỏng
Bay là đà vừa đủ để trời râm
Ngủ đi anh
Cho em lùa tay vào mái tóc xanh
Như ngọn gió lùa qua cành mơn trớn
Gió thì lạnh mà tay em thì ấm
Ngủ cho ngoan ơi những nhánh tóc mềm
Cứ tựa mình vào cánh tay em
Sợi tóc bạc của đêm dài thao thức
Cho em nghe nửa cuộc đời đắng ngọt
Đang hòa dần vào cả cuộc đời em
Ngủ đi anh
Hãy ngủ thật bình yên
Đừng trăn trở mà làm đau cả mộng
Và vầng trán như một vùng biển động
Xin hãy vì em đừng dậy sóng bạc đầu
Ngủ đi anh! Ngủ đi anh!
À ơi!
Con cò bay lả bay la
Bay từ cổ tích bay qua đời mình
Bao giờ rau diếp làm đình
Gỗ lim ăn ghém thì mình xa nhau…
À… à ơi!
Thân em là hạt mưa rào
Một chiều cả gió lạc vào lòng anh
Ta về sắm nhiễu Nghi Đình
À ơi!
Ta về sắm nhiễu Nghi Đình
À ơi!
Thôi ngủ đi, ngủ đi ơi dòng sông trăn trở
Trăm nhánh ưu phiền xin chảy hết về em

Ngô Thị Ý Nhi



xv05
#137 Posted : Sunday, June 19, 2011 11:30:02 AM(UTC)
xv05

Rank: Advanced Member

Groups: Registered, Editors
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 5,044
Points: 3,390
Woman
Location: Lục điạ hình trái táo

Thanks: 340 times
Was thanked: 45 time(s) in 44 post(s)
Trách ai ăn giấy bỏ bìa
Khi thương, thương vội, khi lìa, lìa xa



Nhân đọc "Dủ học Dủ ngu" của Nguyễn Đức Lập, thấy giải thích câu ca dao trên như sau:


(.........) Ngồi trên bộ ván ngựa, bà Ba Thời trải rộng tờ giấy quyến, lớn bằng tờ nhật trình khổ lớn. Bà cẩn thận xếp đôi chiều dọc của tờ giấy, bà xếp đôi nữa, rồi lại xếp đôi nữạ Bà dùng dao rọc theo những lằn xếp. Tờ giấy, như vậy, được rọc ra thành tám mảnh, chiều dài vẫn giữ y nguyên. Tự nhiên, bà nói :

-Rọc giấy như vậy kêu bằng ăn giấỵ Miếng giấy, tao rọc làm 8 vun, kêu bằng ăn 8, nhiều người hà tiện, rọc thành 16 vun, kêu bằng ăn 16. Nhưng giấy ăn 16, điếu thuốc ngắn ngủn, kéo chưa đủ 3 hơi đã hết. Tao thà chịu tốn giấy, ăn 8, đặng vấn điếu nào đáng điếu nấy, hút mới đã.

Không chờ không đợi mà tôi còn mừng hơn là khi không bắt được vàng thoi bạc nén vì bỗng dưng, bà ngâm nga :

-Trách ai ăn giấy bỏ bìa
Khi thương, thương vội, khi lìa, lìa xa.

Bà cắt nghĩa liền :

-Thằng Tám mày thấy không? Giấy quyến đâu có bìa, hổng có cái gì đáng mà phải bỏ hết. Vậy mà có những kẻ ăn giấy, bày đặt bỏ trên, bỏ dưới, bỏ tả, bỏ hữụ Những kẻ ăn giấy bỏ bìa này chánh thị là ba cái quân điệu bộ kiểu cách lãng nhách, mà lại kiêu căng phí phạm, bạc hẳn không ai bằng.

(...)

Có người sẽ trách rằng tại làm sao mà tôi lại chấp nhận lời giải thích của 1 người phụ nữ quê mùa ít học 1 cách dễ dàng như vậỵ Trách tôi thì tôi chịụ. Thú thật, tôi vẫn còn đem thắc mắc về cái câu “ăn giấy bỏ bìa” ra hỏi nhiều người lắm, có người là nhà ngữ học lừng danh nữa, nhưng không có ai giải nghĩa được hết.

