Welcome Guest! To enable all features please Login or Register.

Notification

Icon
Error

5 Pages«<2345>
Đãi "Chữ"-Vàng Trong Biển-Net = Tìm Tình-Người Trong Nhân-Gian
viethoaiphuong
#61 Posted : Tuesday, May 13, 2008 12:53:54 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
Bản Tin Nhanh số 1
Xử án 3 thành viên đảng Việt Tân


Nguyễn Quốc Quân, Somsak Khunmi (Nguyễn Quốc Hải), Nguyễn Thế Vũ

Cập nhật lúc 3 giờ sáng, giờ Việt Nam, ngày 13/5/2008

Radio Chân Trời Mới

http://www.radiochantroi...om/spip.php?article3771


viethoaiphuong
#62 Posted : Tuesday, May 13, 2008 1:49:59 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
Huy Hiệu các quân chủng, binh chủng VNCH

http://tapthechiensivnch.org/huyhieu.asp
viethoaiphuong
#63 Posted : Thursday, May 15, 2008 1:30:17 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
CƠN GIÔNG ĐẦU MÙA HẠ

Cả một tuần trời nóng bức, miền Trung bao giờ cũng hứng chịu mọi sự khắc nghiệt của đất trời. Người dân bao đời vẫn phải gian truân khó tìm được những nụ cười hồn nhiên trong cuộc sống. Vì bên họ còn bao nỗi âu lo canh cánh. Họ phải đối diện với miếng cơm manh áo và phải đối đầu với những bất công giẫy đầy. Xã hội tụt cấp đạo đức, thương đau tràn ngập… Tôi cảm thấy tôi già trước tuổi âu lo. Buồn! Bên cạnh cửa sổ suy nghĩ rồi nghẹn ngào.

Sấm sét ngang trời mây đen kéo về một góc trời gió lộng. Hoa lá trước vườn cây của tôi bay tung toé. Tôi rùng mình vội khép cánh cửa phòng bên.

Những hạt mưa cố níu trên khung kính rồi phải lăn dài. Mưa đã làm dịu khí trời. Tôi tủi thân và đành khóc cùng mưa.

Làm sao tôi tả nỗi những sự suy tư dằn vặt trong tôi, khi được công an TP-Huế mời làm việc. vào lúc 14h20 nhằm ngày chủ nhật (27/4/2008) mà mọi người lao động có được sự đoàn tụ với gia đình, sự sum họp được đổi bằng CA áp tải tôi về xã làm việc, họ gồm 5 – 6 người.

Buổi làm việc được mở đầu với lời giới thiệu của ông xếp và nội dung chính đơn giản "Quan hệ với những phần tử phản động nước ngoài". Tôi ngỡ ngàng, chỉ có thế mà cũng có tội. Tôi bị đe doạ đủ điều nào là cho người tông xe, rồi đe doạ bỏ tù tôi, thu luôn điện thoại của tôi, và cấm không cho tôi đi thăm chồng. Tôi chẳng biết nói gì hơn, mỉm cười và trả lời ngắn gọn "Đó là quyền của các ông". Chủ nhật trôi qua, rồi thứ hai, thứ ba rồi đến thứ sáu họ trả lại điện thoại cho tôi và nói quanh quẩn bao điều nhố nhăng, nhai đi, nhai lại làm tôi hoa cả mắt, chóng cả mặt. Bụng lại đói và đau phần thì lo cho các con không ai đưa đón và chăm bón cho chúng ăn. Họ cố moi móc đời tư của tôi, quyết tìm cho có dấu tích rồi hăm doạ sẽ mách với ba mẹ chồng. Làm gì mà hạ cấp thế, thích thì cứ bôi nhọ , càng bôi nhọ càng đẹp hơn vì đó là hoa ngũ sắc…

Không biết phải nói gì đây, chỉ khi mà quyền sống của con người được tôn trọng một cách man rợ và bỉ ổi. Họ uốn nắn tôi, dạy bảo tôi, còn hơn bố mẹ "Con không được đi lối ấy, lối ấy có ma."

Tôi nghẹn ngào trong từng tiếng nấc vì tức giận. Nhưng thân phận nữ nhi ăn chưa no, lo chưa tới. Làm sao có thể chống chọi với những thể chế ràng bộc của cộng sản….

Trinh Thi Phuong Thuy
viethoaiphuong
#64 Posted : Friday, May 16, 2008 6:29:57 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
Nhà văn Võ Thị Hảo: Việc bắt giam các nhà báo làm tổn thương lương tri và hy vọng của mọi người
Mặc Lâm, phóng viên đài RFA
2008-05-14

Hôm thứ Hai 12-5, công an Việt Nam đã bắt giam 2 kỳ giả chuyên viết bài về vụ tham nhũng PMU18. Sự việc này đã phát sinh nhiều câu hỏi: Một là, phải chăng tự do báo chí trong nước đang có vấn đề? Hai là, những nhà báo này đã sử dụng quyền tự do ngôn luận quá đà trong khi tác nghiệp?


Nhà văn Võ Thị Hảo. Photo courtesy of TuoiTre online.
Hai người bị bắt là nhà báo Nguyễn Văn Hải của tờ Tuổi Trẻ và phóng viên Nguyễn Việt Chiến của tờ Thanh Niên. Họ bị khởi tội về tội danh "Lợi dụng chức vụ và quyền hạn trong khi thi hành công vụ" theo Điều 281 của Bộ Luật Hình Sự Việt Nam.

Việc bắt giam này đã gây nhiều phản ứng trái ngược nhau trong đó giới cầm bút tỏ ra bức xúc nhất vì vụ việc này liên quan trực tiếp đến nghề nghiệp của họ.

Nhà văn Võ Thị Hảo, một người cầm bút và cũng là chủ một cơ sở kinh doanh sách báo, đã dành cho Mặc Lâm của Ban Việt Ngữ - Đài Á Châu Tự Do cuộc trao đổi sau đây liên quan tới việc này.

Vụ bắt giữ này như là nhân chứng, rất là bất lợi cho Việt Nam trong quá trình hội nhập, như thế chứng tỏ cái gọi là tự do ngôn luận thì có vẻ là đi vắng tại đất nước này.


Nhà văn Võ Thị Hảo


Báo giới đau đớn
Mặc Lâm: Xin chào nhà văn Võ Thị Hảo. Trước tiên chúng tôi xin được cảm ơn Bà đã dành thời gian cho cuộc nói chuyện ngày hôm nay. Là một người cầm bút và cũng là chủ một cơ sở kinh doanh sách báo xin bà cho biết cảm tưởng đầu tiên của mình khi nghe tin hai nhà báo Nguyễn Văn Hải và Nguyễn Việt Chiến bị bắt vì đưa tin vụ PMU 18, thưa Bà?

Nhà văn Võ Thị Hảo: Tôi thấy đây là một việc làm chấn động mọi người và giới nhà báo thì rất đau đớn. Tôi đã viết trong blog, cái điều này nó - như là nhân chứng - rất là bất lợi cho Việt Nam trong hội nhập, như thế chứng tỏ cái gọi là tự do ngôn luận thì có vẻ là đi vắng tại đất nước này.

Mặc Lâm: Nhưng, theo bản cáo trạng thì hai ký giả này đã loan đi những tin tức không chính xác khiến cho việc điều tra của công an gặp khó khăn, kể cả việc bắt người bị tố cáo một cách oan sai. Bà có ý kiến gì về việc này?

Nhà văn Võ Thị Hảo: Tôi nghĩ rằng không phải họ vi phạm luật lệ. Thứ nhất là báo chí thì hoạt động theo luật báo chí và nói chung báo chí hoạt động thì nó có những cái đặc thù riêng của nghề nghiệp.



Báo chí Việt Nam loan tin về vụ 2 nhà báo Nguyễn Văn Hải của tờ Tuổi Trẻ và Nguyễn Việt Chiến của báo Thanh Niên bị bắt giam và khởi tố vì viết bài về vụ PMU18.



Ở đây khi mà nhà báo viết sai thì có một sự phân định, chẳng hạn như là của một cơ quan trung gian, chẳng hạn như của thanh tra, của toà án chẳng hạn, thì khi đã phân định đúng sai rồi đó thì nếu nhà báo viết đúng thì không nói gì.

Nhưng mà nếu viết sai thì nhà báo phải xin lỗi, cải chính ở trên báo với cùng diện tích, nếu anh đã viết một bài lớn như thế nào, ở trang nào thì anh sẽ phải xin lỗi và cải chính ở cái trang đó.

Và sau đó, nếu cần, nguyên đơn yêu cầu thì nhà báo sẽ phải bồi thường danh dự. Đó là cái chuyện hết sức là bình thường.

Mặc Lâm: Thưa, Bà có nghĩ rằng việc bắt giam này có liên quan gì đến vụ án PMU 18 hay không? Trả thù hay dằn mặt những người đích danh đứng ra tố cáo chẳng hạn?

Nhà văn Võ Thị Hảo: Tôi không biết chắc chắn rằng là có cuộc bắt giam trực tiếp này thì có phải đấy là một cái chủ ý hoàn toàn của nhà nước hay không, thế nhưng mà rõ ràng là cái này đến từ phía chính quyền.

Và tôi nghĩ rằng là dù muốn hay không muốn thì việc bắt giam nhà báo này trong khi mọi thứ chưa rõ ràng thì cũng khiến mọi người rất buồn nản, rất sợ hãi. Nếu viết mà bị như thế thì ai sẽ dám nói lên ý kiến của mình đây, ai sẽ dám nói lên sự thật đây?

Dư luận hoang mang, ngơ ngác
Mặc Lâm: Là người sống và làm việc tại Hà Nội, Bà có nhận xét gì về thái độ phản hồi của giới ký giả hay nhà văn tại Thủ Đô sau khi tin tức được loan đi?

Nhà văn Võ Thị Hảo: Khi mà cái thông tin bắt hai nhà báo đưa ra thì rất là nhiều ký giả cũng như bạn đọc, họ đã bày tỏ sự đau đớn, rất đắng, rất đau, và mọi người hoang mang và ngơ ngác.

Và cái điều đó, tôi không biết nói như thế nào! Nó khiến cho mình thấy hụt hẫng. Và không hiểu rằng là giữa lời nói và việc làm của những người quản lý đát nước và quản lý xã hội ở đây có thống nhất hay không? Tôi thấy như thế là không thống nhất.

Tôi thấy quá kinh khủng. Nó đã gây tổn thương rất lớn đối với báo chí cũng như đối với lương tri cũng như niềm hy vọng của mọi người. Dù nói thế nào đi chăng nữa thì tôi cũng thấy rất là đau lòng, phẫn nộ.

Nhà văn Võ Thị Hảo
Mặc Lâm: Còn riêng cá nhân bà thì sao? Bà suy nghĩ gì về vụ này, thưa Bà?

Nhà văn Võ Thị Hảo : Tôi thấy cái việc bắt giam hai nhà báo này khiến cho tôi rất là đau lòng. Tôi thấy quá kinh khủng. Từ trước tới giờ nhiều vị lãnh đạo nhà nước cũng nói rằng là trong cuộc chống nội xâm là tham nhũng và tệ nạn xã hội thì nhà báo và báo chí đã đóng góp một phần rất lớn và rất cần các nhà báo tham gia, rất cần các nhà báo đẩy mạnh.

Thế mà bây giờ người ta đã tham gia cái việc đấu tranh chống tham nhũng thì nếu mà làm như thế này là cái sự gây tổn thương rất lớn đối với báo chí cũng như đối với lương tri cũng như niềm hy vọng của mọi người. Dù nói thế nào đi chăng nữa thì tôi cũng thấy rất là đau lòng, phẫn nộ.

Những di hại lâu dài
Mặc Lâm: Bà có chia sẻ với nhiều ý kiến cho rằng nghề ký giả tại Việt Nam hiện nay đã quá nguy hiểm cho những ngòi bút chân chính hay không? Và vai trò của luật pháp trong lĩnh vực báo chí có đủ sức bảo vệ những tiếng nói trung thực hay không?

Nhà văn Võ Thị Hảo: Tôi nghĩ rằng nếu như luật báo chí chưa đủ để bảo vệ các nhà báo thì tôi nghĩ cần phải có luật bảo vệ các nhà báo chẳng hạn. Ở nhiều nước thì báo chí có khác.



Bìa cuốn Giàn Thiêu của nhà văn Võ Thị Hảo.



Nếu như báo chí dù cũng chưa làm được nhiều đâu nhưng niềm hy vọng của mọi người (đối với báo chí) trong việc làm trang sạch xã hội, bởi vì xã hội mà không trong sạch và tệ nạn cũng như cái đen tối nó lấn tất cả thì đấy là thảm hoạ không chỉ cho những người đàng hoàng, người tử tê, người lương thiện, mà cũng là một thảm hoạ di hại về sau.

Mặc Lâm: Sau việc bắt bớ này thì những hậu quả theo sau là gì và Bà có tin rằng mọi người sẽ dần dần quên nó đi hay không, thưa Bà?

Nhà văn Võ Thị Hảo: Tôi thấy cái việc này di hại rất là lớn và tôi nghĩ rằng là nếu mà làm cái cử chỉ bắt giam hai nhà báo thì sẽ gây ra cái tác hại chẳng hạn như là mất lòng tin, rồi chẳng hạn như có những người cũng sẽ đặt câu hỏi là tại sao lại như thế này?

Tất cả những người mà hiện nay tôi thường gặp, họ đang được giàu có, thụt két ngân quỹ, và họ đang làm mọi điều mà tưởng rằng bàn tay có thể che khuất mặt trời, di hại đến cả cho họ nữa, đứng trên quyền lợi của đất nước, quyền lợi của mỗi một người lương thiện, của một người dân nhỏ bé cũng như quyền lợi của đất nước.

Mặc Lâm: Xin cám ơn nhà văn Võ Thị Hảo về thời gian Bà dành cho chúng tôi.
viethoaiphuong
#65 Posted : Friday, May 16, 2008 6:34:12 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
Ðiều trần nhân quyền Việt Nam tại Hạ Viện Hoa Kỳ: Người Mỹ gốc Việt phải đề nghị lộ trình dân chủ hóa


Wednesday, May 14, 2008

Ðỗ Dzũng/Người Việt


WASHINGTON, DC.- Trong buổi điều trần về nhân quyền Việt Nam tổ chức tại Hạ Viện Hoa Kỳ hôm Thứ Tư vừa qua, Dân Biểu Liên Bang Hoa Kỳ Ed Royce cho rằng người Mỹ gốc Việt phải đề nghị lộ trình dân chủ hóa cho Việt Nam.

Theo lời Giáo Sư Nguyễn Ngọc Bích, chủ tịch Nghị Hội Toàn Quốc Người Mỹ Gốc Việt, người có mặt tại buổi điều trần từ đầu đến cuối, thì ông Ed Royce đã nói: "Cộng đồng người Mỹ gốc Việt phải ngồi lại với nhau rồi soạn thảo một lộ trình dân chủ cho Việt Nam. Từ đó, chúng tôi sẽ xem xét và dựa theo đó mà vận động giúp đỡ."

Buổi điều trần được tổ chức vào một thời điểm rất thích hợp vì Hoa Kỳ và Việt Nam sắp sửa có một buổi nói chuyện về vấn đề nhân quyền.

Trả lời phỏng vấn nhật báo Người Việt, ông Ðỗ Hoàng Ðiềm, chủ tịch đảng Việt Tân, một trong bốn nhân chứng ra điều trần, nói: "Tôi nghĩ rằng thời điểm của cuộc điều trần rất thích hợp vì trong ngày 29 Tháng Năm tới đây, Hoa Kỳ và Việt Nam sẽ có một cuộc nói chuyện tại Washington DC về vấn đề nhân quyền trong quan hệ giữa hai nước. Chúng tôi hy vọng chính quyền Hoa Kỳ sẽ lắng nghe những gì chúng tôi nêu ra hôm nay để có chính sách thích hợp với Việt Nam."

"Tôi thấy buổi điều trần hôm nay rất tốt, vì Quốc Hội Hoa Kỳ muốn biết quan điểm của người Mỹ gốc Việt về vấn đề nhân quyền. Hơn nữa, tôi tin rằng những gì được nói hôm nay sẽ có thể giúp Tổng Thống Bush ra một khuyến cáo với Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng khi ông sang thăm Hoa Kỳ trong thời gian tới," Giáo Sư Nguyễn Ngọc Bích nhận xét.

Ngoài ông Ðỗ Hoàng Ðiềm còn có ba nhân chứng khác tham gia buổi điều trần. Ðó là ông Leonard A. Leo, chủ tịch Ủy Ban Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế Hoa Kỳ; bác sĩ Nguyễn Thể Bình, đồng chủ tịch Tổ Chức Quốc Tế Yểm Trợ Cao Trào Nhân Bản; và cô Tammy Trần, chủ tịch Liên Minh Chống Buôn Người (VietACT).

Buổi điều trần còn có sự hiện diện của ba đồng viện của Dân Biểu Ed Royce là các Dân Biểu Loretta Sanchez, Zoe Lofgren và Chris Smith.

Cả bốn dân biểu này đều thuộc nhóm Vietnam Caucus tại Hạ Viện Hoa Kỳ.

Người điều trần đầu tiên là ông Leonard A. Leo. Ông cho biết trong buổi điều trần tại Thượng Viện Hoa Kỳ trước đây ủy ban của ông không được mời. Ông luôn chủ trương yêu cầu đưa Việt Nam trở lại danh sách Các Nước Cần Quan Tâm Ðặc Biệt (Countries of Particular Concern - CPC).

Ông Leo cho rằng Việt Nam vẫn còn nhiều thiếu sót trong những cam kết với ủy ban về các vấn đề nhân quyền và tự do tôn giáo mà ông đã đề nghị sau chuyến đi thăm Việt Nam hồi năm 2004.

Ông chủ tịch Ủy Ban Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế Hoa Kỳ cũng cho rằng mặc dù có đề nghị của ủy ban, nhưng chính quyền Tổng Thống Bush vẫn gạt ra và để Việt Nam trở thành thành viên Tổ Chức Mậu Dịch Thế Giới (WTO).

Trong chuyến thăm Việt Nam hồi Tháng Mười, 2007, ủy ban của ông Leo đã gặp một số nhà bất đồng chính kiến và cho rằng tình hình hiện nay tại Việt Nam chưa đủ để đưa quốc gia này ra khỏi danh sách CPC.

Kết thúc phần phát biểu của mình, ông Leo đã đề nghị đưa Việt Nam trở lại danh sách CPC này.

Bác Sĩ Nguyễn Thể Bình, người điều trần kế tiếp, đã đưa ra một danh sách khá đầy đủ về những vi phạm nhân quyền của Việt Nam trong những tháng qua. Bác Sĩ Bình cũng khuyến cáo Hoa Kỳ nên đưa Việt Nam trở lại danh sách CPC và yêu cầu phải cho người Mỹ gốc Việt có tiếng nói trong các cuộc thảo luận nhân quyền giữa Việt Nam và Hoa Kỳ.

Ông Ðỗ Hoàng Ðiềm đã nhắc lại phiên tòa hôm 13 Tháng Năm vừa qua xử ba người của đảng Việt Tân tội "khủng bố."

Ông nói rằng "những cáo buộc và luận tội của chính quyền Việt Nam đối với Tiến Sĩ Nguyễn Quốc Quân, ông Somsak Khunmi và ông Nguyễn Thế Vũ là không có căn bản. Những người này đấu tranh ôn hòa, không bạo động. Chính quyền Việt Nam không thể chụp mũ những người này."

Dân Biểu Loretta Sanchez cũng đồng tình. Bà nói: "Chỉ trong tuần này, ba nhà dân chủ ôn hòa - trong số đó có một công dân Hoa Kỳ, Tiến Sĩ Nguyễn Quốc Quân, đã bị vu cáo tội 'khủng bố' tại Việt Nam sau sáu tháng bị giam giữ vì đã phổ biến tài liệu đấu tranh dân chủ bất bạo động. Ðây là hành vi không thể chấp nhận được. Tình trạng vi phạm nhân quyền tại Việt Nam đã càng ngày càng trầm trọng từ khi Việt Nam được Quy Chế Thương Mại Bình Thường Vĩnh Viễn (PNTR), được xóa tên trên trong danh sách CPC, được làm thành viên của WTO và được trở thành thành viên không thường trực của Hội Ðồng Bảo An."

"Theo tôi thấy, các chính sách đó đều được chính quyền Bush tán thành - đã cho nhà cầm quyền Việt Nam những món quà mà không thể bào chữa được mặc dù không có những sự cố gắng nào để cải thiện tình trạng nhân quyền," dân biểu này nói tiếp.

Ông Ðiềm cũng khuyến cáo Hoa Kỳ nên giúp Việt Nam cải tiến luật pháp để có thể bảo đảm tự do chính trị và nhân quyền như xóa bỏ những điều khoản lờ mờ trong luật pháp Việt Nam mà các cơ quan an ninh thường dựa vào để bắt bất cứ ai. Ông mong Hoa Kỳ thúc đẩy Việt Nam thiết lập một nền báo chí độc lập, cho phép người dân được quyền lập hội, thả hết tù chính trị và chấm dứt bắt bớ, hành hạ các nhà đấu tranh dân chủ.

Người điều trần cuối cùng là cô Tammy Trần. Cô đã nêu lên tệ nạn buôn người qua việc xuất khẩu lao động và môi giới đám cưới tại Việt Nam. Cô cũng nêu lên tình trạng tham nhũng của các giới chức trong khi không lo che chở cho công nhân Việt Nam làm việc tại nước ngoài.

Cô Tammy hy vọng Quốc Hội Hoa Kỳ khuyến khích Việt Nam mở rộng tự do thông tin và cho phép các tổ chức phi chính phủ hoạt động để giúp đỡ những người lao động này. Ðại diện của VietACT còn đề nghị đưa Việt Nam vào danh sách những quốc gia cần được theo dõi kỹ lưỡng về tình trạng buôn người.

Về đề nghị của Dân Biểu Ed Royce, Giáo Sư Nguyễn Ngọc Bích nói: "Trong những ngày tới, Nghị Hội Toàn Quốc Người Mỹ Gốc Việt sẽ cùng một số tổ chức đấu tranh cho tự do và nhân quyền Việt Nam ngồi lại với nhau để soạn thảo ra một lộ trình dân chủ hóa Việt Nam. Từ đó, Hoa Kỳ mới có cơ sở nói chuyện với Hà Nội." (Ð.D.)


http://www.nguoi-viet.co...lutenm...sp?a=78545&z=1
viethoaiphuong
#66 Posted : Friday, May 16, 2008 6:50:23 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
TỔ QUỐC VIỆT NAM
__________________

Tuyên Ngôn
Dân Chủ và Nhân Quyền


Kính gửi đồng bào Việt Nam,

Chúng tôi nhân danh người Việt, nạn nhân của chế độ Cộng Sản Việt Nam vì sự khát vọng Tự Do trên nền tảng Dân Chủ và Nhân Quyền. Nay long trọng công bố bản Tuyên Ngôn Dân Chủ và Nhân Quyền đến quốc dân Việt Nam và các quốc gia trên thế giới.

I. NIỀM TỰ HÀO VÀ KHÁT VỌNG TỰ DO, NHÂN QUYỀN CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM

Kể từ khi dựng nước, dân tộc Việt đã trải qua nhiều thế hệ cứu quốc và kiến quốc. Nước ta nhiều lần bị giặc ngoại bang xâm chiếm và đô hộ. Họ âm mưu đồng hoá người Việt về ngôn ngữ, phong tục tập quán và muốn xoá vĩnh viễn nền văn hoá ngàn xưa của dân tộc Việt. Với tinh thần bất khuất, người Việt đã đánh đuổi giặc ngoại xâm dành lại độc lập, bảo vệ giang sơn, giữ vững nền văn hoá cùng với truyền thống dân tộc và thực thi quyền dân tộc tự quyết mà lịch sử đã vinh danh tinh thần Hội Nghị Diên Hồng. Từ đó khẳng định rằng: dân tộc Việt Nam cũng như các dân tộc khác trên thế giới đều tôn trọng nhân quyền, có khát vọng giống nhau về quyền sống bình đẳng, quyền mưu cầu nguồn sống ấm no hạnh phúc và quyền được hưởng đầy đủ các quyền tự do căn bản của con người. Luôn đề cao giá trị tự do-dân chủ và sự độc lập vẹn toàn lãnh thổ.

- Bản Tuyên Ngôn Độc Lập nǎm 1776 của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ, đã minh định: “mọi dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
- Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của cách mạng Pháp Quốc nǎm 1791, khẳng định rằng: "Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi ; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi".
- Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền ra đời bảo vệ giá trị và nhân phẩm con người sống trên toàn thế giới là bất khả xâm phạm được gọi là Nhân Quyền, đã được Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc thông qua ngày 10 tháng 12 năm 1948.
- Ngay trong bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Chính Phủ Lâm Thời Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa vào ngày 2 tháng 9 năm 1945, cũng đã nhấn mạnh thêm một lần nữa: "Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo Hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được ; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Thế nhưng, đảng Cộng Sản Việt Nam đã bội tín và chà đạp nhân quyền, tước đoạt quyền sống và các quyền tự do căn bản của con người, đồng thời đàn áp khốc liệt bắt người dân Việt phải làm nô lệ cho chủ nghĩa cộng sản. Đây là một sự thật tang thương của dân tộc đã ghi vào lịch sử. Không ai có thể thay đổi sự thật của lịch sử, nhưng người cộng sản đã gian manh uốn nắn và bẻ cong lịch sử để che dấu sự thật nhằm lừa bịp toàn dân Việt Nam.




II. CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN TRÊN THẾ GIỚI CÁO CHUNG.

Vào thập niên cuối thế kỷ 20, Chủ Nghĩa Cộng Sản đã cáo chung. Cái nôi của Chủ Nghĩa Cộng Sản là Liên Xô sụp đổ. Các nước thuộc khối Cộng Sản Đông Âu tan rã. Các quốc gia này nhận thức rõ ràng là chủ nghĩa Cộng Sản đã đi ngược lại khát vọng của nhân loại sống trên quả địa cầu, đã tước đoạt quyền sống bình đẳng và các quyền tự do của con người. Hành trang cách mạng của họ không có một tấc sắt trong tay, mà chỉ có khát vọng Tự Do và lòng mong muốn quyền sống của con người, cùng với sự dũng cảm quyết tâm đoạn tuyệt chủ nghĩa cộng sản phi nhân bản để thoát khỏi sự sợ hãi trước cường quyền có đầy đủ khí giới và phương tiện đàn áp. Cuộc cách mạng đã thành công, chính nghĩa, chân lý và ý dân đã thắng chủ nghĩa cộng sản phi nhân tàn bạo. Họ ý thức được chủ nghĩa Cộng Sản đã tàn phá đất nước, nên cùng quay trở về với cội nguồn dân tộc, xây dựng lại quốc gia tự do-dân chủ, nhân bản và phú cường. Đây chính là một lộ trình tự do-dân chủ thuận theo thiên ý và lòng dân, đã đánh dấu trang sử mới của nhân loại và báo hiệu chủ nghĩa cộng sản trên thế giới cáo chung.

III. THỰC TRẠNG VIỆT NAM KHÔNG CÓ TỰ DO, DÂN CHỦ VÀ NHÂN QUYỀN

Kể từ năm 1945, đảng Cộng Sản Việt Nam đã áp đặt chủ nghĩa Cộng Sản ngoại lai lên miền Bắc nước Việt Nam. Nỗi khốn khổ một cổ bị tròng 2 gông, vừa làm nô lệ cho Quốc Tế Cộng Sản, vừa làm nô lệ cho đảng Cộng Sản Việt Nam, người dân miền Bắc sống trong sự áp bức, bóc lột, đàn áp, nghèo đói, bất công xã hội và hoàn toàn không còn quyền tự do. Một bức tường sắt vô hình cách ly miền Bắc với thế giới bên ngoài, như một nhà tù khổng lồ để che chắn cho đảng Cộng Sản Việt Nam lộng hành, cai trị tàn ác và giết người dã man, mà lịch sử đã lên án mạnh mẽ cuộc cách mạng cải cách ruộng đất ở miền Bắc.

Chính đảng Cộng Sản Việt Nam là thủ phạm gây ra cuộc chiến tranh Bắc Nam tương tàn, nhất quyết xé nát Hiệp Định Geneve 1954 và Hiệp Định Paris 1973, đưa quân cưỡng chiếm miền Nam nước Việt Nam, gây ra biết bao nhiêu cảnh sinh ly tử biệt, nhà cửa hoang tàn đổ nát, dân chúng điêu linh lầm than trong chiến tranh, trong đó lịch sử đã nghiêm khắc lên án cộng quân bất nhân đã thảm sát hàng ngàn đồng bào vào năm 1968 tại Huế đó là biến cố tết Mậu Thân. Kể từ ngày 30 tháng 4 năm 1975, đảng Cộng Sản cai trị toàn nước Việt Nam bằng chủ nghĩa Cộng Sản phi nhân bản. Đã giam cầm tra tấn các thành phần dân, quân, cán, chính của Việt Nam Cộng Hoà. Chiếm đoạt tài sản của ngưòi dân miền Nam qua chính sách cải tạo tư sản. Thực hiện chính sách quản lý hộ khẩu, bắt đi kinh tế mới, ngăn sông cấm chợ … Người dân miền Nam sống trong cảnh lầm than, đói khổ, mọi quyền tự do căn bản đều bị tước đoạt. Từ đó đã dẫn đến những cuộc vượt biên chạy trốn chủ nghĩa Cộng Sản bằng đường bộ hay đường biển để tìm đến thế giới Tự Do. Đã có những cuộc hành trình vượt biên tìm tự do trở thành nạn nhân trong các thảm cảnh kinh hoàng làm chấn động lương tâm nhân loại toàn thế giới. Giá trị Tự Do và khát vọng Tự Do đã được người Việt Nam dùng sinh mạng khắc lên trang sử oai hùng để khẳng định với thế giới rằng: “Tự Do hay là chết”.

Năm 1977, đảng Cộng Sản Việt Nam tiến quân đánh Khmer Đỏ, gọi là “thi hành nghĩa vụ quốc tế”. Bắt thanh niên đi nghĩa vụ quân sự, tập trung tất cả tiềm năng, tiềm lực quốc gia vào chiến tranh, đã làm cho đảng Cộng Sản Việt Nam khủng hoảng chính trị, bị thế giới lên án nên mất uy tín về ngoại giao, kiệt quệ về kinh tế và sa lầy về quân sự. Đến năm 1979, Trung Cộng đem quân tấn công các tỉnh phía bắc Việt Nam gọi là “dạy cho Cộng Sản Việt Nam một bài học”, vì dựa vào Liên Xô xua quân đánh chiếm Cambodia và chống lại Trung Cộng.Vừa bị tiêu hao binh lực ở chiến trường Campuchia, vừa phải dồn binh lực chống Trung Cộng ở phía bắc, nên đảng Cộng Sản Việt Nam đã bị sa lầy và kiệt quệ hoàn toàn. Người dân Việt Nam điêu linh đói khổ và hy sinh xương máu chỉ vì sự tham vọng điên cuồng của đảng Cộng Sản. Sau khi Liên Xô sụp đổ nên bị mất điểm tựa, đảng Cộng Sản Việt Nam tự quay lại van xin thần phục Trung Cộng, để được chấp nhận tiếp tục làm thân nô bộc trung thành với chủ nghĩa Cộng Sản. Còn nỗi nhục nào hơn nỗi nhục làm tay sai, ươn hèn khiếp nhược, cúi đầu nghe sự chỉ dạy của quan thầy Trung Cộng, rồi quay về đè đầu cởi cổ, đàn áp dân ta. Đảng Cộng Sản Việt Nam chính là tập đoàn vong bản, phản dân hại nước, mãi quốc cầu vinh.

