Welcome Guest! To enable all features please Login or Register.

Notification

Icon
Error

5 Pages<12345>
Đãi "Chữ"-Vàng Trong Biển-Net = Tìm Tình-Người Trong Nhân-Gian
viethoaiphuong
#41 Posted : Saturday, April 19, 2008 12:57:59 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
VƯỢT BIỂN

Giữa đêm lén dậy dòm khe hở
Nhìn những can-nhân bị bắt về.
Tiếng khóc thơ nhi làm nghẹn thở;
Trái tim thắt bóp nhói đau tê .

Kìa, người thiếu-phụ bồng con dại;
Đứa lớn lưng đìu, tay dắt em.
Ánh mắt nhìn con đầy ái-ngại:
Một bầu đen tối mấy trời lem...

Cuộc đời như một trò may rủi;
Không được thì thua, lẽ hiển-nhiên:
Vốn sạch, sòng tan, tay trắng phủi;
Hướng lai tâm-sự đối sầu miên...

Ngó người tự thấy mình trong cuộc,
Không khóc mà sao lệ bỗng trào !
Tình-cảm vô-hình mà trói buộc
Cho cùng hạnh-phúc, tận thương-đau !

Hôm kia, nàng soạn xong hành-lý,
Chỉ chọn mang theo cái tối-cần:
Trước mắt, đàn con là của qúy,
Một phần xương thịt chính châu-thân.

Hôm qua, nàng mặc cho con ấm,
Buộc tóc, trùm khăn, kín cả người;
Lũ trẻ mừng như ăn trái cấm
(Không cho ai biết chuyến "đi chơi")

Hôm nay, tất cả dầm sương giá,
Mũi buốt xuyên thâu tận đáy lòng.
Đám nhỏ ngỡ-ngàng "Sao thế, má?"
Nghẹn-ngào nàng biết nói sao xong!

Nàng đi tìm sống cho ra sống,
Cho bản-thân và cho các con:
Không chỉ cơm canh và áo xống,
Mà còn... chí cả với lòng son...

Những ai cất bước lên đường trước?
Ai gặp duyên may, mộng ước thành?
Ai gửi xương tàn về đáy nước?
Và ai ... mai mốt sẽ xuyên ranh?

Thời-gian tưới tắt bao nhiêu lửa,
Quét sạch tàn tro bếp củi rừng...
Nhưng, những hỏa-sơn còn mãi thở:
Lửa lòng âm-ỷ thuở nào ngưng!

Người đi, không nói bằng lời nói,
Mà nói xuyên qua việc dám làm:
Bản án tuyên trên đầu hổ sói!
Vết thương lở giữa óc phu phàm!

Nhưng đàn con dại làm sao hiểu ?
Từ độ đông về, đã mấy xuân!
Đứa mới nhi-nhô hồn ấu-tiểu,
Đứa chưa kết hạt bụi trong trần!

Ngày mai mới thấy thân tù-tội,
Chúng sẽ buồn hơn kiếp chó hoang:
Chấp-nhận đêm đen là dạ-hội,
Biết đâu địa-ngục với thiên-đàng!

Ngày kia, nhiễm thói đời điên-đảo,
Chúng sẽ căm-thù chính mẫu-thân:
Chẳng chịu an-tâm đời "thiện-hảo",
Kéo con cùng kẹt cảnh gian-truân!

Hỡi người thiếu-phụ không quen biết!
Tôi khóc trong này, nàng biết chi!
Nàng khổ từ đây cùng cốt-huyết,
Từ lâu ... tôi khổ... với thê-nhi ...

Trại Kho Đạn (Chợ Cồn) Đà Nẵng 80-81
THANH-THANH
viethoaiphuong
#42 Posted : Monday, April 21, 2008 8:49:10 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
Tổ quốc

trước cơn liệt-khùng nhân cách !


(Gửi các bạn thanh niên và Công an cũng muốn giữ gìn bờ cõi)


Hà Sĩ Phu

1. Nguồn gốc bệnh liệt kháng nhân cách.

Sống trên đời, con người vừa phải nương tựa nhau vừa cạnh tranh với nhau, đấu tranh với nhau không ngừng. NHÂN CÁCH, tức tư cách làm người, cần cả hai mặt ấy. Mọi xã hội lành mạnh, bình thường, cân bằng đều cần cả hai mặt song song đối lập ấy.

Nhưng sau những năm dài đấu tranh với nhau quá ác liệt, xã hội ta lại chuyển sang một thái cực khác, liệt đấu tranh, thờ ơ với đấu tranh, thù địch với đấu tranh, chỉ còn đấu tranh thoi thóp.

Có thể giải thích bằng tâm lý mệt mỏi sau chiến tranh, điều này đúng một phần thôi, chiến tranh đã qua mấy chục năm rồi, sao còn quy kết cho chiến tranh mãi được, và phần đông dân số hiện nay có bị ảnh hưởng chiến tranh đâu? Cũng chừng ấy năm chiến tranh nhưng nếu dẫn đến kết cục khác thì chắc tâm trạng dân chúng không thể mệt mỏi thờ ơ như thế.

Xin nói dài dòng một chút để hiểu tại sao sức mạnh tinh thần của con người Việt nam, nhân cách con người Việt nam lại biến dạng như vậy.

Máu chảy trong cơ thể con người vốn có máu tham sân si, sự tranh giành để được phần hơn vốn là một tiếng gọi ma quái mơ hồ từ nơi hoang dã, bên cạnh tiếng gọi tha thiết vươn tới cõi Người hoàn thiện. (Đạo đức và lý tưởng không diệt được nó, chỉ làm nó thích nghi. Chỉ có luật pháp, mà phải là luật pháp dân chủ và văn minh, mới thuần hoá được).

Để chiếm được phần hơn về mặt này mặt nọ, con người thường tìm cách lấn át người khác, ở mức độ thô thiển thì dùng “biện pháp quân sự” trực tiếp, ở mức độ cao hơn thì sử dụng những ưu thế về quan hệ của QUYỀN và TIỀN. Nhưng đằng sau những sức mạnh vật chất ấy, và làm điểm tựa cho những sức mạnh vật chất ấy, bao giờ cũng còn nguồn sức mạnh tinh thần gắn chặt với chính con người, đó là sức mạnh của TƯ DUY và NHÂN CÁCH. Chiếm đoạt được vũ lực, chiếm đoạt được Quyền và Tiền cũng không bằng chiếm đoạt chính con người, muốn chiếm đoạt con người phải làm sao chiếm lĩnh được Tư duy (theo nghĩa rộng, bao gồm tất cả nhận thức và lòng tin) và Nhân cách của họ. Đảng Cộng sản đã làm được tất cả những việc khó khăn ghê gớm này và đã thành công trong bấy nhiêu năm.

Lý thuyết Cộng sản muốn nhào nặn lại thế giới, nhưng rồi chẳng làm gì nổi thế giới, cuối cùng về cố thủ thành một “cẩm nang vàng” để trị dân trong nước, trong đó dân chúng, là kẻ bị trị, bị mất dần sức mạnh tinh thần và phụ thuộc hoàn toàn vào Đảng cầm quyền : những Ngụy biện thì phá huỷ dần sức mạnh của TƯ DUY, còn sự quản lý chặt chẽ và bạo lực Chuyên chính thì phá huỷ dần sức mạnh của NHÂN CÁCH (ngay những đảng viên cũng chẳng còn nhân cách riêng). Con người đã mất hai sức mạnh tinh thần ấy thì như kẻ mất hồn, chỉ còn cách ngoan ngoãn nghe Đảng vỗ về và phục tùng vô điều kiện. Dân chỉ được “quyền” yêu Đảng, yêu bao nhiêu cũng được, nhưng không được quyền phản kháng.

Con tàu Cộng sản được khởi hành bằng năng lượng khổng lồ của “chủ nghĩa yêu nước” nhưng được lái dần sang quỹ đạo của “chủ nghĩa yêu Đảng” một cách ngọt ngào như ru (tuy cũng có vài trận chiếm đoạt long trời lở đất). Đây mới thực là “vạn thế sư biểu” của nghề diễn biến hoà bình (chứ Hoa Kỳ thì chỉ là anh diễn biến hoà bình vụng dại). Tình hình Bắc Triều Tiên đang còn là một ví dụ rất điển hình, ở đó chẳng còn là chủ nghĩa yêu Đảng nữa mà đã rút gọn thành chủ nghĩa yêu cha con Kim Nhật Thành!.

2. Vừa liệt lại vừa khùng.

Cũng theo dòng mô tả sự liệt kháng này, nhà văn Nguyên Ngọc, đạo diễn Song Chi, nhà thơ Bùi Minh quốc, nhà văn Dương Thu Hương, nhà văn Trà Đóa và rất nhiều nhà văn nhà báo khác đã viết về tình trạng một xã hội mỏi mệt, thờ ơ, vô cảm, liệt kháng. Những bài ấy rất chí lý, nhưng xin bổ sung thêm:

Bức tranh vô cảm ấy chỉ đúng trước những số phận nghèo đói, bất công, oan ức, trước những tệ nạn ngày càng phát triển, trước những nguy cơ lớn của xã hội chưa tìm được lối ra, trước tình trạng người Việt bị hành hạ và khinh rẻ ở khắp nơi trên thế giới, trước việc lãnh thổ tổ quốc bị hao mòn…Nhưng chuyện ấy coi như “chuyện nhỏ”, hãy mở Tivi (và đừng vội tắt đi) để xem các chương trình vui chơi có thưởng đủ kiểu (mà thưởng tới năm chục triệu đồng chứ không ít đâu) ồn ã suốt ngày đêm, những cuộc thi khiêu vũ bốc lửa kiểu Nam Mỹ, những thị trường chứng khoán, những buổi quảng cáo cho người đẹp này, chàng trai hấp dẫn nọ, những buổi dạy cách làm đẹp rất tân kỳ, những cuộc thi nhau làm tỷ phú, những cụ già hưu trí cũng vui chơi có thưởng như trẻ con (có cả nhà tu hành nữa)… rồi đến những tiệm Karaoke sex trá hình, những vũ trường thuốc lắc…thì thấy dân mình không hề “mệt mỏi, thờ ơ, vô cảm”, mà đang háo hức, sôi động đến mức điên loạn, dơ dáng đến buồn nôn.

Vậy đây chỉ là xã hội bị liệt từng phần, liệt có chọn lọc, liệt có “định hướng” (xã hội chủ nghĩa?) hẳn hoi. Con người bị ru ngủ, nhưng chỉ ngủ từng phần, nhiều phần khác lại được đánh thức dậy, lồng lên.

Sự liệt thường được hiểu là dịu đi, xỉu đi... nhưng sự liệt này lại kèm theo một hội chứng hung hăng đầy rẫy bạo lực : chưa bao giờ người Việt lại xài vũ lực với nhau hăng như bây giờ. Hành hạ, tra tấn, chém giết nhau như cơm bữa. Những cuộc “đấu tranh không khoan nhượng, một mất một còn” này , những cuộc “phê bình bằng vũ khí” này lại không phải đấu tranh giai cấp như Mác-Lê mô tả, mà toàn là trận chiến trong gia đình, trong nhà mẫu giáo, giữa bạn bè, thày trò, giữa công an với dân…, trong hàng ngũ cách mạng với nhau cả. Cô giữ trẻ cấm trẻ khóc bằng cách bịt miệng cho đến…chết, công an bịt miệng bị cáo giữa toà án nghiêm trang, trò nện thày ngay trên bục giảng, cô giáo bắt học trò liếm ghế của mình, bà là mẹ liệt sĩ mà bị cháu đánh gãy xương nên cũng thành “liệt”…sĩ luôn, nhà trường giao học sinh cho công an dùng vũ lực dạy giúp, công an tống súng lục vào miệng học sinh để hỏi cung, công an tạt tai khách đi đường hoặc đánh cho lên bờ xuống ruộng chỉ vì quên không đội mũ hoặc đi ngược chiều…

Xã hội như con bệnh vừa liệt lại vừa khùng. Liệt chỗ này nhưng khùng chỗ khác. Báo chí lại cho nguyên nhân là vì ta coi nhẹ việc giáo dục đạo đức và lối sống? Nhầm !Cả một chiến dịch học và làm theo gương đạo đức Hồ chí Minh kéo dài nhiều năm, rộng khắp các trường học, công sở, thường xuyên tổ chức thi để tuyên truyền và sơ kết-tổng kết…mà bảo là coi nhẹ sao được?

Khốn nỗi một trăm bài học trong trường, trên giấy không bằng một bài học, một kết luận mà con người tự rút ra từ thực tiễn xã hội. Thực tiễn xã hội đang dạy người ta cả bài học chán chường và bài học bạo lực. Chán chường và khùng là hai mặt tương sinh của cùng một tình trạng bế tắc, bế tắc trong xã hội và trong tâm lý.

Nhiều năm trước đây, Đảng ta giỏi tuyên truyền nên ít phải dùng bạo lực. Nhưng Nguỵ biện chỉ làm nhiễu Tư duy được một thời gian. Thuật Nguỵ biện vẫn còn cần đến sự mê hoặc, khiến đối phương tưởng là đúng mà phải nghe theo, hoặc cũng biết là sai nhưng còn có thể núp dưới cái cớ “tưởng là đúng” chứ chưa phải đối diện trực tiếp với Nhân cách. Nhưng rồi thông tin phát triển, dân khôn ra, hiểu ra, Nguỵ biện mất tác dụng, trận địa Tư duy phải chuyển sang trận địa Nhân cách : “ Ừ thì điều này ai cũng biết là xấu, là sai rồi, nhưng không tranh luận nữa, nhân danh quyền lực tôi bắt anh phải theo, anh có theo không thì bảo”. Nếu anh ngoan ngoãn làm theo tức là đã chấp nhận từ bỏ sức mạnh Nhân cách. Anh mất Nhân cách rồi tôi sẽ có biện pháp tiếp theo. Cách leo thang của sự độc quyền ở mọi nơi đều như thế. Chiến dịch “diệt chim sẻ” của Mao Trạch Đông là một ví dụ điển hình.

3. Liệt-khùng thì dễ làm mồi cho xâm lược.

Vừa rồi, việc Đảng Cộng sản Trung quốc ngang nhiên cho Quốc hội tuyên bố thành lập thành phố Tam Sa bao gồm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt nam cũng là một ví dụ ngang ngược tương tự như quyết định “diệt chim sẻ” nhưng ở tầm quốc tế. Nếu phía Việt nam không có phản kháng tương xứng thì cú Test này sẽ cho thấy nước Việt nam đã bị khuất phục, đã mất sức mạnh NHÂN CÁCH trước nước Trung quốc, và đấy là tiền đề cho những giải pháp áp đặt tiếp theo. Vì thế nếu còn muốn là “Người” Việt nam thì phải có sự phản kháng tương xứng để khẳng định NHÂN CÁCH , tức khẳng định tư cách làm Người của mình, mà phải phải khẳng định điều đó trước mặt Trung quốc và trước bàn dân thiên hạ thì mới có nghĩa!

Những cuộc biểu tình ôn hoà của thanh niên-sinh viên-trí thức-nghệ sĩ ngày 9 và 16-12-2007 tại Hà nội và Sài gòn phản đối hành vi xâm phạm lãnh thổ Việt nam của Trung quốc là những phản kháng cần thiết tối thiểu để khẳng định Nhân cách Việt nam. Cũng với ý nghĩa phản kháng tích cực như thế, hiện nay tại nhiều nơi trên thế giới người ta bộc lộ thái độ tẩy chay Thế vận Bắc kinh 2008 để phản đối sự đàn áp dã man của Trung quốc tại Tây Tạng. Tiếc rằng sự đấu tranh để bảo vệ lãnh hải-lãnh thổ của Việt nam không được sự ủng hộ của thế giới như thế, bởi chính người Việt nam nhu nhược nên chưa gây được tiếng vang cần thiết.

Để bác bỏ sự phản kháng rất cần cần thiết ấy những người nhu nhược lại dùng đến những nguỵ biện, ví dụ: tình hình không cần đến những phản kháng như thế, ta có cách lẳng lặng xử lý có hiệu quả hơn, đằng nào cũng không chống lại được thì biểu tình làm gì, phản kháng như thế e ảnh hưởng đến quan hệ tốt đẹp giữa hai nước, thế vận hội là hoạt động văn hoá-thể thao tốt đẹp cần phải ủng hộ …vân …vân…Vạch rõ tính nguỵ biện của những “luận điểm” này chẳng khó khăn gì, nhưng đã có những bài báo trên mạng viết rồi, nên chẳng cần viết ra đây. Đối với kẻ xâm phạm lãnh thổ của Tố quốc mà dân chúng chỉ được quyền “bảo vệ tình hữu nghị” chứ không được quyền phản kháng để bảo vệ lãnh thổ thì thế giới người ta khinh cho là phải!

Trong những người Việt được phân công rước đuốc Thế vận Bắc Kinh chỉ có luật sư Lê Minh Phiếu và ca sĩ Mỹ Tâm là dám bộc lộ thái độ phản ứng trước tình hình Tổ quốc bị xâm phạm bờ cõi. Tuy phản ứng ấy còn phải rụt rè, phải tự vệ , và còn bị phía hướng Tàu, phía Lê Chiêu Thống, khống chế đến cùng, nhưng trong một biển người chỉ biết phục tùng và chỉ rình tìm cơ hội để tiến thân thì một biểu hiện phản kháng nào đó cũng đáng quý rồi. Nếu giữ vững nghĩa cử yêu nước ấy, ca sĩ Mỹ Tâm có thể bị ảnh hưởng ít nhiều về sự sủng ái của các bề trên, nhưng đổi lại tiếng hát của chị sẽ được công chúng yêu mến hơn vì trong đó đã có hồn của thế hệ trẻ dám sống thẳng thắn vì đất nước. Hình ảnh ca sĩ của Mỹ Tâm trong lòng công chúng sẽ đẹp hơn nhiều, mong sao.

“Người bạn lớn” ngạo mạn đã từng “dạy Việt nam một bài học”, nhưng khắp thế giới cũng đang dạy lại họ (Nước lớn cũng phải được dạy, vì sự bình yên của thế giới! Quyền lực nào nếu không được chế ngự cũng sinh hư, cũng thành tai vạ). Ta không dám tuyên bố dạy ai, nhưng ta quyết tự học, học lịch sử chống Bắc thuộc của cha ông mình! Học, và phải cố gắng làm theo, và làm tốt hơn nữa !

Trong cuộc biểu tình chống Trung quốc bành trướng, một thanh niên biểu tình bị một Công an dùng vũ lực ngăn cản, anh thanh niên bèn hỏi : Anh không biết xấu hổ à ? Câu hỏi thật chính xác, có lẽ viên Công an nghĩ rằng ngăn cản người yêu nước cũng không phải điều đáng xấu hổ vì anh ta chỉ làm theo lệnh trên , nhưng câu hỏi này bắt viên công an phải trực tiếp đối diện với Nhân cách cá nhân, là thứ mà mỗi người phải tự chu toàn, không cấp trên nào lo giúp Nhân cách cho anh ta được (cấp trên bảo anh bán nước anh cũng thản nhiên nghe theo à?). Đã không dám phản kháng kẻ xâm lấn là tội “liệt”, đến lúc có người khác đứng lên phản kháng thì anh lại dùng bạo lực đánh đập, thế là tội “khùng”, vừa liệt vừa khùng thì chỉ làm mồi cho xâm lược, nhân cách thế mà không xấu hổ sao?

NHÂN CÁCH là tư cách làm Người nên nó rất linh hoạt để chống lại tất cả những gì phi Nhân tính. Tuỳ tình huống mà Nhân cách có ứng xử khác nhau. Với kẻ yếu, kẻ dưới, kẻ bị trị thì dám phản kháng điều sai của của kẻ lộng quyền là NHÂN CÁCH. Vợ biết kháng lại việc sai của chồng để khẳng định nhân cách thì chồng không dám khinh (nếu hắn còn là người), con biết kháng lại ý sai của cha để tỏ rõ nhân cách thì cha không dám coi thường, nước nhỏ dám phản kháng trước đe doạ để khẳng định nhân cách của dân tộc thì nước lớn không dám khinh nhờn…

Con người sợ nhau ở cái Nhân cách. Trong quan hệ gia đình, bạn bè cho đến quan hệ quốc tế nhiều trường hợp hoà khí được giữ gìn chính bởi NHÂN CÁCH dám phản kháng chứ không phải sự chiều lòng, ưng thuận, khiếp nhược. Chính sự khiếp nhược là thủ phạm làm cho quan hệ xấu đi!

NHÂN CÁCH là bức tường lửa mà đối thủ không dễ gì đã dám vượt qua!

Người anh hùng lại càng biết dừng trước Nhân cách của người khác, bởi chỉ kẻ khùng, kẻ võ biền mất nhân tính mới dám xéo liều qua Nhân cách người khác. NHÂN CÁCH là tư cách làm người, xéo qua nó anh còn là người nữa không?

