Welcome Guest! To enable all features please Login or Register.

Notification

Icon
Error

11 Pages«<23456>»
Ái Ưu Du &gt; Văn &gt;&gt; Những Truyện Tình Dài . . .
Ái Ưu Du
#61 Posted : Wednesday, December 6, 2006 4:30:33 PM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

GIỮA HAI LẰN ĐẠN

Chương 6

KHÔNG . . . XA LẠ


Vừa lúc đó Trực ghé đến nhà Hoài. Trực làm ở Quảng cùng đơn vị Hoài. Chàng có biệt danh là Trực Lai, hoặc Trực tóc vàng. Mà tóc chàng ta vàng thật, vàng cháy như râu ngô già.
Bỗng Hoài sực nhớ câu chuyện thật xảy ra thế nầy:
Hôm đó, đoàn xe ngừng lại bên chợ, để anh chị em đi mua thức ăn. Các bạn rủ nhau dạo chơi quanh phố chợ nhỏ. Riêng Hoài chán nãn, rầu rĩ ngồi một mình trước cabin xe. Nàng học lại quyển 350 bài giải đề thi Toán Tú Tài Toàn. Sắp đến ngày thi rồi, không lo gạo cho kỹ thì... rụng như chiếc lá vàng rơi trong gió.
Hoài giật mình nhìn lên, bên kia hông cửa xe tài xế, mặt mày Trực đỏ kè, lấm tấm nhiều tàn nhang. Mắt anh sắc như dao cau, món tóc vàng ngã xuống vầng trán cao, gợn nếp phong trần.
Giật mạnh cửa xe bung ra, anh đứng yên dưới đất, một tay vịn lên vô lăng, Trực nhìn Hoài, mỉm cười:
- Hoài! Cho phép tôi nói chuyện, trong tình thân ái. Được chứ em?
- Tôi không quen biết anh. Anh say rồi. Anh đi đi ...
- Hà hà! Say hả? Được lắm. Tôi là Trực tóc vàng. Còn em là Hương Hoài. Tôi biết em, từ ngày em đoạt ngôi vị cao sang “Hoa-hậu cây mùa Xuân Chiến Sĩ” đó. Phải không em?
- Phải hay không, anh biết rồi. Nhưng việc anh thình lình đến đây. Khiến tôi sợ quá. Anh đi đi, kẽo Đoàn-Trưởng thấy, lại khiển trách tôi trước buổi họp bi giờ.
- Tôi nói giữa ban ngày ban mặt, chứ có núp lén gì. Mà nó không chịu. Nó tức à? Nó muốn gì? Có phải nó ghen không thì bảo? Em là thứ xịn, thì sợ gì! Em không phải là loài gián sợ ánh sáng, sợ ban ngày, phải chui rúc, lẫn trốn vào khe vách, xó xỉnh. Cứ tự nhiên.
- Khỏi gay gắt như vậy. Nhưng anh hiểu cho, tôi không quen biết anh. Vả lại, tôi "xướng ca vô loài", anh không nên đứng ngoài đường, ngoài ngõ, nói chuyện.
- Em nói sao? Xướng ca vô loại, có nghiã là chả xếp với hàng phẩm trật nào? Ấy dá! Là siêu sao rồi. Em là hơi thở buông ra từ hai buồng phổi, đầy ắp ân tình trìu mến. Là tiếng hát thì thầm, vẫy gọi nhau nồng nhiệt. Là giọt mật ngọt ngào rót từ thinh không, xuống dòng thời gian miên viễn đỗ vào tim mọi người. Cớ sao em nói ca sĩ là vô loài? A phải! Em tránh né. Tôi thì hổng nói, làm sao em biết chứ. Tôi và em, chấp nhận đời sống nghệ sĩ, là chấp nhận buồn nhiều vui ít. Chấp nhận thương đau, hơn hạnh phúc. Chấp nhận “tình lính là tính liền liền”. Có gì mà em phải tránh né tôi. Tránh né tôi, thì làm sao tôi có dịp bày tỏ nỗi niềm của một người yêu... đơn phương.
- Đi chỗ khác đi!
Không đi đâu hết. Trực nhảy phóc lên xe, đóng mạnh cánh cửa đánh rầm một cái. Đầu chàng gục lên hai cánh tay khoanh tròn, đặt trước vô lăng, đôi vai rung lên theo từng tiếng nấc. Trực khóc. Khóc thật hay chàng chỉ đóng kịch, để Hoài ngây thơ tin vào mối tình nghệ sĩ sét đánh chớp nhoáng?
Hoài không thoả mãn lòng khao khát yêu thương của Trực. Không thể làm chàng vơi cạn “tình lính nghệ sĩ tính tiền liền”, như chàng đã nói. Nàng vội vàng mở cửa nhảy xuống đất, bực bội và run run đứng lấp ló bên hông xe.
Sau đó, Trực vẫn lai vãng đến gần, tìm dịp làm thân, bám riết, cho đến lúc rã rời. Hoài cay đắng với niềm cay đắng đã quá đột ngột, chua xót bẽ bàng. Nhưng nước mắt của chàng trai phong sương xa lạ nầy, không thể lay chuyển ý chí sắt đá, và cõi lòng tê tái của Hoài.
Bây giờ, không ngờ chàng thiếu úy đó xuất hiện. Hoài đứng chắn ngang ở bậc thềm nhà, cộc lốc hỏi:
- Anh có việc gì cần... đến đây vậy?
- Hoài còn giận tôi, về việc đường đột trước. Ha?
- Anh có biết là cô chủ café Nhạn Cúc rất đau khổ, khi bị anh phụ tình không?
- Tôi không hứa hẹn yêu đương gì, với Cúc cả.
- Sự thân mật, dễ tạo cho Cúc niềm tin yêu chân thật. Nay, anh muốn đến nhà anh chị của tôi, làm gì?
- Tôi không là kẻ thù của Hoài. Sao em như... muốn ăn tươi, nuốt sống tôi vậy?
- Tôi và anh, vốn không ân không oán. Xin lỗi, nếu tôi đã làm phật lòng anh.
- Không phải lỗi về phía em. Hôm nay tôi đến chào em. Tôi xin đổi đi Khe Sanh. Không muốn ở đây nữa.
- Anh có đủ sáng suốt quyết định... Chúng ta biết nhau như là chuyện bình thường. Chúc anh vui mạnh.
Trực quay gót với đôi mắt thấm buồn trũng xuống. Nói chuyện, mà đứng chấn ngang ngưỡng cửa, xẵng giọng. Thái độ của một cô gái con nhà đàng hoàng. Như thế là không gia giáo, thật lố bịch, bất lịch sự hết sức. Điều đó khiến lòng Hoài chùng hẳn lại.
Chị Huyền la, khi em vào hẳn trong nhà:
- Sao em ăn nói cộc lốc quá? Đừng gieo gió, có ngày sẽ gặt bão đó. Em ơi!
- Khổ quá! Em không hề biết anh ta, là ai. Sao anh ta làm phiền em quá vậy!
Chiều hôm sau, Thắng đến nhà ngồi chơi, nói chuyện phiếm. Hoài nói:
- Tuần tới Hoài lại đi Minh Long, Nghĩa Phú, Cộng Hoà một tháng. Anh à.
- Làm quái gì ở đấy mà... đi lâu thế?
- Suỵt! Bí mật quân sự, mà anh
- Đúng. Nhưng, đi lâu thế. Anh solo trên phố quá!
- Anh thiếu gì bạn gái, em gái mà... anh phải solo!
- Anh thiếu gì, chứ có... thừa gì đâu.
- Hoài làm sao biết. Nếu biết, chả nhằm nhò gì.
- Hoài có quyền biết, với tư cách là người thân. Không xa lạ.
- Cũng tùy.
Thắng cười rất xinh, nhìn Hoài trìu mến. Anh đá lông nheo mấy cái, nói:
- Nhớ viết thư về cho anh. Nhé!
- Ơ! Viết thư à?
- Phải! Làm gì mà ngạc nhiên khiếp thế ? Em chưa từng viết thư ? Hở?
- Thú thật Hoài không nghĩ... có ngày... mình sẽ viết thư cho anh kìa.
- Sao thế?
- Lại hỏi nữa rồi. Bây giờ thì... bí mật quốc phòng.
- Hậu sinh khả úy thật.
- Hôm nay, anh thua em hai không rồi. Nhé.
- Nguyễn Công Trứ nói câu nầy: "Tất do Thiên, âu phận ấy là thường. Hữu kỳ đức, ắt trời kia chẳng phụ" Thì, việc anh thua em hai ba không, là thường. Phải không Hoài?
- Anh nói tiếng Tàu, tiếng Miên hay Mã Lai, em cũng câm điếc. Huề cả làng thôi.
- Cô bé thế mà... khôn thật.
Hai người nhìn nhau vui vẻ, cười hồn nhiên. Thắng treo cây đàn trên tường, anh xuống nhà dưới chào chị Sáu Huyền, lên solex về nhà.
Nắng vàng hanh yếu dần bên ô cửa đã lên đèn, trộn lẫn màu hoàng hôn, và màu ven đêm quyện gió hiu hiu thổi. Làm ửng hồng đôi má người thiếu nữ, đứng dưới tàng lá me bay bay.

_ * _

Kính mời qúy độc giả xem tiếp Chương ... 7
Trân trọng,
Ái Ưu Du
#62 Posted : Friday, December 8, 2006 5:08:37 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

GIỮA HAI LẰN ĐẠN

Chương 7

CUỘC ĐỜI PHIỀN TOÁI


Dòng sông xanh biếc, có khúc bên lỡ bên bồi, uốn mình lặng lờ trôi theo ven đường đất đỏ lởm chởm. Nắng dắt vàng trên mấy cù lao. Mặt trời thắm đỏ, lóng lánh to tròn. Như viên hồng ngọc khổng lồ, dần lên cao, lên cao, lên cao. Hương vị hoa mùa xuân trong ánh nắng ngọt ngào, tỏa ra thơm thơm.
Con đường nhỏ trong thôn được "toán lính viễn chinh, mũ mão cân đai, gươm giáo", tà tà đi tới đi lui, đi dài dài hoài. Khiến bà con hai bên đường biết mặt.
Dãy phố nhỏ, trừ mươi nhà mở rộng cửa, buôn bán chụp giựt thời cơ. Còn đa số đóng cửa, cài then cẩn thận. Họ ra đồng làm việc. Hoặc sợ cảnh Làng, Thôn, bị lôi giật, dựng đứng dậy trong giấc ngủ muộn phiền, đinh tai nhức óc. Và, mấy khẩu súng thần sầu bi tráng, lạnh tanh, vô tình cứ nhòm ngó lôi thôi đến đời dân dã.
Đoàn xe lên đường đi Quảng Ngãi, phụ cận sông Trà Khúc, cống Bàu Cả, bến Tam Thương. Sau đó đi sâu vào Tư Nghĩa, Nghĩa Hành, cầu Cộng Hoà, Nghĩa Phú, Minh Long. A Sao. A Lưới. Ba Tơ.
Xe chở hành khách chạy ngược chiều vừa qua mặt, chật như nêm trong băng ghế. Nhát thấy “mấy hoa hồng biết nói”, các anh hớn hở reo mừng, vẫy tay lia lịa, chào hỏi nhốn nháo. (Như bà con từ đời vua Tự Đức ha).
Các cô gái xuân thì e e ấp ấp, vẫy vẫy tay lại. Họ dấu mặt dưới vành nón lá, khúc khích cười. Trông thật dễ thương, ấm áp lòng anh lính chiến, “tình quân dân như cá với nước” biết bao!
Tất cả anh em đứng bên một nhịp cầu đã sập, đợi đò rước qua sông. Bao giờ cũng vậy, các anh khinh binh đi trước dò đường an toàn. Lúc đó, Phòng 5 sao y bản chính, lẽo đẽo theo sát đằng sau. Nhóm công tác của phòng 5, đợi Trung Đoàn 25 Công-binh, đến khai thông hương lộ bên đầu dốc, khá lâu.
Anh Trung nai nịt chỉnh tề, chiến sĩ ra trận có áo giáp, thì phần nào yên tâm. Phủ quyết bao lo sợ khi lâm chiến. Thị sát, vững tin trình báo về. Bộ Chỉ Huy kịp thời, hầu chận đứng con đường tiếp tế “từ làng ra bưng”.
Mấy "ông tướng con" lén lén lút lút, xầm xầm xì xì, to nhỏ, rù quến nhau, lũi đi tìm chút hương hoa phù dung cuộc đời, nơi “chị em ta”, cho đỡ ghiền.
Góc kia bốn anh trải poncho cạnh cây bần, ngồi giạng chân, với xị rượu và con cá mòi vừa nướng thơm phức. Thống khoái hơi men nếp cẩm xịn, mà "vô mỏ" thì đã điếu hết sẫy, đưa họ ngoắt cần câu, lên cơn say trống dạ. Họ đang "du ca mùa xuân" làm bợm nhậu, chì nhất phố núi he.
Trong lều bạt, Sĩ gây sòng đen đỏ, Năm anh châu đầu vào con bài, mê đến nỗi nhịn cơm nhịn canh. Lên xe GMC cũng xòe, ngồi trên giường cũng đánh. Chỉ có khi đi làm việc mới yên. Túi tiền xẹp lép, nhường chỗ cho mấy cỗ bài dày cộm đút trong túi. Đa số người lính lúc nào cũng vui nhộn. Có chút men bia, là thấy đời lên hương ngát.
- Mấy anh ơi! Mấy anh ra chiến trận, sao thích la cà, linh tinh, xĩn xạc, tháu cáy nhau kinh vậy? Chắc vợ con ở nhà, lo lắng thất điên bát đảo đó. Mấy anh ơi! Ba trợn quá! Quỷ thiệt chớ. Coi chừng! Bọn em đi méc Trưởng-phòng. Các anh bị kỷ luật gấp đó!
Snack Bar dưới sự điều khiển của Nhạn Trang, cô gái tô son trét phấn rất diêm dúa, dáng đi nhảy nhót, khi thì tước bộ xà hành, (là một quán cà phê lậu kín đáo trá hình). Chỉ có khách quen say sưa hoan lạc, trong bầu không khí sặc sụa rượu nồng, khói "bồ đà tàn dư" từ thời Pháp thuộc, cay xè khét lẹt.
Loại cây trồng ở vùng cao, hoa nhiều màu, lá so le có khía răng không đều, thân và quả chế ra codein, morphin, quyện lẫn mùi mồ hôi da thịt rịn ra nhơm nhớp. Bao phen bị cảnh sát ruồng bắt, cô ả trốn chui, trốn nhủi, vẫn không chừa cái mặt mo mụ tú bà.
Tấm bảng tên dính một đinh khuy lủng lẳng, xệ xuống cửa sổ, vỗ lách cách, mỗi khi gió lùa. Anh Phước cấm ngặt, cấm chỉ anh em không được bén mảng đến gần. Phước ghê rợn gớm ghiết, "kỳ thị" với cả tấm bảng kinh khủng. Trông thật chướng tai gai mắt.
Ai đã vào hang đó rồi, thì... khó tìm thấy lối ra. Bầu trời, sông dài, biển rộng, núi cao hồ thẳm, giờ chỉ thu hẹp gang tấc, trong vò rượu tăm sùi bọt, bên bàn đèn nâu. Dưới hai bàn chân phóng đãng, bước thấp bước cao, trôi theo con sóng xô giạt.
Thân hình nhấp nhô, nhẹ như bông gòn bay, đẩy đưa phiến lá tội tình. Lưng gù gù, đầu gật gưỡng, cúi cúi lắc lắc. Bước đi loạng choạng thểu não, hai chân bành giạng ra. Trông chẳng giống ai, chả giống con giáp nào! Tàn mớ đời!
Vì thế, người ta mới đặt cho cái tên chết người là: Thuốc phiện.
Kẻ ghiền rồi, không còn sinh khí hào hùng, sáng giá gót giày botte de saut đập mạnh vào nhau, kêu cái cộp. Thật kiêu! Thật hách! Thật oai hùng siêu đẳng! Sẽ không còn bàn tay anh tài, vững chắc đưa lên mũ, ngực ưỡn ra, mắt sáng quắt nhìn thẳng.
Sẽ tiêu tùng đời trai trẻ. Nếu vào... "cửa mả tam giác vàng tử vong" đó. Còn hơn khu tam giác vàng giáp giới Thái. Miến. Lào.
Được thượng cấp chỉ định làm trưởng ban nhạc, khi tuổi anh Cương đã xế chiều, ảnh gầy gò, trán hói, gương mặt nghiêm khắc. Trúc nghe nói: Lâu lâu “ảnh” có cảm hứng dồi dào, đã “sáng tác chiều tác”, hoà âm hòa iếc gì đó. Đối với Trúc, nghe ảnh đàn bùm búm bum, như đàn gải tai trâu. Cũng ra trò dị biệt, trong phòng văn nghệ sĩ miệt vườn nhà.
Ưu việt của ảnh chừng ấy, nhưng đối với đàn em, ảnh nổi tiếng hách xì xằng. Ảnh tỏ vẻ ta đây tài ba, hơn bất cứ loại kỳ nhông cắt kè nào. Vài hạ cấp nâng bi, đánh bóng cuộc đời ảnh quá đáng. "Bơm" ảnh căng hơi. "Thổi" ảnh phồng to, hơn quả khinh khí cầu.
Ảnh càng nở mũi, hiu hiu tự đắt, muốn "nổ", muốn "vồ" người khác, một tí cho oai. Ảnh giữ một "củ súng" mousqueton cổ lỗ sĩ, như vệt nhăn cày sâu trên trán khổ chủ. Súng bắn bụp bụp từng phát một, vô duyên òm, giống súng bắn lon trong hội chợ.
Sau trận chiến, trong tận cùng tan hoang đổ nát của quê hương đỏ lửa, Cương đi thu nhặt chiến lợi phẩm. Nào là lựu đạn nội hóa, mìn muỗi, súng AK, mũ nồi tai bèo, dép râu. Vân vân... Thành tích đó của Nhảy Dù, Biệt Động Quân, Thuỷ Quân Lục Chiến, Bộ Binh, sau khi “phe Ta úynh Vici" chạy có cờ, bỏ lại.
Họ tặng cho Cương. Cương sai lính mang những thứ đó về, kê khai làm thành tích riêng mình. “Hù" anh em văn nghệ miệt vườn, ảnh khôn mà không ngoan, chỉ muốn ra oai "vồ" kẻ khác khiếp vía.
Thái nghĩ mình không thua Cương, nhất là đờn ca hát xướng là "nghề của chàng mà". Vốn không trọng tài năng Cương, anh thấy Cương "ngu ngu sao ấy", Thái cay cú lật tẩy quân bài, làm ảnh mất mặt. Thế là có vấn đề.
Anh Phước đi lên bộ Tổng Chỉ Huy Hành Quân họp, trao quyền cho Cương chỉ huy Đoàn. Không hiểu vì lý do gì, Cương và Thái, đấu khẩu ác liệt, cãi lộn rần trời trong bàn cơm vừa dọn ra, chưa kịp ăn. Anh em không ai can gián nỗi.
Cương ỷ quyền, lớn lối mạt sát hạ cấp không tiếc lời. Ghét Cương từ lâu, càng tức giận, nên Thái móc "trái na sắt" đáng ghét dằn cái cộp trên bàn ăn. Tay anh lăm le chực mở chốt tự sát.
Cương cụt hứng, hết hăng tiết vịt, xanh mặt im re. Ảnh không nói tiếng nào, y như con tuấn mã phi nước đại, bỗng dưng bị chặt cụt mất bờm và đuôi. Trông thật dị hợm thảm thương.
Mấy cô lính “đơ dem cùi bắp” chạy trốn tán loạn, như giặc đuổi bên đít. Các cô sợ quá, la hét om sòm. Long đến bên Thái, ngọt ngào, năn nỉ anh bớt giận. Chuyện đâu còn có đó, anh sẽ được minh oan.
Sau đó, Trúc vừa khóc vừa ôm anh, dỗ dành. Thái càng khóc.
Mấy anh khác, mỗi người một câu phải trái, phân tích cho hai bên nguôi ngoa. Vị đến bên bạn gỡ tay Thái, lấy "trái na độc hại giết người", đem dấu vào xó xĩnh nào. Chả biết.
Anh Phước về, thấy bàn cơm nguội lạnh, ruồi bu kiến đậu không nhúc nhích. Mặt mày ai nấy méo xẹo, ủ dột. Anh khéo léo điều tra, khiển trách nhẹ nhàng Huynh đệ chi binh như thủ túc. Anh giàn hòa hai người rất hợp lý. Anh Phước đúng là một vị chỉ huy mẫn tuệ và mẫn tiệp.
Anh Phước có tinh thần cộng đồng tha nhân, có lòng hào hiệp, nặng trách nhiệm, yêu thương thuộc cấp, như em út. Nhưng, ở chiến trận anh cương quyết, nghiệt ngã với anh em sai trái, là điều chí phải. Anh cần bảo vệ sinh mạng, tài sản, cho đồng đội từng giây, từng phút.
Trúc lấy nón sắt, gỡ lớp mũ lót bên trong ra, múc nước sông. Cô vén tóc qua một bên, uống ừng ực, tỉnh bơ.
- Coi chừng bị sốt rét đó Trúc. Để Hoài lấy nước đun sôi, ở trên xe cho uống.
- Khát quá, lỡ uống rồi. Ớ! Ai vật nỗi mình, mà bệnh. Hoài ha.
Cái lớp nón sắt bên ngoài nầy, được múc thêm lần nước nữa, để làm cái nồi, nấu thịt bò kho gừng, sả, ớt, cà ri nị ngon tuyệt. "Nồi mũ sắt" treo trên cây sào gỗ, lửa đỏ trên đầu nón sắt lật ngửa ngộ ghê.
Ven bờ, rau muống phồn thịnh, hào phóng mọc từng bè chạy suốt con sông, ăn đọt thả gốc xuống nước có tí bùn đất, ít lâu sau chúng sinh sản ra “cả Làng, cả Tổng”. Ăn vào thấy ngon ngọt mùi vị Quê Hương. Nó dễ ăn nhất, hái vào, rửa sạch ăn sống. Xào. Nấu canh. Trộn gỏi thịt heo thịt gà, thịt bò, tôm cua... Hoặc không cần pha trộn thịt thà, ăn nguyên chất, mà tươi ngon, đậm đà hương đồng vị nội.
Chợ Cộng Hòa họp thoáng chốc, khoảng vài ba giờ. Họ lo chụp giựt mua bán. Chị em Trúc lỡ đi chợ trễ, kể như không còn gì, ngoài mấy bó rau muống bầm dập. Thà có rau ăn, còn hơn ăn lương khô.
Ban đầu được phát gạo sấy và đồ hộp, Trúc khoái chí ăn liền một tuần. Sau đó, thấy đồ hộp Ration C, nàng sợ, vì ngán lên tới cần cổ! Anh chị em hùn tiền, giao anh Múi đi chợ mua rau cá tươi, nấu ăn.
Trúc phụ anh bếp, lấy hộp quẹt Ronson, bật lò dầu nấu nước sôi. Chờ nước sôi, nàng lấy kéo cắt mấy bọc gạo, cạnh mấy keo ruốc sả xào khô. Có ngày ăn khô nướng, nấu nồi canh chua cá đồng. Món canh duy nhất, ăn với cơm gạo sấy, mà ngon miệng. Đôi khi chỉ có rau muống luộc, nước luộc rau, thêm trái cà chua, chút muối, bột ngọt. Thế mà ăn ngon hết sẫy.


_ * _

Kính mời quý độc giả xem tiếp... Chương 8
Trân trọng,
Ái Ưu Du
#63 Posted : Friday, December 8, 2006 4:31:37 PM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

GIỮA HAI LẰN ĐẠN

Chương 8

TUỔI XUÂN HỒNG


Nhiều mái nhà tranh lẫn khuất dưới vòm cây màu lục, từng sợi khói lam nhạt, rụt rè vươn lên nền xanh da trời bát ngát. Trên đỉnh núi Thần Phong, tháng năm chất chồng, mưa gió xói mòn đục khoét, phơi bày các hốc đá mòn khuyết, giữa kẽ nức rêu rong ẩm ướt.
Ngửa mặt đón gió lạnh lồng lộng thổi. Giơ tay ôm ngàn mây bay qua. Sờ cây rừng sần sùi trơ trụi, khẳng khiu, mọc rải rác. Tuy vậy Trúc thấy bình yên. Nó che đi dấu vết tháng ngày chinh chiến điêu linh cơ cực. Xoá bớt chứng tích hận thù, làm con người nghẹt thở, âu lo.
Chiều chiều mặt trời ngả mình trên triền dốc, chiếu tia nắng vàng thau giã từ vạn vật, bè mây lơ lửng trôi về mở hội phương Tây, sương ngập thung lung buồn.
Hoài thích rủ Trúc leo trăm bậc thang, đi ngoằn ngoèo, như con rắn uốn lượn trên sườn đồi, lên gần nóc chòi canh, cao chót vót.
Hai cô đứng lẻ loi, chơ vơ, u hoài nhìn xuống làng mạc, ruộng vườn ẩn hiện dưới áng mây bay qua. Giờ phút như thế, Trúc thấy Hoài có lý, nàng trút bỏ cảnh đớn đau nơi chiến điạ.
Ngỡ rằng dưới kia là một cảnh đời khác hẵn, toàn xa lạ, mà mình không hề nhập cuộc. Chối bỏ sau lưng, cuộc đời phiền toái, đang cố lãng quên.
Dưới thung lũng, nơi bãi cỏ lưa thưa vừa đủ rộng. Khói xanh bay lên, báo hiệu bãi đáp an toàn. Trực thăng đáp xuống, cánh quạt quay tít mù, tung đầy bụi đất, thành luồng gió lốc xoáy tròn, dâng tít lên cao, cuốn theo bao nhiêu giấy má rác rưởi.
Mấy quân nhân từ trong chân đồi chạy ra, cúi rạp người xuống, đầu ngả về phía trước, lom khom bước đi. Tay giữ chặt nón đội đầu. Có người bị hắt về phía sau, theo chiều gió đẩy.
Bầy trẻ từ mọi ngỏ ngách trong thôn làng, ùa ra xem trực thăng đáp. Có một đứa trẻ ốm yếu, luống cuống trước sức gió xô, em không biết làm gì, loay hoay bò lui, bò tới, trên bãi cát. Bằng tất cả sức mạnh của hai bàn chân bé tí, em lẽo đẽo theo anh chị lớn, bò lết đến gần hàng concertina, sau lưng để lại vệt đất dài. Dấu chân bé in lên mặt cát ướt, tạo thành những lỗ trũng dồn dập ven bờ, phình to hơn bàn chân vừa nhấc lên gấp bội.
Bầy trâu biết nhớ đường, lững thững về chuồng, đứng lại ngóng cổ ngơ ngác nhìn lên. Vài con chó vá chạy một quãng, đến ngả ba, ngả tư, thì dừng lại, co chân sau, nhỏ vài giọt nước đái vào thân cây.
Chiều chiều, có một đám trẻ thả diều, rong chơi dưới bãi cỏ hanh vàng. Con diều giấy tập học trò chao đảo trên không trung, xoáy tròn nhiều vòng, một bên đuôi rách toạt rời thân, bay lông lốc về cuối trời. Đầu diều xoáy tít trong không khí, vút lên cao rồi chao xuống thấp, uốn lượn trong không gian phất phới nắng vàng. Hai tai râu xoáy tít trên trời.
Các em bé đứng dưới chân đồi, ngửa mặt nhìn lên, dậm chân kêu la ơi ới. Gió bay phồng lưng áo trẻ, tóc các em rối tung giữa bầu trời thênh thang. Là con của các gia đình Nghĩa Quân, Dân Vệ, Trại Gia Binh, và thường dân di trú, trong khu dinh điền di cư, trong rào Ấp Chiến Lược ổn định kinh tế, sát vùng phi quân sự.
Các em ngửa mặt nhìn lên cao, nhiều bàn tay nho nhỏ cùng nhau giơ ra, cầm chặt sợi cước, cố lèo lái con diều.
Bỗng dưng, con diều lao mạnh xuống đồi, gần bên chân Trúc, bụng mang theo sợi cước trắng đục, cong queo dài lòng thòng. Một đuôi còn lại ngóng mình. Như cố vươn lên, bay về cố chủ.
Hoài nhìn sững con diều giấy. Tần ngần giây lát, nàng nhặt lên, nhìn xuống chân đồi tìm kiếm. Đám trẻ con đứng dậm chân dậm cẳng, chỉ chỏ và “la ó” những gì. Hoài không nghe thấy. Hoài mỉm cười, nói với Trúc:
- Mình đem con diều xuống trả, chắc là các em mừng lắm. Trúc há.
- Ừ. Trúc kéo, Hoài cuộn sợi cước. Nghen.
Dáng chiều ập nhanh xuống, bao trùm mảnh đất hoàng hôn đau thương nầy, trong ghê rợn và cô tịch đáng sợ. Đom đóm bay chập chờn, nhiều vô số, lúc tắt lúc sáng. Ếch nhái uồm uộp kêu inh ỏi dưới ruộng. Dơi chao lượn vun vút, phát ra nhiều tiếng dzíu dzít khi bắt muỗi. Vài ba con chó tru hú từng đợt dài. Nghe thật ghê tai.
Không gian bỗng rào rạo tiếng đạn trái phá, tiến về hướng Đông ngọn đồi, như chấm sáng của vì sao băng. Lửa tóe ra từ đường đạn bay vút, kèm theo nhiều tiếng "xíu... xít" rít khô khan kéo dài.
Nếu không phải ở vùng giao tranh, Trúc tưởng như nhìn pháo bông, ngày Tết năm xưa thanh bình. Khi nỗi khiếp sợ tột cùng đã chứng thực len lấn vào lòng. Cô không biết gì ngoài sự sợ hãi kinh khủng, lên tột đỉnh. Trúc sợ toát mồ hôi hột, mặt mày xanh xám, vội chạy xuống trăm bậc cấp, về với gia đình quân nhân và bạn bè. Cầu mong sự ân cần, an ủi và lân mẫn của con người.
Hoài lo sợ không kém, vội vàng cầm con diều, chạy theo bạn.
Khả năng và kinh nghiệm quá hạn hẹp, nàng muốn làm một cái gì, dù bé nhỏ, âm thầm cho người khác vơi nỗi đau, nàng thấy được yêu thương an thư nhiều, và nàng mong được bù đắp ngược lại.
Dưới chân đồi, trên bãi cỏ ươm vàng, vắng hoe không một bóng người. Đám trẻ chắc hẳn đã dày dạn kinh nghiệm chiến tranh. Nên chỉ chớp mắt, chúng chạy thoát thân, lẫn trốn lúc nào, nhanh thật là nhanh.
Chiều hôm sau, Trúc lên đồi ngồi chờ đám trẻ. Đúng như hai cô dự đoán, đám trẻ tụ tập trên bãi cát, chơi rượt bắt cứu tù, nhảy dây, u mọi, đánh đáo. Không thả diều.
Chúng leo lên cây sấu, quệt nhựa mít vào thân cây bắt ve sầu. Vài đứa cỡi lưng trâu, hoặc đùa với bầy chó. Chúng lui cui đào khoét lỗ đất, múc nước đỗ đầy vào hang, bắt dế. Dế chưa chui ra, mấy đứa con trai, tự nhiên vạch quần đùi đái vào hang lỗ.
Trúc ra hiệu, Hoài đứng ở giữa sân Bộ Chỉ Huy biết, là bọn trẻ đã có mặt. Hoài giơ tay vẫy chào bạn, cầm con diều cụt đuôi, ba xấp giấy bóng màu đỏ, hồng và xanh lá cây, ba cuộn cước, hồ dán, xuống chân đồi, ra bãi cát.
Đám trẻ không ngờ Hoài đem trả con diều. C ác em ngẩn ngơ phút chốc. Bỗng, ồ lên reo mừng hoan hỉ, giơ tay cầm. Cám ơn rối rít. Có đứa nói:
- Cô ơi! Tụi cháu tiếc con diều nầy lắm. Nó bay cao nhất Làng cháu đó. Cô à.
- Cho các cháu giấy làm diều. Đừng xé sách học nhe.
- Dạ. Trời ơi! Giấy đẹp quá! Tốt quá!
- Con diều sẽ đẹp nhất Xã rồi. Tụi bay ha.
Một đứa bé vụt chạy về phiá hàng rào cây, chui tọt qua kẽ hở giây lát, rồi trở lại ngay, với chiếc rỗ con con. Bên trong đựng khoảng mười trái ổi xá lị, da vàng xanh bóng láng, thoảng mùi thơm thơm. Cô bé thở hổn hển, nói:
- Cái nầy cho cô.
- Không.
- Ủa! Sao cô không nhận?... Thì ...
Đám trẻ nhao nhao lên:
- Cô ơi! Nhà con Tằm có cả trăm cây ổi. Nhằm nhò gì mấy trái nầy. Mà cô lo hè.
- Lần sau cô, chú, muốn ăn ổi, thì tới nhà nó mua.
- Chớ cô lo gì ... nó lỗ vốn hè.
Hoài bật cười, cầm chùm ổi, xoa đầu đám trẻ ngoan. Hoài cám ơn và quay gót. Nàng thấy tiếc cho những em nhỏ kinh khủng! Các em xinh đẹp, thông minh. Có thể vâng lời, hiền lành lễ phép, có tình nghĩa xóm làng. Nhất là đa số qúy trọng thầy cô, hơn trẻ em thành phố.
Sống nơi vùng xôi đậu, tranh tối tranh sáng, chiến tranh liên miên. Khổ cực. Nghèo nàn. Lo sợ. Rủi nhiều hơn may. Sự sống như chỉ mành treo chuông. Ôi! Hoài thương các em xiết bao!