IV. CSVN ĐÀN ÁP NHÂN DÂN ĐỂ GIỮ ĐỘC QUYỀN LÃNH ĐẠO

Sau hơn 60 năm cai trị miền Bắc và hơn 30 năm cai trị miền Nam. Đảng Cộng Sản Việt Nam đã tước đoạt hết tất cả quyền tự do căn bản của con người, chiếm đoạt quyền tự quyết của dân tộc, áp đặt bằng bạo lực bắt buộc toàn dân Việt Nam phải đi theo con đường chủ nghĩa Cộng Sản phi nhân tính, làm cho đất nước đói nghèo, lạc hậu, tạo nên nhiều oan nghiệt chất chồng cho người dân. Thanh trừng các đảng viên cộng sản chủ trương xét lại. Bắt giam và trù dập những thành phần cấp tiến hay đảng viên cộng sản phản tỉnh. Đàn áp các nhà đấu tranh dân chủ, có khuynh hướng và chủ trương dân chủ hoá đất nước. Đảng Cộng Sản Việt Nam đã âm mưu áp đặt và kiên quyết duy trì điều 4 Hiến Pháp để giữ vị thế độc quyền và độc tài lãnh đạo đất nước, khinh thường pháp luật, thực thi chính sách phi dân chủ và chà đạp nhân quyền. Nạn tham nhũng lan tràn bất trị từ trung ương đến địa phương, đã làm băng hoại toàn diện tinh thần dân tộc Việt Nam trên tất cả mọi lãnh vực từ: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá, y tế, giáo dục … Đảng Cộng Sản Việt Nam đã trở thành một tập đoàn độc tài phát xít (fascist) hay có thể nói đúng hơn là một đảng cướp. Bằng một lý luận kỳ dị là: “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Chính cái lý luận này đã giúp cho tập toàn độc tài này trở nên những nhà tư bản đỏ, vơ vét tài nguyên và bòn rút tiềm năng kinh tế quốc gia để làm giàu bất chính. Nhà nước Cộng Sản đã tạo ra những món nợ khổng lồ mà toàn dân Việt nghèo khổ phải gánh chịu để trả cho các chủ nợ quốc tế. Cho dù đảng Cộng Sản Việt Nam có sụp đổ trong tương lai thì chính quyền hậu cộng sản cũng phải gánh chịu món nợ khổng lồ này.

V. QUỐC NẠN CỘNG SẢN TÀN PHÁ ĐẤT NƯỚC.

Ngày nay, đảng Cộng Sản Việt Nam đã phạm tội mãi quốc cầu vinh, dâng đất, biển và hải đảo cho Trung Cộng, để mưu cầu được nhận sự bảo hộ nhằm bám víu quyền lực, gây thêm nhiều quốc nạn tang thương cho dân tộc Việt Nam:
1. Quốc nạn Cộng Sản là một đại hoạ của dân tộc Việt Nam. Đã làm suy yếu tiềm năng, tiềm lực quốc gia, xã hội băng hoại, điều hành đất nước bằng luật pháp bất minh. Gây cảnh quốc phá gia vong, nghèo nàn lạc hậu. Người dân sống trong oan nghiệt lầm than. Nhân phẩm người Việt Nam bị chà đạp một cách tàn nhẫn và thô bạo.
Chính đại nạn Cộng Sản đã sinh ra các quốc nạn khác tàn phá quốc gia.
2. Quốc nạn tham nhũng đã làm cho luân thường đạo lý bị lộn nhào tan nát, tàn phá kinh tế quốc gia đến lụng bại. Đảng Cộng Sản dùng cường quyền đàn áp người dân từ tinh thần đến thể xác để vơ vét cho đầy túi tham làm giàu bất chính. Tạo ra nhiều cảnh oan ức, ngang trái và tuyệt vọng trong lòng dân tộc.
3. Quốc nạn lạm phát đã làm cho người dân đói nghèo thêm tuyệt vọng, đời sống lầm than cơ cực nay lại chồng chất thêm khó khăn khốn khổ.
4. Quốc nạn băng hoại xã hội, tệ nạn xã hội lan tràn khắp mọi miền đất nước, đã hủy diệt sinh lực và luân thường đạo lý của dân tộc Việt Nam.
5. Quốc nạn cũng là Pháp nạn. Đảng Cộng Sản Việt Nam chủ trương tiêu diệt tôn giáo, tịch thu và quốc hữu hoá tài sản của các tôn giáo, cưỡng đoạt quyền hạn sắc phong các chức sắc tôn giáo. Mọi hoạt động tôn giáo đều bị khống chế, giám sát và theo dõi của Mặt Trận Tổ Quốc, Ban Tôn Giáo và cơ quan An Ninh.
6. Quốc nạn ô nhiễm môi trường, môi sinh đã tàn phá thiên nhiên, đất nước và con người qua nhiều thế hệ, làm tổn hại đến sức khoẻ và đời sống, trực tiếp ảnh hưởng đến sự tồn vong của giống nòi Việt Nam.
7. Quốc nạn dân trí lụng bại. Chính sự nghèo đói và tham nhũng đã đẩy trình độ dân trí ngày càng yếu kém, đẩy các thế hệ trẻ xa rời trường học. Cộng Sản thực thi chính sách ngu dân để trị, kìm hãm sự tiếp cận và học hỏi nền văn minh của thế giới. Dân trí lụng bại ảnh hưởng sâu sắc đến vận mạng tương lai dân tộc.
8. Quốc nạn đạo đức suy đồi. Đây chính là tình nhân loại nghĩa đồng bào. Tình thương nhân loại đã không còn tồn tại từ lãnh vực y tế đến lãnh vực xã hội, văn hoá, giáo dục … Luân thường đạo lý dạy nhân cách làm người từ ngàn xưa của dân tộc Việt Nam đã bị hủy diệt.
9. Quốc nạn buôn người. Nhân phẩm của người Việt Nam bị chà đạp. Phụ nữ mang thân đi làm dâu, làm lao nô bị hành hạ ở xứ người, bị rao bán như súc vật, bị bán vào con đường mãi dâm. Ngay cả trẻ em Việt Nam cũng bị bán vào chốn phong trần đầy đau thương ngang trái. Nam giới thì đi làm lao nô khắp thế giới bị chủ bóc bột, đày đoạ và đánh đập. Đây là niềm đau thương tột cùng của dân tộc Việt Nam.

VI. MỤC TIÊU VÀ GIẢI PHÁP ĐẤU TRANH

Làm sao diệt trừ quốc nạn để thay đổi vận mệnh của dân tộc Việt Nam?
Quyền con người không có thì làm sao có quyền công dân?
Quyền tự do không có , thì làm sao có quyền dân tộc tự quyết?
“Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”. Chỉ có người Việt cứu lấy đất nước và dân tộc Việt. Không có dân tộc nào có thể giúp, khi người Việt không đoàn kết một lòng quyết tâm đứng lên cứu lấy quốc gia suy vong bởi quốc nạn Cộng Sản. Thể chế chính trị cộng sản chỉ có thay thế bằng thể chế chính trị tự do-dân chủ chứ không thể thay đổi.

Chính vì lẽ đó, khẩn thiết kêu gọi đồng bào trong nước và các cộng đồng người Việt ở hải ngoại thống nhất ý chí và đoàn kết đấu tranh cứu quốc, để đáp ứng sự khát vọng Tự Do, Dân Chủ và Nhân Quyền của dân tộc Việt Nam, chủ trương đấu tranh hoà bình, bất bạo động, lấy chính nghĩa quốc gia và ý dân làm nền tảng.

Thiết tha kêu gọi toàn dân Việt Nam trong và ngoài nước cùng đồng tâm đoàn kết tạo thành lực lượng đấu tranh đòi đảng Cộng Sản Việt Nam phải trao trả lại quyền dân tộc tự quyết và các quyền tự do căn bản của con người. Bằng giải pháp đối thoại, kêu gọi đảng Cộng Sản Việt Nam đồng thuận một lộ trình chuyển giao quyền dân tộc tự quyết trong hoà bình. Phải công nhận và trao trả vô điều kiện các quyền tự do căn bản cho người dân Việt Nam như:
• Quyền tự do tư tưởng.
• Quyền tự do ngôn luận.
• Quyền tự do tôn giáo.
• Quyền tự do lập hội.
• Quyền tự do hội họp.
• Quyền tự do cư trú….

Đồng thời khẩn thiết kêu gọi các cộng đồng người Việt ở hải ngoại bằng khả năng và vận dụng mọi phương tiện thuận lợi ngõ hầu tích cực vận động Liên Hiệp Quốc, các cường quốc tự do-dân chủ, các tổ chức nhân quyền quốc tế và các cơ quan tài chính thế giới … tác động mạnh trên các lĩnh vực: chính trị, kinh tế và ngoại giao …để đảng Cộng Sản Việt Nam chấp nhận một cuộc tổng tuyển cử công bằng và các bên phải tôn trọng kết quả của cuộc trưng cầu dân ý. Khi người dân đã có quyền dân tộc tự quyết thì họ có đủ quyền hạn của một công dân Việt Nam dùng lá phiếu để quyết định vận mạng chính trị cho đất nước thông qua phương thức phổ thông đầu phiếu.

Chủ trương và mục tiêu đấu tranh:
1. Đấu tranh ôn hoà, bất bạo động dành lại quyền dân tộc tự quyết, để thay thế thể chế chính trị cộng sản bằng thể chế chính trị tự do dân chủ.
2. Xây dựng một nước Việt Nam Độc Lập, Tự Do, Dân Chủ, Nhân Bản và phú cường trên nền tảng một xã hội dân sự, thượng tôn pháp luật, với cơ chế chính trị đa nguyên, đa đảng và tam quyền phân lập là hành pháp, lập pháp và tư pháp.

Cầu nguyện hồn thiêng sông núi cùng anh linh tiền nhân phù trợ cho toàn dân Việt đoàn kết một lòng để cứu nước và kiến tạo tổ quốc Việt Nam phú cường.

Việt Nam, ngày 2 tháng 5 năm 2008.
Đồng ký tên

http://www.gopetition.com/online/19199.html.

Kính mời đồng bào trong và ngoài nước đồng ký tên
vào bản Tuyên Ngôn để bài tỏ lòng khát vọng
Tư Do Dân Chủ của dân tộc Việt Nam.
* Riêng đồng bào trong nước, vì điều kiện an ninh
nên có thể dùng bí danh để ký tên.
Kính mời đồng bào bấm vào cái Link này để ký tên:
http://www.gopetition.com/online/19199.html.

Kính mong các cộng đồng người Việt hải ngoại
đồng thuận và ủng hộ tinh thần bằng cách tiếp tay
phổ biến bản Tuyên Ngôn này khắp nơi trên thế giới.


tuyenngondanchunhanquyen@gmail.com
viethoaiphuong
#67 Posted : Sunday, May 18, 2008 12:25:48 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
Con rạch nhỏ quê mình
(Tiểu Tử )

http://kimvo.net/TieuTu_ConRachNhoQueMinh.htm

Và, hai ca khúc bất hủ :
1- Hương Xưa - Cung Tiến - Duy Trác
2- Nhạt Nắng - Xuân Lôi - Ái Xuân

viethoaiphuong
#68 Posted : Sunday, May 18, 2008 12:46:39 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
Thuyết trình



TƯƠNG QUAN GIỮA VĂN HÓA VÀ CHÍNH TRỊ



ĐINH LÂM THANH





Kính thưa quý vị,



Gần đây nhiều nhà trí thức cũng như một vài tổ chức văn học nghệ thuật chủ trương rằng, hoạt động văn hóa phải hoàn toàn tách khỏi môi trường chính trị. Một điều đáng chú ý là nhiều diễn đàn, hội văn hóa thường lên tiếng cổ võ vấn đề nầy rập theo luận điệu tuyên truyền ru ngủ của nghị quyết 36.



Trong thời bình và dưới ảnh hưởng tự do dân chủ của một quốc gia đã có sẵn nền tảng văn minh vững chắc, đôi lúc cũng không thể tách chính trị và văn hóa ra làm hai lãnh vực riêng biệt hoặc đối đầu lẫn nhau. Nếu so với hiện tình của một đất nước cai trị bởi Cộng sản và dân tộc bị phân hóa làm hai như tình trạng Việt Nam và cộng đồng chúng ta hiện nay thì vấn đề càng không thể xảy ra.



Hai lãnh vực văn hóa và chính trị, bất luận dưới thời nào cũng phải được kết hợp, dung hòa đồng thời bổ túc lẫn nhau để đưa đời sống con người đến Chân Thiện Mỹ (Nhân bản, Tự do) hoặc phục vụ tối đa cho quyền lực phe nhóm đảng phái (Quân phiệt, Cộng sản).



Vậy dựa vào chế độ chính trị để làm nền tảng phát triển văn hóa, hay, dùng văn hóa để cãi tạo và xây dựng chế độ ?



Dù hiểu cách nào thì văn hóa và chính trị là hai hành động lúc nào cũng phải liên quan mật thiết với nhau. Đất lành sinh trái ngọt hoặc nói ngược lại, cây tốt khó mọc từ bùn dơ. Vậy chế độ chính trị tốt tự nhiên sẽ nẩy sinh một nền văn hóa tự do nhân bản và ngược lai một nền văn hóa nô bộc chắc chắn sẽ giúp chế độ càng ngày càng thêm độc tài thối nát. Điều nầy có thể chứng minh hai lãnh vực chế độ và chính trị đều liên hệ mật thiết với nhau. Do đó không thể kết luận, văn hóa phải tách khỏi ảnh hưởng của chính trị.



Trước khi đề cập đến hai nền văn hóa riêng biệt cũng như hai khuynh hướng chính trị đối lập của Việt Nam tại quốc nội cũng như người Việt Quốc Gia hải ngoại, xin quý vị đừng đơn giản hóa và đóng khung hai danh từ ‘văn hóa’ cũng như ‘chính trị’ trong một nghĩa hạn hẹp, mà đề nghị một hướng nhìn bao quát rộng lớn hơn.



Không thể hạn chế nền văn hóa của một dân tộc vỏn vẹn chỉ nằm trong phạm vi văn chương, ngôn ngữ và nghệ thuật mà cần phải đề cập đến truyền thống, phong tục tập quán, tôn giáo, y phục, ẩm thực… Cũng vậy, đối với hành động chính trị, không nên gò bó bằng những hình thức bên ngoài, hội họp xuống đường hô hào mà phải nghĩ đến những mục đích tối hậu của các hành động trên. Vậy để được khách quan, cần nghiên cứu nhiều chi tiết và lãnh vực khác nhau trong đường hướng phục vụ đời sống tinh thần lẫn vật chất của con người để những người làm chính trị có một lối nhìn bao quát hơn. Ngoài ra cũng nên tìm hiểu những hành động chính trị một cách rộng rãi trong các chương trình tranh đấu, xây dựng, bảo vệ lý tưởng, sự toàn vẹn quê hương và hạnh phúc của nhân dân Việt Nam để những suy nghĩ của người làm văn hóa khỏi bị lệch lạc.



Nói đến văn hóa và chính trị của Việt Nam trước và sau 1975 cũng như trong và ngoài nước thì thật không đơn giản. Từ việc thay đổi chế độ trong nước rồi nền văn hóa đỏ ra đời, đến môi trường tự do với các phong trào cách mạng đời sống Âu-Mỹ và việc bảo vệ văn hóa cổ truyền ở hải ngoại, là những ưu tư của những người hằng quan tâm đến vận nước và gia tài văn hóa dân tộc.



Chúng ta không thể khách quan xem việc bảo tồn văn hóa Việt Nam một cách đơn giải như dưới thời bình và trong một chế độ tự do dân chủ, vì nền văn hóa của tổ tiên để lại đã bị đổi chiều trong quốc nội và đang bị phá sản tại hải ngoại. Việc bảo tồn văn hóa của chúng ta không thuận buồm xuôi gió mà phải đương đầu trực diện trước một cuộc chiến khốc liệt, không ranh giới, không quy ước. Đó là cuộc chiến ý thức hệ giữa Tự Do và Cộng Sản mà văn hóa chính là vũ khí của chiến trường để đối đầu với nhau.



Nếu xét về lượng, trận chiến hiện nay giữa ta và địch không cân xứng cả chính trị lẫn văn hóa. Cộng sản đã dốc toàn lực, như một kẻ liều mạng, để ăn thua đủ trong giai đoạn quyết liệt một mất một còn với chúng ta. Hà Nội đã tung hết khả năng, từ vật lực đến nhân lực, đánh một lượt hai mặt chính trị lẫn văn hóa vào cộng đồng người Việt Quốc Gia. Chúng đã xử dụng môi trường văn hóa làm bàn đạp cho thế chính trị, hai mặt trận phối hợp nhịp nhàng và đồng bộ với nhau. Cộng đồng chúng ta trong thế bị động và chỉ có chống đở. Lượng đã yếu mà còn bị một số trí thức, nhiều tổ chức hải ngoại còn kêu gọi loại bỏ yếu tố chính trị ra ngoài chương trình phát triển và bảo tồn văn hóa là một điều bất lợi cho công cuộc tranh đấu hiện nay. Nếu chúng ta thiếu lý tưởng không có tinh thần để chống đở, bảo tồn và phát triển văn hóa cổ truyền dân tộc Việt Nam thì xem như chưa đánh đã thua ! Trước một đối thủ dư thừa nhân-vật-lực cộng thêm những thủ đoạn tráo trở gian manh, nếu chúng ta không sức, thiếu khả năng và sáng suốt thì chắc chắn chúng ta sẽ đi vào con đường hỏa mù mà kẻ thù đã giăng ra.



Không thể thuần túy và đơn giản kêu gọi giới trẻ theo học tiếng Việt, nghe một buổi thuyềt trình hay đọc vài cuốn sách là xong việc bảo tồn và phát triển văn hóa như chương trình của một vài tổ chức đề ra. Nếu chỉ có thế thì không khác gì chúng ta mời giới trẻ đến xem một cuộc triển lãm, nghe một chương trình ca nhạc xong rồi ai về nhà nấy, như vậy, làm văn hóa trong tình hình chính trị hiện nay thì chẳng đi đến đâu mà còn đem lại một kết quả ngược. Điều quan trọng là phải biết tạo cho mọi người, nhất là thành phần trẻ có một tinh thần yêu nước, biết đâu là nguồn gốc dân tộc, đâu là lịch sử oai hùng, đâu là di sản của tổ tiên. Phải làm thế nào cho thế hệ trẻ hiểu được nỗi khổ tâm kẻ ra đi cũng như cảm thông thân phận của người ở lại, phải biết đâu là chính nghĩa, đâu là con đường phải tiến tới để mai kia quay về với phục vụ quê hương.



Trước các chương trình đầu độc ru ngủ qua văn hóa của Cộng sản, chúng ta cũng phải mượn con đường chính trị để phát huy tính chất nhân bản chống lại văn hóa vô sản, dùng tôn giáo đối đầu văn hóa vô thần, lấy tình người cãi tạo văn hóa loài thú !



Trong lúc địch ru ngủ chúng ta bằng văn hóa đỏ mà những người trong cộng đồng làm văn hóa bằng hình thụ động, chống đở hoặc chạy theo chiêu bài ‘loại chính trị ra khỏi văn hóa’, thì không khác gì chưa ra trận chúng ta đã đầu hàng vô điều kiện. Tóm lại trong hoàn cảnh hiện tại chúng ta không thể tách rời ‘chiến tranh văn hóa’ ra khỏi ‘chiến tranh chính trị’. Hai mặt trận phải song song hổ trợ cho nhau để đối đầu với Cộng sản khi chúng dùng văn hóa để phục vụ mưu đồ chính trị bất chánh. Nếu chúng ta muốn bảo tồn văn hóa nhân bản mà loại hẳn vấn đề chính trị ra ngoài thì lấy gì làm căn bản cho trận chiến không biên giới ngày nay ?



Xin ghi nhớ, chúng ta là những chiến sĩ trong cuộc chiến giữa hai nền văn hóa nhân bản và văn hóa vô sản. Kẻ thù với khả năng dư thừa sẵn có, chúng đang lấn áp chúng ta trên mọi lãnh vực. Nếu những nhà làm văn hóa không tiếp tay với Cộng đồng Người Việt Quốc Gia thì xin im lặng, đừng lên tiếng đòi hỏi loại bỏ yếu tố chính trị ra ngoài vòng chiến, vì thái độ và hành động nầy không khác gì việc nối giáo cho giặc, phá hoại công cuộc tranh đấu chung của toàn thể dân tộc Việt Nam hiện nay.



Xin chân thành cám ơn Quý Vị.
viethoaiphuong
#69 Posted : Monday, May 19, 2008 6:19:35 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
Hại muôn đời

" Làm thầy thuốc sai lầm có thể hại một mạng người

Làm chính trị sai lầm có thể hại một thế hệ

Làm văn hóa sai lầm có thể hại muôn đời ."

Lão Tử


GS Vũ Quốc Thúc


Trong một cuộc phỏng vấn dành cho đài BBC ngay sau khi có tin nước Việt Nam được bầu làm thành viên không thường trực của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc , tôi đã đưa ý kiến là Chính quyền Hà nội cần phải kiện toàn nền độc lập của xứ xở bằng cách trả lại chủ quyền cho nhân dân qua một cuộc sửa đổi Hiến Pháp được trưng cầu dân ý . Đề nghị này chắc đã khiến nhiều người ngạc nhiên vì theo lý , khi một quốc gia được bầu vào Hội Đồng Bảo An , tất nhiên là tính độc lập của quốc gia này đã được tuyệt đại đa số những nước hội viên Liên Hiệp Quốc công nhận rồi : cần chi còn phải kiện toàn nữa ? Sở dĩ tôi đã đưa ra một đề nghị" có vẻ chướng tai " như vậy , chính vì ngay từ lúc ấy , tôi đã ngờ vực , có thể nói là lo ngại .Ai cũng biết rằng trong số 5 nước hội viên thường trực của Hội Đồng Bảo An - có quyền phủ quyết - có lẽ Trung Hoa là cường quốc duy nhất không thích cho nước ta được tăng thêm thế lực nhờ sự hiện diện trong Hội Đồng Bảo An . Trung Hoa dù đã trở nên cộng sản cũng không chắc gì từ bỏ tham vọng " đế quốc Đại Hán " của họ . Từ nghìn xưa những kẻ lãnh đạo nước này vẫn coi " An Nam " là một chư hầu , mọi chính sách đều phải được sự đồng ý công khai hay mặc nhiên của Thiên Triều . Nếu Bắc Kinh không xử dụng quyền phủ quyết , điều đó có nghĩa là Bắc Kinh tin chắc rằng họ sẽ tiếp tục chi phối Hà nội và Hà nội không thể chống lại họ . Tại sao ? Có lẽ họ đã gài được tay sai vào những vị trí then chốt của hệ thống chính quyền VN. Do đó , sự hiện diện cũa Hà nội trong Hội Đồng Bảo An khiến cho Bắc Kinh thêm vây cánh , chỉ có lợi chứ không hại . Chính vì suy luận như vậy nên kẻ viết bài này chủ trương phải dân chủ hóa thể chế chính trị qua sự sửa đổi Hiến Pháp hiện hành để cho nhóm lãnh đạo thân Bắc Kinh không thể thao túng chính trường được nữa .

Chúng tôi không ngờ là chỉ mấy tuần lễ sau cuộc phỏng vấn của đài BBC , các sự việc xẩy ra chứng minh một cách cụ thể rằng mối lo ngại của chúng tôi không phải vô lý .

Trước hết ta được tin chính quyền Bắc Kinh dự định sáp nhập các quần đảo Trường Sa và Tây Sa vào một đơn vị hành chính tân lập , thuộc thẩm quyền của tỉnh Hải Nam . Những hải đảo này , theo nhiều tài liệu lịch sử , thuộc chủ quyền của Việt Nam : Trung Cộng đã dùng võ lực xâm chiếm , bất chấp sự phản đối của Hà nội . Rõ ràng Trung Cộng muốn đặt Hà nội trước một việc đã rồi : nếu im lặng tức là mặc nhiên xác nhận chủ quyền của họ trên các hải đảo này ; nếu phản đối theo thường lệ bằng một thông cáo thì sẽ chẳng thay đổi được chi hết . Rất có thể đây là một hành động thăm dò của Bắc Kinh : thăm dò xem chính quyền Hà nội có dám chống lại họ không ? Có được dân chúng yểm trợ trong việc chống đối này không ? Đồng thời những " tai mắt " của Bắc Kinh có cơ hội nhận diện những ai chống Trung Cộng hăng nhất để sau này sẽ tìm cách loại trừ .

Việc thứ hai là những cuộc biểu tình của dân chúng ở Hà nội và Sài gòn nhằm phản đối hành động xâm lăng vừa kể của Trung Cộng ; những cuộc biểu tình này xẩy ra đồng thời trong hai ngày chủ nhật 9/3 và16/3 với sự tham dự của nhiều ngàn người . Các cơ quan truyền thông do nhà cầm quyền Hà nội kiểm soát gọi đó là những cuộc biểu tình " tự phát " vì kẻ tham dự đã liên lạc " kín đáo " với nhau bằng điện thoại di động và qua mạng lưới internet . Điều này thật khó tin : Những ai am tường hiện trạng " công an trị " ở nước ta đều biết rằng nếu không có sự làm ngơ và rất có thể là đồng tình của nhà cầm quyền thì dễ gì huy động được đông người như vậy ! Dẫu sao một điều mà các kẻ hữu trách đã không dự kiến được là sự phẫn nộ chân thực và cao độ của tầng lớp trẻ : vidéo ghi hình các cuộc biểu tình cho thấy có những phần tử hăng say đã ngang nhiên dẫm chân lên quốc kỳ của Trung Hoa rồi đốt quốc kỳ này trước sứ quán của Bắc Kinh . Tất nhiên Bắc Kinh đã phản ứng : chính quyền Hà nội vội vàng nghiêm cấm các cuộc biểu tình được dự trù vào ngày chủ nhật 23/3 , thẳng tay bắt giữ một số người bị buộc tội là sách động .

Tuy Bắc Kinh cải chánh tin thiết lập quận Tam Sa nhưng cuộc thăm dò cho thấy hai điều : 1) tầng lớp trẻ ở Việt Nam không chấp nhận sự chi phối của Trung Cộng , coi đó là một hình thức đô hộ mới ;2) nhóm lãnh đạo đương quyền ở Hà nội vẫn chưa dám chống Trung Quốc , mặc dù nước Việt Nam đã trở nên hội viên của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc .

Thái độ khuất phục của Hà nội trước những hành động trịch thượng của Bắc Kinh không mới lạ : qua nhiều sự việc xẩy ra từ hàng chục năm qua như vụ nhượng cho Trung Hoa một phần lãnh thổ sát biên giới (trong đó có Ải Nam Quan và Thác Bản Giốc ) , cả một phần lãnh hải rộng lớn trong Vịnh Bắc Việt , từ lâu vẫn được coi là của ta , rồi tới việc hải quân Trung Hoa bắn chết nhiều ngư phủ Việt Nam trong vùng tranh chấp , việc Trung Hoa ngang nhiên chiếm giữ các hải đảo Tây Sa , Trường Sa ... luôn luôn ta thấy Hà nội chỉ phản đối chiếu lệ mà thôi . Tuyệt nhiên không có một hành động nào đáng coi là trả đũa . Việc phải đến đã đến : Trung Quốc " được đằng chân lân đằng đầu " coi chính quyền Hà nội như thuộc viên , bảo sao phải nghe vậy ! Phải chăng đây là hậu quả những cam kết của Đảng Cộng Sản Việt Nam đối với Đảng Cộng Sản Trung Hoa để xin đàn anh bảo trợ sau khi Khối Liên Xô tan rã ? Sự lệ thuộc này sở dĩ có được chính vì bản Hiến Pháp 1992 đã đặt Đảng Cộng Sản Việt Nam lên trên Nhà Nước Việt Nam ( Đảng lãnh đạo , Nhà Nước quản lý ) . Sửa đổi Hiến Pháp để trả lại chủ quyền cho nhân dân , như vậy là giải phóng dân tộc khỏi sự khống chế của Trung Cộng : chỉ có những tay sai của Trung Cộng mới chống lại việc này .

* * *

Từ cuộc Cách Mạng 19 tháng 8 năm 1945 đến nay , Đảng Cộng Sản Việt Nam liên tục giữ độc quyền làm chủ trên chính trường nước ta . Mọi biến cố xẩy ra , nếu xét trong chiều dài của lịch sử dân tộc , đều là hậu quả trực tiếp hay gián tiếp của đường lối và các chính sách mà Đảng đã thực thi . Bản kết toán tổng quát cho thấy là Đảng đã phạm nhiều sai lầm nghiêm trọng .