Có 1 lần, đọc trên 1 tờ báo, nơi mục giải đáp thắc mắc, tôi thấy có người cũng thắc mắc về cái câu “ăn giấy bỏ bìa”, hỏi rằng giấy làm sao mà ăn được, người giữ mục giải đáp đã trả lời rằng câu đó sai rồi, phải sửa lại là “trách ai được giấy bỏ bìa” mới đúng.

Đọc tới đó tôi bỗng ngậm ngùi, vì phải ai cũng có cơ duyên gặp được bà Ba Thời như tôi vậy đâu......
(..........)
xv05
#138 Posted : Sunday, June 19, 2011 11:57:06 AM(UTC)
xv05

Rank: Advanced Member

Groups: Registered, Editors
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 5,044
Points: 3,390
Woman
Location: Lục điạ hình trái táo

Thanks: 340 times
Was thanked: 45 time(s) in 44 post(s)
Chim quyên ăn trái ổi tàu
Xứng đôi mẹ gả, ham giầu mà chi



Cũng ông Nguyễn Đức Lập giải thích:


Chim quyên ăn trái ổi tàu
Xứng đôi mẹ gả, ham giầu mà chi

Tôi nghe câu này tới thuộc lòng mà không hề thắc mắc. Dễ quá mà, “ổi tàu” là giống ổi ở bên Tàu chứ còn cái gì nữạ Giống ổi ở bên Tầu, dĩ nhiên, phải lớn hơn, phải ngon hơn ổi bên mình, cũng như con ngựa to lớn thì gọi là ngựa Bắc Thảo, con gà, con vịt to con, được gọi là gà Tàu, vịt Tàu …

Không hề thắc mắc như vậy, cho mãi tới hơn nửa đời người, đọc 1 bài của ông Võ Phiến, mới biết rằng “ổi tàu” ở trong câu hát không phải là giống ổi bên Tàu, mà là 1 loại cây hoang, mọc thành từng lùm từng bụi ở mấy vùng đất gò miền Trung, cây này ở miền Bắc gọi là hoa cứt lợn, còn ở cái xứ “chó ăn đá, gà ăn muối” của tôi thì gọi là bông ngũ sắc.
(....)
Phượng Các
#139 Posted : Monday, June 20, 2011 11:04:30 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
quote:
Gởi bởi xv05
Không chờ không đợi mà tôi còn mừng hơn là khi không bắt được vàng thoi bạc nén

Blush giống như PC tui mừng khi đọc bài bút ký của ông Phan Lạc Phúc cho biết là cây jacaranda có tên trong tự điển Anh Việt là cây tử uy vậy!
xv05
#140 Posted : Sunday, June 26, 2011 11:36:30 AM(UTC)
xv05

Rank: Advanced Member

Groups: Registered, Editors
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 5,044
Points: 3,390
Woman
Location: Lục điạ hình trái táo

Thanks: 340 times
Was thanked: 45 time(s) in 44 post(s)
Văn Thánh trồng thông
Võ Thánh trồng bàng
Ngó vô Xã Tắc hai hàng mù u


"Câu này nhắc lại một chiến công dưới thời vua Tự Đức. Khi quân Pháp đổ bộ lên cửa Thuận An, kéo binh vào thành Huế, quân ta mai phục hai bên đường vào đàn Xã tắc, bèn lấy trái mù u đổ ra đầy đường. Quân Pháp đi giày da, đạp lên mù u, nhào té đảo điên. Quân ta thừa thế nhảy ra đánh xáp lá cà làm cho quân Pháp phải chạy tán loạn. Vì vậy mới gọi là trận giặc mù u. Ngày nay, hai bên đường xã tắc, còn hai hàng mù u (callophylum) cao ngất nghểu thỉnh thoảng rụng trái trên vai người đi đường, như để nhắc nhở một trang sử oanh liệt.”(Thái Văn Kiểm, tr.3).

Tuy nhiên, trong bài "Huyền thoại trận Mù-u", ông Võ Hương-An trình bày về khía cạnh lịch sử liên quan đến trận Mù-u hoàn toàn khác.

Mời quý anh chị cùng đọc.