_ * _


Kính mời qúy độc giả xem tiếp Chương ... 9
Trân trọng,
Ái Ưu Du
#64 Posted : Monday, December 11, 2006 1:04:09 PM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

GIỮA HAI LẰN ĐẠN

Chương 9

LÍNH, với NỖI YÊU THƯƠNG DÀY VÒ


Trên ngọn đồi, nhìn xuống thung lũng trước mặt, là cầu Cộng Hoà sơn trắng, dài ngót cây số, móc từ bờ nầy sang bờ kia. Bãi phù sa và cồn cát vàng mịn nổi lên. Như cù lao Rồng giữa dòng sông xanh mênh mông. Mặt sông bồng bềnh lá khô, mỗi khi nước xuống, nước lên, nước đứng, nước rút.
Mang theo bao mộng ước thời Trọng mới lớn, thả mặc tình yêu giữa dòng. Như canh bạc về khuya, anh xã láng cuộc đời, trên những mưu toan đen đỏ, rủi may của số phận đẩy đưa.
Trúc suy nghĩ liên miên, khi nhìn xuống mái nhà Trọng, thầm nhớ ông Sáu, có tên là Linh ở trong Xã. Trọng ghét ông chú kinh khủng, đến nỗi nhập tâm. Thấy ông và những trò hề ông làm, mà "giựt chắt". Anh khinh thường chú, không phải vì chú ruột, mặt mày bặm trợn, trông cô hồn, làm thầy cúng, thầy bói, huyện đề...
Ông vẫn cười gằn nói "Đa nghề thì dễ bề hoạt động". Câu nói ngụ ý chẳng lành, khiến Trọng điên tiết. Anh không hỗn láo, ngang tàng, ỷ mình có chút kiến thức đâu.
Bởi, anh biết "cái tẩy" ác ôn, lưu manh gian trá. Nhưng miệng lưỡi chú ngọt như mía lùi. Ông về Nam mượn cớ: đã "tu nghiệp đa nghề", Nay lân la đầu trên xóm dưới nghe ngóng, thu lượm tin tức. Ông giả vờ nhậu không say, không xĩn, không về. Từ kiến thức hẹp hòi, đến tâm tư nhỏ nhen, cục bộ, khả năng tầm thường. Nhưng điềm chỉ thì rành mạch.
Mà, bạn anh nói - đó là thứ tò le mách lẻo, đưa xóm làng đến tận cùng bằng số. Không có gì quý hơn chết chóc, điêu linh mút chỉ cà na.
Bề ngoài con người biểu kiến, không ai đoán biết ông thực sự nghĩ gì. Ông ít nói việc "chính chị chính em", nhưng trong lòng ghim gút rất phức tạp, ích kỷ hại nhân, quá qủy sứ. Ông học chẳng biết “chữ cu chữ cò. Nói những chữ như rồng như rắn”. Ông qua mặt dân hiền "hoạ hổ hoạ bì, nan họa cốt. Tri nhân tri diện, bất tri tâm".
Thế mà, không thể qua mắt Trọng bất cứ điều gì. Trọng quyết liệt bài xích, phản đối ông.
Tội ông hãm hại đồng bào, không thể dung tha, dù giết người, vì bất cứ lý do gì, trong vùng chiến tranh liên miên, cũng là sai. Sinh mạng con người bình đẳng, đầy nhân phẩm, tự do cao qúy như nhau. Không ai có quyền hủy diệt, tước đoạt tự do tư tưởng cuả người khác. Dù bất đồng chính kiến, hay liên đới vì chiến tranh. Thế thôi.
Ông rỉ tai phao tin các vườn rau, bị rải chất hoá học cực độc, rau ở chợ ế ẩm không ai mua, sình thúi. Ông còn phao tin nước sông bị bỏ thuốc sát trùng. Giếng bị bỏ thuốc độc. Khiến bà con sợ hãi, phải làm nắp giếng khoá chặt. Không cho người ngoài xài chung.
Chó là điều ông đại kỵ, ông đi đến đâu, nó sủa đến đó. Hình như nó đánh hơi biết được lòng lang dạ thú, không tiếc "lời" gâu gâu tố giác. Tiếc thay! Ít ai hiểu chó muốn "nói" gì.
Ông sống sung túc, no đầy phủ phê, nhờ bà con làng nước nhẹ dạ, mê tín dị đoan, nghe giọng lưỡi ông ngọt xớt, như mía lùi. Ông trổ tài khuyển mã. Nhặt ba thứ lá tầm phào đem về, xắt nhỏ trộn lẫn, phơi vài ba nắng, nếu ai cần, ông bán với giá cắt cổ.
Trọng nghĩ câu ca dao “Chổi cùn cắp nách khăng khăng. Hễ ai hỏi tới, thì văng nghìn vàng”, Thật đúng cho ông chú nhà mình.
Nắng gió trở trời, đau đầu đau bụng, hắt hơi nhảy mũi, họ chạy đến ông, nhờ coi mạch. Lúc đó "thầy nổ" lên mặt luyện phù chú. Chuyện nhỏ mà! Còn nhiều pha gay cấn, ghê hồn hơn. Ai đau ốm nặng nhẹ mặc lòng, ông bắt đàn bà thắt bín đuôi sam. Đàn ông húi cua, ông nói:
- Để tóc dài che mặt, thần linh không thấy, tóc "chọt" vô mắt, đỏ mắt, "không còn “đôi mét là cửa lộ” của tâm hồn, cho thần linh rọi vào.
Bà con làng nước nghe “văn chương", sao hay đáo để!
Bị đau răng, ông xe sợi chỉ, quấn một đầu chỉ vào cây đinh mười, đóng trên cột nhà, đầu kia ông cột vào chiếc răng. Cứ thế, ông lôi họ ra bẻ răng. Mặc họ dùng cả sức mạnh hai bàn tay, đẫy cái cột nhà. Họ ré lên eng éc... é..ec..., như bị thọc tiết heo, máu chảy có vòi.
- Bựt!
Ông tự hào vỗ ngực, xong rồi! Đồ iả cái rẹt! Sơn Đông Mãi Vỏ, nhổ răng thua ông!
Bị ngất xĩu, ông cho con Nụ gỉa tép sả, bắt thằng cu Út rặn ít nước tiểu, hoà tí muối, ông cho bệnh nhân uống.
Bị chảy máu cam, ông nhét đầy cục tóc rụng vô hai mũi. Bà con muốn ngộp thở.
Không còn tóc rụng, ông thản nhiên kêu con Mót vô sau nhà, cắt túm tóc đuôi gà nhu nhú. Tóc con bé càng ngày càng sát da đầu, nó tức mình, nhảy đành đạch, khóc ngất... Chịu thua ông thầy chạy!
Bị ghẻ hờm do vắt, đỉa cắn, ký sinh trùng gây ra ngứa ngáy, đau nhức khó chịu, bưng mủ sưng tấy. "Thầy nổ" :
- Rứa là, do ăn ở không có đức, gây ra.
Người ấy thẳng thắng lý sự lại:
- Ồ, rứa thì có bốn thứ: Lé, lùn, hô, sún, thầy chiếm hết ba rồi. E là do rứa?
Mắc cỡ và tức mình, không trả lời được, ông để bụng thâm thù. Ông qua mắt đa số dân quê chất phác, gạt họ tin ông như điếu đỗ. Ông nói voi, họ tin voi. Ông vẽ vượn họ tin vượn. Người giàu có hậu tạ xứng đáng, thôi cũng đành. Người nghèo khổ bần hàn, cố sức bán chát, moi móc chạy vạy, mua thức ngon vật lạ, kết cỏ ngậm vành, dâng biếu ông.
Dân nghèo cúng xôi chè, lương đăng trà quả. Nhà giàu thêm gà luộc, heo quay, bò tái, bê thui. Sau khi cúng, chủ nhà biếu thầy hậu hĩ.
Ông ngồi trong mát ăn bát vàng, moi tiền bạc của dân, bằng thích. Tiền họ đưa ông, làm ma chay đình đám, ông ngắt nhéo chỗ nầy một ít, chỗ nọ một ít, nhét đầy vào túi quần. Cất tiền trong bóp ông cứ nơm nớp lo sợ. Nằm ngũ trên võng, một mắt nhắm, một mắt mở, ông đề phòng mất cắp.
Có tật gian trá thì hay giật mình. Y như rằng, có một lần, ông mãi chen lấn vào đám Sơn Đông Mãi Võ “coi mê tơi”, coi say sưa. Coi khỉ cởi xe đạp. Khỉ ăn cắp bánh bao. Ông bị mất tiền thật, tiền bạc không cánh bay lúc nào, ở đâu chả rỏ.
Ông quét dọn, moi móc khắp mọi xó xỉnh. Tiếc của ngẩn ngơ, ông đi kiểu tăng gô nửa mùa, với cây chổi cùn luân vũ. Ông hùng hục vừa tìm, vừa chửi đổng. Nghe dễ mất lòng. Dễ đỗ quạu. Dễ xa nhau. Dễ giận nhau. Dễ ghét nhau. Dễ tức nhau. Dễ đánh nhau. Khổ ghê đi.
Ông khóc hu hu. Đàn chó trong vườn, nghe tiếng chủ la rống, chẳng những hôm đó, chúng không sợ chủ đánh đập tàn nhẫn, như mọi ngày. Chúng bắt chước chủ, tru tréo hú họa theo, từng hồi inh ỏi. Vang làng vang xóm. Thật kinh sợ hết biết, cái đời ông thầy dõm. Cái ông thầy cà chớn.
Ai khuyên lơn chi, ông cũng lì lợm, như đàn gải tai trâu, ông khoái chí biết danh ta, nổi như cồn ngoài nhà bà Ba Cu. Bà Ba mê ông tít thò lò. Bà có nuôi ba con cu, nên họ gọi là bà Ba Cu. Ừ, thì quả thật bà có nuôi chim cu. Ai muốn hiểu sao thì hiểu.
Tuần sau, có dịp "tạo vốn" khác, tiền lời to gấp ba lần số tiền đã mất. Sung sướng quá, lúc ăn cơm ông nói nhỏ với người nhà. Trọng ngồi ở trong phòng riêng, nghe:
- Mình lồm en với cái bợn đàn bòa, dưới đất chun ra, ngu như con bò tót ni, rứa mà khá dữ đa! Thật sướng rơn người. Nghe mậy! Tiền bạc nẫu lo đều chi. Không thiếu một hào, một trự. Đôi khi mình bốc phét lên, là việc ni thầy lo không xuễ. Phải lo cho cấp sư phụ của thầy. Nẫu tin như điếu đỗ, đưa tiền hậu hĩ. Rứa là mình giả đò mẹc áo, ra bà Cu, ở lại mấy bữa. Lại ăn chặn bên ni bên tê, thêm một mớ. Thiệt sướng rơn người. Nghe mậy.
Trọng nghe ông nói, lòng bỗng dâng lên nỗi yêu thương ruột thịt và nỗi hận dày vò. Anh càng khinh ghét chú, muốn ra dộng vô mặt ông một cái thẳng cánh, chửi ông một trận. Tới đâu thì tới.
Nhưng bứt dây động rừng, anh thương cha mẹ già quá.
Thượng cẵng tay, hạ cẵng chân, cứ thế ,ông vơ vét của dân làng ở nơi thâm u cùng cốc, kể cả bà con ruột thịt, không chừa một ai.
Trúc nghe Trọng than thở, nàng cảm thấy càng ghét ông thầy hơn Trọng nữa. Hai tâm hồn đồng điệu, thu hút quyện mắc vào nhau, như cục nam châm, trước bối cảnh lịch sử đối nghịch, bất đồng chính kiến trăm phần trăm. Làm sao yêu nhau, xe tơ kết tóc, xây dựng tình yêu, trên hoang tàn rách nát tơi tả. Từ trong gia đình ra tới làng mạc, quê hương. Làm sao yêu nhau đến cuối cuộc đời? Cay đắng - đau xót dường bao!
Bỗng đâu, một con khỉ khá lớn, từ trên cây rừng nhảy xuống cái độp. Khiến Trúc giật bắn người. Chưa kịp hoàn hồn, con khỉ xô giựt Trúc ngả lăn ra đất. Nó vội chộp cái nón sắt, thoăn thoắt leo lên cây cao. Đội mũ sắt vào, nó ngồi chồm hỗm trên cây, kêu chí choé, hi hoáy nhảy nhót chỉ chỏ xuống đất.
Trúc điên tiết, không có cách gì dụ nó quăng mũ xuống, dù cô đã mỏi nhừ hai tay, ném đá xuống đất. Nó chả thèm bắt chước. Ở trong vùng chiến tranh “nó ma lanh” còn thua ông chú. Khỉ ta biến mất trong rừng.
Ra chiến trường, Trúc không khôn ngoan, không có mũ sắt. Kể như thua.

_ * _


Kính mời qúy độc giả xem tiếp ... Chương 10
Trân trọng,

Ái Ưu Du
#65 Posted : Friday, December 15, 2006 1:16:11 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

GIỮA HAI LẰN ĐẠN

Chương 10

ĐỜI LÍNH NHỌC NHẰN


Cuộc sống tao loạn bắt đầu nơi chiến trường sôi sục, năm 1962.
Ngày đến. Ngày tàn. Rồi ngày lại ngày, tiếp nối qua nhanh, lạnh lùng qua nhanh. Không đổi mới hơn.
Nhiều chặng đường lầy lội, gập ghềnh, lồi lõm bởi xe tăng, thiết giáp đi tảo trừ, xe GMC cày xới. Đất đỏ ngợp trời mù bay. Bụi cây bờ cỏ đốt trụi, đen thui. Bên sườn dốc hàng thép gai nhiều lớp bao bọc ngọn đồi, chưa chắc hứa hẹn bình an.
Bóng chòi canh gỗ, cao chót vót. Người lính phong sương trông vô cùng đơn điệu, trên vọng gát nơi phòng tuyến. Anh quan sát một vòng cung trách nhiệm, đầu đội nón sắt, súng cầm tay. Anh luôn quan sát tứ phía.
Trận bão lửa. Đạn pháo tầm gần tầm xa, tạo thành cơn cuồng phong quay tít hỏa mù, xoáy bốc, hung hăng điên cuồng hung bạo. Đạn lửa xẹt xẹt bay qua bay lại, đan chéo qua chéo lại. Như màn nhện đỏ ngầu gớm ghiết trên đầu mọi người.
Hằng chục quả đại bác không giật 57ly, đại liên M 60, nổ ầm ầm ghê rợn, bay vút lên trời, rơi xuống ngọn núi cao. Toé ra muôn ngàn mảnh đỏ, đụn khói cuộn phụt lên, bụi lửa mù hắc ám che khuất góc núi. Theo đà lướt, hai quả bom chúi mũi bay xuống tọa độ ấn định, khá chính xác. Khiến địch im hơi lặng tiếng, nhiều ngày giờ.
Nặng nề nhất vẫn là các nơi đình, chùa, miếu, nhà thờ làm bia đỡ đạn bị kích tan nát, tơi bời, hầm trú ẩn phá, hủy diệt nơi thờ phượng. Do ai cấm đoán tự do tín ngưỡng? Những cái đầu mất mũ sắt, mặt đầy máu, văng óc xám bầy nhầy, trộn với đất, cát và tro.
Đôi mắt anh lệch tròng lòi ra, trợn ngược nhìn trừng trừng. Miệng há hốc, nhăn răng, lưỡi dài thườn thượt. Thân hình anh cong gập, tay chân co giật run rẩy từng cơn nẩy, trước khi sụm xuống. Anh bất động vĩnh viễn trong nỗi yêu thương dày vò tột độ.
Chớp nguồn rực lửa từ trong bóng tối. Vẫn cung cách ấy, không khí ngột ngạt nặng nề, oi nồng khó thở. Khói lửa phủ chụp trên đầu. Tất cả đều tàn bạo, dửng dưng. Khi chiến cuộc tỏa sức sống xoáy đảo ác liệt, quay tròn. Sắt lạnh trên từng chặng đường giao tranh thảm khốc. Bi thương tột cùng. Hung hăng. Kinh hoàng nhất.
Bao giếng mắt đẫm lệ chia ly. "Chính hài cốt của người quá cố, đã cấu tạo thành Quê Hương" như Lamartine đã nói. Dù nơi nầy, kinh khủng hơn đất nước nào xa lạ khác. Dù cho Quê Hương Tôi ngất lịm giữa ngàn đắng cay, đau đớn khổ ải không kết thúc.
Người; Người vẫn đi giữa hai lằn đạn. Đi đi, đi mãi... lúc tháng ngày lạnh lùng trôi qua. Tuổi thanh xuân. Sức quyến rũ. Tài nghệ bẩm sinh. Trí dục, đức dục. Niềm tin yêu dần dà tàn phai, phôi pha. Thản nhiên trôi trong cảnh phù sinh kinh hoàng. Ôi! Biết làm thế nào hơn.
Con đường phiá trước trở thành đêm tối mịt mù không cùng. Phút chốc sau đuôi xe, mặt trời nhẹ nhàng rón rén vươn lên, tỏa màu hồng tươi chan hoà, len với màu đỏ thắm và màu vàng tía, như gom cả ánh sáng đầu ngày vừa hé.
Trúc nhắm mắt, cúi gập người xuống, hai tay bưng đầu, run rẩy lo sợ tột cùng. Nỗi khiếp sợ càng mài liếc xuống bờ ngực, cho nỗi đau đớn thêm thấm đẫm từng chân tơ kẽ tóc. Trúc tưởng lúc nầy, như là hoàng hôn dìu dịu, trộn lẫn bình minh tuyệt đẹp, ẩn trong các đài mây ngà.
Một hôm, Đoàn đến trình diễn tại chợ Xóm Chùa. Con đường cũ mấy tháng trước, đầy lá cây mượt mà xanh um, xôn xao rủ rê gọi gió, phủ bóng mát bên ven bờ. Con sông xanh thơ mộng uyển chuyển, êm đềm lượn mình quyến luyến ôm cồn cát trắng, và gió nhẹ mơn man ru khúc đồi thưa. Bây giờ đã khác hẳn.
Người đàn bà hớt hãi, tất tả quảy quang gánh lên vai, vừa chạy vừa kêu:
- Bà con ơi! Chờ tui đi coi văn nghệ với chớ.
Bà quảy "triêng gióng nợ đời", độc nhất vô nhị trên vai, lưng còng xuống những cố gắng vĩ đại. Phía trước triêng gióng, là thằng cháu đích tôn, mệt mỏi co mình ngủ gật trong thúng. Vòng tay bé vẫn ôm bức tượng Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp. Chiếc nôi đời kẽo kẹt trên vai gầy đong đưa. Phía sau là mớ gia tài lộn xộn, áo quần, tô chén, son nồi luộm thuộm. Hai bà cháu sống còn, dắt díu nhau, bò lê trên dòng đời đầy binh lửa.
Trăng chưa mọc, nên trời tối đen. Bóng tối ghê rợn, buồn bã bao bọc làng quê, như có điều bí ẩn. Từng vết nhăn trên trán cụ già trầm tư, ngồi bó gối bên bậc thềm. Đa số dân làng chân không nứt nẻ, sần sùi. Lớp da dày khô khan đầy đất bùn. Tơi rách trên quần áo vá chằn vá đụp. Thân hình gầy còm xanh xao, hốc hác. In dấu ấn triền miên khổ cực, lam lũ, đói lạnh, hằn trên vừng trán, dưới đuôi mắt mệt mỏi lờ đờ, nơi bao mái tóc ngã bạc trước thời gian.
Tuy vậy, họ hân hoan khi xem các đoạn hài kịch, thích thú vỗ tay, qua màn tân cổ nhạc giao duyên. Thế mới biết: Từ trong lớp vải sờn rách thô sơ, họ còn một trái tim nóng bỏng cuống quít gọi tình. Họ cưu mang tình tự quê nhà thắm thiết, dạt dào Tình Quê chân thật. Ngọt ngào, vời vợi như chất men nồng, keo thơm, toả nhựa mật từ hương hoa, khiến mình ngây ngây, say say.
Lũ trẻ con, đứa chạy, đứa bò, đứa lết đít, kéo theo những vệt bùn loang trên mặt đất ướt. Trừ đứa quá lớn, có quần đùi, đa số hầu như trần truồng. Đầu tóc bù xù, mặt mũi lem luốc như chú mèo vá. Tấm thân èo uột, bụng ỏng đít teo. Thật xấu hổ!
Ôi! Giữa cảnh khốn cùng, nghèo đói, chiến tranh liên miên, bệnh tật, thiên tai luôn bám sát người dân, dai hơn điả đói. Còn hay biết gì, mà xấu với hổ cơ chứ!
Đám trẻ thả diều, thấy Hoài ca trên sân khấu, chúng say sưa nhìn cô, liên tục vỗ tay hoan hô. Không vì Hoài hát hay, mà do mừng rỡ, thấy người quen biết. Mấy tuần nay, chiều chiều khi gió bắt đầu lên, hai “cô lính mới” thấy đôi cánh diều cao bay. Con màu trắng cụt đuôi, được nối một đoạn giấy hồng. Thêm một con diều mới, giấy bóng thân màu đỏ, đuôi khúc hồng khúc xanh.
Diều sánh vai êm đềm bay lượn trên không, trông thật đẹp mắt, dưới dãi nắng vàng hanh, nhuộm đầy những mái tóc hoe hoe. Nhìn hai con diều, Hoài, Trúc, cảm thấy vui vẻ, len lõi chút hạnh phúc, ấm lòng yêu thương, nồng ngọt tình tự dân tộc dường bao!
Trúc mặc áo mini robe, bên trong có soutien nòng sắt độn khéo, nâng bộ ngực nở nang lên cao. Trúc cùng bạn biểu diễn các điệu Rumba, Bebop, Boston, Valse, Tango, Cha Cha Cha, Pasodoble. Thu Hoa ca bài "Biệt Kinh Kỳ" của Lê Minh Bằng: “Bạn ơi. Quan hà xin cạn chén ly bôi. Ngày mai tôi đã, đã đi xa rồi...”
Buổi công tác nầy, Trúc không đạt kết quả, bị phê kém nhất, kể từ khi đi làm. Làm sao được! Khi trong bất cứ hoàn cảnh nào, Trúc muốn vươn lên, cố gắng hết mình, dù thật khó khăn. Lòng dạ nào mà ca với múa, khi nhìn đồng bào cơ cực lầm than đến vậy?
Dọn dẹp sân khấu, chất đầy lên xe GMC xong, đã hơn nửa đêm. Anh em chia nhau vào xóm, xin ngủ nhờ ngoài vỉa hè nhà đồng bào. Do quá mệt nhọc, vừa ngả lưng xuống chiếu, hầu hết đã ngủ say.
Bỗng loạt súng nhỏ nổ dòn bên rào Ấp Chiến Lược (Strategic Hamlets) vang lên. Mọi người choàng thức dậy. Vụt ngồi lên, nghe ngóng đạn nổ từ hướng nào. Các mái nhà đạn bay vù vù trong không khí. Họ sợ hãi nằm bẹp xuống. Người nầy chồm trên người kia, kêu thất thanh, như con heo bị chọc tiết. Sờ soạn tìm nhau trong bóng tối.
Thời buổi nầy, thà chịu tối yên thân, hơn thắp đèn đóm làm gì. Có đèn chẳng khác nào "Lạy ông, tôi ở bụi nầy". Đi đâu mò mẫm sờ soạng, như người mù, mà chắc ăn dưới ánh trăng mờ nhạt.
Trung úy Phước để ngón tay trỏ lên giữa môi, thì thầm rất khẽ. Anh có ý bảo im lặng, ra dấu cho anh em di chuyển đi chỗ khác. Đó là khuôn mặt của một người đã có vợ và bốn con, đầy tự tin. Anh cứng rắn và quyết tâm hướng dẫn anh em, trong giờ phút nguy hiểm nhất.
Anh ghi nhận nguồn tin cẩn thận, xem xét điạ đồ, địa hình chính xác, điều nghiên, thực hiện ở mứt tốt nhất, nào dám ẩu, liều lĩnh đưa Đoàn vào chỗ thập tử nhất sinh. Là sĩ quan từng trải nơi chiến trường, anh hiểu rỏ mưu lược, am tường về CS, anh không cầm con dao nhọn, xoáy vào tim đồng đội.
Rừng cây không tên, mọc đủ mọi thứ cây ba láp rậm rạp, chằn chịt um tùm, khó vạch lối đi. Hai tay họ luôn chuồi ra phía trước, giạt lối tìm đường. Cành cây xum xuê khô cứng cao tới ngực, tới đầu. Có cây trụi lá, cào xướt rách mặt, tay, chân, quất vào thân những lằn đỏ nhỏ, đau điếng. Người đi sau nối chân người đi trước, thành hàng dọc. Họ lầm lũi bước đi, giữa chỗ lạ cái lạ nước.
Bất cứ đâu đâu, cũng có kẻ thù hiếu sát độc hại rình rập quanh ta, mình không có gì che chắn, dù đã co rúm người lại lũi nhanh. Vẫn như phơi mình lồ lộ giữa trời, làm mục tiêu cho địch nhắm vào.
Tìm ra chỗ đậu xe rồi. Mọi người hối hã leo lên. Xe GMC để đèn mắt mèo, chạy quá chậm trên đường gập ghềnh bờ mô ụ đất. Sương muối rơi lốp đốp trên mui xe, giọt sương to tròn và nặng như hạt mưa. Kỳ thực đó là sương miền núi trắng xóa, làm nặng trĩu thêm bầu trời.
Xóm làng chìm ngập trong đêm sương ẩm ướt lạnh lẽo. Con đường cái quan nhòe đi, uốn lượn dưới ánh trăng rừng, giống con bạch xà khổng lồ nằm ngủ. Phút chốc vầng mây đen phủ trùm góc trời khuya. Cách nhau mươi bước, không ai nhìn thấy vật gì.
Cây cối đen nghịt chìm trong bóng tối thăm thẳm. Đom đóm chập chờn, lúc tắt lúc sáng trên những ụ mối. Tiếng côn trùng rỉ rã. Quốc kêu hè về. Bầy dơi ăn đêm kêu chít chít, đập thân vào hông xe bồm bộp. Dế gáy ré ré. Muỗi vo ve nhiều vô số kể. Ếch nhái kêu uồm uộp. Thỉnh thoảng con cú nấc từng tiếng cụt lũn; Nghe ớn lạnh giữa khuya muôn trùng khổ ải, đơn điệu, hoang tàn, đầy kinh dị.
Đến một cánh đồng ruộng đã gặt, còn trơ cuống rạ. Tất cả xe tắt đèn, mò mẫm chạy chậm chạp, ì ì trong bóng đêm. Trăng lá mít, như con thuyền đơn độc méo mó, ẩn hiện trôi bềnh bồng trong vùng mây đục. Xe chạy khó khăn, như con rùa bị thương, bò trên đường nhựa nóng.
Đến tụ điểm, họ chia đều ra trực gát. Cạnh đơn vị Pháo Binh, có thiết xa M 41 trang bị đại bác, cùng máy chiếu hồng ngoại tuyến, đề phòng lúc giao tranh về đêm. "Phe ta" ra dấu hiệu cho nhau, bằng máy truyền tin PRC – 25.
Đơn vị bạn nhận ra bạn láng giềng, đồng ý cho vào nghỉ trong cánh ruộng khô. Người ta trải poncho nằm chung dưới đất sình, mặc bầy giun, dế, rắn, rết, sâu, bọ hung xủi đất dưới lưng. Người mắc võng trên thân cây, gió lạnh xuyên qua lồng lộng dưới lưng. Người nằm trên đường cái. Người chui vào gầm cầu, hay leo lên các xe chất đầy đồ dùng. Đời lính đầy nhọc nhằn, gian khổ vô cùng, mà quá bạc đãi!
Hoả châu luôn rơi cuối rừng, trông đơn điệu, kinh hoàng. Một tiếng động cơ rít xoáy, nghe khô khan. Pháo Binh cho dùng hoả tập TOT từ nhiều hướng, bắn cận phòng vào một mục tiêu nã đạn. Bay ngang đỉnh đầu mọi người, xẹt ra vệt lửa đỏ dài, lướt gió vun vút. Vài giây sau, tiếng nổ ầm ầm, rền rĩ ngân vọng.
Phiá xa xa, hiện lên mấy cây nấm khổng lồ, khói xám xịt, lửa đỏ rực từ mặt đất đùn lên, đùn lên mãi, cuồn cuộn từng vòng. Trông dễ sợ vô cùng trong bầu trời khuya u ám.
Mùi thuốc súng xông ra, hăng nồng, hôi không chịu thấu. Từ nắp đáy súng cối, vỏ đạn chạm vào nhau kêu lẻng kẻng, bốc khói khét lẹt. Như mùi lông da trâu bò thúi.
Bùm!!! Chỉ một tiếng nổ nghe rùng rợn, ớn lạnh giữa đêm trường hoang vu cô tịch. Là dường như tất cả mọi vật, đều trở thành tro bụi, đất cát, khói đen mù mịt, lửa đỏ rực. Mùi khét bay về không chịu nỗi. Đau buồn da diết!
Chuyến đi nầy ký ức Hoài, Trúc, ghi lại những gì mục kích được, giữa hai lằn đạn quầng xiết lấy nhau.
Trúc và Hoài nằm ngược, nằm xuôi trong ca bin xe GMC. Mở cửa kính ra, thì muỗi ào vô như bầy ong, gió rừng ùa vào lạnh kinh khủng. Đóng cửa lại, thì nồng ngộp. Chịu không nỗi. Xoay qua trở về một hồi lâu, Trúc gát chân lên tay lái, đụng phải cái còi xe. Nó "tin, tin, tin" một hồi dài, nghe ghê rợn giữa cảnh trí không bình yên. Khiến mọi người run sợ toát mồ hôi. Họ sợ lộ mục tiêu. Các anh chửi nhoi trời đất:
- Đứa nào ngu quá vậy? Mất dạy thật. Ông đá cho một cú, bay đầu bi giờ.
- Ngu như con bò. Đi ra khỏi ca bin ngay đi à.
- Coi chừng tao vặn cổ tréo ngược ra sau, hết ngu si.
- Thôi. Trúc xin lỗi. Mắt cá chân Trúc nó mù, hổng thấy đường. Xin lỗi.
- Lỗi với phải gì! Coi chừng toi mạng cả đám nha.
Không hiểu Trúc có biết tên người vừa nói câu sau cùng đó không? Hoài thì tưởng anh ta là quen, hóa ra không phải. Tưởng vậy, nhưng nào phải người quen. Mặc các anh chửi thề, văng tục quá sá. Hai cô gái nằm im trong ca bin xe, ôm nhau khúc khích cười.
Dù Trúc có là con cháu ông Tá ông Tướng, nếu lầm lỗi khi ra chiến trường, vẫn bị anh em chửi nhoi trời đất, chả kiên nễ nịnh nọt gì!
Trúc quay lại cùng hướng, hai đứa nằm chèo queo, nói chuyện rù rì một hồi, bỗng im bặt. Có lẽ không phải bước chân dừng lại gần cửa xe, chẳng qua hai cô say chuyện, nhầm lẫn đó thôi. Trúc ú ớ vài tiếng ngập ngừng, rồi thở đều và ngáy nhẹ, thả hồn vào giấc mộng khuya.
Trời tối và kinh dị quá! Nhất là khi ăn bờ ngủ bụi, nằm trơ trọi giữa cánh đồng vắng lặng, đầy mùi tử khí. Cảm giác ớn lạnh toát lên, từ đồng ruộng quạnh hiu càng tăng. Màu đen xám hoang vu rờn rợn.
Hoài trằn trọc mãi không sao chợp mắt, (dù trong giây lát). Nằm mà không sao chợp mắt phút nào, nên đêm hóa ra dài đằng đẵng. Từng tiếng thở dài nhè nhẹ vang lên trong đêm trường, thay tiếng nấc âm thầm. Thay niềm đau thế sự, có tác dụng bền lâu, vang dội tận đáy lòng Hoài trăm ngàn ray rứt.
Bây giờ cách xa Dalat cả ngàn dặm sơn khê, Hoài nhớ biết mấy giờ phút thoáng mát, êm ái, yên tĩnh và bình an. Nơi đó, mẹ đã từng ru con, qua bao câu ca dao ngọt ngào, tự thuở con còn nằm nôi, bên dòng đời chao đảo, đau vùi, trôi trôi.
Ngày bận rộn việc nầy việc nọ luôn luôn, khiến thể xác mệt mỏi, tinh thần căng thẳng hơn. Sự khó chịu buồn bực thường dõi theo, trong lúc mình làm sang việc khác. Hình ảnh người Trưởng Ấp bị bọn nằm vùng giết chết thê thảm, thân ông ta vắt trên cây cầu Khỉ cheo leo. Cây cầu thân thương nơi làng quê, móc từ bờ nầy sang rạch kia, qua hàng bao thế kỷ, vẫn không thay đổi hình dáng, tưởng đã êm đềm, ấm nồng duyên quê. Chứ ngờ đâu, in dấu sợ hãi kinh khủng!
Gió rít lộng qua cây cầu cheo leo lắc lư, kêu kẽo kẹt, chơ vơ, trơ trọi, mà không có vật gì cản lại. Gió lạnh lùa sương dày đặc, cuộn thành từng lọn, bồng bềnh trắng xoá, mù mịt, bất nhẫn, lồng lộng thổi qua dòng sông đau thương.
Như đuổi theo cuộc trốn chạy miết mãi. Cuồng nộ. Không ngưng nghỉ. Không nương nhẹ.