Nhìn lại sự việc theo quan điểm dân tộc ( với các mục tiêu độc lập thực sự , thống nhất ba miền Bắc Trung Nam , đoàn kết trong tình tương thân tương ái mọi tầng lớp nhân dân , phát triển kinh tế để đưổi kịp các nước tiến bộ ) , kẻ viết bài này chua xót nhận thấy rằng chúng ta đã bỏ lỡ quá nhiều cơ hội lịch sử . Tôi chỉ kể một số thí dụ :

a) Năm 1948 , Chính quyền Pháp ý thức rằng mặc dù đoàn quân viễn chinh gửi sang Đông Dương đã giành được ưu thế quân sự , Pháp không thể nào tái lập chế độ thuộc địa trên bán đảo xa xôi này : sớm muộn gì cũng phải trả lại quyền độc lập cho các nước Việt , Miên , Lào để phù hợp với phong trào giải phóng thuộc địa đang lan tràn trên thế giới . Chính vì vậy Pháp mới tung ra giải pháp Bảo Đại . Nếu lúc đó Đảng Cộng Sản Việt Nam biết tùy thời , cộng tác với cựu Cố Vấn Tối Cao của mình để nắm chính quyền thì nước ta đã trở thành một nước độc lập ít nhất cũng giống như Maroc , Tunisie . Đâu đến nỗi phải tốn hao bao nhiêu sinh mạng và tài sản , trong 6 năm chiến tranh giải phóng ( 1948 - 1954 ) để đem lại vinh quang cho một số tướng lãnh ! Tôi chợt nhớ đến câu nói của cổ nhân : " Nhất tướng công thành vạn cốt khô!".

b) Năm 1975 , sau khi hai miền Bắc Nam đã thống nhất , nếu Đảng Cộng Sản Việt Nam biết thi hành một chính sách đại đoàn kết dân tộc , thì đâu đến nỗi bao nhiêu vạn người đã chết oan uổng trong các trại cải tạo và trên biển cả ? Đâu đến nỗi hàng triệu người phải bỏ nước ra đi , đem khả năng và trí tuệ của mình phục vụ ngoại bang thay vì có thể ở lại quốc nội góp phần tích cực vào công cuộc tái thiết xứ xở !

c) Năm 1992 , sau khi Khối Cộng sản Liên Xô giải thể , nếu Đảng Cộng Sản Việt Nam đừng mù quáng , vội vã chạy sang tì m Đảng CS Trung Hoa bảo trợ , thì đâu đến nỗi bị Bắc Kinh khống chế như chúng ta đã thấy ? Nếu ngay từ lúc đó , Việt Nam chứng tỏ nguyện vọng độc lập của mình , thì công cuộc bình thường hóa bang giao với Hoa Kỳ có thể thực hiện mau chóng : nền kinh tế có thể đã phát triển không đến nỗi quá thua sút các nước láng giềng Mã Lai , Thái Lan , Tân Gia Ba...

Câu nói của Lão Tử đã tỏ ra quá đúng : Làm chính trị sai lầm có thể hại một thế hệ . Trong trường hợp nước ta , vì sự sai lầm của Đảng Cộng Sản kéo dài từ 1948 tới nay , không phải một mà tới ba thế hệ đã bị thiệt hại .Dĩ nhiên những sự sai lầm đó đã gây nên nhiều sự bất mãn , có lúc đã đưa tới sự nổi loạn trong một số địa phương . Kinh nghiệm cho thấy là mỗi lần Đảng Cộng tạm nhượng bộ , cử một đảng viên cao cấp tới xin lỗi , chuyển đổi các cán bộ hữu trách , nhưng tựu chung vẫn giữ vững chính sách đã đưa ra . Quan điểm của Đảng là " Đảng không bao giờ sai lầm , nếu có khó khăn chỉ vì các cán bộ địa phương đã làm sai , không biết giảng giải cho nhân dân đường lối của Nhà nước " . Với một thái độ ngoan cố như vậy , sự sai lầm không còn tính cách chính sách giai đoạn mà rõ ràng là một sai lầm cơ bản liên can tới triết lý tiến hóa của xã hội , tới nếp sống của toàn dân , nói khác đó là một sai lầm văn hóa có hậu quả dài dài , tai hại muôn đời như Lão Tử đã nhận định .

Sai lầm ở chỗ nào ? Ai cũng biết , các đảng cộng sản đã thành lập trên cơ sở chủ thuyết Các Mác được Lê Nin bổ xung để dùng làm võ khí huy động các tầng lớp nghèo khổ vùng lên cướp chính quyền . Một khi nắm được chính quyền thì lập tức tổ chức một thể chế độc tài được gán danh hiệu vô sản chuyên chính . Trong thực tế đó chỉ là nền chuyên chính của Đảng Cộng Sản vì Đảng tự nhận là đại diện của giai cấp vô sản . Nhưng Đảng do ai bầu làm đại diện ? Ngay từ lúc ra đời , đó chỉ là một nhóm người , dần dần bành trướng bằng cách tuyển mộ thêm đảng viên . Việc tuyển mộ tất nhiên thuộc quyền các cán bộ lãnh đạo Đảng . Sau khi nắm được chính quyền , khỏi cần nói , các cán bộ lãnh đạo này đã dùng danh lợi làm cái mồi để lôi cuốn hàng triệu , hàng chục triệu người vào Đảng . Sự lạm dụng quyền hành và thế lực là một điều không thể tránh khi nhân dân không có quyền thay thế kẻ cai trị mình qua các cuộc bầu cử tự do , trung thực . Đảng có còn đại diện cho giai cấp vô sản không ? Hẳn nhiên không ! Có đáng gọi là CS nữa không ? Cũng không nốt vì các đảng viên đều đã trở nên giầu có .: nhiều cán bộ cao cấp đã trở thành tỷ phú , đa triệu phú ! Khỏi nói , những "nhà tư bản đỏ " chỉ đỏ ở màu cờ mà họ đã nâng lên địa vị quốc kỳ , còn trong bản chất họ đã trở nên cực kỳ bảo thủ , và tha thiết bảo vệ tài sản của họ trước mọi chủ trương tả khuynh quá khích !

Kẻ bàng quan không thể không thắc mắc , có thể nói là bất bình , khi thấy các cán bộ cộng sản vẫn tiếp tục bắt đảng viên cơ sở và các học sinh , sinh viên học đi học lại những nguyên lý cơ bản của chủ thuyết Mác Lê nin như :nền kinh tế tư bản thị trường tất yếu sẽ sụp đổ để nhường chỗ cho nền kinh tế xã hội chủ nghĩa , các quốc gia dân tộc sẽ hòa mình trong một thế giới đại đồng nhờ ở tình huynh đệ đương nhiên của giai cấp vô sản , Nhà nước vô sản chuyên chỉnh chỉ cần thiết trong giai đoạn quá độ mà thôi , vân vân và vân vân ...Rõ ràng là các lãnh tụ cộng sản đã thấy sự sai lầm của chủ thuyết Mác Lê nin nhưng vẫn cố tình đem chủ thuyết này nhồi sọ thế hệ trẻ cũng như các tầng lớp bình dân để dùng làm cơ sở giữ chặt chính quyền . Đây là một sự lừa bịp không thể tha thứ vì chính sách văn hóa ngu dân này đang khiến cho nước ta biến thành chư hầu của Trung Hoa mà còn có thể làm hại nhiều thế hệ tương lai , hại muôn đời như Lão Tử đã cảnh cáo ./.

Paris tháng 4 năm 2008

(VQT)
viethoaiphuong
#70 Posted : Thursday, June 5, 2008 6:36:05 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
Chị Cả Bống



"...Làm người lương thiện bây giờ vất vả quá... biết đâu đến một lúc nào đó những nhà tù kia mới chính là địa chỉ mà người lương thiện cần đến cho mình"

Truyện ngắn Chị "Cả Bống" xuất hiện đầu tiên trên báo Người Hà Nội, số ra ngày 8/6/05. Lập tức toàn bộ số báo bị tịch thu. Ông phó tổng biên tập cho in bài "nổi loạn" này bị mất chức. Tác giả bị công an hạch sách. Giá chợ đen của số báo đăng truyện này lên gấp chục lần giá thường. Chuyện gì thế? Đấy là một họat cảnh xã hội chúng ta hiện nay được tác giả khắc họa bằng những hình tượng khá "điển hình" trong hiện thực xã hội ngày hôm nay. Điểm lõi của hiện thực xã hội đó là nạn tham nhũng. Tham nhũng mọc rễ chằng chịt, đan xen nhau, móc ngoặc nhau thành một vòng vây kín những con người bình thường, hiền lành và lương thiện. Nhân dân ta có cần phải chịu đựng số phận như thế? (Xin lỗi bạn đọc về câu hỏi nhức đầu này. Bạn đọc xứng đáng được thư giãn trong suốt ngày Chủ Nhật)

ooo O ooo



Chiều tà, một người đàn ông phóng như ngựa phi nước đại về phía tây thành phố, nơi ấy có nhà tù với cái tên rất đẹp là "Hoà khí". Tới cổng gác, ông ta trình thẻ căn cước cho lính canh. Sau khi xem chứng minh thư, lính canh dẫn ông vào văn phòng nộp hồ sơ. Một người đứng tuổi đeo kính trắng nhận hồ sơ rồi bảo:

- Dẫn tới khu nhà chờ, đợi thẩm tra hồ sơ, ba tuần sau có kết quả.

Lính canh lại dẫn ông ta đi, khu nhà chờ gồm vài dãy nhà cấp 4 sập xệ và rêu mốc, rất đông người ở kín các gian phòng, đàn ông, đàn bà, lớn bé, già trẻ, đủ cả... Điều kiện sinh hoạt rất tồi tệ song không ai ta thán, đơn giản họ chỉ ở lại đây có vài tuần. Từ khi lập ra khu nhà chờ này không lúc nào vơi người. Ngày nào cũng có người đi lại, ngày nào cũng có người đến. Giống như người đàn ông kia, mọi người chờ thẩm tra hồ sơ, nếu đủ tiêu chuẩn sẽ được vào tù. Tiêu chuẩn đơn giản nhưng không phải không kỹ càng, chỉ những người lương thiện không dính tý lưu manh nào mới được vào tù. Tất nhiên lũ bất lương đừng hòng bén mảng tới.

Chẳng ai lấy làm ngạc nhiên, ở xứ xở này, không có chuyện gì là không xảy ra kể cả những chuyện ngược đời, đơn giản mọi người không những thích đùa mà còn đùa rất dai. 5 giờ rưỡi sáng, kỹ sư Hoàng thức dậy, vợ và đứa con trai mười tuổi của anh đang ngủ say. Đứa con gái 17 tuổi của anh đêm qua không về, chị giúp việc cũng đã dậy từ lúc nào, đèn dưới bếp hắt lên mấy vệt sáng le lói qua khe cửa. Mười phút cho việc vệ sinh cá nhân, 25 phút cho việc mở các loại cửa. Như mọi nhà trong thành phố, từ lâu anh đã biến căn hộ của mình thành một pháo đài. Các cửa sổ ngoài việc lắp chấn song bằng thép dày, còn được giằng ngang ba ống thép to bằng cổ tay, chia đều từ trên xuống dưới. Cửa đi cũng bằng thép đúc, bên ngoài dán một lớp gỗ mỏng. Tính từ trong ra đến cửa, còn năm lớp cửa như thế, tất cả đều có khoá đặc biệt, mỗi cửa gồm ba chiếc khác loại nhau. Mở đến lần cửa cuối cùng thì vợ con anh cũng vừa trở dậy. Những việc chuẩn bị cho một ngày mới diễn ra đã thành nếp. Sau khi dặn dò kỹ lưỡng chị giúp việc hai vợ chồng dắt xe đi làm. Chị kiêm thêm nhiệm vụ đưa con tới trường, chiều về ghé qua chợ mua thức ăn cho ngày hôm sau. Trước khi ra cổng, anh một lần nữa kiểm tra trên người vợ con xem có đeo bất cứ loại trang sức nào không, nhắc vợ cẩn thận kẻo bị cướp... Anh lại lần lượt khoá tất cả các cửa từ trong ra ngoài, trong lúc vợ đứng giữ xe. Đứng bên ngoài thò tay qua các lỗ cửa thực hiện những thao tác của người mù, mười phút nữa cho công việc ấy, xong xuôi vợ chồng con cái chia thành hai ngả phóng xe đi.

Kỹ sư Hoàng làm việc tại một cơ quan thiết kế gần trung tâm thành phố. Mới ngoài 40 mà tóc anh đã gần như bạc trắng, thằng con trai lớn 19 tuổi đang ở trung tâm cai nghiện, đứa con gái thứ hai 17 tuổi đua đòi chúng bạn bỏ cả học đi vũ trường thâu đêm, suốt sáng. Không phải vợ chồng anh không biết dạy con mà là bất lực. Con đường đời biết bao nhiêu cạm bẫy, nó gài khắp mọi nơi, mọi chốn, gài trên mỗi bước chân. Già đời chững chạc như vợ chồng anh, ngày nào cũng phải nhắc nhau từng tí một mà vẫn ngay ngáy lo rằng không biết lúc nào, cái bẫy nào sẽ ụp xuống mình đây ?

Kỹ sư Hoàng chợt lạnh người. Có tiếng còi nghe rợn tai, một cảnh sát giao thông bước quả quyết từ trên vỉa hè xuống đường vừa tuýt còi, vừa chỉ thẳng cái dùi cui vằn vện vào mặt anh, một cảnh sát khác ngồi vắt vẻo trên yên xe máy phân khối lớn sơn màu trắng. Chưa kịp hiểu mình có sai luật hay không anh vội đạp phanh, chiếc xe dừng tắp lại.

- Kiểm tra giấy tờ! Người cảnh sát vừa rút chiếc còi ra khỏi miệng vừa giơ tay lên mũ chào như một cái máy, vừa ra lệnh cho anh. Cầm giấy tờ của anh đưa cho anh cảnh sát ngồi trên chiếc xe phân khối lớn, anh cảnh sát ấy lại tiếp tục đút còi vào miệng cầm gậy trỏ xuống đường chọn bắt xe khác. Anh cảnh sát ngồi trên chiếc xe phân khối lớn, lướt qua đống giấy tờ của một anh khác. Không nói năng anh ta đưa mắt ngó lơ đi chỗ khác như thể chờ ai đến đọc giùm. Cũng như một cái máy, kỹ sư Hoàng dựng xe, móc bóp, rút ra một tờ đẹp đẽ vuông vắn có in hình lãnh tụ, bước tới chỗ anh ta.

Đến cơ quan, vừa kịp giờ làm việc, chuông điện thoại reo. Đầu dây bên kia là một thẩm phán toà án, người đang xử lý vụ kiện đòi nợ của cơ quan anh. Bằng một giọng rất lễ phép anh thẩm phán nhắc khéo anh rằng vụ kiện của cơ quan anh sẽ có thể bị đình chỉ vì phía anh chưa nộp chi phí cho việc thẩm tra. Nhân tiện anh ta nhắn rằng bữa nhậu chiều qua vì điện thoại cho anh không được mà anh ta và đám chiến hữu bên viện kiểm soát phải ký nợ nhà hàng một khoản kha khá, lúc nào anh ghé qua thanh toán giùm...

Chiều hôm đó về nhà, kỹ sư Hoàng chưa kịp mừng vì tin cô con gái đã trở về đang nằm bẹp trên gác thì đã nghe vợ mếu máo báo tin chiếc xe máy của chị bị cướp, mẹ con phải đi bộ về. Thực ra chị đã dối anh, chiếc xe máy đó chị đã buộc phải thế chấp để chuộc cô con gái từ cái động của một mụ tú bà, vì cô còn nợ mụ một khoản tiền vay mua son phấn với mức lãi 40 % một ngày. Thế coi như của đi thay người. Kỹ sư Hoàng chưa kịp phát điên lên vì giận dữ thì may quá nhà có khách. Ông trưởng khu phố và mấy cán bộ của Uỷ ban lừng lững bước vào:

- Chúng tôi đến nhắc anh về khoản đóng góp xây nhà tù - Ông trưởng khu vào đề ngay, nhân tiện báo để anh biết tháng trước có xe chở vật liệu đến đây, anh đã thuê thợ sửa nhà mà không xin phép. Uỷ ban đã nắm được việc này, nếu anh không thu xếp ngay thì sẽ bị lập biên bản thu giữ giấy tờ nhà, giấy tờ đất.

Kỹ sư Hoàng ngớ ra, quả thật tháng trước anh có thuê thợ lắp thêm một lần cổng nữa, phải xây mấy mét vuông tường, tưởng việc nhỏ, không phải xin phép, ai ngờ... Thôi đành "thu xếp" cho mấy vị trong Uỷ ban, nhưng còn khoản đóng góp xây nhà tù ?

- Can phạm bây giờ nhiều quá ông trưởng khu phố giải thích. Đấy anh xem, trong nhà gặp lưu manh, ra đường đụng kẻ cướp, đủ các kiểu ăn cướp; rồi còn lũ ăn trộm, lừa đảo cho vay nặng lãi, nhà tù nào cũng chật ních, phải xây thêm. Ngân sách không kham nổi phải áp dụng phương pháp "Nhà nước và nhân dân cùng làm". Phố ta được giao chỉ tiêu góp vốn xây 500 mét vuông nhà tù, thế mà ngẫm lại vẫn chưa đủ cho số tội phạm của chính phố ta đang nằm trong đó, chưa kể số sắp phải vào tù nay mai...

Đoàn cán bộ khu phố về được một lúc thì lão Tiến cụt giò đến, đó là một lão già vô tích sự nhà kế bên. Lão bị cụt một bên giò từ hồi chiến tranh, giờ sống bằng số tiền thương tật, thỉnh thoảng con cháu dấm dúi gặp chăng hay chớ cho thêm. Suốt ngày chẳng làm trò gì, chỉ hay la cà hết nhà này đến nhà khác kiếm câu chuyện làm quà. Nhà kỹ sư Hoàng là một trong những nơi lão hay mò đến. Lão dở hơi ấy liến thoắng như thể đã tỏ tường mọi chuyện:

- Họ đến đòi tiền đóng góp xây nhà tù phải không? Anh kỹ sư này tôi nói anh xem có đúng không nhé: - Làm người lương thiện bây giờ vất vả quá, phải góp tiền xây nhà tù cho bọn bất lương ở, lại còn phải nai lưng nuôi chúng nữa, trong khi bọn lưu manh ngày càng chiếm đa số, người lương thiện ngày càng giảm đi. Biết đâu đến một lúc nào đó, những nhà tù kia mới chính là địa chỉ mà người lương thiện cần đến cho mình. Khi ấy tất nhiên bọn lưu manh tha hồ ở ngoài, vì lương thiện bây giờ đâu có nhiều nhặn gì, vừa bắt chính bọn chúng phải nai lưng ra làm đề nuôi người lương thiện, như thế có phải là công bằng không ?

Kỹ sư Hoàng phì cười vì cái lý sự ấy của lão Tiến cụt, vừa lúc ấy, chuông điện thoại trong nhà đổ dồn, vợ anh nghe xong, mặt tái mét ra báo tin dữ:

- Anh tới ngay bệnh viện Chúng Sinh. Thằng Phúc con chị cả bị cướp giật té xe, chấn thương sọ não đang nằm cấp cứu trong ấy.

Chị Cả Bống là chị gái kỹ sư Hoàng ở dưới quê, anh chị có ba thằng con trai thì hai thằng lớn theo bố làm nghề xin đểu kiêm trấn lột ở bến đò Đuôi Cáo bị đâm lòi ruột, chết cả ba bố con từ năm kia. Cũng là cái số thôi. Làng khối người làm nghề ấy hoặc hao hao nghề ấy mà có sao đâu, chỉ thỉnh thoảng lại thấy đi ở tù, vài năm về còn lưu manh hơn trước. May còn lại một mình thằng út tên Phúc ngoan, hiền, học giỏi. Năm ngoái đỗ đại học lên ở ký túc xá. Nó thương cậu mợ Hoàng nghèo nên không muốn nhờ vả. Chị Cả bán hết mảnh vườn còn lại sắm cho nó cái xe máy cũ làm phương tiện đi lại. Hôm ấy đang làm cỏ ngoài đồng có người gọi về cái trạm điện thoại công cộng ở đầu làng báo tin nó bị nạn. Chị nghe nhắn lại mà muốn quỵ luôn xuống ruộng. Vội vã chạy về nhà, chị vét vội mấy bơ lạc, bơ gạo nếp cho vào mấy cái bao ruột tượng tất tả chạy ra bến đò Đuôi Cáo. Vừa mới mon men gạ bán ở các hàng quán quanh đó, bất ngờ gặp mấy anh quản lý thị trường, chị bị bắt vào trụ sở. Lạy van thế nào họ cũng không nghe, còn dẫn hết "nghị định 01" đến "thông tư 04" gì đó ra đọc sang sảng vào hai cái tai đã chỉ còn nghe thấy tiếng lùng bùng của chị. Kết quả mấy bơ lạc ấy bị tịch thu vì lý do bao bì không có nhãn hiệu hàng hoá!

Thật khốn khổ cho chị, chỉ do cuống lên vì đứa con cuối cùng còn sót lại đang gặp nạn, muốn bán tống bán tháo mấy món tài sản ít ỏi ấy cho thật nhanh để lấy tiền đi xe lên thành phố. Chứ có phải chị buôn gian bán lận gì đâu ? Còn tiền thuốc thang, nói dại, nếu nó bị nặng chị chưa biết sẽ trông vào đâu, một viên thuốc cảm bằng cái cúc áo bây giờ giá bằng ba bốn cân thóc. Giờ thì ngay đến việc lên nhìn mặt con cũng bị chặn đứng lại rồi. Không có tiền ai người ta cho chị đi xe hàng trăm cây số? Càng nghĩ chị càng quýnh quáng chân tay, cuống cuồng, đứng chôn chân một chỗ, đầu óc mụ đi, mắt ráo hoảnh, vô hồn nhìn phía trước như một bức màn sương... bỗng từ trong cái màn đục lờ ấy, một bóng trắng hiện ra quằn quại, máu bê bết hiện ra chập chờn lúc xa xa, lúc ập ngay trước mặt, gió lạnh quất gai người. Phảng phất màu tanh của máu tươi. Tai chị nghe rõ ràng tiếng kêu cứu của đứa con trai. Chị bàng hoàng nhận ra đó là tiếng rên từ địa ngục, tiếng của một âm hồn không còn ở cõi nhân gian này nữa:

- Mẹ ơi, con chết rồi. Họ đang mổ bụng con. Mẹ ơi...

Chị cả Bống hốt hoảng lao tới, giơ hai tay túm lấy bóng con, chợt cái bóng như có người giằng lấy, chập chờn quăng qua quăng lại trước mặt chị rồi mờ dần mờ dần, vẫn còn ri rỉ tiếng kêu cứu của oan hồn, rồi tất cả lịm đi. Cả tiếng kêu cứu lẫn cái bóng máu me chợt tắt ngấm bởi một tràng cười ré lên sằng sặc như của lũ ma quỷ nhưng không phải vọng lên từ địa ngục, tiếng cười ấy rõ ràng đang ở cõi nhân gian hiện hữu này...

Chị cả Bống sau này phát điên không về làng nữa, cứ lê la liếm láp ở quanh cái bến đò có cái tên rất ấn tượng là bến đò Đuôi Cáo ấy. Nhưng chị không điên ngay lúc đó, có người chứng minh là sau khi ra khỏi trụ sở ban quản lý thị trường chị vẫn còn tỉnh táo nhớ ra trong người còn sót mấy đồng tiền lẻ. Chị lần vào trạm điện thoại công cộng gọi điện báo cho cậu em trai. Đó là tất cả những gì chị làm được cho đứa con. Sau đó chị mới phát điên.

Kỹ sư Hoàng đến bệnh viện Chúng Sinh thì trời đã tối. Tìm tới phòng cấp cứu, anh hỏi thăm nạn nhân tên Phúc, cô hộ lý mặc blu trắng bảo:

- Biết ai là phúc với hoạ gì ở đây. Đi mà hỏi trực ban.

Phòng cấp cứu rộng mênh mông, đầy những giường là giường, giường nào cũng ít nhất hai người nằm trở đầu đuôi. Đủ các kiểu tai nạn, vỡ đầu, gãy chân, lòi ruột, lòi xương. Ánh đèn nê ông trắng bệch soi loang lổ những máu me bông gạc. Nồng nặc một thứ mùi vừa tanh tanh máu, vừa ngầy ngậy thuốc tây. Bóng những blu trắng đi qua lại giữa các giường như ma trơi. Làm sao nhận ra đứa cháu bây giờ ?

Kỹ sư Hoàng vội vã đến phòng trực ban. Phòng trực ban cấp cứu nằm cuối dãy hành lang đầy những kẻ nằm người ngồi vạ vật rất chi là bệ rạc. Trong phòng có mấy người cũng mặc blu trắng đang chụm đầu bàn bạc nhỏ to:

- Cái mật hôm trước bán vội quá. Ngay hôm sau có người tới trả cao hơn cả chục triệu, tiếc đứt ruột - một người nói

- Cái này đếch bán nữa, đem ngâm rượu. Hũ rượu trước hết con mẹ nó rồi. Mấy lão hen suyễn kinh niên uống vào là khỏi, để giành bán cho các lão ấy. Gớm họ vừa chi tiền vừa cám ơn rối rít ấy chứ - một người khác nói

- Thôi được rồi! Người thứ ba nói - các ông xuống làm ngay đi, thằng này căn cước ghi rõ ràng: - 19 tuổi. Đã kiểm tra, đảm bảo còn nguyên dương ( đàn ông chưa xuất tinh lần nào) chết do chấn thương sọ não vừa được mấy phút. Cái mật này mới tuyệt hảo, để quá hai tiếng có mà hỏng mẹ nó cả chì lẫn chài. Đã điện thoại cho bên công an rồi, họ bảo cứ mổ đi, có gì đừng "quên" họ là được.

Hai người kia vội vã đứng dậy lao nhanh ra khỏi phòng, vừa lúc ấy kỹ sư Hoàng bước vào:

- Bác sĩ làm ơn cho hỏi thăm nạn nhân tên Phúc, 19 tuổi, sinh viên năm thứ hai, nghe nói bị chấn thương sọ não có cấp cứu ở đây không, nằm giường số mấy? Tôi là cậu ruột cháu - kỹ sư Hoàng vừa hỏi vừa tự giới thiệu

Anh bác sĩ còn lại trong phòng thoáng một chút giật mình. Anh ta làm như nghĩ ngợi điều gì rồi ngập ngừng:

- Tên Phúc, sinh viên, 19 tuổi.. A... anh... à bác ngồi chờ cháu một lát.

Linh cảm thấy có gì nghiêm trọng xảy đến với đứa cháu, lại cứ tưởng anh bác sĩ kia vì thông cảm với nỗi đau của mình mà chưa nỡ nói ngay. Kỹ sư Hoàng vừa lo sợ vừa cảm động nhìn anh bác sĩ đang cúi gằm mặt, tay lần giở một cuốn sổ to tướng chậm rãi lần một hồi. Mồ hôi đã toát ra lấm tấm trên khuôn mặt đỏ như gà chọi, anh bác sĩ chợt ngẩng lên bảo:

- Trong sổ này không thấy có tên Phúc. Bác ngồi đây chờ cháu đi lấy sổ khác. Nhớ là đừng đi đâu đấy.

Nói xong anh ta gập sổ rồi vội vã ra khỏi phòng, không quên đóng sập cửa lại, còn một mình trong phòng, kỹ sư Hoàng lòng như lửa đốt. Bỗng chuông điện thoại reo vang, một hồi, hai hồi... chừng như người đầu dây bên kia có việc cần gọi cho bằng được. Kỹ sư Hoàng do dự giây lát rồi nhoài người với lấy cái ống nghe, định nói cho bên kia chờ lát nữa gọi lại. Vừa áp ống nghe lên tai, kỹ sư Hoàng chợt nghe ngay một giọng nói dằn từng tiếng:

- Trực ban cấp cứu phải không ? Bảo với pháp y rằng cái mật lần này tuyệt đối không được bán nghe chưa! Chú Sáu bên Uỷ ban đăng ký rồi đấy.

Kỹ sư Hoàng chưa kịp hiểu mô tê ra sao thì người đầu dây bên kia đã dập máy. Sau khi định thần suy nghĩ kết hợp với mấy câu cuối nghe được loáng thoáng lúc mới bước vào phòng, kỹ sư Hoàng chợt lạnh người với một nỗi nghi ngờ. Anh với cuốn sổ lúc nãy mở ra. Ngay giữa trang cuối cùng, rõ ràng có tên nạn nhân Nguyễn Hồng Phúc, 19 tuổi, sinh viên, té xe, nhập viện lúc... giờ... ngày - người đưa đến: Phạm văn A - bạn cùng lớp. Bỗng cánh cửa sịch mở, anh bác sĩ khi nãy ùa vào. Nhìn thấy cuốn sổ trên tay kỹ sư Hoàng, anh ta thoáng một giây bối rối rồi lập tức liến thoắng:

- Cháu quên không đọc trang cuối, đúng là có...

Anh ta chưa kịp nói hết câu kỹ sư Hoàng đã ngắt lời:

- Tôi biết hết rồi, anh không phải giải thích.

Rồi chẳng muốn nói gì thêm, nữa kỹ sư Hoàng ném trả cuốn sổ, hấp tấp lao nhanh ra khỏi phòng, anh bác sĩ hé cửa ngó theo, hơi lắc đầu, mỉm một nụ cười ý nhị rồi đóng cửa lại, ung dung quay vào. Chuông điện thoại lại reo, anh ta cầm lấy ống nghe:

- Dạ... dạ... à thế ạ... Báo cáo, xong xuôi cả rồi ạ. Thế thì chú nói chú Sáu chuẩn bị rượu tốt để ngâm, cháu sẽ bảo anh em mang sang ngay bây giờ ạ.

Kỹ sư Hoàng xuống đến nhà xác thì Phúc đã nằm trong ngăn lạnh. Một không khí thê lương sặc mùi tử khí. Nền nhà vương đầy những bó nhang cụt, những cục nến gãy, những mẩu giấy tiền vàng mã... làm quang cảnh nơi đây giống như vừa xảy ra một vụ cướp. Viên quản lý nhà xác nghe trình bày, quan sát anh từ đầu đến chân bằng cặp mắt âm u như cặp mắt quỷ rồi chẳng nói chẳng rằng, ông ta lừ lừ tiến đến kéo một ngăn tủ ra. Kỹ sư Hoàng lạnh toát người nhìn trân trân cái xác... "Đúng thằng Phúc rồi, chị Cả ơi, khổ thân chị quá"... Không giữ nổi bình tĩnh, anh khuỵu xuống gục đầu vào ngăn tủ. Mùi máu tanh tưởi ập vào giác quan. Anh chợt tỉnh, ngẩng phắt lên, lấy tay lật manh áo trước bụng đứa cháu... một vết mổ cẩu thả còn chưa khít miệng với mấy mũi khâu vội vàng, dúm dó :

- Các người đã mổ cháu tôi... các người đã... Tôi sẽ kiện, kỹ sư Hoàng gào lên trong nước mắt

- Híc... viên quản lý nhà xác cất tiếng, giọng cũng âm u như phát ra từ bụng gã:

– Tha hồ cho ông kiện, tất cả những cái chết bất đắc kỳ tử thế này đều phải mổ hết, luật pháp quy định như vậy. Hừ có mà điên mới đi kiện luật pháp. À mà tôi đã vi phạm nội quy khi cho ông xem xác, lấy gì chứng minh ông là người nhà bây giờ? Mời ông đi khỏi đây. Nói xong gã đưa tay đóng sập ngăn tủ lại.

- Nhưng tôi... kỹ sư Hoàng chưng hửng... vậy còn cháu tôi?

- Trước hết phải có giấy tờ chứng minh ông là người nhà của nạn nhân đã, rồi sau đó phải làm đầy đủ thủ tục mới mang được lấy xác ra khỏi đây. Mà ông định cõng xác trên lưng mang về hay sao? Viên quản lý lạnh lùng phán.