Đà Lạt ngày 20-4-2008

HSP

viethoaiphuong
#43 Posted : Monday, April 21, 2008 11:11:10 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)

Mậu Thân năm xưa.

Trương Ngọc Bảo Xuân


***

Anh thương yêu, lá thơ nầy em viết từ ba mươi mấy năm trước, khi anh đang đóng ở Bình Dương, mà rồi chuyện nầy chuyện nọ khiến em còn giữ lại đây.

Một lần nữa, bây giờ là mùa xuân năm Mậu Thân 2008, gợi nhớ lại Mậu Thân đau đớn 1968 của năm xưa.

Em muốn giải thích cho anh hiểu vì sao tình ta đoạn tuyệt, vì sao em đã bỏ anh, bỏ cả quãng đời thơ mộng, giấc mơ thời con gái đánh đổi bằng con đường chông gai.

Anh đang ở nửa trái đất bên kia, nếu còn nhớ đến em hãy đọc thơ nầy và mong anh tha thứ cho em.

...

Mậu Thân, 1968.

Tết.

Cùng với Tết là tang tóc, tang chung cho rất nhiều gia đình, trong đó có gia đình em.

Cộng sản tấn công Sài Gòn hai lần. Lần thứ nhứt vào dịp tết, lần thứ hai vào tháng Năm.

Nhân viên Cảnh Sát được nghỉ ba ngày Tết. Ba ngày đó cả gia đình nằm trong nhà nghe súng nổ ầm ầm. Anh nhớ là trên gác nhà em nhìn rất rõ quang cảnh xung quanh vùng ngoại ô Chợ Lớn. Tụi em leo lên mái nhà với Ba để coi máy bay trực thăng Mỹ bắn rockets xuống, dưới đất thì khói lửa nghi ngút bùng lên. Ba em chỉ: “Kìa kìa có máy bay tải thương nữa, vậy là có người chết hay bị thương. Đánh lớn dữ rồi.”

Khu nhà em ở khít bên đài ra đa Mỹ, “Phú Lâm Signal Facility” đó, anh nhớ hôn? cảm thấy nguy hiểm quá, hồi hộp từng giờ.

Mỗi đêm họ bắn hỏa châu sáng rực trời.

Mỗi ngày theo dõi tin tức từ đài phát thanh Sài Gòn và đài quân đội. Ba em đã nói một cách chắc chắn: “Trời ơi. Nó hổng dễ gì lấy Sài Gòn nổi đâu. Biết bao nhiêu sư đoàn bọc xung quanh Sài Gòn.”

Tết Mậu Thân ba còn sống. Ba còn cầm máy ảnh đi vòng vòng thành phố chụp hình những thảm cảnh chết chóc và khói lửa. Ba nói chụp hình để đời cho con cháu sau nầy nó biết về chiến tranh! Ba vừa làm việc vừa dạy nghề nhiếp ảnh trong Phòng Giảo Nghiệm ở Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia.

Tháng năm, ngày 28 tây.

Cư xá cảnh sát Phú lâm A, đường Lục Tỉnh, quận sáu, Chợ Lớn.

Đêm đó nghe súng nổ nhiều. Nghe quen rồi cả nhà vẫn nghĩ như trước là ối, cũng như bữa Tết, hổng sao đâu. Rồi lửa cháy sáng trời đêm. Tiếng khóc la nghe văng vẵng. Ba kêu đám con thức dậy, kêu leo lên nóc nhà trên gác chỉ ngọn lửa đang bùng bùng lên trời phía hướng đường Hậu Giang. “ Nghe coi tiếng người ta khóc kìa. Chaaa... nó vô tới đây rồi...”

Năm giờ sáng.

Khu cư xá nầy, có hai dãy nhà đối diện nhau, dảy Q dảy P, dành riêng cho nhân viên Cảnh Sát. Phía trong, ngoài những dãy nhà gạch tường xi măng mái ngói, là mấy dãy nhà thường dân và vài cái biệt thự song lập của sĩ quan. Người vợ rất trẻ của cố phi công Phạm Phú Quốc sống trong một trong những biệt thự đó. Phía sâu hơn nữa, luồng tuông qua đường Hậu Giang (song song với đường Lục Tỉnh) là những nhà, những chòi lá lụp xụp dựng tạm bợ của dân, đa số là người tản cư từ dưới miền lục tỉnh lên, họ tự kêu là “xóm nhà lá”.

Em thấy từ xóm nhà lá người ta ùn ùn chạy ra, bồng bế gánh gồng. Có một số dân buôn gánh bán bưng, một đầu là gánh gạo hay đồ đạc gì đó, một đầu là một đứa bé con.

Em mở cổng, thấy lửa cháy rất gần. Lòng chưa thấy gì hãi sợ. Ba từ trong nhà bước ra. Em vô nhà rửa mặt, trở ra thì ba mất tiêu.

Trong nhà má biểu mấy đứa nhỏ bận thêm quần thêm áo vô, đưa cho mổi đứa ôm một bọc gì gì đó. Ngó ra ngoài thấy người ta tản cư gần hết, hơi vắng vắng rồi mà ba chưa thấy trở về.

Em chạy vô xóm trong kiếm, tới cuối dãy Q nhìn thấy lấp ló sau những dãy nhà, những tên Việt cộng mặc quần ngắn, áo vàng bồng súng nhìn ra. Rồi gặp anh Thu anh của nghệ sĩ Trang Bích Liễu ở căn số 2 đứng ngó tới ngó lui mặt mày xanh dờn, em hỏi “anh có thấy ba em đâu hông?
Anh nói: “Có. Mới thấy bác Bảo đi xăm xăm vô trong đó bác nói để bác chụp hình tụi nó đào hầm, tui kêu ổng trở ra ổng làm thinh làm như hổng nghe”.

Trời ơi ba ơi ba nó đào hầm đào hố gì thì kệ cha nó quý báu gì mấy tấm hình ba ơi...

Rồi anh Thu la em “Trở ra… trở ra. Về nhà lo tản cư đi”

Lo sợ, em chạy về nhà.

Cho tới bây giờ, sau ba mươi mấy năm em vẫn còn bị sự cắn rức ân hận là, phải chi ngay lúc đó em cứ mạnh dạn chạy sâu vô, vừa chạy vừa réo ba ơi ba, may đâu gặp ba. Cha thấy con gái hớt hãi đi tìm, có lẻ ba đã trở về.

Rồi mấy má con cũng phải theo người ta chạy qua bên nhà thờ, cách nhà một con đường để lánh nạn. Đẩy chiếc xe vespa chở đầy đồ không muốn nổi, nhờ một anh hàng xóm đẩy tiếp, lòng tủi ghê. Hổng biết ba đi đâu sao không về lo cho con cái? Người ta chạy ra, tại sao ba đi vô trỏng?

Trong ngôi nhà thờ nhỏ, đứng ngồi không yên. Trời càng sáng tỏ, bụng càng bức rức. Rủ nhỏ em Ngọc Anh trở lại kiếm ba.

Đang băng qua đường, bóc bóc. Hai phát súng nổ. Tự dưng, tim em nhảy dựng lên, đập thình thịch, liên hồi. Trực giác báo có chuyện không hay.

Còn người đang chạy ra. Nghe bà đang chạy ngược chiều nói ... mới có người bị bắn... em chận lại hỏi người đó ra sao? họ nói loáng thoáng ... ổng bận quần đùi trắng áo đen...

Trời đất ơi. Hai chị em nhìn nhau lo sợ.

Hai đứa chạy tới đầu dảy Q thấy chị hai em bồng con hớt hãi chạy ra, mặt mày xanh mét run run “ai giống như ba bị bắn nằm ở trỏng kìa”.

Trời ơi Trời.

Cắm đầu chạy tới cuối dảy Q, vài người đứng lố nhố. Thấy xa xa một người nằm dưới đất, xéo xéo tiệm chạp phô Minh Tuấn. Tiệm nầy cách nhà em độ hơn trăm thước.

Cố nhướng mắt nhìn kỷ. Trời ơi Trời. Em chết sửng. Ba. Em bật lên, có phải là tiếng thét? Em vụt chạy hết sức nhanh. Ngọc Anh chạy theo. Hai chị em vừa chạy vừa la Ba ơi ba ơi ba...

Em quỵ xuống. Mắt ba không nhắm, nhìn trừng lên trời. Mặt xanh, rờ thấy lạnh. Nhìn vô mắt ba, hình như ba có vẻ hiểu có em bên cạnh. Chợt nhìn thấy một lỗ sâu nhỏ như đầu đủa ngay dưới hàm. Trời ơi Trời. Đạn bắn từ bên nầy xuyên qua bên kia. Trời ơi vầy làm sao sống nỗi. Nâng đầu ba dậy, máu nóng vọt ra. Em khóc ngất ba ơi ba ba ơi... dở áo lên, rờ lên bụng. Bụng ba màu trắng còn ấm.

Em sững sờ, từ đuôi mắt loáng thoáng dạng mấy thằng Việt cộng bồng súng lấp ló sau lưng tiệm Minh Tuấn.

Ngọc Anh khóc nức lên –ba chết rồi ba chết rồi ba ơi ba...

Em quẹt nước mắt, nạt:

- Nín. Hổng được khóc. Tiếp tao. Đem ba về. Hổng chừng ba bị thương.

Ngọc Anh cứ nhứt định khóc, nhứt định nói qua làn nước mắt:

- Ba chết rồi ba chết rồi. Trời ơi trời...

Em la lên át tiếng nó:

- Nín. Đở chân ba lên. Tao khiêng đầu. Mầy khiêng chân.

Nâng ba lên cao, máu lại vọt ra. Đau lòng em quá anh ơi. Máu ba em chảy như máu em đang chảy. Máu còn đỏ, còn loãng như nước anh ơi...

Sau ót ba bầm dập máu nhầy nhụa trơn trùi. Đầu tuột xuống. Nặng quá. Đở lên mà đứng không nỗi. Hai đầu gối em run lập cập. Luồn hai cánh tay dưới nách ba, ráng sức xốc dậy lần nữa, cao hơn. Gát đầu ba lên vai em, máu tuôn ướt áo.

Ngọc Anh khiêng hai chân ba, rớt lên rớt xuống, khóc kêu ba ơi ba không dứt.

Em không khóc mà mắt cứ mờ đi. Lạng quạng. Xàng xiêng. Hai chị em lệt bệt khiêng lên rớt xuống khiêng lên.

Quỵ xuống mấy lần. Ngọc Anh thụp xuống đất, gần xỉu. Nó thì thào -tui muốn xỉu mệt quá tui tui tui muốn xỉu...

Em lại nạt nó:

- Đứng dậy. Nín. Khiêng lên.

Anh ơi, tội nghiệp nó quá. Em lấy quyền làm chị, em không cho nó khóc. Ba bị bắn chết mà em không cho nó khóc, bởi vì em sợ nếu nó khóc quá, xỉu, làm sao em đem ba về nổi một mình?

Chỗ nào quỵ xuống, chỗ đó máu đọng vủng.

Nhứt định đem ba về.

Vài tiếng súng nổ. Bóc bóc. Bóc bóc.

Kệ cha nó.

Kệ mẹ nó.

Bắn đi. Tao không sợ. Tao khiêng ba tao về nhà.

...

Qua khỏi khoảng đường hơn một trăm thước mới tới đầu dãy Q.

Hàng xóm, bác Cúc, bác Hả,i chị Trang Bích Liễu, chị Mai, và nhiều ngừơi nữa em không nhớ, xúm lại đở tay....

Đem ba vô nhà đặt nằm lên cái ghế bố, trước bàn thờ.

Em ngước lên. Qua màn nước mắt em vái :

“Tổ tiên ơi con đem ba con về được rồi. Ba con không phải nằm chết bờ chết bụi.”

Vuốt mắt ba. Vài hột cát vương trong mí. Em lấy tay quẹt ngang. Mắt ba không nhắm khít.

Tiếng các bác hàng xóm, Cúc, Hải và chị Liễu, vừa cởi áo ba ra vừa khóc vừa than:

- Bác Bảo ơi đi đâu cho bị bắn vầy nè bác Bảo ơi...

Khi cổi được cái áo sơ mi, em thấy thêm một lổ đạn. Trời đất ơi vầy làm sao mà sống nổi. Hai viên. Một viên xuyên yết hầu, một viên xuyên từ hông bên nầy qua hông bên kia.

Hai cánh tay ba bị cột lại bằng sợi dây, cánh tay tím bầm.

Ba bận cái áo giáp.
Mấy bữa trứơc, Ba đi thị sát với tướng Loan, ngang qua cây cầu gì đó quên tên rồi, bị Việt Cộng bắn sẻ, may phước không sao. Về nhà Ba than phải chi có cái áo giáp cũng đở...

Nghe Ba nói vậy, chị Hai em nói thôi để chồng con kiếm cho Ba cái áo giáp. Hôm sau anh rể em đem về cái áo giáp cho Ba. Bận vô Ba cười cười :”Có cái này đở quá hổng sợ lạc đạn”

Ba luôn luôn sợ mình chết bất tử bỏ vợ con lại!

Giờ đây Ba nằm đó, Ba đã bỏ vợ con lại rồi. Cái áo giáp chẵng giúp gì cho Ba mà có khi còn hại Ba nữa vì tụi nó đã dở áo lên tìm chỗ thịt da mà bắn! Giáp với chẵng giáp có nghĩa gì!

Em chạy vô buồng kiếm cái áo cái quần để các bác phụ thay đồ cho ba.

Súng bắn ầm ầm. Bắn rát quá. Các bác hàng xóm, bác Cúc bác Hải, chị Mai nói "thôi để bác về lo nhà cửa con lấy khăn lau mặt ba con đi con”.
Em nói –con đội ơn bác... con cám ơn bác... cám ơn chị ...

Còn hai chị em. Nhỏ Ngọc Anh ngồi ôm mặt khóc.

Lấy khăn nhúng nước em lau mặt ba. Ba chết rồi mới thấy ba ốm quá. Da mặt xương xẩu, lạnh ngắt. Máu loãng vẫn còn ri rỉ phọt ra mổi lần nâng ba lên.

Em suy nghĩ - làm sao cho má hay - làm sao cho má đừng xỉu - làm sao cho mấy đứa nhỏ nhìn mặt ba lần cuối nếu rủi không đem ba ra được. Đang giặc giả làm sao đem ba ra khỏi cư xá? Đem đi đâu? Bao nhiêu câu hỏi làm cho em bổng dưng khô nước mắt.

...

Chị hai bồng con bước vô nhà bật khóc.

Ai đó qua nhà thờ đưa má với bầy em chạy hộc tốc về nhà. Tiếng má em vừa khóc vừa la hãi hùng:

Anh ơi đi đâu mà để chúng bắn vầy nè anh ơi mình hổng nghe lời tui cứ vô trong đó làm chi mình ơi... tui chết theo luôn cho rồi trời ơi là trời ...

Em đã ôm đầu má nói:

- Má ơi má đừng lo con lo hết cho má đừng khóc quá làm mấy đứa nhỏ sợ má ơi ba chết rồi khóc vô ích lo đem ba ra khỏi cư xá má ơi...

Anh ơi rõ ràng em nhớ. Ngay giây phút thấy bầy em mắt mũi tèm lem, em đã trưỡng thành. Em đã tự bức tử cái tuổi mười chín và giấc mộng con gái. Em đã tự bọc một lớp vỏ sắt xung quanh em và em cũng biết rõ, tình ta chấm dứt. Cắn răng. Không khóc. Ngày mai mới có thì giờ khóc.

Súng nổ ầm ầm.. Nghe tiếng loa phóng thanh kêu gọi vang vang :

- Nghe đây nghe đây đồng bào vùng cư xá Phú lâm A phải tản cư gấp qua trường Mạc Đỉnh Chi vì phi cơ sắp dội bom thanh toán địch quân. Đồng bào hảy tản cư gấp... Nghe đây nghe đây...

Anh ơi em lo lắng quá. Đầu gối cứ run. Bước ra cửa. May mắn gặp một bạn đồng nghiệp của ba vừa bước ngang. Em năn nỉ – bác ơi làm ơn kiếm cách gì đem ba con qua quận Năm nhà của dì con chớ để ba con đây rồi giặc đánh lớn làm sao rủi cháy nhà cháy luôn ba con bác ơi làm ơn giúp con bác ơi. Bác nói –được rồi để bác tìm cách. Bác là bạn của ba cháu mà. Hồi nảy bác cũng trộn lộn trong đó nó đâu biết. Ba cháu bị cầm cái máy ảnh...

Vừa nói bác vừa chạy đi...

Đạn bom nổ ầm ầm em mới nói “thôi chị hai dẩn má với mấy đứa nhỏ chạy trở qua nhà thờ đi tui ở đây coi chừng ba. Nè, Kim Loan ôm gói nầy, Long ẳm con Thúy, Ngọc Anh cầm giỏ nầy nắm tay Phượng, Hoàng, đừng chạy lạc em nghe cưng... má đi đi, con ở đây đợi có bác đó nói để bác kiếm xe đem ba xuống nhà dì Năm.”

Cả nhà dắt díu nhau đi rồi. Còn lại em với xác ba nằm trên ghế bố trước bàn thờ.

Tiếng súng đạn ầm ầm nghe dựng tóc gáy. Em run sợ qúa...

Em thầm vái – ba ơi con không bỏ ba đâu. Ba phải phù hộ cho con ba ơi.

Em lấy giấy viết ra ghi vội ngày giờ ba chết. Em sợ...

Nhìn ra cửa thấy mấy người lính Biệt Động Quân núp vô ló ra mừng quá trời mừng em vọt ra hỏi -chừng nào có xe đem ba tui đi- Một người lính thấy em, giựt mình, la:

-Sao người ta tản cư hết cô còn ở đây.

Bom nổ cái ầm, y nói tiếp:

– Ra khỏi nhà mau.

Em nói:

- Ba tui mới bị bắn chết làm sao tui bỏ ba tui nằm đây, tui đợi người ta đem xe tới chở ba tui đi.

Tiếng đạn tiếng bom, véo véo, bóc bóc, .... bùm.... bùm....

Anh lính nói:

- Đó đó nó bắn B 40 đó... Ở đây chết ráng chịu à. Ba cô bị bắn chết hả. Đ.M mấy thằng Việt cộng nầy hổng bắn nát óc nó ra sao được. Tội nghiệp hông, cô năm nay bao nhiêu tuổi? Biệt Động Quân bên dảy P sắp xung phong kìa.

Em thụt vô nhà.

Khoảng chín mười giờ gì đó...

Sau cùng. Người ta cũng có được chiếc xe jeep lui mau tới trước cửa nhà em. Lạ thay, có hai ba người Mỹ cầm máy quay phim, quay cảnh hai người lính ùa vô nhà, lấy chiếc chiếu cuốn ba vô rồi vác ra xe.

Em chạy theo. Lúc đó nước mắt em mới tuôn, trào.

Ba em hiền quá sao chết sớm vậy?

Nhìn lên trời. Mây vẫn trắng. Trời vẫn xanh. Mà ông Trời thì quá xa.

...

Anh thương yêu.

Ba em năm đó mới bốn mươi ba tuổi. Có phải ba em chết vì cái máy ảnh? Sinh nghề tử nghiệp như thế đó.

Trong một năm, bao nhiêu thay đổi. Má đâu còn lương tháng của Ba. Xoay trở với món tiền Quốc Gia Nghĩa Tử nhỏ nhoi, Má ra chợ từ hừng đông tới tối mịt, mua món này bán món kia đấp đổi qua ngày. Em làm lương tháng có ngàn mấy mà lúc đó gạo một bao hơn ngàn đồng. Trời đất ơi làm sao kéo dài sự sống cho đám em?

Đúng một năm sau, ngày hai mươi tám tháng năm, em tự xả tang ba, em lấy chồng.

Vậy thì, anh đã biết rõ vì sao em phụ bạc anh, không một lời. Tha lổi cho em?

Hẹn anh kiếp sau.

Người xưa.

2008 Năm Mậu Tý.

viethoaiphuong
#44 Posted : Wednesday, April 23, 2008 1:01:36 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
Bài Hát Ru Con Và Mùa Hoa Lựu Đỏ

Mùa Hoa Lựu Đỏ

......Ta về nơi đây.....
....khi mùa hoa lựu nở đầy, trong khu vường cỏ dại
Dọc theo hai bên đường, có hai mùa, mưa nắng đã đi qua
Có hàng sao già đổ tàn lá xanh...
Có đôi chim sẻ về làm tổ trên cành...
Và vẫn giọt nắng vàng long lanh,cắt ngang qua đôi quầng mắt ướt

Ta nghe kỷ niệm rơi, trên từng phiến đá mòn, dấu mình trong ký ức
Lay động theo từng bước chân,
sâu lắng ai về từ quá khứ xa xăm...
Mùi hoa lựu mới nở, thấp thoáng gần thật gần..những ngày tháng cũ
Và cũng xa thật xa..
... như hình bóng ấy một lần... ...nát vỡ trong tay....