_ * _
Kính mời quý độc giả xem tiếp... Chương 11
Trân trọng,
Ái Ưu Du
#66 Posted : Wednesday, December 20, 2006 8:56:41 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

GIỮA HAI LẰN ĐẠN

Chương 11

LÍNH TRẦM TƯ

(Kỷ niệm ngày Quân-lực . . .)

Hoài nhớ những chiều năm cũ, dọc theo bờ suối, nhớ tình yêu vô cớ tàn phai phi lý. Từ cánh bướm do dự, dẫn Hoài về bao ngày hái hoa bắt bướm, ép khô trong trang sách học trò, nơi ngôi nhà xưa. Nàng thấy người thân trong gia đình, qua từng hoa pensée, hoa violette, coquelico, mimosa, forget me not, kim châm, hoa giấy trắng, tím, hồng, mãn đình hồng, sen địa v.v...
Cánh hoa thiên lý có chú bướm nhởn nhơ bay về, đưa Hoài quay trở lại thuở nhỏ, cùng ngày tháng rong chơi bên suối. Vớt cánh lục bình trôi lênh đênh nhấp nhô bên sông Bồ. Nước chảy dưới cầu Thanh Long, xuôi về Bao Vinh, dẫn Hoài theo dòng lưu thủy, tan vào cuối nguồn.
Nước từ dòng sông Thạch Hãn, Như Lệ, Hương Giang, Trà Khúc, sông Vệ, Nghiã Hoà, ưu ái hòa thông ngoài biển rộng bao la. Yêu thương luân lưu đến đầu non Minh Long, Cộng Hoà. Có thể lắm!?
Rồi cánh bướm vụt bay đi, không buồn quay lại, để Hoài ngồi trơ trọi, liu riu ngu ngơ trông ngóng, bơ vơ một mình trong ca bin xe. Hoài nghĩ đến Tình Quê. Nghĩ đến điều bất hạnh vong gia thất thổ. Xóm, Làng nầy, gánh chịu đời sống kinh hãi, khổ ải tận cùng nỗi đau thương.
Hoài nhìn xuyên suốt qua lũy tre xanh ẩn khuất, có dòng sông lặng lờ uốn khúc nhấp nhô cánh lục bình, bụi dừa nước, tàu lá xoè to đâm thẳng lên trời. Nhà nào cũng có bụi chuối lùm tre, gốc cam cây ổi, chen chân với cây cau dây trầu óng ả, quyến luyến tình thân.
Trên đọt cây cau, dây trầu, dăm ba chú ve tơ dạm ngỏ duyên tình, tán tỉnh cô nàng ve mái yêu kiều. "Chàng" khoe bộ cánh mỏng tanh, đỏ rực màu lửa với "cô nàng" làm le, làm dóc, ỷ mình thanh xuân xinh đẹp nhất: "Em... ve ve ve! Em... ve ve ve”...
Trên rừng cây kiền kiền thân thẳng gỗ lớn, mặt lá mốc trắng, rơi rào rào trước sức gió nghiêng ngã, dồn dập xô về. Bất giác Hoài nhìn mãi lên bầu trời cao, thầm mong mình bắt gặp một trong đôi cánh diều thân thương, chao lượn trên không hết sức! Mong hết sức.
Đôi khi nàng mở to mắt, nhìn đăm đăm về phía trước, mong chờ những hình ảnh không hẹn. Lúc nào đi qua chốn cũ, thốt nhiên Hoài cũng có những cử chỉ dáo dác, kiếm tìm vài em bé vừa biết, nhưng chưa quen mặt.
Chìm đắm trong sự yên tĩnh như thế, không biết bao lâu, từ phía sau hông xe, Thu Hoa mở cửa nhảy lên, với năm sáu chiến lợi phẩm tịch thu của Cộng quân.
Thấy bạn, Thu Hoa tươi nét mặt, quay qua phía hai người lính trẻ đứng dưới đất, vui vẻ nói:
- Em xin giới thiệu: đây là Hương Hoài. Cô gái vừa rồi ngâm bài thơ “Tình Nhớ Tha phương”, mà anh Đan hỏi: "Ai rứa". Còn đây là anh Văn, anh Đan, đó Hoài.
Hoài chào hai chàng trai, họ mặc áo trận, bạc màu nắng gió khói sương. Họ không mang phù hiệu, cấp bậc, huy hiệu. Ai nấy có vẻ dễ nhìn và thanh lịch. Khuôn mặt rắn đanh, bất khuất kiên cường trên bờ chiến tuyến, màu đen trên mái tóc ngả bụi vàng đường xa.
Họ hiên ngang đánh chiếm, giành lại, gìn giữ lại từng Ấp Chiến Lược, gò mối, lũy tre, ao làng, ruộng vườn, nhà cửa, dân cư, quí từng mảnh đất thân yêu trên khắp Bốn Vùng Chiến Thuật.
QUÂN NHÂN CỘNG HOÀ VIỆT NAM anh dũng và lẫy lừng, qua chứng tích đã đạt được, những trận không tập, có cường độ oanh tạc tàn khốc, hữu hiệu, chính xác, chiến thuật quân sự lẫn chiến lược chiến tranh chính trị.
Không cần huân chương, mề đay, họ tặng lại cho Thu Hoa, đem về nộp chiến công đó, làm thành chiến công riêng mình.
Đan đứng chống tay ngang hông, trầm ngâm hút thuốc lá. Vầng trán cao rộng thiên tài, biểu lộ con người thông minh. Dáng hiên ngang oai dũng, dưới đôi ống quần còn ướt sũng nước. Đôi mắt khá đẹp ẩn dưới hàng mi dày cong vút, nhìn vu vơ lên giàn hoa thiên lý. Anh nhìn hàng hoa bạch đàn nở vàng cây phía trước.
Nhìn ngón tay tháp bút vàng khói thuốc nơi hai ngón tay, và, không đeo nhẫn của Đan, Hoài chợt thấy lòng vui vui, niềm vui lâng lâng khó tả.
Văn cầm xâu chìa khóa tung lên trước mặt, rồi đưa tay đón bắt. Sau đó quay qua, vỗ vỗ vào vai bạn thân, trêu đùa:
- Thế nào? Anh bắt tôi cùng lội qua sông Nghĩa Phú, cho bằng được, để anh... có dịp làm quen, nói chuyện, với người em đồng hương của anh. Bây giờ, đứng trước mặt cô em rồi. Sao anh im lìm như gỗ đá vậy? Anh?
Đan ngẩng nhìn Hoài qua hàng mi cong, che nửa giếng mắt u buồn. Nét mặt anh trông nghiêng, như khắc trên tấm phù điêu, đầy vẻ kiên cường, bất khuất. Môi anh thoáng động đường răng trắng bóng, với cái nheo mắt hữu tình. Phút định mệnh thật tình cờ đọng lại, qua nụ cười nhã nhặn quá đỗi:
- Ấy... đứng trước giai nhân thì... bao nhiêu dự tính tiêu tùng ráo trọi. Có lội qua sông rồi, mới biết là sông sâu, nước lạnh. Khó dò.
Bỏ thói độc hành, để song hành cùng người mới gặp, Hoài nhẹ nhàng mỉm cười:
- Anh Đan à! Nguyễn Bá Học nói câu nầy "Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông". Theo thiển ý của em, anh đã vượt thắng sông núi kia rồi. Vì, dưới đôi ống quần còn ướt sũng nước đó. Anh đạt vài ý nguyện. Bằng cách, Hoài đối diện, và đối thoại với anh đây.
Văn ngửa người ra cười ha hả. Vỗ bôm bốp vào vai bạn mấy cái:
- Tuyệt cú mèo chưa! Anh mình?
Thu Hoa reo lên như tiếng chim. Cô nói:
- Hoài là cô bé cưng dễ thương nè! Nhưng thương không dễ à nha. Có nhiều người trồng cây mơ, cây si, cây mê. Tuy vậy, Hoài còn cô-đơn nhất ha.
- Hai anh đừng nghe Thu Hoa nói xạo, mà bán hết gạo ăn bây giờ.
- Ê! Bồ tèo. Trưa nay, tui cho bồ nhịn đói à.
Văn khoát tay lia liạ:
- Đừng lo Hoài. Anh hân hạnh mời em dùng cơm. Kể từ hôm nay.
Thu Hoa chúm hai môi, nguây nguẩy giây lát, nói:
- Hai anh không mời em há?
- Dĩ nhiên anh muốn mời em nữa. Do em chỉ lối đưa đường, anh Đan mới có dịp đứng thộn ra, vì... cảm động nè.
Màn đấu hót tay đôi giữa, Văn và Hoa, nghe vui tai. Mặc bạn ríu rít, cười nói trêu ghẹo nhau. Đan bắt chuyện:
- Em ở Huế, đường nào vậy?
- Dạ, nay thì ba má em ở Mỹ Chánh. Các anh chị ở An Cựu, và Gia Hội. Còn anh, ở chốn núi rừng hẳn anh nhớ nhà. Buồn lắm nhỉ?
- Rồi... quen thôi em. Lâu nay em có về Huế không?
- Không anh à. Em ở Đà Nẵng.
- Anh biết rồi.
Ngạc nhiên, Hoài tròn xoe đôi mắt nhìn anh, hỏi:
- Anh biết... Hoài?
- Có gì đâu. Ngày đầu tiên, anh thấy em leo lên đỉnh Núi Thần. Anh nghe bạn nói các em đặt tên núi là Tê Tê bại bại gì đó. Anh đễ ý dò hỏi, biết em là cô bé đồng hương. Là cánh hoa rừng biết nói. Một sơn ca. Một hoa hậu dễ bị ngất xĩu nhiều lần, vì... bệnh tim thời đại.
Thoáng mắt bất ngờ giao nhanh, vui cười hồn nhiên, Hoài nói:
- Hẳn anh nhớ lắm người em áo trắng xa xưa, tóc thề bay trong gió, cặp ôm ngang ngực, mong manh bài thơ trên nón quai thao, tơ vàng óng ánh, xinh lịch, rồi há?
- Thời hoa mộng đó đã trôi qua. Giờ đây, anh chỉ là người lính độc hành, lang thang trên ngõ cụt tình yêu.
- Sao vậy anh?
- Lính tráng như anh, làm sao có cái nhìn thân mật, ngọt ngào, ấm áp hương vị mùa xuân. Hở em? Anh đã đánh mất nửa hồn mình, trên nẽo đường bơ vơ, lạc loài tìm kiếm. Thật khó bắt gặp nửa hồn ai đồng điệu, hợp tình hợp ý, thấu hiểu, khoan dung, rất mực yêu thương lính. Anh có đôi lần yêu; duy muốn tìm người bạn đường, phù hợp đã khó. Anh muốn tìm một người bạn đời, càng khó hơn. Em ạ!
- À... ra thế.
Tiếng depart đạn vùn vụt xoáy rít khô khan sắt lạnh, bay cao vút trên trời. Bỗng ùm! ùm! ùm!!! Pháo binh nã đạn về cuối ghềnh. Nghe từ xa, giống như tiếng thủy lôi tàu ngầm, nổ rầm rầm. Hoặc trận mưa giông sấm sét rất lớn. Hay như người ta giật mìn lấy đá.
Chiếc máy bay cường kích vụt qua trên không trung, giây lát sau những tiếng nổ lớn, làm rung chuyển cả bầu trời, nghiêng ngả hàng cây bạch đàn phía trước.
Hai người lính nghiễm nhiên nhìn về mấy đụn khói đen mỉm cười, tiếp tục chuyện trò thân mật. Họ không thấy vẻ mặt ngờ nghệch tái xanh, run rẩy của hai cô bé khờ.
Câu chuyện đang hào hứng, bỗng khựng lại, đến đấy là chia tay. Đoàn xe lên đường trở về ngọn đồi T T 2. Đan cùng bạn lội qua sông rộng nước sâu, về với làng mạc quạnh hiu, ở cuối núi đầu đèo hoang dã.
Tiếng nói của Hoài, ngày này qua ngày khác, đêm nầy qua đêm khác thấm vào tâm tư anh cô lẽ. Như những giọt mật tròn. Mật đắng.
Hạnh phúc bất chợt, bé nhỏ liu riu thoáng qua nhanh, chưa thể làm lòng Đan ấm áp, bình yên, giữa cơn gió xoáy rét mướt, nơi sơn khê ngút ngàn.
Biết biễu lộ tình cảm dưới dạng thức nào, cho trung thực, đối với cô gái dễ mến đó, qua bề ngoài câm nín của cái vỏ cuộc sống? Anh mến Hoài, từ lần gặp gỡ đầu tiên tình cờ buổi nọ. Đan hai mươi lăm tuổi, chưa có gia đình. Sống giữa chốn núi rừng nầy, tâm tư không phải là không có điều nhớ nhung, yêu thương, băn khoăn dằn vặt, ưu phiền, buông thả, âu lo. Nhưng anh không tỏ ra yếu mềm, mà chỉ trầm ngâm, lặng lẽ suy tư.
Đan đã đi Pháp từ lúc mười hai tuổi. Mỗi năm, anh đều về thăm quê nhà vào dịp hè, Tết. Sống ở xứ người qua nền giáo dục phương Tây, dạy cho anh tính sòng phẳng, công bằng. Anh có óc tổ chức khoa học, phép lịch sự nhã nhặn tuyệt vời. Anh thấy đất nước mình chậm tiến, tuy nền giáo dục tốt hơn về đức dục: Nhân, lễ, nghĩa, tín. Ông bà mình rất thương con cháu, nhưng không chiều chuộng, không buông thả cho chúng tự do, theo ý muốn quá trớn.
Con cháu kính trọng nể sợ, thương yêu ông cha chúng một phép. Chứ có trân trân tráo tráo, như đám Tây Con đâu. Anh sinh ra và lớn khôn trong dòng tộc vương tôn, được dưỡng dục rất mực tôn nghiêm, chu đáo của gia đình. Mặc dù sống trên xứ người, văn minh tiện nghi, đầy đủ, sung túc vô cùng. Anh vẫn nhớ thương gia đình. Nhất là thương nhớ Me anh, và hoài hương xiết bao!
Sau bao năm thành đạt vinh hoa, anh vừa trở về quê nhà, mong đem kinh nghiệm học hỏi bấy lâu, ra giúp đời, nhất là vì anh yêu binh nghiệp.
Tình yêu xưa đã đem lại ngọn lửa tình, vút lên từ đôi tay kính cẩn chấp vào, khẩn thiết chân thành kêu xin. Rồi tình yêu từ đôi tay mọc cánh xa bay. Trong nỗi xót thương, tiếc nuối khôn cùng. Mà thôi. Xin hãy qua đi! Xin hãy quên đi! Xin cho bình lặng tâm hồn. Anh không muốn nhắc đến tên ai, dù vô tình đọc trên sách báo có chữ “tên ấy” cũng vậy. Vì, ...
Anh quen nàng ở cạnh giáo đường Maubert Mutualité, gần tả ngạn sông Seine, vào một chiều mưa tầm tả, như Verlaine đã nói: "Il pheut sur la ville, comme il pheure dans mon coeur", rồi trở thành đau buốt. Bởi, anh yêu Me của mình hơn bất cứ ai. Anh không muốn mẹ đau buồn, vì cô sinh viên đoan trang, và anh thư ấy là... đầm.
Đan soi bóng mình bên dòng suối lờ lợ đục chao đảo, khi tỏ khi mờ. Anh bỗng nhớ ngôi biệt thự xinh xắn, ở vùng ngoại ô Gif-Sur-Yvette, cách xa kinh thành Ba Lê khoảng hai mươi sáu kilômét, về hướng Tây Nam. Từ nơi ấy, anh nhớ da diết đôi mắt xanh, mái tóc vàng óng đầy xao xuyến thuở nào. Thân hình em rất hấp dẫn, quyến rũ, đã khắt sâu vào đời "chúng mình", những vết dao đậm sâu, đầy yêu thương, quyến luyến nhớ nhung.
Hai người thường hò hẹn nhau đi ăn tối tại Perle-du-Lac, trên bờ hồ Leman thơ mộng. Nàng thích kể cho anh nghe bà thánh Jeanne D'Arc, (tên thánh của nàng) bà hô hào cư dân Pháp đứng lên chống lại sự thống trị cay nghiệt của Hoàng-gia Anh. Năm 1429 tại thành phố Orléans. Sau đó, bà bị Anh bắt bỏ tù và thiêu sống.
Anh cũng kể lại cho nàng nghe về oai danh Bà Triệu. Hai Bà Trưng nước Việt Nam. Vì thù nhà nợ nước, họ đã đứng lên chiêu mộ quân sĩ, đánh đuổi Tàu ra khỏi đất nước. Họ trị vì được ba năm. Sau đó, Mã Viện đem quân sang Việt Nam xâm chiếm. Thế yếu lương cạn, bị thua, nên hai bà nhảy xuống sông Hắc Giang tự tử.
Cuối cùng... anh và nàng chia tay nhau vĩnh viễn ở sân ga Part Dieu, trong thành phố Lyon. Rồi có một ngày, ta sẽ quên. Quên. Có thể. Bao giờ nhớ đến em, từ giấc chiêm bao, anh sẽ ghé về Paris thăm em nhe. Chúng ta sẽ hàn huyên tâm sự. Sẽ tìm thấy nhau trong giấc ngủ muộn màng. Em ơi!
Ta có thể thay đổi tình yêu nầy, bằng một tình yêu khác không? Biết đâu, nó sẽ có những dễ thương trùng hợp. Như thế, hoặc hơn thế nữa! Đan bỗng nhớ một câu của Montamayor viết: "Hỡi ký ức thù nghịch sự yên tĩnh của tôi, sao ngươi không lo giúp tôi, quên các khốn nạn hiện tại. Hơn là nhớ đến những nguồn vui thuở xa xưa?"
Mỗi lần, chỉ cần trông thấy chiều tàn dần, vắt qua sườn dốc, mây trắng bạc bồng bềnh thấp thoáng, âm thầm bay qua bên kia lòng khe, vách đá. Nước chảy róc rách lưng đồi, suốt thế kỷ, dội xuống lòng suối lững lờ trôi xa. Nghe tiếng súng đạn dày xéo suốt đêm ngày, trên quê hương điêu tàn, đổ nát. Là vết thương không trông thấy, nhói buốt đau đớn trong lòng anh.
Cuối tuần ở Minh Long. Cảnh vật nơi đây rất hoang vắng u buồn. Anh sống qua giờ phút xao xuyến, mơ mộng, ưu phiền bên ngọn suối bạc uốn quanh triền núi. Như gợi lên lòng anh biết bao nhớ nhung. Buồn thương da diết, qua vệt nắng rải sau hè, rực nét tình xưa.

_ * _


Kính mời độc giả xem tiếp... Chương 12
Trân trọng,
Ái Ưu Du
#67 Posted : Thursday, December 28, 2006 3:16:28 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