Huyền thoại trận Mù-u

Võ Hương An



Thập niên 1960, Nhật Bản có một cuốn phim đen trắng rất nổi tiếng, phim Rashomon, Lã Sinh Môn. Phim nổi tiếng không vì tài tử xuất sắc, tiếng tăm gạo cội, cũng không vì hình ảnh đẹp, dàn dựng công phu tốn kém, mà vì cốt chuyện thâm thúy. Dưới cổng Rashomon một chiều mưa tầm tã, mấy người trú mưa cùng kể về một vụ án mạng nhưng không ai giống ai, vậy thì sự thật ở chỗ nào? Thế mới biết bắt đúng sự thật không phải dễ, huống hồ là sự thật lịch sử, những việc khi chúng ta nói tới đã cách chúng ta biền biệt cà hàng chục, hàng trăm hay hàng ngàn năm. Tam sao thất bản, nếu có, cũng là chuyện thường, nhất là khi người kể, người viết không nắm bắt được dữ kiện, lại phóng chiếu câu chuyện bay bổng theo trí tưởng tượng của văn chương. Tôi nhớ đến những hòn bi mù-u thời thơ ấu và trận giặc mù-u lãng đãng mây khói trong không khí cổ tích.

Lần đầu tiên được thoát khỏi sự canh chừng của mệ ngoại để theo lũ bạn hàng xóm mặc quần xà-lỏn, quẹt mũi ngang, chạy rông từ xóm Tả Tam trong Thành Nội (Huế) lên Cầu Đất, ra đường Ngọ Môn (23 tháng 8), đường Cột Cờ (Ông Ích khiêm), lượm trái mù u về làm bi để đánh bi mo, đánh đáo, quả là một cuộc phiêu lưu tuyệt vời. Con nít, đứa nào lại không thích đánh bi, nhưng tiền đâu để mua bi thủy tinh như tụi con nhà giàu? Những trái mù u chín vàng, rụng xuống cỏ, lâu ngày mưa nắng làm cho lớp vỏ ngoài tróc đi, còn lại cái hột tròn có vỏ cứng, con nhà nghèo lượm về làm bi, tuy không đẹp như bi thủy tinh nhưng chơi cũng hết ý như ai. Khi tôi vỗ vào hai cái túi áo cổ kiềng đầy mù-u để khoe thành tích phiêu lưu với mệ ngoại, bà bình luận ngay:

- Hồi xưa, mấy ông tướng của mình dùng mù-u ni để đánh trận với Tây đó. Giết Tây chết như rạ.

Nghe chuyện lạ, tôi hỏi ngay:

- Bộ mấy ông dùng mù u làm đạn để bắn Tây hả mệ?

- Không, nghe kể là mấy quan tướng của mình thấy Tây không có đầu gối (?!), khi đi, hai chưn cứ thẳng băng như cột tre, nếu ngã té chắc chắn không đứng dậy được. Bởi rứa, mấy quan tướng sức dân nạp mù u, rồi sai quân rải ra đầy đường. Tây đi giày, đạp nhằm mù u, trượt té, nằm thẳng cẳng. Quân mình phục sẵn, tha hồ đổ ra đánh giết, Tây thua.

Lớn lên, cũng có lúc nghe một đôi người cao giọng kể về thành tích trận mù u đánh Tây, nhưng khi hỏi đó là trận nào, xảy ra ở đâu, thì không người nào nói cho ra vạch. Đọc trong sử, cũng không thấy có chỗ nào nhắc đến vụ mù u, lòng cứ vẩn vơ thắc mắc, chuyện đánh giặc giữ nước mà nghe như đùa. May mắn, về sau chuyện này lại được học giả Thái Văn Kiểm nhắc đến trong cuốn Cố Đô Huế rất nổi tiếng của ông.

“Ngày nay trong văn chương bình dân còn truyền lại câu ca dao:

Văn Thánh trồng thông
Võ Thánh trồng bàng
Ngó vô Xã Tắc: hai hàng mù u

“Câu này nhắc lại lại một chiến công dưới thời vua Tự Đức. Khi quân Pháp đổ bộ lên cửa Thuận An, kéo binh vào thành Huế, quân ta mai phục hai bên đường vào đàn Xã tắc, bèn lấy trái mù u đổ ra đầy đường. Quân Pháp đi giày da, đạp lên mù u, nhào té đảo điên. Quân ta thừa thế nhảy ra đánh xáp lá cà làm cho quân Pháp phải chạy tán loạn. Vì vậy mới gọi là trận giặc mù u. Ngày nay, hai bên đường xã tắc, còn hai hàng mù u (callophylum) cao ngất nghểu thỉnh thoảng rụng trái trên vai người đi đường, như để nhắc nhở một trang sử oanh liệt.”(Thái Văn Kiểm, tr.3).