Kỹ sư Hoàng có vẻ hiểu ra những việc cần làm, anh thất thểu bước ra khỏi nhà xác gọi điện về nhà bảo vợ chuẩn bị căn cước, sổ hộ khẩu lên phường xin giấy chứng nhận rồi tìm đến một tiệm bán quan tài. Ông chủ tiệm quan tài có tên "Nhân nghiã đường" hăng hái đón khách. Chỉ vào đống quan tài đủ các kiểu loè loẹt đang bày la liệt, bảo kỹ sư Hoàng:

- Tuỳ bác chọn cái nào thì chọn. Bác cho biết địa chỉ, số nhà, giờ khâm liệm... chúng tôi sẽ cho người đến lo liệu.

- Không phải liệm ở nhà mà là ở nhà xác bệnh viện chúng sinh. Kỹ sư Hoàng ngắt lời.

- Thế thì không được rồi. Ông chủ Nhân nghiã đường lắc đầu - tôi không bán được cho bác đâu, cũng không làm gì được hết.

- Tại sao lại như thế ? Kỹ sư Hoàng kinh ngạc thốt lên,

chắc đây là lần đầu tiên nhà bác có người chết ở bệnh viện - ông chủ Nhân nghiã đường giải thích - bệnh viện có luật của họ, muốn lấy được xác ra phải có cửa. Quan tài mua tiệm nào do họ chỉ, khâm liệm, ma chay... tất tần tật do người của họ làm hết. Có thế họ mới ăn chứ, độc quyền mà.

- Té ra phải như vậy. Kỹ sư Hoàng cay đắng nghĩ rồi rời khỏi tiệm "Nhân nghiã đường". Quay lại chỗ nhà xác chờ một lúc lâu thì vợ anh mang giấy tờ tới. Mấy đứa bạn học của Phúc biết tin cũng đã tìm đến, mang theo nhang hoa và trái cây. Lúc này đêm đã gần khuya, mắt đỏ hoe vợ anh mếu máo:

- Ối anh ơi, vẫn chưa thấy tăm hơi chị cả đâu, em đến nhà ông chủ tịch nói mãi ông ấy mới ký cho cái giấy chứng nhận, lại vừa đóng lệ phí, vừa bồi dưỡng hết mấy trăm. Cháu nó nằm đâu để em vào thắp nén nhang cho cháu.

Kỹ sư Hoàng dẫn vợ và đám bạn của Phúc vào, trình mớ giấy tờ cho viên quản lý.

Gã này săm soi một lát rồi lắc đầu:

- Không được, trường hợp này công an còn phải điều tra, vả lại khi nãy ông còn định kiện tụng gì nữa cơ mà? Sáng mai đến giải quyết

- Chẳng lẽ để đứa cháu lạnh lẽo qua đêm không một chút khói nhang an ủi linh hồn ? kỹ sư Hoàng lúc này đã mụ mẫm hết tinh thần, cụt què cả ý chí, anh chỉ còn biết vớt vát như một cái máy:

- Tôi xin ông, ấy là tôi chót nhỡ mồm. Tôi không kiện tụng gì đâu. Mọi việc giao cho các ông "lo" hết. Chỉ mong sao mang cháu về nhà...

- Vậy thì về viết cam đoan đi, viên quản lý hạ giọng - nhưng cứ phải sáng mai mới giải quyết. Không có giấy của công an thì bố tôi cũng không dám giao xác cho các người.

Sáng sớm hôm sau, vừa thò mặt đến cổng nhà xác bệnh viện Chúng Sinh đã có mấy kẻ mặt mũi rất chi là khả nghi túm lấy kỹ sư Hoàng.

- Xác của bác là xác tai nạn giao thông phải không ? Giá chót tám triệu, chúng em lo mọi thủ tục chiều lấy xác ra... quan tài khâm niệm 12 triệu nữa bao trọn gói - một người trong bọn bảo:

- Tại sao lại phải đến chiều ? Làm ngay trong sáng nay không được sao ? kỹ sư Hoàng hỏi lại:

- Hì các bác này đúng là chưa "chết" lần nào. Phải đợi công an người ta hoàn tất hồ sơ chứ... một người khác giải thích - mà chúng em phải đưa bác đến làm tờ khai, chiều lấy được là con nhanh, với điều kiện phải có bồi dưỡng... không thì cứ đợi đấy.

Đám người ấy quả là thạo việc, rốt cục chiều hôm ấy kỹ sư Hoàng cũng đưa được xác đứa cháu về nhà sau khi đã được khâm liệm cẩn thận. Vẫn không thấy bóng dáng chị cả đâu, linh tính xảy ra chuyện chẳng lành, kỹ sư Hoàng bàn với vợ cùng mấy đứa bạn của Phúc trông nom nhang khói, để anh về làng đón chị Cả lên:

- Có mấy kẻ lạ mặt lảng vảng ngoài cổng nghiêng ngó hỏi thăm, mấy đứa bạn của Phúc chạy ra nghe ngóng rồi vào bảo:

- Mấy thằng cò nghiã địa bác ạ. Nó bảo đất chôn mặt tiền lối đi là 12 triệu, phía trong tám triệu, chưa kể tiền lo giấy phép chôn và công đào huyệt lấp đất xây mộ, tuỳ theo to nhỏ tính riêng. Nếu túng tiền thì chôn đứng. Chôn đứng rẻ hơn một nửa, tất nhiên đất rộng chỉ bằng 1/3. Nghiã địa bây giờ khối người phải chôn như thế, thành ra đầy những ma đứng, linh hồn đứng, đứng vĩnh hằng.



Vội vã phóng về quê, kỹ sư Hoàng hoảng hốt lạnh người khi hàng xóm bảo chị Cả Bống đã lên thành phố từ chiều hôm qua, mấy nhà khác thấy anh về đổ đến hỏi thăm. Có người chợt nhớ ra bảo:

- Sáng nay đi chợ thấy ở bến đò Đuôi Cáo có ai nhang nhác bác Cả Bống ấy. Hay là bác sang tìm thử xem.

Không kịp suy tính, kỹ sư Hoàng vội vã lao sang bến đò, tìm khắp các hàng quán hỏi thăm, ai cũng lắc đầu. Chợt anh nhìn thấy dưới bờ sông sát mép nước, một người đàn bà đầu tóc rũ rượi đang ngồi ném những nắm cát xuống dòng sông... kỹ sư Hoàng vừa nghi hoặc, vừa thận trọng tiến lại gần... "Ai như chị Cả? Anh cất tiếng gọi... một tiếng, hai tiếng... Người đàn bà chợt quay phắt lại... Đúng là chị, chị nhìn anh với đôi mắt thất thần, khuôn mặt răn reo, lem luốc cát. Bỗng chị lảo đảo lao đến, ôm chầm lấy anh, gào lên nức nở:

- Ối! Con ơi, con về với mẹ đây rồi, người ta cướp cái gì của con, con chết có đau không? Con về đây báo oán mẹ... mẹ không đến được với con... con ơi.



Cứ thế chị gào mãi, gào mãi, tiếng gào rợn cả một khúc sông. Kỹ sư Hoàng hai tay nâng khuôn mặt chị, miệng hoảng hốt nhắc đi nhắc lại: - Em đây mà, Hoàng đây mà!

Song chị đâu có nghe, đâu có thấy, chỉ một mực gào tên con... dần dần tiếng chị khản đặc chỉ còn như tiếng thở lào phào... Người chị bỗng lả đi, từ từ khuỵ xuống. Kỹ sư Hoàng quỳ xuống theo, hai chị em ôm nhau quỳ trên bãi cát, hoàng hôn bắt đầu buông, trăng chiều rực lên đỏ thẫm. Qua màn nước mắt, anh cảm thấy tất cả không gian như chìm trong biển máu, bên tai anh chợt vọng lên văng vẳng giọng nói của lão Tiến cụt hôm trước:



- Làm người lương thiện bây giờ vất vả quá... biết đâu đến một lúc nào đó những nhà tù kia mới chính là địa chỉ mà người lương thiện cần đến cho mình.


Phạm Lưu Vũ
viethoaiphuong
#71 Posted : Tuesday, June 10, 2008 12:38:00 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
  • Đây Đoan Túc Anh Hùng trong lòng tổ quốc mến yêu



    Thưa quý vị! Nhân dân làng Đoan Túc Anh Hùng cắm cờ ra đoạn đường tỉnh lộ 223 trước cổng UBND phường Tiền Phong, chứng tỏ nhân dân rất yêu tổ quốc Việt Nam.

    Xuất phát từ lòng yêu tổ quốc nhưng không chịu chấp nhận sống chung cùng lũ giun sán trong bụng tổ quốc tới nay đã gần 30 ngày ròng rãi nắng mưa đấu tranh tìm mọi yêu sách phương thuốc hữu hiệu, đặc trị để trừ khử tống lũ giun sán ra khỏi bụng tổ quốc. Cảm động trước lòng dũng cảm anh hùng, kiên cường, bền bỉ của nhân dân làng Đoan Túc. Nhóm phóng viên đấu tranh đòi dân chủ tự do tỉnh Thái Bình chúng tôi đang tìm cách cổ võ viết bài này cùng những hình ảnh để chuyển tới quý vị yêu dân chủ tự do, cùng bạn đọc. Khi chúng tôi đang thực hiện bài viết này thì một người dân điện thoại đến cho chúng tôi biết , lũ giun sán này đang có kế hoạch ra tay đàn áp giải tán đoàn biểu tình, cưỡng chế ông Phồn đang sinh sống ở Ủy ban phường Tiền Phong đã nhiều ngày nay do bị lũ công an bắt cóc sáng ngày 11/5/2008. Bị nhân dân phường bắt lại cả xe U oắt và ông Phồn đưa về ủy ban phường, Nay chúng ra biện pháp cưỡng chế ông phải về nhà. Người dân điện thoại cho biết nếu chúng không thực hiện những gì đã hứa với dân để giải quyết trả lại những gì chúng đã ăn cướp của dân, mà lại ra tay đàn áp cuộc biểu tình của nhân dân làng Đoan Túc thì có sáu chiến sỹ cảm tử vì dân sẵn sàng cùng ông Phồn sẽ nhảy từ lầu hai xuống đất tự sát để đòi lại những gì đã bị cướp để có được tự do dân chủ. Trước hành động dũng cảm kiên cường của bà con làng Đoan Túc, nhóm phóng viên đấu tranh đòi tự do dân chủ chúng tôi tha thiết khẩn cầu các quý vị cùng bãn hữu hãy quan tâm theo dõi cổ võ động viên tinh thần vật chất để bà con tiếp tục duy trì đấu tranh ra những điều kiện yêu sách bắt lũ ăn cướp phải cúi đầu nhận tội trả lại những gì đã cướp.

    Mặc dù rời ghế nhà trường gần một phần hai thế kỷ, song thầy, trò chúng tôi vẫn quý mến nhau như những thủa học trò. Nhân buổi chở thầy giáo cũ đi thăm một số bạn bè cùng trang nứa, qua UBND phường Tiền Phong, thành phố Thái Bình, tôi thấy loa, đài hát rất to, toàn những bài ca cách mạng như: “Dậy mà đi hỡi đồng bào ơi”, “Không cho chúng lối thoát”…. Ngoài cổng Uỷ Ban phía bên trái là một khẩu hiệu vải đỏ dài 4m, rộng 0,8m, chữ vàng to cắt ngay ngắn rất đẹp, nội dung khẩu hiệu là: “Toàn đảng, toàn dân, toàn quân phường Tiền Phong kiên quyết đấu tranh đòi công bằng xã hội” và “Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phường Tiền Phong kiên quyết chống tham nhũng đến cùng”. Bên phải là một tốp người (chủ yếu là phụ nữ) ngồi túc trực bên cạnh những xoong quân dụng cháo đang nghi ngút bốc hơi, toả mùi thơm man mát. Thấy cảnh lạ, tôi cùng thầy giáo dừng lại chiêm ngưỡng, một số người quen cho biết:

    Tại làng Đoan Túc, phường Tiền Phong, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình có thổ đất rộng khoảng 6.000m2 là sân bóng và là nơi dành cho các cháu cắm trại hè hàng năm. Khi tỉnh có chủ trương nâng cấp đường Lê Quý Đôn, Bùi Sỹ Tiêm mọi hoạt động của các cháu tạm dừng. Nâng cấp xong, mảnh đất được nằm giữa ngã ba hai đường giao nhau, thoáng mát trông rất đẹp nhưng lại bỏ hoang mấy năm trời như không có chủ và tự dưng sân bóng của các cháu biến thành bãi rác. Nhân dân làng Đoan Túc định tổ chức san phẳng, tiếp tục làm sân bóng và nơi cho các cháu cắm trại hè như nguyên thuỷ của nó. ý định đó không thành bởi: Một số người giữ lại nói rằng: lãnh đạo tỉnh đã chia lô bán hết cả rồi, những người mua chưa có điều kiện làm nhà nên còn để đó. Sau một thời gian tìm hiểu thấy: việc một số người cho rằng lãnh đạo tỉnh Thái Bình chia sân bóng của các cháu thành từng lô để bán là đúng. Không đồng tình với việc làm của các vị lãnh đạo tỉnh Thái Bình. Nhân dân làng Đoan Túc tổ chức họp xin ý kiến toàn dân kiên quyết tổ chức san lại sân bóng để có chỗ cho các cháu vui chơi giải trí, được toàn dân đồng tình ủng hộ.

    Tháng 9-2007, nhân dân làng Đoan Túc cùng nhau góp tiền thuê xe ủi, xe xúc và công nông tổ chức làm lại sân bóng cho các cháu. Cờ, băng khẩu hiệu, loa đài sáng cả một vùng. Lúc đầu lực lượng Công An ra cản không cho làm. Nhờ sức mạnh của toàn dân nên không lực lượng nào cản nổi. Công An dở trò đe doạ các chiến sỹ lái xe, nếu ủng hộ sẽ thu bằng. Lái xe không giám chở đồ phế thải đổ đi. Không vận chuyển được, dân đổ đất, rác hai đầu đường như hai quả núi, đường bị tắc, cuối cùng buộc họ phải cho xe vào chở đất, rác dọn đường cho khỏi tắc.

    Suốt ngày, từ sáng đến tối có người cầm loa chỉ huy tử tế và các bài ca cách mạng không lúc nào ngớt.. Sau khi đã dọn hết rác rưởi, dân tổ chức đổ cát san bằng làm sân bóng cho các cháu. Có những chú tài ủng hộ các cháu hàng chục xe cát. Hòm công đức được đặt giữa trung tâm, rất nhiều người ủng hộ. San xong sân bóng, có tiền công đức, nhân dân Đoan Túc xây tường bao quanh có cổng ra vào rất khang trang. Phía ngoài tường bao, các cụ đắp các phù điêu thể dục, thể thao rất đẹp. Và ngày 15-8 âm lịch năm 2007 (ngày tết Trung Thu) các cháu lại có sân cắm trại vui chơi như những thủa nào. Trẻ già trai gái Làng Đoan Túc tự hào đã làm được một việc đầy tính nhân văn cao cả và chưa bao giờ dân hô khẩu hiệu: “trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai” cả (!?). Tập đoàn quan tham trố mắt nhìn đành chịu mất mà không một kẻ nào giám đứng ra nhận đó là đất của mình đã bỏ tiền ra mua. Sau vụ đó, đến ngày hôm nay đã có 9 tên quan tham ngồi bóc lịch. Chín tên quan tham ấy, có thằng nào là quần chúng đâu (?!). Họ kể tiếp:

    Mấy tháng nay, không phải riêng nhân dân làng Đoan Túc mà nhân dân cả phường Tiền Phong đã nổi dậy biểu tình ngồi, rầm rộ nhất từ ngày 12-5-2008. Chuyện là: Ngày nào cũng vậy, nhân dân chúng tôi thường đi bộ vào buổi sáng rèn luyện sức khoẻ trong đó có ông Phạm Trung Phồn năm nay ông ngoài 70 tuổi. Mọi người vừa đi, vừa nói chuyện bình thường. Bỗng dưng có 2 thanh niên bịt mặt bắt cóc ông Phồn quăng lên chiếc xe Oát chạy, chúng tôi tập trung cản lại, yêu cầu lái xe đưa ông Phồn về UBND phường Tiền Phong. Thấy việc làm không bình thường, nhân dân phường Tiền Phong cũng như ông Phồn không đồng ý. Và cờ, băng khẩu hiệu, loa đài được đưa ra cổng UBND phường Tiền Phong cùng nhân dân tiếp tục ngồi đó túc trực, tổ chức nấu cơm, nấu cháo ăn uống tại chỗ và hòm công đức lại được đặt ra. Một hình ảnh vô cùng cảm động là: Một cụ bà hơn 80 tuổi, lưng còng, vì căm thù giặc nội xâm, trời nắng chang chang như vậy cụ vẫn ra đồng mò cua, bắt ốc bán được mấy đồng mang bỏ hòm công đức ủng hộ những người chống giặc nội xâm của phường Tiền Phong. Chỉ cần chi tiết đó chúng ta hiểu lòng dân thế nào ?!. Những thanh niên trai tráng, sức dài vai rộng nghĩ gì khi tập đoàn giặc nội xâm đã và đang tàn phá đất nước mà đến cụ già như vậy cũng phải đứng lên ?. Đáng buồn, lại có những thanh niên tự nguyện làm tay sai cho tập đoàn giặc nội xâm để hại nhân dân mà không hề biết hổ thẹn với chính lương tâm mình hay sao (?!). Nhân dân phường Tiền Phong tổ chức biểu tình ngồi, trước mắt chỉ yêu cầu các cấp chính quyền địa phương Thái Bình tập trung giải quyết mấy điểm cơ bản sau:

    - Ai là người ra lệnh bắt cóc ông Phồn, khi nào giải thích rõ, ông Phồn sẽ về và trước khi về phải đền ông Phồn một xe đạp, một ví trong đó có 10 triệu VNĐ.

    - Công khai cho nhân dân biết: Mua ruộng dân 21.000đ/1m2, bán 7 triệu VNĐ/1m2, số tiền đó ai thu, để đâu ?.

    - Cây xăng gần uỷ ban là của ai ?. Ai là người đã ký cấp sổ đỏ để hợp pháp hoá các loại đất do tập đoàn quan tham ăn cướp của nhân dân phường Tiền Phong trong đó có cả đất làm cây xăng ?

    Ông Chủ tịch UBND thành phố Thái Bình hứa sẽ cung cấp sổ đỏ cây xăng, nhưng không cung cấp. Hết thời hạn, nhân dân Tiền Phong đào hào, rào cây xăng lại không cho hoạt động.

    Xong các việc trên nhân dân phường Tiền Phong tiếp tục sờ đến đất nghĩa trang nhân dân bị bọn quan tham lấn chiếm, đào bới nhiều lần, làm người chết cũng không yên mồ. (Ghi theo lời kể của một người dân phường Tiền Phong xin dấu tên)

    Kết thúc câu chuyện, họ tặng tôi mấy bài thơ ca ngợi nhân dân Đoan Túc, xin mời các quý vị cùng tham khảo.

    Nhân dân phường Tiền phong thành phố Thái Bình cũng là một vùng quê đầy truyền thống, cũng có cánh đồng năm, mười tấn… “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, cũng đủ các thành phần tham gia cách mạng. Cuộc sống của những người nông dân nay vẫn chân chất như xưa, trung thực, thật thà, lương thiện, cần cù, lam lũ làm ăn, sống nhờ đất, chết cũng nhờ vào đất, nhưng nghèo vẫn hoàn nghèo !. Nhiều gia đình nông dân mất đất, mất ruộng lâm cảnh khốn cùng, khuynh gia bại sản. Ngược lại, từ ngày lên thành phố, lũ quan tham lợi dụng chức quyền chỗ đất nào đẹp, sinh lời chúng thi nhau cướp cho bằng hết, mua đi bán lại giầu lên trông thấy. Nghịch cảnh đó làm cho mâu thuẫn giữa Chính quyền với nhân dân ngày càng gay gắt và đảng đã mất hẳn chỗ đứng trong lòng nhân dân. Không chịu nổi cảnh bất công, nhân dân đành phải đoàn kết đứng lên đấu tranh làm cho ra nhẽ. Song, tất cả chỉ rơi vào tình trạng im lặng, làm ngơ nên mới dẫn đến nông nỗi này.

    Qua sự việc trên của nhân dân phường Tiền Phong, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình cũng như nhân dân thôn Me Điền, xã Hoàng Ninh, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang và nhiều địa phương khác đã và đang gánh chịu những cảnh ngộ tương tự. Đối chiếu với thời Thực Dân, Phóng Kiến mà chế độ Cộng Sản thường nhồi nhét cho chúng ta, tôi thấy: Chưa có chế độ nào dã man, tàn bạo đối với nhân dân như chế độ Cộng Sản Việt Nam. Tôi xin nêu một vài ví dụ.

    Đối với giai cấp nông dân: Thời Pháp thuộc, Nhật bắt dân nhổ lúa trồng đay, đảng lãnh đạo nhân dân chống lại. Nay chính đảng tổ chức cướp ruộng, đất của dân, xây các khu đô thị, sân gôn bán cao gấp hàng chục, hàng trăm lần trong đó có phần của các quan tham. Phát hiện được việc làm bất công đó, dân tự bảo nhau nổi dậy đòi lại những gì đảng cướp. Đảng cho quân đàn áp.

    Đối với giai cấp công nhân: (giai cấp mà đảng thường rêu rao là đội tiên phong của đảng). Làm việc cho các doanh nghiệp của Việt Nam một ngày từ 10 đến 12 giờ, thậm chí có nơi tới 14 giờ đồng hồ, một tháng giỏi lắm được nghỉ có 2 chủ nhật, lương bình quân theo giờ không thể vượt tiền triệu VNĐ. Bóc lột sức lao động của công nhân như vậy sao đảng không đứng ra lãnh đạo công nhân biểu tình đòi tăng lương, giảm giờ làm như thời Pháp Thuộc đảng đã từng lãnh đạo để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho giai cấp “tiên phong” của đảng (?!).

    Trong khi làm việc cho các doanh nghiệp nước ngoài, một tháng nghỉ đủ 4 chủ nhật, thậm chí có doanh nghiệp nghỉ tới 6 ngày và ngày làm việc đúng 8 giờ, ai làm thêm giờ nào được hưởng tiền của giờ đó. Lương của nhưng công nhân làm cho các doanh nghiệp nước ngoài nếu tính theo giờ thì cao gấp 2, gấp 3 lương của những công nhân làm cho các doanh nghiệp quốc nội. Mặt khác, trên các phương tiện thông tin đại chúng, không ngày nào là đảng không quảng cáo rùm beng đi lao động tại các nước Tư Bản lương thấp nhất 9 triệu VNĐ, cao nhất 27 triệu VNĐ một tháng và đã có lần tôi nói: Nếu các chiến sỹ dân chủ quảng cáo như vậy lập tức sẽ bị đảng cho quân bắt ngay vì can tội: ca ngợi CNTB, nói xấu CNXH, tù mọt gông (!). Ai bóc lột, ai tàn bạo các quý vị đọc giả tự bình.

    Đối với cán bộ, công chức, viên chức: (những người không thuộc loại dây rợ, ô dù) hưởng đồng lương chết đói đành bỏ việc, tự đi kiếm sống. Điển hình như ở thành phố Hồ Chí Minh, từ tháng 7-2003 đến tháng 12-2007 có tới 6.422 cán bộ, công chức, viên chức thôi việc. Ngày 30-5-2008 UBND thành phố HCM còn cho biết khối giáo dục 3.000 người bỏ việc, khối quản lý Nhà nước 700 người thôi việc….

    Nếu cứ đem sự bất công của chế độ mục ruỗng, thối nát này để chứng minh thì có lấy nước biển đông làm mực, lấy tre Việt Nam làm bút cũng không chứng minh hết sự gian ác của chế độ Cộng Sản đương thời. Tôi xin nêu một vài ví dụ để những người có lương tâm ở quốc nội thức tỉnh, không nên mơ muội mãi nữa.

    Hãy học tập Me Điền, học tập Tiền Phong, nhân dân cả nước cùng nhau đoàn kết xuống đường biểu tình rầm rộ hơn nữa đòi ĐCSVN diệt giặc nội xâm cứu nhân dân Việt Nam thoát khỏi cảnh nghèo nàn, tụt hậu….

    Chúng tôi, lực bất tòng tâm, đang bị chính chế độ này cướp hết, không có gì để ủng hộ nhân dân, chỉ có những tiếng nói từ đáy lòng mình kêu gọi những ai còn chút lương tâm hãy mau mau đứng dậy giúp nhân dân Việt Nam diệt giặc nội xâm. Để cứu nhân dân thoát khỏi cảnh lầm than do chính chế độ Cộng Sản Việt Nam độc tài, phát xít gây nên !.



    Đả đảo tập đoàn giặc nội xâm bán đất, bán nước, hại dân, cam tâm làm nô lệ cho ngoại bang, để đất nước tụt hậu, hạ nhục dân tộc Việt Nam !.

    Tự do - Dân chủ - Đoàn kết muôn năm !.

    Dân tộc Việt Nam bất diệt !.

    Tổ Quốc Việt Nam muôn năm !.



    Ngày 07 tháng 6 năm 2008



    Trần Anh Kim

    ủy viên Trung ương Đảng Dân Chủ Việt Nam.

    Thành viên Ban điều hành khối 8406 tại miền Bắc. Do nghe đảng, đấu tranh chống tham nhũng, nên bị đảng cướp trắng tay tất cả !. Hiện tại, đảng đang gây rất nhiều khó khăn, tìm mọi biện pháp cản trở, không cho tiếp xúc với nhân dân.

    Kiên quyết đấu tranh đòi Tự do - Dân chủ - Nhân quyền cho dân tộc Việt Nam. Cùng nhân dân lần lượt vạch trần bộ mặt bẩn thỉu của tập đoàn giặc nội xâm đã và đang phá hoại đất nước, trừ hiểm hoạ cho dân !. Kẻ nào bao che cho giặc nội xâm. Chính kẻ đó, là giặc nội xâm !.



    Địa chỉ liên lạc:

    SN: 502,phố Trần Hưng Đạo, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình Việt Nam.

    Tel: 036642818 và mạng bị ĐCSVN lãnh đạo Công An tỉnh Thái Bình cắt.

    Mobile: 0936669296.









    Kính tặng nhân dân Đoan Túc Anh Hùng !



    đoan túc anh hùng



    Đoan Túc anh dũng tuyệt vời,

    Hiên ngang đứng giữa đất trời chống quan.

    Đoan Túc thuộc phường Tiền Phong,

    Căm thù giặc nội, quyết không sá gì !.

    Thái Bình kiểu này thiếu gì ?,

    Đang ruộng hai lúa, tức thì bỏ không (!).

    Như Hoàng Diệu - Như Phú Xuân !,

    Mua dân hai mốt, bán tăng rất nhiều (1) !.

    Toàn dân hãy đứng lên mau,

    Cùng dân Đoan Túc diệt loài quan tham.

    Loa đài, Dân phát oang oang (2),

    Cờ, băng khẩu hiệu, sáng choang một vùng !.

    Hoan hô Đoan Túc Anh Hùng,

    Vạch mặt lũ khùng - để cứu dân đen.

    Xây Chính quyền mới đàng hoàng,

    Góp phần lập lại kỷ cương nước nhà !



    Mùa Thu 2007



    (1) - Mua của dân 21.000đ//1m2, bán 7 triệu VNĐ/1m2 vào túi ai không biết !.

    (2) - Loa tích cực hát bài: “Dậy mà đi hỡi đồng bào ơi”



    đoan túc tiên phong



    Đoan Túc, đích thực Tiên phong !,

    Trị quân giặc nội quyết không sá gì.

    Từ phụ lão, đến thiếu nhi,

    Cùng nhau đoàn kết, quyết đì quan tham.

    Lập trường, ý chí vững vàng,

    Quyết làm trong sạch vẻ vang quê nhà.

    Chính quyền toàn lũ ranh ma,

    Ăn cháo đá bát, gian tà nhiễu nhương.

    Nhiều năm, Dân bị coi thường,

    Nay không chịu nổi, quyết vùng đứng lên.

    Quân tham nhũng, vãi ho hen,

    Run như cầy sấy, hết đường chối quanh !.



    Mùa thu 2007













    đứng lên thôi

    hỡi đồng bào ơi !





    Đoan Túc tiên phong đứng dậy rồi,

    Nhiều nơi tương tự đứng lên thôi,

    Trị quân giặc nội đòi quyền lợi,

    Dân chủ - Nhân quyền đã đến nơi !.



    Đánh giặc nội xâm phải kiên trì,

    Bền gan, vững chí - chắc từng ly (1),

    Quyết không nhân nhượng quân tàn bạo,

    Toàn Dân đoàn kết đứng lên đi.



    Giặc nội tan rồi - Dân hợp lại,

    Đoàn kết cùng nhau dựng tương lai,

    Việt Nam rạng rỡ cùng nhân loại,

    Hát khúc khải hoàn mãi không phai !.



    Mùa thu 2007



    (1) Giặc nội xâm rất dã man, tàn ác nên mọi việc làm phải hết sức chắc chắn không được sai sót một li !.
  • viethoaiphuong
    #72 Posted : Tuesday, June 10, 2008 7:50:56 PM(UTC)
    viethoaiphuong

    Rank: Advanced Member

    Groups: Registered
    Joined: 6/24/2012(UTC)
    Posts: 9,342
    Points: 11,181

    Thanks: 761 times
    Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
    Bài Ca Dữ Dội Một Ngày Rền Vang



    Nguyễn Việt Khanh

    Tâm Thức Việt Nam

    Jun 11, 2008



    Ta theo triệu người cùng tiến

    Cất nỗi niềm riêng

    Dong ruỗi bước đường

    Vươn cao tay theo tầm vóc quê hương

    Ngày nắng đêm sương

    Lừng lững giữa chiến trường

    Cây lá theo đường cũng không biết chùn chân

    Nương theo bước tiền nhân

    Đem tuổi thanh xuân mài gươm cứu nước



    (Đường Kháng Chiến Đi Qua, Kcq Võ Hoàng, 1985)



    Từ cổ đến kim, trong bất cứ một chế độ nào, sự thành công và phát triển của dân tộc, đất nước cũng tùy thuộc vào khả năng tài trí, đức độ của người lãnh đạo và sự vận hành của guồng máy nhà nước. Mọi thể chế, từ quân chủ, quân chủ lập hiến, độc tài quân phiệt, độc tài quốc xã, cho tới dân chủ vân vân, đều có những ưu khuyết điểm trong công việc điều hành xã hội từng giai đoạn. Sự sụp đổ của những thể chế nói trên là do đã không giải quyết được những vấn đề xã hội căn bản trầm trọng, vấn đề phúc lợi con người. Sự sụp đổ trong những thể chế này tuy nhiên thường tạo điều kiện giúp đưa xã hội đi lên trong một bối cảnh sinh hoạt khá hơn do những bài học kinh nghiệm từ người trước. Riêng thể chế cộng sản thì từ ngày xuất hiện rồi sụp đổ, sau hơn 70 năm, tại thành trì vô sản Liên Sô, người ta không nhìn thấy được một bài học đáng giá nào giúp đưa những đất nước này đi lên. Mà ngược lại, chỉ thấy những hậu quả tiêu cực xã hội, khi các đất nước này biến thái đi vào kinh tế tư bản qua các ngõ man rợ, phi nhân nhất.