GIỮA HAI LẰN ĐẠN

Chương 12

KIỀU NỮ QUÂN NHÂN


Đoàn đóng tại Thị Xã Quảng Ngãi, rồi phân phối đi quanh mấy vùng lân cận như Sa Huỳnh, Mộ Đức, Tân Thạnh. Tư Nghĩa. Lao xá Phú Châu thuộc liên khu V thời xưa, về hướng Tây Quận Nghĩa Hành, cuối cùng đóng ở Sông Trà Khúc. Không lên Minh Long. Các cô có bạn ở chốn giang đầu, tha hồ nhớ nhung và bâng khuâng.
Buổi tối, tất cả vào ngủ trong Tiểu Khu cho an toàn. Giăng mùng xong, Trúc, Hoài, vừa chui vào giường bố chiếc, đứa nằm xuôi, đứa nằm ngược cho đở chật, thì điện cúp. Hội Trường rộng lớn. Tứ bề không có cửa, phủ bạt thay tường. Nóc nhà lợp tăn. Những đêm di hành, ăn bờ ngủ bụi luôn. May mắn lắm, mới có chỗ ngã lưng, tốt thế nầy, thật qúy hiếm. Hội Trường chứa khoảng năm trăm người, về tạm dừng chân qua đêm.
Hoài từ nhỏ ngủ riêng quen rồi, nay nằm như vậy, mất ngủ luôn. Mai Hồng, Thu Hương, Lan Anh, chiếm cái bàn rộng, dùng làm giường ngủ thoải mái. Ba cô ấy giận hờn, xoi tì xoi tướng nhau, một cách thân ái, như các Chấp Chính Quan ở thời kỳ La Mã, hay triều đình vua Tự Đức vậy.
Đang nhắm mắt mơ màng dĩ tưởng về dĩ vãng, bỗng có ai nhẹ nâng tấm bạt lên. Hoài ngỡ là bạn tìm chỗ ngủ, nên nói:
- Hết chỗ rồi, bạn ơi!
Một lúc khá lâu, bàn tay kia nhẹ nhàng rờ lên hai đầu gối nàng thò ra quá nửa ghế bố. Tưởng con chó Xệ cuả anh Thái, nó thích ngoạm mùng mền như mọi khi. Nàng lấy tay hất ra, liền bị bàn tay khô cứng, xần chai, chộp lấy cùng tiếng thở hổn hển, phì phò gần bên. Nghe rất dễ sợ. Hoài vùng mạnh tay ra, hét thất thanh:
- Trời ơi! Ai làm cái gì đây?
Cùng với tiếng kêu to, bóng đen giở tấm bạt, vụt chạy biến vào đêm tối mất dạng. Cả phòng nhốn nháo vì tiếng la hét đột ngột, điện vụt sáng. Sau phút kinh ngạc, tiếng ồn ào lẫn trong tiếng cười nói đồng loạt nổi lên. Mấy cô gái sợ quá dồn nhau ngồi chung trên bàn Thu Hương đã chiếm, không dám hó hé.
Mặt Hoài, Trúc tái xanh như nhuộm chàm, khiến các anh chị cùng Ban không nhịn được cười. Quả thật, họ sợ kinh khủng! Ấn tượng về bàn tay lạnh ngắt kia vẫn còn nguyên. Trước khi ngủ các anh nói chuyện ma, chuyện quỷ. Bây giờ bị một vố mất hồn mất vía, Hoài sợ điếng người! Sao lại cười nhỉ! Không thể cười đâu.
Sáng sớm, Đoàn Quân Tiếp Vụ lên Minh Long. Trúc, Hoài, gửi theo xe cho Đan, Trọng, gói trà. Cà phê Chồn. Đường cát. Hai cây thuốc lá Ruby Queen. Bịch khô Nai. Kèm theo mấy lời thăm hỏi, viết chung gửi đến hai người anh, ở chốn giang đầu, trong tờ thư xinh xinh.
Thứ bảy Trúc, Hoài, đi làm xa, chiều về nghe anh Lân nói: Có một thanh niên mặc thường phục đến tìm. Ban đầu Trúc nghĩ người đó là Chiêu, bạn trai thân thiết của Trúc, nhưng anh ấy có ra đây, thì phải mặc quân phục chứ.
Còn Trọng? Chắc không thể. Vùng đó giao tranh dữ dội. Làm gì có người binh thư nhàn nhã về dạo phố phường? Trúc chợt nhớ lạ lùng bài ca: Biệt Kinh Kỳ của nhạc sĩ Lê Dinh, mà Đan, Trọng, người chiến sĩ gió sương can trường muôn dặm quan hà, có mái tóc sớm bạc màu nắng mưa. Họ đi giữa hai lằn đạn, trong suốt tháng năm qua, trên vùng Mộ Đức, Sa Huỳnh, Cộng Hòa, Nghĩa Phú, v.v... Đã có lần Trọng hát cho nàng nghe.
Phải không hở Trọng? Hẳn anh không muốn làm chàng trai phong trần, vai đeo cung tên, ngồi trên mình con tuấn mã, ruỗi dong ngàn dặm, tìm hương cố nhân. Anh cũng không thích làm Quan Vân Trường râu dài, tính tình cương trực, cưỡi con xích thố, xử dụng cây thanh long đao. Anh càng không là chàng Kim Trọng tình si, hào hoa phong nhã, say đắm nhan sắc Thúy Kiều. Anh không bắt chước Đan, lội qua sông đi tìm "cô gái" ở bên kia bờ.
Mà, anh là Lê Tín Trọng, ở ngàn chốn sơn khê, cuối núi đầu ghềnh, xa tít tắp. Tay anh luôn cầm súng dài, báng súng carbine M2, lưng đầy đạn, lựu đạn, mặt nạ chống hơi ngạt, có mắt kính lồi bằng nhựa đục. Thì việc anh bắt chước Đan, lội nước lớn đi tìm người em nhỏ bên tê sông, vượt biên thùy xa xôi về đây tìm gặp Trúc, là điều ở trong mơ. Nghĩ mà thêm trĩu nặng góc hồn.
Lúc trời dịu mát, năm cô gái rủ nhau đi "pát phố", dạo cảnh đồng quê. Cô nào cô nấy, mặt hoa da phấn. Môi thắm má hồng. Áo quần xum xoe. Xức nước hoa thơm ngát, đi bên lề lòng phố thoang thoảng mùi thơm. Các cô như năm con công, giữa đám gà vịt bát nháo.
Người dân quê lam lũ một nắng hai sương, cần cù cày sâu cuốc bẫm với đồng áng ruộng vườn. Chưa khố rách áo ôm là điều đại phước. Có đâu nhởn nhơ tung tăng trên đường với quần là áo lụa.
Họ chống cuốc đứng nhìn. Cô thôn nữ mộc mạc áo lận quần xăn bạc phếch màu gian khổ, ngẩn ngơ kéo vành nón lá sờn rách che nghiêng. Hai hình ảnh đó đối lập nhau, không phù hợp với thực tế chút nào. Chẳng thích ứng với vùng trời nơi chiến tranh diễn ra, cách đó vài mươi cây số. Sao mà lố bịch quá! Các cô vội vàng trở về phố chính. Ở đó, dẫu sao còn thấp thoáng khuôn mặt thị thành.
Quảng Thành mất dần dần nét mộc mạc hồn nhiên ngày trước. Các quán ăn, Snack bar, phòng khiêu vũ đèn mờ, nhạc kích động mọc lên như nấm. Người Mỹ đưa Cố Vấn đến trên quê hương nghèo nàn, mang theo bầu sinh khí sôi nổi, ồn ào sống động, hội hè đình đám, phức tạp ở các bar náo nhiệt tưng bừng.
Không hiểu người ta đi đâu mà chen lấn chuyển động như kiến trên mặt nhựa nóng ran. Trên phố xuất hiện những lính Mỹ trắng, Mỹ đen, đi lố nhố nghênh ngang trong lòng đại lộ. Tuy vậy họ khá sợ Quân Cảnh Mỹ. Họ chấp hành luật pháp nghiêm minh. Ít khi thấy bạo động ở thời điểm nầy.
Cha mẹ sanh thành, nưng niu con từ tấm bé không tiếc công, mà tiếc chi tên cúng cơm, cha mẹ đặt cho quá khó nghe, quê mùa, khó chịu mỗi khi có người gọi. Thật mắc cỡ muốn độn thổ. Nên các cô làm cuộc cách mạng gia phong, cãi lời bố tổ. Thôi thì tự đặt cho mình, những cái tên thật kêu, thật đẹp, thật mê ly, đầy hoa mỹ, êm ái ngọt ngào, như mật rót vào tai. Gọi lên ngày đêm nghe bàng hoàng, thương nhớ đời ca sĩ ... đến rụng rời.
Các bạn thả bước trên phố, ngắm cửa tiệm chưng bày mỹ phẩm, giày mũ, áo quần. Chợt có tiếng gọi:
- Hương Hoài! Tuyết Thanh Trúc! Mai Hồng!
Mai Hồng reo lên:
- Aí chà chà. Anh Đan, anh Đan kìa!
Hoài nhận ra anh, thoáng mắt giao nhanh reo vui bằng mắt. Thấy Hoài nhìn, khuôn mặt xạm nắng gió phong sương khuya chiều, nhuốm vẻ ưu tư của anh, dịu hẳn đi trong nụ cười ấm nồng. Nàng nhìn anh đăm đăm, cảm thấy lòng thích thích, thương thương sợi tóc ương ngạnh, bỏ mái lòa xoà trên trán không đội chiếc nón sắt như mấy lần trước. Thương viền mi cong vút chơm chớp mắt nhìn trìu mến, nụ cười rộng mở. Thương từng khóa sol in rải rác trên áo sơ mi màu vàng nhạt. Cà vạt nâu lủng lẳng kẹp cài. Quần tây mầu biển đậm, và đôi giày da thời trang đen bóng.
Biết nói thế nào cho trung thực nhỉ! Lần đầu tiên, Hoài thấy Đan mặc thường phục; Dễ thương ư? Hoài không chối cãi điều đó, tuy nhiên anh mất đi một nửa, dáng dấp hùng tráng của chàng trai đượm phong trần. Điều đó đúng thôi.
Nếu các anh ra trận, mà mặc áo sơ mi ca rô hoa hòe, quần nhung dạ hội. Có cầm súng cối súng trường, lưng nịt đầy đạn, mang giày nhung, đầu đội "nón bành nhung" chăng nữa. Vẫn yếu xìu... Còn đánh đấm gì cơ chứ. Hoài thấy phục người đầu tiên, đã sáng tạo ra loại Quân Phục cho Quân Nhân mặc. Sao mà hợp tình, hợp lý thế không biết!
Đan đến bên các cô, cười thân ái. Hỏi:
- Các em có bận đi đâu không hở?
Tuyết Ngọc, hay tên Ngọc Thanh Trúc (Trúc đặt đủ thứ biệt hiệu mà) nhanh miệng đáp:
- Không anh. Tụi em đi tà tà.
- Vậy thì tốt. Các em vào ăn tô bún, uống ly nước nhe.
Họ quay gót theo Đan vào tiệm. Bữa ăn dẫu tình cờ nhưng đầy đủ các món. Khung cảnh ấm cúng thanh lịch. Nhạc chọn lọc mở nhè nhẹ êm êm, với bình hoa Lys cắm trên bàn phủ khăn trắng, thì còn gì bằng. Có các anh: Thọ, Văn, Quân, Bảy, Hộ, Tí, Hà, Đan.

_ * _


Kính mời quý độc giả xem tiếp… Chương 13
Trân trọng,
Ái Ưu Du
#68 Posted : Friday, January 5, 2007 7:08:33 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

GIỮA HAI LẰN ĐẠN

Chương 13

LÍNH GIAN KHỔ


Một buổi sáng, cuối mùa xuân dìu dịu, tiết trời êm ả, dưới làn nước lấp lánh ngàn tia nắng mặt trời ấm áp. Chung quanh núi non hùng vĩ, Con thác nho nhỏ len lỏi trên khe núi cao, chạy dài xuống triền dốc tắm nắng xa xa.
Lũy tre làng bao bọc vườn quê, lác đác giữa cánh đồng khô, mục đồng lững thững trên lưng trâu. Bầy cò trắng bay lên, đáp xuống bên bờ đê. Gà gáy te te sau bụi chuối, vườn môn. Chó buồn sủa gâu gâu rời rạc. Thôn xóm tiêu điều, vắng lặng và buồn tênh. Vài sợi khói lẻ loi uốn lượn trên mấy nóc nhà tranh, còn ướt đẫm sương mù.
Tiếng máy Phát Thanh ủy lạo Đồng Bào cùng Chiến Sĩ, được chị em trong Đoàn cất lên từng hồi, theo đôi cánh bình minh run rẩy. Vang vọng lên tận đỉnh đèo, đến ngàn non. Ngày thật sự rạng rồi, tách bóng đêm kinh hoảng u tối, đối lập với nền trời trong sáng chói nắng, thắm hồng trên đầu cây ngọn cỏ khắp nơi nơi.
Trong buổi họp, sau khi anh Vị đọc tin tức xong, anh Cương ra lệnh mỗi người, phải làm ít nhất vài bài văn, thơ, truyện ngắn, tùy bút, vui cười, quan điểm, nhận định, vân vân...
Trưởng phòng duyệt xong, sẽ in thành Báo, Nguyệt San, phát cho anh em chiến sĩ, gửi đồng bào. Và tự phát thanh trên haut parler, để ủy lạo tinh thần, yểm trợ đồng bào, tỏ lòng biết ơn anh em chiến sĩ tiền tuyến, đang xông pha ngoài trận điạ.
Ôi! Một con bé chết nhát thò lò mũi xanh, tóc thề thuở xưa xanh mướt, nay héo rụng hầu hết. Tuổi con bé chớm lớn nhưng tinh thần sa sút trầm trọng. Như cột thủy ngân tuột đáy chôn dưới tuyết. Một con bé run như cầy sấy, giữa binh đao rổn rảng, điếc ù tai, nhức nhối, tim em luôn bị dày vò. Con bé kém sút hẳn đàn anh, đàn chị, đầy dũng lược can trường. Họ quyết liệt chiến đấu, rất tài hoa ở chiến địa đại loạn. Còn con bé tép riu run run, thua sút hẳn họ về mọi phương diện.
Mà, Trưởng Phòng bắt phải cầm cây bút, viết kịch đời thiên bẩm. Nặng hơn ngàn cân, để, ủy lạo, yểm trợ chiến sĩ! Thật là trò hề tháu cáy, lạnh buốt xương sống! Múa rìu qua mắt thợ. Quả là "nhố nhăng nố bịch"! Quê không chịu thấu.
Nàng nghĩ: Mình chuyên báo hại, báo cô, báo đời. Làm thinh, làm biếng, làm tàng, làm bộ, làm tịch, làm nũng, làm le, làm dóc, làm lơ. Chớ biết chi hơn mà “làm báo"!
Hoài bắt đầu viết nhật ký năm 1956, 1957. Kể từ nay, Hoài sẽ viết rất trung thực tất cả CÂU CHUYỆN CÓ THẬT, KHÔNG THÊM BỚT, ghi lại rỏ ràng, với lòng gắng bó keo sơn, từng chi tiết hiện hữu.
Ghi sự góp mặt từng người, từng nhân vật mình quen, biết, lẫn không quen, đưa vào ĐỜI SỐNG THẬT. Không hoa hoè, để trân trọng nâng niu giữ gìn, làm báu vật, kỷ niệm duy nhất đời mình. Thật bối rối khi anh bảo viết bài, vì:
1.- Về việc hư cấu trong từng câu chuyện. Thì xin thú thật là Em chịu thua. Không có khả năng đó.
2.- Trong từng câu chuyện của mình, hầu như 95% là ghi lại những chuyện hòan tòan có thật. Em cũng biết, làm như thế thì dễ mất lòng, dễ xa nhau. Cho nên, chi bằng cứ lấy tên mình ra mà viết, khỏi sợ ai buồn.
3.- Theo thiển ý của mình, thì có sao nói vậy, người ơi! Mình không biết cách hư cấu thiệt. Nên, những chuyện trong chiến tranh, đều bị coi là...khung tả.
4.- Em muốn ghi lại SỰ KIỆN LịCH SỬ chính xác. Bởi những điều đó không thể tự ý ta hư cấu. Ta không thể tạo dựng nên dữ kiện, mà chỉ ghi lai Đúng Đắn những SỰ KIỆN lịch sử. Thế thôi.
5.- Cũng như mình không LÀM NÊN Lịch Sử. Vâng! Chỉ tường tận nắm rỏ vấn đề ghi lại khá chính xác.
6.- Chuyện đời Lính- Có sống mới biết ra sao. Không sống không biết, làm sao dám hư cấu?
6.- Nếu như chuyện thật sờ sờ ra đó, mà mình viết LẾU LÁO, coi như là bôi lọ nhau rồi còn gì văn chương chữ với nghĩa ha. Nên em chỉ biết viết lại sự thực, chứ không biết hư cấu. Thấy thì viết là thấy. Nghe thì nói là nghe. Biết sao thì viết vậy.
7.- Chính vì thế mà đa số bạn ưa viết truyện tình, làm thơ chuyện tình. Chuyện tình dễ dàng tả ân tả oán hơn. Muốn cho nhân vật đó sống thì sống, mà không thích thì cho nó "ngũm", (hư cấu là đấy phải khg?) ít "đụng chạm" tới ai, cho dù ai đó khó tính nhất. Phải không nào?
Sau nhiều lần phát thanh và rải truyền đơn, dán bích chương. Ủy Lạo Chiến Sĩ Cộng Hòa Việt Nam; Qua những bài ca mang đầy hương sắc ân tình hoài nhớ. Nhạc vui buồn tác động mạnh mẽ, gợi lên nỗi buồn bẩm sinh kỳ diệu. Hoài đắm mình trong cô đơn.
Vì sao? Có phải vì con thác nhỏ, len lỏi trên khe núi cao, dội lại lòng mình, tiếng thác nước chảy muôn trùng, bên đồi thông xưa năm nào, xa cũ lắm?
Các cô rủ nhau vào chợ mua cái nầy, cái nọ. BAO MẸ GIÀ dày dạn nắng mưa. Mẹ có nhiều kinh nghiệm chiến tranh, xảy ra liên miên trong cuộc đời vũ bão. Họ chán ngán lắc đầu, tắc lưỡi ái ngại. Họ thương thương MẤY CÔ LÍNH mới tò te nho nhỏ.
Những BÀ MẸ QUÊ bàng hoàng, nhìn họ đầy kinh hãi. Như thấy kẻ lạ, từ hành tinh quái gở nào rơi xuống. Nơi khỉ ho cò gáy nầy, hầu như chưa xuất hiện "Lính Cái" non đời tung tăng sao?!
Ờ! Thời xưa "liền bà con cấy" ở trong phòng the trướng rũ, cửa kín song cài. Chứ có mô mà "xông pha" chi lạ rứa... Con gái thời buổi loạn ly chừ... Chi mà lạ!?
Các cụ vội gói ít xôi đậu, xôi bắp, đùm trong tàu lá khô. Gói cho nải chuối, bọc kẹo. Cho củ khoai lang nóng, đùm trong tàu mo cau cứng. Họ dúi vào tay con bé Hoài nhỏ nhất đàn. Các cụ già đời, nói:
- Ăn đi con!
- Ăn kẽo đói.
- À không... mời con.
- Con gái, đi lính làm chi!
- À, à... ăn cho vui.
Họ e ngại cười cười ngỏn ngoẻn, móm mém hàm niếu ngậm trầu. Như bị lỡ lời, sợ làm đau lòng bọn trẻ.
Bất ngờ và sửng sốt, Hoài cảm động, tay run run cầm những gói quà tình nghiã; Con bé nói câu cám ơn lí nhí trong họng, khóe mắt bờ mi, mọng mọng, nặng nặng, rưng rưng...
Ồ! Làm con gái... cái gì cũng cấm. Đi đứng phải uyển chuyển, nết na. Không leo trèo trên cây. Không chạy nhảy như ngưạ. Không ăn to nói lớn, cười ha hả! Không xù mặt ra. Ngủ không nằm ngửa tênh hênh, xoạt hai chân, giăng hai tay ra giữa bộ ván. Dù trời nóng hầm hập, mồ hôi rịn ra dưới lưng, cũng cấm. Má nói:
- Con gái, không được nằm trơ ra vậy! Con không nằm cong queo như con tôm hùm. Chân không co lên tới ngực. Không nằm sấp tay ôm lấy đầu. Chỉ nằm nghiêng, hai chân duỗi thẳng, trở bên nầy, qua bên kia thôi.
Nhất là “kỵ” như các cụ già vừa nói: “Làm con gái, không đi lính” được sao!?
Hoài dìm bộ óc xuống cơn mê, nhưng biết mình chìm đắm trong nỗi dày vò, phiền muộn có thật. Có nhiều dao đâm qua tim. Khi tự mình thắp sáng ngọn nến; Cho niềm an ủi, cố gắng vui vẻ, tăng hy vọng, dẫu quá lung linh và tê tái.
Hoài chán ngán ngồi trong cabin, dõi mắt nhìn theo đàn bươm bướm vàng, do dự trước giàn hoa thiên lý xanh xanh, bên phố nhỏ. Lòng buồn vời vợi.
Văn là thần tượng của Thu Hoa, Hoa thường nói với đám bạn gái:
- Đừng nghĩ tưởng Văn là một hạ sĩ quan, chắc là học hành chưa tới đâu. Coi thường anh. Là lầm đấy. Lắm người, chẳng có chức tước như anh, mà có đức tính tốt, kiến thức sâu rộng, chính xác, có trình độ hiểu biết, lịch lãm, tế nhị. Anh chưa chắc đã thua giáo sư, thua triết gia nào. Cho nên, đừng ỉ ta có chút kiến thức, mà kiêu căng, coi trời bằng vung. Tâm tư nhỏ nhen, hẹp hòi, cư xử hèn hạ chẳng giống ai. Đừng vì mảnh bằng, và sự sang hèn bên ngoài, vơ đũa cả nắm, khinh miệt người khác.
Nhìn anh mang cặp kính sáng trong, tăng thêm phần trí thức đạo mạo, mũi cao miệng rộng, khuôn mặt chữ điền, cằm đôi, ngực nở vai vuông tráng kiện. Chân anh đi chữ bát, cầm đũa tay trái, đánh đàn tay trái, khiến người ngồi bên khó chịu đôi chút.
Văn và Hoa, tâm đầu ý hợp nhiều mặt, hứa hẹn yêu thương bền lâu, xây dựng tình yêu, trên nền tảng hôn nhân gia đình ràng buộc. Họ quen nhau từ lá thư EM HẬU PHƯƠNG, thân gửi ra ngoài biên ải, cho Anh lính sơn khê nơi TIỀN ĐỒN heo hút.
Giấy mực học trò thuở đó, lao xao hình ảnh cô em lớp Đệ Nhị hiền hiền, cúi đầu mơ mơ, tô tô vẽ vẽ, chân dung anh lính miền Nam Việt Nam vui tính, hiền hoà, thanh lịch và tài hoa, trên từng nét chữ con con. Sao mà dễ thương lạ!
Văn hồi âm: "Em bé ơi! Những hình ảnh em tô son thiếp vàng đó. Dành riêng cho lính kiểng, lính kèn, lính văn nghệ tù-và. Thực chất anh ở đây cay đắng, nhọc nhằn, tan nát trăm bề, từ thể xác đến tâm hồn. Tình cảm. Đời sống cộng khổ rơi rớt từng khúc, từng khúc một, trên suốt con đò. Dọc hai bờ quê hương binh biến rồi. Còn gì nữa đâu em! Còn gì nữa đâu, mà hò hẹn trăng sao với đời. Buồn tủi, hờn đau biết bao nhiêu. Em bé ha!"
Thế là thư bay đi thân ái, thư bay về hân hoan, mỗi lần trao gửi. Văn vui vẻ mở lòng tan hoang ra, đón cô em nhỏ đầy chân thực và trìu mến.
Từ thành phố Đà Nẵng lên xe đi Quảng Ngãi. Rồi từ đó lần đầu tiên, Hoa cả gan đạp xe đạp, lần mò lặn lội tìm hỏi mọi cư dân, cô đến Nghĩa Hành thăm anh. Cô buồn buồn báo tin thi hỏng. Càng không quên báo thêm một tin giựt gân:
- Em sẽ đăng vào lính, để có dịp gần anh.
Hoa đèo sau porte bagage quà thổ sản: Gà luộc. Cá trê nướng lá gừng ngon bá cháy. Đường phổi, đường mía, đường phèn. Ít cà phê. Hai lố thuốc Basto xanh. Một áo len màu rêu. Vài chiếc khăn mouchoir tự thêu, thoang thoảng mùi nước hoa dìu dịu.
Lần đầu tiên vừa gặp em, Văn sững sờ, cảm động đến nghẽn đường máu, run run, vui mừng, cuống quít trào lên tim; Muốn bể óc, bể phổi. Không ngờ “em tôi” chí tình, nhân hậu. Và sao mà “nốp bần”, xinh xắn quá!
Văn ngây ngất với hạnh phúc bất ngờ, như ông Trời ưu ái, rót từ thinh không xuống đời LÍNH TRƠN cơ cực, một giấc chiêm bao diễm ảo thiên đường.
Anh loay hoay, xách mấy món quà lỉnh kỉnh vào doanh trại, vui vui, mừng mừng, dậy hân hoan trên đôi má rám nắng. Miệng anh cười toe toét. Khi lính bạn cùng đơn vị búng tay, tróc lưỡi nhìn anh, đá lông nheo kịch kịch. Họ kêu nhỏ è è è... í í í...
Họ huýt gió, xuýt xoa tán thưởng, trầm trò khen mình xứng đôi. Họ tha hồ chọc ghẹo tơi bời hoa lá. Khi ảnh "cu, gù" được cô gái xinh đẹp ở thành phố, lên tận đỉnh đồi thần sầu tróc lỡ vết đạn bom. Dưới mây trắng cỏ vàng héo uá chốn nầy.
Gai khô đâm vào hông, đâm vào lòng bàn tay anh kẹp cứng trái mít dừa. Ấy vậy anh không cảm thấy đau, không nặng. Lòng anh hẫng lên chín tầng mây, mà mơ mơ, vui vui, say say nồng độ dấu ái hoan ca.

_ * _

Kính mời độc giả xem tiếp… Chương 14
Trân trong,
Ưu Du_ * _
Ái Ưu Du
#69 Posted : Friday, January 12, 2007 2:32:34 PM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

GIỮA HAI LẰN ĐẠN

Chương 14

TRÊN QUÊ HƯƠNG ĐIÊU TÀN


Năm 1962 –
Đoàn công tác về ngang cầu Trắng, trên nền trời xanh lơ, gom từng cụm mây bàng bạc, hồng thắm, vàng thau lênh đênh trôi. Màu vàng chói sáng của dáng xuân, làm rạng chân trời xám. Đường chân trời tách bạch, mở tầm mắt con người, hướng về mọi niềm hy vọng tốt đẹp ở tương lai.
Dù tai nghe hoài tiếng đại bác gầm gừ, súng cối, đạn nhỏ xé lẻ. Bạo tàn sôi sục lòng hờn căm ngoài bãi chiến trường... Thì nơi đây, nhịp sinh hoạt một ngày, như mọi ngày, trở lại bàng quang đến lạnh lùng.
Xe qua cầu. Hoài tựa đầu vào khung xe, nhìn vu vơ ra ngoài. Bỗng nàng thấy một nhóm lính, đứng trên lề cầu vẫy tay chào. Các bạn trên xe cũng vẫy tay lia lịa, chào lại.
Xe ngừng ở khu chợ nhỏ, chờ xin giờ lên doanh trại bộ Tổng Chỉ Huy. Tất cả nhảy xuống xe, họ thả bộ đi lung tung.
Hoài ngồi bu ồn xo trên xe, chán nãn nhìn kẻ qua người lại. Lúc đó, Trực tìm đến gặp Hoài gợi chuyện làm quen. Anh quân nhân nầy, Hoài biết tiếng, mà chưa bao giờ thích làm quen.
Đến giờ lên đồi, anh chị vội vàng leo trèo lên sau đuôi xe, bò từ từ trên mấy thùng gỗ, đựng dụng cụ văn nghệ. Trúc dẫm trên kèo cột, sàn, sân khấu, đã tháo rời bù lon, ốc vít. Thân Trúc lắc lư nhún nhảy xóc mạnh theo từng ổ gà, ụ mối, bờ chông đã tháo. Bò đến bên Hoài, ngồi cheo leo trên thùng gỗ đựng kèn, đàn. Cô nói cười vui thích:
- Anh Đan hỏi thăm bồ quá sá. Ảnh gửi lời chào Hoài. Ah! Đan là bạn thân của Trung úy Trọng, Trọng bồ mí Trúc đấy.
- Trúc nhiều bồ quá. Nhưng ảnh là bồ ruột hay... là bồ da... của Trúc vậy?
Thanh Trúc véo vào má bạn, cười toe toét:
- Bồ da. Còn Hoài nghĩ sao về anh Đan?
- Mình mới gặp anh ấy một lần ngắn ngủi. Bồ hỏi câu nầy, vội rồi.
- Ô hay! Ảnh nói đúng về Hoài, nên mình ngỡ... cô cậu thân nhau lắm chứ.
- Một nhầm lẫn đáng tiếc.
- Hoài chê anh Đan điều gì thế?
- Chê gì đâu. Ảnh dễ thương, có vẻ buồn, và nhã nhặn quá đỗi.
- Thì ra... Sao lúc nãy không đến bên cầu, chuyện trò giây lát, với anh ấy nhỉ?
- Để làm gì?
- Đan ngỡ là ảnh vô duyên, không truyền cảm đến "ai". Dù ảnh chỉ ước mong làm một người anh, của Hoài.
- Anh Đan nói như vậy à?
- Ừa.
- Chao!
Phiá trời Tây mây giăng mờ mờ, là trại giam hình sự kiên cố, lao tù lạnh lẽo, trầm mặc, cô liêu và u ám, có từ thời Pháp thuộc lâu đời, nhìn như hoang phế. Gần đãy là trường sơn xa tít tắp, núi tiếp núi, trùng trùng điệp điệp chập chùng. Đồi tiếp đồi mù mịt sau những bè mây trắng bềnh bồng, chen cánh những đài mây ngà lả lơi.
Quả đồi nầy cao rộng kinh khiếp! Rừng cây gỗ ngút ngàn cao lớn dị thường, vươn lên sừng sững. Dưới gốc đại thụ đủ mọi thứ măng le, tre, nứa, giang, dây leo, không tên mọc um tùm, chằng chịt. Thế mà vẫn có con đường mòn, láng trơn trũng xuống, cận dòng suối đỗ dồn. Hệt như lòng chảo Điện Biên Phủ.
Dốc đứng đồi nghiêng cheo leo hoang tàn. Lô cốt Minh Long kẽm gai trại lính hầm hào, giăng mắc chằng chịt. Điếm canh chênh vênh, lắc lư gió táp mưa gào, càng xác xơ. Rừng sậy già rậm rịt um tùm lô xô, thân ống sậy như lóng mía. Cỏ lau sậy bông màu trắng to xù, cong cong trong gió bay xào xạc. Giống cái đuôi con sóc leo trèo trên những cây sấu màu vàng ửng, dưới tàng lá tỏa rộng.
Ở đây toàn vách đá cao lênh khênh, cheo leo. Mịt mùng. Núi, rừng, đồi, suối, ao, đầm. Cỏ lướt cỏ. Cây đan cây. Cành đan cành. Lá đan lá chằng chịt. Quấn quít. Vượn hú dài kêu đàn, thảm thiết buồn bã. Những con quạ mình to đen bóng, xoè hai cánh rộng giăng ra thật lâu. Thỉnh thoảng chúng ngóng cổ lên cao, hoác miệng kêu "Quạ! Quạ!", lại gù gù lưng, cúi cổ nhảy từng buớc cụt, như cô gái già đơn điệu nhảy cò cò.
Không hiểu ở đâu, nước từ thượng nguồn, dội xuống khe suối rộng xuôi chảy. Ven bờ dừa nước, lau, sậy, năn, lát gỗ có vân đẹp, gốc bành lớn, hoa màu vàng nhạt, lá kép lông chim đầy duyên dáng mọc chen cánh.
Một phía suối nước, bỗng trổ màu nâu hồng lờ lợ đục, nước lờ nhờ, giống màu đỏ sông Hồng, trôi trên xứ Quảng. Thấy mà kinh hồn.
Khi mặt trời to như cái nia, đỏ rực nhưng không nóng gắt, dần dần êm ả lặn về phiá chân đồi, đêm văn nghệ bắt đầu.
Toàn ban đồng ca nhạc phẩm "Viễn Du" xong, Thanh Trúc đơn ca "Nhớ một chiều Xuân" và "Chiều mưa Biên Giới". Nhạc Nguyễn văn Đông mà ca ở địa đầu giới tuyến, thì “nhức nhối con tim”, còn sức lôi cuốn quyến rũ nào bằng.
Nhất là do giọng ca Thanh Trúc điêu luyện cất lên, ngút ngàn run rẩy thở qua rừng hoa dại ven núi. Sau những dãy trường sơn tím thẫm, nhấp nhô điệp trùng. Sau những tầng mây loáng bạc như một dãi lụa mềm, uốn quanh chân trời ngan ngát hương hoa bưởi trắng muốt, hoa ngâu thơm thơm. Trên muôn vì sao lấp lánh, vần vũ dưới kẽ mây trắng bồng bềnh trôi; Thì ngọt ngào, trìu mến, vỗ về, cuốn hút người nghe xiết bao!
Hoài không nghĩ nhạc Nguyễn văn Đông bị cấm, vì khi ca lên "uể oải nhụt chí tang bồng nam chiến sĩ". Quân Nhân Cộng Hoà Việt Nam, có trình độ thưởng lãm và lòng yêu nước thiết tha; Dù đã nghe nhạc hay không có nhạc phản chiến, họ vẫn một lòng chung thủy, giữ gìn non sông gấm vóc. Đến giờ phút cuối đời. Vì đó là... "Nghề của chàng mà lị"
Sau đó Hoài ca bài "Nếu vắng anh" của Anh Bằng, Thu Hoa giao duyên bài thơ "Cần Thiết" của thi sĩ Nguyên Sa. Lời thơ ý nhạc súc tích, hòa hợp, dễ thương làm sao. Khi em gái ca ngâm cho những chàng trai ở chốn quan hà nghe. Thì thật là quyến luyến gợi tình và cảm động xiết đỗi!
Hoài độc vũ "Đường Lên Sơn Cước". Nửa số dân ở đây là người miền núi, mặc xà rông, đóng khố, cà răng căn lỗ tai. Sự yêu thích hoan hô nồng nhiệt, len giữa họ rất nhanh. Do yêu cầu, Hoài vũ thêm bài "Dămbalada", để đáp lại tấm thịnh tình người dân mộc mạc đơn sơ chân chất. Hứng thú, Hoài múa khúc nghê thường sống động thực sự, chứ không phải chỉ xiêm y, nhạc cụ, như người đẹp trong tranh tĩnh vật.
Đeo gùi lên vai, tay cầm xà gạt, lưỡi bén ngọt, làm gậy tốt, vừa là vũ khí hộ thân. Ở đây, người Thượng vào rừng sâu lấy mật ong, bẻ măng tàu, măng mụt, nấm, hái hoa lan, cây quả, chặt nứa, giang, mây và củi, là chuyện nhỏ.
Họ tập trung thành một đoàn theo hàng dọc, bước đi chậm rải, gùi mấy thứ kiếm được, họ xuống phố bán lấy tiền, đôi khi đổi gà vịt lấy chó. Trên môi họ ngậm điếu đóm, cần tẩu cong cong lả lơi như dấu ngã. Họ chuyền cho nhau từng hơi thuốc vặt. Tu rượu cần như điên, mím miệng nhổ bãi nước bọt văng ra xa gọn gàng, chưa từng thấy.
Thay đổi y phục xong, cất áo váy vào túi xách. Phiá sau hậu trường bên trái, dành riêng cho các cô, không ai lạng quạng đến đó. Làm việc ngày đêm bên nhau, dù anh em một phòng, nhưng không được phép "tù ti tú tí, hú hí", là a lê hấp... ở tù cả đám.
Có luật lệ tuyệt đối nghiêm cấm chuyện "lăng nhăng quờ quạng" rỏ ràng. Tưởng dzăn nghệ dzăn gừng thì... tình nghệ sĩ "cho pha" mấy cái “chiện” tình cảm lẻ tẻ.
Ấy là nhầm to. Ban đầu mới "nhập gia tuỳ tục" chưa đi công tác, Hoài lo sợ "cá mè một lứa". Nhưng khi ăn ở chung trại. Có quân kỷ đâu ra đó trên ra dưới hẳn hoi. Không loạn xà ngầu. Hoàn toàn không như vậy. Nếu có "phải lòng ai", thì hẹn hò nhau đi ra ngoài đường, ngoài ngỏ. Xa thật xa khuất dạng doanh trại, thì OK!