Ta nghe hoang vắng đong đầy,
khi hạt sương mai tan dần cơn ngủ muộn
Để kỷ niệm sói mòn, gậm nhắm,
...những nụ cười mắt liếc bâng quơ...
Của ai đó!! của người xưa đó!! của mùi hương hoa lựu đợi chờ
Trong tà áo lụa mong manh,
cơn gió mùa yêu thương,xoay quanh tháng ngày mộng mỵ...

Mùa hoa lựu đỏ,
Cho áo cưới ai về, khoe nụ cười trắng màu ngọc đá
Hai dấu đồng tiền ta gieo trên má,
duyên người còn theo bóng nắng đong đưa..??
Ngày đó ta buồn, sao lạ chưa ??
Đôi chim sẻ quấn quýt nhau ,chưa từng biết niềm đau mất mát
Ta ngồi nhìn hoa nở, màu đỏ..nát lòng.. như xác pháo ai bay...

Còn lại gì trong đôi tay,khi mình ta, đi về trên lối mòn mưa nắng
Hàng sao già im lặng,tìm đâu yêu thương , mùa hoa lựu nở trong vường
Loài cỏ dại tơ vương, hạt sương mai lăn tròn trong đôi mắt ướt
Xa rồi kỷ niệm, ai đó có còn, những thoáng nhớ bâng khuâng..

Dĩ an
Nauy 16-11-07


Bài Hát Ru Con...

Ta đứng bên vường hoa củ
nghe mùa rụng những hương xưa
Lời ai ru con trong gió
gieo buồn nhịp võng xa đưa :

"....Sao Tua chính cái nằm kề,
Thương anh từ thuở mẹ về với cha
Sao Vua sáu cái nằm xa,
Thương anh từ thuở người ra kẻ vào... "

Đã yên những ngày gió bão
từ khi người vội xa người
Vường xưa đi về một lối
Bao lần hoa nỡ mồ côi

Chờ nhau một lời không ngỏ
quanh co mấy độ dại khờ
Để tàn mùa hoa lựu đỏ
sớm chồng bỏ những ngây thơ

Vàng lên từ trong lọn tóc
nắng hong kỷ niệm hao gầy
Lay hoay lối mòn dĩ vãng
vô tình rơi ngọn tóc bay

Lao xao ngày qua ướt át
ai buôn câu hát ân tình
Yêu thương chia đều đôi mắt
cho gần nổi nhớ lênh đênh

Mông mênh, mông mênh con sóng
chông chênh giọt nắng, giọt buồn
Lời ru nghe như gửi gấm
.....cho dù người đã sang sông ...

"... Sao Đôi hai cái nằm chồng
Thương anh từ thuở mẹ bồng mát tay
Sao Hoa ba cái nằm xoay
Thương anh từ thuở được vay nụ cười ..."

Dĩ an
Nauy 04-12-07

........Phần cuối của "Bài Hát Ru Con Và Mùa Hoa Lựu Đỏ"...

..Về Yêu Kỷ Niệm...

Ta dừng chân, đứng giửa xứ người,
nhìn quanh mình bốn mươi năm hơn đã củ
Mang trên lưng nổi buồn viễn xứ,
chuyện ngày xưa trách cứ mãi trong ta

Để những chiều nắng về phố xa,
bóng tàn phai soi mình gương dĩ vảng
Dòng thời gian mây mùa lãng đãng,
nắng hôn hoàng trên mái tóc sương pha..

Ta đã đi hơn nữa đời người,
tìm trong mơ màu hoa xưa kỷ niệm
Lời ru con, nồng hương lưu luyến,
bên vường hoa thoang thoáng một ân tình

Vời nụ cười trong nắng lung linh,
mùa hoa đỏ một thời con gái
Khóa trong ta chuổi ngày thơ dại,
lối cỏ buồn rưng rức chảy về tim

Đã quá khuya cho một chuyện tình,
thấp làm gì những dòng nến củ
Phố người dưng, buồn cơn mất ngủ,
kẻ lữ hành đếm đủ nổi bơ vơ

Cố nhân ơi!! có đợi có chờ,
mấy mươi năm rồi xa nhau vẫn nhớ
Ta vẫn sống giửa dòng đời trắc trở,
mãi tìm hoài loài... hoa nỡ trong mơ.....

Dĩ an
Nauy 24-12-07
viethoaiphuong
#45 Posted : Thursday, April 24, 2008 2:22:26 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
Lời kêu gọi của tuổi trẻ Việt Nam trong và ngoài nước.

Kính gửi toàn thể anh em thanh niên sinh viên trong và ngoài nước,
Kính gửi các anh chị đang phục vụ trong quân đội và công an có lòng yêu chuộng tự do dân chủ,
Kính gửi đồng bào Việt Nam yêu tự do và sự vẹn toàn lãnh thổ.

Chúng Tôi Nhóm Thanh Niên Yêu Tự Do trong và ngoài nước nhận thấy rằng:
1- Ngày nay, nhân loại đã xác minh rằng trên thế giới ở đâu có tự do thì ở đó con người được mưu cầu hạnh phúc; nhân bản, nhân trí và nhân quyền được nâng cao; và xã hội được phát triển phồn vinh. Ngược lại ở đâu bị cai trị độc tài thì ở đó con nguời và xã hội bị chậm tiến và lạc hậu.
2- Dân tộc Việt Nam đã chấm dứt chiến tranh 33 năm, nhưng tự do nhân quyền của nguời dân Việt vẫn bị chà đạp. Điều này đồng bào trong và ngoài nước đều biết rõ, và thế giới vẫn tiếp tục can thiệp về việc vi phạm nhân quyền tại Việt Nam.
Trong nước, tự do của người dân bị hạn chế trên mọi mặt nên người dân bị đánh mất quyền chống lại những bất công áp bức, những tệ trạng tham nhũng, những phân biệt đối xử từ học đường đến nơi làm việc, từ nông thôn đến thành thị. Thực trạng xã hội cho thấy một thiểu số có quyền thì tiền của ăn không hết, nhưng đại đa số nguời dân lại làm không ra ăn, nhất là trong tình trạng vật giá leo thang trầm trọng đang làm cho đời sống người dân khốn khổ hơn.
3- Vì sự cai trị độc tài của đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN) nên người dân không được quyền yêu nước. Đảng CSVN độc quyền quyết định vận mệnh của tổ quốc trong vị thế cầu an để cầu vinh đến nỗi Bắc Triều Trung Quốc dần dà chiếm phần đất biên giới, ải Nam Quan, Vịnh Bắc Bộ, và gần đây lập huyện Tam Sa để chiếm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của chúng ta.
Đất nước là của chung của toàn dân, không một ai được độc quyền yêu nước. Đã bao thế hệ, tuổi trẻ Việt Nam đã từng cống hiến cho dân tộc để giữ gìn bờ cõi, vẹn toàn tổ quốc, thì giờ đây tuổi trẻ Việt Nam cũng có quyền thể hiện lòng yêu nước của chính mình để mưu cầu tự do cho dân tộc và bảo vệ sự vẹn toàn đất tổ.
Trước tình trạng đất nước bị ngoại bang xâm lấn, trước thực trạng người dân không được tự do vì bị thống trị dưới chế độ cai trị độc tài, chúng tôi những người trẻ trong và ngoài nước với thiết tha yêu chuộng tự do dân chủ và nhiệt thành bảo vệ tổ quốc, tự nguyện khởi xướng đứng lên kêu gọi:
1- Từ Paris đến Luân Đôn, San Francisco, Á Căn Đình, Nam Phi…. đã đồng loạt đứng lên chống lại Cuộc Rước Đuốc Olympic 2008 tại Bắc Kinh vì chế độ Cộng Sản Trung Quốc độc tài xâm lược, nay kêu gọi những thanh niên và đồng bào Việt Nam hãy đứng lên tẩy chay Cuộc Rước Đuốc Olympic trên đất nước Việt Nam do Trung Cộng tổ chức ngày 29 tháng 4 năm 2008.
2- Sỡ dĩ Trung Cộng bị chống đối trên khắp thế giới vì họ là chế độ độc tài, và đảng Cộng Sản Việt Nam cũng chủ trương như vậy.
3- Vì sự phồn vinh của dân tộc, vì sự toàn vẹn của tổ quốc chúng tôi những thanh niên kêu gọi các bạn trẻ trong và ngoài nước hãy tham gia đòi hỏi tự do cho người dân Việt Nam và tẩy chay cuộc rước đuốc ngày 29-4 này.
Chúng tôi, thay mặt Nhóm Thanh Niên Yêu Tự Do khởi xướng kêu gọi qúy đoàn thể và đồng bào trong và ngoài nước ký tên ủng hộ lời kêu gọi này.

Ngày 15 tháng 4, năm 2008

Đại diện nhóm Thanh Niên Yêu Tự Do

Tại Hà Nội: Nguyễn Tiến Dũng
Phạm Quốc Hiền
Tại Sài Gòn: Hoàng huy Cường
Phạm Tuấn
Tại Hoa Kỳ:
Nguyễn Quốc Phục Việt: Chủ Tịch Phong Trào Tự Do Việt Nam
Trương Ngãi Vinh: Đoàn trưởng Đoàn Thanh Sinh Phó Đức Chính
viethoaiphuong
#46 Posted : Thursday, April 24, 2008 2:26:48 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
KIẾM KHÍ RÙA LINH. TÍCH XƯA TÁI HIỆN. TRUNG CỘNG TIÊU TÙNG .


********

Thượng Đế sắc mệnh
Bảo kiếm uy cương
Cử chỉ nhất động
Hỏa chiếu vạn phương
Sơn băng địa liệt
Phá tặc thần tàng
Cấp cấp như luật lệnh.



Những nhà nghiên cứu tìm thấy một giống rùa khổng lồ hiếm có ở Việt Nam



Linh Vũ, Apr 20, 2008


Cali Today News - Sau khi đọc bản tin từ viện nghiên cứu của sở thú Cleveland Metroparks vừa tìm thấy một giống Rùa nước ngọt khổng lồ rất hiếm có hiên nay ở Việt Nam, tôi chợt nhớ đến một vài truyền thuyết của lịch sử trong thời vua Lê Lợi. Dù là chuyện huyền thoại của tầng lớp nhân gian với nhiều mục đích khác nhau nhưng vẫn là điều lý thú và nói lên ý chí của một dân tộc. Thần thoaị khác biệt với truyền thuyết là những câu chuyện có thể là hư cấu không liên quan mật thiết với tính xác thực của thời đại, không mang hình ảnh của lịch sử. Với truyền thuyết thì lấy từ hình ảnh lịch sử tưởng tượng thành hư cấu để tuyên truyền trong nhân gian và mục đích nâng cao giá trị dân tộc. Hôm nay với sự khá phá giống Rùa nước ngọt khổng lồ ở Việt Nam trong thế kỷ 21st này đã làm nhiều người bàn tán. Có người cho rằng sẽ có gươm thiêng xuất hiện hiến dâng cho anh hùng nước Việt dùng để đánh đuổi giặc phương Bắc đang chiếm Trường Sa và Hoàng Sa cuả chúng ta.

Sau đây tôi xin lược dịch bài viết của sở nghiên cứu vườn thú Cleveland về giống Rùa nước ngọt và một số chi tiết lịch sử của thời vua Lê Lợi để qúi vị thưởng thức.

Những nhà nghiên cứu sở thú Cleveland Metroparks của Hoa Kỳ đã tìm thấy một giống Rùa khổng lồ qúi hiếm hiện nay ở miền Bắc Việt Nam. Sự tìm kiếm mang một ý nghĩa khoa học và tầm quan trọng trong văn hóa VN . Giống Rùa “Swinhoe” với mai mềm mà trước đây nhiều người nghĩ rằng giống này tự nhiên bị tuyệt chủng. Trong cuộc tiếp xúc với chuyên gia nghiên cứu Rùa Á Châu được biết hiện nay chỉ còn laị ba con Rùa thuộc lọai Swinhoe được nuôi giữ.

Ông Doug Hendrie phối họp viên chương trình nghiên cứu Rùa Á Châu nói rằng, đây là khám phá quan trọng để bảo vệ giống Rùa Swinhoe có nguy cơ bị tuyệt chủng cao nhất hiện nay.

Chuyên gia Peter Pritchad giám đốc viện nghiên cứu Rùa xác nhận một cách chắc chắn về sự tìm kiếm giống Rùa của ông được dựa vào một bức hình của Hendrie.

Ông nói : Đây là một bằng chứng tương đối vững chắc để phân biệt cho giống Rùa có loại đầu đặc biệt này (có lẽ đây là giống Rùa nước ngọt lớn nhất thế giới)
Từ lâu, Việt Nam có nhiều truyền thuyết cho rằng có giống Rùa thần sống lâu đời dưới hồ nước ở miền Bắc Việt nam(Hồ Hoàn Kiếm).

Một vài khu làng ở phía Tây Hà Nội cho rằng, họ sẽ được nhiều ân phước nếu may mắn được nhìn thấy lưng của Rùa nổi lên trên mặt hồ .

Trong truyện cổ tích VN cho rằng, có một con Rùa khổng lồ bằng vàng đã trao tặng cho Việt Nam một thanh gươm thiêng dùng để đánh bại quân xăm lăng Trung Quốc ở thế kỷ thứ 15th . Liệu có phải con Rùa thần thánh đó hiện đang xuất hiện ở thế kỷ 21st này . Đây là một vấn đề ảnh hưởng đến văn hóa, chắc chắn sẽ được nhiều người Việt Nam mang ra tranh luận .(Theo truyền thuyết vào thế kỷ thứ 15 nghĩa quân Lê Lợi đã được thần Rùa trao cho thanh kiếm thiêng dùng để đánh bại quân xăm lăng Trung Quốc)

Hội trưởng Geoff của cơ quan phụ trách tổng quát về sở thú nói rằng : Đây là một trong số những loài vật huyền thoaị mà người Việt Nam luôn được nói đến, nhưng thật ra thì không có người nào nhìn thấy nó bao giờ.

Với loại Rùa có mai mềm (Swinhoe) đang được nuôi giữ hiện nay: Có hai con nuôi ở sở thú Trung Quốc và một con ở hồ Hoàn Kiếm, Việt Nam (hồ Hoàn Kiếm nằm trong khu vực thành phố Hà Nội). Tên hồ Hoàn Kiếm (Returned Sword) mang truyền thuyết có Rùa thiêng xuất hiện đòi lại thanh gươm thần mà trước đây đã trao cho Hoàng Đế Lê Lợi .

Ông Pritchad nói bức hình chụp giống Rùa vỏ mềm ở miền Nam Trung Quốc cách đây sáu tháng. điều này cho ông vững lòng tin là chính xác, ông cho rằng loại Rùa này đang trên đường tuyệt chủng, hiện nay còn rất ít mà chúng ta có thể đếm được.

Sở thú Cleveland Metroparks đã nỗ lực bảo toàn và bảo vệ những giống Rùa Á Châu bắt đầu từ năm 2003, nhưng cũng có những báo cáo cho thấy về tình trạng giết chết giống Rùa đang gia tăng hiện nay với mục đích dùng làm thức ăn hay dùng xương của nó để chế biến thuốc gia truyền. Những nhà nghiên cứu cũng cho rằng sự phát triển và ô nhiễm môi trường hiện nay cũng dẫn đến giết chết Rùa đang sinh sống dọc theo những con sông.

Một viên chức cho biết, sở thú đã dùng ngân khỏang $275,000 đô la vào những nỗ lực gìn giữ Rùa Á Châu từ năm 2000 và đã hổ trợ cho chương trình của Hendrie từ năm 2003.

Sau đây chúng tôi xin ghi laị vài nét về lịch sử về đời vua Lê Lợi với thanh kiếm thần và vài mẫu chuyện hiện đaị liên quan về giống Rùa nước ngọt ở Viêt nam.

Theo truyền thuyết và một số sách sử có ghi chép về thanh kiếm “Thuận Thiên” Cuốn Lê Thế Ngọc Phả do ông Lê Duy Nhượng cháu sáu đời vua Cảnh Hưng Lê Hiến Tông đọc trong chuyến điền dã Kinh Bắc Cổ như sau: Đêm mồng 10 tháng 12 năm ất Mùi ( 1415) có người ở Cổ Lôi tên là Lê Thận làm nghề đánh cá ở sông Lương Giang xứ Ma Viên đã kéo lưới thấy được một thanh sắt giống hình thanh kiếm cũ, dài 3 thước, rộng 2 tấc, dầy 3 phân (theo sách Đại Việt Thông Sử thì chỉ nói dài khoảng hơn một thước) trên thanh kiếm có dấu linh phù và câu thần chú

Thượng Đế sắc mệnh
Bảo kiếm uy cương
Cử chỉ nhất động
Hỏa chiếu vạn phương
Sơn băng địa liệt
Phá tặc thần tàng
Cấp cấp như luật lệnh.

Năm ấy vua Lê Lợi 31 tuổi là bạn thân với Lê Thận, trong một bữa tiệc giỗ tại nhà Lê Thận, vua Lê Lợi nhìn thấy có thanh sắt tỏa ra ánh sáng, ông nghĩ đây là thanh sắt đặc biệt sau đó ngỏ ý xin Lê Thận mang về. vua Lê Lợi đem về chùi mài sạch sẻ thì thấy xuất hiện bốn chữ “Thuận Thiên Lê Lợi”. Đến năm Bính Thân (1416) tức một năm sau vào ngày 15 tháng Giêng thì vua Lê Lợi lại tìm thấy một chuôi gươm bằng đồng đen dài 1 tấc 5 phân, dày 4 phân. Lê Lợi mang cả hai bấu vật đó ra đứng giữa trời khấn vái tự dưng hai thứ đó gắn với nhau như đúc liền không thể tách rời được. Đến đêm thanh kiếm tỏa ra ánh hào quang như đuốt, một thời gian sau đó thì phu nhân Phạm Thị Ngọc Trần thấy cây đa trước cổng nhà có treo bao kiếm, vua Lê Lợi trèo lên lấy xuống bỏ thanh kiếm vào thì vừa khít khao. Từ đó vua Lê Lợi biết là thần vật, ông dựng cờ khởi nghĩa, sau mười mấy năm nếm mật nằm gai, thanh kiếm thiêng này đã giết hằng vạn quân Minh phương Bắc xâm chiếm nước Nam. Ngày 15 tháng 04 năm Mậu Thân (1428) Lê Lợi lên ngôi Hoàng Đế tại điện Kính Thiên Đông Đô (Thăng Long- Hà Nội) niên hiệu là Thuận Thiên.

Một năm sau khi đuổi giặc Minh, một hôm vua Lê Lợi chèo thuyền quanh hồ Tả Vọng trước kinh thành thì lúc đó Long Quân sai Rùa vàng hiện lên đòi lại thanh gươm năm xưa. Thanh gươm đeo bên người vua Lê Lợi tự dưng bị động đậy và vua Lê Lợi cũng nghe thấy Rùa vàng nói rằng “Xin bệ hạ hoàn trả lại gươm cho Long Quân” nghe xong vua tung thanh gươm về phía Rùa vàng, Rùa cắn thanh gươm và lặng sâu trong lòng nước. Từ đó hồ Tả Vọng bắt đầu mang tên là Hồ Gươm hay là Hồ Hoàn Kiếm.

Đây là một câu chuyện được thần thánh hóa một cách sinh động ly kỳ: Lưỡi gươm dưới nước, đốc gươm trên đất và bao gươm trên cành cây. Nhưng dù là chuyện không thật, là một lọai thần thánh hóa câu chuyện nhưng nó đã đáp lại được nguyện vọng của toàn dân chống quân xâm lăng phương Bắc rất đáng truyền giữ.

Chuyện trả kiếm cho thần Rùa thường được viết trong truyện kể của nhân gian Việt Nam, ngay cả trong sách giáo khoa cũng nhắc chuyện huyền thoại này cho trẻ em khi họ đến lịch sử Việt. Không chỉ có chuyện kiếm thiêng của vua Lê Lợi mà còn có thần Kim Qui đời An Dương Vương mượn bảo kiếm để giết gà Tinh, hay cho mượn móng làm nẫy nỏ thần để dẹp tan quân xâm lược Triệu Đà. Gươm thiêng không chỉ có ở nước ta mà còn nhiều quốc Gia trên thế giới cũng có những truyền thuyết về gươm thiêng như vậy ví dụ như ở Anh có truyền thuyết Merlin với thanh gươm dính vào trong đá.v.v

Tuy nhiên đây chỉ là chuyện huyền thoại cho nên đâu có chứng cớ và sử liệu chính xác của lịch sử để chứng minh cho nên có người lý luận rằng mượn gươm thần ở sông Lương thuộc điạ phận Thanh Hóa, còn nơi trả gươm lại là hồ Lục Thuỷ thuộc kinh thành Đông Đô. Thật tình mà nói, ngay những chuyện lịch sử gần đây nhất khỏang chừng một vài trăm năm mà mỗi người đều viết khác nhau huống hồ năm sáu hay hằng chục thế kỷ qua. Câu chuyện thanh kiếm thần chỉ là cách thần thánh hóa câu chuyện, cũng giống như bốn chữ “Thuận Thiên Lê Lợi” trên lá, là do Nguyển Trải dùng mật ong viết lên lá để cho kiến ăn mòn chổ có mật sẽ hiện ra những chữ trên với mục đích kêu gọi người dân đứng lên chống ngọai xâm. Cũng giống hình thức trên những chữ “Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trải vi thần “ cũng cùng mục đích đó.