    Trung Quốc, sau trên dưới hai thập niên thực sự chuyển sang tư bản độc tài đã cho thế giới thấy sự tương phản giữa tình trạng giàu sang huy hoắc của thiểu số nắm quyền trên cao với đại đa số dân nghèo lạc hậu ở dưới và một tầng lớp công cụ trung gian khống chế xã hội theo cung cách mafia. Việt Nam, chế độ cầm quyền thực sự biến thái từ trên dưới một thập niên qua, đã lộ ra đầy đủ những đặc điểm nói trên của Trung Quốc cộng thêm một tính nổi bật, đó là tư thế tay sai các thế lực tài phiệt của tập đoàn lãnh đạo.


    Sau 33 năm đảng cộng sản Việt Nam cai trị toàn bộ đất nước Việt Nam, những mặt trái của chế độ thống trị đã được phơi bầy. Những sự thật về chế độ cũng đã giúp loại bỏ các huyền thoại “đỉnh cao trí tuệ, anh hùng dân tộc, hay tính ưu việt của đảng.” Trước kia bản chất tay sai của đảng cộng sản Việt Nam được dấu kín dưới chiêu bài thi hành nghĩa vụ quốc tế vô sản, giải phóng thế giới khỏi ách tư bản, đi lên thế giới đại đồng không biên giới, không còn cảnh người bóc lột người. Những bí mật cung đình Hà Nội về sau bị tiết lộ trong quá trình biến thái từ cộng sản toàn trị sang độc tài tư bản do những tranh giành quyền lợi phe nhóm, đã chỉ ra tất cả những nhóm tay sai của tài phiệt lớn nhỏ, từ Á sang Âu sang Mỹ. Trước kia, Hoàng Sa Trường Sa, lãnh đạo CSVN nhượng cho TQ trong tinh thần thi hành thế giới cộng sản không biên giới. Ngày nay lãnh hải lãnh thổ và các vùng đất lớn nhỏ trên toàn quốc và mới đây trong tiến trình mở rộng Hà Nội đã cho thấy sự bán đất bán nước trắng trợn của lãnh đạo chỉ để giữ chiếc ghế đồng thời vơ vét thêm cho đầy túi tham.

    Trong giai đoạn đầu bấp bênh biến thái của chế độ, từ cuối thập niên 1980 đến đầu thập niên 2000, trong nước đã vang lên những tiếng nói phản kháng, cảnh báo hay lo ngại từ những người ở cùng trên một chiếc tàu sắp chìm. Trong hàng lãnh đạo tôn giáo, có các thượng tọa Thích Quảng Độ, Thích Huyền Quang, các linh mục Nguyễn văn Lý, Phan văn Lợi, Nguyễn Hữu Giải, vân vân. Từ trong guồng máy đảng, có các thành phần thuộc cán binh, đảng viên, trí thức, và văn nghệ sĩ như Nguyễn Hộ, Trần Độ, Dương Thu Hương, Lê Chí Quang, Hà Sĩ Phu, vân vân… Tất cả đã gây nên những xao động, cảm xúc mãnh liệt nơi tâm tư người Việt hải ngoại. Và đã nẩy sinh ra một tâm thức hải ngoại mạnh mẽ hỗ trợ những con người được kể là can đảm vì đất nước vì dân tộc, đang sống trong sự trấn áp của chế độ mà vẫn dám lên tiếng.


    Ngày nay dưới sự trấn áp, đe dọa hay mua chuộc của lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam, những tiếng nói phản kháng kể trên, hoặc đã không còn, đã xoay chiều, hay bị yếu đi, nhưng sự xuất hiện tự phát không dàn dựng và bất ngờ của những thành phần đấu tranh phản kháng nói trên trong một giai đoạn đặc biệt của quá khứ trước sự sững sờ của đảng cộng sản Việt Nam, ít nhiều cũng đã góp phần thổi lửa, đưa cao tâm thức triệt để đấu tranh vì dân tộc của người Việt yêu nước trên toàn thế giới.


    Tuy nhiên ngày nay không phải vì có ít hay không có những sôi nổi phản kháng hay quan tâm như trước đây ở trong nước mà những vấn nạn VN đã được giải quyết từ căn bản và mọi vấn đề đã yên lành tốt đẹp. Đức tăng thống Thích Huyền Quang và đại lão hoà thượng Thích Quảng Độ vẫn từ tốn nói lên những điều thực tế cần nói, vẫn tiếp tục đi theo con đường cứu khổ ngay tại cõi đời thực tại, thực hiện tâm Bồ Tát đạo của Phật giáo Việt Nam nhập thế. Ngay cả Bùi Tín, nhà chính trị thời cơ biết tùy thực tế mà thay đổi lời nói, trong bài viết mới đây “Nông thôn Việt Nam : từ thở dài đến tiếng thét,” cũng đã nói lên sự phản bội quần chúng nông thôn của lãnh đạo đảng CSVN. Và Nguyễn Phương Anh, một thành viên của khối 8406, người đã làm cho cả khối bị nghi ngờ vì quan điểm Hồ chí Minh “chín điều đúng một điều sai” của ông ta, trong bài viết mới đây “Phong thủy tán dóc” nhân quyết định mở rộng Hà Nội của lãnh đạo biến thái đã đặt câu hỏi “Nhưng sự chuyển đổi triều đại này có suông sẻ hay tàn nhẫn? Chẳng lẽ nhà thơ Trần Mạnh Hảo lại nói đúng trong cuộc chiến chống giặc nội xâm này: "Tổ Quốc yêu Người phải lấy máu mà yêu!".”


    Rõ ràng ngày nay, những người lãnh đạo biến thái CS chỉ còn có cách dùng mê tín và ngôn ngữ khoa trương để tự ru và thuyết phục quần chúng. Nguyễn Tấn Dũng vào ngày 29 tháng 5/2008, khi nói về chuyện mở rộng Hà nội gấp ba, một đề án giúp các cấp quyền lực vơ vét tiền và biến đất trở thành vàng, đã phát biểu như sau : "Tựa vào dãy núi Ba Vì và hướng ra dòng sông Hồng, Hà Nội sẽ luôn giữ được thế rồng cuộn hổ ngồi”



    Khi những người đổi mầu như Nguyễn Phương Anh và Bùi Tín mà giờ đây mới viết về sự tâm ý người dân, thì người hải ngoại không thể không khỏi nghĩ đến nhà thơ Võ Hoàng, người đã đi đấu tranh và đã hy sinh cách đây 20 năm, đã để lại cho hậu thế những vần thơ hào hùng khẳng khái trước cảnh nước mất nhà tan:



    Ta tuổi trẻ đường dài

    Phải dài như đất nước

    Đất nước hôm nay, đất nước mai sau

    Đường kháng chiến đi mau

    Bỗng giật mình người theo nhau rầm rập

    Những con người tình cờ bắt gặp

    Hối hả bước đi theo kịp đấu tranh....



    (Đường Kháng Chiến Đi Qua, Kcq Võ Hoàng, 1985)


    Và tâm huyết của ông cũng đã hừng lên, đã sôi nổi trong ước mơ một ngày rồi sẽ tới :



    Bừng con mắt cỏ cây đổi sắc

    Người người xuống đường giết giặc bằng tay

    Ào ào một cuộc đổi thay

    Bài ca dữ dội một ngày rền vang…(1)



    [Ngủ đi em, mai sáng lên đường, Kcq Võ Hoàng, 1985]


    Tóm lại, lịch sử Việt Nam đã làm nên bởi những con người với tinh thần không thắng giặc hôm nay thì sẽ thắng ngày mai, chứ không bởi những con người thấy thế giặc mạnh thì lại bước đi theo giặc.



    Nguyễn Việt Khanh

    Ngày 10 tháng 6 năm 2008
    viethoaiphuong
    #73 Posted : Monday, June 16, 2008 4:13:13 PM(UTC)
    viethoaiphuong

    Rank: Advanced Member

    Groups: Registered
    Joined: 6/24/2012(UTC)
    Posts: 9,342
    Points: 11,181

    Thanks: 761 times
    Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
    CẢM ƠN NHỮNG TẤM LÒNG

    Giữa sa mạc vẫn còn đôi bóng lá
    Vườn nhân gian còn những cụm chân tình
    Đêm lưu lại giọt sương chưa hóa đá
    Cho hoa hiền hàm tiếu nụ bình minh

    Cảm ơn nhé, hỡi tình người chân thật
    Không lọc lừa, không hiểm độc, điêu ngoa
    Không ganh ghét, không môi đường lưỡi mật
    Không sau lưng sắc lẻm ánh dao loà!

    Cảm ơn nhé, hỡi tấm lòng hiếm qúy
    Cho ngàn năm còn ngan ngát hương bay
    Cho tất cả những mọn hèn nhân thế
    Không bợn nhơ vẩn đục kiếp lưu đầỵ..

    Cảm ơn nhé, trái tim ai vằng vặc
    Làm tan đi khoảnh khắc bóng mây cuồng
    Ôm chữ nhẫn, ta từ tâm vuốt mặt
    Thương cho người còn bỡ ngỡ qua truông!


    Ngô Minh Hằng
    viethoaiphuong
    #74 Posted : Monday, June 23, 2008 12:13:45 AM(UTC)
    viethoaiphuong

    Rank: Advanced Member

    Groups: Registered
    Joined: 6/24/2012(UTC)
    Posts: 9,342
    Points: 11,181

    Thanks: 761 times
    Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
    Trăng Viễn Xứ

    Trăng viễn xứ đêm nay buồn không ngủ,
    Gió biên thùy hừng-hực lửa đau-thương,
    Chòm sao khuê thao thức suốt đêm trường,
    Nhìn cây cỏ nghiêng vai tìm mộng-ảo.

    Nắng quê mẹ bâng-khuâng mùi dã thảo,
    Rong rêu buồn tưởng nhớ dấu chân đi,
    Đếm sầu thương từ một buổi phân ly,
    Làn tóc rối giăng mây về núi nhớ.

    Tôi ép rượu làm thơ sầu biệt xứ,
    Để mong chờ ngày lấy lại quê hương,
    Mỗi ngày qua là mỗi bóng tà dương,
    Hoàng hôn tắt, sương chiều sa như lệ.

    Nếu ngày mai em về thăm quê mẹ,
    Xin cho tôi thăm hỏi một đôi lời:
    Nước Hồ Gươm bao năm còn vẩn đục?
    Đến bao giờ chim Quốc hết kêu thương?

    Trần Tú Uyên
    2008

    viethoaiphuong
    #75 Posted : Monday, June 23, 2008 5:06:55 PM(UTC)
    viethoaiphuong

    Rank: Advanced Member

    Groups: Registered
    Joined: 6/24/2012(UTC)
    Posts: 9,342
    Points: 11,181

    Thanks: 761 times
    Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
    Im Lặng Mãi Sao ? Xin Cùng Lên Tiếng

    Văn Đạt.



    Nhân cái gọi là ngày nhà báo Việt nam 21-6. Với tư cách là một người cầm bút luôn quan tâm đến đời sống báo chí, xuất bản trong nước, Tôi xin có đôi dòng tâm sự.

    Từ khi biết mặt chữ. Lại được các thầy cô giảng giải ý nghĩa to lớn của những người biết sử dụng con chữ mà lấy làm mừng. Rằng : Trong ba đạo tạo nên thiên hạ thì có đạo lập công, đạo lập nghiệp và đạo lập ngôn. Tôi đoan chắc là những người cầm bút sẽ vinh dự được đứng trong cái đạo lập ngôn đáng trọng ấy. Vì thế mà ngày đêm tôi mơ ước phấn đấu cầm bút để trở thành môn đệ của đạo này. Nhưng rồi nghe trong dân gian lan truyền câu "Nhà văn nói láo, nhà báo nói điêu" mà lấy làm lạ. Liệu sự mỉa mai như chửi vỗ mặt này có oan cho những người cầm bút không ? Tôi quyết tâm tìm hiểu cho ra nhẽ.

    Bài báo đầu tiên của tôi được đăng trên một tờ báo đảng cấp tỉnh. Hồi ấy tôi vừa học xong cấp II (lớp 7). Với giọng văn hồn nhiên trong sáng và cảm xúc chân thành. Tôi tường thuật khách quan tinh thần tự nguyện khẩn trương phòng chống bão lụt của bà con ở một làng làm muối. Nhờ vậy mà khi cơn bão lớn kéo đến hoành hành. Bà con đã hạn chế đến mức thấp nhất sự thiệt hại do thiên tai gây ra. Điều cốt lõi của phóng sự ngắn này, tôi muốn gửi đến bạn đọc là khi con người biết tự nhận thức, tự nguyện đoàn kết sát cánh bên nhau để chống chọi lại sự tàn phá khắc nghiệt của thiên nhiên thì "Nhiều khi nhân định thắng thiên là thường". Vậy mà khi in bài của tôi lên báo, ai đó đã thêm vào một chi tiết không có thật khiến tôi "Mừng vui chưa kịp no" đã phải đỏ mặt xấu hổ. Rằng trong mưa bão mịt mùng, có đồng chí bí thư chi bộ đảng không quản nguy hiểm xông ra gõ kẻng thúc dục bà con chống bão. Là phóng sự thì phải có con người địa chỉ cụ thể. Đọc xong bài báo, bà con địa phương nơi tôi viết bài phán thẳng :

    - Mày viết láo vừa vừa chứ.

    Thực sự là tôi bị tổn thương. Oan cho tôi quá. Trong cay đắng xót xa, tôi nhận ra nguyên nhân câu "Nhà báo nói điêu" là thế này đây. Lỗi do ban biên tập mà ban biên tập là người của đảng- chỉ cần khịa ra một bí thư chi bộ đảng cha vơ chú váo nào đấy ra gõ kẻng. Mọi sự tốt đẹp của bà con nhân dân bị xoá nhoà. Bài viết của tôi mất đi giá trị chân thật của cuộc sống. Nó trở thành những lời tuyên truyền dối trá nhằm ca ngợi phục vụ đảng. Mà trong cách tuyên truyền của đảng thì trên tài tất cả bọn lưu manh.

    Mất mùa thì tại thiên tai
    Được mùa nhờ sự thiên tài đảng ta.

    ***

    Nhắc lại kỷ niệm bài báo đầu tiên cũng là một kỷ niệm buồn. Tôi thành thực muốn chia sẻ thông cảm với những người cầm bút làm báo dưới chế độ độc tài. Hiến pháp năm 1946 đã có điều khoản thừa nhận quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí. Vậy mà suốt mấy chục năm qua, đảng đã nói một đằng làm một nẻo. Thậm chí đảng chà đạp lên hiến pháp một cách trắng trợn. Có người cầm bút nào lại không nhận ra điều đó. Nhưng không hiểu sao chúng ta lại im lặng, im lặng cam chịu một cách đáng sợ. Trừ cái bọn lưu manh bồi bút ra- còn không ít những người cầm bút chân chính lại thản nhiên từ bỏ quyền lợi và trách nhiệm của mình. Nên hiểu vấn đề này như thế nào đây. Đổ lỗi cho đảng và nhà nước là đúng. Nhưng khi đảng và nhà nước trả lời : Hiến pháp đã quy định rồi các vị cứ thế mà thực hiện thì sao đây ? Có ai đã từng chất vấn lương tâm mình ? Có ai đã đặt trách nhiệm cho mình với đất nước dân tộc - Thú thật là tôi lấy làm khó hiểu.

    Có một thời báo chí chúng ta hết sức sôi động và đầy sinh khí "Cái đêm hôm ấy đêm gì" của Phùng Gia Lộc. "Vua lốp- lời khai của bị can Trần Huy Quang". "Thủ tục cho người còn sống" của Minh Chuyên (báo Văn Nghệ) "Người vô danh" của Hồ Hồng Tuyển và một loạt phóng sự của tác giả Xuân Ba (báo Tiền phong) "Quê tôi lên cơn sốt đá đỏ" "Trở lại vùng mỏ đá buồn" của Trần Đức Thạch (báo Lao động). Loạt bài viết gõ vào tư duy mọi người của nhà báo Nguyễn Khắc Viện trên rất nhiều báo.... Vậy mà chúng ta để cho không khí ấy nguội lạnh. Có người nguỵ biện rằng " Những bức xúc xã hội đã bị lờn và bão hoà". Phải chăng đây là biểu hiện của thái độ vô cảm. Cuộc sống luôn vận động. Mâu thuẫn xã hội diễn ra gay gắt nhất là xã hội nước ta. Chính quyền thối nát tham nhũng từ trung ương đến địa phương. Bọn tư bản đỏ và mafia gieo rắc oan khiên tội ác khắp nơi. Đất, biển, đảo của cha ông bị lấn chiếm. Lịch sử đại việt chưa bao giờ tăm tối như giai đoạn này. Thế mà những người có vinh dự đứng trong đạo lập ngôn lại im hơi lặng tiếng. Hoàng sa Trường sa bị biến thành huyện Tam sa Trung quốc- im lặng !. Đồng bào ngư dân Thanh hoá bị tàu hải quân Trung quốc bắn giết dã man nơi vùng biển quê nhà - im lặng !. Nông dân bị đàn áp từ xã Tiền phong Thái bình, xã Dương nội, Thành phố Hà đông, thôn Trung văn Huyện Từ liêm Hà nội... khi biểu tình đòi lại đất - im lặng !. Hàng ngàn hàng vạn công nhân bị bóc lột đánh đập thậm tệ - im lặng !. Chị em phụ nữ chúng ta bị bán ra nước ngoài làm nô lệ - im lặng !.. Thậm chí đồng nghiệp của chúng ta bị bắt bớ vô lý cũng im lặng nốt.

    Xin hãy quên đi những phần thưởng mà đảng và nhà nước trao tặng nhân ngày này. Thành tích cùng đảng lừa dân bán nước chẳng mấy hay ho gì. Nó nhục nhã và mỉa mai lắm.

    Im lặng lắm khi là đồng loã với tội ác. Tôi hy vọng những người cầm bút chân chính sẽ bừng tỉnh- Đoàn kết xiết chặt đội ngũ cùng lên tiếng. Đòi lại quyền lợi chính đáng được hiến pháp ghi nhận và thực hiện sứ mệnh cao cả của đạo lập ngôn. Góp phần tạo dựng một xã hội Việt nam tốt đẹp tươi sáng.

    Trong bài có gì bức xúc quá, tâm sự không được bình tĩnh mong quý vị thứ lỗi.

    Hà nội , 21-6-2008.
    Văn Đạt.
    viethoaiphuong
    #76 Posted : Wednesday, July 16, 2008 6:28:29 AM(UTC)
    viethoaiphuong

    Rank: Advanced Member

    Groups: Registered
    Joined: 6/24/2012(UTC)
    Posts: 9,342
    Points: 11,181

    Thanks: 761 times
    Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)

    Lời tự thuật của tác giả 1 bài thơ nổi tiếng.

    Mời các bạn đọc lại bài thơ nổi tiếng của 1 thời đại đáng nhớ của dân tộc do lời thuật thật cãm động của chính tác giả.





    Tôi sinh ra trong một gia đình nghèo,hồi nhỏ không có cơ may cắp sách đến trường như bọn trẻ cùng trang lứa,chỉ được cha dạy cho dăm chữ bữa có bữa kô ở nhà . Cha tôi tuy là tá điền nhưng tư chất lại thông minh hơn người. lên trung học,theo ban thành chung tôi cũng học tại Thanh Hóa, kô có tiền ra Huế hoặc Hà Nội học . đến năm 1938 - lúc đó tôi cũng đã 22 tuổi- Tôi ra Hà Nội thi tú tài, để chứng tỏ rằng con nhà nghèo cũng thi đỗ đạt như ai. Tuyệt nhiên tôi kô có ý định dấn thân vào chôn quan trường. Ai cũng biết thi tú tài thời Pháp rất khó khăn .Số người đậu trong kỳ thi đó rất hiếm, hiếm đến nỗi 5-6 chục năm sau những người cùng thời còn nhớ tên những người đậu khóa ấy , trong đó có Nguyễn Đình Thi , Hồ Trọng Gin, Trịnh văn Xuấn , Đỗ Thiện và ...Tôi - Nguyễn Hữu Loan.
    Với mảnh tú tài Tây trong tay, tôi rời quê nhà lên Thanh Hóa để dạy học. Nhãn mác con nhà nghèo học giỏi của tôi được bà tham Kỳ chú ý, mời về nhà dạy cho hai cậu con trai. Tên thật của bà tham Kỳ là Đái thị Ngọc Chất ,bà là vợ của của ông Lê Đỗ Kỳ , tổng thanh tra canh nông Đông Dương, sau này đắc cử dân biểu quốc hội khóa đầu tiên . Ở Thanh Hóa, Bà tham Kỳ có một cửa hàng bán vải và sách báo, tôi thường ghé lại xem và mua sách, nhờ vậy mới được bà để mắt tới.
    Bà tham Kỳ là một người hiền lành, tốt bụng, đối xử với tôi rất tốt,coi tôi chẳng khác như người nhà .Nhớ ngày đầu tiên tôi khoác áo gia sư, bà gọi mãi đứa con gái - lúc đó mới 8 tuổi- mới chịu lỏn lẻn bước ra khoanh tay, miệng lí nhí: " Em chào thầy ạ"Chào xong, cô bé bất ngờ mở to đôi mắt nhìn thẳng vào tôi. Đôi mắt to, đen láy,tròn xoe như có ánh chớp ấy đã hằng sâu vào tâm trí tôi, theo tôi suốt cả cuộc đời. Thế là tôi dạy em đọc, dạy viết. Tên em là Lê Đỗ Thị Ninh, cha làm thanh tra nông lâm ở Sài Gòn nên sinh em trong ấy, quen gọi mẹ bằng má. Em thật thông minh, dạy đâu hiểu ấynhưng ít nói và mỗi khi mở miệng thì cứ y như một "bà cụ non". Đặc biệt em chăm sóc tôi hằng ngày một cách kín đáo: em đặt vào góc mâm cơm chổ tôi ngồi ăn cơm lúc thì vài quả ớt đỏ au, lúc thì quả chanh mọng nước em vừa hái ở vườn, những buổi trưa hè, nhằm lúc tôi ngủ trưa, em lén lấy áo sơ mi trắng tôi treo ở góc nhà mang ra giếng giặt .....
    Có lần tôi kể chuyện " bà cụ non" ít nói cho hai người anh của em Ninh nghe, không ngờ chuyện đến tai em, thế là em giận! Suốt một tuần liền,em nằm lì trong buồn trong, không chịu học hành....Một hôm bà tham Kỳ dẫn tôi vào phòng nơi em đang nằm thiếp đi. Hôm ấy tôi đã nói gì, tôi không nhớ nữa, chỉ nhớ là tôi đã nói rất nhiều, đã kể chuyện em nghe, rồi tôi đọc thơ....Trưa hôm ấy, em ngồi dậy ăn một bát to cháo gà và bước ra khỏi căn buồn. Chiều hôm sau, em nằng nặc đòi tôi đưa lên khu rừng thông. Cả nhà không ai đồng ý: " mới ốm dậy còn yếu lắm, không đi được đâu" Em không chịu nhất định đòi đi cho bằng được. sợ em lại dỗi nên tôi đánh bạo xin phép ông bà tham Kỳ đưa em lên núi chơi .....
    Xe kéo chừng một giờ mới tới được chân đồi. Em leo đồi nhanh như một con sóc, tôi đuổi theo muốn đứt hơi. lên đến đỉnh đồi, em ngồi xuống và bảo tôi ngồi xuống bên em.Chúng tôi ngồi thế một hồi lâu, chẳng nói gì. Bất chợt em nhìn tôi, rồi ngước mắt nhìn ra tận chân trời, không biết lúc đó em nghĩ gì. bất chợt em hỏi tôi:
    -Thầy có thích ăn sim không ?
    Tôi nhìn xuống sườn đồi: tím ngắt một màu sim. Em đứng lên đi xuốn sườn đồi, còn tôi vì mệt qúa nên nằm thiếp đi trên thảm cỏ....Khi tôi tỉnh dậy, em đã ngồi bên tôi với chiếc nón đầy ắp sim. Những qủa sim đen láy chín mọng.
    -Thầy ăn đi.
    Tôi cầm quả sim từ tay em đưa lên miệng trầm trồ:
    -Ngọt qúa.
    Như đã nói, tôi sinh ra trong một gia đình nông dân, qủa sim đối với chẳng lạ lẫm gì, nhưng thú thật tôi chưa bao giờ ăn những qủa sim ngọt đến thế!
    Cứ thế, chúng tôi ăn hết qủa này đến qủa khác.Tôi nhìn em, em cười. hai hàm răng em đỏ tím, đôi môi em cũng đỏ tím, hai bên má thì....tím đỏ một màu sim. Tôi cười phá lên, em cũng cười theo!
    Cuối mùa đông năm ấy, bất chấp những lời can ngăn, hứa hẹn can thiệp của ông bà tham Kỳ, tôi lên đường theo kháng chiến. Hôm tiễn tôi, em theo mãi ra tận đầu làng và lặng lẽ đứng nhìn theo. Tôi đi ....lên tới bờ đê, nhìn xuống đầu làng ,em vẫn đứng đó nhỏ bé và mong manh. Em giơ bàn tay nhỏ xíu như chiếc lá sim ra vẫy tôi. Tôi vẫy trả và lầm lũi đi...Tôi quay đầu nhìn lại....em vẫn đứng yên đó ....Tôi lại đi và nhìn lại đến khi không còn nhìn thấy em nữa.....
    Những năm tháng ở chiến khu, thỉnh thoảng tôi vẫn được tin tức từ quê lên, cho biết em vẫn khỏe và đã khôn lớn. Sau này, nghe bạn bè kể lại, khi em mới 15 tuổi đã có nhiều chàng trai đên ngỏ lời cầu hôn nhưng em cứ trốn trong buồn, không chịu ra tiếp ai bao giờ ....
    Chín năm sau, tôi trở lại nhà....Về Nông Cống tìm em. Hôm gặp em ở đầu làng, tôi hỏi em , hỏi rất nhiều, nhưng em không nói gì, chỉ bẽn lẽn lắc hoặc gật đầu. Em giờ đây không còn cô học trò Ninh bướng bỉnh nữa rồi. Em đã gần 17 tuổi, đã là một cô gái xinh đẹp....
    Yêu nhau lắm nhưng tôi vẫn lo sợ vì hai gia đình không môn đăng hộ đối một chút nào. Mãi sau này mới biết việc hợp hôn của chúng tôi thành công là do bố mẹ em ngấm ngầm " soạn kịch bản".
    Một tuần sau đó chúng tôi kết hôn. Tôi bàn việc may áo cưới thì em gạt đi, không đòi may áo cưới trong ngày hợp hôn, bảo rằng là: " yêu nhau, thương nhau cốt là cái tâm và cái tình bền chặt là hơn cả". Tôi cao ráo, học giỏi, Làm thơ hay...lại đẹp trai nên em thường gọi đùa là anh chồng độc đáo. Đám cưới được tổ chức ở ấp Thị Long,huyện Nông Công, tỉng Thanh Hóa của gia đình em, nơi ông Lê Đỗ Kỳ có hàng trăm mẫu ruộng. Đám cưới rất đơn sơ, nhưng khỏi nói , hai chúng tôi hạnh phúc hơn bao giờ hết!
    Hai tuần phép của tôi trôi qua thật nhanh, tôi phải tức tốc lên đường hành quân , theo sư đoàn 304, làm chủ bút tờ Chiến Sĩ. Hôm tiễn tôi lên đường, Em vẫn đứng ở đầu làng, nơi chín năm trước em đã đứng. Chỉ có giờ em không còn cô bé Ninh nữa mà là người bạn đời yêu qúy của tôi. Tôi bước đi, rồi quay đầu nhìn lại.....Nếu như chín năm về trước, nhìn lại chỉ thấy một nỗi buồn man mát thì lần này, tôi thật sự đau buồn. Đôi chân tôi như muốn khuỵu xuống.
    Ba tháng sau, tôi nhận được tin dữ: vợ tôi qua đời! Em chết thật thảm thương: Hôm đó là ngày 25 tháng 5 âm lịch năm 1948, em đưa quần áo ra giặt ngoài sông Chuồn( thuộc ấp Thị Long, Nông Cống), vì muốn chụp lại tấm áo bị nước cuốn trôi đi nên trượt chân chết đuối! Con nước lớn đã cuốn em vào lòng nó, cướp đi của tôi người bạn lòng tri kỷ, để lại tôi tôi nỗi đau không gì bù đắp nỗi. Nỗi đau ấy, gần 60 năm qua, vẫn nằm sau thẳm trong trái tim tôi .
    Tôi phải giấu kính nỗi đau trong lòng, không được cho đồng đội biết để tránh ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu của họ. Tôi như một cái xác không hồn....Dường như càng kèm nén thì nỗi đau càng dữ dội hơn. May sao, sau đó có đợt chỉnh huấn, cấp trên bảo ai có tâm sự gì cứ nói ra, nói cho hết. Chỉ chờ có thế, cơn đau trong lòng tôi được bung ra. Khi ấy chúng tôi đang đóng quân ở Nghệ An, Tôi ngồi lặng đi ở đầu làng. hai mắt tôi đẫm nước, tôi lấy bút ra ghi chép. Chẳng cần phải suy nghĩ gì, những câu những chữ mộc mạc cứ trào ra:
    Nhà nàng có ba người anh đi bộ đội
    Những em nàng có em chưa biết nói
    Khi tóc nàng đang xanh ...
    ...Tôi về không gặp nàng....
    Về viếng mộ nàng, tôi dùng chiếc bình hoa ngày cưới làm bình hương, viết lại bài thơ vào chiếc quạt giấy để lại cho người bạn ở Thanh Hóa.. Anh bạn này đã chép lại và truyền tay nhau trong suốt những năm chiến tranh. Đó là bài thơ Màu Tím Hoa Sim.
    Đến đây, chắc bạn biết tôi là Hữu Loan, Nguyễn Hữu Loan, sinh ngày 2-4-1916 hiện tại đang "ở nhà trông vườn" ở làng Nguyên Hoàn - nơi tôi gọi là chổ "quê đẻ của tôi đấy" thuộc xã Mai Lĩnh. huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hóa.
    Em Ninh rất ưa mặc áo màu tím hoa sim. Lạ thay nơi em bị nước cuốn trôi dưới chân núi Nưa cũng thường nở đầy những bông hoa sim tím. Cho nên tôi viết mới nổi những câu :
    Chiều hành quân, qua những đồi sim
    Những đồi sim, những đồi hoa sim
    Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
    Màu tím hoa sim, tím cả chiều hoang biền biệt
    Và chiều hoang tím có chiều hoang biết
    Chiều hoang tim tím thêm màu da diết.
    Mất nàng, mất tất cả, tôi chán đời, chán kháng chiến, bỏ đồng đội, từ giã văn đàn về quê làm ruộng, một phần cũng vì tính tôi" hay cãi, thích chống đối, không thể làm gì trái với suy nghĩ của tôi". Bọn họ chê tôi ủy mị, hoạch hoẹ đủ điều, không chấp nhận đơn từ bỏ kháng chiến của tôi. Mặc kệ! Tôi thương tôi, tôi nhớ hoa sim của tôi qúa! với lại tôi cũng chán ngấy bọn họ qúa rồi!
    Đó là thời năm 1955 - 1956, khi phong trào văn nghệ sĩ bùng lên với sự xuất hiện của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm chống chính sách độc tài, đồng thời chống những kẻ bồi bút đan tâm lừa thầy phản bạn, dốc tâm ca ngợi cái này cái nọ để kiếm chút cơm thừa canh cạn. Làm thơ thì phải có cái tâm thật thiêng liên thì thơ mới hay. Thơ hay thì sống mãi. Làm thơ mà không có tình, có tâm thì chả ra gì! Làm thơ lúc bấy giờ là phải ca tụng, trong khi đó tôi lại đề cao tình yêu, tôi khóc người vợ tử tế của mình, người bạn đời hiếm có của mình. Lúc đó tôi khóc như vậy họ cho là khóc cái tình cảm riêng....Y như trong thơ nói ấy, tôi lấy vợ rồi ra mặt trận, mới lấy nhau chưa được hơn một tháng, ở nhà vợ tôi đi giặt rồi chết đuối ở sông ....Tôi thấy đau xót, tôi làm bài thơ ấy tôi khóc, vậy mà họ cho tôi là phản động.. Tôi phản động ở chổ nào? Cái đau khổ của con người, tại sao lại không được khóc?
    Bọn họ xúc phạm đến tình cảm thiêng liêng của tôi đối với người vợ mà tôi hằng yêu qúy, cho nên vào năm 1956, tôi bỏ đảng, bỏ cơ quan, về nhà để đi cày. Họ không cho bỏ, bắt tôi phải làm đơn xin. Tôi không xin, tôi muốn bỏ là bỏ, không ai bắt được! Tôi bỏ tôi về, tôi phải đi cày đi bừa, đi đốn củi, đi xe đá để bán. Bọn họ bắt giữ xe tôi, đến nỗi tôi phải đi xe cút kít, loại xe đóng bằng gỗ, có một bánh xe cũng bằng gỗ ở phía trước, có hai cái càng ở phía sau để đủn hay kéo. Xe cút kít họ cũng không cho, tôi phải gánh bộ. Gánh bằng vai tôi, tôi cũng cứ gánh, không bao giờ tôi bị khuất phục. Họ theo dõi, ngăn cản, đi đến đâu cũng có công an theo dõi, cho người hại tôi....Nhưng lúc nào cũng có người cứu tôi! Có một cái lạ là thơ của tôi đã có lần cứu sống tôi ! Lần đó tên công an mật nói thật với tôi là nó được giao lệnh giết tôi, nhưng nó sinh ở Yên Mô, thường đem bài Yên Mô của tôi nói về tỉnh Yên Bình quê nó ra đọc cho đỡ nhớ, vì vậy nó không nỡ giết tôi.
    Ngoài Yên Mô, tôi cũng có một vài bài thơ khác được mết chuộng. sau năm 1956 , khi tôi về rồi thấy cán bộ khổ qúa, tôi đã làm bài Chiếc Chiếu, kể chuyện cán bộ khổ đến độ không có chiếc chiếu để nằm!

