http://www.vietbaoonline...pid=75&pid=59&nid=124011Giới Thiệu Sách Mới:
Việt Nam Quê Mẹ Oan Khiên Việt Báo Thứ Sáu, 2/22/2008, 12:02:00 AM
Nhà xuất bản Tiếng Quê Hương, Virginia vừa phát hành sách mới “Việt Nam Quê Mẹ Oan Khiên,” dầy 440 trang, không kể bìa cứng, trình bày thật đẹp, do Dương Hiếu Nghĩa dịch theo nguyên tác của Pierre Darcourt. Đây là một trong những trang tài liệu quý góp vào tủ sách viết về cuộc chiến tranh bi hùng của những người lính Việt Nam Cộng Hòa gìn giữ quê hương trước làn sóng đỏ.
Pierre Darcourt là một cây bút quen thuộc của các tờ báo nổi tiếng như L’Express, L’Aurore, Sud-Ouest, Piji Press… và cũng là một trong số các chuyên gia hàng đầu về các vấn đề châu Á. Ông là người Pháp, sinh năm 1926 tại Sài Gòn và từng theo học Đại Học Luật Khoa Hà Nội trước 1945.
Khi Nhật đảo chánh Pháp tháng 3-1945, Pierre Darcourt tham gia du kích chống Nhật tại Đông Dương và sau đó gia nhập binh chủng Nhảy Dù Pháp. Rời quân ngũ năm 1954, Pierre Darcourt bước vào nghề báo với tư cách phóng viên chiến trường và đã sống với cuộc chiến Việt Nam ở hầu khắp các mặt trận từ Quảng Trị, Khe Sanh, Kontum, Pleiku tới An Lộc…
Năm 1975, ông là một trong số những phóng viên có mặt tại trận đánh Xuân Lộc cho tới ngày cuối cùng và chỉ rời Sài Gòn vào trưa 29-4-1975. Tác phẩm “Vietnam, qu’as-tu fait de tes fils?”do Editions Albatros, Paris ấn hành lần đầu vào tháng 11-1975 là tập họp những điều ghi nhận về các diễn biến quân sự, chính trị và cảm nghĩ của tác giả vào những ngày cuối cùng của cuộc chiến Việt Nam.
Tập sách gồm 27 chương tuần tự như sau:
Một Năm Sửu Thuận Lợi, Hà Nội Đánh Phá Uy Tín Của Sài Gòn, Chiến Dịch Hồ Chí Minh, TT Thiệu Cố Giữ Thế Chủ Động Chính Trị, Tướng Lãnh Tức Giận Vì Thấy Mình Bị Nhục, Dinh Tổng Thống Bị Dội Bom, Linh Mục Thanh: Đội Quân Thanh Lọc, Đừng Bao Giờ Tin Cậy Hoa Kỳ Như Đồng Minh, Trận Xuân Lộc Đẫm Máu, Chúng Tôi Không Hèn-Chúng Tôi Không Sợ Chết, Với Đoàn Người Chạy Loạn, Với Người Pháp Lớn Tuổi Ở Sài Gòn, Quốc Hội Hoa Kỳ Bàn Về Ngân Sách – Người Dân Miền Nam VN Lo Chôn Con Mình, Phnom Penh Thất Thủ- Triệu Chứng Đáng Buồn Cho Sài Gòn, Thời Kỳ Của Các Trái Bom Thí Nghiệm, Tổng Thống Thiệu Từ Chức, Đại Sứ M. Mérillonn Lên Sân Khấu, Những Ngọn Đèn Cuối Cùng, Tướng Dương Văn Minh Xuất Hiện, Những Trò Chơi Vô Vị Cuối Cùng, Ông Dương Văn Minh Là Ai?, Buổi Lễ Trao Quyền Đầy Sóng Gió, Cái Chết Của Một Thành Phố, Bộ Đội Xâm Nhập Thủ Đô, Sự Hiện Diện Của Người Pháp?, Ngày Mai Chua Chát Của Cuộc “Giải Phóng”, 30 Năm Chiến Tranh: Không Giải Quyết Được Gì.
Với cái nhìn lạnh lùng không kém phần khách quan, trung thực, tác giả Pierre Darcourt đã mô tả từng sự kiện của cuộc chiến, mang lại cho người đọc nhiều nỗi buồn nhiều hơn vui, nhưng chắc chắn sẽ rất cần thiết, giúp chúng ta nhìn về cuộc chiến ở nhiều góc độ…Từ góc độ của một ngoại kiều, Pierre Darcourt cung cấp cho những người Việt chúng ta nhiều thông tin giá trị về cuộc chiến mà ông, một nhà báo, một cựu binh Pháp đã thu thập được.