Một điều nữa mà tôi đã có cơ hội nhìn thấy trong chuyến đi du lịch gần đây về những bức hình “Cụ Rùa” do một nhân vật tại thành phố Hà Nội chụp được. Gần 300 bức hình “ Cụ Rùa” được triển lãm ở trường Quốc Tử Giám. Tất cả những bức hình này đều được chụp lúc Cụ Rùa nỗi lên trên mặt hồ. Dân chúng Hà Nội rất sùng bái “Cụ Rùa” này có người mua tấm ảnh này về để thờ cho gia đình gặp nhiều may mắn.

Có một bài báo viết năm 1967 là công ty thực phẩm Hà Nội có bắt được một con Rùa nặng khoảng 200kg, dài 2m, lúc đó nhân gian đồn rằng đây là con Rùa đòi gươm thiêng từ thời vua Lê Lợi. Chính vì thế, cho nên không ai dám ăn thịt, nhưng cuối cùng “Cụ Rùa” này cũng bị chết vì những vết thương khi người ta bẫy bắt nó.

Hôm nay ở thế kỷ 21st có “Cụ Rùa” khổng lồ vừa tìm thấy ở hồ Hoàn Kiếm, liệu đây có phải là “Cụ Rùa thời An Dương Vương hay con cháu Cụ Rùa thời vua Lê Lợi hiện lên để dâng kiếm thần giết sạch bọn Tàu Cộng xâm chiếm Trường Sa, Hoàng Sa và bọn tham ô hại dân hại nước?
viethoaiphuong
#47 Posted : Friday, April 25, 2008 1:39:08 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
Người Đồng Minh Dũng Cảm
Harry Noyes

Ngày gởi đăng: 4/23/2008

--------------------------------------------------------------------------------

Trong suốt quá trình chiến đấu để bảo vệ đất nước mình, Nam Việt Nam đã thiệt mất một phần tư triệu binh sĩ trên chiến trường.


Họ vóc dáng nhỏ con, nói chuyện líu lo như chim hót, ưa thêm nước mắm vào mọi món ăn, và thường hay nắm tay nhau.

Không lạ gì lính Mỹ khi qua viễn chinh ở vùng Đông Nam Á - hầu hết đều là trai trẻ, học thức bình thường, được rập khuôn trong một xã hội quá cao ngạo và quá ít hiểu biết về những nền văn hóa khác – khó lòng cảm thông được với những người chiến binh Miền Nam VN.

Điều đáng tiếc hơn nữa là nhiều cựu chiến binh lúc trở về lại đi gia nhập vào hàng ngủ của những nhóm gây rối, trốn lính và hoạt đầu chính trị để bêu xấu danh dự của một đạo quân nay không còn có thể tự đứng ra bào chữa được mình. Nhục mạ một đạo quân đã mạng vong trong chiến trận do nước Mỹ bỏ rơi là một hành vi đê tiện, không xứng danh là người chiến binh Hoa Kỳ.

Chắc một số người sẽ cho rằng đìều khẳng định của tôi là quá đáng. Vậy chứ tôi phải làm thế nào để bào chữa cho họ đây? Mọi người đều “cho” họ là một lũ bất tài, phản trắc và hèn nhát, phải như vậy không?

Không, hoàn toàn sai. Bài viết này sẽ trưng ra một vài chứng cớ hùng hồn để đánh đổ cái huyền thoại thô bỉ này, đồng thời cũng sẽ khảo sát xem do đâu phát sinh ra huyền thoại ấy.

Dĩ nhiên phải công nhận là Quân Lực Nam Việt không toàn hão. Người chiến binh của họ phải chiến đấu với những kẻ lãnh đạo tồi, những quân nhân hèn nhát, chịu đựng những cuộc khủng hoảng, những biến cố tai ương, bất lợi. Quân lực Mỹ ở Đông Nam Á cũng không hơn gì đâu.

Trên một số phạm vi như cơ cấu tổ chức, tiếp liệu, quản trị và lãnh đạo, quân lực Nam Việt thua bên phía Mỹ. Nhưng có ai trông mong gì khác hơn từ một quốc gia đang phát triển, mới vừa thoát khỏi ách thuộc địa lại phải lao đầu vào một cuộc chiến sinh tử với một quân thù hùng mạnh được cả một khối Cộng Sản hỗ trợ?

Thực tế mà nói, những nhược điểm của Nam Quân cũng hệt như của quân Mỹ thời chiến tranh Độc Lập của Hoa Kỳ (American War of Independence) , dù rằng nước Mỹ hồi cuối thế kỷ thứ 18 có nhiều điểm thuận lợi như: cái qui mô của cuộc Chiến Tranh Cách Mạng (Revolutionary War) nhỏ hơn và dễ chi phối hơn; quá trình thuộc địa Hoa Kỳ đã giúp hình thành được những chính quyền tự phát địa phương, cho phép đất nước này hun đúc nên những vị lãnh tụ tài ba thật sự; quân Anh không quá ngoan cố như quân BV; và quân đồng minh Pháp thời bấy giờ đã không bỏ rơi nước Mỹ non trẻ như kiểu người Mỹ bỏ rơi Nam Việt Nam.

Nhưng dù sao chăng nữa, cơ cấu tổ chức, tiếp liệu, quản trị và ngay cả lãnh đạo đi chăng nữa vẫn chưa phải là những phẩm chất để dựa vào đó mà phỉ báng quân lực Nam Việt.

Có hai câu hỏi đánh động đến đề tài tranh cải. Phải chăng người chiến binh Nam Việt thiếu chí khí, lòng quả cảm, sự can trường và lòng ái quốc mà người Mỹ đã nêu ra trong lời miệt thị và gán lên đầu họ mọi trọng tội vì đã đánh mất cái giá tự do của vùng Đông Nam Á? Quân Mỹ có khá gì hơn đồng minh của mình để dám khinh khi họ như vậy? Trả lời cho cả hai câu hỏi, tôi xin trân trọng khẳng định là “Không!”

Chứng cớ quá rõ ràng. Trận Tổng Công Kích Tết 68 coi như sẽ đập tan được ý chí chiến đấu của Nam Việt. Thay vì bỏ cuộc, quân NV đã kháng cự mãnh liệt và hữu hiệu: không một đơn vị nào tan rã hay tháo chạy. Ngay cả cảnh sát cũng chiến đấu, họ đương đầu với quân chính qui đối phương trang bị bằng vũ khí hùng hậu với chỉ bằng những khẩu súng Colts. Dựa theo báo cáo, sau trận này số người xin đăng lính cao đến nỗi chính quyền của quốc gia này phải đình hoản bớt việc thu nhận thêm tân binh.

Trong cuộc Tổng Tấn Công năm 72, quân trú phòng NV bị vây hãm tại An Lộc đã giữ vững được vị trí của mình trước một lực lượng ghê gớm của quân thù cả về người lẫn hỏa lực kinh hồn của đại pháo và hỏa tiễn. Sau trận này tôi được tiếp xúc với một cố vấn Mỹ để nghe tường thuật lại mẫu chuyện một tiêu đội lính NV trong vùng được cử công tác thanh toán ba chiến xa, đã hành động như thế nào. Họ chu toàn nhiệm vụ hạ được một chiếc, rồi quyết định tìm cách bắt sống hai chiếc còn lại. Theo tôi nhớ thì họ chộp được một chiếc còn một chiếc bỏ chạy, thế là mấy người lính chạy bộ rượt theo đến cuối đường. Việc thi hành thượng lệnh của mấy người lính này có thể không đúng tác phong quân kỷ, nhưng lối hành xử cho thấy tinh thần chiến đấu cao và thế chủ động mà mọi binh sĩ NV đều có. Dĩ nhiên điều tôi kể chưa đủ để bào chữa được cho lời tố giác tội hèn nhát.

Để minh chứng hơn, hãy nhìn vào Nam Việt Nam ở thời điểm cuối cùng vào năm 1975 khi đất nước này đang trong tình trạng tuyệt vọng khi biết rõ Mỹ không ra tay cứu giúp nữa (cả nhiên liệu lẫn đạn dược). Thế mà một đơn vị NV tầm cở một sư đoàn đã cầm chân được bốn sư đoàn BV trong suốt hai tuần giao tranh ác liệt tại Xuân Lộc. Chỉ riêng một trận này thôi sự anh dũng còn nổi bật hơn bất kỳ một chiến công nào có thể tìm thấy trong chiến sử Hoa Kỳ. Quân NV sau đó đành phải lui binh vì không quân của họ không còn bom để yểm trợ chiến đấu.

Có lần tôi xem được một phim tài liệu truyền hình do một phóng viên người Úc quay tường thuật về cuộc chiến. Khác với các phóng viên HK, anh ta dành hết thời gian bên cạnh các binh sĩ NV. Anh ta ghi rõ tinh thần chiến đấu của Nam quân bằng những thước phim của mình. Anh còn kể rằng anh từng ghé qua một làng do địch kiểm soát và nghe nói lại rằng lính CS còn sợ lính NV hơn cả lính Mỹ. Lý do chính là lính Mỹ bao giờ cũng ồn ào, nên khi nào lính Mỹ đến là họ biết ngay. Chỉ vậy thôi thì có gì họ phải kinh sợ nếu quân NV không là những chiến binh nguy hiểm.

Tuy vậy, chứng cớ quan trọng nhất chứng tỏ ý chí chiến đấu của quân nhân Miền Nam đến từ hai sự kiện hiển nhiên, những sự kiện vốn thường hay bị lãng quên hoặc che dấu để che đậy sự thất bại của người Mỹ ở Việt Nam.

Sự kiện thứ nhất: Chiến tranh VN đã khởi sự đâu đó bảy năm trước khi lực lượng chính của Hoa Kỳ đổ đến và sau đó lại tiếp tục thêm chừng năm năm sau khi quân Mỹ rút ra. Trong khoảng đó phải có ai đó đang chiến đấu mà kẻ đó là người Miền Nam chứ còn ai khác hơn.

Sự kiện thứ hai: Quân đội NV thiệt mất một phần tư triệu binh sĩ trên chiến trường. Theo tỉ lệ dân số thì tương đương hai triệu lính Mỹ chết (một con số gấp đôi tỗn thất của Mỹ trong tất cả các chiến tranh gộp lại). Cho rằng người ta không chịu chiến đấu thì sao họ lại chết nhiều như vậy.

Vậy thì do đâu mà NV phải chịu mang tai tiếng xấu?

Dĩ nhiên có lúc họ tỏ ra bất tài và hoảng loạn. Lính Mỹ cũng vậy thôi. Tôi biết một câu chuyện qua một đơn vị trưởng pháo binh HK rằng khi hay tin đại đội bộ binh bảo vệ mình bị địch đánh tan tành, các pháo thủ đâm hốt hoảng bắn loạn xạ khiến đám quân yểm trợ này hoảng loạn chạy có cờ giữa hai lằn đạn.

Một biến cố đơn thuần đó không thể đem ra mà gán cho cả quân lực HK là hèn nhát thì thỉnh thoảng có sự tan hàng của người đồng minh của nước Mỹ cũng không có nghĩa là tất cả chiến binh Miền Nam là hèn. Thế mà có kẻ lại suy nghĩ như vậy, qua cách nói bởi một số cựu chiến binh, bởi những chính trị gia muốn bào chữa cho một chính quyền Mỹ đã để cho Nam VN bị suy vong.

Sự thật được minh bạch hơn qua mẫu đối thoại sau đây phát xuất từ hai thế kỷ trước, khi một phụ nữ Anh hỏi viên công tước xứ Wellington rằng lính Anh có bao giờ bỏ chạy trên chiến trường không.

Viên công tước đáp, “Ngoài chiến trường người lính nào cũng có bỏ chạy cả, thưa bà.”

Một nghiên cứu qua loa trong quân sử cũng xác minh được điều này. Những trận đánh thời Nội Chiến (Civil War) cho thấy sự can trường lẫn sợ hãi liên tục khi lên khi xuống, cả những đơn vị phe Confederate lẫn Union thoạt đầu xông pha rất hăng hái, sau đó co cụm lại rồi bỏ chạy trước hỏa lực kinh hồn trước khi tập hợp lại tiếp tục chiến đấu. Chưa có đạo quân nào tự cho mình có nhiều hành động hy sinh anh hùng bằng hai đạo quân này, tuy nhiên họ cũng có lúc chạy tán loạn nơi một chiến trường quá đẫm máu.

Văn sĩ S. L. A. Marshall mô tả sự hoảng hốt bỏ chạy của một đơn vị bộ binh HK thời Đệ Nhị Thế Chiến khi quân cảm tử Nhật vừa tấn công vừa hò hét. Đơn vị thứ hai nằm lại quyết chiến và nhanh chóng tiêu diệt hết đám quân Nhật (chừng 10 tên) và vở lẽ ra là đa số bọn chúng không có võ khí.

Nếu sự việc tương tự xảy đến với một đơn vị Nam Việt, những tên tự xưng là học giả uyên thâm lập tức ra rả lập đi lập lại rằng ấy là chứng cớ rành rành về hành động khiếp nhược của quân đội Miền Nam .

Tại sao vậy? Chúng ta ắt đã ngầm có câu trả lời rồi. Mọi sự còn tùy là cái quân đội đó thuộc chủng tộc gì, nói thứ ngôn ngữ nào. Sự thật đốn mạt là cái quân đội Nam Việt phải chịu mang tai tiếng xấu bắt nguồn từ lòng kỳ thị chủng tộc lẫn tinh thần sô-vanh nước lớn của người Mỹ.

Tôi xin tự minh chứng về khuynh hướng bóp méo sự thật vốn tràn lan rộng khắp. Lúc vừa mới đặt chân đến Nam VN vào tháng Sáu năm 1969, lập tức tôi được chứng kiến những trường hợp bày tỏ thái độ ngu dốt và khinh miệt của một số người Mỹ dành cho người dân cũng như quân đội quốc gia này.

Các binh sĩ Mỹ trắng cũng như đen, luôn cả những người trong các dịch vụ thuộc dân sự như truyền thông báo chí thẩy đều như nhau. Thái độ căm ghét này dành cho xứ sở cùng dân tộc VN kinh khiếp thay lại có một sức mạnh truyền nhiễm kinh hồn.

Một viên đại úy Mỹ tôi được biết có trình độ tốt nghiệp đại học về ngành điện ảnh từ một trường có tiếng tăm (coi như họ được đào tạo để có cái nhìn chuyên môn hơn người thường). Có lần anh ta sau công tác tạm thời ở Thái Lan trở lại VN đã hết lời ca ngợi dân Thái.

“Dân Thái người ta họ cho con đi học đàng hoàng,” anh ta nói, “khác với tụi nhỏ con của người Việt ở đây” . Khi tôi chỉ cho anh ta thấy không đâu xa mà ngay kế bên căn cứ còn có một trường học thì anh ta ngạc nhiên nhưng không hề tỏ ra ân hận về nhận xét của mình. Hằng trăm trẻ nhỏ trong đồng phục quần xanh áo trắng cắp sách đến trường mỗi ngày mà bất cứ ai có mắt đều nhìn thấy. Vậy mà tên làm phim này lại không.

Chua chát thay, dân VN vốn quí trọng sự học còn hơn dân Mỹ, họ đã nâng trình độ người đi học từ 20 lên đến 80 phần trăm dù chiến tranh đang dày xéo chung quanh (dù ngay cả các giáo viên vẫn thường xuyên bị sát hại bởi đối phương). Vậy mà vẫn còn bị tên làm phim này gán cho cái tội là một xứ sở không trường không lớp.

Vì phải viễn chinh nơi một xứ sở xa lạ, xa gia đình, người Mỹ này đã tự hun đúc cho mình một lòng thù ghét đất nước VN, hắn muốn tin rằng người Việt là đáng khinh. Do vậy, điều quan trọng đối với hắn là phải tin tưởng rằng người Việt không có trường học dành cho con cái họ; và chính cảm xúc đó làm mù đi thị giác của hắn.

Hãy nghĩ tưởng đến cảm tưởng của khối quân Mỹ ít học thức hơn khi phải trực diện với nền văn hóa xa lạ trong một môi trường đầy căng thẳng! Có lẽ ta không nên đổ lỗi cho các binh sĩ ấy về thái độ kém cõi của mình. Trời đất còn biết là giới chỉ huy HK chỉ nổ lực qua loa để giáo dục cho binh sĩ mình về đất nước VN và tính chất của cuộc chiến.

Tuy vậy, đó không phải là lý do để bào chữa cho các cựu chiến binh giả vờ cho là mình hiểu về những gì mình thấy ở VN. Ta phải tri ân các cựu chiến binh chiến tranh VN về đức tính quả cảm, sự hy sinh và lòng trung thành đối với tổ quốc. Nhưng tính quả cảm và sự hy sinh không đi đôi với sự hiểu biết. Chiến đấu ở VN không làm cho người lính thành những chuyên gia về đất nước hay cuộc chiến đó, cũng như có con không phải làm cho người mẹ trở thành một chuyên gia về khoa phôi thai (embryology) .

Những gì người lính Mỹ làm ở VN không dạy cho họ chi hơn về nền văn hóa, xã hội, chính trị, vân vân và vân vân của Nam Việt. Một ít người Mỹ có học lỏm bõm được vài tiếng Việt; ngay cả có một vài đọc được sách báo VN; và chẳng bao nhiêu người đọc sách vở viết về xứ sở Việt Nam bằng Anh ngữ.

Ngoại trừ các cố vấn, ít người Mỹ nào làm việc gần gũi với những người Việt, có chăng họ có chung đụng với những người làm thư ký, giặt giũ, và nữ hầu bàn do quân đội HK mướn.

Điều quan trọng hơn cả là ít quân nhân HK nào từng chứng kiến sự chiến đấu của binh sĩ NV. Ít ai có bao giờ xét đến thái độ khác biệt hiện hữu trong tâm tư những chiến binh nơi chiến trường ấy, quân Mỹ sang chiến đấu một năm rồi về, họ yên tâm là gia đình họ đều đang bình yên ở nơi chính quốc; trong khi người lính Miền Nam thì khác, hằng ngày họ phải lo lắng cho sự an nguy của gia đình mình, họ thừa hiểu rằng chỉ có cái chết hay chỉ có bị thương ở mức độ tàn phế họ mới ra khỏi được đời sống quân ngủ. Đương nhiên người Việt ắt phải dùng một thước đo riêng để quyết định cái gì là quan trọng hơn để chiến đấu.

Giới nhà báo không khá gì hơn. Thử xét xem về một cuộc tường thuật truyền hình thiên vị mà tôi đã được xem trong đó người phóng viên tố giác không quân NV mặc dù đã Việt Nam Hóa chiến tranh, đã không chịu bay, để cho KQ HK phải lãnh những sứ mạng nguy hiểm chống lại BV.

Nói cho đúng thì chính HK không chịu để cho NV bay ra Miền Bắc (ngoại trừ một vài phi vụ trong thời gian mở màng của các cuộc dội bom). Giới lãnh đạo HK muốn kiểm soát việc ném bom vì có thế HK mới có thế dùng nó như một công cụ để mặc cả trong bàn thương thảo.

Bởi không muốn NV xen vào việc ném bom, HK cố ý chuyển giao cho NV những trang bị không thích hợp cho các phi vụ đánh phá Miền Bắc. Nam Việt không có phi cơ chiến đấu, vũ khí, máy bay tiếp tế xăng trên không, hoặc cả những thiết bị điện tử cấn thiết cho những phi vụ ấy. Chính người Mỹ đã quyết định làm như vậy.

Người phóng viên nêu thắc mắc kể trên hoặc đã quá khờ khạo hoặc đã chọn sự tảng lờ để thực thi hành động báng bổ người đồng minh của HK. Căn cứ vào những lời lẻ vu khống cùng giọng điệu om sòm, tôi đi tới kết luận là sự thiếu kiến thức của anh ta hoàn toàn do cố ý.