Đã gọi là “trang sử oanh liệt” thì người dân nào lại không lấy làm hãnh diện về sự nghiệp giữ nước của tổ tiên mình, huống chi đối với tôi, là người địa phương, nơi diễn ra chiến tích đó. Phải tìm hiểu thì hãnh diện mới có căn chứ. Nhưng… vậy mà không phải vậy.


Thời Tự Đức, Pháp đánh Huế mấy lần?

Nước Pháp liên minh với Tây Ban Nha, mở đầu cuộc xâm lăng Việt Nam lần đầu tiên vào ngày 1/9/1858 tại Đà Nẵng, dưới thời vua Tự Đức (trị vì :1847-1883). Năm 1862, sau khi mất ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ (Biên Hòa, Gia Định, Định Tường), triều đình Huế phải ký Hòa ước Nhâm Tuất, nhường ba tỉnh đã mất cho Pháp. Từ đó cho đến khi băng hà vào năm 1883, vua Tự Đức còn ký thêm một hòa ước nữa, đánh dấu thêm một bước thụt lùi của nền độc lập. Đó là Hòa ước Giáp Tuất, ký năm 1874, sau khi thất thủ thành Hà Nội lần thứ nhất vào năm 1873, tướng thủ thành là Nguyễn Tri Phương bị thương, bị bắt nhưng đã can trường nhịn đói chịu đau mà chết; thêm vào đó lại mất thêm mấy tỉnh miền trung du.

Lịch sử cho thấy trong suốt thời gian vua Tự Đức trị vì, quân Pháp chưa bao giờ tấn công Huế - ngay cả tấn công cửa Thuận An, cổng ngỏ vào Huế, cũng chưa, nói chi tới việc quân Pháp vô trong kinh thành, rồi tiến lên đàn Xã Tắc giữa hai hàng mù u để rồi bị phục binh của ta đánh giết!

Nhà Nguyễn lập ra đàn Nam Giao để tế Trời, (Hiệu Thiên Thượng Đế) lập ra đàn Xã Tắc để tế thần Đất. (Hai chữ xã-tắc cũng chỉ về đất nước, sơn hà xã tắc). Vì vậy, thuở xa xưa bên Tàu, hễ chiếm được đàn xã tắc của nước nào có nghĩa là làm chủ được nước đó, nhưng đến thời Tây qua xâm lăng Việt Nam thì đâu có cần làm vậy. Tây không cần chiếm đàn Xã Tắc hay đàn Nam Giao, lại còn ủng hộ việc tế đàn Nam Giao, đàn Xã Tắc, mà Việt Nam vẫn bị mất nước non cả trăm năm! Đàn Xã tắc chưa bao giờ là một mục tiêu quân sự trong suốt quá trình xâm lăng của Pháp ở Việt Nam.


Có hay không trận mù u? Một chút lịch sử

Vậy thì không có trận mù u?

Có chứ. Nhưng không phải như Hương Giang Thái Văn Kiểm đã dẫn. Nó thuộc về một biến cố khác, không ở dưới thời vua Tự Đức, mà cũng không dính líu gì đến đàn Xã Tắc. Nó là một phần nhỏ trong biến cố thất thủ kinh đô năm Ất Dậu, 1885, thời vua Hàm Nghi (1884-1885). Tôi xin trích của Trần Trọng Kim môt đoạn sử sau đây để bạn đọc có chút ý niệm về biến cố:

“ [1884] Nhưng ở các nơi, những quan cũ ta còn chống nhau với quân Pháp, mà ở Huế thì Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết chuyên chế đủ mọi đường. Tháng 9 năm Giáp Thân (1885), hai ông ấy đem ông Dục Đức [thân phụ vua Thành Thái] giam vào nhà tối, không cho ăn uống để chết đói, đổ tội cho là thông mưu với giặc. Hai ông ấy lại mộ quân tập lính và lập đồn Tân Sở ở gần Cam Lộ thuộc tỉnh Quảng Trị, đem đồ báu ngọc vàng bạc ra đấy, phòng khi có việc gì thì đem quân ra đó để chống nhau với quân Pháp. Cũng vì các ông ấy có ý muốn kháng cự, cho nên quân Pháp đã chiếm giữ Mang Cá ở thành Huế và lại bắt bỏ súng đại bác ở trên thành đi.