    Định mệnh đưa đẩy, dắt tôi đến với một phụ nữ khác, sống cùng tôi cho đến tận bây giờ. Cô tên Phạm Thị Nhu, cũng là phụ nữ có tâm hồn sâu sắc. Cô vốn là một nạn nhân của chiến dịch cải cách ruộng đất, đấu tố địa chủ năm 1954, 1955.



    Lúc đó tôi còn là chính trị viên của tiểu đoàn,. Tôi thấy tận mắt những chuyện đấu tố. Là người có học , lại có tâm hồn nghệ sĩ nên tôi cảm thấy chán nản qúa, không còn hăng hái nữa. Thú thật, lúc đó tôi thất vọng vô cùng. Trong một xã thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, cách xa nơi tôi ở 15 cây số, có một gia đình địa chủ rất giàu, nắm trong gần năm trăm mẫu tư điền.



    Trước đây, ông địa chủ đó giàu lòng nhân đạo và rất yêu nước. Ông thấy bộ đội sư đoàn 304 của tôi thiếu ăn nên ông thường cho tá điền gánh gạo đến chổ đóng quân để ủng hộ. Tôi là trưởng phòng tuyên huấn và chính trị viên của tiểu đoàn nên phải thay mặt anh em ra cám ơn tấm lòng tốt của ông, đồng thời đề nghị lên sư đoàn trưởng trao tặng bằng khen ngợi để vinh danh ông . Thế rồi, một hôm, Tôi nghe tin gia đình ông đã bị đấu tố . Hai vợ chồng ông bị đội Phóng tay phát động quần chúng đem ra cho dân xỉ vả, rồi chôn xuống đất, chỉ để hở hai cái đầu lên. Xong họ cho trâu kéo bừa đi qua đi lại hai cái đầu đó cho đến chết. Gia đình ông bà địa chủ bị xử tử hết, chỉ có một cô con gái 17 tuổi được tha chết nhưng bị đội Phóng tay phát động đuổi ra khỏi nhà với vài bộ quần áo cũ rách. Tàn nhẫn hơn nữa, chúng còn ra lệnh cấm không cho ai được liên hệ, nuôi nấng hoặc thuê cô ta làm công. thời đó , cán bộ cấm đoán dân chúng cả việc lấy con cái địa chủ làm vợ làm chồng .



    Biết chuyện thảm thương của gia đình ông bà địa chủ tôi hằng nhớ ơn, tôi trở về xã đó xem cô con gái họ sinh sống ra sao vì trước kia tôi cũng biết mặt cô ta. Tôi vẫn chưa thể nào quên được hình ảnh của một cô bé cứ buổi chiều lại lén lút đứng núp bên ngoài cửa sổ nghe tôi giảng Kiều ở trường Mai Anh Tuấn.



    Lúc gần tới xã, tôi gặp cô ta áo quần rách rưới, mặt mày lem luốc. Cô đang lom khom nhặt những củ khoai mà dân bỏ sót, nhét vào túi áo, chùi vội một củ rồi đưa lên miệng gặm, ăn khoai sống cho đỡ đói. Qúa xúc động, nước mắt muốn ứa ra, tôi đến gần và hỏi thăm và được cô kể lại rành rọt hôm bị đấu tố cha mẹ cô bị chết ra sao. Cô khóc rưng rức và nói rằng gặp ai cũng bị xua đuổi ; hằng ngày cô đi mót khoai ăn đỡ đói lòng, tối về ngủ trong chiếc miếu hoang, cô rất lo lắng, sợ bị làm bậy và không biết ngày mai còn sống hay bị chết đói.



    Tôi suy nghĩ rất nhiều, bèn quyết định đem cô về làng tôi, và bất chấp lệnh cấm, lấy cô làm vợ.



    Sự quyết định của tôi không lầm. Quê tôi nghèo, lúc đó tôi còn ở trong bộ đội nên không có tiền, nhưng cô chịu thương chịu khó , bữa đói bữa no....Cho đến bây giờ cô đã cho tôi 10 người con - 6 trai , 4 gái- và cháu nội ngoại hơn 30 đứa!



    Trong mấy chục năm dài, tôi về quê an phận thủ thường,chẳng màng đến thế sự, ngày ngày đào đá núi đem đi bán, túi dắt theo vài cuốn sách cũ tiếng Pháp, tiếng Việt đọc cho giải sầu, lâu lâu nổi hứng thì làm thơ, thế mà chúng vẫn trù dập, không chịu để tôi yên. Tới hồi mới mở cửa, tôi được ve vãn, mời gia nhập Hội Nhà Văn, tôi chẳng thèm ra nhập làm gì.



    Năm 1988, tôi " tái xuất giang hồ" sau 30 năm tự chôn và bị chôn mình ở chốn quê nghèo đèo heo hút gío. Tôi lang bạt gần một năm trời theo chuyến đi xuyên Việt do hội văn nghệ Lâm Đồng và tạp chí Langbian tổ chức để đòi tự do sáng tác, tự do báo chí - xuất bản và đổi mới thực sự.



    Vào tuổi gần đất xa trời, cuối năm 2004, công ty Viek VTB đột nhiên đề nghị mua bản quyền bài Màu Tím Hoa Sim của tôi với gía 100 triệu đồng. Họ bảo đó là một hình thức bảo tồn tài sản văn hóa. Thì cũng được đi. Khoản tiền 100 triệu trừ thuế đi còn 90 triệu, chia "lộc" cho 10 đứa con hết 60 trệu đồng, tôi giữ lại 30 triệu đồng, phòng đau ốm lúc tuổi gìa, sau khi trích một ít để in tập thơ khoảng 40 bài mang tên Thơ Hữu Loan.



    Sau vụ này cũng có một số công ty khác xin ký hợp đồng mua mấy bài thơ khác , nhưng tôi từ chối, thơ tôi làm ra không phải để bán.

    MÀU TÍM HOA SIM



    Nàng có ba người anh đi bộ đội
    Những em nàng
    Có em chưa biết nói
    Khi tóc nàng đang xanh
    Tôi người vệ quốc quân
    xa gia đình
    Yêu nàng như yêu người người em gái.
    Ngày hợp hôn
    Nàng không đòi may áo mới
    Tôi mặc đồ quân nhân
    đôi giày đinh bết bùn
    Đất hành quân
    Nàng cười xinh xinh
    bên anh chồng độc đáo



    Tôi ở đơn vị về
    Cưới nhau xong là đi
    Từ chiến khu xa
    Nhớ về ái ngại
    Lấy chồng thời chiến binh
    Mấy người đi trở lại
    Lỡ khi mình không về
    thì thương
    người vợ chờ
    bé bỏng chiều quê......



    Nhưng không chết
    Người trai khói lữa
    Mà chết
    Người gái nhỏ hậu phương.
    Tôi về không gặp nàng
    Má ngồi bên mộ con đầy bóng tối
    Chiếc bình hoa ngày cưới
    thành bình hương
    tàn lạnh vây quanh



    Tóc nàng xanh xanh
    ngắn chưa đầy búi
    Em ơi giây phúp cuối
    Không được nghe nhau nói
    Không được nhìn nhau một lần
    Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
    áo nàng màu tím hoa sim
    Ngày xưa
    một mình
    đèn khuya
    bóng nhỏ
    Nàng vá cho chồng tấm áo
    ngày xưa.....



    Một chiều rừng mưa
    Ba người anh trên chiến trường Đông Bắc
    Biết tin em gái mất
    trước tin em lấy chồng
    Gío sớm thu về rờn rợn nước sông
    Đứa em nhỏ lớn lên
    ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
    Khi gío sớm thu vàng cỏ vàng chân mộ chí
    Chiều hành quân
    Qua những đồi sim
    những đồi sim dài trong chiều không hết
    Màu tím hoa sim
    tím chiều hoang biện biệt
    Nhìn áo rách vai tôi hát
    trong màu hoa
    ( áo anh sứt chỉ đường tà
    Vợ anh mất sơm, mẹ già chưa khâu....)



    Hữu Loan


    Màu Tím Hoa Sim do Phương Dung trình bày:
    http://www.youtube.com/w...UglfrWw&feature=related

    **
    Đó là bài tôi mới nhận được từ chị ND, với ít dòng cảm nghĩ này :

    Moi ca'c ban doc dê biê't cuôc doi cua ta'c gia " dôi hoa sim ti'm" sao mà da'ng thuong qua'; niêm dau, nôi khô da cho ta'c gia sa'ng ta'c ra nhung ta'c phâm tuyêt voi, luu lai muôn doi; càng doc càng thâ'y không " ua " cong san chu't nào???!!! Tuy cung môt nuo'c, nhung sao co' nhung hang nguoi a'c dôc nhu vây.???...Thê' mà con co' nhung nguoi ca tung và di theo ho, mo'i da'ng tra'ch...Da biê't " lâ'y oa'n tra oa'n , oa'n chông châ't " " lâ'y ân tra oa'n, oa'n tiêu tan "; nhung, ca'c ban oi ! minh là nguoi " phàm tuc" chua phai là " bâc tha'nh" ca'c ban dô'i xu duoc nhu thê' chang ??? Dôi lu'c tâm hôn cung tha'y giao dông!!! ???

    Ngoc Duc _ Paris
    viethoaiphuong
    #77 Posted : Friday, July 18, 2008 5:41:54 PM(UTC)
    viethoaiphuong

    Rank: Advanced Member

    Groups: Registered
    Joined: 6/24/2012(UTC)
    Posts: 9,342
    Points: 11,181

    Thanks: 761 times
    Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
    Hố chôn người ám ảnh
    Trần Đức Thạch
    Tháng 04/1975, đơn vị chúng tôi (Sư đoàn 341 thường gọi là đoàn Sông Lam A) phối hợp với sư đoàn khác đánh vào căn cứ phòng ngự Xuân Lộc. Trận chiến quyết liệt kéo dài 12 ngày đêm. Tiểu đoàn 8 chúng tôi do hành quân bị lạc nên được giao nhiệm vụ chốt chặn, nhằm không cho các đơn vị quân lực Việt Nam cộng hoà tiếp việncũng như rút lui. Phải công nhận là sư đoàn 18 của phía đối phương họ đánh trả rất ngoan cường. Tôi tận mắt chứng kiến hai người lính sư đoàn 18 đã trả lời gọi đầu hàng của chúng tôi bằng những loạt súng AR15. Sau đó họ ôm nhau tự sát bằng một quả lựu đạn đặt kẹp giữa hai người. Một tiếng nổ nhoáng lửa, xác họ tung toé giữa vườn cam sau ấp Bàu Cá. Hình ảnh bi hùng ấy đã gây ấn tượng mạnh cho tôi. Tinh thần của người lính đích thực là vậy. Vị tướng nào có những người lính như thế, dù bại trận cũng có quyền tự hào về họ. Họ đã thể hiện khí phách của người trai nơi chiến trận. Giả thiết nếu phía bên kia chiến thắng chắc chắn họ sẽ được truy tôn là những người anh hùng lưu danh muôn thủa. Nhưng vận nước đã đi theo một hướng khác. Họ đành phải chấp nhận tan vào cõi hư vô như hơn 50 thuỷ binh quân lực Việt Nam Cộng Hoà bỏ mình ngoài biển để bảo vệ Hoàng Sa.

    ...Nghe tiếng súng nổ ran, tôi cắt rừng chạy đến nơi có tiếng súng. Đấy là ấp Tân Lập thuộc huyện Cao Su tỉnh Đồng Nai bây giờ. Ấp nằm giữa cánh rừng cao su cổ thụ. Đạn súng đại liên của các anh bộ đội cụ Hồ vãi ra như mưa. Là phân đội trưởng trinh sát, tôi dễ dàng nhận ra tiếng nổ từng loại vũ khí bằng kỹ năng nghiệp vụ.



    Chuyện gì thế này? Tôi căng mắt quan sát. Địch đâu chẳng thấy, chỉ thấy những người dân lành bị bắn đổ vật xuống như ngả rạ. Máu trào lai láng, tiếng kêu khóc như ri. Lợi dụng vật che đỡ, tôi ngược làn đạn tiến gần tới ổ súng đang khạc lửa.

    - Đừng bắn nữa! Tôi đây! Thạch trinh sát tiểu đoàn 8 đây!

    Nghe tiếng tôi, họng súng khạc thêm mấy viên đạn nữa mới chịu ngừng.

    Tôi quát:

    - Địch đâu mà các ông bắn dữ thế? Tý nữa thì thịt cả mình.

    Mâý ông lính trẻ tròn mắt nhìn tôi ngơ ngác. Họ trả lời tôi:

    - Anh ơi! đây là lệnh.

    - Lệnh gì mà lệnh, các ông mù à? Toàn dân lành đang chết chất đống kia kìa!

    - Anh không biết đấy thôi. Cấp trên lệnh cho bọn em “giết lầm hơn bỏ sót”. Bọn em được phổ biến là dân ở đây ác ôn lắm!

    - Tôi mới từ đằng kia lại, không có địch đâu. Các ông không được bắn nữa để tôi kiểm tra tình hình thế nào. Có gì tôi chịu trách nhiệm!

    Thấy tôi cương quyết, đám lính trẻ nghe theo. Tôi quay lại phía hàng trăm người bị giết và bị thương. Họ chồng đống lên nhau máu me đầm đìa, máu chảy thành suối. Một cụ già bị bắn nát bàn tay đang vật vã kêu lên đau đớn. Tôi vực cụ vào bóng mát rồi giật cuốn băng cá nhân duy nhất bên mình băng tạm cho cụ. Lát sau tôi quay lại thì cụ đã tắt thở vì máu ra quá nhiều. Một chỗ thấy 5 người con gái và 5 người con trai bị bắn chết châu đầu vào nhau. Tôi hỏi người lính trẻ đi theo bên cạnh:

    - Ai bắn đấy?

    - Đại đội phó Hường đấy anh ạ!

    - Lại nữa, tôi ngó vào cửa một gia đình, cả nhà đang ăn cơm, anh bộ đội cụ Hồ nào đó đã thả vào mâm một quả lựu đạn, cả nhà chết rã rượi trong cảnh cơm lộn máu.



    Tôi bị sốc thực sự. Hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ “Đi dân nhớ ở dân thương” mà thế này ư? Cứ bảo là Mỹ nguỵ ác ôn chứ hành động dã man này của chúng ta nên gọi là gì? Tâm trạng tôi lúc đó như có bão xoáy. Mặc dù vậy, tôi vẫn nhận ra ngay những việc cân làm. Tôi tập trung những người sống sót lại. Bảo chị em phụ nữ và trẻ con ra rừng tổ chức ăn uống nghỉ tạm. Cốt là không cho mọi người chứng kiến lâu cảnh rùng rợn này. Đàn ông từ 18 đến 45 tuổi có nhiệm vụ ra sau ấp đào cho tôi một cái hố. Trong ấp ai có xe ô tô, xe lam, máy cày phải huy động hết để chở người bị thương đi viện. Mọi người đồng thanh:

    - Xe thì có nhưng dọc đường sợ bị bộ đội giải phóng bắn lắm!

    - Không lo, có tôi đi cùng!

    Tôi giao cho Nghê, một du kích dẫn đường vừa có bố bị bộ đội cụ Hồ sát hại:

    - Việc lỡ như thế rồi, chú nén đau thương lại giúp anh. Thu hồi căn cước tư trang của những người đã chết sau này còn có việc cần đến.

    Thế là suốt chiều hôm đó, tôi lấy một miếng vải đỏ cột lên cánh tay trái. Lăm lăm khẩu AK ngồi trên chiếc xe dẫn đầu đoàn lần lượt chở hết người bị thương ra bệnh viện Suối Tre. Tối hôm ấy, tôi cho chuyển hết xác người bị chết ra cái hố đã đào. Không còn cách nào khác là phải chôn chung. Trưa ngày hôm sau người ta mới dám lấp. Đây là ngôi mộ tập thể mà trong hoàn cảnh ấy tôi buộc lòng phải xử lý như vậy. Trời nắng gắt, để bà con phơi thây mãi không được. Một nấm mồ chung hàng trăm người lẫn lộn, không hương khói, không gì hết. Tôi cho dọn vệ sinh sạch sẽ những chỗ mọi người bị tàn sát. Xong, mới dám cho đám phụ nữ và trẻ con ở ngoài rừng về. Tôi vượt mặt cả cấp trên để làm việc theo tiếng gọi lương tâm của mình. Bằng mọi lỗ lực có thể để cứu giúp đồng bào. Tưởng thế là tốt, sau này nghĩ lại mới thầy hành động của mình giống như sự phi tang tội ác cho những anh bộ đội cụ Hồ. Thú thật lúc ấy tôi vẫn còn một phần ngu tín. Cũng muốn bảo vệ danh dự cho đội quân lính cụ Hồ luôn luôn được ca ngợi là tốt đẹp. Tuy vậy tôi bắt đầu nghi ngờ “Tại sao người ta giết người la liệt rồi bỏ mặc. Chẳng lẽ họ mất hết nhân tính rồi sao?”

    Công việc xong tôi gặp Nghê để chia buồn. Tôi không tránh khỏi cảmgiác tội lỗi. Nghê đã đưa xác bố về chôn tạm ở nhà bếp. Tội nghiệp Nghê quá. Lặn lội đi theo cách mạng, ngày Nghê dẫn bộ đội về giải phóng ấp lại là ngày bộ đội cụ Hồ giết chết bố Nghê. Nghê “mừng chưa kịp no” đã phải chịu thảm cảnh trớ trêu đau đớn. Nghê buốn rầu nói với tôi:

    - Hôm qua nghe lời anh. Em thu được hai nón đồng hồ, tư trang và căn cước của những người bị giết. Sau đó có một anh bộ đội bảo đưa cho anh ấy quản lý. Em giao lại hết cho anh ấy để lo việc chôn ba.

    - Em bị thằng cha nào đó lừa rồi. Thôi quên chuyện đó đi em ạ. Anh thành thật chia buồn với em. Chiến tranh thường mang đến những điều không may tột cùng đau đớn mà chúng ta không thể lường trước được. Anh cũng đang cảm thấy có lỗi trong chuyện này.

    *



    Đã mấy chục năm qua, khi hàng năm, khắp nơi tưng bừng kỷ niệm chiến thắng 30/4 thì tôi lại bị ám ảnh nhớ về hàng trăm dân lành bị tàn sát ở ấp Tân Lập. Cái hố chôn người bây giờ ra sao? Người ta sẽ xử lý nó như thế nào hay để nguyên vậy? Tôi muốn được quay lại đó để thắp nén hương nói lời tạ tội. Vô hình dung việc làm tốt đẹp của tôi đã giúp cho người ta bưng bít tội ác. Không! Người dân ấp Tân Lập sẽ khắc vào xương tuỷ câu chuyện này. Nỗi đau đớn oan khiên lúc đấy chưa thể phải nhoà được. Còn những người tham gia cuộc tàn sát ấy nữa có lẽ họ cũng vô cùng dằn vặt khi nhận những tấm huân huy chương do Đảng và Nhà nước trao tặng sau này chiến thắng. Ý nghĩ ấy giúp tôi dũng cảm kể lại câu chuyện bi thương này.

    Sau ngày giải phòng Miền Nam 30/04/1975 tôi có chụp một kiểu ảnh đang cởi áo, lột sao dang dở. Tôi đem tặng cho một thằng bạn đồng hương chí cốt. Hắn run người, mặt tái mét:

    - Tao không dám nhận đâu, họ phát hiện ra tấm ảnh này quy cho phản động là chết cả nút.

    Bạn tôi sợ là đúng. Vì cậu ta là đảng viên. Nhưng điều bạn ấy không hiểu là tôi làm vậy vì cảm thấy hổ thẹn và nhục nhã cho anh bộ đội cụ Hồ khi nghĩ tới vụ thảm sát ở ấp Tân Lập...

    Thời gian trôi, tôi từ một chàng lính trẻ măng ngày nào bây giờ đã là một ông già với mái đầu hoa râm đốm bạc. Vậy mà tôi chưa nói được câu chuyện lẽ ra phải nói . Đôi lúc tôi âm thầm kể lại cho một số bạn bè tin cậy. Nghe xong ai cũng khuyên “Nói ra làm gì, nguy hiểm lắm đấy”. Và quả thật, sống trong xã hội xã hội chủ nghĩa quái đản này, người ta quen thói bưng bít sự thật. Sự thật không có lợi cho Đảng, cho Nhà nước chớ dại mà nói ra, bị thủ tiêu hoặc vào tù là điều chắc.



    Trần Đức Thạch
    Cựu phân đội trưởng trinh sát
    Tiểu đoàn 8 - Trung đoàn 266
    Sư đoàn 341 - Quân đoàn
    viethoaiphuong
    #78 Posted : Friday, July 18, 2008 7:39:16 PM(UTC)
    viethoaiphuong

    Rank: Advanced Member

    Groups: Registered
    Joined: 6/24/2012(UTC)
    Posts: 9,342
    Points: 11,181

    Thanks: 761 times
    Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
    Điểm nóng Chính trị Việt Nam


    7.7.2008

    Trần Trung Đạo


    Trách nhiệm của các thế hệ Việt Nam


    (Vài suy nghĩ sau khi đọc tiểu luận “Nhà văn Việt Nam: Đổi mới và Hội nhập” của nhà văn Tô Nhuận Vỹ và tự truyện Lạc đường của nhà văn Đào Hiếu)



    Tháng 2 năm 2007, trên diễn đàn talawas, tôi có viết một bài để góp ý với ông Võ Văn Kiệt về “hòa giải dân tộc và khép lại quá khứ”. Thời gian ngắn sau đó, tôi nhận một email từ Việt Nam chuyển lời của ông Võ Văn Ki ệt, rằng nhiều điểm góp ý của tôi có thể tranh luận nhưng cũng rất nhiều điểm ông thừa nhận là rất có lý. Ông cũng dặn với người đưa tin nếu tôi có dịp về thì đưa tôi đến nhà chơi để trao đổi với ông. Tôi trả lời, cũng qua trung gian người đưa tin, cám ơn ông về việc mời đến nhà nhưng quan trọng hơn tôi mong ông đáp lại những điều tôi đã nêu ra trong bài viết, nhất là những điểm ông cho rằng có thể tranh luận được, và phổ biến rộng rãi cho mọi người cùng đọc. Chuyện đất nước là chuyện chung chứ không phải là chuyện giữa ông và tôi. Các thế hệ Việt Nam mai sau trưởng thành từ những bài học, những kinh nghiệm của các thế hệ đi trước để lại. Không có kinh nghiệm lịch sử nào là nên bỏ qua và không có bài học lịch sử nào mà không đáng học. Có lần tôi đọc đâu đó, ông Võ Văn Ki ệt dự tính viết một cuốn sách, tôi rất mừng và âm thầm chờ đợi một tác phẩm hay một hồi ký của ông.

    Tôi không kỳ vọng ở hồi ký của ông Võ Văn Ki ệt một con số đúng về bao nhiêu sĩ quan công chức chế độ Việt Nam Cộng hòa bị ông và Đ ảng của ông đày ra các vùng rừng sâu nước độc Tiên Lãnh, Hàm Tân, Hoàng Liên Sơn, Thanh Phong, Thanh Hóa. Tôi không kỳ vọng ở hồi ký của ông một con số bao nhiêu người dân Sài Gòn bị ông và Đ ảng của ông đuổi đi khắp các vùng kinh tế mới miền Đông, miền Tây Nam Bộ. Tôi không kỳ vọng qua hồi ký ông sẽ công bố đầy đủ danh sách những người bị Ủy ban Quân quản, do ông làm bí thư Đảng ủy đặc biệt, xếp vào thành phần tư sản mại bản; của cải, nhà cửa bị tịch thu, cha mẹ phải vào tù, con cái phải sống lang thang đầu đường cuối chợ. Tôi không kỳ vọng qua hồi ký ông sẽ giải thích nguyên nhân nào khiến hàng triệu người Việt đã bất chấp sóng to gió lớn để vượt biển tìm một con đường sống trong muôn ngàn đường chết. Tôi cũng không kỳ vọng qua hồi ký ông sẽ chính thức xin lỗi cùng nhân dân miền Nam nói riêng và cả nước nói chung, những sai lầm của Đảng do ông trực tiếp lãnh đạo đã gây ra. Và như tôi đã đọc tiểu sử, quá trình đấu tranh của ông và những mất mát của riêng bản thân ông, tôi cũng không nghĩ ông Võ Văn Ki ệt sẽ thành lập một đảng hay một cánh đối lập, công khai thách thức vị trí lãnh đạo của Đảng Cộng sản để lót đường cho một cuộc vận động toàn dân, toàn diện nhằm tiến đến một xã hội mới, dân chủ, nhân bản và thịnh vượng như một số người đã bàn tán trước đây.

    Ông Võ Văn Ki ệt từ năm 1938 cho đến cuối đời vẫn là người cộng sản. Khác chăng so với những lãnh đạo cộng sản cùng thời, ông Võ Văn Ki ệt sinh ra từ miền cây trái Vĩnh Long, phần lớn quãng đời đấu tranh của ông cũng từ ruộng đồng, sông nước miền Nam, gần gũi với nhân dân miền Nam và trong những ngày cuối đời nhìn lại đã có lúc chạnh lòng buông những câu nói như những lời an ủi muộn màng, rải rác đó đây trên vài cơ quan ngôn luận, trong những buổi nhậu, dành cho những người đã chịu đựng dưới bàn tay ông.

    Dù sao tôi cũng mong ông viết, bởi vì hơn ai hết, ông Võ Văn Ki ệt là người có thẩm quyền để viết. Giá trị trong tác phẩm của ông Võ Văn Ki ệt không hẳn ở chỗ là sự thật mà là sự kiện, dù được nêu ra để biện hộ cho những sai trái của chính ông. Những Giọt nước trong biển cảcủa Hoàng Văn Hoan và Hồi ký của một Việt cộng của Trương Như T ảng vẫn có giá trị sự kiện nhất định và là những tác phẩm tham khảo cần thiết cho các sử gia và thế hệ mai sau. Hôm nay, ông Võ Văn Ki ệt đã qua đời. Ông ra đi mang theo nhiều chi tiết quan trọng của những năm khó khăn nhất trong lịch sử dân tộc thời cận đại. Phần lớn những lời phân ưu dành cho ông đều chấm dứt bằng câu cầu mong hương linh ông được yên nghỉ, nhưng làm sao hương linh ông có thể yên nghỉ được khi vẫn còn nợ thế gian này một món nợ mà ông chưa trả hết.

    Những chịu đựng của dân tộc Việt Nam nói chung và nhân dân miền Nam nói riêng dưới bàn tay ông Võ Văn Ki ệt và Đảng của ông trong những năm ngay sau 1975, sẽ mãi mãi sẽ là một vết thương hằn sâu trong lịch sử. Máu và nước mắt của nhân dân miền Nam đổ xuống trong các trại tù, trên các khu kinh tế mới, dọc các vỉa hè Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn đã đóng thành băng trong ký ức của giống nòi. Không ai trách ông Võ Văn Ki ệt tại sao bảy mươi năm trước đã tham gia Đảng Cộng sản nhưng chắc chắn các thế hệ Việt Nam mai sau sẽ trách ông đã không có những câu trả lời cho những thảm trạng mà đất nước đã trải qua trong suốt 22 năm dài (1975 - 1997), thời gian ông đã đóng vai trò quan trọng trong chính trị Việt Nam.