Một dẫn dụ khác về tính thiên vị của giới truyền thông là vào thời điểm Khe Sanh bị bao vây. Nếu ta hỏi một ngàn người Mỹ có đơn vị tham chiến ở Khe Sanh, hầu hết ai nghe nhắc đến trận ấy hẳn đều biết TQLC Mỹ chiến đấu ở đó. Nhưng nếu có hơn một người trong số một ngàn người đó biết có một tiểu đoàn BĐQ NV cũng đã san sẻ sự cam khổ ấy thì quả là điều đáng ngạc nhiên. Trong khi ấy còn có những đơn vị NV khác cũng dự phần vào những cuộc hành quân yểm trợ bên ngoài căn cứ đang bị vây hãm này. Báo chí Mỹ coi đồng minh của HK như không đáng để tường thuật đến trừ khi họ phạm điều gì ô nhục, vì thế những chiến sĩ chiến đấu can trường kia trở nên những người hùng vô hình tại Khe Sanh.

Sự thiên vị này, lính Mỹ lẫn giới truyền thông HK đã đồng ca rõ rệt khi tường thuật về cuộc hành quân bất ngờ vào lãnh thổ Lào năm 1972.

Thử xem lại một tài liệu truyền hình được đưa ra một thập niên trước đây. Tài liệu này bao gồm cuộc phỏng vấn một số binh sĩ Mỹ trong khi chiến trận tại Lào đang diễn ra. Những quân nhân HK này, đứng bình yên bên lãnh thổ NV, có những lời nhận xét cay độc, kỳ thị dành cho các binh sĩ NV đang chiến đấu ở bên kia biên giới. Người phóng viên truyền hình này bày tỏ rằng lính Mỹ hiểu rõ tình hình hơn các tướng lãnh của họ.

Cuộc tấn công lên đất Lào dĩ nhiên là nguồn gốc của bức hình nỗi tiếng cho thấy hình ảnh một người lính NV đang đeo trên càng một phi cơ trực thăng để tìm cách vượt thoát. Hình ảnh này được liên tục tung ra trước công chúng Mỹ như là “chứng cớ” cho thấy người Miền Nam là đáng khinh tởm.

Quả thực đây là một thủ thuật xưa như trái đất để xuyên tạc sự thật bằng sức mạnh của hình ảnh. Những gì xảy ra bấy giờ đúng ra là như vầy: Quân NV gặp phải lực lượng đông đảo của đối phương trong khi quân Mỹ không yểm trợ được như đã hứa vì hỏa lực phòng không của địch quá mạnh. Có nhiều báo cáo cho biết phi hành đoàn trực thăng phải đạp những két đạn đại bác xuống đầu các đơn vị NV từ độ cao 5000 bộ trở lên chỉ với hy vọng quân NV sẽ nhận được. Các phi cơ này quả tình là không dám xuống thấp hơn.

Trong phạm vi vấn đề này, thử xem nhận xét của một sĩ quan HK, Đại Tá Robert Molinelli, người đã mục kích tận mắt, được đăng tải trong Armed Forces Journal (Tập San Quân Đội) số ngày 19 tháng Tư, 1971 như sau: “Một tiểu đoàn NV gồm 420 người bị bao vây bởi một trung đoàn đối phương đông đến từ 2500 đến 3300 quân trong suốt ba ngày ròng. Phía HK không thể nào tăng viện cho đơn vị này. Họ phải chiến đấu đến gần cạn kiệt hết đạn dược mới bắt đầu phá vòng vây với vũ khí và đạn dược thu được của địch quân. Đơn vị này còn mang theo những đồng đội bị thương cũng như đã chết. Hình ảnh phi cơ trinh sát chụp được cho thấy rải rác chung quanh đơn vị này là xác của 637 quân địch.

Đơn vị này chỉ còn 253 người trong tình trạng khả thi chiến đấu khi họ chạy đến được một đơn vị NV khác. Một số ít trong số 17 kẻ hoảng sợ đã bám càng trực thăng để thoát thân. Số còn lại, tất cả đều không.

Giờ đây, chắc có người cho rằng đeo càng trực thăng để thoát cho nhanh, dù rằng dễ làm mồi cho hỏa lực phòng không mà phi cơ lại bay cao và nhanh. Nhưng ngoài chuyện ấy ra, một trường hợp cá biệt, việc lui binh trong khi đang giao chiến ác liệt (một chiến thuật khó khăn nhất trong binh pháp) lại bị phóng đại thành một lời buộc tội cho cả một quân đội, một quốc gia và tệ hơn nữa cả một dân tộc?

Câu trả lời rằng đó là do chính lòng kỳ thị chủng tộc. Vì lẽ những người bám càng trực thăng là người ngoại chủng. Thử hỏi kẻ đó là người Mỹ hay người Anh thì sao, cam đoan không sai rằng ta sẽ cảm thông cho là người đó đang phải chịu hoàn cảnh nghiệt ngã.

Minh chứng cho điều này có thể thấy người Mỹ đã phản ứng như thế nào đối với lính Anh trước cuộc triệt thoái của họ hồi thời gian đầu Thế Chiến Thứ Hai.

Nơi đây cũng có những hình ảnh tủi hổ xảy đến cho lính Anh ở Dunkirk cũng như tại một số nơi khác. Ở Dunkirk một hạ sĩ quan để tái lập trật tự phải chĩa súng đại liên vào đồng ngủ của mình đang hốt hoảng trèo lên tàu. Trên một tàu khác, các binh sĩ dùng báng súng dộng liên hồi vào người một sĩ quan để ngăn không cho ông này leo lên tàu qua ngỏ tháp súng. Tại đảo Crete , một lữ đoàn quân Tân Tây Lan đã tạo một vòng đai an toàn với lưỡi lê chĩa ra ngoài ngăn không cho các quân Anh đang hoảng loạn tràn ngập lên được tàu mình.

Tuy thế, hình ảnh nước Anh đơn độc chống lại Hitler năm 1940 lại là một hình ảnh hào hùng. Điều này được minh chứng bởi sự kiện hoàn toàn hiển nhiên, ngay cả những biến cố đơn lẻ như vừa nêu bật ở trên vẫn không làm lu mờ được cái hình ảnh toàn cảnh về đức tính can trường và xả thân cứu nước của dân tộc này.

Quả thật quân Nam Việt đã tỏ ra xuất sắc vào những ngày cuối cùng của Miền Nam qua sự bảo vệ Xuân Lộc vô cùng anh dũng.

Tuy rằng có nhiều lý do như vậy. Thẳng hoặc có nhiều lý do để tin rằng, nếu có sự ủng hộ trung thành của phía người Mỹ ắt Nam Quân sẽ chứng tỏ cho thế giới thấy thêm nhiều Xuân Lộc khác nữa, và có lẽ họ cũng đã cứu được đất nước họ không bị mất.

Vấn đề được nêu ra không phải là khả năng chiến đấu của quân Nam Việt như thế nào nhưng mà xét xem người Mỹ sẽ hành xử ra sao nếu tình huống tương tự xảy đến với họ.

Sự thật là quân Mỹ nếu bị HK bỏ rơi như chính NV đã phải chịu, có lẽ họ cũng sẽ không khá chi hơn.

Hãy nhớ rằng: năm 1974 Hoa Kỳ đã cắt viện trợ cho Nam Việt một cách thê thảm một vài tháng trước khi đối phương mở cuộc tấn công sau cùng. Kết quả của sự cắt viện trợ là chỉ một ít nhiên liệu và đạn dược gửi sang cho Miền Nam . Các phương tiện để vận chuyển cả trên không lẫn trên bộ đều phải bị bỏ xó vì không có cơ phận thay thế. Quân lính NV đi hành quân không có bình điện để liên lạc vô tuyến, y tá trên chiến trường không có đủ y dược cụ căn bản. Trong những ngày tháng sau cùng của cuộc chiến, quân Nam Việt phải chiến đấu thắc lưng buộc bụng, họ được phép bắn ba viên mỗi ngày, khẩu phần này áp dụng cho cả súng trường lẫn đại bác.

Tình trạng tồi tệ đến nỗi ngay chính Văn Tiến Dũng, người chiếm được Miền Nam cũng chấp nhận sự thật là khả năng lưu động và hỏa lực của đối thủ của mình chỉ còn phân nửa trước đây. Vậy thì ngoài sự thiếu thốn vật chất này ra, sự chiến đấu kiểu nhà nghèo này cũng tác động lớn lên tinh thần chiến đấu của người lính NV.

Quân BV với trang bị đầy ắp, với những chiến xa tối tân, với những xe cơ giới chở quân hiện đại, họ đã đánh thẳng vào Miền Nam suy sụp này bằng cuộc tấn công phủ đầu.

Phải, quân NV đã gát lại, đã vứt bỏ chiến cụ (không vứt cũng coi như vứt vì có cơ phận đâu mà thay), cả đạn dược cũng bị bỏ lại (số lượng mà họ đã chắt chiu dành dụm được, mang theo đến phút cuối cho tới lúc biết là đã quá muộn màng rồi không có cơ hội để bắn hay mang theo được nữa, họ thừa biết họ sẽ không bao giờ có thêm để mà bắn). Vậy thì lỗi nơi ai? Họ hay người Mỹ?

Phải, quân NV đã triệt thoái khỏi các tỉnh phía bắc một cách vụng về và khá muộn màng, đưa đến tình trạng hỗn loạn và suy sụp. Nhưng làm thế nào chính quyền Miền Nam có thể bỏ mặc dân chúng sớm hơn được, trước khi áp lực địch quá lớn buộc họ phải làm thế?

Đã có lúc Nam VN hy vọng B-52 trở lại để giúp họ chặn bớt làn sóng xâm lăng của Cộng Sản. Khi biết rằng điều ấy sẽ không xảy đến, tinh thần chiến đấu của họ bị suy sụp cũng không có gì đáng ngạc nhiên.

Không còn nhuệ khí chiến đấu, nhiều binh sĩ quay ra đào ngủ - làm thế không phải vì họ hèn nhát hay không có tinh thần hy sinh để bào vệ đất nước mình, nhưng vì họ không muốn xả thân cho một sự nghiệp biết chắc là đang trên đà phá sản trong khi gia đình họ đang khẩn thiết cần đến mình.

Quân Mỹ liệu sẽ làm gì khá hơn được chăng nếu cũng lâm vào tình huống như Nam VN hồi 1975? Liệu quân Mỹ có chiến đấu ngon lành với quân xa, truyền tin đều hỏng, hệ thống quân y què quặc, thiếu thốn nhiên liệu và đạn dược, và không yểm thì nhỏ giọt hoặc hầu như không có. Với một tình trạng bết bát như thế mà phải đối đầu với một kẻ địch có quyết tâm cao, hùng mạnh, trang bị tối tân, sung mãn. Tôi e là không thắng nổi.

Liệu NV có thắng được trận 1975 nếu chính phủ Mỹ vẫn giữ vững sự cam kết, và tiếp tục chi viện cho NV không kém với chi viện mà khối CS dành cho Miền Bắc?

Câu trả lời là không biết được. Ít ra họ có một cơ hội để đọ sức, cái cơ may mà người Mỹ phản trắc đã tước mất của họ. Hiển nhiên là họ có thể chiến đấu hữu hiệu hơn. Cho dù họ có bại trận họ cũng ngã gục một cách hào hùng trong một trận đánh lưu danh muôn thuở cho hậu duệ, để tiếp tục chiến đấu dưới hình thức du kích chiến rập khuôn theo kiểu Afghanistan .

Cho dù NV có đại bại, sự ủng hộ hết mình của Hoa Kỳ ít ra cũng khiến họ có thể nhún vai mà nói rằng dù sao họ cũng đã giúp đở hết mình rồi. Đằng này người Mỹ chưa có hết mình giúp đở. Những kẻ nào muốn trốn tránh sự thật ấy bằng cách quay ra báng bổ NV và quân đội ấy là không phải lẽ.

Trước một tội ác tày trời bỏ mặc cho nhân dân Miền Nam rơi vào tay CS, người Mỹ sau này quay ra đi làm điều tốt kể ra đã quá muộn màng. Nhưng nếu biết nhìn lại và công nhận mình đã sai lầm khi sĩ nhục lương tâm của người Miền Nam ấy thì chưa có muộn đâu. Cũng chưa muộn màng gì nếu ta biết khởi đầu vinh danh đúng mức những thành tích họ đã đạt được cùng những hành động hào hùng họ đã tạo nên để bảo vệ cho lý tưởng tự do./.
viethoaiphuong
#48 Posted : Friday, April 25, 2008 3:30:05 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
Ước Ao

Ước chi em được làm mây trắng
Chiều nay ghé lại bến quê hương
Giang san một dãy chiều hanh nắng
Một cõi nhân sinh lắm đoạn trường!

Em về thăm lại miền sông Hậu
Quê mẹ vàng tươi ruộng lúa mùa
Thăm hỏi hàng xoài, bờ mận trắng
Bao năm còn có nhớ người xa?

Em về thăm lại thành đô cũ
Dạo bước con đường vắng mọi khi
Áo trắng em thường qua lối ấy
Cho nhau giấc mộng tuổi xuân thì.

Chiều ra thơ thẩn công viên cũ
Tìm lại ngày vui thuở học trò
(Trốn học rong chơi mòn lối sỏi)
Bây giờ tuổi trẻ có ngây thơ ?

Em về ghé lại ngôi nhà trọ
Căn gác hôm nào anh đến thăm
Mưa rớt rạt rào trên mái ngói
Ngọt ngào như tiếng gọi trăm năm!

Em ra ngắm lại dòng sông cũ
Con nước buồn thiu chảy thẩn thờ
Thuyền ai tách bến không về nữa
Bờ vắng có buồn đứng ngẩn ngơ ?

..............................

Chiều nay, cố quận xa thăm thẳm
Lòng nghe khắc khoải nhớ quê hương
Anh ơi, em chẳng là mây trắng
Chỉ mang cố quận ở trong hồn!


Bạch-Loan
viethoaiphuong
#49 Posted : Friday, April 25, 2008 5:28:34 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
Chúng Ta Đã Làm Được Gì Trong 33 Năm Qua?

Ba mươi ba năm dài đã vụt qua một cách nhanh chóng như bóng câu qua cửa! Cũng những 33 năm dài ấy, biết bao nhiêu thăng trầm đã xảy ra trong cuộc sống của người Việt lưu lạc xứ người. Đành rằng chúng ta cũng cần quên đi những chuyện đau buồn để xây dựng cuộc đời mới. Thế nhưng chắc chắn trong lòng người Việt quốc nội lẫn quốc ngoại vẫn không thể nào quên được tháng-tư-bảy-lăm và cuộc đổi đời nghiệt ngã ấy: Hơn ba triệu người bỏ nước ra đi làm thân lưu lạc ở khắp nơi trên thế giới; một nửa triệu người chết biển, chết sông, chết rừng, chết trên đường bộ qua biên giới; hằng triệu người bị tù đày khổ ải trong các trại «cải tạo», và cả nước là một nhà tù khổng lồ không hơn không kém.

Ngược lại với những diễn biến tang thương của dân tộc Việt, thì Hoa Kỳ - người bạn đồng minh của chúng ta - đã thực hiện chính sách «Không ai là kẻ thù truyền kiếp và cũng chẳng ai là bạn bè trăm năm». Hai thập niên trước, Liên Sô là kẻ thù nguy hiểm nhất, nhưng giai đoạn sau đó và hiện tại là người bạn thân.
Đối với CSVN thì cũng thế thôi, 33 năm trước khi cuốn cờ bỏ chạy, chắc chắn trong lòng họ (Hoa Kỳ) đã thề nguyền sẽ không trở lại Việt Nam cho đến khi nào xứ này có tự do dân chủ. Nhưng không, hai thập niên sau - dù chế độ CSVN chưa có tự do dân chủ thực sự - họ vẫn xích lại để thiết lập quan hệ ngoại giao.
Thế rồi 3 thập niên sau, họ lại vận động cho ngụy quyền CSVN trở thành hội viên của tổ chức WTO và thành viên không thường trực của Liên Hiệp Quốc chỉ vì quyền lợi của Hoa kỳ mà bất cứ ai cũng nhìn thấy.

Sự việc Hoa Kỳ nhìn nhận CSVN, thắt chặt ngoại giao, không nhiều thì ít cũng đã gây nên một hiện tượng lạ trong cộng đồng người Việt hải ngoại, và cũng chưa bao giờ vấn đề này được đem ra mổ xẻ và bàn cãi nhiều như thế. Đó là hiện tượng «đi đêm với CSVN» qua chiêu bài xoá bỏ hận thù, san bằng biên giới quốc cộng, ru ngủ bằng lối bịp bợm: «về với con đường dân tộc».

Một số người mù mờ, chưa có kinh nghiệm đấu tranh với cộng sản, chưa biết «độc chiêu» khi họ cần biến hóa; chưa nhìn ra việc cộng sản lấy chiêu bài dân tộc để cứu đảng, cứu chủ nghĩa, cứu chế độ... thì tin rằng ngày nay cộng sản đã chết, tư bản và Mỹ đổ tiền vào Việt Nam, mang theo làn gió dân chủ v.v... đã thực sự hủ hoá được guồng máy đảng trị, mầm chống đối từ trong hàng ngũ của CSVN cũng đã xảy ra nhan nhản. Do đó, việc đi đêm với họ, sử dụng chiêu «xoá bỏ hận thù» để chiêu dụ họ là thượng sách. Chỉ có con đường đó là con đường duy nhất để dựng lại nhà, dựng lại người.

Những người có quá trình đấu tranh trực diện với cộng sản thì biết rõ - nhất là thành phần đã hy sinh quá nhiều trong cuộc chiến vừa qua, hoặc nhận chịu nhiều khổ đau trong chốn tù đày «cải tạo» - dĩ nhiên là không hận thù, vì hận thù thì thù hận sẽ chồng chất từ đời này qua đời khác. Thế nhưng trong khi chúng ta thực hiện xoá bỏ hận thù với tâm thức hỷ xả, với lòng bác ái quảng đại vô biên, mà người cộng sản thì chỉ nói bằng miệng, còn hành động vẫn y như cũ: theo dõi, bắt bớ, giam cầm những người vì sự sinh tồn của giống nòi đã và đang đứng lên tranh đấu cho nhân quyền, cho công bằng xã hội vì chế độ vẫn là một chế độ công an trị, đầy dẫy những bất công, tiếp tục chà đạp nhân phẩm con người, tiếp tục tạo thêm hận thù trong lòng người dân v.v... thì thử hỏi làm sao xoá bỏ thù hận ngay chính trong lòng họ!

Cứ suy luận kỹ càng hai ý tưởng nói trên là chúng ta đã thấy lùng bùng khó có thể tìm ra một tư tưởng tương đồng. Nghĩa là CSVN chỉ mới tung ra một chiêu, chỉ có 4 chữ «hòa hợp hòa giải» thôi mà hàng ngũ chúng ta đã tranh luận, cãi vã, đánh nhau kịch liệt. Trong khi đó, chúng ta đã quên rằng yếu tố căn bản để «ngồi lại với nhau» là thực lực, mà chúng ta đã có thực lực chưa?

Trong thế đánh bằng chính trị hay bằng kinh tế đi nữa thì chúng ta cũng phải có thế dựa, dựa từ bên ngoài, đứng từ bên trong, mới có thể nói chuyện «ngồi xuống để bàn».
Vậy thì thực lực nằm ở chỗ nào và làm sao để tạo ra thực lực? Thật sự, trong suốt đoạn đường dài đấu tranh vừa qua chúng ta đã có lực, có lửa. Lực ở chính nghĩa, lực ở thế đứng quốc tế. Lửa ở những quốc gia mà chúng ta đang sinh sống. Nhưng chúng ta đã không chịu xử dụng, không chịu đoàn kết một lòng để đạt mục tiêu tối hậu, mà quanh đi quẩn lại chỉ ngồi đó chờ thời và tìm kẽ hở của nhau để chỉ trích, bình phẩm, làm tiêu tan, làm nản chí những người thực sự có lòng, có lửa.

Trong khi đó, kẻ thù chính là CSVN với trăm mưu ngàn kế, với tiền rừng bạc biển sẵn sàng mua chuộc thành phần ham lợi, sẵn sàng tìm những «bàn tay nối dài» để thực hiện mục tiêu phân tán, xé lẻ tập thể người Việt tị nạn ra nhiều mảnh thì chúng ta không đề phòng, không tìm biện pháp hữu hiệu để đối đầu.

Bằng chứng là những năm gần đây, chính sách kiều vận qua nghị quyết 36 của CSVN đã đánh mạnh vào cộng đồng người Việt hải ngoại một cách rõ ràng. Chỉ nói riêng về mặt văn nghệ, những show nhạc có tính văn hóa vận như «Duyên dáng», vinh danh Trịnh Công Sơn v.v... đã được tung ra khắp nơi để thách thức tập thể người Việt tỵ nạn. Điểm lợi của họ là sau mỗi lần tổ chức như vậy, không nhiều thì ít, cũng tạo thêm rạn nứt trong sinh hoạt tập thể người Việt quốc gia. Thế là họ đã đạt được mục tiêu xé lẻ.