Ngày 18 tháng 4 năm Ất Dậu (1885), thống tướng De Courcy sang tới Bắc kỳ. Bấy giờ sự hòa ước với Tàu đã xong, bởi vậy thống tướng mới định vào Huế bắt Triều đình ta phải chịu quyền bảo hộ. Thống tướng đến Hà Nội đã nói chuyện với các người Pháp và những người Nam ra làm quan với Pháp, đã biết tình hình ở trong Huế là thế nào. Đến ngày 19 tháng 5 thì thống tướng đem non 500 quân đi tàu vào Huế. Triều đình cử hai quan đại thần theo viên Khâm sứ Pháp là ông De Champeaux ra đón thống tướng ở cửa Thuận An. Sáng hôm sau, thống tướng cho đòi hai quan phụ chính sang bên Khâm sứ để định việc vào yết kiến vua Hàm Nghi.

Hai ông ấy lúc bấy giờ còn đang lừng lẫy, việc Triều chính ở trong tay mình cả, mà thấy thống tướng làm sự đường đột như thế, cũng đã tức giận lắm…Ông Tường thì là một tay giao thiệp giỏi, lại có nhiều mưu cơ và tài nghề ứng biến, cho nên lúc ấy chỉ có một mình ông Tường sang ra mắt quan thống tướng De Courcy mà thôi, còn ông Thuyết thì cáo bệnh không sang.Thống tướng thấy vậy, bảo đau cũng phải khiêng sang.Tôn Thất Thuyết thấy quan Pháp ra oai như thế, phần thì tức giận, phần thì sợ, lại nhân lúc bấy giờ mới có điềm động đất, mới nghĩ bụng rằng đấy là điềm trời xui khiến bèn quyết ý sửa soạn để đánh nhau.

Thống tướng De Courcy định đến hôm vào điện yết kiến vua Hàm Nghi, thì phải mở cửa chính, không những chỉ để quan nước Pháp đi mà thôi, nhưng lại phải để cả quân lính cùng đi vào cửa ấy.

Triều đình thấy điều ấy trái với quốc lễ, xin để thống tướng đi cửa giữa, theo như sứ Tàu ngày trước, còn quân lính thì xin đi cửa hai bên, thống tướng nhất định không chịu.…Trưa hôm 22 các quan ở Cơ Mật Viện sang Khâm sứ xin vào bàn định cho xong việc đi cửa chính, cửa bên, nhưng thống tướng De Courcy không tiếp. Bà Từ Dụ Thái Hậu sai quan đem đồ lễ vật sang tặng thống tướng, thống tướng cũng khước đi không nhận. Các quan thấy thống tướng làm dữ dội như vậy, đều ngơ ngác không hiểu ra ý tứ gì mà khinh mạn Triều đình đến như thế. Tôn Thất Thuyết càng thấy thế càng lấy làm tức giận, thôi thì sống chết cũng liều một trận, họa may trời có giúp kẻ yếu hèn gì chăng? Ấy là lúc tướng sĩ lúc bấy giờ ai cũng tưởng như thế, cho nên mới định đến nửa đêm khởi sự phát súng bắn sang Khâm sứ và đánh trại lính của Pháp ở Mang Cá (VHA nhấn mạnh).

Chiều hôm ấy thống tướng làm tiệc đãi các quan Pháp. Tiệc vừa tan xong, thì súng ở trong thành nổ ra đùng đùng, rồi những nhà ở chung quanh dinh Khâm sứ cháy, lửa đỏ rực trời. Quân Pháp thấy bất thình lình nửa đêm quân ta đánh phá như vậy, chưa biết ra thế nào, chỉ yên lặng mà chống giữ. Đến sáng ngày 23 (4/7/1885) mới tiến lên đánh, thì quân ta thua chạy.”