_ * _

Kính mời quý độc giả xem tiếp chương 15
Trân trong,
Ưu Du
Ái Ưu Du
#70 Posted : Sunday, January 14, 2007 5:49:54 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

GIỮA HAI LẰN ĐẠN

Chương 15

TÌNH ĐỒNG ĐỘI GIỮA KHUYA MUÔN TRÙNG


Nàng ôm túi vải ra phiá sau hậu trường thì gặp Trúc, Trọng và Đan. Sự có mặt bất ngờ của Đan, dần tan biến nỗi u hoài trên sóng mắt Hoài, như rạng đông làm tan biến chân trời đêm.
Trong thánh thất hoang dại tâm hồn, Hoài vui mừng chào đón anh, bằng đuôi mắt nheo một đường dài thật lẵng, đẩy đưa nụ cười duyên mời gọi thân tình, làm xinh thêm khuôn mặt:
- Ô! Em không ngờ... gặp anh ở đây.
- Biết các em lên đây từ sáng. Anh tìm hoài, mà không thấy đâu.
Nhanh nhẹn ngắt lời Đan, bàn tay trái Trúc nắm chặt, có ngón tay trỏ giơ lên, xỉ xỉ về phiá Hoài, cô cười cười:
- Hoài trốn, khi khám phá ra ngọn suối Thần, ở bản doanh. Còn em hi hi... có hẹn.
Trúc nói và cười tít mắt. Cô đi xuống mấy bậc thang gỗ, phía sau sân khấu, đến câu lạc bộ với Trọng. Hoài ngồi lại trên cầu thang, choáng lối đi lên đi xuống.
Đan đứng kề bên, một chân gác lên bậc tam cấp, đôi giày botte de saut bóng láng. Áo quần treillis mầu xanh của lính phong sương, bỏ trong thùng nai nịt cẩn thận. Một tay anh ôm nón sắt, một tay chống lên sườn. Miệng anh phì phà điếu thuốc lá không đầu lọc. Ngoài ra, anh không mang cấp bậc gì.
Nhìn nhau giây lát, biểu lộ niềm khát vọng kỳ phùng, đơn sơ chân thật. Hoài mỉm cười, nheo nheo mắt ướt trêu ghẹo:
- Anh ở đây, coi chừng chết hết mấy đoá hoa rừng à nha. Đừng có léng phéng, Thần Núi, Thần Hồ, sẽ không buông tha anh đâu.
- Em muốn hỏi điều gì nào? Anh nghe mấy bạn nói: Em xinh đẹp quá. Ngoan, hiền. Và, sao mà... dễ thương vậy!
- Anh có cho em đi tàu bay giấy không. Hở Đan?
- Anh tin Hoài đủ thông minh, để lĩnh hội các khía cạnh khác.
Hai tâm hồn nhạy cảm đồng điệu, gặp nhau ở tần số cảm thông, thấu hiểu, dễ trở thành đôi bạn, hầu ngỏ lời tâm sự. Sau khi biết sơ lượt về Đan. Nhìn thân phận quần thô vải cứng, giày sờn, Hoài không hơn cô bé lọ lem là mấy. Ngạc nhiên ngẩng nhìn anh, giọng nói Hoài pha chút buồn rầu:
- Không ngờ anh là con nhà giàu có, ở Huế.
- Con của nhà giàu, chứ có phải tự anh giàu đâu.
- Lại không ngờ... anh là... sĩ quan thế nầy.
- Vậy, em ngỡ anh, là gì nào!
- Bởi vì, em thích người lính trẻ bình thường, có đôi mắt u sầu, đã lội qua sông Nghĩa Phú ngày nọ. Trên cầu vai không đính cánh mai vàng, mai bạc nào.
- Đó là những danh xưng phù du...
- Em thích bình dị, khi nói chuyện với anh.
- Anh nói chuyện với em, không được bình dị sao?
- Em là lính mới tò te. Còn anh là sĩ quan đã từng trải. Con nhà giàu, ở Pháp về.
- Sĩ quan hay lính mới, dính dấp gì đến chuyện chúng mình quen nhau nào? Có quen biết nhau lâu ngày, em sẽ hiểu. Anh không thiết tha, trọng vọng điều đó. Một lần nữa, anh mời em, vào Câu Bộ gần đây. Ở đó, em có thể biết ít nhiều, về môi trường các anh đang sống.
Hoài rảo bước bên anh bạn tình cờ, dẫn đến cho mình niềm vui lâng lâng thú vị. Cố tránh trong lòng mọi huyễn tượng, như muốn bừng lên, theo ánh mắt ngời sáng của chàng trai phong sương và văn nhã nầy. Một tình bạn dù chưa ủ đúng độ nồng, như hũ rượu qúy chôn bách niên. Nhưng đủ ấm áp nồng say, đủ đánh bóng tình tri kỷ nơi biên cương.
Câu Lạc Bộ vừa đủ rộng, các bàn hầu như kín chỗ. Đan dẫn Hoài vào ngồi bên bạn thân quen. Mấy cô nữ quân nhân lạ, liếc mắt trề môi, nét mặt hầm hầm, xù ra. Họ miễn cưỡng kéo ghế dịch xa xa, đi chỗ khác. Huyền Nữ, Thúy, Vân, Liên, nhìn bọn xướng ca, với đôi mắt vô loại thị dân, miệt đời khinh rẻ.
Hoài không hiểu, trong hoàn cảnh hiện tại giống nhau. Cùng một lý tưởng, hoài bão. Môi trường chung, quan điểm chung và lập trường cùng ý chí đó. Ta có khác gì nhau, mà "hách xì xằng" quá vậy?
Chưa chắc ai có tư cách, đạo đức, tế nhị, khôn ngoan, thấu hiểu. Ai hơn thua ai. Đừng vì cái lon to nhỏ, mà nhìn đời bằng nửa con mắt! Bạn à!
Ngồi bên Trưởng Phòng 5, là bạn đồng môn của Đan, Đan gọi thêm ít món ăn nhẹ hợp khẩu vị, rồi nói với các bạn:
- Ưu Thiên đã nói câu nầy: "Ái ưu, cũng có khi nhàn. Thì tiêu khiển trong tiệc rượu, cung đàn, coi cũng nhã". Có phải không các cậu? Hôm nay, tôi hân hạnh mời cô cậu ngồi chung ở đây, một phen. Gọi là có chút tình tri kỷ bạn bè. Các bạn đồng ý chứ!
- Có điên, mới không đồng ý.
- Gọi chị Sa tính tiền. Dứt điểm chỗ nầy cái đã.
- Ơ! Anh Đan mời bạn bên bàn đó. Chứ chúng tôi ngồi bên bàn nầy. Không phải là bạn của các anh sao? Nhất là có người đẹp Huyền Nữ, thân thương của ta đây nè.
- Phải quá đi chứ.
- Ây. Các anh chị ơi! Chúng mình tự động kéo cái bàn nầy, nhập chung với bàn bển đi. Bển "dzui góa" mà hổng nhập bọn. Thì... cù lần ơi là cù lần. Há.
- Mau lên, kẽo anh Đan đổi ý. Thì buồn năm phút.
- Hay quá. Nam vô tửu, như kỳ vô phong mà!
- Tửu nhập tâm, như hổ nhập lâm.
- Tửu nhập tâm, xuất khẩu thành thơ mà.
- Tửu nhập tâm, cữu cuồng tạ thị.
Họ tự nhiên ăn uống, nói cười vui vẻ. Hoài nhìn Đan e dè hỏi:
- Ở đây không bị cấm uống rượu à! Anh?
- Không hạn chế, nhưng họ tự biết mình phải thế nào. Khí phách nam nhi, không cho phép "tửu nhập tâm, như cữu cuồng tạ thị". Em đừng lo! Trong hương hoa đôi khi cũng có chất làm cho mình say hơn rượu, đó em. Vài ly bia, thì đã sao!
Thế là, các cô và qúy bạn, vui đùa bên nhau, Đan quay qua Hoài, trìu mến mỉm cười. Giọng nói có ý thức sâu sắc, về nỗi khổ tâm của nàng:
- Theo anh nghĩ: Vì lý do đặc biệt nào đó, em phải lặn lội với cuộc sống, một cách miễn cưỡng. Lứa tuổi nầy, nhẽ ra, em là chim én, nếu không là con sáo lém lĩnh.
- Cám ơn anh. Ít ra, có anh nghĩ... đôi chút về em.
- Tình yêu và đời sống. Hai từ nầy khác biệt, nhưng ràng buộc mật thiết với nhau. Em à. Không nên thất vọng, có hy vọng mới nuôi sống mình, trên đường đời buồn ít hơn vui. Đó, Hoài thấy không? Anh lạc quan chứ! Anh muốn gửi đến em lời chúc thế nầy nhé: Dù trong thách đố, trở ngại nào. Em nhớ bình tĩnh, sáng suốt, có nghị lực để vượt qua. Anh ở phương nầy, sẽ cầu nguyện cho em mãi.
- Em không nói cảm ơn anh. Có lẽ khách sáo và dư thừa.
Hoài cúi đầu, nụ cười mỉm chi nở trên bờ môi vụng dại, khi Đan trìu mến trao cho nàng, đôi mắt mùa thu êm đềm.
Cơn lốc tình cảm thuở Đan còn ở bên Tây, làm tan nát tâm hồn tươi trẻ trước kia. Giờ rụng đi trong đôi mắt sáng loáng, ẩn sâu dưới hàng mi cong vút, thấp thoáng ánh chìm đục, say đắm mơ màng. Đan đắm mình trong khí ấm mùa xuân thu hút vuốt ve. Có mật ngọt và hương hoa. Có tia vui của ánh hào quang dọi sáng. Có khúc nhạc nên thơ êm mát, do gió núi trong lành lao xao nét tình xanh thoảng lại.
Tất cả rời khỏi Câu Lạc Bộ, khi kèn vang vọng báo hiệu nửa đêm. Trăng lá lúa mảnh dẻ, nhẹ nhàng trôi giữa muôn cuộn mây xám đục. Như con thuyền bồng bềnh, nhấp nhô trong tảng băng nức nẻ. Trên không trung ướt át sa mù buông lã.
Tiết trời mùa xuân miền núi buốt giá, sương muối rơi lộp độp trên ngọn lá ướt sũng. Ai nấy đều nứt môi, lạnh nổi da gà, run lập cập, xuýt xoa.
Đan cầm những khúc bánh mì kẹp thịt, mấy bi đông nước trà nóng. Đi một vòng thị sát đến từng điểm gát, anh đưa quà tận tay mấy chú lính. Thật vô cùng khổ cho người lính cơ cực. Ngày đi xuyên rừng lội suối, leo đồi, vượt núi.
Đêm đêm phải chia nhau ra canh gát cẩn mật, ít nhất là 3 giờ. Cơm không kịp ăn, không nước uống. Ngủ không tròn giấc. Khỏi nhìn đồng hồ. Họ chỉ nhìn trăng lên, trăng lặn, nhìn sao hôm, sao bắc đẩu, sao băng, sao mai. Từng giờ. Từng đêm. Khều nhau đổi phiên gát canh thâu.
Dẫu vậy, họ hân hoan, vui vẻ với niềm hãnh diện được làm anh lính Cộng Hòa Việt Nam. Thân thể rạo rực dưới sức lôi cuốn tình đồng đội an hòa. Nhịp bước nhún nhảy, coi vô tư tươi trẻ như cái ressort.
Đan đến với họ, trong lúc người lính cô đơn ôm súng, giữa khuya muôn trùng lạnh lẽo. Anh ân cần sẻ chia chút tình người. Tạo cho nhau niềm cảm thông sâu sắc, xích lại gần nhau. Gắn bó và thắt chặt tình đồng đội.

_ * _

Kính mời quý độc giả xem tiếp... Chương 16
Trân trọng,
Ưu Du
Ái Ưu Du
#71 Posted : Friday, January 19, 2007 2:24:52 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

GIỮA HAI LẰN ĐẠN

Chương 16

CHÂN PHƯƠNG


Sáu phụ nữ sơn cước gốc Cơ Tu, Xơ Đăng, Giẻ Triêng, Hrê, Kho, Mạ, quấn xà rông đủ màu, xuống thung lũng lấy nước theo hàng dọc. Đầu đội trái bầu khô rỗng ruột. Lưng gùi nặng. Tay chống trên chiếc gậy tre. Hai trái tai đeo vòng gỗ sơn trắng, to bằng cườm tay. Thấy hai trái tai to, căng mỏng dính của họ, Hoài hết hồn.
Họ ở trần, cặp vú no tròn, căng cứng, cổ đeo đầy dây cườm đủ màu sắc. Bà mẹ ở trần, cõng đứa con trước ngực. Đứa bé thò khuôn mặt đen đen ra khỏi địu, hai mắt to tròn, hàng mi dày cong vút, mũi cao, miệng ngậm chặt đầu vú mẹ, kéo xệ xuống. Bà mẹ mò cua bắt ốc thoăng thoắt, bắt cà cuống thật tài tình.
Mùa hè, cà cuống đẻ trứng ở bở sông, ao hồ, sông rạch. Trứng vàng bao quanh thân cây thuỷ sinh là là xuống mặt nước, mặc thuỷ triều lên xuống. Chúng sống dưới rễ cây bần, cây lúa, cây năn, cây sen, lục bình, cỏ lát. Cà cuống còn gọi là sâu quế, rận rồng. Cà cuống đực có tuyến cay nằm ở đốt ngực cuối, thân dẹp, màu nâu, vàng đất, đuôi nhọn càng nhọn, chích thật nhức. Cà cuống cái thịt chắc, béo. Ăn cà cuống rất thơm ngon.
Đan, Hoài, Trọng, Trúc, ngồi bên bờ suối khu A Sao. Họ thấy hai cô cậu Quân, Nữ, đang xù ra như lông nhím. Chắc đôi bạn nầy có vấn đề gì, gay go đây.
Mấy sơn cước ngây người ra, nhìn Trúc, Hoài, bằng đôi mắt nai tơ. Bỗng họ phát lên tiếng nói líu ríu, một tràng dài không sao hiểu được. Hoài nghe họ nói mà ngu ngơ, không hiểu! Chẳng khác nào người câm mù, chơi trò ném banh vào nhau.
Đan bật cười, khi nghe mấy cô gái Thượng nói chuyện, anh trả lời gọn gàng không lúng túng. Tiếng Tây tiếng Mỹ, Đan giỏi đã đành, tiếng Tàu anh nói được, tiếng Thượng anh giỏi hơn. Hoài không phục lăn sao! Đan quay nhìn Hoài, mỉm nụ cười tươi vui, giải thích:
- Mấy sơn nữ đó, đã nhận ra em độc vũ cho họ xem tối hôm qua. Thấy chúng mình ngồi bên nhau, họ hỏi khi nào thì em... “ốt dột” đi cưới chồng?
- Ốt dột cưới chồng... gì anh?
- Ah! Theo chế độ mẫu hệ, cô gái “mắc cỡ”, đi cưới chồng đó mà. Ta vào Buôn Làng đi. Có Lễ Hội đó. Gần đây thôi.
- Lỡ họ bắt em “ốt dột cưới chồng” thì chết. Anh! Trông em đen đen khá giống họ á.
Đan cười, hai tay đan vào nhau, đặt trên gối:
- Tuy vậy, họ biết trọng sự tự do. Nếu em nói không đồng ý, họ không hề ép. Em có toàn quyền quyết định. Họ chất phác, chân phương, mộc mạc, thật thà dễ tin lắm. Em à.
- Ta đến đó đi anh.
Bốn người đi ngang qua đồi trà xanh. Nhiều cô gái Thượng từ các nơi ở miền Nam trong trang phục Maya, Nahua, Hui Choles, và vài sắc tộc Mnong, Koho, Cil, vai đeo loại gùi đan thưa, trong gùi mây chất đầy bắp. Các cô hái trà nhanh thoăng thoắt như máy, vất ngược lá trà vào sau gùi gọn ơ. Họ kêu gọi nhau về Buôn Làng khai Hội. Mùa Hội lớn nhất năm của dân tộc miền núi.
Cạnh rừng, mây già bò leo chằng chịt, mây non ngọn cao ngọn thấp, tua tủa trồi lên cao. Những nhà sàn bằng gỗ thông, hoặc tre, mây, kêu cót két, mái lợp rơm, rạ, thấp lè tè. Vài căn nhà đất vách vôi cũ, loang lổ, liếp phên tre, nền đất nện chặt, trơn láng như tráng lớp dầu.
Trước vách, nhà nhà đều treo đầy chùm bắp, đậu, bầu khô, sừng trâu, sừng nai, xương thú. Nhà chủ tế treo cả đầu cọp, đầu nai khô. Ruồi đậu đen nghịt, bên cạnh những bao quần áo Mỹ Quốc Viện Trợ.
Khu xóm vây quanh nhà tôn độc nhất, sạch sẽ, đàng hoàng hơn, dành cho Tộc Trưởng. Ấy là nơi hội họp, cúng tế và Lễ Hội. Gần một cái ao chung, cá đớp động dưới chân bèo. Hoa súng, hoa sen, hoa lục bình, hoa rau muống, khơi lại trong tiềm thức Hoài những buồn thương, nhớ nhung vớ vẩn, ngút ngàn ngăn kéo kỷ niệm xưa.
Nơi đây, có cầu vo gạo, rửa ráy. Gà, vịt, heo, bò, chó, mèo, thả lung tung. Con heo mọi mẹ mập híp mắt, lùn xũn, lê cái bụng phệ, oằn lưng đi từng bước chậm rì, nó đến cọ thân vào cột nhà, kêu kẽo kẹt. Dấu chân nho nhỏ lún sâu, và hai hàng vú xệ quệt xuống đất, tạo thành những vệt lằn dài. Bầy con nhỏ lí tí, lủn chủn, ủn ỉn, ụt ịt chạy theo mẹ.
Mỗi căn lều lá, có một phần cuộc sống riêng. Suy tư buồn vui đau khổ riêng. Cùng những run sợ âu lo chiến tranh: Thì chung tất cả. Ông Tộc Trưởng ở trần, bụng quấn xà cạp. Nước da đen bóng như gỗ lim, tay chân chai cứng, sần sùi cùng nếp nhăn gợn lăn tăn li ti trên mặt, thì không làm sao đếm xuể tháng năm.
Nguời ta gọi ông là Già Làng, già khằn khú đế, sống dai nhách. Họ hong lửa trong cái vòng tròn mù mịt khói. Nướng nhiều xâu cá tươi. Xiên bắp đá trên cây que đen thui; Nướng chim rừng, gà rừng, nai, đã săn bẫy.
Theo từng hồi trống bập bùng, các chàng trai nhảy múa, chờ các cô gái xuất hiện. Có chàng mặc sơ mi, thắt cà vạt mà lại đóng khố màu, nhiều tua lủng lẳng sau mông. Mang giày đinh. Trông thật "tếu ngạo giang hồ"! Tức cười.
Đàn ông vẽ mặt nạ, cà răng căng tai, tay chân đeo đầy còng đồng, còng bạc. Miệng ngậm ống vố dài cong cong như dấu ngã, bập bập điếu thuốc mù khói.
Họ thích thú cài mỗi bên một điếu thuốc thơm trên vành tai, do Đan mời. Lâu lâu họ lấy xuống, hít ngửi rồi lại dắt lên chỗ cũ. Họ nhổ toẹt ra đất bãi nước bọt, trông đến gọn gàng khéo léo.
Có cô mặc chiếc váy đầm sặc sỡ, loại hàng Mỹ Viện Trợ, hoặc ở trần. Cổ đeo nhiều hạt cườm. Họ nhảy nhót vui đùa thỏa thích, làm long lanh những dây cườm nhảy lung tung, trên bộ ngực trần lắc lư, căng cứng, tự nhiên mà không khêu gợi dâm đãng.
Hai tai nông chiếc vòng đeo lớn hơn cườm tay. Họ ăn mừng to khi trái tai tự động đứt ra. Nhìn các cô gái nhảy mấy điệu dân tộc, với tràng cười hú phóng khoáng, tự nhiên không ngượng ngùng che dấu. Trống đánh mạnh, phèn la tù và, lục lạc dập dồn.
Họ càng hú, càng cười, càng reo hò, phóng đãng theo mấy vò rượu cần cạn sạch bách, sạch trơn. Họ uống rượu như tu nước lạnh. Họ ăn con cá, con gà đen thui ngồm ngoàm, vừa ăn vừa la hét, cười gào, hú hét sảng khoá. Tột cùng cơn vui chân phương hồn nhiên.
Sau khi chào bốn người, ông Tộc Trưởng dẫn họ đến các chàng trai. Trúc, Trọng, nhanh nhẹn chào đám đông, đứng xớ rớ một hồi, rồi lủi đi lúc nào. Đan và Hoài bị bao bọc giữa vòng vây.
Ba chàng trai trẻ lực lưỡng, đến trước mặt Đan và Hoài. Họ là mấy chàng trai ế vợ, hoặc còn "ở giá", đang chờ bạn đời đến rước về làm chồng. Một chàng trai nói tiếng Việt khá rành, nhìn hai người tỉnh bơ:
- Savadi! Chào cô. Tui là Cà Kré Xiu, Cô đẹp lắm, mà không nhảy hay. Không mở áo. Không hút thuốc ngọn. Không uống rượu cần. Làm sao cô cưới được bạn mình. Hớ.
- Tôi xin lỗi... Không...
- Không có chi. Cô đi đi. Tôi không ưng. Tui không bỏ chỗ ni, đi theo cô về nơi xe điện, nhà to chóng mặt.
- À phải... Anh thích ở lại Buôn Làng nầy hả?
- Ơi. Cô biết được cái ruột của tui. Hớ?
- Vậy thì tôi đi về.
Đám người dạt ra hai bên, đứng nhìn theo Đan, Hoài, dần khuất qua khúc ngoặt. Tiếng trống, tù và phèn la, xa dần, xa dần... Hoài cười khúc khích, trêu ghẹo:
- Có sơn nữ nào, dạm hỏi anh chưa?
Đan nheo mắt cười, đùa:
- Tối ngày đội nón sắt, đóng mặt nạ, ai chịu anh... Em thấy họ cả tin, chân chất, mộc mạc không? Đặc biệt là sự tự do, phóng khoáng vô cùng giữa thiên nhiên. Vượt lên mọi bạo lực hung tàn. Chỉ vì họ thấu hiểu giá trị tự do cao qúy. Họ thích cuộc sống du mục, phiêu lãng. Khốn khổ cùng cực đắng cay, cổ cày vai bừa, chiến tranh tàn sát, không làm họ chối bỏ, lìa xa cội nguồn. Ngược lại họ càng quyến luyến, yêu mến, nhớ thương quê cha đất tổ hơn.
Đỉnh sương mù mòng mọng quyện lẫn vầng mây lãng đãng, làm trắng xoá khu A Sao. Trăng lá lúa như chiếc thuyền nan bồng bềnh, nhấp nhô trên không trung bàng bạc lấp ló ánh sao. Điểm những trái hoả châu rải rác, đơn điệu. Bừng nở hoa quỳnh dao thoáng chốc trên trời, rồi tắt ngủm.
Cái lạnh cuối xuân mơn man ve vuốt, len lén bay về trong gió, thoang thoảng mùi thơm hương hoa núi đồi trầm mặc. Làm lâng lâng, tê lê bờ môi vụng dại run run, lạnh lạnh đôi gò má. Sương thấm ướt bao mái đầu ngả bụi rừng trường sơn.