Bên cạnh những chiến dịch ma mánh ấy, rõ nhất là sự xâm nhập của các cấp cán bộ CSVN nằm vùng, hay cán bộ móc nối kinh doanh thương mại tại hải ngoại càng ngày càng trắng trợn hơn. Ở đâu có người Việt cư ngụ là có họ, bằng chứng là vụ «Little Saigon» ở San Jose. Tuy họ thất bại trước sự đấu tranh quyết liệt của tập thể người Việt tỵ nạn, nhưng những nọc độc núp bóng quấy phá, xâm nhập mạng lưới vào các tổ chức hội đoàn, cộng đồng - chờ cơ hội là họ ngồi dậy - thì chúng ta vẫn chưa có phương pháp đối đầu.

Mặt khác, chỉ một số người quan tâm, đó là chiến dịch xâm nhập luồn lách của NQ-36 vào lãnh vực truyền thông báo chí hải ngoại, tạo nên cơn sốt khó chịu cho giới cầm bút người Việt quốc gia hải ngoại. Tuy gọi là báo, nhưng sự thật họ không phải là nhà báo, ký giả với lương tâm nghề nghiệp của người cầm bút, mà là những người làm kinh doanh, cứu cánh của họ chỉ là quảng cáo. Do đó nội dung bài vở lấy xuống từ những trang web trên mạng internet - vô tình hay cố ý - đã làm lợi cho CSVN về mặt tuyên truyền sử dụng từ ngữ, mà mục tiêu chính yếu là tạo cho độc giả làm quen với hệ thống báo chí, chữ nghĩa ở trong nước do đảng CS chỉ đạo (theo nghị quyết 36). Một số độc giả quan tâm tới vấn đề này cho rằng, nội dung của một số lớn báo biếu tại hải ngoại càng ngày càng giống báo VC ở quốc nội!

Ba mươi ba năm rồi, chữ thời, chữ vận đã đến chỗ thông biến chưa? Chúng ta đã nhận diện được gì chưa? Thời gian dài như thế có đủ để chúng ta suy gẫm là mình đã làm được gì chưa? Bên trong thì đã chín mùi, một xã hội bệ rạc, kinh tế giả tạo, luân lý biến mất, tranh giành địa vị, mánh mung, thủ đoạn hại người để sống vội qua ngày. Đó là phó sản của xã hội do cộng sản tạo nên. Bên ngoài thì nhân tâm ly tán, chẳng còn ai tin ai, một số thì gần như muốn thỏa hiệp với CSVN để tìm giải pháp không tưởng, lập dị một cách khó coi; số thầm lặng thì chán ngán, muốn thả mình trôi theo giòng đời, chỉ lo làm ăn và sống bình lặng với người bản xứ cho yên thân.

Có phải đã đến lúc chúng ta nên suy nghĩ để nắm tay nhau đoàn kết, đứng dậy, phân biệt vàng thau, nói thật, nói rõ cho đồng hương để tạo lại ý thức. Công cuộc dân chủ hóa chế độ CSVN, hay lật đổ chế độ ấy chỉ có người ở trong quốc nội mới làm được. Bên ngoài, chúng ta phải đoàn kết để yểm trợ bên trong mới mong thành công. Đó là điều căn bản mà bất cứ ai có chút suy nghĩ cũng đều biết.

Xin đừng nghe những lời tuyên truyền có vẻ êm tai như: «Lịch sử đã sang trang, đừng quay lại với quá khứ, hãy để quá khứ đi luôn và nhìn tới con đường trước mặt là xây dựng kinh tế cho nước nhà giàu mạnh». Trong khi đó thì tập đoàn lãnh đạo CSVN vẫn giữ độc quyền cai trị, độc quyền vơ vét, độc quyền bắt bớ giam cầm bất cứ ai mà họ muốn giam.

Vì vậy, chúng ta cần tự mình - những người ra đi vì tự do - phải hỏi lại lòng mình đã làm được gì trước công cuộc giành lại Tự Do Dân Chủ cho dân tộc Việt Nam? Ba mươi ba năm qua, thế hệ (thứ hai) của John Nguyen, Cathy Tran... đã và đang trưởng thành và thành công một cách đáng hãnh diện trên xứ người, nhưng trên thực tế họ có nối tiếp thế hệ cha anh để tiếp tục đấu tranh cho quê hương dân tộc sớm có tự do thực sự hay không? Họ có được trang bị đầy đủ tinh thần để phục vụ cho mục tiêu cao đẹp, đó là Việt Nam phải thực sự có Tự Do Dân Chủ; hay một «tai biến» nào đó đã xảy ra và họ đang bị những bàn tay nối dài của CSVN lừa phỉnh đẩy vào bẫy sập?

Vậy thế hệ trước phải có trách nhiệm hướng dẫn, chăm sóc thế hệ thứ hai để họ tránh xa những cám dỗ từ đối phương bằng những chiếc bánh vẽ mà thế hệ trước đã có kinh nghiệm máu xương. Hãy chăm sóc thế hệ thứ hai để họ đừng bị lung lạc theo kiểu tuyên truyền, ru ngủ thâm độc của cục tuyên vận CSVN nhằm đánh gục mọi ý chí chống lại bạo quyền cộng sản Việt Nam. Nhớ rằng, người ta có thể lừa gạt được một vài người suốt đời, nhưng chắc chắn họ không thể lừa dối được cả tập thể dân tộc dài lâu như thế.


LỜI KẾT

Nhiều người quan tâm tới thời cuộc cho rằng đã đến lúc đất nước phải chuyển mình theo con tạo xoay vần: «Hết cơn bĩ cực phải đến thời thái lai». Ở hải ngoại, tuy bị CSVN theo chân quấy phá, làm chùn bước một số người, nhưng những người dấn thân vẫn tích cực trong nhiều công tác đấu tranh rất hữu hiệu. Một trong những công tác có ý nghĩa là chiến dịch vận động dựng Cờ Vàng, một biểu tượng của Tự Do Dân Chủ, đã và đang tung bay ngạo nghễ trên chính trường quốc tế. Đó là một điểm son của người Việt tự do nhằm kích thích tinh thần người dân quốc nội, hỗ trợ mạnh mẽ cho các tổ chức đấu tranh Dân Chủ, dân oan khiếu kiện, đình công đòi quyền lợi và nhân quyền đang hoạt động công khai trong nước, mặc dù họ vẫn bị nhà nước CSVN đàn áp bắt bớ giam cầm.

Mặt khác, nỗ lực đấu tranh chống cộng kiên cường của người Việt hải ngoại còn tác động mạnh đến những cán bộ mang danh nghĩa cộng sản để kiếm lợi trên xương máu của người dân. Những con người vô thần ấy sớm muộn sẽ phải hóa thân, hòa mình vào lòng dân tộc, ăn năn, hối cải mới có thể góp bàn tay vào việc cứu nước và giữ nước. Mong rằng, trong tận cùng đáy lòng, chắc chắn họ cũng biết đồng lõa với những kẻ cầm quyền bán nước là tội đồ dân tộc mà tổ tiên sẽ không tha thứ. Dù tối dạ đến đâu, người cộng sản cũng phải hiểu rằng kẻ thù truyền kiếp từ Bắc phương đã và đang lấn chiếm từng tấc đất của tổ tiên, đang lăm le «Hán hóa» dân tộc Việt như tằm ăn dâu. Chỉ có con đường duy nhất để thoát khỏi hiểm họa này là phải dân chủ hóa chế độ, mạnh dạn bước ngay vào con đường tự do dân chủ mà cả thế giới đang trở mình, và toàn khối dân tộc Việt Nam đang mong đợi!

Trương Sĩ Lương
viethoaiphuong
#50 Posted : Saturday, April 26, 2008 11:59:03 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)






Thương Hận

Như cánh nhạn lạc loài trời viễn xứ
Tháng năm dài tâm sự vẫn nôn nao
Từng kỷ niệm chập chờn trong giấc ngủ
Mãi trông vời vùng qúa khứ xanh xao

Người đứng đợi mõi mòn ngoài cõi vắng
Từng ngày qua, từng giấc ngủ chao dao
Hai tay trắng ôm tình đời trĩu nặng
Ngẫng nhìn lên, ánh mắt đã nghẹn ngào

Ngồi xuống đó bên dòng sông trắng bạc
Tâm sự gì mà con nước lao xao
Nghe hư ảo đi về trên gió cát
Dòng nước buồn rồi trôi mãi về đâu?

Người đứng đó ngơ ngác nhìn ảo ảnh
Cát bụi mờ như giấc ngủ chiêm bao
Bờ tóc rũ nhạt nhòa màu sương lạnh
Ngẫm kiếp người, thương hận chợt dâng cao !

Bạch-Loan

viethoaiphuong
#51 Posted : Sunday, April 27, 2008 1:13:46 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
viethoaiphuong
#52 Posted : Monday, April 28, 2008 1:13:50 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
TÂM TÌNH 33 NĂM NHÌN LẠI BIẾN CỐ 30 -4

Trong tư cách là người Việt-Nam 33 năm sống xa Tổ quốc, giáo xứ Đức Mẹ Lavang tại Wyoming (tiểu bang Michigan) chúng ta chọn ngày hôm nay làm ngày Ba Mươi Ba Năm Nhìn Lại biến cố 30 THÁNG TƯ: 30/4/1975 –30/4/2008. Với tôi và với nhiều người Miền Nam Việt-Nam đương thời, 33 năm trước, ngày 30 THÁNG TƯ là một đại họa cho nhiều người, cho Đất Nước. 30/4/1975 tôi theo Cha Giuse Cao Văn Cường, rời Nha trang, qua ngã Khánh Dương đi về phiá Tây của Tổ quốc, tìm về giáo xứ Châu Sơn, ở Buôn-mê-thuột để giúp Cha Cường dâng lễ mở tay đầu đời linh mục. Hai anh em chúng tôi đang đèo nhau trên xe honda đi ngang qua thị trấn Buôn-mê-thuột thì đài phát thanh Hà Nội loan tin “Saigon Giải Phóng”. Bộ đội hai bên đường thì như đồng loạt tung mũ tai bèo, tung dép râu lên trời, reo hò vang dậy trong niềm sung suớng hân hoan của đoàn quân chiến thắng, còn chúng tôi thì bàng hoàng trong nỗi nhục của kẻ chiến bại, trong tâm trạng của người dân mất nước. 30 THÁNG TƯ là một biến cố tủi nhục cho tôi lúc đó. Hình ảnh những anh lính bộ đội, đầu đội mũ tai bèo, chân đi dép râu, ốm tong ốm teo thế kia mà đánh thắng được một đội ngũ quân hùng tướng mạnh của Miền Nam. Ức thì thì ức, tủi thì tủi, nhưng nay 33 năm sau, đứng trên địa bàn quốc ngoại nhìn lại biến cố nầy, qua những sử liệu đã được giải mật, chúng ta mới thấy rằng vào thời điểm ấy Việt-Nam đã đến lúc cần đổi ngựa thí xe trên bàn cờ quốc tế. Chỉ tủi nhục một điểm là VN chúng ta sinh ra làm thân nhuợc tiểu, đành trở thành con cờ thí trên một bàn cờ quốc tế đã định vị. Con tốt đã nhập cung, con pháo đầu đã bị lượm đi rồi thì xe, thì tượng cũng trở thành bất khiển dụng, đành đợi xóa bàn làm lại.

Hôm nay ngồi đây nhìn lại biến cố 30 THÁNG TƯ của 33 năm trước, thay vì là một đại họa thì lại là một cơ may vì biến cố vượt biên, vượt biển liên tục trong hai thập niên tiếp theo. Không có biến cố 30 THÁNG TƯ làm sức ép, thì dân Miền Nam sẽ không liều mình đi tìm cái sống trong cái chết mà vượt biên, vượt biển. Nhờ hai thập niên vượt biên, vượt biển ấy mà nay gần 3 triệu người VN đang có mặt trên khắp năm châu bốn biển. Đây là nhân tố tất yếu sẽ kéo dài ranh giới Việt-Nam tỏa rộng đi muôn phương nhờ sự hiện diện của người VN xa xứ. Căn cứ trên tinh thần hiếu học của người VN, kèm theo sự thông minh trong bản tính, chắc chắn bây giờ trong số gần 3 triệu Việt kiều ở cõi ngoài của Tổ Quốc, có ít nhất cũng hơn 300 ngàn người trẻ đã tốt nghiệp đại học, có bằng cấp Giáo sư Đại học, Bác-sĩ, Dược-sĩ, Kỹ-sư, Luật-sư, Kiến-trúc-sư, Kinh-tế-gia, Doanh-gia chuyên nghiệp, chuyên ngành. Họ là những chuyên-viên với những khả-năng thứ thiệt, làm nhân-tố cho một Việt-Nam giàu mạnh về sau trên nhiều lãnh vực chuyên môn. Nhà Nước Việt-Nam trước đây gọi những người vượt biên, vượt biển chúng ta là bọn phản quốc, vọng ngoại nhưng trong khoảng hơn 10 năm trở lại đây, Chế Độ lại ưu ái nhận vơ vào và gọi nịnh chúng ta là “khúc ruột ngàn dặm của Tổ Quốc ở nước ngoài”. .. Cũng là một thực tế và là một thực thể thôi, nhưng nhận hay không nhận là quyền của chúng ta.

Chúng ta cám ơn cộng đồng thế giới đã quảng đại đón nhận chúng ta làm thân tị nạn xa xứ. Là người Công giáo VN ỏ Hoa-Kỳ, chúng ta phải lớn tiếng cảm tạ Chúa đã quan phòng sắp xếp trong biến cố 30 THÁNG TƯ, chúng ta tri ân quốc gia, dân tộc và Giáo hội Công Giáo Mỹ đã quảng đại đón tiếp cộng đồng người Việt đến nhập cư, rồi định cư vĩnh viễn trên đất nước phồn vinh nầy. Hoa Kỳ đã đại lượng đón tiếp chúng ta trong 33 năm qua, chính là một món qùa đắt giá nhất của xứ sở cơ-hội nầy giúp người VN chúng ta hãnh tiến, là tụ điểm để người Việt chúng ta “châu về hiệp phố” mà thể hiện tinh thần công dân của một quốc gia độc lập cho đến nơi đến chốn, rồi từ đó ra công xây dựng cho dân hùng nước mạnh là món quà chúng ta dâng tặng lại để tri ân dân nước Mỹ vậy.

Dịp 33 năm nhìn lại biến cố 30 THÁNG TƯ hôm nay là để tạ ơn Trời, tạ ơn người và riêng là người VN, đây cũng là một cơ hội để chúng ta khẳng định lại với Mẹ Việt-Nam rằng: Chúng con rời khỏi không gian Mẹ Việt-Nam nhưng hồn nước Mẹ Việt-Nam vẫn chưa bao giờ rời khỏi con tim, khối óc của mỗi chúng con.

Đây là căn tính của nỗi ước mơ hằng đeo đuổi tôi suốt 29 năm trường rời xa Quê Mẹ Việt-Nam. Xin qúy vị và anh chị em cùng chia sẻ nỗi niềm của một “EM BÉ VIỆT NAM VÀ VIÊN SỎI” được diễn tả bởi hồn thơ ái quốc Trần Trung Đạo, một thi sĩ quê Quảng Nam:

Bé thơ ơi cuộc đời em viên sỏi
Khóc một lần nước mắt chảy thiên thu.

Viên kẹo tròn nầy để dành cho Mẹ
Viên kẹo vuông nầy để lại cho Ba
Viên kẹo nhỏ nầy để qua cho Chị
Viên kẹo lớn nầy để lại cho Em
Còn viên kẹo thật to nầy. . là phần Bé đấy.

Bên bờ biển Palawan
Có một em bé gái
Tuổi mới chừng lên sáu lên năm
Đang ngồi đếm từng viên sỏi nhỏ
Và nói chuyện một mình
Như nói với xa xăm.

-“Em đến từ Việt-Nam”
Câu trả lời thường xuyên và duy nhất
Hai tiếng rất đơn sơ mà nhiều người quên mất.
Chỉ hai tiếng nầy thôi
Em nhớ kỹ trong lòng
Em chỉ ra ngoài Đông hải mênh mông
Cho những câu hỏi khác.

Mẹ của em đâu?
- Ngủ ngoài biển cả.
Em của em đâu?
- Sóng cuốn đi rồi.
Chị của em đâu?
- Nghe chị chết trên mui.
Ba của em đâu?
Em lắc đầu không nói
- Bé thức dậy thì chẳng thấy ai nữa.

Chiếc ghe nhỏ vớt vào đây mấy bữa
Trên ghe sót lại chỉ dăm người
Lạ lùng thay một em bé mồ côi
Đã sống sót sau sáu tuần trên biển.

Họ kể lại em từ đâu không biết
Cha mẹ em đã chết đói trên tàu
Chị của em hải tặc bắt đi đâu
Sóng cuốn mất người em trai một tuổi.

Kẻ sống sót sau sáu tuần trôi nổi
Đã cắt thịt mình lấy máu thấm môi em
Ôi những giọt máu Việt-Nam
Linh diệu vô cùng
Nuôi sống em
Một người con gái Việt.

Mai em lớn dù phương nào cách biệt
Nhớ đừng bao giờ đổi máu Việt-Nam
Máu thương yêu đã chảy bốn ngàn năm
Và sẽ chảy cho muôn đời còn lại.

Viên kẹo tròn nầy để dành cho Mẹ
Viên kẹo vuông nầy để lại cho Ba
Viên kẹo nhỏ nầy để qua cho Chị
Viên kẹo lớn nầy để lại cho Em
Còn viên kẹo thật to nầy. . là phần Bé đấy.

Suốt tuần nay em vẫn ngồi
Một mình lẩm bẩm
Ngơ ngác nhìn ra phía biển xa xôi
Như thuở chờ Mẹ đi chợ về.

- Thật trễ làm sao
Em tiếp tục thì thầm
Những câu nói vẩn vơ
Mẹ ngày xưa vẫn thường hay trách móc.

Trên đây là nỗi niềm của một trẻ thơ nhưng duới đây là tâm tư của một người trọng tuổi, trong cảnh sầu xa xứ đau thương, vẫn luôn uớc mong sẽ có ngày trở lại như ước mơ “RỒI SẼ ĐỔI TÊN CON” được diễn tả bằng những tâm tư sâu đậm Việt-Nam:

Lòng cha đêm sầu rụng
Trong nỗi đời cô đơn
Vẳng nghe lởi Việt Dũng
Cất gịng ca tủi hờn.
Mẹ đặt tên con:
Nguyễn Thị Saigòn
Đì con: Lê-Tị-Nạn
Đau tên: Vũ-Nhục-Nhằn
Biển Đông dù có cạn
Lòng cha hoài nước dâng
Con buớc đi
Mang tuổi trẻ phong trần
Lạc loài không lý lịch.
Máu của cha tạo nên con xiềng xích
Thuở bào thai đâu mẹ muốn con buồn?
Da con vàng: trời Tây Phương đối nghịch
Nói tiếng người con bị giống nòi khinh
Nỗi thương con cha chỉ biết hận mình
Sao lại dẫn con đi vào viễn xứ?
Lỗi lầm cha hay vòng xoay lịch sử
Đưa con mình vào kiếp sống lưu vong
Được tự do nhưng lại mất giống giòng
Con đâu biết trứng Rồng Tiên chung bọc!
Trời đêm mưa và lòng cha đang khóc
Đời con đi xẻ dọc một đời cha
Người ta cuời khi thấy bóng con qua
Hình dáng Việt mà sao không phải Việt
Cha cúi đầu cuồng quay ảo xiệc
Quê Hương nào dẵn dắt bước con đi?
Óc Tây Phương con đâu biết nghĩ gì
Về Dân Tộc đang lầm than khốn khổ?
Lỗi tại cha? -Mẹ dầm mưa trút đổ
Gọi tên con: Nguyễn Thị Sàigòn
Chiều ‘mít-tinh’ nghẹn lời ca góc phố
Cha gào than đòi lẽ sống cho con
Thắp sáng niềm tin từ vực sâu đáy mộ
Tiếng cuời ai quên nuớc mất hay còn.
Con cố đợi
Cha dẫn con đi đường quê sẽ tới
Một ngày mai hoa nắng huy hoàng
Tượng đất nghênh ngang
Lòng dân mình sẽ đập
Màu đỏ sang vàng
Trời oan khiên phải sập.
Mẹ đổi tên con, tiếng cười reo vang khắp
Trần Tự Do
Lê Dân Chủ
Tên Nhục Nhằn không kèm theo họ Vũ
Một đời con lý lịch sẽ vinh quang.
Máu lòng cha chưa cạn
Hồn vẫn chảy niềm tin
Cha đổi lao tù cho con ánh sáng
Tiếng gào hôm nay thành tiếng hát mai sau.
Hoa sẽ nở từ hạt giống cha đau
Cho con vòng nguyệt quế
Đường con đi: đẹp trời hoa thế hệ
Đến ngàn năm Xuân mãi thắm phương Nam.
(Võ Đại Nam: 10-12-1995)

Tôi thực sự đã rời xa Việt-Nam trong không gian vật lý nhưng hình ảnh đất nước Việt-Nam, Dân tộc Việt-Nam chưa hề rời xa tôi trong tâm tưởng, trong uớc mơ. Tôi bắt gặp tâm tư nầy của tôi trong những giòng suy tư sau đây của một tâm hồn Việt-Nam: “Tôi yêu quê tôi, giải đất chạy dài theo bờ Thái Bình Dương êm đềm và hùng vĩ. Tôi yêu hình ảnh của núi rừng thâm u và cô độc. Tôi yêu dân tộc tôi với một qúa trình lịch sử đầy điêu đứng và không hề nguội lửa đấu tranh. Tôi yêu đồng bào tôi, những người đã cùng tôi chia sẻ một cội nguồn lịch sử, cùng chung những niềm hãnh diện và những nỗi đắng cay... Tôi nghĩ đền hai tiếng Việt-Nam mà lòng cảm thầy bùi ngùi xúc động. Tiếng Việt, người Việt và phong tục Việt được ràng buộc với nhau bởi một sợi dây thiêng liêng mà chỉ có chúng ta mới hiểu được và chỉ có chúng ta sẽ bảo tồn... Bạn trẻ ơi! Dân ta còn đó, hãy cố gắng gìn giữ lại những gì chúng ta còn có. Bạn trẻ của tôi ơi! Chúng ta còn ngồi lại nơi đây, hãy cầm lấy tay nhau mà hẹn với lòng mình: Chúng ta sẽ chiến đấu mãi mãi, chiến đấu với sự nghèo nàn, ngu tối, bệnh hoạn và sẽ tha thứ cho nhau rồi đứng lên cùng ôm chặt lấy nhau cho da Việt-Nam VÀNG, cho máu Việt-Nam ĐỎ”. (Thương Yêu, trong bài tựa đề “TÔI YÊU. .. TÔI YÊU” đăng trong tờ Đất Mới).