Xin đọc thử đoạn trích của chương 23: “Cái Chết Của Một Thành Phố” dưới tài chuyển dịch hết sức khéo léo và hấp dẫn của dịch giả Dương Hiếu Nghĩa:
“Sài Gòn bắt đầu hấp hối từ buổi chiều thứ hai 28 tháng 4 với cuộc nổ súng như đùa giỡn tiếp sau bài diễn văn của vị tân nguyên thủ quốc gia…Khi những trái bom đầu tiên rơi xuống Tân Sơn Nhứt và các loại súng bắn loạn xạ khắp nơi trong một thành phố sắp bùng lên một cơn bão, dân chúng chưa hề nhận một lời giải thích nào nên hốt hoảng nằm sấp xuống các rãnh bên lề đường hoặc chạy vào nấp bên các cửa phố. Nhưng dân chúng cũng biết là chiến cuộc vẫn tránh xa thủ đô từ 30 năm giặc giã, nay đã đến đây rồi…và không bao lâu, có thể trong vài ngày hay chỉ vài giờ nữa, bàn tay sắt máu sẽ giáng xuống Sài Gòn để bắt thành phố này phải phục tùng họ…”
*
Đọc “Vietnam – Qu’as-tu fait de tes fils?” của Pierre Darcourt
bản chuyển ngữ của Dương Hiếu Nghĩa do Tủ sách Tiếng Quê Hương ấn hành
________________________________________________________________________
ÂM VANG MỘT ĐOẠN ĐƯỜNG KHÓI LỬA
˜ Uyên Thao
Ấn hành lần đầu tại Paris, tháng 11-1975, tác phẩm là một tập hợp tư liệu về các sự kiện chính trị, quân sự … cuối cùng tại miền Nam VN. Ký giả Pierre Darcourt rời Sài Gòn vào trưa 29.4.1975, sau nhiều ngày có mặt bên cạnh các chiến binh giữa lửa đạn tại Xuân Lộc, Hố Nai… gặp gỡ các tướng Nguyễn Khoa Nam, Lê Minh Đảo…cùng nhiều nhân vật chính trị, quân sự và chia xẻ nhiều thảm cảnh não nề của các đám đông dân chúng cố rời xa vùng Cộng Sản chiếm đóng. Tác phẩm không chỉ dựng lại một đoạn đường khói lửa mà còn là tiếng gào thét phẫn nộ bất bình đối với các hành động tàn ác phi nhân và thái độ dối trá hèn mạt từng có ở khắp nơi trước những oan khiên nhức nhối cũng như ý chí kiên cường bất khuất của quân dân miền Nam bị dồn vào cảnh bị bóp họng trói tay để buộc phải từ bỏ nguyện vọng duy trì cuộc sống trong tự do. Theo Pierre Darcourt, cuộc chiến VN ngưng tiếng súng từ tháng 4.75, nhưng vẫn tiếp tục và trận tuyến đã mở rộng trên toàn cõi VN với một phía là tập đoàn CS đam mê quyền lực tới mức thản nhiên trước mọi đau thương tang tóc của người dân và một phía là dân tộc VN đã bị tước đoạt mọi quyền sống tối thiểu của con người…
Pierre Darcourt chấm dứt tác phẩm bằng mối băn khoăn: “Phải chăng chỉ là giấc mơ không thể thực hiện nổi? — Giấc mơ tháo gỡ bức màn đẫm máu đã trùm phủ mảnh đất bị dày vò tàn nhẫn và nỗ lực nhận ra những gì có thể kiến tạo một đất nước không còn hận thù, chém giết giữa những người chung huyết mạch để cùng cố gắng tìm lại nẻo đường hạnh phúc.” ([1])
Pierre Darcourt băn khoăn vì không thể bôi xoá các ấn tượng đã hằn sâu trong ký ức — “Rất nhiều kỷ niệm và lý lẽ hiện ra trong trí tôi. Tôi đã trải nhiều biến cố, qua nhiều trận đánh hay các vòng vây hãm, đã theo sau nhiều võng cáng trên mảnh đất ngập tràn tang chế và đầy rẫy thây ma này”.
Gần như mỗi địa danh Việt Nam đều là lời gợi nhắc một thảm cảnh kinh hoàng.
Huế là hình ảnh lúc khai quật những mồ chôn tập thể sau cuộc tàn sát ghê rợn Tết Mậu Thân 1968 trước những gương mặt thảm não, những dòng nước mắt chan hoà của hàng hàng lớp lớp người mẹ, người vợ, người con ngơ ngác với những mảnh khăn tang chen chúc tạo thành những con sóng nhấp nhô trắng xoá.
Quảng Trị là đoạn đường 40 cây số mà màu nhựa đen trên mặt đường phủ kín một lớp màu nâu đỏ sạm của máu khô với hàng chục ngàn xác chết gồm hầu hết là đàn bà, trẻ nít gục ngã bởi những chùm đạn pháo tập trung xối xả trút xuống, và tiếp tục bị tung lên nhiều lần xé thành mảnh nhỏ.
An Lộc là đống gạch vụn và ngôi nhà thờ bay hết nóc với cả trăm thi hài chồng chất, thối rữa giữa các hàng ghế nát vụn dưới bục thờ Chúa. Hai tuần lễ trước, một chiến xa T.54 đã dùng đại bác bắn trực xạ vào đám tín đồ đang cầu nguyện giết không còn một ai và toàn bộ xác chết vẫn nằm tại chỗ.
Cùng chung một gợi nhắc là hàng loạt địa danh khác từ Khe Sanh, Đông Hà, Phù Ly, Phù Cũ tới Pleime, Dakto, Ben Het… và thậm chí từ cả những vùng đất không tên:
“Tôi đã đi xuyên qua một ngôi làng ở Dakson bị huỷ diệt bởi một tiểu đoàn Bắc Việt. Chân tôi bước trên những đống tro tàn còn hơi nóng, ngập đến mắt cá, tro của các căn nhà tranh bị đốt bằng súng phun lửa. 250 xác người Thượng trong đó có 103 trẻ em gục chết khắp nơi trên mặt đất đang âm ỉ cháy. Một cảnh tượng ghê rợn, tàn ác, không thể chịu nổi với các tử thi sình trương bị nướng phồng dưới ánh mặt trời, tương tự những con heo quay có đầu người…”
“… Lúc 5 giờ chiều ngày 12-4-1975, một xe vận tải nhẹ từ Xuân Lộc đi liên lạc với Trảng Bom. Tôi nhảy lên xe đó… Đi được khoảng 3 cây số, cách chúng tôi hơn 100 thước, một xe chở dân chúng bị trúng một quả pháo. Tiếp theo tiếng nổ chói tai là bụi, lửa bắn lên tung tóe. Cả chiếc xe và người trên xe đều không còn gì! Chỉ còn trên đường một chấm đen lớn và vung vãi thịt xương tóc tai người chết với mấy mảnh kim khí của hộp số…Vậy là chỉ trong một giây đồng hồ, hơn 20 người vô tội đã bị xóa tên trên danh sách người Việt.”