Quân Pháp phản công bằng hai mũi: mũi thứ nhất, phát xuất từ Mang Cá; mũi thứ hai từ Tòa Khâm, băng qua sông Hương. Cả hai mũi đều nhắm Đại Nội làm mục tiêu. Khoảng 7 giở rưỡi sáng, vua Hàm Nghi và tam cung lục viện thoát ra Đại Nội bằng cửa Chương Đức ở phía tây, rồi sau đó ra khỏi kinh thành bằng Cửa Hữu, bắt đầu một cuộc hành trình đầy gian nan. Tám giờ sáng, quân Pháp treo cờ trên Kỳ đài trước Ngọ Môn, họ hoàn toàn làm chủ kinh đô và họ không đụng gì đến đàn Xã Tắc.


Nhân chứng hiếm hoi của trận mù u

Sử ghi vắn tắt về biến cố Ất Dậu, thì làm sao biết được mù u đã được sử dụng ở đâu và khi nào? Ngày nay, khó ai trả lời được câu hỏi này nếu tác giả Lô Giang Tiểu Sử đã không chịu khó ghi lại đôi dòng cho con cháu trong nhà. Lô Giang Tiểu Sử là hồi ký của cụ Thượng thư hưu trí Nguyễn Văn Mại, hiệu Tiểu Cao, viết bằng chữ Nho, đã được con trai là ông Nguyễn Hy Xước dịch ra Việt ngữ năm 1947, in ronéo, lưu hành nội bộ gia đình. Một vài thân hữu của gia đình may mắn được đọc hồi ký này, đã nhận ra rằng ngoài chuyện cũ của cá nhân và gia đình được ghi lại, Lô Giang Tiểu Sử còn là một nguồn sử liệu hữu ích vì chứa đựng nhiều chi tiết liên quan tới lịch sử Việt Nam vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX; vì vậy, bản phóng ảnh Lô Giang Tiểu Sử cũng được lưu hành giữa một số người nghiên cứu sử xuất thân từ Huế. Cụ Tiểu Cao đỗ Phó bảng khoa thi Hội năm Ất Dậu (1885). Ngày 15 tháng Năm (âm lịch) vào thi Đình, đang chờ kết quả thì xảy ra biến cố thất thủ kinh đô vào sáng ngày 23 tháng Năm, Ất Dậu (4/7/1885).

Xin mời bạn đọc vui lòng xem bản đồ in kèm bài này để nắm vững những địa danh được nói đến, để thấy sự việc rõ hơn.

Ngay từ ngày 22 tháng 5, cống sĩ Nguyễn Văn Mại, người dự thi Hội và thi Đình, đã ghi nhận rằng :

“Lúc đó, ta vào thi Đình xong, cùng với anh Trần Đào Tiềm đến Bộ Lễ để chờ kết quả kỳ thi, thì thấy trong thành (kinh thành), từ Trấn Bình Đài [Mang Cá] cho đến Lục Bộ, hai bên đường đều đào hào, lính các trại đều mang gươm súng sẵn sàng, trước các trại lính đều chất đầy những thùng chứa cột chuối để phòng bị. Hai bên đường từ Trấn Bình Đài mà ra chất đầy những đống trái bàng và mù u ”(VHA nhấn mạnh) (tr. 35)

…“ 7 giờ đêm hôm ấy, trước khi giao chiến thì Tôn Thất Thuyết mật phái một toán quân đến vây Tòa Sứ, còn quân lính trong thành đều chủ lực về mặt bắc Trấn Bình Đài, và để lại trại không. Đến giờ bắt đầu giao chiến, quân ta bắn trước mà quân Pháp chỉ bắn trả mà thôi… Trong thành, quân ta bắn tiếp vào Trấn Bình Đài từ 8 giờ đêm cho tới 1 giờ sáng, nghe trong đài ít bắn ra, quân ta áp vào và la to: đã áp vào Trấn Bình Đài rồi. Tiếng la như sấm. Không ngờ khi quân ta bắn thì quân Pháp đều núp xuống hầm để đợi, chỉ thỉnh thoảng bắn trả ít thôi. Đến 3 giờ sáng quân Pháp nghe chừng quân ta bắn sưa ra và sắp áp vào Trấn Bình Đài thì họ vùng dậy bắn cả một loạt, quân ta thuốc đạn ít, không địch nổi, đua nhau mà chạy, quân Pháp đuổi theo và bắn chỉ thiên.”