VIỆT NAM LÀ TIM, ĐỜI MÌNH LÀ MÁU. Làm sao Tim và Máu lại có thể tách rời? Tâm trạng nầy cần phải được hét to lên “ĐỂ CON NHỚ” như tâm sự của Nhất Tuấn được đăng trên báo Văn Nghệ Tiền Phong ngày nào:

Cùng các anh chị con, mình lạc loài Do-Thái
Để con nhớ, suốt đời con nhớ mãi
Giống Lạc Hồng là giòng dõi Rồng Tiên
Nước Việt-Nam ta cảnh đẹp dân hiền.

Bên Biển Thái: đó giang sơn cẩm tú
Dẫu là Mỹ nhưng con ơi phải nhớ
Mình ở đây ăn gởi nằm nhờ
Mình ở đây mà canh cánh từng giờ
Ngày trở lại quê nhà xưa yêu dấu.
Việt-Nam là tim
Đời mình là máu
Bố dặn con ghi khắc một niềm tin
Máu đi rồi máu phải trở về tim.
Máu sẽ chết nếu chảy ngoài huyết quản.
Nhớ kỹ chưa con lời ta căn dặn
Máu đi máu trở về tim,
Việt-Nam nghèo khó cũng xin trở về.”
(Nhất Tuấn, Văn Nghệ Tiền Phong #169)

Nói như Bảo-Thái trong cuốn sách mang tựa đề “Một Thời Hoàng Tộc” nơi trang 84 rằng: “Tôi đã bỏ nước ra đi, nhưng vẫn mang theo hồn nước trong trái tim mình. Hồn nước tiềm ẩn trong những khúc ca dao, lời mẹ ru từ lúc nằm nôi, trong những điệu hò mái nhì mái đẩy, đầy tình tự quê hương, đã vang vọng lại trên sông núi ở quê nhà và đang vang vọng trong lòng của mỗi một người chúng ta”:

Chiều cbiều trước bến Vân Lâu
Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm
Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông?
Thuyền ai thấp thoáng bên sông
Đưa câu mái đẩy chạnh lòng nước non..”

Tôi cám ơn qúy vị và anh chị em đã cho tôi cơ-hội đặc biệt để chia sẻ với anh chị em Chúa và cũng là đồng bào Việt-Nam chung bọc, rất thân thương của tôi về nỗi niềm ngày càng sâu đậm và xác tín: Tôi rời khỏi Việt-Nam nhưng Việt-Nam chưa bao giờ rời khỏi con tim và khối óc của tôi. Qúy vị và anh chị em có chung cùng tâm trạng nầy với tôi không? Hẹn sẽ gặp nhau trong tâm tình nầy và mãi mãi hãnh diện là người Việt-Nam đang ở cõi ngoài của Tổ Quốc.

Muôn vàn trân trọng

LM Phêrô Hoàng Xuân Nghiêm.
viethoaiphuong
#53 Posted : Tuesday, April 29, 2008 9:18:12 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
Những câu hỏi gửi cho Việt Nam ngày 29 tháng 04 năm 2008
Lý Đợi


"… Ai có biết ? Ai có biết ? Ai có biết ?…"


1. Ai có biết trong lời nói đầu của Hiến pháp Việt Nam năm 1980 có câu: "Trung Quốc là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất"?
2. Ai có biết hải quân Trung Quốc đã giết chết 58 binh sĩ Việt Nam Cộng hoà khi đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa từ tháng 01/1974?
3. Ai có biết hải quân Trung Quốc đã giết chết 74 bộ đội Việt Nam khi đánh chiếm một phần quần đảo Trường Sa vào tháng 03/1988?
4. Ai có biết hải quân Trung Quốc đã bắn chết và gây thương tích cho 09 ngư dân Thanh Hoá ngày 08/01/2005?
5. Ai có biết hải quân Trung Quốc đã bắt giữ nhiều tàu và bắn chết nhiều ngư dân Thanh Hoá, Quảng Nam, Đà Nẵng, Khánh Hòa trong năm 2007?
6. Ai có biết Trung Quốc đã phá hỏng dự án đường ống dẫn khí tại Vũng Tàu năm 2007?
7. Ai có biết ngày 02/12/2007 Trung Quốc đã tuyên bố Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ thuộc thành phố Tam Sa?
8. Ai có biết website Olympic của Trung Quốc đã thể hiện Hoàng Sa, Trường Sa là lãnh thổ Trung Quốc?




9. Ai có biết năm 1075 Lý Thường Kiệt lãnh đầu quân dân tiến công sang châu Liêm, châu Khiêm (Quảng Đông hiện nay) thuộc đất nhà Tống, năm 1076 đã đánh tan 8 vạn quân Tống trên sông Như Nguyệt?
10. Ai có biết cách đây hơn 07 thế kỷ, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đã lãnh đạo quân dân đánh tan 03 cuộc xâm lấn của đế quốc Nguyên-Mông?
11. Ai có biết cách đây gần 06 thế kỷ, Lê Lợi và Nguyễn Trãi đã lãnh đạo quân dân nước Việt quét sạch giặc Minh ra khỏi bờ cõi?
12. Ai có biết cách đây gần 03 thế kỷ, Quang Trung cùng quân dân nước Việt đã quét sạch hai chục vạn quân Thanh chỉ nội mười ngày?
13. Ai có biết Đài Loan chỉ là hòn đảo có diện tích 35.000 km2, với khoảng 23 triệu dân?
14. Ai có biết Đài Loan chỉ cách Trung Quốc 120 km?
15. Ai có biết Trung Quốc tuyên bố có thể dùng sức mạnh quân sự để sát nhập Đài Loan?
16. Ai có biết chính quyền Đài Loan đã cấm ngọn đuốc Olympic Bắc Kinh chạy qua đảo Đài Loan và tổng thống Mã Anh Cửu mới đắc cử đã phê phán thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo là kẻ "vô lý" và "ngớ ngẩn"?




17. Ai có biết quyền biểu tình của người dân là quyền đã được hiến pháp Việt Nam hiện tại quy định tại điều 69?
18. Ai có biết “không có luật biểu tình” là thuộc trách nhiệm cơ quan công quyền (Nhà nước)?
19. Ai có biết nhân dân chính là người đang đóng thuế để trả lương, nuôi sống bộ máy công quyền?
20. Ai có biết "Nước mất thì nhà cũng tan"?
21. Ai có biết "Quan nhất thời, dân vạn đại"?
22.Ai có biết "Gieo gió sẽ gặt bão"?
22. Ai có biết "Nhân nào quả ấy"?
23. Ai có biết "Ác giả, ác báo"?

Còn tôi : xem như chẳng biết mẹ gì !
Lý Đợi
Nguồn : Theo Dân Ý, tháng 04 năm 2008
viethoaiphuong
#54 Posted : Tuesday, April 29, 2008 7:13:45 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
+



Kính thưa quý đồng-hương thân thương tại Việt Nam cũng như Hãi-ngoại.

Hôm nay là Ngày QUỐC HẬN


<> Ngày mà toàn dân Việt nam khỡi-sự chịu ách thống-trị dưới gông cùm cũa bè lũ Cọng-Sãn vô thần.

<> Ngày mà cuộc sống TỰ-DO cũa chúng ta bị bọn Cọng-sãn vô thần cướp đoạt.

<> Ngày mà hằng triệu triệu người Việt yêu chuộng TỰ-DO, gạt lệ mà phãi rời Quê-Hương thân yêu ... dứt áo ra đi.

<> Ngày mà mọi người dân Việt -- nếu có cơ-hội -- đều quyết-tâm vượt Thái-Bình-Dương đễ đi tìm một cuộc sống mới, trước bao thữ thách, nghịch-cãnh và chết chóc ...

<> Nhìn về Thái-Bình-Dương, nơi mà hằng trăm ngàn con dân Việt nam -- quyết tâm đi tìm cái sống trong cái chết -- đã bõ mình một cách tức tưỡi trên biễn cã cũng chĩ vì LÝ-TƯỠNG TỰ-DO: hoài-bão lớn lao nhất cũa nhân-loại mà bọn quỹ đõ VN đã cướp mất.

Hôm nay, trong giờ phút thiêng liêng này ... đăm-chiêu nhìn về phương Tây:

- nơi Quê-Hương thân yêu, một giãi Sơn Hà Gấm Vóc mà Tiền-Nhân bao nghìn năm xây dựng, bồi đắp, nay đã bị bè lũ CSVN: bọn Việt gian phãn-quốc, xén bớt từng mãnh lãnh thỗ/lãnh hãi đễ dâng cho bọn Tàu Fù, quan thầy cũa chúng ...

- nơi mà các ngư-phũ Việtnam, qua bao thế-hệ, cha truyền con nối, đã sinh sống bằng nghề chài lưới, bỗng nhiên bị bọn quỹ đõ VN (fe thân Bắc Triều) vẽ lại bãn-đồ lãnh-hãi rồi đem dâng cho bọn Chệt .. giựt mất chén cơm từ trên tay cũa họ !

- nơi mà hằng mấy trăm năm qua, dã dược quốc-tế công nhận là thềm-lục-dịa cũa Việtnam, các quần-dão Hoàng Sa & Trường Sa chứa đựng vô vàn tài nguyên (hãi-sãn/khoáng-sãn) fong fú … thì bỗng nhiên, tên fãn-quốc Hồ chí Minh ra lệnh cho tên dầy tớ trung thành Fạm-văn-Ðồng … ngang nhiên viết công hàm (1958) zâng hiến cho Bắc Triều !!

Chúng ta hãy nhìn ngược lại giòng lịch-sữ, thời mạc-vận nhất, đen tối nhất cũa Ðất Nước, ngay cả những kẻ hèn nhát như Mặc Ðăng Dung quỳ gối xin hàng địch, hay Lê Chiêu Thống cõng rắn cắn gà nhà nhưng chưa ai zám zâng một tấc đất cho quân Tàu Fù !!

- Hỡi các dấng Tiền Nhân, hãy chứng giám cho mối nhục mất nước nầy !!

- Hỡi Hồn Thiêng Sông Núi, hãy giúp cho Con Cháu Dân Việt hoàn tất nhiệm vụ mà Tỗ-Tiên dã giao fó là zuy trì sự vẹn toàn Bờ Cõi mà Tỗ Tiên dã ũy-thác, cho zù cho fãi thịt nát xương tan …

Ôi ! Ðau đớn thay cho con dân Việtnam !!

Hiện nay, bọn csVN dang nhận thức dược rằng: mối hận thù cũa người Việt tỵ nạn dối với chúng dang zâng lên ngập trời, nên bọn csVN dang zùng trăm fương ngàn kế dễ cho người Việt tỵ nạn CS quên mối thù truyền kiếp nầy. Nhưng chúng ta fãi cương-quyết zuy trì lễ Tưỡng Niệm Ngày Quốc Hận từ thế hệ nầy qua thế hệ kế tiếp. Zẫu cho dến khi con cháu hậu zuệ cũa chúng ta dã thâu hồi dược quyền làm người cho nhân zân Việt nam, chúng ta vẫn zuy trì truyền thống làm lễ Tưỡng Niệm Ngày Quốc Hận dễ nhắc nhũ nhau là quyết sẽ không dễ cho lịch-sữ Việt nam tái ziễn một lần nữa.

“Người đang viết những giòng chữ này” kính cẫn nghiêng mình cầu xin ƠN TRÊN sớm đưa hằng trăm ngàn oan hồn về yên nghĩ ỡ Cõi Vĩnh Hằng.

Matthew Trần
đặc-trách hệ-thống ‘‘Bãn Tin Gỡi Về Quê-Hương Việtnam’’ // HNN

viethoaiphuong
#55 Posted : Wednesday, April 30, 2008 4:08:57 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
Hồi ức tuần lễ cuối cùng ở Sài Gòn, 30/4/1975 kết thúc chiến tranh VN
Nam Nguyên, phóng viên đài RFA
2008-04-30

Ngày 30 tháng Tư năm 1975, cuộc chiến tranh VN kéo dài 21 năm đã kết thúc, hai triệu ngưới Việt Nam ở cả hai miền Nam Bắc thiệt mạng, bên cạnh đó là sự hy sinh của 58 ngàn quân nhân Hoa Kỳ, đồng minh chính yếu của quân đội Việt Nam Cộng Hòa.


Xe tăng quân đội miền Bắc tiến vào dinh Ðộc Lập trưa ngày 30-4-1975. AFP PHOTO

Tháng 3/75 sau khi ra lệnh rút quân khỏi Pleiku Kontum, một quyết định dẫn tới sự sụp đổ hỗn loạn ở vùng cao nguyên trung phần và các tỉnh phía bắc VNCH, chạy dài từ Huế vào tới Phan Rang,


Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức

Ngày 21/4/1975 TT Nguyễn Văn Thiệu chịu áp lực từ nhiều phía và quyết định từ chức.

Ông nói: “Thưa đồng bào anh chị em chiến sĩ cán bộ các cấp, tôi tuyên bố từ chức tổng thống và theo hiến pháp phó tổng thống Trần Văn Hương sẽ đảm nhận chức tổng thống.”

Thưa đồng bào anh chị em chiến sĩ cán bộ các cấp, tôi tuyên bố từ chức tổng thống và theo hiến pháp phó tổng thống Trần Văn Hương sẽ đảm nhận chức tổng thống.


Khi nhà giáo Trần Văn Hương lên nắm giềng mối quốc gia, thì lúc đó 6 sư đoàn quân cộng sản Bắc Việt đang khép chặt vòng vây thủ đô Saigon, nơi có 3 triệu ngừơi sinh sống.

Làm thế nào cho dân được sống yên…làm thế nào cho máu đừng đổ thịt đừng rơi thì công của đại tướng đối với hậu thế sẽ lưu lại đời đời, dầu thế nào tôi thiết nghĩ đất nước này không bao giờ quên công lao đó của đại tướng.


Tổng thống Trần Văn Hương

Nhận nhiệm vụ được 5 ngày, tới ngày 26/4 Ông Trần Văn Hương yêu cầu quốc hội tìm người thay thế mình, một người mà theo ông có đủ khả năng tìm giải pháp vãn hồi hoà bình hoà giải dân tộc.

Quốc hội ra nghị quyết chỉ định đại tướng Dương Văn Minh vào chức vụ tổng thống.

Chiều ngày 28/4/1975 Lễ Bàn Giao giữa hai ông Trần Văn Hương và Dương Văn Minh được tổ chức tại Dinh Độc Lập.

Lời tổng thống Hương liên tục với tường thuật của phóng viên: “ …Làm thế nào cho dân được sống yên…làm thế nào cho máu đừng đổ thịt đừng rơi thì công của đại tướng đối với hậu thế sẽ lưu lại đời đời, dầu thế nào tôi thiết nghĩ đất nước này không bao giờ quên công lao đó của đại tướng….(vỗ tay)….(tường thuật)

Sau khi nguyên tổng thống Trần Văn Hương đọc xong bài diễn văn trao nhiệm, chúng tôi nhận thấy một sĩ quan đã gỡ huy hiệu tổng thống hai con rồng bay xuống…và thay thế bằng một huy hiệu tổng thống mới…với hình một hoa mai năm cánh…

Đây là phóng viên Hệ Thống Truyền Thanh VN, quí thính giả đang theo dõi trực tiếp truyền thanh lễ trao nhiệm chức tổng thống VNCH giữa ông Trần Văn Hương và cựu đại tướng Dương Văn Minh…

…Làm thế nào cho dân được sống yên…làm thế nào cho máu đừng đổ thịt đừng rơi thì công của đại tướng đối với hậu thế sẽ lưu lại đời đời, dầu thế nào tôi thiết nghĩ đất nước này không bao giờ quên công lao đó của đại tướng….


Thưa quí thính vào lúc này bên ngoài dinh Dộc Lập chúng tôi nhận thấy trời đã bắt đầu mưa nhỏ và Saigon đang trải qua một buổi chiều u ám như hoàn cảnh hiện tại của đất nước… ”

Những lời quí thính giả vừa nghe là của phóng viên Nguyễn Mạnh Tiến thuộc Hệ Thống Truyền Thanh VN. Như một sự tình cờ, phóng viên này đang làm việc cho Đài Á Châu Tự Do. Anh chính là Nam Nguyên của Ban Việt Ngữ.

Nam Nguyên: “Vâng ngaỳ ấy tôi còn trẻ lắm 29 tuổi, bây giờ nghe lại hết sức xúc động. Không ngờ còn có người giữ được những đoạn băng đáng lẽ đã đi vào quên lãng.”

Thưa quí thính giả cho đến 30 năm sau, vẫn chưa có lời giải đáp là tại sao Nam Việt Nam lại tan rã nhanh chóng như vậy. Tuy nhiên theo nhiều nhà phân tích thời cuộc, thì kể từ lúc tổng thống Thiệu từ chức ngày 21/4 và vội vã ra đi 2 ngày sau đó, sự kiện chế độ VNCH cáo chung chỉ còn là vấn đề thủ tục.


Tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng

Đại Tướng Dương Văn Minh được xem là người thích hợp nhất để nhận trách nhiệm ra lệnh đầu hàng. Mời quí vị nghe lại tuyên bố của tổng thống Dương Văn Minh được phát đi trên Hệ Thống Truyền Thanh Quốc Gia vào lúc 10 giờ sáng ngày 30/4/1975:

“Tôi tin tưởng sâu xa vào sự hoà giải giữa người Việt Nam để khỏi phí phạm xương máu người Việt Nam…vì lẽ đó tôi yêu cầu tất cả các anh em chiến sĩ VNCH hãy bình tĩnh ngưng nổ súng và ở đâu ở đó."

Chúng tôi cũng yêu cầu anh em chiến sĩ chính phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hoà Miền Nam Việt Nam ngưng nổ súng, vì chúng tôi ở đây chờ gặp chính phủ CMLTCHMNVN để cùng nhau thảo luận lễ bàn giao chính quyền trong vòng trật tự…tránh sự đổ máu vô ích cho đồng bào…”

Tôi tin tưởng sâu xa vào sự hoà giải giữa người Việt Nam để khỏi phí phạm xương máu người Việt Nam…vì lẽ đó tôi yêu cầu tất cả các anh em chiến sĩ VNCH hãy bình tĩnh ngưng nổ súng và ở đâu ở đó. Chúng tôi cũng yêu cầu anh em chiến sĩ chính phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hoà Miền Nam Việt Nam ngưng nổ súng...


Tổng thống Dương Văn Minh

Sau khi Đài Phát Thanh Saigon lập lại nhiều lần lệnh buông súng của Tổng thống Dương Văn Minh, cũng như nhật lệnh tương tự của thiếu tướng Nguyễn Hữu Hạnh, người được bổ nhiệm làm phụ tá cho tổng tham mưu trưởng sau cùng là Trung Tướng Vĩnh Lộc. Quân đội đã thi hành lệnh giao nạp vũ khí cho những người chủ mới của đất nước.