Những hình ảnh đó không thể không khiến dấy lên những băn khoăn. Với Pierre Darcourt là: “Tôi muốn gào lên, muốn hét thật to để cả thế giới cùng nghe: Hãy để cho họ được sống! Hãy chấm dứt sự đau khổ của họ!” Nhưng tiếng gào của một cá nhân hay của cả một dân tộc chỉ là âm vang mong manh thoáng gợn rồi nhanh chóng rơi chìm giữa sa mạc mênh mông. Nguyện vọng hoà bình luôn được nhắc nhở như ngọn đuốc soi đường để thúc đẩy mọi nỗ lực, đòi hỏi mọi hy sinh… vẫn phải nhường gần trọn 5 năm cho các cuộc bàn thảo về một bản hiệp định ngừng bắn, trong đó có hơn 10 tuần lễ tranh cãi về hình dạng chiếc bàn hội nghị. Tầm mức hình dạng chiếc bàn là dài, tròn hay vuông không chỉ đo riêng bằng ngày tháng mà bằng xương máu của hàng chục ngàn nạn nhân vô tội đã cho thấy mọi lời lẽ tuyên xưng mục tiêu hoà bình chỉ là các mỹ từ vô nghĩa.
Cho nên, ngay sau khi hiệp định ngưng bắn Ba Lê
được ký kết, hoà bình vẫn xa thẳm.
Ngày 27 tháng Giêng 1973 được ghi lại như ngày chấm dứt cuộc chiến kéo dài nhiều thập kỷ trên đất nước VN, nhưng trên thực tế chính là ngày mở ra một giai đoạn mới gia tăng gấp bội lần mức độ tàn phá. Với danh nghĩa vãn hồi hoà bình, bản hiệp định chỉ là bước chuẩn bị cho các mưu đồ hoàn toàn xa cách nguyện vọng hoà bình của dân tộc VN. Bằng các tính toán chi li, mỗi phía đều cần có bản hiệp định để đạt mục tiêu và việc ký kết không ngoài mưu đồ đó.
Với Nhà Trắng, bản hiệp định thành hình là điều kiện toàn hảo nhất về mọi mặt từ pháp lý, đạo đức tới uy danh để có thể rút chân khỏi vũng lầy mà 10 năm trước họ đã quyết lao vào bằng mọi giá với lý do giữ gìn truyền thống bênh vực tự do và học thuyết domino đòi hỏi củng cố một tiền đồn ngăn chống hiểm hoạ CS. Lý do vẫn còn đó nhưng những bất cập trầm trọng trong quyết định tham gia cuộc chiến, trong phương sách tiến hành chiến tranh đã dẫn đến tình trạng quyền lực bị đe doạ nặng nề và trở thành vấn đề nóng bỏng đòi hỏi cấp thời giải quyết.
Để vượt khó khăn mà vẫn có thể biện giải không buông rơi ngọn cờ chính nghĩa từng dựng lên, không rũ bỏ các cam kết từng tuyên hứa, ý nghĩ về tác dụng mở đường thoát hiểm bằng pháp lý qua một bản hiệp định đã hiện hình với quyết tâm biến thành thực tế bất kể cái giá phải trả ra sao.
Trên thực tế, có lẽ đã có sự cân nhắc cái giá phải trả là không nặng lắm đối với nước Mỹ. Tổn thất hơn 50 ngàn binh sĩ và tốn phí 300 tỉ Mỹ kim là chuyện đã xong. Cái giá này ít nhất cũng đã giúp chuyển đổi cuộc cờ thế giới với thái độ mới của hai đối thủ Nga Xô, Trung Quốc. Cả hai thủ đô Mạc Tư Khoa - Bắc Kinh đều đã mở rộng cửa đón tiếp người cầm đầu Nhà Trắng là hiệu báo cụ thể về một thời kỳ mà học thuyết domino không còn lý do tồn tại. Từ đây, giá trị chiến lược của cái tiền đồn tự do Đông Nam Á là miền Nam VN đã giảm hẳn tầm quan trọng so với thời tổng thống Eisenhower.
Do đó, bản hiệp định có thể mang bất kỳ nội dung nào, dẫn tới bất kỳ hậu quả nào miễn là được ký kết để người Mỹ nắm trong tay một yếu tố pháp lý giúp thoải mái rút chân khỏi vũng lầy VN. Mọi chuyện tiếp nối ra sao đều không còn ý nghĩa với nước Mỹ, bởi cuộc cờ thế giới đã đổi thay và người dân VN dù bị dồn vào cảnh huống trói buộc khốn khó nào vẫn phải gánh trọn trách nhiệm về số phận tương lai của mình. Cho nên, ngay thời điểm đó, một nhà ngoại giao Đại Hàn đang có mặt tại Sài Gòn đã thốt ra những lời phát biểu đầy giận dữ: “Nền hòa bình trong danh dự của ông Nixon hả? Chỉ là một trò gian lận quái đản của thế kỷ!’’
Ngày 27 tháng Giêng 1973, vì thế, chỉ ghi dấu thành tựu của Nhà Trắng trong nỗ lực tháo gỡ một tình thế nan giải bất chấp cách tháo gỡ sẽ trút xuống đầu người dân VN mọi hậu quả khốc hại ([2]), và đương nhiên không hề liên quan tới vấn đề vãn hồi hoà bình cho VN.
Với Bắc Việt, ngày 27 tháng Giêng 1973 trở thành ngày mở đầu hối hả cho các nỗ lực tăng cường chiến tranh, dù họ không ngừng nhắc hai tiếng hoà bình.