“Quân ta nghe tiếng súng không biết ngã nào, đạp nhau mà chết trong hào hoặc giữa đường, người trước bước trên mù u té ngã, người sau đạp lên mà chết hàng ngàn. Trước kia đào hào, rải mù u lên đường, chủ ý là để hại quân Pháp, mà hóa ra làm hại quân ta. Tại các cửa thành, trai gái già trẻ, người mang của, kẻ bế con, tranh nhau mà ra, người trước ngã, người sau đạp lên, thây liệt đầy đường…” (tr. 35-36)

Những dòng vắn tắt của Tiểu Cao đã làm sáng tỏ những điểm sau:

- Quả thật có trận mù u xảy ra vào đêm 22 rạng ngày 23/5 Ất Dậu, 1885.

- Nơi chiến trận xảy ra là quãng đường từ Mang Cá đến Đại Nội (đường Đinh Tiên Hoàng ngày nay) đoạn gần Mang Cá. Không dính gì đến Xã Tắc.

- Trong trận này, quân Việt không những dùng mù u mà còn dùng cả trái bàng như một phương tiện hỗ trợ hành quân chiến đấu để hại quân Pháp.

Mù u và trái bàng không hại được quân Pháp mà chỉ làm hại quân Việt vì lính Pháp đi giày đinh, đạp nát mu u và trái bàng dễ dàng, còn quân dân Việt thì đi chân đất, đạp nhằm mù u và trái bàng, té ngã, bị dẫm đạp mà chết, chưa nói chi tới tên bay đạn lạc. Tất cả ngoài dự liệu của các quan tướng. Rõ ràng là không có một chiến thắng vinh quang nào như đã được kể lại theo truyền thuyết.


Ngó vô Xã Tắc hai hàng mù u nghĩa là sao?

Khi đã biết sự thật như đã trình bày thì có thể thấy được rằng giải thich về ý nghĩa của câu hát dân gian Ngó vô Xã Tắc hai hàng mù u như Hương Giang Thái Văn Kiểm đã viết là nặng phần tưởng tượng hơn thực tế đã diễn ra.

Vậy thì toàn bộ câu hát chỉ là những câu tả cảnh thôi sao? Rất có thể.

Văn Thánh tức Văn Miếu, xây dựng vào năm Gia Long thứ 7 (1808), thờ Khổng Tử và các danh Nho. Khuôn viên trồng đầy thông.

Võ Thánh tức Võ Miếu, xây dựng năm Minh Mạng thứ 16 (1835), thờ Khương Tử Nha và các danh tướng Trung Hoa và Việt Nam. Trong khuôn viên miếu này người ta trồng cây bàng. Cả hai miếu đều nằm về tả ngạn sông Hương, cách chùa Thiên Mụ về phía tây không bao xa.

Trong khi đó, đàn Xã Tắc lại đặt trong Kinh thành, bên phía tay phải của Đại Nội, trên đường Trần Nguyên Hãn ngày nay, xưa gọi là đường Xã Tắc. Đàn này lập ra năm Gia Long thứ 5 (1806) để thờ các thần chủ về đất đai (Thái Xã Thần) và mùa màng (Thái Tắc Thần). Trong một nước lấy nông nghiệp làm gốc thì đất đai và mùa màng là sự sống còn của quốc gia. Trong khuôn viên Xã Tắc người ta trồng ba thứ cây, là thông, xoài và mù u. Con đường đi vào Xã Tắc cũng trồng mù u nên mới có câu hát trên.

Ta hãy xem người xưa đánh giá ba loại cây này như thế nào. Đại Nam Nhất Thống Chí chép:

-Tùng (thông): Bản Thảo nói rằng tùng là đàn anh trong các loài mộc, cho nên viết theo chữ công, lại nói tùng già thì dư khí kết thành phục linh một nghìn năm thì nhựa nó kết thành hổ phách. Nay ở đàn Nam Giao, các sơn lăng, núi Ngự Bình các nơi thông mọc thành rừng…(tr.352)

- Cây mù u: Nam mai, hoa như hoa mai trắng, quả tròn như ngón chân cái, ép dầu, trị vết đao thương, thắp đèn kiến gián không ăn. Cây cong queo bền chắc, nhà nước hay trồng để dùng làm tay cong và bánh lái ở thuyền (tr.360).