Xe tăng quân đội miền Bắc tiến vào dinh độc lập

Tôi tin tưởng sâu xa vào sự hoà giải giữa người Việt Nam để khỏi phí phạm xương máu người Việt Nam…vì lẽ đó tôi yêu cầu tất cả các anh em chiến sĩ VNCH hãy bình tĩnh ngưng nổ súng và ở đâu ở đó.


Xe Tăng Cộng Sản Bắc Việt tiến vào khuôn viên Dinh Độc Lập lúc 10g45 phút sáng ngày 30/4, đánh dấu sự cáo chung của chế độ VNCH. Một chế độ được xây dựng bởi những người không chấp nhận chủ nghĩa cộng sản. Chế độ ấy trải qua hai nền cộng hoà tồn tại được 21 năm.

Cuộc chiến quốc cộng huynh đệ tương tàn làm thiệt mạng hơn hai triệu người Việt Nam ở cả hai miền Nam Bắc. Phía đồng minh của VNCH, 58 ngàn quân nhân Mỹ tử trận cùng hàng ngàn binh sĩ của các nước Nam Hàn, Thái Lan, Úc và Tân Tây Lan.

Thưa quí thính giả, cũng là một tình cờ lịch sử, khi cờ Mặt Trận Giải Phóng đã tung bay trên Dinh Độc Lập, thì các đại diện chính trị của bên cộng sản chưa vào Saigon để tiếp nhận chính quyền.

Do vậy Đại tá Bùi Tín, một nhà báo quân đội BV đi theo cánh quân làm phóng sự, lúc đó đã được bộ đội uỷ quyền vào dinh gặp chính quyền Dương Văn Minh. Ông Bùi Tín hiện nay tỵ nạn chính trị ở Pháp. Từ Paris ông Bùi Tín kể lại giây phút lịch sử khi ông giáp mặt ông Dương Văn Minh:

“ Tôi là người đầu tiên tiếp xúc, ông Dương Văn Minh và tất cả đứng dậy…ông Minh nói là chúng tôi chờ quí vị tới từ sáng nay, đặng chuyển giao chính quyền… tôi có trả lời rằng là, tất cả chính quyền các ông không còn nữa qua cuộc tấn công của chúng tôi…cho nên không thể bàn giao cái gì đã không còn nữa…”


Ðại sứ Marin không muốn rời Sài Gòn

Vào những thời khắc sau cùng của chế độ VNCH, chuyện gì xảy ra ở Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ? Câu hỏi này đã được chúng tôi đặt ra với ông Robert Funsett, người vào thời điểm đó đang là Người Phát Ngôn cho Bộ Ngoại Giao Mỹ. Ông Funsett kể lại với Ban Việt Ngữ chúng tôi như sau. (Xin theo dõi trong phần âm thanh bên trên)

Ðúng giờ này, tức là vào chiều ngày 29 tháng Tư năm 1975, giờ Washington, Sài Gòn bắt đầu sụp đổ. Từ Trung Tâm Ðiều Hành ở Bộ Ngoại Giao, ông Phụ Tá Ngoại Trưởng Phillip Habib và tôi nói chuyện lần cuối cùng với ông Ðại Sứ Graham Martin.

Ðại Sứ Martin không muốn rời Việt Nam, vì ông ta muốn kéo dài thì giờ để có thể cứu thêm những người khác. Cuối cùng, chúng tôi phải chỉ thị bắt ông đại sứ phải rời nhiệm sở. Ông đại sứ Martin nói chuyện với chúng tôi và tôi còn nhớ là ông ta bảo là sẽ lên sân thượng của Tòa Ðại Sứ, dùng trực thăng để ra hạm đội, và chúng tôi nói lời từ giã với nhau.

Không đầy một giờ đồng hồ sau đó, đại sứ Martin gọi điện lại báo đã ra tới hạm đội bình yên.

Người VN đã phải trả giá cho chiến thắng 30/4/75 bằng cả nỗi đau và nhiều sự mất mát. Nhiều gia đình người dân miền Nam theo lời ông Kiệt, rơi vào hoàn cảnh có ngừơi thân vừa ở phía bên này, vừa ở phiá bên kia. 30/4 khi nhắc lại, vẫn theo ông Kiệt có hàng triệu người vui, mà cũng có hàng triệu người buồn.


Thủ tướng Võ Văn Kiệt

Quan điểm của cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt

Ông Võ Văn Kiệt, cựu thủ tướng nhà nước CHXHCN Việt Nam, vào thời điểm tháng Tư năm 75 là người phụ trách thành uỷ Saigon cùng với ông Mai Chí Thọ. Tháng Tư năm nay ông Võ Văn Kiệt khi trả lời báo chí nhà nước, đã nhận định về quyết định gọi là sáng suốt của ông Dương Văn Minh.

Chúng tôi xin trích dẫn báo Quốc Tế, ông Võ Văn Kiệt cho rằng đại tướng Dương Văn Minh nhậm chức ngày 28/4/1975, ngày mà một nhà quân sự như ông Minh có thể đoán được sự thất thủ của Saigon.

Theo ông Võ Văn Kiệt, giả dụ ông Minh để cho các tướng lãnh dưới quyền tử thủ thì quân Bắc Việt sẽ vẫn chiến thắng, nhưng Saigon khó mà nguyên vẹn, chưa kể biết bao sinh mạng và tài sản của ngừơi dân nữa. Nhà cựu lãnh đạo của chính phủ Hà Nội nhấn mạnh rằng, không thể quên vai trò của đại tướng Dương Văn Minh trong việc giữ cho Saigon được nguyên vẹn.

Thưa quí thính giả lần đầu tiên, một cựu lãnh đạo cộng sản nói rằng, người VN đã phải trả giá cho chiến thắng 30/4/75 bằng cả nỗi đau và nhiều sự mất mát. Nhiều gia đình người dân miền Nam theo lời ông Kiệt, rơi vào hoàn cảnh có ngừơi thân vừa ở phía bên này, vừa ở phiá bên kia. 30/4 khi nhắc lại, vẫn theo ông Kiệt có hàng triệu người vui, mà cũng có hàng triệu người buồn.

Ông Kiệt cho rằng đó là một vết thương chung của dân tộc cần được giữ lành thay vì lại tiếp tục làm cho nó thêm rỉ máu. Cựu thủ tướng Võ Văn Kiệt còn nói là ông muốn lưu ý mọi người rằng, làm được một chiến thắng kỳ vỹ như 30/4/1975 mà say sưa, như tự mãn nguyện thì cũng đã từng phải trả giá. Theo ông thế giới đã đi rất xa, Việt Nam phải nhanh chân chứ đừng tự ru ngủ mình để rồi sẽ còn bị bỏ xa hơn nữa.

© 2005 Radio Free Asia



Các tin, bài liên quan:
Biến cố 30-4 qua cái nhìn của những người lính ở hai chiến tuyến
http://www.rfa.org/vietn...in_dep...-20050427.html
Nhà văn Bảo Ninh: “Cố quên để đi tới, những vẫn còn những tồn đọng...”
http://www.rfa.org/vietn...in_dep...-20050430.html
Về thăm lại những chiến địa Dakto, Tân Cảnh, Kontum năm xưa
Cuộc chiến Việt Nam dưới cái nhìn của ông Lê Mã Lương, Giám đốc Viện Bảo Tàng Lịch Sử Quân Đội
Tình trạng môi trường Việt Nam sau 30 năm
Ngành giáo dục Việt Nam vẫn còn tụt hậu so với nước ngoài
Sau 30 năm, hai nhà giáo Việt Nam vẫn còn nhiều trăn tr
viethoaiphuong
#56 Posted : Thursday, May 1, 2008 1:00:46 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
Bài Xướng

NHÓM LỬA

Trăng khuya rực sáng tỏa ngoài sân
Lữ thứ hồn thơ bỗng nhẹ dâng
Bút thảo đôi dòng trao bạn hữu
Vận hoà mấy nét với tao nhân
Quê hương khởi dậy lòng yêu nước
Đất khách tao phùng tiếp cứu dân
Nhóm lửa ta cùng chung góp củi
Xoá tan xiềng xích chống vô thần .


Phạm Hoài Việt


Bài Họa

Chuyển Lưả

Thu sang lá rụng phủ đầy sân
Lặng lẽ lam chiều nhè nhẹ dâng
Mắt lệ đoanh tròng buồn thế sự
Mưa chiều nhỏ giọt khóc chinh nhân
Tha phương viễn khách ngùi thương nước
Cố quốc cường quyền hảm hại dân
Lớp lớp hàng hàng ta chuyễn lửa
Đồng tâm hiệp lực diệt gian thần


Trần Chiêu Yên kính họa
viethoaiphuong
#57 Posted : Thursday, May 8, 2008 12:21:25 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
Happy Mother's day


TÌNH YÊU BẤT DIỆT

Vào một ngày nắng ấm áp , một thiên sứ trốn khỏi thiên đàng xuống trần gian dạo chơi . Thiên sứ đi lang thang trên những cánh đồng , vào các khu rừng , đến thôn quê và vào thành phố .

Khi mặt trời sắp lặn , thiên sứ dang đôi cánh và tự nhủ :'Đã đến lúc ta phải về . Nhưng trước khi đi ta phải tìm những kỉ vật cho chuyến đi của ta đến thế giới này.'
Nói đoạn thiên sứ đi vào một khu vườn đầy hoa đẹp . Thiên sứ chọn những bông hoa hồng đẹp nhất kết thành một bó và nói :'Ta chưa bao giờ thấy thứ xinh đẹp và thơm như những bông hoa này . Ta sẽ đem chúng về thiên giới'.
Chợt thấy xa xa có một đứa trẻ với đôi mắt sáng long lanh và đôi má ửng hồng đang mỉm cười với mẹ , thiên sứ thốt lên ' Ồ , nụ cười của cậu bé còn dễ thương và xinh đẹp hơn cả đóa hoa này . Ta cũng sẽ mang về nụ cười này'.
Rồi bỗng nhiên thiên sứ nhìn thấy tình yêu của người mẹ dành cho cậu bé đang trào dâng như dòng nước từ một con sông đang chảy vào nôi và vào lòng cậu bé . Ngạc nhiên quá , thiên sứ trầm trồ :'Ồ , tình yêu của người mẹ là điều kì diệu nhất ta gặp trên mặt đất này . Ta cũng sẽ mang nó theo về'.

Thiên sứ cẩn thận đặt ba kỷ vật quý lên đôi cánh và bay về thiên đàng . Trước khi bước vào ngọc môn , thiên sứ nghĩ 'Ta phải kiểm tra lại những kỷ vật mới được '. Thiên sứ nhìn những đóa hồng và thấy chúng không còn tươi xinh nữa , còn nụ cười của cậu bé cũng phai nhạt dần . Cuối cùng thiên sứ nhìn vào tình yêu của người mẹ , kì lạ thay , tình yêu đó vẫn còn nguyên vẻ đẹp tinh khôi.
Thiên sứ vứt bỏ những bông hoa héo tàn và nụ cười phai nhạt của cậu bé , chỉ mang theo tình yêu của người mẹ vào ngọc môn . Thiên sứ gọi mọi người lại và nói rằng 'Đây là thứ duy nhất tôi tìm thấy trên trần gian mà vẫn giữ được vẻ đẹp trong suốt chặng đường về thiên đàng - đó là tình yêu của người mẹ'.

________________________________________________________________


Trên thế giới có lắm kỳ quan,nhưng kỳ quan tuyệt xảo nhất vẩn là trái tim của người mẹ

( vô danh )

* bài này Ngơ thấy SM gửi tức thì vào hộp thư, khi Ngơ vừa ở nhà T's ra ( và, có nhắc tới người - thơ và cafe Starbucks ?!)



viethoaiphuong
#58 Posted : Thursday, May 8, 2008 10:02:29 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
Ngày 8 tháng 5 năm 2008
Bạn ta,
Ðã mấy năm tôi không gặp người đàn bà rẻ tiền ấy. Ðúng ra là đã bẩy năm. Lần cuối, nàng nằm ngủ thanh thản khi tôi đến thăm. Tôi không gọi nàng dậy.
Nàng vẫn đẹp, da dẻ thật tốt, mịn màng, một chút son trên môi, mái tóc mấy sợi xòa trên trán, chiếc vòng ngọc trên cổ, nàng mặc chiếc áo tôi nhớ tôi mua cho nàng, và đôi giầy năn nỉ mãi mới chịu đi vào chân mang về nhà.
Tôi tưởng tượng vẫn còn mùi phấn Coty nàng ưa thích từ hồi ở Hà Nội. Ðôi lông mày thưa lúc nào cũng vẽ cẩn thận. Mái tóc lâu không còn dùng cái lông nhím để rẽ ngôi, cất trong cái hộp thiếc có vẽ cô đầm với cái đầu con ngựa của nàng nữa.
Cũng vì cái hộp này mà tôi gọi nàng là người đàn bà rẻ tiền.
Không rẻ tiền sao được khi những người phụ nữ khác đều có những cái bàn phấn đầy những chai cùng lọ. Thỉnh thoảng mua cho nàng chai dầu thơm thì nàng tiếc tiền hùi hụi, không dám đem ra dùng.
Câu nói cuối cùng nàng nói với tôi khi tôi nhắc là để tôi mang sang cho nàng chiếc khăn quàng len nàng để quên trong phòng của tôi khi nàng sang thăm tôi là "Cứ để đó, khi nào "anh" sang thì mang theo cũng được."
Nàng gọi tôi bằng "anh" lúc nào tôi không nhớ nổi. Trước đó, bao giờ nàng cũng gọi tôi bằng tên.
Nàng không bao giờ nặng lời với tôi. Bực bội lắm thì lại khóc. Tôi phải nhận là tôi làm phiền nàng rất nhiều. Nhưng bao giờ nàng cũng xí xóa hết cho tôi. Nàng lo lắng cho tôi rất nhiều thứ, khi tôi còn trẻ, cho đến lúc tôi sống được hơn nửa thế kỷ, nàng vẫn tiếp tục lo. Nàng lo ngại khi thấy tôi ở một mình, nàng lo sợ những lúc trái nắng trở trời, như nàng vẫn nói, ai sẽ lo cho tôi. Nàng biết tôi vụng về trong chuyện nấu nướng nên cứ thắc mắc làm sao tôi sống mỗi ngày. Nàng toàn lo những chuyện mà tôi nói là vớ vẩn như thế.
Có một bài hát của Patti Page cứ làm tôi nhớ nàng mãi. Bài hát Throw Mama From The Train kể chuyện một người đi xa, ngồi trên xe lửa gửi xuống cho mẹ chiếc hôn gió và được hôn lại. Người đàn bà đứng trên sân ga, giọng nói quê mùa, nói thứ tiếng Pennsylvania Dutch vùng đông bắc Hoa kỳ hiền lành, dịu dàng. Người hát bài hát ấy đi xa, người mẹ đã qua đời, nhưng lúc nào người con cũng nghĩ đến mẹ.
Và tôi cũng thế. Chẳng phải đợi đến ngày giỗ, đến ngày Mother’s Day, mà ngày nào tòi cũng nhớ nàng. Nàng là mẹ tôi. Tôi dùng chữ "nàng" một cách diễu cợt, như tôi vẫn diễu cợt khi bà còn sống. Tôi chê mẹ tôi khôn nhà dại chợ, chỉ biết bắt nạt con trong khi sợ con rể và con dâu một phép. Thực ra, nàng sợ tất cả lũ con, sợ từ khi chúng tôi còn nhỏ, cho đến lúc lớn khôn vẫn sợ tiếp. Lũ con càng già thì nàng lại càng sợ. Chúng tôi cũng bắt nạt nàng không ít. Như lần nàng đi lạc ở Toronto giữa trời tuyết vì không dám gọi taxi về nhà như chúng tôi căn dặn.
Nàng có một trò nữa là không bao giờ dám kêu đau. Không than, không thở. Chuyện gì cũng cắn răng chịu.
Tôi rất bực về những trò này của nàng. Bực đến nỗi phải la thét dăm bẩy lần về cái trò đói không dám nói, khát không dám kêu dù ở với con cái. Nghĩ lại thì ân hận vô cùng.
Nàng là cái ngân hàng cho vay không bao giờ tính lời, mà nhiều khi cũng không dám đòi. Nàng nấu nướng cũng được. Không xuất sắc lắm nhưng chúng tôi vẫn rất yêu mấy món nàng nấu. Cũng như mấy cái áo sơ mi nàng may cho anh em chúng tôi khi chúng tôi còn nhỏ, đường kim mũi chỉ vụng về, lớn lên chúng tôi vẫn còn nhớ một chiếc áo sơ mi nàng may cho chú em, chiếc túi nằm ngay dưới nách.
Nàng xuống bếp khóc tấm tức khi chúng tôi bị đòn. Nàng không bao giờ dám mắng chúng tôi. Không một lần nào. Nàng vẽ rất đẹp, minh họa cho một hai cuốn sách bố tôi viết, hoa tay thừa hưởng của ông ngoại chúng tôi. Nên chúng tôi ai cũng biết vẽ. Một chú em sống hoàn toàn bằng nghề vẽ cho mấy tờ báo ở Canada là nhờ giống nàng.
Chưa bao giờ tôi gặp một người nào hiền đến như thế.
Chúng tôi bật khóc khi sáu đứa cùng đặt tay vào cái nút điện của lò thiêu.
Bây giờ, nàng đã tấp vào đâu đó ở một bãi sông Hồng, cùng với những mảnh tro của người đàn ông nàng gặp năm 1939 khi chàng áo dài trắng, đội mũ liège đi qua nhà nàng và bị một người bạn tinh quái đá cho văng chiếc dẹp vào cửa nhà nàng. Hai hũ tro đem về thả xuống dòng nước đỏ của con sông mà hai người đã có những lần ngồi trên con đê nhìn xuống như cảnh của Loan và Dũng. Những vụn tro ấy đã quyện vào nhau, rồi trôi đi và chìm xuống dòng sông mà hai người đã mấy lần trở lại thăm.
Hôm nay, tôi nhớ nàng nhiều hơn những ngày thường.
Bùi Bảo Trúc


viethoaiphuong
#59 Posted : Thursday, May 8, 2008 10:21:38 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
Tổ quốc tôi

Tổ quốc tôi như miếng da lừa
Một lần ước, mất đi một góc
Ước phồn vinh: rừng mất cây, biển mất cá
Ước vẹn toàn: mất hải đảo, mất Cao Nguyên.

Tôi đứng ôn hòa, biểu ngữ chống Bắc Kinh
Người đến đầu tiên là cảnh sát
Họ nhìn tôi như nhìn loài chó ghẻ
Tôi ngã rồi, họ dựng chúng tôi lên
Những nắm đấm thôi miên vào mặt
Tôi nằm lăn ra đất
Nước mắt nuốt vào lòng
Lịch sử 4 ngàn năm, triều đại nào như thế?

Nguyễn Xuân Nghĩa
Hải Phòng
Viết để nhớ ngày 29/4/2008
viethoaiphuong
#60 Posted : Friday, May 9, 2008 12:25:26 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
Tuổi thơ em!

Thương qúa đi đôi mắt em lạc lõng
Giữa phố người cố kiếm một tình thương
Bàn tay khô em phơi trong nắng cháy
Van xin đời cho một chút yên vui
Em đứng đó níu tương lai hư ảo
Có chút thừa cho em cứu ngày mai?
Ôi oan nghiệt tuổi thơ em lê lết
Chế độ nào cướp mất cả ngày xanh!
Sao thương qúa tấm thân em còm cõi
Đất là giường... không có mái che thân
Em nằm đó trăng sao rơi trên tóc
Bàn chân dường như ngạo cả thế gian
Sương ướt lạnh thấm đời em rách nát
Vá víu hồn phơi trải dưới nắng hanh
Đời nghiệt ngã hay lòng người khắc nghiệt
Đốt cuộc đời em giữa chợ long đong
Thương thật thương những mảnh đời phiêu bạc
Bởi vì người còn chưa nhận ra em
Búp măng kia tơi bời trong gió bão
Biết bao giờ vươn hứng ánh bình minh
Ai chà đạp nhân phẩm em... cay đắng!
Chẳng ngoảnh đầu quay lại chút tiếc thương
Ôi hai tiếng Việt Nam hoài vang vọng
Sao dập vùi... chôn lấp tuổi thơ em?!
Dáng Thơ - 5/08
Users browsing this topic
Guest
5 Pages<12345>
Forum Jump  
You cannot post new topics in this forum.
You cannot reply to topics in this forum.
You cannot delete your posts in this forum.
You cannot edit your posts in this forum.
You cannot create polls in this forum.
You cannot vote in polls in this forum.