    Ông Võ Văn Ki ệt, giống như hầu hết những người cộng sản trong thế hệ Tân Trào, Pác Bó đã không làm được, đã không trả lời được những câu hỏi của phiên tòa lịch sử, nhưng tôi tin các thế hệ Viêt Nam tham gia Đảng Cộng sản sau ông, thế hệ “chống Mỹ cứu nước”, thế hệ “Tổng công kích Tết Mậu Thân” với một số khá đông vẫn còn đang sống, có thể trả lời và thậm chí phải trả lời trước khi các anh các chị xuôi tay nhắm mắt ra đi.

    Điều đáng mừng là trong thời gian qua, một số hồi ký như Tôi bị bắt của nhà thơ Trần Vàng Sao, Tôi bày tỏcủa nhà văn Tiêu Dao Bảo Cự mà tôi đã có dịp góp ý trước đây, tiểu luận “Nhà văn Việt Nam: Đổi mới và Hội nhập” của nhà văn Tô Nhuận Vỹ, hay mới đây tự truyện Lạc đường của nhà văn Đào Hiếu đã nối tiếp nhau ra đời. Các anh viết vì bức xúc cá nhân hay từ nhận thức chính trị không phải là điều quan trọng, điều quan trọng nhất vẫn là viết ra. Tôi tin rằng với chiều hướng Việt Nam đang cố mở rộng các mối quan hệ với nước ngoài, những tấm màn sợ hãi sẽ được vén lên cao hơn, những biên giới cách ngăn sẽ dần dần thu hẹp, trong tương lai sẽ có nhiều tác phẩm như thế nữa.

    Tôi vừa đọc hết tự truyện Lạc đường của nhà văn Đào Hiếu. Là một người trong thế hệ trẻ hơn, tôi cảm ơn anh đã kể lại những chặng đường anh đã đi qua, ghi lại những thao thức và trăn trở của anh và thế hệ anh. Ngay cả những việc chúng ta mới làm hôm qua, hôm nay có thể đã không còn đúng nữa và những câu nói mới vừa thoát ra khỏi cửa miệng nhiều khi biết mình nói sai rồi, huống hồ những việc đã làm 40 năm trước. Ai cũng có một thuở hai mươi và ai cũng trải qua một thời tuổi trẻ. Sinh ra và lớn lên trên quê hương chiến tranh, nghèo khó, chịu đựng cái nhục của một nước nhược tiểu bị các nước lớn khinh khi, coi rẻ, câu hỏi làm gì cho đất nước luôn là mối ám ảnh hàng ngày, hàng đêm trong ý thức của những người trẻ biết đau cái đau của đất nước.

    Năm 1968, năm cao điểm của cuộ c chi ến Việt Nam, tôi lớn lên ở gần cửa biển Sơn Chà, quận 3, Đà Nẵng. Buổi chiều tôi thường ngồi trên cồn cát trắng ở xóm Cổ Mân nhìn những đoàn xe chở bom đạn nối đuôi nhau từ cảng Tiên Sa nhập vào các kho quân sự chung quanh thành phố để từ đó đi vào cuộ c chi ến. Tôi thầm nghĩ những bom đạn kia nay mai đây sẽ rơi xuống ở một nơi nào đó trên quê hương tôi. Đêm đêm trên đường Bạch Đằng dọc bờ sông Hàn những anh lính M ỹ đen, Mỹ trắng miệng sặc mùi bia rượu, tay ôm những cô gái Vi ệt bằng tuổi chị tôi và cất tiếng cười khả ố. Niềm tự ái dân tộc trong lòng tôi dâng cao. Tôi cảm thấy bi xúc phạm. Họ xúc phạm không chỉ dân tộc Việt Nam, người con gái Việt Nam, mà dường như còn xúc phạm đến cả hàng phượng đỏ, hàng sao xanh trên con đường Bạch Đằng thơ mộng. Cách thành phố Đà Nẵng không xa là bãi rác Hòa Cầm rộng mênh mông. Nơi đó, mỗi buổi sáng, hàng trăm đứa bé mới ngoài mười tuổi như tôi bám theo những chiếc xe rác Mỹ để nhặt những miếng thịt thừa, những lon bơ bỏ dở và ngay cả từng chiếc bao nhựa dơ dáy. Ngày đó, tuy còn khá nhỏ tôi đã biết tủi thẹn cho số phận của một cây cổ thụ bốn ngàn năm đang biến thành dây chùm gởi, đồng thời tôi cũng tự hỏi, những điêu tàn đổ nát, những bất công phi lý của xã hội Việt Nam, trong đó có sự hiện diện của những người Mỹ đen Mỹ trắng kia phải phát xuất từ một hay nhiều nguyên nhân nào đó.

    Hoàn cảnh đất nước và nhiệt tình tuổi trẻ đã buộc các anh chị chọn lựa cho mình một hướng đi, một lý tưởng sống, một dâng hiến dành cho quê hương mà các anh chị nghĩ là đúng nhất. Sự chọn lựa nào cũng kèm theo đó sự hy sinh, cũng mang tính lịch sử và lịch sử Việt Nam trước 1975 là một lịch sử đầy nhiễu nhương, đau thương và ngộ nhận. Nhìn lại tuổi hai mươi không phải để phê phán những việc làm thời đó đúng hay sai. Sai hay đúng là thái độ của hôm nay và về sau chứ không phải của quá khứ.

    Bốn mươi năm trước, nếu có người cho rằng xã hội miền Bắc tốt đẹp hơn xã hội miền Nam có thể đã không gây ra nhiều tranh cãi bởi vì các tệ nạn tham nhũng, quan chức lộng hành quá phổ biến ở miền Nam trong khi chưa ai thật sự sống một ngày dưới chủ nghĩa xã hội; thế nhưng, hơn 30 năm sau mà những người đó vẫn còn tiếp tục luận điệu giống như thế thì đó chỉ là một cách nói liều.

    Bốn mươi năm trước, vì giới hạn về tài liệu tham khảo, nếu có người nhận xét ông Hồ Chí Minh, ông Trường Chinh, ông Lê Du ẩn về mặt đạo đức tốt hơn các ông Tổng thống miền Nam có thể còn thông cảm, nhưng sau 30 năm với tất cả tài liệu đã được tiết lộ, Cải cách Ruộng đất, Nhân văn - Giai phẩm, vụ án xét lại, Tổng công kích Mậu Thân, chuyên chính vô sản, độc tài đảng trị, mà có người sùng bái các lãnh tụ cộng sản trên thì thật là một niềm tin mù quáng.

    Tôi cũng cám ơn nhà văn Tô Nhuận Vỹ đã phổ biến tiểu luận “Nhà văn Việt Nam: Đổi mới và Hội nhập”, kết quả của đề tài nghiên cứu mà anh tham gia với William Joiner Center (WJC) thuộc Đại học Massachusetts trong hai năm 2005 đến 2007. Vài điểm trong tiểu luận của anh có thể thảo luận như tôi sẽ làm dưới đây, nhưng về tổng quát tiểu luận này đã giúp cho tôi thêm những kiến thức về sinh hoạt văn học trong nước mà tôi không biết đến nhiều.

    Nhắc đến WJC, tôi nhớ lại những chuyện xảy ra mười năm trước. Tôi sống ở Boston và không xa lạ gì các khóa hội thảo mùa hè của WJC. Trong hai năm 1998 và 1999, tôi đã cùng một số anh chị trong giới cầm bút đến nói chuyện tại các khóa hội thảo mùa hè của trung tâm này. Mặc dù không phải là nhà văn, nhà thơ có những tác phẩm văn chương đủ tầm vóc để đại diện cho văn nghệ sĩ hải ngoại, tôi vẫn được mời, đơn giản chỉ vì tôi sống ngay tại Boston, quen thuộc với sinh hoạt của cộng đồng người Việt và đã có thời học ở Đại học Massachusetts.

    Tôi ủng hộ quan điểm và thái độ tích cực tham gia vào các khóa hội thảo mùa hè tại Đại học Massachusetts của tổ chức cộng đồng Việt Nam. Thay vì tập trung các sinh hoạt trong nội bộ người Việt, sự có mặt trong những buổi thảo luận về văn học Việt Nam, chiến tranh và hậu quả xã hội Việt Nam tại các diễn đàn rộng hơn, liên quan đến nhiều quốc gia là những việc nên làm và ngay cả phải làm. Chúng ta đang đấu tranh cho quyền tự do phát biểu của đồng bào trong nước thì không có lý do gì tự giới hạn quyền phát biểu của chính mình trong một xã hội tự do.

    Trong chiến tranh, chế độ Việt Nam Cộng hòa không có nhiều cơ hội để nói lên tiếng nói chính nghĩa của mình. Miền Nam không phải của ông Ngô Đình Di ệm, Nguyễn Văn Thiệu hay Dương Văn Minh mà là miền Nam của hơn hai chục triệu người, trong đó có một triệu người lính đã phải chiến đấu trong những điều kiện hết sức khó khăn, vừa cô đơn và cũng vừa cô thế. Những vành khăn tang trắng của những người vợ lính, những đứa bé mồ côi vì cha vừa tử trận chỉ trắng trong các khu gia binh nghèo, trong những căn nhà tranh heo hắt chứ không trắng trên các màn ảnh truyền hình quốc tế. Và từ sau 1975, các nhà văn, nhà thơ từ các quốc gia khác cũng chỉ biết Việt Nam dưới chế độ cộng cản qua vở kịch do Đảng Cộng sản Việt Nam dàn dựng, qua các khẩu hiệu tuyên truyền của phe có quyền ăn nói, nhưng không biết đến một Việt Nam khác đang bị bịt miệng, đang bị đày ải trong tù ngục và bị tước đoạt những quyền căn bản của con người. Do đó, giống như việc thắp lên que diêm trong đêm tối trời, gióng lên được một tiếng nói của lương tâm dù ở đâu cũng là điều cần thiết.

    Ngoại trừ tôi, hầu hết các nhà văn miền Nam tham dự các khóa hội thảo mùa hè do WJC tổ chức đều đã nhiều năm phục vụ trong quân đội và thời gian ở tù sau 1975 cũng không ngắn hơn bao nhiêu so với quãng đời lính tráng của họ. Trong số anh em chúng tôi, nhà văn Hoàng Ngọc Liên lớn tuổi nhất. Vào tháng 9 năm 1999 ông đã ngoài 70 tuổi. Là một cựu sĩ quan cao cấp trong quân đội Việt Nam Cộng hòa và bị giam 13 năm trong các nhà tù khắp miền bắc, thế nhưng, ông không dùng diễn đàn WJC để tố cáo tội ác cộng sản, để đòi Đảng Cộng sản phải đền nợ máu trước nhân dân, đòi giới lãnh đạo Đảng phải ở tù ít nhất bằng số năm ông đã từng phải ở. Không. Nhà văn Hoàng Ngọc Liên xem buổi hội thảo chỉ là cơ hội để kể lại những điều mắt thấy tai nghe trong năm tháng ông ở tù và quan trọng hơn, nhắn gởi những lời đầy hy vọng đến những người cầm bút Việt Nam thuộc thế hệ trẻ trong nước cũng như đang tham gia trong khóa hội thảo mùa hè năm đó. Trong bài viết “Những câu chuyện chưa kể” ông đọc ở hội thảo vào buổi chiều ngày 1 tháng 9 năm 1999 tại Đại học Massachusetts, Boston, nhà văn Hoàng Ngọc Liên kết luận: “Tôi nghĩ rằng lâu nay, nhất là từ năm 2000, tuổi trẻ Việt Nam là kỳ vọng của dân tộc Việt Nam, trong chiều hướng góp phần xây dựng đất nước chúng tôi, một đất nước bị chiến tranh tàn phá, sau 24 năm hòa bình, thống nhất, vẫn còn nghèo nàn, lạc hậu mà dân chúng hầu như xa lạ với những quyền Tự do căn bản của con người. Tôi, và những người như tôi, tin tưởng vào thế hệ trẻ, ủng hộ các bạn trẻ cầm bút, với văn phong mới mẻ hơn, súc tích hơn.”

    Nếu câu nói trên do tôi nói ra thì chẳng có gì đáng để ý. Tôi trẻ hơn nhà văn Hoàng Ngọc Liên nhiều, chưa từng bị đánh đập, bị đày ải một ngày nào trong các trại tập trung Hoàng Liên Sơn, Thanh Phong, Vĩnh Phú, phát biểu hay ca ngợi lòng nhân ái là chuyện thường tình, nhưng nhà văn Hoàng Ngọc Liên thì khác, ông vừa mới thoát ra khỏi địa ngục trần gian cộng sản, sức khỏe chưa kịp phục hồi, thân thể còn đau nhức nhưng vẫn dựa lên các giá trị thiêng liêng của tình dân tộc và mục đích Tự do, Nhân bản cho các thế hệ Việt Nam hôm nay và mai sau để nói lên những lời tâm huyết của mình. Thật quý hóa và may mắn biết bao nhiêu. Không ai hòa giải với ông và ông cũng chẳng cần ai hòa giải. Ông đã tự hóa giải các xung đột bằng nhận thức và qua đó đã hòa giải được với chính mình. Dù bị tù 13 năm ông đã bước ra khỏi cổng trại như một người chiến thắng chứ không phải người thua trận. Ông trở về như sau một cuộc hành quân dài chứ không phải một người vừa được trao trả tự do, bởi vì lý tưởng Tự do Nhân bản vẫn còn là nguồn thôi thúc trong lòng nhà văn 70 tuổi và ông vững tin mục đích tốt đẹp đó một ngày sẽ đến với đất nước Việt Nam.

    Đọc tiểu luận “Nhà văn Việt Nam: Đổi mới và Hội nhập”, tôi cũng tìm thấy trong nhà văn Tô Nhuận Vỹ một ước vọng ngày mai tươi sáng như nhà văn Hoàng Ngọc Liên. Đất nước phải vượt qua những bế tắc, văn học phải vượt qua những bế tắc, mỗi nhà văn nhà thơ cũng phải tìm mọi cách vượt qua những bế tắc của chính mình để đi lên và đưa đất nước đi lên. Tuy nhiên, khác với nhà văn Hoàng Ngọc Liên ở điều kiện tự do, nhà văn Tô Nhuận Vỹ cho rằng bước đầu tiên và cần thiết nhất để hội nhập văn học Việt Nam trong cũng như ngoài nước là hòa hợp hòa giải trong giới văn nghệ sĩ: “đội ngũ nhà văn Việt Nam sẽ đóng vai trò đi đầu, là chiếc cầu nối cho việc hoà giải, hoà hợp dân tộc, đặc biệt giữa cộng đồng người Việt ở nước ngoài với đồng bào trong nước, do hoàn cảnh lịch sử, đã để lại một hố sâu ngăn cách, dị biệt chua xót sau chiến tranh.”

    Tôi không nghi ngờ thiện chí của nhà văn Tô Nhuận Vỹ nhưng thành thật mà nói, hòa giải hòa hợp chỉ là một chiếc bóng do Đảng vẽ ra mà những người Việt có lòng đang đuổi bắt như đã từng đuổi bắt con bồ câu hòa bình trước 1975.

    Hình ảnh con bồ câu trắng hiền hòa trên bầu trời quê hương thân yêu đã đẩy bao nhiêu tuổi trẻ Việt Nam tự nguyện lao vào chỗ chết, đơn giản bởi vì “nếu là chim tôi sẽ làm một bồ câu trắng và nếu là người tôi sẽ chết cho quê hương”. Các thành phố lớn miền Nam như Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn, đâu đâu cũng xuất hiện các phong trào đòi quyền sống, đòi hòa bình, đòi tự quyết. Các cuộc xuống đường diễn hành gần như mỗi ngày, mỗi tuần, nhiều đến nỗi làm cho dư luận quốc tế và cả những người hiểu biết giới hạn về chính trị có nhận xét trong các phe đang đánh nhau chỉ có chính quyền miền Nam mới là những kẻ hiếu chiến và đi ngược lại khát vọng hòa bình dân tộc.

    Kỹ thuật tuyên truyền tinh vi của Đảng đã biến những người lính miền Nam đang ngày đêm đổ máu trong cuộ c chi ến mà không có quyền chọn lựa thành những kẻ sát nhân, trong lúc những kẻ ném lựu đạn vào nhà hàng Mỹ Cảnh, pháo kích vào trường tiểu học Cai Lậy, chôn sống đồng bào trên Bãi Dâu Huế, đặt mìn trên quốc lộ số một… lại trở thành những anh hùng dân tộc. Và sau 1975, mọi người đều biết tất cả các phong trào hòa bình giả tạo đó đều do Trung ương Đảng trực tiếp chỉ đạo, những con chim bồ câu trắng xinh xinh kia là do bàn tay Đảng vẽ ra, và những kẻ ném bom ngày nào cũng không ai khác hơn chính là những đảng viên biệt động thành trung kiên của Đảng.

    Tôi cũng không nghĩ cần thiết phải có một nhu cầu hòa giải trong giới văn nghệ sĩ dù một thời đã phải đứng hai bên chuyến tuyến khác nhau. Tôi chưa gặp anh Tô Nhu ận Vỹ chỉ vì chúng ta chưa có điều kiện gặp nhau chứ không phải tôi hận thù, oán trách gì anh mà không gặp. Tôi đi rất nhiều nơi và tiếp xúc với nhiều anh chị chú bác trong giới cầm bút nhưng rất hiếm khi gặp một nhà văn nhà thơ mang lòng thù hận các nhà văn nhà thơ trong nước. Một số khá đông không thích tham gia vào các tác phẩm viết chung giữa các nhà văn trong nước và hải ngoại bởi vì họ không muốn làm cái loa tuyền truyền giùm cho Đảng, vả lại những tác phẩm viết chung chẳng đem lại một lợi lạc gì cụ thể khi phần lớn chỉ phát hành tại hải ngoại chứ không phải trong nước, một nơi có 80 triệu người cần phải đọc. Sau 33 năm, hàng trăm tác phẩm được viết trước 1975 tại miền Nam vẫn chưa được tái bản, chưa được công nhận, nhà văn nhà thơ gốc Việt Nam Cộng hòa vẫn còn bị đối xử như một thứ công dân hạng hai, nói chi là các nhà văn nhà thơ vượt biên sau 1975 và tác phẩm của họ được viết ra tại hải ngoại. Nếu văn học là đời sống tinh thần của con người trong một thời đại nhất định thì văn học hải ngoại hẳn phải mang đậm nét của hành trình tìm tự do đầy gian khổ, đương nhiên những tác phẩm như thế sẽ không bao giờ có mặt trong một nhà sách nào ở Việt Nam khi chế độ cộng sản còn tồn tại.

    Tình cảm giữa những người cầm bút dù bên này hay bên kia không xa cách nhiều như anh Tô Nhu ận Vỹ lo lắng. Tôi còn nhớ mười năm trước, vài ngày trước khi đến WJC tham gia hội thảo, có người hỏi tôi, nếu gặp nhau trong buổi hội thảo, tôi sẽ làm gì, sẽ đối xử ra sao với những người được gọi là “văn nô cộng sản” từ Việt Nam sang. Tôi trả lời người đó rằng sau buổi hội thảo, tôi sẽ rủ các anh chị từ trong nước sang đi uống cà-phê. Mọi người ngồi chung quanh tôi hôm đó đều bật cười vì nghĩ rằng tôi nói chơi. Không, tôi nói thật. Tôi đã đi uống cà-phê với nhiều anh chị văn nghệ sĩ từ trong nước sang. Không giống như những năm đầu, thời anh Lê L ựu sang tham gia WJC trở về, viết những bài ký sự rẻ tiền được in trong hai tập ký Một thời lầm lỗi và Trở lại nước Mỹ, các anh chị đến những năm sau dễ thông cảm hơn nhiều. Gặp ai tôi cũng chỉ yêu cầu một điều, hãy viết về cuộc đời và đất nước như các anh các chị đã từng sống. Thời kỳ viết theo chỉ thị đã qua rồi, xin để lại cho các thế hệ mai sau những lời chân thật. Hơn bao giờ hết đất nước đang cần những người nói thật và sống thật.

    Đối với các em sinh viên du học cũng thế. Tôi gặp họ rất sớm. Nhiều em mới sang còn đọc thơ Tố Hữu cho tôi nghe và còn nói về “Bác Hồ là vị cha chung, là sao Bắc Đẩu là vầng Thái Dương” của các em bằng một ánh mắt hồn nhiên và hãnh diện. Tôi kiên nhẫn nghe mà không phản đối bởi vì tôi hiểu đó là tất cả những gì em có. Thế giới tri thức của em từ lớp vỡ lòng đã được đóng khung trong những bài giảng đầy tính giáo điều cuồng tín. Một tuần lễ trước khi bị xử tử hình về tội diệt chủng, Nicolae Ceausescu vẫn còn được học sinh Rumani, giống như các em học sinh Việt Nam ngày nay, ca tụng là tinh hoa kết tụ từ dòng trường giang Danube. Tôi biết sau 4 năm đại học, các em sẽ thay đổi. Các em còn trẻ nên những thói hư tật xấu, mê tín dị đoan dễ đến nhưng rồi cũng sẽ dễ đi. Bệnh sùng bái cá nhân sẽ bớt dần, nhường chỗ cho ánh sáng khoa học thâm nhập vào tâm hồn trẻ trung của các em. Quá trình đổi mới nhận thức không diễn ra trong một sớm một chiều mà là một quá trình dài, từng bước và liên tục. Các em sẽ lớn lên và trưởng thành không phải chỉ ở tuổi tác mà cả về trí thức. Mỗi thế hệ có trách nhiệm riêng trong từng giai đoạn lịch sử. Các bậc cha chú dù đúng hay sai rồi cũng sẽ lần lượt xuống đất hay lên giàn hỏa và các em sẽ phải nghiêng vai gánh vác trách nhiệm lịch sử của thế hệ mình. Các em có quyền trách móc, đổ thừa nhưng không có quyền từ chối.

    Cửa nhà tôi ngày đó giống như cửa chùa, ai đến cũng được, tôi chưa bao giờ hỏi lý lịch hay căn cước người nào. Cách nói và cách trả lời với từng người có thể khác, nhưng đều chuyên chở một quan điểm chính trị và niềm tin về tương lai đất nước giống nhau. Quan điểm chính trị của tôi rất rõ ràng và đơn giản. Với tôi, cả dân tộc Việt Nam từ Bắc đến Nam, từ nhà văn nhà thơ cho đến người chưa hề viết nổi một lá thư, từ các nhà trí thức học nhiều hiểu rộng cho đến các bác nông dân tay lấm chân bùn, từ các cha cho đến các thầy, từ những người đã chết sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập năm 1930 hay còn sống hôm nay, nói chung hơn 80 triệu người, đều là nạn nhân của chủ nghĩa cộng sản.

    Đảng Cộng sản thắng trong chiến tranh không phải vì họ có chính nghĩa, mà bởi vì họ đã kiên trì với mục đích nhuộm đỏ Việt Nam, được tổ chức một cách tinh vi từ trung ương Đảng cho đến tận tổ ba người và khai thác triệt để lòng yêu nước sâu đậm của người dân Việt Nam. Tôi cũng có một niềm tin rằng dân tộc Việt Nam với mật độ dân số trung bình không quá đông hay quá ít, với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, với lực lượng chuyên viên đông đảo trong các ngành khoa học đang có mặt trên khắp thế giới, với truyền thống yêu nước Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa vẫn chảy đầy trong huyết quản, nếu được chắp đôi cánh tự do, dân chủ, nhân bản, Việt Nam sẽ bay lên cao, sẽ thật sự trở thành một cường quốc kinh tế, cường quốc quân sự, sẽ đủ khả năng bảo vệ sự toàn vẹn vùng trời, vùng biển của tổ quốc thiêng liêng. Nếu không có tự do dân chủ, “khát vọng cất cánh” mà anh Tô Nhu ận Vỹ nêu ra trong phần đầu tiểu luận chỉ là một giấc mơ tiên.

    Có người cho rằng Đảng Cộng sản đã có một thời đồng hành với dân tộc, cùng hướng đến một mục tiêu như dân tộc Việt Nam, do đó vai trò lãnh đạo của Đảng ngày nay là hệ quả tất yếu của lịch sử. Tôi không đồng ý. Đó là lý luận của kẻ cướp. Với tôi, rất nhiều đảng viên Đảng Cộng sản tham gia chống Pháp phát xuất từ lòng yêu nước và đã chết cho đất nước như tôi đã nhiều lần viết trên diễn đàn này, nhưng bản thân Đảng Cộng sản như một tổ chức chính trị chưa bao giờ đồng hành với dân tộc. Việc giành lại nền độc lập và chủ quyền đất nước từ tay thực dân là mục tiêu, là bến bờ của dân tộc Việt Nam, trong khi đó đối với Đảng Cộng sản, độc lập dân tộc chỉ là phương tiện, một chiếc cầu, một chiếc ghe họ cần có để đi qua trên đường tiến tới cách mạng vô sản. Mục tiêu đó đã được khẳng định ngay trong “Luận cương chính trị” Đại hội Đảng Cộng sản Đông Dương do Trần Phú chủ trì năm 1930 và được Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương phê chuẩn vào tháng 4 cùng năm:"Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong cuộc cách mạng; hai giai đoạn cách mạng từ cách mạng tư sản dân quyền chống đế quốc và phong kiến nhằm thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và người cày có ruộng và sau đó chuyển sang làm cách mạng xã hội chủ nghĩa.”

    Sau 1975, một số người từng xếp bút nghiên vào rừng “Chống Mỹ cứu nước” đã phẫn nộ, kết án giới lãnh đạo Đảng đi ngược lại quyền lợi dân tộc, phản bội lý tưởng, phản bội máu xương của đồng chí họ, đưa đất nước đi vào con đường nghèo đói, độc tài, đảng trị. Nghĩ cho đúng, đó là những lời kết án thiếu cơ sở lý luận lẫn thực tế. Thật là oan cho Đảng. Nếu họ chịu khó đọc các đề cương chính trị đại hội Đảng từ ngày thành lập 78 năm trước cho đến đại hội lần thứ X cách đây hai năm, sẽ thấy Đảng Cộng sản chưa bao giờ phản bội mục tiêu của mình. Mục tiêu cộng sản hóa toàn cõi Việt Nam và đặt dân tộc Việt Nam dưới quyền cai trị tuyệt đối của Đảng chưa bao giờ thay đổi. Vì một số điều kiện cách mạng và biến chuyển chính trị thế giới xảy ra ngoài tiên liệu, các chính sách của Đảng cũng phải theo đó mà áp dụng một cách thích nghi hơn, mềm dẻo hơn qua những chính sách gọi là “đổi mới”, “hội nhập” v.v..., nhưng mục đích của Đảng từ trước đến sau luôn nhất quán.

    Có người đến nay vẫn nghĩ rằng việc họ hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng Cộng sản để đứng lên “Chống Mỹ cứu nước” là một lý tưởng cao đẹp của cuộc đời họ, nhưng không biết rằng câu đó chỉ là một trong hàng chục khẩu hiệu có tính giai đoạn mà Đảng đã dùng. Nếu Mỹ không qua Việt Nam thì Đảng có để yên cho nhân dân miền Nam xây dựng một xã hội tự do dân chủ không? Chắc chắn là không. Dĩ nhiên, Mỹ không qua sẽ không có khẩu hiệu “Chống Mỹ cứu nước”, nhưng Đảng có thừa chuyên viên truyên truyền chuyên nghiệp để nghĩ ra những khẩu hiệu khác không kém phần khích động.

    Tôi đồng ý với nhà văn Tô Nhuận Vỹ rằng giữa các nhà văn nhà thơ trong và ngoài nước hay đã từng đứng trên chuyến tuyến khác nhau vẫn còn “một hố sâu ngăn cách, dị biệt chua xót”, nhưng nghĩ cho đúng, cái hố sâu đó chẳng phải do nhà văn nhà thơ nào đào ra. Đó không phải là hố sâu tình cảm mà là hố sâu ý thức hệ. Theo lẽ tự nhiên, ai đào ra thì người đó phải lấp lại. Trách nhiệm hòa giải hòa hợp dân tộc, xóa bỏ các cách ngăn về ý thức hệ là trách nhiệm của giới lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong suốt 33 năm qua với bao nhiêu cơ hội nhưng các lãnh đạo Đảng chẳng những không thể hiện một hành động nào cụ thể để chứng tỏ tinh thần hòa giải hòa hợp dân tộc mà càng đào sâu hơn những hố sâu ngăn cách, làm lở loét thêm những vết thương vẫn còn đang mưng mủ trên da thịt của nhiều triệu người Việt Nam. Việc yêu cầu chính quyền Nam Dương đập bỏ tấm bia tưởng niệm đồng bào chết trên Biển Đông hay việc tổ chức rầm rộ kỷ niệm 40 năm Mậu Thân trên nỗi đau câm nín của hàng ngàn đồng bào Huế là vài ví dụ điển hình.

    Với đồng bào hải ngoại, những hành động xúc phạm hương linh của những em bé chết trôi, những bào thai ngột nước ngay lúc còn trong bụng mẹ, những oan hồn đang vất vưởng khắp Biển Đông như thế, làm sao lãnh đạo Đảng Cộng sản có thể vận động được đoàn kết trong ngoài, nhất là đối hơn hai triệu người Việt hải ngoại, để cùng đưa đất nước đi lên?

    Với đồng bào trong nước, những chương trình ca nhạc rầm rộ mừng 40 năm chiến thắng Mậu Thân, trong lúc cùng thời điểm đó trên khắp ba miền đất nước, nhất là tại Huế, hàng trăm ngàn đồng bào đang khóc trong âm thần, trong tủi nhục, trong hờn căm u uất, thì làm sao lãnh đạo Đảng có thể phát huy được nội lực dân tộc?

    Bất cứ một người Việt Nam nào với một trình độ nhận thức trung bình cũng biết những hành động vừa nêu của giới lãnh đạo Đảng là không cần thiết và quá đáng. Tôi tin ngay cả trong Bộ Chính trị và Trung ương Đảng cũng có người biết việc đó là phi nhân, lạc hậu, vụng về và quá đáng, nhưng họ không có chọn lựa nào khác ngoài việc phải làm, đơn giản bởi vì che đậy tội ác là phản ứng tự nhiên của những kẻ đã gây ra tội ác.

    Chim bay cần đôi cánh nhưng không phải giống chim nào có cánh cũng có thể bay cao. Chim se sẻ chỉ biết bay quanh vườn, nhảy nhót trên những cành xoài, cành ổi, nhưng để có một hạm đội Việt Nam, một phi đoàn Việt Nam, một vệ tinh Việt Nam, một phi thuyền Việt Nam, đất nước phải cần có đôi cánh phượng hoàng, nói đúng hơn là đôi cánh dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam, với những mâu thuẫn đối kháng và bế tắc ngay từ bên trong cơ cấu độc tài đảng trị sẽ không có khả năng đưa đất nước lên ngang tầm với thời đại, và do đó, việc chọn lựa một con đường thay thế là trách nhiệm của các thế hệ Việt Nam trong và ngoài nước hôm nay.