Ngay sau khi ký hiệp định, Bắc Việt đã đánh chiếm các quận Sa Huỳnh, Đức Phổ tại Quảng Ngãi ngày 29-1-73, căn cứ Cửa Việt tại Quảng Trị ngày 30-1-73. Căn cứ Cửa Việt do một đơn vị nhỏ Thuỷ Quân Lục Chiến trấn giữ nên bị tràn ngập nhưng tại Sa Huỳnh, Đức Phổ, lực lượng Bắc Việt bị Sư Đoàn 2 đẩy lui vào ngày 16 tháng 2. Các cuộc tấn công với mọi cấp độ của Bắc Việt tiếp tục lan rộng. Ngày 25-3-1973, quân Bắc Việt tràn ngập căn cứ Tống Lê Chân tại Bình Long, đồng thời chiếm căn cứ Đức Huệ tại Kiến Phong và nhiều làng xã tại Kiên Giang, An Xuyên, Chương Thiện… Cuối tháng 10-1973, Bắc Việt mở chiến dịch tấn công Quảng Đức, đồng loạt uy hiếp các căn cứ Bu Prang, Bu Bong, Dakson, quận lỵ Kiến Đức. Trận đánh chỉ chấm dứt hơn một tháng sau khi quân đội miền Nam đẩy lui các đơn vị địch.
Tình trạng ngưng bắn da beo theo bản hiệp định cho phép Bắc Việt diễn tả bất kỳ vùng đất nào họ tiến chiếm sau ngày 27 tháng Giêng 1973 cũng là “vùng giải phóng” thuộc quyền kiểm soát hợp pháp của Chính Phủ Lâm Thời Cộng Hoà Miền Nam ([3]) và mọi hành động chiến đấu tự vệ hoặc phản công tái chiếm của miền Nam đều bị buộc là hành động hiếu chiến, vi phạm hiệp định ngưng bắn.
Rõ ràng không hề có ngưng bắn và tình hình còn căng thẳng tới mức trong tháng 3 và tháng 5-1973 phòng không Bắc Việt đã ngang nhiên bắn hạ 2 trực thăng của Uỷ Ban Quân Sự Kiểm Soát Đình Chiến khiến Canada tuyên bố rút khỏi Uỷ Ban này ngày 7-5-1973, tức chỉ sau 3 tháng tham gia.
Tác động quốc tế cũng theo chiều hướng tương tự.
Trong khi Mỹ cắt giảm viện trợ cho miền Nam từ 2 tỉ 300 triệu xuống 964 triệu và cuối cùng bác bỏ luôn ngân khoản này thì Nga Xô tăng mức viện trợ quân sự năm 1974 cho Bắc Việt lên gấp đôi là 1 tỉ 700 triệu. Trung Quốc cũng gửi qua Bắc Việt 500 ngàn súng cá nhân với 90 triệu đạn, 21 ngàn súng cộng đồng với 4 triệu 500 ngàn đạn và ngót 3 triệu quân trang, quân phục… Trong khi quân đội Mỹ cùng các quốc gia đồng minh rút khỏi miền Nam thì tàu hàng Nga Xô chở đầy ắp chiến cụ nối nhau cập bến Hải Phòng.
Cuối tháng 2-1973, tức vỏn vẹn 30 ngày sau hiệp định ngưng bắn, phi cơ quan sát đã ghi nhận 175 xe vận tải và 223 chiến xa Bắc Việt băng qua khu phi quân sự vượt đường mòn Hồ Chí Minh xâm nhập miền Nam. Cuộc xâm nhập không còn lén lút vì quân đội Mỹ đã rời cuộc chiến và hiệp định ngưng bắn cũng loại bỏ hoàn toàn khả năng ngăn chặn bằng không quân của quân đội Miền Nam. Cuối tháng 4-1975, tin ghi nhận cho biết đã có 18 ngàn lượt xe vận tải công khai chạy trên đường mòn Hồ Chí Minh chở vào Nam gần 80 ngàn quân cùng hàng trăm ngàn tấn chiến cụ, các loại đại pháo, hoả tiễn tối tân của Nga Xô và 650 xe tăng…
Giữa năm 1974, tin tình báo xác định 17 sư đoàn cơ giới chính quy Bắc Việt đầy đủ quân số và trang bị võ khí tối tân gồm nhiều loại đại bác hạng nặng, hoả tiễn phòng không … đã hiện diện tại miền Nam. Tin chi tiết cho biết lực lượng xâm nhập được bố trí 7 sư đoàn tại Vùng I, 5 sư đoàn tại Vùng II, 3 sư đoàn tại Vùng III, 2 sư đoàn tại Vùng IV. Ngoài ra, một lực lượng trừ bị cũng đã tập trung tại nhiều căn cứ thuộc lãnh thổ Lào và Campuchia với quân số 40 ngàn tại Campuchia và 50 ngàn tại Lào. Mấy tháng sau, lực lượng xâm nhập được ghi nhận tăng lên 23 sư đoàn và một sư đoàn đặc công thành lập tại Nam Kinh, Trung Quốc đã được đưa về vùng Thượng Du Bắc Việt để sẵn sàng tham chiến.
Bản thống kê năm 1974 về tình hình an ninh miền Nam chỉ gồm các mũi tên hướng thượng với những con số ghi mức trung bình hàng tháng gia tăng gấp bội lần so với thời gian trước khi có hiệp định ngừng bắn: các vụ ám sát tăng từ 22 lên 48, các vụ bắt cóc tăng từ 50 lên 120, các cuộc tấn công tăng từ 200 lên 320…
Tình hình đã biểu hiện viễn cảnh miền Nam khó tránh bị vùi dập trong lửa đạn qua tiến trình chuẩn bị hối hả của cả Hà Nội, Bắc Kinh lẫn Nga Xô, đặc biệt là Trung Quốc công khai đưa lực lượng hải quân chiếm quần đảo Hoàng Sa vào cuối tháng Giêng 1974. ([4])
Thời gian Lê Duẩn chỉ thị cho toàn quân tấn công miền Nam với trận đánh mở đầu tại Đồng Xoài dẫn đến việc Bắc Việt kiểm soát gần trọn lãnh thổ tỉnh Phước Long cũng là thời gian phái đoàn quân sự cao cấp Nga Xô do đại tướng tham mưu trưởng V. A. Jukilov cầm đầu liên tục tới VN hai lần, giữa tháng Chạp 1974 và đầu tháng Giêng 1975. Nối gót sau đó là Nicolai Firyubin, một nhân vật đặc biệt thuộc hàng ngũ ngoại giao cao cấp Nga Xô xuất hiện tại Hà Nội. Đối với giới quan sát quốc tế, cứ mỗi lần Firyubin xuất hiện ở khu vực nào thì gần như chắc chắn tại đó sẽ bùng nổ một đột biến quân sự hoặc chính trị.