_ * _


Kính mời quý độc giả xem tiếp... Chương 17
Trân trọng,
Ưu Du

Ái Ưu Du
#72 Posted : Tuesday, January 23, 2007 7:17:30 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

GIỮA HAI LẰN ĐẠN

Chương 17

BÊN DÒNG SUỐI CHAO ĐẢO


Sáng hôm sau, đơn vị tác chiến ăn mừng chiến công anh dũng Quân Đội Cộng Hòa Việt Nam 1962. Như J. César sau trận Pharsale. Như Napoléon sau trận Austerliz. Dù rằng chiến tranh vở bung ra, nhiều cột khói lửa đỏ rực khắp nơi trên đất nước. Thì nơi nầy, giàn nhạc trỗi dậy âm giai tuyệt diệu bổng trầm. Xoá nhòa mọi bi thương đau khổ cuộc đời, qua các tiết mục: Tuyên dương, Liên hoan, Văn nghệ, cho người lính quên đi gian khổ nhọc nhằn. Có khi chết chóc gần kề.
Dù nhắm chặt mắt lại, Đan vẫn thấy hỏa châu thả xuống góc đồi. Giao tranh bi thiết, bàng hoàng kinh dị. Nơi cường độ chém giết lên tột đỉnh. Tàn ác xâu xé, cuồng loạn nhất. (Như cảnh Mục Liên Thanh Đề, đi thăm điạ ngục)
Tiếng mưa đỗ trên lá rào rào, không thể xóa hình ảnh anh Nguyễn văn Năm, lính Thủy Quân gục xuống hố cá nhân, như thân cây kiền kiền bị đốn ngã. Đại liên 12 ly 7, quạt rát bỏng ù tai. Nhưng không làm tan nát lòng người.
Đan phải giương to đôi mắt kinh hoàng, chứng kiến đồng bạn kêu gào, co giật cơn hấp hối, xuôi tay chấm dứt cuộc sống. Dẫu dần dần hơi quen, chạm trán, va mặt với tận cùng chiến tranh gian nguy và tàn khốc. Cường độ đớn đau tăng mãi trong đời. Khiến anh càng cúi đầu, đón nhận tang thương người khác, luôn vò xé, oán tránh con người và người.
Đan nghiền nát cục sạn đắng cay trong hai kẽ răng, cố nuốt vào lòng. Nhưng cục sạn không trôi vào bao tử, mà dội ngược vào tim anh đầy thống khổ, chạy lên đầu đau buốt. Như xác định sự hiện hữu của mình. Đan tha thiết đóng góp một phần đời bé nhỏ, cho người thân quen vui sống chút tháng ngày an thư. Chứ anh nào muốn phải làm chứng nhân, chứng kiến cảnh cuồng nộ, thống khổ, bi lụy khốn cùng, trào máu mắt nầy!
Giữa lúc chiến tranh thực sự dày xéo lên quê hương. Ngoài xa thật xa kia, từng hồi trái phá rền vang, làm rung chuyển dãy nhà tôn kêu rè rè. Khói lửa cuộn lên từ góc biên cương không xa lắm.
Thế mà trong nơi đây, người ta cất cao tiếng hát: "Ngựa phi, ngựa phi đường xa. Tiến lên đường cát trắng trắng xoá..." Hoặc hát bài tình ca than khóc tình yêu ..."yêu ai yêu cả một đời... Lòng vẫn biết nếu yêu rồi một ngày sẽ đến với đớn đau..." Thật chả ra làm sao cả!
Hoài tựa đầu vào góc tường, một tay chống lên bàn, kê dưới cằm, nhìn thiên hạ hoan ca. Đan ngồi kề bên, với gói thuốc mơ màng. Hai người hợp nhau ở chỗ ít nói, giữa nơi đông người.
Mãi lâu, Hoài hơi nghiêng về anh, nói nhỏ:
- Trông anh có vẻ buồn.
- Vương Tích đời Đường nói: "Mặt nhìn ai nấy, đều say cả. Còn một mình ta, nở tỉnh sao". Anh buồn vì anh say. Hoài biết anh say gì không? Không hả? Say men đời đấy.
Hoài kính trọng Đan, một cảm tình thân ái, rụt rè, bẽn lẽn. Anh có phong thái ung dung, điềm đạm, trầm tư và nhã nhặn quá dỗi.
Sau giờ liên hoan, Hoài chia tay anh, về nghỉ bên lều trại mình, nàng nhận lời cùng Đan, chiều nay đi ngắm hoàng hôn lặn bên bờ suối.
Đan vào cổng trại, kịp lúc Hoài bước ra. Hai người dạo bước bên nhau, vòng theo đường mòn ngoằn ngoèo, dẫn đến dòng suối chao đảo ráng chiều lượn khúc giữa hai bờ lau sậy lô nhô. Dòng suối lặng lẽ êm đềm, uốn mình trong nắng vàng hanh, như cảnh đẹp trong bức tranh vân thủy.
Núi cao chót vót. Mây trắng bay bay từng đám dày, giống đàn cừu trên núi. Vực sâu thăm thẳm, hoang vu. Dây leo chằn chịt những thân cổ thụ sần sùi, già nua sum suê. Chim hót lảnh lót, Vượn hú kêu đàn đìu hiu. Bầy sóc tung tăng. Khỉ nhí nhảnh chí chóe, líu riú gọi nhau. Quạ nhốn nháo đập cánh đen, vụt bay đi, kêu:
- Quạ! Quạ!
Hai người ngồi xuống mỏm đá, gần tàng cây cổ thụ, trao đổi về sở thích, sở trường, cùng hoài bão. Hoài nói lên cảm tưởng của mình, khi quen Đan:
- Anh Đan à! Em thấy quý mến người lính, lội qua sông Nghĩa Phú ghê nơi. Bởi vì "ảnh" chỉ đơn thuần, là người lính. Thấy em, ảnh nhớ người yêu rất xa.
- Thời vàng son ấy, chỉ âm vang trong ngăn kéo kỷ niệm. Em còn muốn hỏi anh điều gì nữa! Hở! Hương Hoài?
- Thật ra, em muốn hỏi nhiều về anh. Để làm gì, em không biết. Nhưng vẫn thắc mắc tự hỏi: Giờ nầy, ở bên Tây, chị Đan và cậu tí hon làm gì nhỉ?
- Cám ơn em. Em chu đáo quá. Rất tiếc anh còn độc thân. Anh kể em nghe câu chuyện nầy nhe: Ông vua Midas là vị Hoàng Đế oai phong. Muôn dân qúy trọng. Buồn một nỗi là có dị tướng, lỗ tai to như tai bò. Một mình anh thợ hớt tóc biết. Sợ mất đầu, không dám nói với ai, anh thợ bứt rứt khó chịu, tìm chỗ vắng đào hố sâu, ghé miệng nói: "Vua có tai bò" rồi cười khoái chí. Nghĩ rằng không ai biết. Ngờ đâu, ít lâu sau, tại đó mọc lên bụi tre, có gió là phát ra tiếng "Vua có tai bò". Chẳng bao lâu, khắp cả nước biết điều bí mật của Vua.
- Anh nói có sách, mách có chứng. Em phục.
- Còn từ nào hay hơn. Em cứ đem ra, tán tụng anh đi.
- Anh cho phép?
- Bởi, anh thích nghe em nói chuyện.
- Tại sao?
- Có trời mà biết.
- Em hỏi anh: Anh chưa biết anh, làm sao em biết chuyện Vua Midas có tai lừa. Cũng như, chuyện anh còn độc thân, mồ côi vợ đầm, con tây. Em phải xét lại à nha.
- Anh chịu... phục là em thông minh, khôn ngoan đáo để. Em cứ cho anh vào tròng, rồi trêu ghẹo hoài. Vậy mà, đôi khi thân nhân em, có thể lo lắng, sợ em sẽ đánh mất cung cách truyền thống gia phong mình. Anh tin em đủ khôn ngoan. Anh mừng cho em.
- Bây giờ em thành thật cám ơn anh nhiều.
Một hồi súng lớn bất chợt ngân vang xuống lòng thung lũng, tiếng rền rền âm vọng kéo dài. Hai người dõi mắt nhìn về phía chân trời xa, hừng hực đám cháy đỏ chói. Nơi thấp nhất ở đường viền chân trời, một áng mây cô lẻ, vừa vàng thau vừa đỏ tím, dần dần tan mỏng, trải đều trong cảnh hoàng hôn lảo đảo xoay xoay. Con suối vẫn lấp lánh dưới ráng chiều sáng bạc và hồng thắm.
Thoáng mây ngà xôm xốp bồng bềnh, lồng trong hơi sương bay qua vùng trời miền núi, là nét đan thanh tuyệt diễm cuối cùng trong ngày. Một vài đỉnh núi in hình lên mặt nước, lẫn khuất bên lượn cỏ uốn quanh. Mấy chiếc lá vàng nhẹ nhàng chao đi, đáp hờ trên mặt nước, rồi lững lờ trôi. Phút chốc bầu trời còn sót lại vầng sáng yếu ớt chập choạng, chờn vờn, ảm đạm và da diết buồn tênh.
Đan khẽ ca bài “Quán Nửa Khuya”: Trong đó, anh thích nhất những câu:...
Anh là người quân nhân vui gió sương. Câu chuyện tâm tình theo khói sương, tay cầm tay... Dĩ vãng tìm đâu thấy. Như bóng mây chiều, lững lờ theo khói bay. Muốn nhắn cùng thời gian, ai mãi phong trần, đi tìm hương cố nhân...
Ngắt nụ hoa vàng không tên, bên con suối bạc lấp lánh, ánh hoàng hôn xoay xoay lảo đảo dưới lòng suối ôm bờ lau thưa, Đan ân cần trao về Hoài, kèm nụ cười dịu nhẹ và đôi mắt mùa thu, êm đềm sâu lắng của anh.
- Em có chịu... cho anh xin bàn tay đeo nhẫn, và nốt ruồi duyên, trên mặt bé không nào?
Hoài đỏ mặt, mỉm mỉm cười cười, im im cúi nghiêng đầu, làm bộ nguýt anh một cái thật tình.
Ôi! Trời ơi là Trời! Không gian, thời gian, cuộc sống và con người - của giờ phút ngồi bên suối ngày xưa, - không phải là - không gian, thời gian, cuộc sống và con ngươi - của giờ phút ngồi bên suối bây giờ. Nhưng sao họ có cử chỉ đằm thắm, ánh mắt dịu ngọt, đầy xao xuyến, giống nhau quá chừng! Hoài choáng váng, như vừa uống chung rượu ngất ngây nồng say.
Đan đưa Hoài trở về, ăn cơm ở Câu Lạc Bộ. Anh nói về gia đình mình, nói về thời niên thiếu, hiện tại và tương lai. Tuy dè dặt mà chân thành cởi mở.
Sau đó anh tiễn Hoài đến cửa doanh trại, khi tiếng kèn tập họp, gọi quân nhân điểm danh, trước giờ đổi phiên gát đầu hôm.

*

Kính mời qúy độc giả xem tiếp… Chương 18
Trân trọng,
Ưu Du
Ái Ưu Du
#73 Posted : Thursday, January 25, 2007 1:29:07 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

GIỮA HAI LẰN ĐẠN

Chương 18

NGHĨA TƯƠNG GIAO


Thời gian tiếp nối nhau ngày qua ngày, đêm qua đêm, trôi đi, trôi đi. Đan, Nữ, có dịp làm chung nhiều công tác.
Nữ hỏi Đan chuyện "Hoàng Tộc của anh". Đôi khi cao hứng, anh nói sơ qua về đời vua Gia Long, Vua Minh Mạng ra lệnh xiềng mã của ông Lê Văn Duyệt ở đường Hiền Vương, ông Duyệt rất linh thiêng. Cụ cố Hường Thuyền là bọ đỡ đầu của tổng thống Ngô Đình Diệm. Thế là ba anh mang họ Ưng.
-* Nói về vua Thiệu Trị. Ông Tôn Thất Thuyết làm Binh Bộ Thượng Thư dưới Triều Vua Tự Đức, năm 1883 Tự Đức băng hà. Khâm sứ Georges Mahé bị cách chức, vì cho đào mồ vua Tự Đức, lấy nhiều châu báu vàng bạc.
-* Tiếp sau là Joan Charles cho đào Tử Cấm Thành, điện Minh Viên của vua Minh Mạng, vơ vét ngọc ngà. Hai ông Thuyết và Tường, đổi di chiếu phế bỏ Dục Đức là con nuôi của Tự Đức, tự quyền đưa em của Tự Đức, là Lạc Quốc Công lên ngôi, lấy hiệu là Hiệp Hòa. Họ đưa Dục Đức đi biệt giam, sau đó bắt Hiệp Hòa uống thuốc độc tự sát. Kiến Phúc lên ngôi 6 tháng thì chết không rỏ nguyên nhân.
-* Hai ông lại đưa Ưng Lịch lên ngôi vua lúc 12 tuổi, niên hiệu là Hàm Nghi. Ngày 22 tháng 5 năm 1885 bị thất trận đồn Măng Cá, ông Thuyết rước Vua Hàm Nghi và đoàn tùy tùng chạy đến Tân Sở. Băng rừng vượt suối ra Quảng Trị. Đi Hà Tỉnh. Qua Trung Quốc, ông thất chí thành cuồng điên, lấy gươm chém vào đá. Người đương thời gọi ông là "Trảm thạch Tôn Tướng quân". Pháp đày ông Nguyễn văn Tường. Lập Chánh Mông lên ngôi vua, lấy niên hiệu là Đồng Khánh.
-* Bây giờ Việt Nam có hai vua. Vua Đồng Khánh xe pháo ra Quảng Bình, dụ Vua Hàm Nghi về hàng Pháp. Năm 1888 vua Hàm Nghi bị bắt đày qua Algerie. Bửu Lân là con Dục Đức và mẹ bị biệt giam, được triều đình rước về, tôn lên vua lấy hiệu là Thành Thái. Khi 18 tuổi Pháp biết Thành Thái có chân đứng với Phong Trào Đông Du, đã truất ngôi lưu đày sang đão Réunion.
-* Lập Vĩnh San lên ngôi lúc 8 tuổi, lấy hiệu là Duy Tân. Trần Cao Vân và Thái Phiên: Lập Việt Nam Quang Phục nước bại lộ. Vua Duy Tân bị bắt ngày 6.5.1916 ở Nam Giao. Pháp giam vua ở đồn Măng Cá, rồi đày vua qua Réunion. Hai ông Vân và Phiên bị chém ở pháp trường. Pháp lại chọn con trai của Đồng Khánh, là Bửu Đảo lên ngôi, lấy hiệu là Khải Định. Thượng thư Bộ Lại và Cơ Mật thời vua Khải Định, là Phước Môn Nguyễn Hữu Bài đảm nhận.
-* Vua sau cùng là Nguyễn Phước Vĩnh Thụy, niên hiệu Bảo Đại. Ông Lê Phát An, một cự phú ở Saigon là con trai trưởng ông Huyện Sĩ. Ông An được Vua Bảo Đại quý mến, phong cho chức An Định Vương. Ông gã cháu gái là Nguyễn Hữu thị Lan, (con ông Nguyễn Hữu Hào) cho Vua Bảo Đại, tức Nam Phương Hoàng hậu. Bảo Đại có chính thức ba quý phu nhân: Lý Lệ gốc Tàu. Mộng Điệp ở đường Graffeille, số 7, Dalat. Và Gernie bà Tàu lai Pháp.
Ba Đan nhìn thấy "lịch sử kinh dị" từ trước đời vua Gia Long đến đây, không mong gì hơn, là cho Đan du học, tránh xa cảnh đau lòng.
Đan đưa Nữ xem những tấm ảnh, chụp thắng cảnh Kinh Thành ánh sáng Ba Lê. Xem bà con anh em trong Hoàng tộc. Tuy nhiên anh chỉ thích ngắm nhìn bức danh hoạ lừng danh Leonardo de Vinci vẽ Mona Lisa, người đàn bà anh thư tuyệt vời, nhưng kín đáo, khó hiểu bên trời Tây.
Tựu trung, Đan chỉ nói với Nữ những chuyện từ đời... ông cố lũy. Chuyện tào lao xịt bộp. Tuyệt đối anh không hàn huyên tâm sự chuyện tình riêng, hay thân mật ngọt ngào hơn. Anh xem Nữ như nghĩa tương giao. Mặc dù vậy, Nữ yêu thầm trộm nhớ Đan, đến rã rời héo hon. Nàng muốn chinh phục anh bằng mọi cách.
Khổ một điều, hình như Đan không lưu tâm đến mình. Nữ không là đối tượng của anh. Đồng thời Nữ cũng mến yêu Thắng, Quân. Không biết như vậy nàng có đa tình, lãng mạn, bậy bạ lắm không? Chỉ có một trái tim, mà chứa hai ba bóng hình?
Không có cách gì quyến rũ thu hút họ, Nữ đâm ra tức giận, ghét Hoài. Tên thật của mình thật xí. Còn tên thật con “qủy xứ" đó, nghe chi mà ngứa tai. Cái gì mà Hương Hoài? Ủa, cả biển nước mắt khóc đầy vì nó, hay là nó khóc nhớ ai thành biển khói hương hoài? Cầu cho nó khóc ai, nước mắt thành sông thành biển đi. Hèn gì cả đại dương bao la, cũng rì rầm sóng vỗ đêm ngày vì... si nó.
Con nhỏ nầy có cái gì hơn ta nào? Nó thật thà ngố ngáo, lù đù quê một cục, quê mùa hết chỗ nói. Nếu Nữ không muốn xỉ vào mặt nó mà nói:
- Mi cù lần số một. Trong khi tau đẹp thua kém chi mi, tau ăn nói có duyên, khôn khéo, từng trãi, có kiến thức sâu rộng ngang ngữa mi. Mi tú tài đôi, thì tau tú tài toàn chứ bộ!
- Hứ! Không hiểu mấy tên đàn ông, mê con nhỏ cái nỗi gì, mà ngẩn ngơ, bơ phờ, hốc hác hết trọi dzậy cà?
Nữ thấy Đan thật dễ thương, lúc nào cũng trầm tư, ung dung, đứng đắn và nhã nhặn. Đan khác Thắng. Thắng nhanh nhẹn vui tươi, hồn nhiên và lém lỉnh.
Trong giờ làm việc, bạn bè dốc toàn lực vào đó. Họ ít nói, lầm lì, mệt nhọc với giọt mồ hôi đọng bụi đường bẩn thỉu. Công việc giải quyết nhanh chóng. Toàn ban đứng phắt dậy. Đầu đội nón sắt, nai nịt gọn gàng. Chân mang giày saut, áo quần đồng mầu. Ba lô nặng trĩu mập ú sau lưng.
Họ chạy ra bãi đậu xe leo lên. Xe GMC từ từ rồ máy. Vài anh chậm chạp lon ton chạy theo. Miệng la ơi ới, tay ngoắt lia liạ, nói câu chọc ghẹo nhau, bông đùa:
- Chờ tui ga guộng dới. Tui lấy bâu, đựng gậu nấu en, ren?
- Định bỏ rơi tôi lại với ai đây? Ở với bầy khỉ à?
- Cho tui ngó ông đi goa, boà đi lợi, chớ có mô khét khe, dzậy cà.
Thế đấy! Dù đi với đồng đội đến vùng trời xa xôi, hẻo lánh gần đầu đạn mũi tên. Chết chóc không biết sẽ đến lúc nào. Vậy mà họ tươi cười, cố bám theo. Mấy anh ngồi trên xe chồm xuống giơ tay ra đón chụp, kéo bạn lên.
Anh lính cười thoải mái, thân hình đeo lủng lẳng trên thành cửa, lắc lư như chú khỉ chuyền cành. Cây súng va lách cách vào băng đạn. Cái bi đông nước lắc qua lắc lại, dưới quai đeo sờn uá, rách lỗ chỗ.
Bên doanh trại lộng gió và đầy sa mù, là tiếng quát hỏi dõng dạc:
- Ai đó. Yêu cầu đứng lại. Vui lòng trình giấy tờ.
Nhiều tiếng nổ ầm ì vang vọng từng hồi như dịp sấm. Lửa tóe ra trên đầu như vì sao băng đổi ngôi. Bià rừng hiu quạnh, có tiếng vạc vỗ cánh lạnh lùng đi ăn đêm, vọng vào căn lều ẩm lạnh.
Trưởng Phòng nhắc nhở anh em phải cẩn thận, dò dẫm từng bước đi. Ở vùng nầy thường bị đắp mô, phá hoại, gài mìn, ném lựu đạn.
Người Lính muôn đời Lục Quân Việt Nam truy tầm "chuột nhắt" mỗi ngày, mỗi giờ. Phải hy sinh trong muôn vàn hy sinh to lớn kinh khủng. Sau loạt B 40 và Bêta. Nhiều tiếng hoả tiễn xè xè vút vút bay, rồi từng chuỗi nổ dồn dập rền rền ngân vọng.
Mắt họ nổi đom đóm. Đầu choáng váng, đinh tai nhức óc. Ngực tức đến độ muốn ói máu. Những chòm râu tua tủa quanh hàm, đựng đứng lên. Hai hàm răng nghiến trèo trẹo, kẻ răng rít lên từng tiếng thở hổn hển dập dồn.
Người Lính luôn nằm gai nếm mật, ăn bờ ngủ bụi. Nếu có được cái giao thông hào ẩm lạnh trú chân là may. Họ chụm đầu cúi mặt, chia nhau từng vụn thuốc nhỏ. Hai bàn tay khum khum che đóm lửa, không cho ánh sáng thoát ra ngoài. Họ hít hít từng hơi thuốc.
Tình đồng đội vào những giây phút tột cùng hiểm nguy, thật vô cùng trân quý. Cảm động đến bàng hoàng cúi mặt chảy nước mắt. Cực khổ quá chừng! Ôi! Đời lính vô cùng xót xa và bạc đãi vô vàn!
Cuộc sống Người Lính Chiến nằm gai nếm mật là thế! Là những ngọn nến trong muôn triệu ngọn nến đời, tự tay người Lính đốt lên. Và, cuộc sống gian truân, phải là sự hy sinh, chấp nhận vẹn toàn cho tha nhân. Chấp nhận vẹn toàn!
Hơn một tuần trôi qua tốt đẹp, cho đến một hôm Đoàn làm việc xa Tiểu Khu. Nữ băn khoăn thấp thỏm, lo lắng muộn phiền, nhớ nhung ngập lòng. Nàng gọi phone kể Thắng nghe nỗi buồn thương ray rứt và hỏi: ..."Có phải em đã yêu người lính phong trần, nơi ngàn chốn sơn khê Minh Long rồi không ?". Nữ dám hỏi Thắng câu đó. Kể cũng lạ!
Nhóm tiếp liệu trợ y của Nữ lên đường, khi sương ướt đẫm cỏ cây. Bầu trời chìm đắm trong khí lạnh mùa xuân ve vuốt ban mai, ẩm ướt giá lạnh và buồn bã vô vàn. Duy có hình ảnh đáng nhớ nhất, trong lần tiễn đưa giờ phút đầu tiên, trên lưng đồi ngập tràn gió lạnh sương mai: Khuôn mặt đẹp, dáng dấp oai hùng, phong sương, trầm tư và chững chạc.
Gió sớm thổi phồng lưng áo trận bạc màu, đôi giày đinh lấm lem bụi đỏ, khi Đan đứng trên thềm doanh trại, đầu đội mũ sắt, một tay anh cầm ca nước nóng đưa cho Hoài uống. Một tay Đan chống ngang hông. Phiá sau trại tù (nay có lẽ bỏ hoang) từ thời Pháp thuộc, là đỉnh Núi Thần Phong, và dòng suối bạc uốn khúc lấp lánh xa xa, ẩn hiện dưới tàng cây xơ xác, không um tùm lá đỏ thuở nào.
Hình ảnh đó, khiến Nữ gợi nhớ đến Thái Tử Đan nước Yến, (dùng Kinh Kha như con cờ) với chung rượu quan hà. Thái Tử Đan tiễn đưa Kinh Kha quê nước Vệ, sang bên bờ Dịch Thủy. Theo kế của lương sư Điền Quan tiên sinh, Kinh Kha mang sứ mạng giết bạo Chúa Tần Thủy Hoàng, cứu lục quốc. Bạo chúa Tần Thủy Hoàng đốt sách chôn học trò, độc ác vô song. Ông mê tiếng đàn tuyệt vời của Cao Tiện Ly, mà vẫn ác tâm chọc mù đôi mắt người ca sĩ.
Tráng sĩ Kinh Kha đệ nhất kiếm tuyệt luân, khí khái phi phàm, một lòng trung quân ái quốc. Kinh Kha có người yêu đúc Lũ Tuấn kiếm, cô hy sinh tình yêu, để Kinh Kha quyết tâm ra đi, mưu cầu việc lớn cho Quốc Gia đại cuộc.
Còn Nữ? Chẳng có gì! Chẳng được gì tất cả, ngoài nỗi cô đơn kinh hoàng, giữa khói lửa chiến tranh tàn khốc, phủ chụp xuống góc trời, và riêng góc đời mình.
Trời hừng sáng, lớp mây mù trắng xóa dày đặc, càng lúc càng tỏa nhạt và bốc lên cao, lộ ra ngọn núi hiểm trở, chen cánh những ngọn đồi, vòng rào kẽm gai giăng mắc chằng chịt, hốc đá cheo leo, vòm cây cổ thụ già nua sần sùi, lượn suối khe thung. Nhà sàn vách đất tan nát, loang lổ xơ xác đìu hiu, còn thao thức, băn khoăn trước bình minh thấp thoáng, uể oải dần dần vươn lên.
Nhìn Đan và Hoài, đứng trên thềm doanh trại từ giã nhau. Bỗng dưng Nữ bừng nhớ quắt quay, vì... "người ấy" đã xa tôi rồi.

*

Kính mời quý độc giả xem tiếp… Chương 19
Trân trọng,
Ưu Du

Ái Ưu Du
#74 Posted : Tuesday, January 30, 2007 2:14:17 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

GIỮA HAI LẰN ĐẠN

Chương 19

BAO ƯU TƯ


Mẹ vào Đà Nẵng thăm các con, mẹ lấy hột sen, khoai lang, sắn mì, chuối già hương, tiêu, ớt bột. Kết quả tốt đẹp do sức cần lao nhẫn nhục của cha mẹ, sớm chiều vất vả ngược xuôi bên vồng sắn nương khoai. Ngay lúc nầy, Hoài gặp lại bầy chim nhỏ ở chốn cũ, tiếng đàn chim hót líu lo vang vọng lại, từ tận quê nhà tít tắp xa mù xa, nghe sao mà thương lạ thương lùng!
Thắng đến nhà. Ô! Bất ngờ ghê. Thắng vào chào mẹ, rồi anh lên phòng khách. Mẹ mỉm cười đôn hậu, nhìn anh chăm chú như thể ... cân nhắc. Hoài nói nhỏ bên tai mẹ:
- Mạ đừng ngó rứa, bạn con mắc cỡ. Không có chi.
- Chi lạ rứa. Ai nói chi, mà lo xa, rào đón rứa con.
Mẹ cười, nguýt yêu con gái. Mẹ lúc nào cũng vui, khuôn mặt thật thà, hiền lành đôn hậu. Tấm lòng rộng mở. Chất phác giản dị, đầy khoan thứ. Nhất là tính nhân hậu, thương người, không riêng gì thương gia đình, mà thương hầu hết bà con xóm làng cơ cực.
Hễ ai kêu than, xin xỏ cái gì, có khả năng là cha mẹ cho đi, không ngần ngại, hối tiếc, cho hậu hỉ, xứng đáng tốt lành. Chứ không bao giờ cho của thừa mứa. Ui chao! Cha mẹ sao mà xứng đôi, về lòng nhân ái đến vậy? Nay, có bao nhiêu quà bánh nhặt nhạnh tom góp ở trong vườn, chắn chắn cha mẹ không dám ăn, mà tha đi hết làm quà cho con cháu, lối xóm rồi.
Thắng nheo mắt, cười:
- Các anh ở nhà, tính rủ mấy em đi loanh quanh.
- Loanh quanh? Anh không muốn em bị đòn chứ.
- Ơ. Anh em đi phố, bị đòn gì! Đi với anh Đan mới sợ ăn đòn, à em.
- Ấy. Anh Đan mới thật đồng hương, đồng hội, đồng thuyền à nha.
- Coi chừng đấy. Có ngày nổi máu xung thiên lên, anh canh cả giàn trọng pháo, bắn vào nhà Tổ, thì tan nát hết họ hàng nhà mình bây giờ.
- Trời ơi! Anh học đâu cái cảnh... nồi da xáo thịt vậy không biết. Anh em chúng ta, bồ tèo nhau cả. Khó dễ nhau gì vậy? Điên quá.
Xe chạy mấy vòng các anh đổi ý mốn đi câu. Mười người thuê hai chiếc thuyền nhỏ, nhẹ khua mái chèo, thả lỏng tay câu. Thuyền lững lờ trôi trên sóng lăn tăn. Chiến ngồi với Thu, anh nói:
- Đi câu thế nầy, Hoài và em mặc áo dài lướt thướt, bất tiện làm sao!
- Các anh nói đi phố, đi xem ca nhạc. Bây giờ anh còn kêu la nỗi gì.
Hoài giận hờn, cầm hai tà áo dài cột vào giữa háng. Nàng tinh nghịch ghê, y như đóng khố. Thế là, các anh chị nhao nhao chuyện áo mí quần:
- Ối giời. Áo mí khố. Cứ xem thằng Quang ấy kià. Ngồi trong lu nước quen rồi, cứ đánh bố nó cái quần soọt, mà có chết con cá nào đâu.
Hồng lên tiếng:
- Giá chúng em biết trước là đi câu, sẽ mặc áo thung, quần tây là xong. Húi luôn cái đầu trọc với cái váy cụt cho anh Chiến vui lòng. Chiến cười khoái chí:
- Các cô nào có biết, việc cắt tóc ngắn, mặc quần áo ngắn được đồng bào ta hưởng ứng nhiệt liệt ấy nhe. Vào thời kỳ l906, bọn thực dân Pháp đối đãi ác nghiệt với dân tộc mình hà khắt ghê gớm.
Các cô có biết không? Ngày 19 tháng 9 năm 1903. Lính chiến đấu của ta Pháp gọi là Khố Xanh, Khố Đỏ. Tức là quần xanh quần đỏ mà họ kêu là "Khố" tỏ vẻ khinh miệt dân mình. Sự bất mãn về cuộc sống gian khổ, và mối thù giai cấp càng tăng, làm thức tỉnh người dân hồi ấy đã vùng lên.
Pháp dùng chính sách trực trị kềm chế, khủng bố, đàn áp gắt gao, bắt dân mình ở trần, mặc xà lõn, đóng "khố" chạy cho nhanh, mặc quần dài có ống nó vướng víu. Tuy vậy đàn bà thời ấy ăn mặc rất kín đáo, tính tình đoan trang.
Tùng móc mồi xong thả xuống nước, anh nói:
- Để tôi nói cho nghe chuyện ăn mặc ở Việt Nam ta hồi đó, thế nào nhé. Tự ngày xưa, dân An Nam ta có truyền thống ăn mặc gọn gàng, thùy mị, kín đáo, và đẹp mắt. Đàn bà con gái mặc chiếc áo cánh bên trong. Đeo yếm thắm cột bốn giải ra sau gáy và lưng.
- Đi đâu xa, họ mặc thêm cái áo dài the tứ thân ra ngoài. Váy đen dài khiêm tốn chấm mắt cá. Mang guốc mộc. Thật đẹp. Phụ nữ Việt Nam hay lam hay làm, mặc "khố" dài lướt thướt, rộng thùng thình, đi đứng vướng vít trở ngại, khó khăn. Nên họ cắt bớt "khố" ngắn lại, ngắn trên mắt cá chừng hai gang tay.
- Phụ nữ mặc chiếc váy mới, thấy dài không ra dài, ngắn không ra ngắn, cảm thấy dị kỳ, khó coi, khó chịu. Các bà các cô tân thời bèn làm một cuộc cách mạng nữa : Mặc "khố" ngắn qua khỏi đầu gối cho nó... gọn.
Các bạn nhìn nhau cười cười. Tay nầy trầm ngâm, ngầm ngầm mà đấm chết voi, chắc có "vấn đề" đây. Tùng nói tiếp:
- Tưởng như vậy là yên thân chiếc "khố đầm". Nào ngờ, đời Vua Lê, Càn Vương hay Chiêu Thống gì đó. Đại khái là đời vua Lê. Mỗi lần Ngài ngự giá, thấy "liềng bà con cấy" ở ngoài đường ngoài chợ không mấy kín đáo, người nào cũng đưa hai ống quyển ít gợi cảm đen không ra đen, trắng không ra trắng. Cứ mông mốc màu tro, không giữ ấm thân thể. Đôi khi ngồi chò hỏ, bỏ quên "cái sự đời em ra" phơi nắng phơi mưa mát mẻ, mà thật tình họ không biết.
Tiến tiếp lời:
- Tùng nói đúng. Hồi đó có ai biết mặc xì níp đâu.
- Tôi nói đến đâu rồi nhỉ? À, à... Phụ nữ ta xưa nay vốn nổi tiếng là đoan trang nết na thuỳ mị, ăn mặc kín đáo. Bỗng dưng "khố" bị "hớt" lên quá đầu gối, ngượng ngùng khó chịu. Nhất là khi Vua ngự giá họ càng lo sợ, bẽn lẽn, run rẩy. Vì sợ, vì đói, vì rét, hay vì e thẹn? Chả biết.
Họ cứ té lăn chiên đổ đèn. Giơ hai cẳng chân khẳng khiu quơ quơ lên trời. Ngọn gió vô tình lại tốc ngược "khố đụp" lên quá ... bẹn. Tô hô “cái sự đời em” ra.
Mặc các bạn cười muốn nghiêng ngã người trên thuyền, chảy nước mắt ra. Vương Gia Tùng bác sĩ đẹp trai nhà ta tỉnh queo, không cười. Nhìn anh, họ càng mắc cười kinh khủng. Anh ung dung và duyên dáng kể tiếp:
- Vua Lê khá hào hoa, thanh lịch, văn nhã, nhìn cảnh trái tai gai mắt đó nhiều lần. Thấy chướng quá, đã xuống chiếu nghiêm cấm "liềng bà con cấy" không được mặc "khố". Mặc váy! Á à quên. Ngài không dùng tiếng "khố" miệt thị, không nói tiếng "váy" văn chương tân thời, mà Ngài nói
- "Quần Không Có Hai Ống" văn nhã hơn.
- Thế là phụ nữ bắt đầu mặc quần không có hai ống, dài xuống mắc cá chân. Có yên đâu. Phải rồi! Chưa yên. Tôi nhớ có lẽ không nhầm, đúng một trăm sáu mươi ba năm sau. Vua Minh Mạng thứ 9 ban chiếu dụ khác, cấm chỉ "liềng bà con cấy" không được mặc "váy đụp" tổn hổn như thế.
Phải mặc quần. Quần có hai ống hẳn hoi. Thế là "quần có hai ống" ra đời. Nào, bi chừ các cô thích mặc thứ gì? Mặc "khố", "Quần có hai ống", hay là "Váy đụp"?
Các cô che mặt cười khúc khích. Các cậu khoái chí cười ha ha.
Thả thuyền câu theo dòng nước, các bạn vừa chuyện trò vui vẻ. Nào Đại Đế Napoléon Bonaparte. Chuyện Ludwigvan Beethoven, nhà soạn nhạc lừng danh chuyển qua Michael Faraday, nhà bác học lỗi lạc, cả tiếu lâm khôi hài.
Mẹ mặc áo bà ba cổ kiềng trắng toát. Quần láng mướt loại lảnh Tân Châu mát rượi. Mẹ sạch sẽ, tươm tất gọn gàng. Mẹ ngồi trên bộ ván ngoáy trầu cau, vào cái cối đồng nhỏ xíu. Mẹ ghiền ăn trầu, hơn bất cứ thứ gì trên đời. Thấy mẹ, Hoài đến bên ngồi xuống, soạn giỏ hàng ra, tươi cười nói:
- Con biếu mẹ cặp quần đen. Áo dài vải nhung đen. Xấp vải phin nỏn, mẹ may áo bà ba. Cha may bộ đồ tây. Con biếu ba mẹ hai ngàn đồng.
Mẹ ái ngại nhìn con, không nói. Không chịu nhận tiền. Không thích cho con đi làm. Nàng nhất định nhéc tiền vào túi mẹ, dụi đầu vào ngực mẹ, như hồi còn bé thơ! Hồi xưa, mỗi lần đi đâu xa về nhà, Hoài ưa chạy tới sờ vú, bú vú mẹ chùn chụt, dẫu đã lên tám, lên mười. Nàng nói:
- Mẹ lo lắng chi. Con đi làm như đi chơi, khổ chi. Ở quê mình, có yên không mẹ?
- Yên chi. À, cậu Thắng, có thương con không?
- Dạ, con chưa biết. Có thể thôi.
- Con gái lớn, cần tìm nơi tử tế, nhờ cậy tấm thân. Con đi làm rứa, mẹ không ưng tề. Cha mẹ gia,ø không sống đời với con. Anh chị ai có phần nấy. Con ở rứa, coi chi được.
Từng trải ngược xuôi trên dòng đời đen bạc, có kinh nghiệm sống ở đời, cộng với bước đi vững chãi tự lập, và tấm lòng đôn hậu, chân chất của người mẹ từ ái, mẹ hằng ước nguyện, cho các con hạnh phúc, bình yên đích thực. Mẹ luôn luôn lo lắng, cho con cái từ miếng ăn, giấc ngủ, từng bước đi chập chững trên dòng đời xuôi ngược, không cho phép con sống tự do buông tha,û theo cuộc sống xô bồ, phức tạp.
Con rất biết ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ, đã ưu tư thương nghĩ về con. Thế nên, con không dám thổ lộ với cha mẹ, là con đang sống trong một môi trường, mà đất nước đó, chính là nơi chôn nhau cắt rốn của ông cha ta, đã từng diễn ra nhiều cuộc Nội Thù, tàn khốc, đẫm máu kinh khủng. Họ chém giết sát hại "trừng trị" lẫn nhau thẳng tay, không nhường nhịn giữa hai bên bờ quốc cộng đó.
Mẹ ơi. Con nghĩ mẹ khôngï làm sao hiểu được, vì lẽ gì chiến cuộc xảy ra ở từng nơi, từng chỗ, trên quê hương mình? Bởi vì, mẹ nhân ái, vị tha, từ thiện, hiền hậu vô cùng.
Mẹ không hiểu, cho dù đến chết, mẹ vẫn không hiểu. Và, con bị hấp thụ ít nhiều thù hận, hung ác, đối nghịch, bất chấp, nghi kỵ mọi người, tự thuở mới lớn, trong chiến tranh, là lẽ thường. Nỗi niềm ưu tư nầy, con biết thổ lộ cùng ai?
Thắng đến, anh ngạc nhiên, thấy gia đình ăn cơm trễ. Anh hỏi lý do. Hoài cười:
- À, hôm nay gia đình muốn mời mẹ, mấy món ăn mẹ thích nhất là: Bánh bột lọc. Bánh xèo. Bánh ứớt thịt nướng. Bánh ít lá gai. Ăn vào nghe nó "đã" làm sao!
Thắng nói nhỏ với Hoài. Họ chở nhau lên xe, chạy ra chợ Hàn mua quà cho mẹ, đem về quê tiếp tế cho bà con, họ hàng. Trong chợ ồn ào huyên náo người đi kẻ lại nói cười, la mắng đối đáp. Người mua cố kèo nài mua cho rẻ, kẻ bán cố neo bằng được giá cắt cổ. Đôi mắt người bán hàng lóe sáng khi Thắng, Hoài, đến gần.
Khi họ đi qua mặt, nhiều đôi mắt lộ vẻ thất vọng, không vui. Họ mua kí tô tôm khô. Hai kí bún tàu. Năm kí đường cát trắng, một thùng xà bong giặt, xà bong tắm. Chục chai tàu vị yểu con mèo. Hai kí khô cá. Nữ đi xe xích lô chở mấy món hàng. Thắng rề xe bên cạnh.
Cả nhà ăn uống vui vẻ. Anh Thương thích thừa tiếp khách, cũng như anh thích được người ta thừa tiếp. Cho nên anh mời Thắng ăn... mệt nghỉ. Dù đôi ba lượt, Thắng xin phép đứng dậy, Anh rể ấn vai chàng ngồi xuống, không tha. Hoài nhìn Thắng, cười tươi:
- Cho anh ăn no mệt xỉu. Bụng sẽ chương lên như bụng ... con cóc.
Mẹ vội la:
- Con gái lớn rồi. Ăn nói chi lạ rứa!
- Không có mẹ, anh Thắng ảnh láu cá lắm. Không chịu thua ai đâu.
Lời qua tiếng lại, vui ơi là vui. Khoảng bảy giơ,ø Thắng chào gia đình về nhà. Hoài tặng Thắng kí hạt sen. Anh cười, cầm lấy rồi nói:
- Hoài đi công tác nhanh lên. Mong em gái về, ăn chè hạt sen đấy.
- Mong? Chuyện lạ bốn phương quá.
- Mong. Có gì lạ. Nhớ viết thư về cho anh. Nhé!
- Có chuyện ấy sao?
- Chẳng hạn như viết chuyện... chàng lính chiến dễ thương ngày nọ.
- Ơ hơ! Anh muốn biết chuyện anh Đan à?
- Không được ư! Anh thực sự mong em hạnh phúc.
- Anh không buồn ư?
- Buồn! Anh về. Chúc thượng lộ bình an.
- Cám ơn anh. Đừng quên đường... về anh nhé!
- Anh định nhắn nhủ Hoài, câu đó thật.
Thắng cười cười quay gót. Hoài, cảm thấy hụt hẩng, lòng trống vắng vô ngần, nỗi buồn kinh khủng dâng đầy. Nàng tần ngần đứng trên lề phố, nhìn theo chàng trai, dần khuất trong lòng chiều phố thị bon chen.