    © 2008 talawas
    viethoaiphuong
    #79 Posted : Sunday, July 20, 2008 8:05:13 PM(UTC)
    viethoaiphuong

    Rank: Advanced Member

    Groups: Registered
    Joined: 6/24/2012(UTC)
    Posts: 9,342
    Points: 11,181

    Thanks: 761 times
    Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
    Người Việt Hải Ngoại: Sydney Morning Herald: Nhắc nhở ... "lá cờ quốc gia của Việt Nam tự do"
    Gửi vào ngày Thứ Hai, 21 Tháng 7, 2008.


    Lá cờ cho tự do
    Báo Sydney Morning Herald 21/7/08



    http://tiengnoitudodanch...s&file=article&sid=6190
    viethoaiphuong
    #80 Posted : Tuesday, July 22, 2008 11:13:35 PM(UTC)
    viethoaiphuong

    Rank: Advanced Member

    Groups: Registered
    Joined: 6/24/2012(UTC)
    Posts: 9,342
    Points: 11,181

    Thanks: 761 times
    Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
    * Gởi bởi Nguyễn Thùy


    "Bài ra thế ấy, vịnh vào thế kia !"
    Có nên "cảm ơn" Hồng Y Phạm Minh Mẩn ?
    Tinh thần Hiệp Thông ngày Lễ Hội WYD


    Trong suốt thời gian Ðại Hội Giớt Trẻ Công Giáo Thế Giới tại Sydney, Úc Châu, từ ngày khai mạc đến bế mạc, không thấy lá cờ đỏ nào của Cộng sản mà chỉ có rừng Cờ Vàng tung bay. Ðây là một thành công, một thắng lợi to lớn của lý tưởng Tự Do Dân Chủ nơi Cộng Ðồng người Việt hải ngoại nói chung và của Cộng Ðồng người Công Giáo tỵ nạn Cộng sản trên toàn thế giới. Thắng lợi nầy cũng làm nức lòng, đem lai phấn khởi cho đồng bào quốc nội, nhất là nơi lớp dân nghèo, dân oan đang khiếu kiện, nơi tầng lớp Thanh niên, Sinh viên và nơi thành phần trí thức, Văn nghệ sĩ, phóng viên đang tranh đấu cho Tự Do Dân Chủ tại quê nhà.
    Bài viết nầy xin nêu ra ba điều sau đây :
    * Ðòn phép Cộng sản qua lá thư của Hồng Y PMM đã quay ngược lại hại chính họ
    * Phải chăng Hồng Y PMM làm bước ‘nghịch hành’ ?
    *Tinh thần Hiệp Thông của người Công giáo VN với Ðức Chúa Trời qua Ðức Giáo Hoàng trong ngày Lễ Hội.WYD.

    I.- Theo lá thư của Hồng Y PMM, thì ‘lá Cờ Vàng là sự cố ngăn chặn tinh thần Hiệp Thông’. Chính do sự ‘phẫn nộ’ về điều Hồng Y nói mà Cộng Ðồng người Việt hải ngoại đã ‘phản ứng’ mạnh mẽ khắp năm châu, trong đó có người viết nầy, đôi khi lời lẽ nặng nề, xúc phạm cả tước vị Hồng Y của người. Chắc Hồng Y PMM và cả người Cộng sản không thể ngờ sự việc đã xảy ra hoàn toàn ngược lại với lá thư của Hồng Y, ngược hẳn lại với ý đồ thâm độc của Cộng sản. Tinh thần Hiệp Thông đã không gặp trở ngại vì ‘sự cố lá cờ vàng’ mà càng được thể hiện rõ ràng,mạnh mẽ do lá cờ Vàng nầy. Giới trẻ Công giáo từ VN sang Úc, cùng một số Linh mục, chẳng hề ‘đố kỵ’ Lá Cờ Vàng mà còn vui vẻ bên cạnh người trẻ Công giáo hải ngoại trong tay đang cầm Lá Cờ Vàng và phấp phời phía trên cũng lá cờ Vàng. Cộng sản đã tốn bao nhiêu công, của, bao nhiêu nhân sự nhưng kết quả là ‘hư không’. Ngay ngày Ðại Hội, Tổng Lãnh sự VN CS tại Úc đã cho người đem cờ đỏ trao cho giới trẻ Công giáo đến từ quốc nội nhưng giới trẻ Công giáo đã từ chối. Hồng Y PMM và Cộng sản ngỡ rằng bức thư của Hồng Y sẽ là đòn ‘tuyệt đao’ đánh nát tan lá cờ Vàng và phân hóa Cộng Ðồng người Việt ra muôn mảnh để chẳng còn ai dám ‘cứng cổ’ đòi Tự Do Dân Chủ cho đồng bào quốc nội. Nhưng, ‘mưu thâm thì họa cũng thâm’, tục ngữ bảo thế. Số người Cộng sản đang cầm quyền hình như chưa đọc Truyện Kiều để nhận ra lời Nguyễn Du : ‘Bài ra thế ấy vịnh vào thế kia’, (Kiều : câu 232). Riêng Hồng Y PMM quên hẳn lời Chúa : ‘hễ ai dùng gươm sẽ bị chết vì gươm’ (Ma : 26-52).

    II.- Sự việc chàng thanh niên Công giáo VN hải ngoại được diện kiến Ðức Giáo Hoàng, được Ðức Giáo Hoàng ban phước cho lá Cờ Vàng Ba Sọc Ðỏ rồi Giáo Hoàng đã khoác lá cờ đó qua vai Ngài, nói lên gì ? Có thể việc làm của người thanh niên đó là một hành động chính trị do sắp đặt của Cộng Ðồng người Việt nói chung hay của Cộng Ðồng Công Giáo tại Úc hoặc do chính anh ta muốn tỏ bày một thái độ chính trị. Nhưng, trên mặt tôn giáo, người viết có ý nghĩ xem đấy là một ‘Hiệp Thông trực tiếp’ (communication parfaite et directe) giữa chàng trai với Chúa qua đại diện của Ngài nơi cõi thế là Ðức Giáo hoàng.

    Tinh thần Hiệp Thông (communion), theo người viết được thể hiện bằng hai cách :
    1) Cách thứ nhất là ‘trực diện’ với Ðức Chúa Trời. Ðây là trường hợp ông Giốp trong sách Giốp nơi Cựu Ước. Giốp là người rất giàu có, rất hạnh phúc : ‘bảy con trai và ba con gái, có bảy ngàn chiên, ba ngàn lạc đà, năm trăm đôi bò, năm trăm lừa cái và tôi tớ rất nhiều’. ‘Giốp vốn trọn vẹn, và ngay thẳng, kính sợ Ðức Chúa Trời, và lánh khỏi điều ác’. Ðức Giê-hô-va bảo với Sa-tăng : ‘Ngươi có nhìn thấy Giốp, tôi tớ của ta chăng ; nơi thế gian chẳng có người nào giống như nó, vốn trọn vẹn, ngay thẳng, kính sợ Ðức Chúa Trời, và lánh khỏi điều ác’. Sa-Tăng mỉa mai, bảo : ‘Nhưng bây giờ hãy giơ tay Chúa ra, đụng hại các vật người có, ắt là người sẽ phĩ báng Chúa trước mặt’. .Chúa muốn xem Sa-Tăng có lung lạc được Giốp chăng nên bảo Sa-Tăng cứ thực hiện những điều như Sa-Tăng nghĩ, nhưng ‘hãy giữ mạng sống của Giốp’.Thế là, bao nhiêu trâu bò, dê cừu của Giốp bị giặc đến cướp bóc, giết sạch các tôi tớ , lửa từ trời thiêu đốt hết chiên, cừu, lạc đà và tôi tớ ; gió lớn từ sa mạc làm sập nhà, đè chết hết các người trẻ tuổi…Giốp ‘xé áo và cạo đầu, sấp mình xuống dất mà thờ lạy, nói rằng : ‘Tôi trần truồng thoát khỏi lòng mẹ và tôi cũng trần truồng mà về. Ðức Giê-Hô-Va đã ban cho, đức Giê-Hô-Va lại cất đi, đáng ngọi khen dức Giê-Hô-Va !’. Sa-Tăng không dừng ở đấy, bèn ‘hành hại Giốp một bịnh ung độc từ bàn chân cho đến chóp đầu. Giốp lấy một miếng sành đặng gãi mình và ngồi trong đống tro. Vợ người nói với người rằng : ‘Ủa ? Ông hãy còn bền dỗ trong sự hoàn toàn của mình sao ?…Hãy phĩ báng Ðức Chúa Trời, và chết đi !’. Giốp đáp lời vợ : ‘..Ủa sao ! Sự phước mà Ðức Chúa Trời ban cho chúng ta, chúng ta lảnh lấy, còn sự tai họa mà tay Ngài giăng trên chúng ta, lại chẳng lảnh lấy sao ?’. Giốp đau đớn, rên rỉ, kêu van..Bạn bè đến an ủi, nói bao diều phải trái. Nhưng Giốp bài bác mọi lời bàn tán và bảo : ‘’Song ta muốn thưa với Ðấng Toàn năng, Ước ao biện luận cùng đức Chúa Trời,…Dẫu Chúa giết ta, ta cũng còn nhờ cậy nơi Ngài, Nhưng ta sẽ binh vực tính hạnh ta trước mặt Ngài, Chánh điều đó sẽ là sự cứu rỗi ta ; vì một kẻ vô đạo chẳng được đến trước mặt Chúa,…’’. Và Giốp cầu nguyện cho bạn bè mình. Sa-Tăng không thắng nỗi Giốp. Ðức Chúa Trời lại ban phép lành cho Giốp. Ông hết bịnh, tài sản càng dồi dào lại gấp hai những gì có trước. Chứa xua đuổi bạn bè Giốp, không trừng phạt vì Giốp đã cầu nguyện cho họ và Chúa bảo với họ : ‘’bỡi vì các ngươi không có nói về ta cách xứng đáng, y như Giốp, kẻ tôi tớ ta, đã nói’’. Do Hiệp Thông trực tiếp với Ðức Chúa Trời, Giốp đã thắng vượt Sa-Tăng và lại được Ðức Chúa Trời ban cấp phước lành hơn cả trước kia. Giốp muốn trực diện biện bạch trực tiếp với Ðức Chúa Trời chứ không qua trung gian một ai.tức qua một ‘ngôi thứ ba’ (troisième personne). Cũng thế, khi ta cầu nguyện hay xưng tội, dù có qua một Linh mục, thì tự ta, phải xem là đang trực diện với Chúa vì chỉ có Chúa mới xét đoán, tha tội hay ban ơn lành chứ không một ai khác.
    Nhưng làm sao ‘Hiệp thông trực tiếp với Ðức Chúa Trời’ ?. Giản dị thôi. Hiệp Thông trực tiếp với Ðức Chúa Trời là ‘hiệp thông trực tiếp với Thánh Linh nơi ta’. Thánh Linh chính là linh năng, linh khí, sinh khí nơi mỗi con người trực tiếp đến từ Thượng Ðế. Chúng ta biết, qua Sáng Thế Ký, mọi vật được tạo do lời phán của Thượng Ðế. Với con người, Thượng Ðế không phán mà lấy đất có thấm hơi nước, nặn nên hình người rồi hà hơi vào lổ mũi Adam nên con người trở nên một sinh linh. Cái hơi mà Thượng Ðế hà vào lổ mũi Adam là phần linh khí trực tiếp đến từ Thượng Ðế, phần ‘tồn thân’ của Thượng Ðế nơi con người. Nguồn hơi đó là Thánh Linh, là nguồn sinh khí nuôi dưỡng cuộc sống mỗi người . Chúng ta biết, có thể nhịn ăn suốt tháng, không chết ; nhịn uống đôi ba ngày, không chết nhưng nhịn thở chỉ đôi phút là ta ‘tắt thở’ nghĩa là chết. Phương pháp Thiền Ðịnh nơi Phật giáo, dù hành thiền, tọa thiền, ngọa thiền, điều cần nhất đầu tiên là ‘kiểm sóat hơi thở’, giữ hơi thở điều hòa. Phương pháp ‘châm cứu’ của Ðông phương, không dùng thuốc mà dùng kim châm vào một số huyệt đạo để nguồn sinh khí luân lưu quân bình nơi cơ thể.
    Ði xa hơn, về mặt tâm linh, chính cái Thánh Linh tạo cho sự sống của ta an bình, hanh phúc, lương hảo, thánh thiện, xa lìa tội ác và có ý nghĩa cao quí. Phật giáo gọi cái Thánh Linh đó là ‘Thể Chân Như’, là ‘Phật tính, Phật Tâm’, là ‘Tánh Không, (nơi mỗi người thường gọi là cái Tâm) tức Ðạo Thể nguyên sơ (nếu không dùng từ Thượng Ðế’ theo Ki-Tô giáo). Trực diện với Thánh Linh là cách thức ‘kiến tánh’, ‘trực chỉ chân tâm’ nơi Phật giáo. Chúa Jésus không nói rõ cách nào hiệp thông trực tiếp với Thánh Linh. Phật giáo đã đề ra phương pháp. Ðấy là cách tu chứng theo Bát Chánh Ðạo. Ði từ ‘chánh ngữ, Chánh tri kiến’,… đến mức cuối cùng là Chánh Ðịnh. Lúc Chánh Ðịnh rốt ráo là lúc ta trực diện với Tánh Không. Tánh Không thoắt nhiên sinh khởi nơi ta và ta đạt được cái trạng thái Bồ Tát, trạng thái ‘Chánh đẵng, chánh giác’ ; ta không còn bị ngăn ngại bỡi Sự (sự chướng) và Lý (lý chướng), không còn bị chi phối bỡi Nhân duyên sanh, bỡi phạm trù ‘Sở nhân – Năng nhân’ , cặp phạm trù ‘chủ thể - đối tượng’ ; nói chung là thoát khỏi những ‘chân lý qui ước’ (vérités conventionnelles) huyễn cấu do ‘nhân duyên hòa hợp’ mà đạt đến cái ‘Chân lý cứu cánh’ (vérité ultime) tức là sống hoàn toàn với cái Tánh Không, cái Thánh Linh nơi mình và lúc đó cái ‘tư duy ý thức’ cũng tắt lịm nơi ta. Ðiều nầy Kinh điển Phật giáo đã đề cập như Kinh Viên Giác (bản dịch sang tiếng Việt, Phật Học Viện Quốc tế xuất bản, 1985, chương Phổ Nhàn), Kinh Duy Ma (bản dịch của Thích Huệ Hưng, Phật Học Viện Quốc Tế xuất bản, 1986, phẫm ‘Quán Chúng Sanh’, phẫm ‘Pháp Môn Không Hai’). Sống với Thánh Linh, với Tánh Không thì có ích lợi gì ? Trước tiên ta không làm điều ác, không gây nên phạm tội ; tiếp theo, ta giúp tạo lập cuộc đời hài hoà, êm đẹp. Theo Phật giáo, khi trực diện với Tánh Không, ta sẽ đạt được cảnh giói Bồ Tát để lại sống hoà đồng với mọi người, ta trở thành một ‘Thiện Trí Thức’ như Thích Ca, như Jésus, ‘dùng phương tiện thị hiện ra nhiều hình tướng, khi thì hiện cảnh thuận, khi thì hiện cảnh nghịch,.. đồng làm những nghề nghiệp như chúng sanh để tiện bề hóa độ cho chúng sanh được thành Phật’ (Kinh Viên Giác, sđd, trang 35). Thiện trí thức, để hóa độ chúng sanh, thường làm nhiều việc ngược lại với lẽ thường -người viết gọi là ‘nghịch hành’- có thể bị thế gian lên án nhưng kết quả là giải thoát chúng sanh khỏi cảnh ngặt nghèo, khỏi vòng đau khổ. Chẳng hạn Chúa và môn đồ làm việc trong ngày Sa-Bát, điều mà luật Do Thái thời đó cấm đoán. Người Do Thái chê cười Chúa, Chúa bảo :’con người là chúa ngày Sa-bát’. Hành động của Dương Lễ đối với Lưu Bình, có thể xem là một ‘nghịch hành’. Với cái Thánh Linh đó, Jésus đã sống vừa là Thầy vừa là tớ của thế gian. Thánh Linh là thứ của cải được ban cấp bỡi Ðức Chúa Trời, thứ của cải ‘ta đã lảnh không thì hãy cho không’, Chúa đã khuyên như vậy.
    Người thanh niên Công giáo VN tại Úc, dâng lá cờ Vàng lên Ðức Giáo Hoàng, dù có dụng ý chính trị, thì cũng là điều tốt vì anh đã gởi ‘Thánh Linh’ nơi mình vào lá cờ đó vì lá cờ Vàng là biểu tượng cho mọi điều tốt đẹp mà anh từng nuôi dưỡng lâu nay. Mà những điều đó, theo anh, hợp với niềm tin Chúa của anh. Nói thế, cỏ vẻ siêu hình và đề cao anh ta quá đáng, nhưng, theo người viết, chính cái Thánh Linh đã đột khởi nơi anh vào lúc đó mà anh không ý thức.Vì Thánh Linh là cái vô hình, một pháp vô vi, nói theo Phật giáo, sống nơi ta nhưng đến và đi lúc nào ta không hay nếu ta không thực sự sống với Thánh Linh. Hồng Y PMM đã để Thánh Linh thoát khỏi người vì lý do nầy, lý do nọ.
    Ðức Giáo Hoàng đã quàng Lá Cờ Vàng Ba Sọc Ðỏ qua vai Ngài là Ngài, có thể do hai lý do. Dĩ nhiên, Ngài được thông báo trước người lên diện kiến Ngài là một thanh niên Công giáo VN tỵ nạn tại Úc. Chỉ mấy tiếng ‘người VN tỵ nạn’ đủ gợi lên nơi Ngài bao ý nghĩ. Dĩ nhiên, Ngài biết qua lịch sử VN, dù không chi tiết, từ ngày có Ðảng Cộng sản đến nay. Ngài biết cuộc di cư trên nửa triệu người, phần đông là người Công giáo, từ miền Bắc vào miền Nam ngay sau khi Hiệp Ðịnh Genève 20/07/54 được ký kết. Ngài không quên thảm cảnh hàng triệu người VN đành bỏ nước ra đi, trong đó không ít con chiên Công giáo, ngay sau ngày 30/04/75. Và dĩ nhiên, Ngài không quên vị tiền nhiệm của Ngài –Giáo Hoàng Jean Paul II- đã góp công rất lớn giải phóng bao nước Ðông Âu và cả Nga (Liên Xô lúc bấy giờ) thoát chế độ Ðảng trị, Công an trị của Cộng sản để được sống ấm no, an lành hiện nay. Và chắc, Ngài cũng rõ người VN hải ngoại đấu tranh cho Tự Do Dân Chủ là cho đồng bào trong nước chứ có cho họ đâu (vì họ đang sống nơi nước Tự do), cũng không để tranh quyền đoạt lợi gì với người trong nước. Ban phước lành cho lá Cờ Vàng Ba Sọc Ðỏ do chàng trai Việt tỵ nạn Cộng sản, dâng lên là Ngài đã hiểu lá cờ đó biểu tượng cho Tự Do, cho Hoà Bình, cho Tình Thương, cho quyền sống của con người và cho mọi khổ nạn đau thương đang cầu xin hồng ân của Thượng Ðế đến với toàn dân VN nơi quốc nội đang quằn quại đau thương bỡi bàn tay quỷ dữ.
    Ngài dã quàng lá cờ Vàng Ba Sọc Ðỏ qua vai. Lá cờ Vàng trở thành chiếc khăn choàng làm ấm chiếc cổ để luồng hơi thở không bị cái lạnh làm khó chịu. Bình thường là thế, nhưng nơi đây, sự việc Ngài quàng lá cờ Vàng qua hai vai, muốn tỏ rõ ý Ngài là vui mừng được tiếp nhận Thánh Linh của chàng trai. Thánh Linh đó nơi chàng trai, nơi Giáo Hoàng hay nơi Thượng Ðế cũng chỉ là một vì là hơi thở, là linh năng, sinh khí mà Thượng Ðế đã trực tiếp truyền cho con người. Chúa Jésus đã bảo : ‘’Nếu ai nói phạm đến Con người, thì sẽ được tha ; song nếi ai nói phạm đến Ðức Thánh Linh thì đời nầy hay đời sau cũng sẽ chẳng được tha’’ (Ma : 12-32). Quàng lá Cờ Vàng Ba Sọc Ðỏ qua vai là Ðức Giáo Hoàng đã ‘hiệp thông’ Thánh Linh nơi Ngài với Thánh Linh nơi chàng trai trong Thánh Linh của Ðức Chúa Trời vậy.
    Xin bạn đọc tha cho lỗi ‘khoa trương kiến thức và đề cao sự việc mang tính cách siêu hình do tưởng tượng chủ quan.. Người viết viện dẫn dông dài như trên chỉ nhằm nói lên cái Tinh Thần Hiệp Thông giữa Thanh niên Công giáo trong nước và hải ngoại trong ngày WYD, đồng thời cũng mạn phép trình bày với bạn đọc về sự hoàn toàn giống nhau của lời Phật và lời Jésus. Ðồng thời, người viết cũng nêu lên nơi đây hai giả thuyết :
    * Giả sử Hồng Y PMM biết lá thư của Hồng Y sẽ gặp chống đối, đả kích nhưng Người vẫn công bố, một phần để chìu theo ý Cộng sản nhưng dụng ý chính là cốt để đồng bào phẫn nộ, từ việc chống đối Người sẽ ào ạt chống mãnh liệt chế độ Cộng sản một cách qui mô trong ngày Lịch sử WYD. Có thể,do phẫn nộ Hồng Y mà nhiều người trước đây ít tham gia biểu tình, tuần hành, bây giờ lại tham gia đông đảo để rừng Cờ Vàng tưng bừng reo vui khắp năm châu.và nơi lòng toàn thể người Việt Nam. Nếu quả Hồng Y có dụng ý đó thì quả Hồng Y là một Thiện Trí Thức, đã làm bước ‘nghịch hành’, chịu ‘hy sinh’ mình, chịu ‘tuẩn nạn’ cho lý tưởng Tự Do Dân Chủ. Nếu quả như thế, thì xin cảm ơn Hồng Y và xin Hồng Y tha thứ cho bao lời phạm thượng đến Hồng Y. Và như thế, mai đây, Cộng sản có làm khó dễ đủ điều như Công an CS sẽ mời Hồng Y ‘làm việc’ liên miên, cho công an và bọn ‘xã hội đen’ canh gác, theo dõi Hồng Y đêm ngày, canh chừng Hồng Y từ cái ăn, cái ở, cái đi lại, cả kiểm duyệt những bài thuyết giảng Ðạo Chúa của Hồng Y,…, hẳn Hồng Y sẽ can trường và vui vẻ nhận chịu vì Hồng Y đã có Chúa nơi mình, đã sống hoàn toàn với cái Thánh Linh của mình. Và như thế, Hồng Y đã noi gương Chúa, vừa là Thầy rao giảng Tin Lành vừa là tớ hết lòng phục vụ dân tộc, đất nước và đồng bào. Tuy nhiên, người viết cũng như đông đảo nguời khác không tìm ra lý do nào minh chứng Hồng Y đã làm bước ‘nghịch hành’ can đảm đó.
    * Giả thiết một thanh niên Công giáo nào từ VN sang hay một cán bộ, công an Cộng sản giả làm một tín hữu Công giáo cũng lên dâng lá Cờ Ðỏ Sao Vàng thì Giáo Hoàng có ban phước cho lá cờ đó và quàng lên vai Ngài chăng ? Người viết nghĩ Ðức Giáo Hoàng vẫn ban phước cho lá Cờ Ðỏ Sao Vàng vì, theo đúng lời Chúa Jésus : ‘Ta đến để kêu người có tội’. Việc ban phước nầy khác hẳn với ban phước cho lá Cờ Vàng Ba Sọc Ðỏ. Ban phước cho lá Cờ Ðỏ nầy được xem là sự ‘giải tội’ về những tội ác mà lá cờ đỏ nầy đẩ gây ra hầu từ nay, không gây ra tội lỗi thêm nữa. Nhưng nhất định Giáo Hoàng không quàng lá cờ đỏ đó qua vai. Vì Ngài đã rõ lịch sử VN cùng bao khổ nhục, đau thuơng của con chiên Ngài từ ngày có Ðảng Cộng sản đến nay. Lá cờ Ðỏ Sao Vàng là biểu tượng của tội ác, của quỷ dữ, của Sa-tăng. Dù kẻ dâng lá cờ Ðỏ đó có năn nỉ, khẩn khoản dâng trao cho Ngài, Ngài cũng không thể nào chấp nhận, lưu giữ. Tha thứ tội lội không đồng nghĩa với quên tội lỗi, bỏ qua tội lỗi vì đến ngày phán xét, Chúa sẽ căn cứ trên công đức và tội lỗi mổi người đã làm, đã gây ra để có kẻ ‘được chọn’ (les élus) và những kẻ ‘bị ruồng bỏ’ (les réprouvés) hiểu theo Saint Augustin (người viết nhớ mang máng như thế).

    2/- Cách thứ hai của tinh thần Hiệp Thông là ‘’Hãy yêu kẻ lân cận như mình’’ (Ma : 19-19). Yêu kẻ lân cận là yêu kẻ khác, yêu tha nhân, kẻ cùng sống với ta trong môi trường đồng loại. ‘Yêu kẻ lân cận như mình’,có nghĩa ‘’ Ấy vậy, hễ điều chi mà các ngươi muốn người ta làm cho mình thì cũng hãy làm điều đó cho họ’’ (Ma : 7-12). Nếu lời đức Khổng ‘Ðừng làm cho người những gì mà mình không muốn người làm cho mình’’ (Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân) khuyên ta tự chế thì lời Chúa khuyên ta nên vị tha và có tính cách đòi hỏi, bắt buộc. ‘Yêu kẻ lận cận như mình’ là xem kẻ khác là ‘bản vị’ là ‘chủ thể tự do’ như ta, không xem kẻ khác là ‘đối tượng’ để ta khai thác, lợi dụng, bóc lột. cái ‘tự dụng’ của kẻ khác, biến thành ‘tha dụng’ để phục vụ cái ‘tự dụng’ của ta. Chẳng hạn Cộng sản cướp đất đai, nhà cửa, ruộng vườn người dân (tự dụng của người dân) để xây khách sạn, sân golf, sòng bài, chỗ du lịch (tha dụng) để họ hưởng giàu sang, phú quí cho họ (tự dụng của người Cộng sản). Phật giáo chủ trương ‘diệt dục’, ‘diệt trừ tham ái’ phần nào cũng trong ý đó, có nghĩa đừng lo lắng phục vụ cái ‘tự ngã huyễn hóa’ của ta mà gây đau khổ cho người, có thế mới vượt thoát được ‘sự chướng’ và ‘lý chướng’ hầu trực diện với cái ‘Tánh Không’, cái Thánh Linh nơi mình. ‘Yêu người lân cận như yêu mình’ là xây dựng được cuộc sống chung êm đẹp, hài hòa, hảo hợp trong môi trường dồng loại, từ đó không gây phạm tội, không gây đau khổ cho mình và cho nhau. Lời Chúa đơn sơ nhưng không dễ gì thực hiện vì ma quỷ, vì Sa-tăng luôn quanh quẩn, rình rập để dắt dẫn ta vào nẻo hoặc, đường mê, xa rời cái Thánh Linh nơi ta.
    Ngày WYD tại Úc đã nói lên tinh thần Hiệp Thông theo cách nầy. Thanh niên Công giáo từ VN sang và tại hải ngoại luôn đề huề, thông cảm, thân thương, không hề tỵ hiềm chút nào về lá Cờ Vàng Ba Sọc Ðỏ, không hề e ngại gì về xuất xứ của mình (xứ Cộng sản và xứ Tự do). Ðồng bào VN hải ngoại và Thanh niên giáo dân người Việt hải ngoại có hãnh diện vì rừng cờ Vàng và không thấy lá cờ Cộng sản xuất hiện là hãnh diện vì cái Thiện đã thắng cái ác, chính nghĩa thắng tà thuyết chứ không hãnh diện gì với đồng bào và Thanh niên giáo dân từ trong nước sang dự Lễ. Thanh niên Công giáo từ VN sang từ chối lá cờ Ðỏ của Cộng sản đã chứng tỏ không sợ hãi bạo quyền và không ham danh lợi (vì nếu nhận và trương lá cờ đỏ đó, chắc cũng không bị người Việt hải ngoại phĩ báng, nhiều lắm là giựt bỏ lá cờ đỏ chứ không xô xát, hành hung vì sẽ bị động chạm đến luật pháp nước chủ nhà.. Hơn nữa, lúc về nước sẽ được Cộng sản hoan nghênh và ban phát bao nhiêu ơn huệ). Thanh niên Công giáo từ VN sang đã ‘hiệp thông’ với Thanh niên Công giáo hải ngoại trong tinh thần Kính Chúa, yêu người, trong Ðức Thánh Linh, trong Ðức Tin nên gạt bỏ ý thức chính trị dù Cộng sản có tìm cách bắt buộc.

    Tóm lại, tinh thần Hiệp Thông trong ngày Lễ Hội Thanh niên Công Giáo toàn cầu tại Úc, không hề bị ‘sự cố’ nào vì lá Cờ Vảng Ba Sọc Ðỏ như Hồng Y PMM nói, mà còn được thể hiện vô cùng tốt đẹp. : vừa hiệp thông trong Ðức Tin vừa hiệp thông treong tình Dân tộc, nghĩa đồng bào.
    Bài viết nầy xin được ngõ với Hồng Y PMM và mạn phép được ngõ với các bậc Chức sắc, tu sĩ các Tôn giáo, mong rằng Thánh Linh, cái Tánh Không luôn sống động nơi các ngài hầu chung sức, chung lòng hiệp thông để sớm xây dựng Dân Chủ, Tự Do cho nước, cho dân, không để Sa-Tăng Cộng sản lợi dụng Tôn giáo cho mưu đồ chính trị gian manh.
    Lần nữa, xin bạn đọc tha cho lối trình bày dễ bị suy diễn là ‘phô trương kiến thức’ và suy diễn chủ quan. Nếu có phải như thế thì cũng chỉ với mục đích phản ảnh tinh thần HiệpThông tốt đẹp giữa người Việt hải ngoại với người Việt trong nước trong suốt thời gian Ðại Hội giới trẻ Công giáo thế giới và trong mong ước được thấy tinh thần đoàn kết của toàn thể đồng bào ta hầu sớm thấy ngày :

    Việt Nam hân hoan vào Hội mới
    Kỷ nguyên buồn nay dã mở sang vui.

    NT & TMX
    Users browsing this topic
    Guest
    5 Pages«<2345>
    Forum Jump  
    You cannot post new topics in this forum.
    You cannot reply to topics in this forum.
    You cannot delete your posts in this forum.
    You cannot edit your posts in this forum.
    You cannot create polls in this forum.
    You cannot vote in polls in this forum.