Hơn 3 tuần sau, cuối tháng Hai 1975, tướng Yang Yung, cựu phụ tá tư lệnh chí nguyện quân tại Triều Tiên, cầm đầu một phái đoàn quân sự Trung Quốc cũng tới Hà Nội để thực hiện một cuộc viếng thăm kỳ lạ chưa từng có: viếng thăm dài hạn!
Mọi diễn biến tiếp nối không là chuyện ngạc nhiên.
Nhưng suốt thời gian từ sau ngày 27 tháng Giêng 1973, trên hầu khắp thế giới lại tiếp diễn liên tục một hiện tượng không thể không ngạc nhiên.
Ngày thứ tư 13-3-1975, Pierre Darcourt đã không kìm nổi sững sờ trước bản tin trên báo France Soir về trận tấn công của 3 sư đoàn Bắc Việt vào Ban Mê Thuột. Bản tin viết:
“Trong khi các trận đánh ở Phnom Penh tiếp diễn thì MTGPMN chiếm một phần thị xã Ban Mê Thuột, sau khi chiếm quận lỵ Đức Lập. Tấn chiếm như vậy là kháng chiến quân miền Nam Việt Nam muốn ngăn chận một sự can thiệp của quân đội Sài Gòn vào Campuchia để giải vây cho Phnom Penh. Kế hoạch can thiệp này có sự không trợ từ không lực Hoa Kỳ được đề nghị với Tổng Thống Thiệu gần đây. Vị nguyên thủ miền Nam Việt Nam đã dự trù tiến tới một hành động như vậy. Ông hy vọng có hai điều lợi: trên phương diện tài chánh ông sẽ được tăng cường một ngân khoản viện trợ từ phía Hoa Kỳ, trên phương diện chính trị sẽ tăng cường được vị thế... Sự tấn công của kháng chiến quân đặt lại tất cả mọi vấn đề, từ nay quân lực miền Nam có rất ít khả năng để hành động ở Campuchia.”
Pierre Darcourt tự hỏi do đâu mà ký giả này biết chắc quân đội miền Nam sẽ tấn công Phnom Penh với hàng loạt chi tiết cụ thể như Hoa Kỳ yểm trợ không lực, tăng tiền viện trợ… trong lúc khoản viện trợ ngót 1 tỉ Mỹ kim do Nhà Trắng đề nghị dành cho miền Nam đã bị Quốc Hội Mỹ bác bỏ, do đâu mà ký giả này nắm rõ cả ý nghĩ đang trù tính cùng niềm hy vọng chỉ nhen nhúm trong đầu tổng thống Thiệu, và do đâu mà quân đội chánh quy cơ giới Bắc Việt trang bị chiến xa, súng phòng không, hỏa tiễn, đại pháo tầm xa hạng nặng lại biến thành “kháng chiến quân” miền Nam?...
Càng gây sững sờ hơn là không chỉ riêng một tờ báo Pháp mà hầu hết báo chí Tây Phương kể cả báo chí Mỹ đều loan những tin tương tự, thậm chí có những tin mà Pierre Darcourt mệnh danh là hoang đường như tin xuất hiện trên tờ Le Figaro: “14 thành phố, 13 quận lỵ và một tỉnh lỵ đã rơi vào tay “những người nổi dậy’’ từ khi Hiệp Định Paris được ký kết. Đó là do lực lượng cánh tả ở miền Nam đang đánh bật từng chốt do quân chính phủ Miền Nam kiểm soát”
Cho đến khi tấn công thị xã Ban Mê Thuột, quân Bắc Việt chỉ vừa chiếm được tỉnh lỵ Phước Long nhưng bản tin trên đã xuất hiện trên báo Le Figaro. Tờ báo cũng cho xuất hiện một “lực lượng nổi dậy” tại miền Nam với lối gợi ý là dân chúng miền Nam đang đứng lên chống chính quyền Sài Gòn và chính quyền này đang trên đà thất bại. Tương tự, giữa lúc trận chiến Xuân Lộc tiếp diễn, hãng thông tấn Mỹ UPI cũng loan tin thị trấn này đã rơi vào tay quân Bắc Việt, một cách loan tin quen thuộc vào thuở đó.
Phóng viên quốc tế vẫn có mặt thường trực tại miền Nam và chứng kiến tận mắt từng sự việc, nhưng tin tức loại trên cứ thường trực xuất hiện trên nhiều tờ báo Tây Phương. Gần như đã có một dàn hoà tấu trỗi lên những tấu khúc nhịp nhàng bằng tiếng đại bác của quân đội Bắc Việt và các lời lẽ mô tả tình hình miền Nam VN trên báo chí quốc tế. Vào thời điểm hàng chục sư đoàn cơ giới Bắc Việt chiếm hết các tỉnh duyên hải miền Trung và tiến sát Sài Gòn, dàn nhạc hoà tấu lại trình diễn một tấu khúc mới diễn tả chính quyền Sài Gòn đang phá vỡ hiệp định Ba Lê.
Sự việc không chỉ giới hạn trong hoạt động báo chí.
Suốt thời khoảng này, chính giới từ Hoa Thịnh Đốn tới Paris cũng tập trung nỗ lực theo hướng loại bỏ mọi yếu tố pháp lý biểu hiện bằng quyền đầu phiếu của người dân và quan hệ quốc tế đã có của chế độ Cộng Hoà tại miền Nam VN, cùng ý chí tự vệ và mọi khả năng đề kháng không chấp nhận CS.