- Cây bàng: Sơn phong, thân cây cao lớn, cành lá mọc thành tầng, hình vòng tròn như hình tán lọng; sau tiết sương giáng lá biến thành sắc đỏ, như lá cây phong, nên gọi là sơn phong. Nay trồng nhiều ở các cung điện, phủ, thự (tr.365)

Khi nghe câu hát:

Văn Thánh trồng thông,
Võ Thánh trồng bàng,
Ngó vô Xã Tắc hai hàng mù u.

Tôi có hỏi Thầy tôi, tức bố tôi, tại sao lại trồng mấy thứ cây đó mà không trồng thứ khác? Ông cụ đủng đỉnh trả lởi:

- Đền miếu, cung điện hay chùa chiền phải trồng cây và phải lựa thứ thích hợp để trồng thì cảnh quang mới đẹp đẽ trang nghiêm. Ở đây, các cụ xưa lại muốn chơi chữ. Văn Miếu là nơi văn học thì phải tinh thông nghĩa lý văn chương sách vở, nên trồng thông để ngụ ý nhắc nhở người đi học. Còn võ miếu là nơi tượng trưng cho việc dụng binh thì phải luận bàn kế hoạch cho chu đáo nên trồng bàng. Riêng Xã Tắc là nơi giao tiếp với đất trời, mà thiên địa mịt mù nên mượn mù u để tượng trưng.

Tôi phải cảm ơn Thầy tôi, đã giải thích điều này, ít nhiều cũng có lý, và không làm méo mó lịch sử. Đúng hay sai, tùy bạn đọc thẩm định, và nếu được nghe một kiến giải khác hợp lý hơn, ý nghĩa hơn, thì thật là quí báu vô cùng. Riêng tôi, thấy trong hướng giải thích này nổi rõ cái phong vị Huế trong việc chơi chữ. Người Huế phát âm không chuẩn như người Bắc. Không phân biệt các âm hỏi, ngã (ví dụ: nghĩ ngợi và nghỉ ngơi); không phân biệt các âm cuối có g hay không g, vì vậy mới dám “cả gan” cho “luận bàn” nghe không khác “cây bàng”!

Còn tại sao người ta trồng xoài cùng với thông và mù u trong khu Xã tắc? Khi theo bạn bè “thám hiểm ”, tôi không thấy cây xoài, có lẽ đã chết tiêu đâu mất, vì là cây ăn quả nên dễ bị hại. Bởi vậy tôi không biết để đem ra hỏi Thầy tôi. Khi lớn lên, đọc Đại Nam Nhất Thống Chí, mới biết đàn Xã Tắc có trồng xoài như một lại cây chính thức, thì không biết hỏi ai nữa. Lúc rảnh , rỉ rả đọc lại ĐNNTC, mục Thổ sản, mới thấy lý do tại sao các cụ xưa lại chọn cây xoài để trồng nơi này. Sách này xếp quả xoài là một “phẩm quí ở phương Nam”. Và ghi nhận: “Vân Đài Loại Ngữ của Lê Quí Đôn chép rằng: Tục truyền năm nào xoài sai quả thì ngũ cốc mất mùa, xoái ít quả thì ngũ cốc được mùa. Ứng với thời tiết cũng có nghiệm.” (tr.301). Hèn gì! Xã Tắc là nơi thờ thần chủ về đất đai mùa màng. Muốn biết về mùa màng trong năm được hay mất mà đem ra hỏi thần cũng khó, chi bằng trồng cây xoài, cứ trông quả nhiều quả ít thì biết. Cây xoài trở thành khí cụ dự báo mùa màng của triều đình!

VÕ HƯƠNG-AN

01/2008

Tài liệu tham khảo

- Thái Văn Kiểm, Cố đô Huế, Nha Văn Hoá Bộ QGGD, Saigon, 1960, bản in lại ở Mỹ không đề năm

- Tiểu Cao Nguyễn Văn Mại, Lô Giang Tiểu sử, bản dịch của Nguyễn Hy Xước, bản in ronéo, lưu hành gia đình.

- Quốc Sử Quán triều Nguyễn, Đại Nam Nhất Thống Chí, bản dịch Viện Sử Học, Tập I, NXB Thuận Hóa, 1997

Users browsing this topic
Guest (4)
9 Pages«<56789>
Forum Jump  
You cannot post new topics in this forum.
You cannot reply to topics in this forum.
You cannot delete your posts in this forum.
You cannot edit your posts in this forum.
You cannot create polls in this forum.
You cannot vote in polls in this forum.