_ * _


Kính mời qúy độc giả xem tiếp... Chương 20
Trân trọng,
Ưu Du


Ái Ưu Du
#75 Posted : Tuesday, February 13, 2007 7:11:46 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

GIỮA HAI LẰN ĐẠN

Chương 20

NGHỈ TU


Ngày xa xưa ấy, Ba quyết định thật nhanh, bao chiếc xe đò của chú Trung, chạy tốc hành từ Dalat về Huế, suốt bốn ngày ba đêm. Trên xe chất đủ mọi thứ gia dụng lỉnh kỉnh. Tha hết gia tài chớp nhoáng của một đời người, cần cù lao khó sớm tối, cuốn trọn trên xe. Dù dĩ vãng đầy ắp vui buồn, nhớ nhung cay đắng, muộn phiền tiếc thương, tràn đầy đang nghiêng mình trong hiện tại. Vẫn chưa đủ nặng gói hành trang, trên bước đường vàng phai lưu lạc, bấy lâu nay.
Anh Thuận trưởng nam, từ khi có vợ, anh không biết đến gia đình. Anh ở bên nhà vợ, như chó chui gầm chạn và chịu mọi sự kềm tỏa bên họ vợ. Anh Quyền lo nhiều việc. Vài ba lần anh Quyền làm hồ sơ thăng trật, nên đưa tiền lương về quá trễ. Ởû nhà chị Hách, anh Thuyền và Hoài đói meo, Anh Chín mò vào ông bác ruột, ở sau nhà thờ Cầu Kho, hái trộm rau xà lách, rau dền, cải bẹ xanh, ớt, cà chua, hoặc xuống khu cầu Thanh Long, hái trộm su su nhà ông Ngữ.
Chuyện trộm cắp nầy, tuyệt đối anh Quyền không biết. Tiền lương công chức của anh, chi nặng cho cha mẹ khai hoang lập ấp, cho các em ăn học, anh chỉ chừa lại "ùtí đỉnh gọi là". Anh khuyên các em ráng chịu khổ một chút, khi anh lên chánh ngạch, lương sẽ khá hơn. Mỗi lần ăn cơm với rau dền luộc, anh tươi cười, giã vờ khua động dao thớt ầm ỉ, anh cố nói to, cho cô ca sĩ cạnh nhà nghe, cô ngỡ là nhà mình ăn toàn cao lương mỹ vị:
- Ngày mai, em đừng mua thịt nữa nghe. Cứ ăn thịt gà, thịt vịt hoài. Ngán quá!
Mấy anh em bụm miệng dấu tiếng cười, không cho thoát ra từ cổ họng khô cháy muối mè. Cô hàng xóm, không hiểu vô tình hay cố ý, thường bưng cho mấy chị em, khi một thố bún bò giò heo, bánh mì cà ry, khi cháo banh canh, vân vân... Có lẽ cô không nghe mùi thơm, nấu nướng bay qua nhà cô thì phải.
Anh Quyền mượn trong Ty cây súng bắn chim, sau khi đi học về, anh Thuyền đúc chì thành đạn, anh em ra đồng bắn chim, cò, le le, vịt trời. Chim trời giúp ba chị em, có món ăn ngon lành. Không đi ăn trộm rau nữa.
Anh Quyền bỏ làm việc một ngày, chu đáo lo cho em từ tập sách, cặp vỡ, áo dài áo ngắn, quần trắng guốc vông, nón lá bài thơ. Anh đưa em đến tận cổng trường. Lần đầu tiên mặc áo dài tha thướt, mái tóc vừa chấm ngang vai, soi bóng mình trong gương thật ngỡ ngàng, lạ hoắt. Lòng Hoài không kém niềm vui rộn ràng, được mặc áo mới. Mình đã là một nữ sinh rồi đây.
Có một lần Hoài tập xe đạp chưa vững tay lái, bị té xuống cống. Thân thể bầm dập, gãy mất hai chiếc răng cửa, xấu xí quá, hết dám hé miệng cười duyên, Hoài không lo, nhưng sợ vô cùng, vì chiếc xe đạp đầm trắng mới toanh, của anh bị cong niềng, hư hại mấy nơi. Thấy em khiêng xe về, mặt mày xanh le, không còn tí máu, anh Quyền cười to:
- Coi kià! Te tua vậy? Trầy trật ở đâu, xoa dầu đi.
Anh cười khà khà, cúi xuống xem xét chiếc xe rồi khiêng đi sữa. Lòng em dạt dào niềm yêu mến kính phục, đối với người anh thứ Bảy tên Công Quyền, đã chịu thương chịu khó, tần tảo lo cho cả gia đình, không hề than vãn trách móc ai, bất cứ điều gì.
Vài năm sau, nhân một mùa hè, về quê thăm cha mẹ, vào ở tu viện không vì buồn, không vì chán, chỉ vì Hoài mến thích cuộc sống êm đềm trầm mặc an hoà. Tu viện Trí Bưu bao bọc bởi bốn bức tường gạch xây cao, hai cánh cửa sắt to lớn, sát tường trồng tre, trúc, che khuất những đôi mắt tò mò bên ngoài. Ba ngôi nhà xây lợp ngói đồ sộ, mỗi nhà mười hai căn nối thành hình chữ U. Ba toà nhà và nguyện đường, bao bọc sân gạch đỏ rất rộng, dùng phơi luá, ngũ cốc linh tinh.
Phía trái là giếng lớn dùng nấu ăn, nấu uống. Phiá phải nguyện đường có hai hồ xây râm mát, nuôi cá phi, cá rô, cá chép. Hồ sâu rộng thả đầy sen, cây súng lênh đênh trên mặt nước. Những cánh bèo lớn nhỏ li ti trôi chung quanh hòn non bộ, tượng Đức Mẹ tuyệt đẹp ẩn trong hang đá. Bên cạnh hai ao cá nầy, là dãy nhà giải trí, phòng học của đệ tử. Trước phòng học có hai ao lớn, nuôi cá lóc, cá trê, lươn. Ao đầy rau muống, cần nước, hoa sen, hoa súng, lục bình cho mát nước.
Lục bình là loại bèo cánh lá to như trầu bà, có bầu sữa xôm xốp mềm mềm, hoa tím nhạt nở từng chùm, lúc sống cũng như chết, nó trôi nổi trên mặt nước. Nữ tinh nghịch nhận chìm nó xuống nước, có lẽ vì bầu sữa và thân xốp, là chiếc phao gia bảo, loài bèo không biết khuất phục, thả tay ra nó ương ngạnh phóng mình trồi lên cao.
Khi chiều chưa sụp bóng, bốn ao hồ nầy là nơi chứa nhiều muỗi nhất. Từ mọi xó xỉnh muỗi bay ra kêu như ong, con nào bụng cũng đầy máu, vuốt một cái vào chân là tay mình nhơm nhớp, ngứa rần. Tay chân đệ tử luôn lấm tấm mụn muỗi đốt. Hai giếng tắm giặt ở sân sau, có hai mươi phòng tắm và vệ sinh. Về hướng tây là nhà bếp, nhà ăn. Trại chăn nuôi gia cầm, vườn trồng rau cải đậu mè, bầu bí đủ loại cuối góc vườn, cách nhau khá xa tu viện.
Hoài tu như bức tượng đoan trang biết đi, không nhìn ngang nhìn dọc, không đùa cợt "nhố nhăng". Sống khắc khổ, nhẫn nhục, ép mình hy sinh, Đức vâng lời là điều tiên quyết. Giúp đỡ qúy mến mọi người trong tình yêu Chúa, và thương người. Không kết thân với bất kỳ ai.
Dòng không ghi một nguyên tắc quy luật rỏ rệt, nếu phạm tội vài ba lần, không tỏ ý sửa đổi, dòng cho về, như đạp cứt là phải chặt chân. Ngoài công việc, đa số giờ còn lại là xem lễ, đọc kinh, hội họp cầu nguyện. Bình thường dòng ăn uống thanh đạm, nhưng khi có Lễ, Noel, Tết, mừng các bổn mạng, bà Nhất cho giết trâu, khi bò, heo, gà, vịt, ăn "thoái mái".
Thơ vào tu trước Hoài hai năm. Hoài sợ, bực mình và ghét Thơ, vì Thơ ăn hiếp Hoài, như Dung ngày xưa ăn hiếp Lê. Thơ gọi Hoài là "con khỉ đen" Vã lại, Hoài đen nhất sau Thơ, thổ âm của Thơ nghe rất lạ, nên Hoài không mấy hiểu Thơ muốn nói gì với mình:
- Ưng đập chắt với tui khôn? Ra cươi thì dì quạn lý nỏ chộ mô. Ngó chi? Tui có lẻ củi săn, lẻ nè, tui chấp chị cấy rạ nì. Tui ưng cắm một cấy nơi trắp bả ghê hè.
Thấy nhỏ im lặng, Thơ tìm cách gây chuyện khác:
- Có ưng tui chọi trại ội một cấy, lủng cấy trốt, nỏ thậy cái trọ mô bi chừ. Có thửa tui nọi chi với chị cại chi khôn, hỉ ? Răn mà tui ghẹt chị chi lạ rứa hè. Con khị đen.
Ngẩn ngơ không hiểu bạn nói gì, Hoài hỏi nhỏ mấy người ngồi gần:
- Chị Thơ nói em cái gì vậy? Mấy chị!?
Mấy bạn ngồi học gần Hoài, bò lăn ra cười. Họ giải thích câu Thơ đã nói. Mặt Hoài bừng đỏ vì giận. Cũng may nhiều lần Thơ nói tiếng "Tây đen", Hoài không hiểu, nên chẳng có gì đáng tiếc xảy ra. Thời gian dài trôi qua, áo quần giặt hoài cũ đi, da dẽ trắng trẻo hồng hào, biến Hoài thành cô gái xinh đẹp nhất dòng, thì tình cảm trong Thơ đã thay đổi.
Ba tuần qua, mỗi chiều đi học trên Tỉnh về, thấy áo quần dơ của mình, ai đã giặt giũ xếp gọn trên góc giường. Hoài ngạc nhiên không hiểu ai đã làm? Đồ đạc của ai, người đó tự lo, chỉ lúc ốm đau nặng, mình mới nhờ chị em giúp. Sự bất bình thường nầy, khiến Hoài cảm thấy bất an, phân vân, lo lắng và ray rứt bực dọc.
Một hôm, trong phòng học, bỗng dưng có người tinh nghịch tắt điện. Đệ tử sợ ma, kêu la nhốn nháo, xô nhau té ngã uỳnh uỵch. Bỗng một người ôm Hoài, hôn vào má mấy cái rồi buông ra ngay. Hoài sợ kinh khủng, trống ngực nhảy điên cuồng, toát mồ hôi, rồi bừng nóng. Hoài hét to, xô ghế chạy vụt ra ngoài sân. Ai trêu ghẹo cái kiểu gì ác ôn vậy?
Tuần sau Hoài bị cúm, không đi học nằm nghỉ ở nhà. Phòng ngủ có bảy mươi giường chiếc, phủ đều sheet trắng gọn gàng sạch sẽ. Đắp mền lên tận cổ, Hoài thiêm thiếp trên giường. Ngoài muôn ngàn chim eÙn làm tổ dưới mái ngói, ríu rít đủ mọi giọng hót líu lo trầm bổng, tiếng dệt cửi quay tơ, tiếng đọc kinh đều đều văng vẵng ở phòng bên cạnh, thì phòng ngủ hoàn toàn im lặng. Không gian và thời gian hầu như im lắng, trải dài bất tận.
Luật dòng cấm tuyệt đối: Không cho phép đệ tử vào phòng ngủ, nếu không đúng giờ nghỉ trưa hoặc ngủ tối. Choàng mở mắt giật mình, lặng người đi, Hoài không thốt nên lời, hồn vía bay lên mây, khi Thơ lén vào phòng, đi nhẹ tới giường, đến nỗi Hoài không hay biết. Thơ bạo dạn ôm chầm lấy Hoài, hôn tới tấp vào mặt, rồi vụt chạy ra ngoài. Thơ lớn hơn Hoài nhưng học thua cô ba lớp, nên học tại dòng. Hoài học đệ lục, nên đi học ở trên thành phố Quảng Trị.
Một lần nữa, Hoài lui cui xếp dọn áo quần trong phòng treo áo, Thơ đi ngang qua, ôm hôn cô thật nhanh, rồi lẫn đi. Hoài bàng hoàng lo sợ không dám la, sợ người khác biết thì chết. Hình ảnh Thơ lúc ẩn lúc hiện, bắt cô suy nghĩ và nhức nhối buồn phiền. Thú thật là Hoài rất sợ "chuyện Tình éo le" đổ bể, bị đuổi ra khỏi dòng, thì mất mặt lắm. Không biết làm sao xa lánh lẫn trốn Thơ. Thấy Hoài không “đáp tình” Thơ bực tức, làm đủ mọi cách, cho Hoài chú ý đến mình, Thơ chọc quê:
- Em lậy cại rạ chặt cậy cụi khô, thui vô bệp lã, náng vô tóc chị, chị khôn còn tóc thì chị sẹ ốt dột, hỗ ngươi, chợ chi mà lo hè.
Một buổi trưa nhiều nắng, các chị Sen, Bình, Tịnh, Quy, Cúc, Hồng, Nữ, xin phép đi chụp ảnh làm thẻ học sinh. Sau khi chụp riêng, họ chụp chung một tấm ảnh xỏa tóc dài ra, thay vì phải bịt khăn trắng trên đầu, kẹp tóc sau gáy. Dì quản có quyền lục lọi đồ đạt đệ tử, đã bắt gặp tấm hình chụp chung.
Thế là dòng liệt họ vào danh sách "kẻ có tội", cho ra rìa, ở một xó. Người còn tu không có quyền lai vãng chuyện trò, làm như họ bị phong cùi phải biệt lập. Suốt ba ngày hai đêm, núp lén trong phòng chơi, chờ thân nhân đến đón về, họ không dám ngẩng mặt nhìn ai, một dì bưng đến mâm cơm sơ sài và bình nước lọc, để trên bàn, không ai nói lời nào.
Bị gọi lên phòng sau chót, Hoài qùy dưới chân hai bà Nhất, bà Nhì, năn nỉ khóc lóc, van xin hai bà tha tội, cho em ở lại tu, vì thật tình em 13 tuổi thích đi tu. Bà Nhất nói em tạm về nhà ít ngày, chờ Bề trên Giám Tỉnh là cha Lê Hữu Huệ, chánh xứ Trí Bưu, và bề trên hạt Đinh Cát, quyết định.
Hoài lau nước mắt về lại xó cũ, nàng ngạc nhiên thấy Thơ đã có mặt, đang chuẩn bị xếp hành trang về nhà. Thơ xách va ly cùng về nhà Hoài, nhà ở giữa hai ngọn đồi Cấm, làng Thượng Phước.

_ * _


Kính mời quý độc giả xem tiếp... Chương 21
Trân trọng,
Ưu Du
Ái Ưu Du
#76 Posted : Thursday, February 22, 2007 3:55:22 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