Quốc Hội Mỹ không những bác bỏ việc viện trợ cả về quân sự lẫn kinh tế cho miền Nam mà còn thông qua đạo luật giảm quyền hạn của người lãnh đạo Nhà Trắng không cho phép nhúng tay vào vùng Đông Nam Á. Các giới chức từ Hoa Thịnh Đốn tới Paris luôn đề cao tác dụng vãn hồi hoà bình của hiệp định Ba Lê theo cách khăng khăng nêu rõ điều kiện thi hành hiệp định là chính quyền Sài Gòn phải được giao cho thành phần nhân sự phù hợp yêu cầu của Hà Nội — một điều kiện ngược ngạo không đặt trên nền tảng thuận tình hợp lý tối thiểu nào và cũng không hề có trong nội dung bản hiệp định. Các đạo quân cơ giới Bắc Việt với đủ loại khí giới tối tân tràn ngập gần khắp miền Nam trở nên hoàn toàn vô hình trong khi chỉ riêng sự hiện diện của chính quyền Sài Gòn bỗng biến thành một bóng đen khổng lồ đang phá bỏ bản hiệp định mà chính quyền đó là một thành viên ký kết.
Ngày 26-4-1975, tại Tân Sơn Nhất, phát ngôn viên Võ Đông Giang của phái đoàn CPLTCHMN vẫn mở họp báo tố cáo chính quyền Sài Gòn cản trở việc vãn hồi hoà bình và nêu một loạt đòi hỏi:
— Thi hành Hiệp Định Ba Lê.
— Loại bỏ tất cả những người đã nằm trong guồng máy của Thiệu.
— Từ bỏ đường lối hiếu chiến, phát xít, áp bức và đàn áp đối với nhân dân.
— Hủy bỏ tất cả luật lệ phản dân chủ. Bảo đảm tôn trọng tự do dân chủ.
Giữa tiếng súng tấn công của quân đội Bắc Việt đang nổ ran ngay tại Hố Nai, đòi hỏi trên không chỉ lộ hình xảo trá trắng trợn mà còn mang đầy tính bi hài nhưng vẫn được loan truyền như một sự việc nghiêm túc. Chuyện còn vượt xa mức tưởng tượng khi hình ảnh những đám đông trốn chạy khỏi các vùng sắp rơi vào tay quân miền Bắc được kèm theo lời tố cáo của đại diện CPLTCHMN tại Ba Lê về “tội ác ép buộc dân chúng di tản của chính quyền Ford và tập đoàn Nguyễn Văn Thiệu”. Đại diện của cái chính phủ được chính quyền Pháp biệt đãi nhưng không người dân VN nào biết đến đã quả quyết “hàng trăm ngàn người bị hăm dọa dưới họng súng đã phải lìa bỏ nhà cửa và nơi chôn nhao cắt rún để chết đói, chết bệnh trên đường di tản. Nhiều ngàn người khác đã bị hành quyết vì không chịu chạy trốn…!”
Hành vi biến đổi trắng, đen này không chỉ nhắm tạo thêm một “tội ác Mỹ-Ngụy” mà chủ yếu nhắm diễn tả người dân miền Nam khao khát hướng về kháng chiến quân giải phóng. Nối theo việc bíến chính quyền Sài Gòn thành hung thần đe doạ hủy hoại nỗ lực vãn hồi hoà bình là việc vẽ lại hình ảnh người dân khiếp hãi CS đang lao vào cuộc trốn chạy đầy hiểm nghèo để hy vọng tìm tới nơi hợp với tâm nguyện. Những người dân này được choàng cho lớp áo nạn nhân khốn khổ của chính quyền Sài Gòn đang trông đợi sự che chở của Cộng Sản đã được cải danh thành kháng chiến quân giải phóng hoặc lực lượng cánh tả đang nổi dậy — dù mọi diễn biến thực tế vẫn phơi bày rõ cội nguồn cảnh ngộ tàn khốc kinh hoàng không thể tả nổi của hàng triệu người dân từ Cao Nguyên, từ các tỉnh địa đầu miền Trung…
Một cụ già còn giữ được mạng sống trong cuộc tháo chạy từ Pleiku về Phú Yên theo tỉnh lộ 7B đã kể với một nhà báo Sài Gòn về đoạn đường của mình:“Chúng tôi gồm hơn 100 ngàn người đi bộ, gồng gánh tất cả những gì có thể mang theo…Con đường nhỏ xuyên qua rừng giữa những bụi rậm và tre dày đặc. Chúng tôi không có thức ăn, tuyệt đối không có gì để uống và đi suốt 3 ngày 3 đêm như vậy… Khi gần tới sông Ba thì từ trong rừng xuất hiện một toán bộ đội có người cầm cờ đi đầu. Người chỉ huy toán bộ đội phát loa ra lệnh cho chúng tôi ngừng lại và quay trở về. Nhưng làm sao được bây giờ vì có quá nhiều người ở phía sau cứ đùn chúng tôi đi tới. Tất cả bị dồn cứng thành một khối không nhúc nhích nổi. Thế là bọn cộng sản bắn với tất cả các loại súng họ đang có… các loại pháo nặng nhẹ, súng cối, súng không giật… nã thẳng vào chúng tôi dọc theo con lộ đang bị kẹt cứng. Tất cả đều nổ đồng loạt. Một trái đạn pháo đã chém ngang con gái tôi và hai đứa con của nó. Trên đoạn đường dài 3 cây số thây nằm la liệt, lẫn lộn kẻ chết người bị thương. Hàng trăm xe đủ loại bị cháy, nổ ì ầm như người ta ném đạn vào lửa vậy. Tôi ôm đứa cháu chín tuổi, cố gắng chạy bừa tới đâu hay tới đó. Đứa bé bị một mảnh đạn pháo xuyên qua lưng. Nó khóc thét lên nhắc đi nhắc lại: “Ông ơi, ngực cháu thủng rồi, đau lắm’’. Rồi đùng một cái, tôi không nghe nó nói nữa. Tôi nhìn lại, đôi môi của nó đen hết rồi. Nó đã chết ”…
Riêng Pierre Darcourt ghi lại hàng loạt sự việc…
— 15-4-1975 tại Xuân Lộc: “Tôi nhập với đoàn người lánh nạn dài dặc rời khu đồng trống. Nhiều người bị thương, một ông già lạ thường áo trắng, nón cối kiểu thực dân, một vết thương to bằng nắm tay trên vai đang lảo đảo bước. Chừng trăm thước ông ngã quỵ xuống. Tôi cố đỡ ông dậy, nhưng ông không còn nhúc nhích nữa, ông chết rồi!… Bên phải tôi, một bà mặt mày lơ láo lo sợ và đau khổ, vừa đi vừa lớn tiếng cầu nguyện. Bà ôm cứng đứa con gái khoảng 4, 5 tuổi bị trúng đạn ở đầu, tóc tai bê bết máu…”
— 23-4-1975 giữa Biên Hoà và Long Thành: “Tôi dừng tại một đoạn quốc lộ. Quốc lộ gần như vắng tanh. Dân chúng đã cân nhắc kỹ nên tránh xa quốc lộ, băng đồng mà đi. Xa hơn một chút, nhưng tôi hiểu ngay tại sao. Phía bên trái cách lề đường chừng 20 thước có 2 xe vận tải bị vỡ tan vì đạn pháo cộng sản, đang cháy và bốc lên mùi khét rất khó chịu của dầu lẫn thịt người. Phía bên phải, một sườn xe nát vụn của chiếc xe ba bánh Lambretta làm tôi nổi da gà: tử thi một đứa trẻ khoảng 10 tuổi treo lủng lẳng phía sau thùng xe, hai tay lòng thòng, đầu bị mảnh đạn cắt đi quá nửa đến cặp mắt. Trong một góc thùng xe phía sau còn hai xác chết, một người đàn bà và một bé gái ôm nhau nằm bất động, ngực và mặt đều bể nát máu me vung vãi. Cách đó 2 thước gần một lỗ được đào hơi cạn dựa nền đường nhựa còn một mảnh kim khí cong vẹo đánh dấu nơi viên đạn rốc kết đã nổ và gây ra sự tàn sát bẩn thỉu mù quáng này…”
Đã có 52 nhà báo ngoại quốc tử nạn suốt cuộc chiến VN, và người tử nạn cuối cùng là Michel Laurent bị bắn gục tại Hố Nai ngày 27-4-1975. Thảm cảnh tàn khốc mà người dân VN phải gánh chịu cùng diện mạo kẻ sát nhân cho tới cuối cuộc chiến không hề thiếu thực tế chứng minh. Nhưng Pierre Darcourt vẫn phải thắc mắc:Tại sao khắp nơi chỉ nhắc tới vụ thảm sát Mỹ Lai, chỉ nhắc tới tấm hình viên tướng miền Nam bắn hạ một cán bộ chỉ huy cộng sản giữa trận giao tranh trên đường phố Sài Gòn và tấm hình một bé gái trần truồng chạy giữa khói lửa đạn bom?
Vài cảnh đau lòng đó chỉ là những hạt cát trong núi xương sông máu của cuộc chiến kéo dài mấy thập kỷ và mức ghê tởm trong hành vi điên loạn nhất thời của vài cá nhân không thể sánh với mức ghê tởm của các chủ trương thúc đẩy tội ác, nhưng các chủ trương này luôn được né tránh không hề nhắc tới.
Trong tác phẩm La mort du Viet Nam, tác giả Vanuxem ghi lại câu chuyện của bác sĩ Vincent, một bác sĩ Pháp trong nhóm Bác Sĩ Không Biên Giới có mặt tại Vũng Tàu cuối tháng 4-1975. Tại một bệnh viện dân sự, vị bác sĩ tiếp nhận 80 người bị thương gồm cả binh sĩ miền Nam lẫn dân chúng. Khi quân Bắc Việt tiến vào, vị bác sĩ được lệnh ngưng tức khắc việc điều trị bệnh nhân. Kế tiếp, lại có lệnh chuyển hết bệnh nhân khỏi bệnh viện. Bác sĩ Vincent đang chưa biết giải quyết ra sao thì viên chỉ huy Bắc Việt lên tiếng: “Chúng tôi đã có cách”. Dứt lời, y rút súng kê vào đầu người bị thương đang nằm ngay bên cạnh bóp cò. Bác sĩ Vincent la lên phản đối thì lập tức bị lôi đi và tiếng súng tiếp tục nổ trong các phòng bệnh viện. 80 bệnh nhân biến tức khắc thành các xác chết.
Sự kiện trên không chỉ xẩy ra lần đầu tại Vũng Tàu vào cuối tháng 4-1975 mà xẩy ra tại nhiều nơi như tác giả Michel Tauriac từng ghi trong tác phẩm Vietnam, le dossier noir du Communisme: “Không xa Mỹ Lai bao nhiêu là một ngôi làng nhỏ Quảng Ngãi… Trong đêm Tết Mậu Thân 1968, quân Cộng Sản xông vào một bệnh viện tại đây. Y tá, bác sĩ, bệnh nhân nằm trên giường bệnh đều bị giết chết, súng cứ nhả đạn thả dàn. Khi người Cộng Sản ra đi, thần chết đã mang theo hết mọi người …” Và, Michel Tauriac cũng đã tự hỏi y hệt như Pierre Darcourt: “Tại sao tới nay báo chí không thốt lên tiếng kêu khiếp hãi nào về những vụ tàn sát man rợ đó mà chỉ nói tới riêng vụ Mỹ Lai ?” ([5])
Cho đến tháng 4-1975, không ít tin tức và chứng nhân đã nhiều lần kể về lệnh xích chân binh sĩ trên chiến xa của quân đội Bắc Việt trong cuộc tấn công mùa hè 1972, về những cuộc “truy điệu sống” thương binh trước khi tàn sát họ để giảm nhẹ gánh nặng và hạn chế số binh sĩ miền Bắc rơi vào tay miền Nam hầu tránh các tác động tâm lý bất lợi, đặc biệt là cái khẩu hiệu “sinh Bắc tử Nam” phi nhân tới giờ này vẫn được đề cao như biểu hiện của tinh thần dũng cảm. Ngay cả trường hợp hết thẩy thanh niên miền Bắc đều tự nguyện chấp nhận cái chết để xâm nhập miền Nam, hết thẩy đều tự nguyện đưa chân vào còng trên các chiến xa trước khi lâm trận, hết thẩy thương binh đều thanh thản xếp hàng để nhận những viên đạn của đồng đội kết thúc mạng mình thì tính nhẫn tâm tàn bạo của chủ trương trên vẫn không sút giảm để có thể không gọi là tội ác đối với nhân loại. Trên thực tế không hề có tình trạng tự nguyện như vậy, vì không ít thương binh đã tìm mọi cách trốn để sau đó thành tù binh và kể lại mọi việc như anh bộ đội bị thương tên Danh đã gặp được một đơn vị miền Nam tại vùng Phương Lâm đầu năm 1970, cùng tâm tư của những người đã ngã trên các trận địa còn lưu lại qua chữ viết của họ, như mấy câu thơ ký tên Huyền Trân tìm thấy trên tử thi một bộ đội mà Bảo Tàng Viện Quân Sự Alberdeen, Maryland đang lưu trữ:
Từ buổi con lên đường xa Mẹ,
Theo anh em sang Lào rồi dấn bước vào Trung
Non xanh nước biếc chập chùng
Sớm nắng biển, chiều mưa rừng gian khổ
………………………………………….
Đã qua buổi ban đầu bỡ ngỡ
Con nhìn ra nào giải phóng gì đâu
………………………………………..
Sao người ta bắt con phải đốt xóm phá cầu
Phải gài mìn gieo tang tóc thương đau
Đã nhiều lần tay con run rẩy
Khi gài mìn để rồi sau bỗng thấy
Xác người tung máu đổ chan hoà
Máu của ai, máu của bà con ta
Của những người như con, như mẹ
………………………………….
Con ra đi, biết rằng mình thua cuộc
Lệnh cấp trên! Nào dám cãi được đâu
Đời của con nay sương gió giãi dầu
Con cảm thấy lòng của mình tê tái.
Pierre Darcourt đã nghĩ tới một lời giải đáp: U tối hay xảo trá bất nhân?
Dù là gì thì lời giải đáp cũng hoàn toàn vô nghĩa nếu chỉ để hiểu lối nhìn vấn đề của những người xa lạ. Nhưng, đặt thắc mắc trong hướng nhận chân diện mạo một đoạn đường để xác định cội nguồn thảm hoạ mà người dân VN phải gánh chịu nhiều thập kỷ thì tìm lời giải đáp vẫn là một yêu cầu khẩn thiết.
Cuộc chiến VN thường được diễn tả như cuộc chiến chống ngoại xâm với tiếng súng mở đầu đêm 19-12-1946 tại Hà Nội chống thực dân Pháp và sau đó, từ 1954 là chống ách đô hộ Mỹ tại miền Nam.
Cách diễn tả này hình thành từ sự có mặt đoàn quân viễn chinh Pháp và quân đội Mỹ trên một chiến tuyến và do đó đã khẳng định chiến tuyến bên kia là lực lượng dân tộc kháng chiến VN. Đây là cách diễn tả theo tuyên xưng của chính quyền Hà Nội được tán dương phổ biến bởi khối CS Quốc Tế từ Nga Xô, Trung Quốc tới hết thẩy các quốc gia Đông Âu và các tổ chức tả khuynh khắp thế giới. Cách diễn tả này nhắm thúc đẩy dấy lên nỗi bất bình của dư luận với các lực lượng ngoại bang đồng thời thổi bùng nhiệt tình yêu nước từ đáy tim mỗi người dân VN và hình ảnh cuộc chiến chỉ đơn giản là hình ảnh trực diện đối đầu giữa người Việt Nam với những đoàn quân xâm lược.
Nhưng nhiều sử gia đã nhìn về các yếu tố hậu trường để cho rằng cuộc chiến VN không khởi từ tiếng súng kháng Pháp đêm 19-12-1946 tại Hà Nội mà từ giữa thập kỷ 1920 do chủ trương độc bá chính trường của CS phủ nhận mọi lực lượng dân tộc đấu tranh. Võ khí ở thời điểm này là lời lẽ đả phá, nhục mạ những người yêu nước không chấp nhận CS, là sự cộng tác với mật thám Pháp để phá vỡ các tổ chức yêu nước ([6]), là những mũi dao găm đâm lén trong bóng tối hạ sát các phần tử kiên quyết chối từ chủ thuyết CS …
Cuộc chiến tiếp diễn sau khi triều đình Huế tuyên cáo xé bỏ mọi hiệp ước ký kết với Pháp trong thế kỷ trước để mở đầu kỷ nguyên độc lập cho Việt Nam từ ngày 11-3-1945 ([7]) và căng thẳng hơn sau khi Bảo Đại tuyên bố trao quyền cho Hồ Chí Minh ngày 30-8-1945 — dù lúc này, các tổ chức yêu nước đều chủ trương đoàn kết mọi xu hướng với niềm tin người VN dù theo ý hệ chính trị nào cũng đấu tranh vì dân vì nước như chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng đã phát biểu.
Chính niềm tin xuất phát từ nhiệt tình yêu thương đồng bào và đất nước này đã đẩy...