GIỮA HAI LẰN ĐẠN

Chương 21

LÊ LAN HUYỀN NỮ

Một định mệnh thật tình cờ, cha mẹ và mười anh chị em Nữ, từ Huế đi lập nghiệp ở Dalat, theo phong trào khai hoang vùng đất Hoàng Triều Cương Thổ. Gia đình ở Địa Dư.
Ngày ấy còn học lớp ba, Nữ (tên cúng cơm là “thị Nẹo”, nhưng đi học, chúng bạn thường chọc quê là Xà Nẹo, Nữ bực mình, ghét cay ghét đắng cái tên chi kỳ cục. Cha mẹ có tên khá hay có ý nghĩa. Nay anh em bà con đã đặt cho con cháu nhiều tên đẹp, ý hay, hết ngôn từ rồi hay sao? Mà cha mẹ cứ tên cữ chữ đọc, đặt tên con chi kỳ quá. Nẹo nằn nặc đòi cha phải đổi tên, chứ không thì... Nẹo nhất định nằm lăn ra nhà, mù chữ cho bỏ ghét, con không chịu đi học.
Cha chửi "Cái đồ con nít ranh". Thế mà cha đành làm lại thế vì khai sinh, như xoá cả dĩ vãng đầy buồn thảm đau khổ cái rụp. Lần ni, cha hỏi ý kiến ý cò con bé muốn đặt tên chi?
Nếu biết quan toà dễ dãi rứa, thì ta tự đặt cho mình cái tên thật kêu, thật hách, thật mê ly như: Thu Trùng Dương.
Ô không được, tên có vẻ con trai và nghe sao dê dê quá! Hay là Huyền Lan Trà Hoa Nữ. Thật tuyệt diệu! A, mà cũng không được, Nữ nghe lỏm bỏm: Tên Trà Hoa Nữ, là câu chuyện một cô gái ăn sương bậy bạ gì đó. Thôi, Lê Lan Huyền Nữ, nghe êm ái và dễ chịu lắm!
Cha phải lắc lắc đầu, muốn gãy cần cổ, chịu thua con còn nhỏ dại, mà ranh mương. Thế là là... Nữ theo anh chị qua Trại Hầm. Ba chị em cơm đùm nước xách đi học rất sớm, đường vắng đèo heo hút gió, xa xôi diệu vợi, tối mịt mới về nhà. Vấn đề xa xôi không quản ngại, tuổi thơ được chạy rông ngoài đường, bất cứ dưới hình thức nào cũng là điều thích thú.
Tuy nhiên chị em Nữ rất sợ đến trường trễ và không thuộc bài. Lúc đó thì mọi hình phạt: Qùy gối trên xơ mít khô, hai tay cầm hai cục đá lớn giăng ra giữa lớp. Nếu không, thầy xách hai lỗ tai bị chợt da đau điếng, chạy lui chạy tới giữa lớp, hoặc nằm trên bục gỗ đánh ba bốn roi mây vào mông. Hay lấy thước kẻ bắt học trò đưa tay ra, thầy giơ thẳng cánh khẻ vào mười đầu ngón tay chụm lại, hoặc khẻ vào lòng bàn tay.
Vì thế nếu lỡ sai phạm điều gì, kể như chịu một trong các cực hình. Chị em Nữ rất sợ bị đòn, thỉnh thoảng trốn học đem cơm ra bìa rừng ngồi ăn, họ lấy đất sét nặn những hình thú, chén, dĩa, nồi, bình, đem phơi khô, lâu lâu ghé lại, mang về nhà chơi.
Một hôm, chú Thiên qua nhà thăm, nói chuyện ba chị em bỏ học. Cha bật ngữa ra là con mình trốn học, tức giận, cha bắt chị em nằm trên ghế dài hỏi tội. Cha phết cho mấy roi mây đau quắn đít. Đích thân mẹ đem chị Tám và Nữ qua gửi ở lại nhà chú thím.
Ngày hai buổi đi học về, hai chị em có bổn phận nấu ăn, giặt giũ, gánh nước, coi em. Nước máy vùng nầy rất khan hiếm, một máy nước công cộng xa khoảng bốn cây số cho cả Ấp, lúc nào cũng đông nghẹt người chen lấn, tranh giành đưa đến tình trạng chửi bới, đánh nhau là thường. Thùng đôi xếp dài gần nửa cây số chờ mới đến lượt.
Ban đầu hai chị em xách gàu, quảy đôi thùng đi một lần, nhưng sau thím thấy như vậy mất thì giờ, nên Nữ hứng nước xong, về báo cho chị Tám đi gánh. Nhiều lần hứng được đôi thùng nước đầy, Nữ nhờ người lớn khiêng ra, đặt trên thềm nhà người bạn của thím Thiên. Nữ xách xô nước đầy cắm đầu chạy một mạch về.
Mười lần chạy về nhà, khi hai chị em chạy ra thì thùng còn, nước mất hết sáu bảy lần. Hai chị em ôm nhau mà khóc. Chờ hứng đôi nước khác, mất khoảng ba giờ nữa. Ở nhà cơm nước không ai nấu, em không ai coi. Ai mà ác nhơn chi ăn cắp nước, để chị em Nữ bị mấy trận đòn. Tội quá!
Phải công nhận thím bà người đàn bà lười biếng, keo kiệt, đanh đá và ác độc vô cùng. Dù là vợ của một ông giáo có tiếng tăm, được mọi người trong Ty và Ấp kính nễ, nhưng vợ chồng cãi nhau, đánh lộn như cơm bữa.
Những lúc đó, chị em Nữ khổ sở hết biết, chú thím giận cá chém thớt, họ mặc sức cho cháu ăn đòn. Nhà trồng một vườn mận Trại Hầm sai trái, mọng chín no tròn, ngon số một. Thím say mê hái thành quả cất đầy tiền vào tủ, cho chú ăn uống kham khổ. Nghề bán phổi bò càng ngày càng bệnh, thím cũng mặc. Miễn sao tiền đầy tủ là thím vui rồi. Vì thế vợ chồng không hạnh phúc.
Thím cấm ngặt không cho hái mận trên cây ăn. Đôi khi vui, thím cho vài trái mận non, héo, rụng. Nhà cầu ở ngoài vườn mận, đi cầu vào thím bắt chị em Nữ đến há to miệng, ngửi xem có mùi gì đã ăn vụng không?
Chị Tám lớn hơn Nữ, ý thức nỗi nhục đó, chị khóc hoài. Rình chờ thím bế con đi ngồi lê, chơi rông nhà hàng xóm, Nữ hái trộm mận ăn vụng mệt nghỉ, ăn bằng thích. Khổ nỗi, bụng đói mà ăn mận thêm xót ruột, xanh xao, chứ chả no béo gì. Cơm canh thím bắt nấu vơi hụt, nấu dư, thừa mứa uổng phí. Nữ đồng ý nhưng có bữa nào no? Mỗi người hơn chén là hết sạch.
Chú thấy vậy cũng kỳ, miếng ăn không ra hồn, để tiền làm gì khi sức khoẻ càng ngày càng vơi cạn, chú cằn nhằn vợ. Thế là to chuyện.
Những lần sau biết khôn hơn, hai chị em Nữ nghe chú thím to chuyện, lo thu dọn áo quần, bế cu Phộng chạy xuống suối giặt, tránh tai họa vô cớ giáng xuống đầu. Mặc hai ông bà ở nhà làm mây làm mưa.
Mỗi nhà ở vùng nầy đều xây hồ lớn chứa nước mưa, ăn uống giặt giũ quanh năm, thím là người keo kiệt đanh ác và tham lam, muốn tận dụng tất cả những gì ai có cho xài chùa, cũng như vắt kiệt sức người thọ ơn.
Đi giặt là một cực hình, suối ở dưới vực sâu, gánh đồ giặt đi xuống đỡ hơn đi lên. Đường dốc đứng trơn như mỡ, vài lần chị em Nữ gánh quần áo nặng chĩu, đi lên được hai phần ba dốc đứng, chị Tám bị trợt chân té ngã.
Thế là quần áo đổ ra, lăn cù theo chị lấm lem hết. Trặc khớp chân chị không biết đau, mà chỉ lo sợ ở dưới hố giặt lại đồ đạt lâu, không kịp lên nấu cơm, thì mặc sức ăn đòn. Thím đứng chống hai tay lên ba sườn, nhìn xuống hai chị em cắm cúi làm việc, cạnh thằng Phộng mập ú tha hồ láu cá và quậy phá.
Một hôm có phụ huynh học sinh đi Nha Trang về, mang biếu gia đình thầy chục con ghẹ, chục trái cây. Ngồi đong đưa trên võng, thím cho hai chị em mỗi người một trái thanh long và một con ghẹ, còn bao nhiêu hai ông bà ăn tuốt hết, trừ cơm tối. Hôm đó gia đình vui vẻ hoà thuận cả làng.
Hai giờ khuya chú thím tháo dạ xỗ lòng tưởng chết. Trên ói dưới tháo nút xỗ té re đầy giường, đầy nhà, hôi không thể tưởng. Chị Tám chạy đi kêu taxi, theo họ cấp cứu trên bệnh viện Dalat.
Một mình ở lại trông coi thằng em mập ú, nó khóc la giãy giụa dữ dội, đòi theo mẹ. Nữ không sao dỗ dành và bế nó nỗi. Thấm mệt, nó nằm vật ra giữa nhà thiêm thiếp, chốc chốc chồm dậy khóc la từng hồi. Nữ vừa tha vừa cõng nó trên lưng, như con nhái tha con cóc, ru hời ru hỡi.
Quá mỏi mệt, Nữ nhè nhẹ ngồi xuống nền xi măng, thì nó nhảy nhóc nhảy quéo, vật vã khóc thét. Nữ khổ sở vô cùng với thằng em họ, chỉ thua mình bốn tuổi.
Nữ muốn đánh nó hết sức, nhưng thằng bé khôn ranh, biết mẹ không ưa chị em Nữ, đụng vào là chết, nó méc mẹ leo lẻo. Nó đánh Nữ, thím cười, Nữ chưa đụng đến, nó nhè ra cho mẹ hỏi :
- Con Nữ nhéo con ở mô, chỉ vu coi.
Thím dạy con những pha "tinh ranh, quái ác" từ thuở mới lọt lòng, giống hệt bản chất người mẹ. Phộng hung dữ, chẳng biết sợ con ma con qủy. Muốn em khỏi khóc, Nữ trùm mền, lấy lọ nghẹ vẽ mặt làm ông Kẹ, ông Thần dọa em.
Chẳng những không sợ, nó xông lại thoi đấm, giựt tóc, vã vào mặt chị. Trong khi Nữ sợ ma, sợ trộm, sợ tiếng khóc hết biết, sợ muốn đứng tim, muốn ngất xỉu.
Ba ngày sau chú thím xuất viện, người bơ phờ xanh xao ốm yếu, vì cú béo bổ kia. Sau kỳ hè, chị Tám về nhà đi học Trung Học. Một mình Nữ ở lại với muôn vàn cay cực. Em ruột thím là Hiến xuống phụ.
Dòng họ nhà tông, không giống lông cũng giống cánh, thật đúng. Hiến tha hồ đánh đập Nữ. Cai quản công việc nhà còn ác hơn thím nữa. Nữ sợ nhất là nhen bếp lò. Củi tươi thơm mùi nhựa thông cứ tắt ngúm dưới từng cuộn khói mù mịt, cay xè cả mắt. Người Kinh bán củi khô đắt, người Thiểu Số bán củi tươi rẻ. Thím hà tiện, cứ củi tươi phơi vài nắng, rồi tọng vào lò.
Bất ngờ mẹ qua thăm cùng nhiều quà bánh hậu hĩ. Nữ nhớ cha mẹ và anh chị hơn bất cứ vật gì qúy giá. Hôm đó Nữ hoàn toàn được nghỉ. Mẹ cắt tóc, tắm giặt kỳ cọ cho con bằng nước chứa trong hồ, mà không biết Nữ sợ thắt họng.
Nước đó, chỉ để uống. Từng bợn đất đen thui trong người con, mẹ luôn tay tuốt trứng, bắt mấy chục con chí lúc nhúc, bò đầy trên đầu khiến, mẹ kinh ngạc hỏi:
- Sao con ở dơ quá sức vậy?
Nữ cúi đầu im lặng, chỉ muốn khóc. Ôi! Chuyện ở dơ nầy dài dòng, con không làm sao kể ra, mẹ không biết và không thể tin. Mẹ soạn ra bảy bộ đồ mới tự tay may. Bảy áo len đủ màu. Bít tất dày tất mỏng. Giày, guốc đầy đủ. Khăn lau mặt, lau mũi rất nhiều. Bảy mũ len và mũ vải.
Nữ cất mấy thứ đó vào va ly, lòng không vui khi có quà riêng. Điệu nầy Nữ còn ở đây dài dài. Cha mẹ không phải là nghèo, cho con đi ăn học với chú là muốn con nên người. Cha thường nói "Không Thầy đố mầy làm nên" hoặc "Muốn sang thì bắt cầu kiều. Muốn con hay chữ phải yêu mến thầy".
Huống hồ chi, thầy là bà con ruột thịt. Cha uyên nho trọng giáo điều, có biết con bé vì "Nhân, Lễ, Nghiã, Trí, Tín" khổ sở xiết bao, không hề dám cải lệnh cha mẹ. Trước khi về, mẹ dẫn con lên quán cho ăn phở lòng gà trứng non, mẹ cho bốn đồng bạc có hình người gánh dừa.
Mẹ dặn Nữ để dành, khi nào thấy đói bụng, con mua xôi ăn. Rồi mẹ sẽ qua thăm con thường xuyên hơn trước. Có lẽ thấy con gầy ốm, xanh xao quá, mẹ thương.
Thui thủi một mình trở lại trên con đường vẫn đi về mỗi ngày, Nữ khóc nhiều, hai ống tay áo ướt đẫm nước mắt, nước mũi. Gần đến nhà, Nữ phải đứng lại hồi lâu ngoài bờ rào, quệt hết nước mắt mấy lần, mới dám vào bếp.
Bốn đồng bạc cất dấu trong bìa tập, được non tháng, bị Hiến lục lọi phát giác. Thế là nó tri hô lên Nữ ăn cắp tiền của thím, Nữ đã dấu đi.
Thím không tin đứa con nít nào có tiền mà không ăn quà. Nữ muốn ăn quà lắm chứ, nhưng ngặt nỗi không có điều kiện đi một mình. Hiến cho mấy con nhỏ gần nhà canh chừng rồi. Làm sao ăn! Không hiểu Nữ làm gì nên tội ngoài việc ăn ở như một đầy tớ không lương.
Họ muốn hành hạ Nữ cho hả giận, thỏa mãn sự độc ác bẩm sinh. Thím ngồi trên võng ngắt, nhéo vào nách, vào háng Nữ, đánh mạnh thước kẻ trên năm đầu ngón tay chụm lại, cho chừa cái tay ăn cắp vặt.
Con Hiến giống chị như đúc, thay phiên chị giựt tóc mai, tát ngược lên đầu lên cổ, lên mặt, thẳng tay đấm đá vào ngực Nữ nhiều cú mạnh, đau kinh khủng. Nữ không dám khóc than, rụt đầu sát cổ, xuýt xoa rên rỉ trong họng, lùi dần vào góc nhà, miệng không ngớt van xin thím và chị tha tội.
Buổi trưa bụng đói cồn cào, chú vừa về đến nhà thấy Nữ qùy gối trên xơ mít khô, hai tay cầm hai cục đá giăng ra chắn ngang giữa cửa. Chú chưa kịp hỏi nguyên cớ, con Hiến đã leo lẻo vu oan gián họa, kể tội Nữ, nó thêm thắt là Nữ đánh cháu, xô em Phộng bị té. Gì chứ về mục tổn hại đến con cưng là chết. Họ đã mất bốn đứa con, nay còn mỗi mụn con, họ yêu chiều con hơn cục vàng cục ngọc.
Con Hiến đánh trúng yếu điểm anh rể. Không cần biết ất giáp gì hơn, chú tức giận lôi Nữ ngã lăn kềnh ra đất, tiện tay chú rút roi mây trên tường, quất túi bụi vào lưng, vào mông con bé.
Nữ đau đớn nhức nhối khắp mình không tả nỗi, máu đít tươm ra. Hôm sau, bị sốt Nữ không thấy đau bằng các vết bầm tím ngắt nhéo và roi vọt. Nữ không thể cử động, đứng ngồi, hoặc nằm ngửa mà ngủ, Nữ phải nằm sấp.
Qua ngày thứ năm sau buổi chiều tan trường, Nữ bơ phờ hốc hác, trốn theo đám học trò ở bên Ga là: Khang, Hồng, Hoàng, Bê, Mai, Oanh. Nữ tìm về nhà xưa. Bỏ lại mùng mền, gối chiếu, áo quần giày mũ mới, và bốn đồng bạc dấu tích đòn vọt, cả dĩ vãng đầy cùng cực, đắng cay, đau khổ của đứa bé chín tuổi.

_ * _

Kính mời qúy độc giả xem tiếp chương sau
Trân trọng,
Ưu Du
Ái Ưu Du
#77 Posted : Thursday, March 1, 2007 8:07:51 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

GIỮA HAI LẰN ĐẠN

Chương 22

THUỞ THIẾU THỜI


Nữ mang cơm đùm nước xách đi học tại Nazarette. Sáng, anh Sáu chở em đi bằng xe đạp, chiều về nhà. Nữ học chung với đám trẻ nội trú, ngoại trú, và trẻ con mồ côi, có dì phước nuôi.
Học sinh nội ngoại trú, được dì cưng hơn đám mồ côi. Đám mồ côi ăn ở dưới dãy nhà gạch gần khu Lục Lộ. Đời sống tẻ nhạt không thua Nữ mấy. Có vài đứa, đêm ngủ sợ ma, không dám ra phòng vệ sinh, xa nhà ngủ vài trăm mét, đã tiểu tiện hay iả đùn trong quần. Thế là dì phước bắt treo cái quần khai nước đái, cứt, sau lưng lên lớp qùy gối trong góc phòng học, mặc mùi hôi xông lên thối cả lớp.
Học sinh không thuộc bài còn nói chuyện, dì phước lấy băng keo to dán kín miệng, bắt qùy gối lên ghế học bài, thuộc bài mới tha. Đôi khi không thuộc bài Nữ bị phạt, nói chung vẫn khá hơn ở nhà chú.
Thỉnh thoảng anh Sáu bận đi trực đêm không đón về, Nữ đành ở lại nhà anh chị Tư. Có lần con chị đứng trong giường ngủ có thanh chắn cao làm củi nhốt cháu ở trong. Cháu trèo lên thanh giường đu cả người vào chấn song, rung lách cách, sút ốc vít cháu té nhào, khóc thét.
Chị Tư giặt ngoài máy nước công cọng nghe con khóc, chạy vào thấy mặt mũi con tèm lem, nước mắt nước dãi và u đầu. Chị tát Nữ mấy cái thật mạnh, chúi nhủi đầu va vào tường. Chị ôm con vào lòng vạch vú cho bú. Cháu giẫy nẩy lên, mếu máo nấc từng hồi mới chịu ngậm vú mẹ.
Anh Tư đi làm về thấy mặt con sưng vù, anh bắt Nữ qùy bên garage nhìn ra bờ hồ. Tiếng con Ó Ma Lai rền rú trên những tàng cây cổ thụ, khi trời vừa nhá nhem tối, khiến Nữ sợ muốn đứng tim. Người ta kể nhiều giai thoại rùng rợn về loài Ó Ma Lai, mà không mấy ai đã từng ở miền núi không biết như thế nầy:
Ban ngày nó sinh hoạt giống người bình thường, tuy nhìn kỹ thấy chót mũi luôn đỏ, cổ có vài ngấn đỏ nhỏ, dài như sợi dây chỉ, ban đêm rút đầu và bộ đồ lòng đi ăn phân. Lại có chuyện truyền khẩu người lấy ma, đẻ ra con suốt mấy năm trường. Một hôm, đang ngủ ngon, chồng bị đánh thức bởi con khóc, anh mò tìm, thấy vợ bị mất đầu. Tá hoả tam tinh, anh đánh thùng rỗng la làng. Xóm giềng đốt đuốc chạy đến.
Có người khuyên anh lật úp thân thể vợ lại, tắt hết đèn đóm, ngồi chờ trong bóng tối. Canh tư, từ đằng xa tiếng Ó rít lên từng tràng não nuột, thê lương nghe rợn tóc gáy. Nó đậu trên cây cao van khóc xin chồng tha tội. Chồng ra điều kiện : Nếu lật xác lại để bà chui vào nguyên hình, bà phải đi biệt tích. Vợ khóc thảm thiết, đồng ý bồng con đi khuất dạng. Chồng quá kinh tởm, ghê sợ, ốm dần ốm mòn, chết sau đó ít lâu. Người ta bắn giàn ná, lấy đá ném khi ó ma lai xuất hiện. Sau nầy đông người, con ó bay vào rừng thẳm, thỉnh thoảng lạc về kêu hú từng tràng, rùng rợn kinh khủng!
Năm sau cha mẹ dọn nhà về Suối Cát. Nữ học ở Thánh Mẫu (bây giờ là Trí Đức) với thầy Đặng. Nữ thân với Vi Vân, Kim Chung, Cúc, Kim Lê. Nhà Lê rất nghèo, tính Lê hiền lành dễ chịu. Một hôm Lê lỡ làm văng vài giọt mực tím trên mép tà áo dài của Dung, dù Lê hết lời xin lỗi, Dung và Vượng là hai đứa lớn tuổi nhất lớp. Chúng không chịu tha, xông lại đánh đấm Lê túi bụi, buộc Lê dẫn về nhà, má Lê xin lỗi, lấy áo giặt tẩy vết mực mờ mờ. Dung không chịu, bắt bà mẹ đền áo mới. Lê đi học bị Dung đánh đấm, nói
- Khi mô mi đền áo mới cho tau, thì mi mới yên.
Trưởng lớp là Châu thấy vậy, kêu gọi bạn bè hảo tâm quyên góp mua áo mới đền Dung. Thấy Dung còn nhỏ mà ác vậy, bạn bè dần dần xa lánh.
Giờ chơi các bạn thường rủ nhau đi xem người Bắc di cư, tạm trú ở trong trường chờ Chính Phủ phân bổ đi các nơi định cư. Họ làm việc vặt, nấu ăn nói chuyện rôm rả. Các cụ bà đa số mặc đồ nâu, đồ đen, váy đen dài bạc phếch. Trẻ hơn mặc áo màu lam, tím, hồng nhạt, mơ chín, xanh nỏn chuối, áo nâu non tứ thân, mang yếm trắng, thắc giải lụa đủ màu. Mái tóc mượt mà óng ả dài chấm gót, vấn tóc, chít khăn mõ quạ to hó, đi guốc mộc, miệng nhai trầu bỏm bẻm. Trẻ con nhiều lứa tuổi chụm năm, chụm bảy chơi nhảy cò cò, nhảy dây, đánh vụ.
Đa số trẻ gầy ốm, da ngăm đen xám vì sớm chịu cảnh cơ cực theo gia đình bước thấp bước cao, đi trên những đoạn đường dài lao khó xuôi Nam. Các ông ngồi xếp bằng quây quầng hút thuốc lào, kêu oọc oọc trong cái bát điếu đen, dọc tẩu cong cong như sợi râu của con xén tóc.
Họ chuyền bát điếu đi đủ lượt, chuyện trò rôm rả, oang oang, phà khói thuốc bay mù mịt. Khi "đã điếu" quá, họ bật ngửa người, khoái chí gải sồn sột trong bụng, trong nách, giọng cười khoái trá. Bình thường giọng nói người phụ nữ ấy trong trẻo lanh lãnh vút cao, êm đềm đầm ấm. Nhưng khi chửi mắng con cái, giọng chanh chua, the thé.
Nữ thích nghe các bà mẹ ru con ngủ qua các vần thơ ca dao giàu tình luyến nhớ quê xưa, lời đượm nét u hoài điệu dân ca Quan Họ quyện nước mắt đắng cay, ngậm ngùi, xót xa thân phận, bềnh bồng trôi nổi qua những chặng đường ly hương, biệt xứ.
Anh Sáu Thuận trưởng nam, từ khi có vợ, anh không biết đến gia đình. Anh ở bên nhà vợ, như chó chui gầm chạn và chịu mọi sự kềm tỏa bên họ vợ. Anh Bảy lo nhiều việc. Vài ba lần anh Bảy làm hồ sơ thăng trật nên đưa tiền lương về quá trễ. Ởû nhà chị Tám, anh Chín và Nữ đói meo, Anh Chín mò vào ông bác ruột, ở sau nhà thờ Cầu Kho, hái trộm rau xà lách, rau dền, cải bẹ xanh, ớt, cà chua, hoặc xuống khu cầu Thanh Long hái trộm su su nhà ông Ngữ.
Chuyện trộm cắp nầy tuyệt đối anh Bảy không biết. Tiền lương công chức của anh chi nặng cho cha mẹ khai hoang lập ấp, cho các em ăn học, anh chỉ chừa lại "ùtí đỉnh gọi là".
Anh khuyên các em ráng chịu khổ một chút, khi anh lên chánh ngạch, lương sẽ khá hơn. Mỗi lần ăn cơm với rau dền luộc, anh tươi cười, giã vờ khua động dao thớt ầm ỉ, anh cố nói to cho cô ca sĩ cạnh nhà nghe, ngỡ là nhà mình ăn toàn cao lương mỹ vị:
- Ngày mai, em đừng mua thịt nữa nghe. Cứ ăn thịt gà, thịt vịt hoài. Ngán quá!
Mấy anh em bụm miệng dấu tiếng cười không cho thoát ra từ cổ họng khô cháy muối mè. Cô hàng xóm không hiểu vô tình hay cố ý, thường bưng cho mấy chị em một thố bún bò giò heo, bánh mì cà ry, cháo banh canh, vân vân... Có lẽ cô không nghe mùi thơm nấu nướng bay qua nhà cô thì phải.
Anh Bảy mượn trong Ty cây súng bắn chim, sau khi đi học về, anh Chín đúc chì thành đạn, anh em ra đồng bắn chim, cò, le le, vịt trời. Chim trời giúp ba chị em có món ăn ngon lành. Không đi ăn trộm.

_ * _

Kính mời qúy độc giả xem tiếp Chương 23
Trân trọng,
Ưu Du
metamorph
#78 Posted : Thursday, March 1, 2007 8:32:07 AM(UTC)
metamorph

Rank: Newbie

Groups:
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 91
Points: 0

Vì cũng biết về văn, thấy bài nào tâm đắc thì ngứa mồm. Cho Meta phê bình nheng.

Rất chi tiết, chi tiết đến nỗi gợi hình trong đầu người đọc. Và rất chuyên nghiệp.
Ái Ưu Du
#79 Posted : Saturday, March 3, 2007 10:07:26 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

Ưu Du chào METAMORPH,
Thật bất ngờ, hân hạnh và rất vui khi nhận những hàng chữ MT, cảm ơn MT đã ưu ái bao dung khích lệ UD nhiều.
Hy vọng những trang sau trong loạt truyện dài nầy, (cũng như những truyện dài khác của UD) sẽ không làm MT và độc giả thân mến PNV thất vọng.
Thân chúc MT cùng gia đình an vui,
Ái Ưu Du
#80 Posted : Monday, March 5, 2007 12:53:01 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

GIỮA HAI LẰN ĐẠN

Chương 24

ĐẠI NẠN giữa CHA và CHÚ


Một buổi chiều chú Khôi lái chiếc jeep tới nhà, chú đi lui đi tới trên sân, bồn chồn chờ cha lên tiếp chuyện. Mấy chị em ra khoanh tay chào ông chú họ đã có công xin đất, cho cha mẹ tự tay khai thác rừng hoang, vỡ thành đất màu tơi mịn. Gia đình Nữ rất biết ơn chú.
Cha mẹ ở dưới vườn ươm cây về, chú đưa ba xấp giấy cuộn tròn, chú nói cha ký vào, để chú đi nộp gấp, (về việc xin khai thác thêm khu đất rừng mới trên đồi).
Tính của cha xưa nay vẫn từ tốn, cẩn thận, cha định đi lấy mắt kính lão trong túi áo veste, móc ở phòng ngủ đeo vào ký tên. Cha khỏi nheo nheo con mắt, vừa mỏi mắt, mờ mờ không thấy đường, khó chịu.
Kỳ thực cha rất tin tưởng chú, không cần xem lại bản văn viết gì. Chú nói:
- Anh không cần đeo kính.
Cha cười nheo mắt nhìn ở chỗ ngón tay trỏ của chú chỉ vào, cha đặt bút lên, ký chín tờ giấy mà chú đã đánh máy.
Chị Năm đến bên, cẩn thận nhắc nhở cha:
- Cho con coi, cha muốn xin thêm cái gì. Cha!
Cha quay ngoắt lại, nạt chị Năm một tiếng thật to:
- Oạ!
Dù chị đã có gia đình và ba mặt con, chị vẫn sợ cha một phép. Ý của cha nạt chị ở đây, là cha sợ đám con đứng xớ rớ, nói leo hay thèo lẻo vào chuyện làm ăn. Người lớn dễ mất lòng, dễ xa nhau. Cha sợ chú chê trách con cái xấc láo, hỗn hào không tin cậy cha chú, là điều vô lễ. Tuyệt đối không được phép.
Cha ký xong tập giấy, chú không kịp hỏi thăm vườn tượt đất đai, sức khoẻ mọi người như mọi lần, chú vội nhảy lên xe lái đi một lèo. Khiến cả nhà kinh ngạc nhìn nhau chưng hửng.
Bốn tuần sau chú Khôi lái xe lên nhà, chở năm ông hiến binh đội mũ đỏ, súng dài bồng tay, súng lục ngang hông, thắng xe dừng lại kêu két két. Đàn gà vịt ngỗng ngan ăn lúa trên sân không kịp chạy, chết ngổn ngang trên vũng máu, con què chân con gãy cánh, cố lê lết chạy ra khỏi sân, kêu la inh ỏi điếc óc đinh tai. Bầy chó thấy người lạ và máu me, chúng càng chồm lên sủa dữ dội.
"Bảng hợp đồng" mà chú Khôi lừa dối, lường gạt cha “bút sa gà chết” cha đã ký vào, là một bảng án sang đoạt tài sản vô tiền khoáng hậu: Cha chỉ làm quản gia, lợi tức chú hưởng hết. Từ bất động sản đến động sản đều là cuả chú Khôi.
Ối Trời ơi! Thế là cả nhà nổi giận chửi bới chú thậm tệ. Hiến binh nhân cơ hội đó đã bắt cha vì: Ông già cố cho cha vay tiền mua thêm bò, cha chưa kịp trả tiền lời. Chú Khôi ra xúi giục, làm đơn dùm ông cố, để thưa cha vì tội SẼ qụyt nợ, nhất là cha không chịu thi hành luật pháp, mà còn cả tội lỵ mạ, công xúc tu sĩ. Họ bắt cha đem đi điều tra.
Trong lúc lộn xộn, chú sai thằng Tới, thằng Tục ở chăn trâu chăn bò trong nhà, lùa đàn bò đi mất. Họ bưng tất cả giống má, cây ươm hoa màu, chất đầy lên xe ba cam nhông đậu dưới ngả ba đường. Phải nói là quân cướp cạn nghiên cứu đồ án kỹ lưỡng. Người ta nói: “Nhổ cỏ phải nhổ tận gốc. Đánh rắn phải đánh nát đầu”. Chú đã áp dụng tuyệt chiêu đó.
Bổ chửng ra, mới biết chú giáng một đòn chí mạng, vạn tử nhất sinh xuống đầu gia đình em, không nương tay. Năm đó cha vừa đúng năm chín tuổi, vào tạm "giải trí"... ở trại giam Lao Bảo suốt chín tháng.
Trong khi chờ đợi tin chính thức về việc cha ngã ngũ ra sao, cánh đàn ông con trai lo dông vô Huế, lo tìm đường đi lính, đi quân dịch. Chứ xớ rớ ở nhà, e rằng ông chú tốt bụng ở với bà con anh em, và hai thằng đầy tớ cho vô tù … "ngồi chơi xơi nước" đâu không thấy, họ lại lãnh thẹo suốt đời. Nguy to!
Trời ơi! Sau nầy cả nhà mới biết đã vô tình nuôi hai thằng chăn bò cho nhà mình, cứ vài ngày chúng giết một con bò, đem vô rừng, cho bọn ở ngả Ba Lòng ăn. Nhà cửa vườn tượt tan hoang tiêu điều hết rồi!
Phụ nữ ở nhà âm thầm run sợ than khóc, đóng hết cửa nẽo. Không còn tiệc tùng, không một ai hỏi thăm sức khoẻ, an ủi hay giúp đỡ chở che. Thôn làng sợ vạ gió tai bay, nên mọi người xa lìa. Mẹ con Nữ không trách họ, vì gương gia tộc còn sờ sờ ra đó. Thời buổi nầy dính dấp với người trong lao xá là việc nguy hiểm, không biết bị chụp mũ lúc nào. Nên họ lờ đi cho xong.
Mấy lần trước, năm mẹ con ngồi hai xe xích lô, đem theo đồ dùng và thức ăn đi thăm cha. Khi thăm nuôi phải có giấy giới thiệu từ Ấp, Xã, Quận, và toà án cho phép. Mẹ con đứng ngoài hàng rào sắt cách xa nửa cây số không được gặp mặt. Thương cha già nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại, chịu oan không biết kêu xin ai. Cay đắng khổ sở tủi nhục đớn đau tinh thần và thể xác trăm chiều.
Mẹ con thấp cổ bé họng, ôm nhau đứng trước cửa quan khóc thảm thiết. Hoàn cảnh nầy gia đình Nữ không còn tiền bạc, không lương thực, bao nhiêu tiền của đổ dồn vào trang trại, đất đai, hầu như khánh tận rồi. Ai học được chữ "ngờ" mà tích trữ đầu cơ mọi thứ.
Sau nầy một mình Nữ xách giỏ đạp xe đạp đi thăm nuôi cha. Bị quản thúc, ngày ngày cha ngồi ngoài hiên thềm nhà lao học đan giỏ xách ni lông hình bướm, hoa, rất đẹp, rất khéo tay. Cha đan cho mỗi người một cái giỏ rất tuyệt. Nữ nhìn cha, chợt nhớ tới danh tướng Phạm Ngũ Lão thời xưa.
Toà cho đôi bên đối chất. Cha nói:
- Nói về việc đời và luật pháp, thì có thể tôi thua chú. Nhưng, có điều nầy, trước khi chú mượn lại giấy tờ, các con tôi còn cất giữ bản hợp đồng chính, giấy giao kèo của tôi và chú có thị thực của chính quyền. Và, con tôi đã hoàn trả tiền vốn, tiền lời cho ông già cố. Ông ta đã làm tờ bãi nại đây. Của cải vật chất kể như không cần thiết, tôi bỏ hết. Tôi rất buồn một điều, là chú quá nghe lời chú Hồng, vì đồng tiền mà tán tận lương tâm, đến nỗi bán đứng anh em ruột thịt. Vì danh dự của tôi, danh dự gia tộc, tôi yêu cầu chú một điều:
- Khi đoạn sang phần đọc sách thánh, chú cùng tôi lên bàn thờ, đặt tay trên sách thánh, mà thề đã chứng minh, và nói ra sự thật.
Chú vụt xô ghế đứng dậy, giãy nảy lên như điả phải vôi. Chú khoát tay lia lịa, lắc đầu quầy quậy, mặt chú tái xám, như con gà bị cắt tiết. Chú nhất định không chịu đề nghị đó. Chú nói:
- Chuyện ni không liên quan chi đến nhà thờ.
Cha xin phép nói câu sau cùng: - Có đó. Nếu Chú ngoan cố, trước mặt Thiên Chúa, gia đình tôi không tha thứ tội lỗi do chú gây ra. Chú sẽ mang bản án nầy suốt đời. Tôi không còn câu gì nói với chú nữa.
Sau ngày đối chất hai tháng, bỗng dưng cha được thả tự do. Cha đi về trên chiếc xích lô ngược gió, cái cặp táp suốt bốn mươi năm là thứ đồng hành trung tín, đã theo cha đi đó đây trên bước đường tha phương cầu thực. Tuy góc cạnh sờn cũ, nhưng da còn bóng, do gìn giữ cẩn thận, nâng niu kỷ niệm đầu đời.
Dưới chân cha, lố giỏ nhựa đủ màu đan đủ kiễu, các món quà mà cha khổ công, ngồi suy nghĩ về tình đời và tình người, cha cặm cụi đan suốt ngày tháng. Món quà kỷ niệm dù bé nhỏ, nhưng là bài học đắt giá dạy cho gia tộc Hoài sự cả tin, cẩn trọng, và nhân, lễ nghĩa, trí, tín.
Nào ngờ cha được thả tự do. Tự do! Trời! Nghe sao mừng rỡ hân hoan cường diệu, lên tuyệt đỉnh hạnh phúc thế không biết! Vậy là vui lắm rồi.
Mặc dù cha đã đánh đổi tất cả gia tài tom góp nhặt nhạnh suốt một đời người lao khó, kèm theo tấm lòng vị tha, cẩn trọng, tin yêu, danh dự, sức khỏe, hạnh phúc và tuổi già ập nhanh đến. Từ những ngày cha cơ cực bức xúc trong lao tù khốn khổ bi ai.
Dù gia đình chẳng vẹn toàn, lại có phần rách nát lầm than khổ sở hơn, cha hãnh diện ngẩng cao đầu nhìn thẳng vào sự thật, không chút ngượng ngùng bối rối, khi người khác gục đầu cúi mặt, che đôi mắt thâm đen bằng hai mãnh ve chai.
Cha không muốn khui to chuyện. Răng hở thì môi lạnh, chú trẻ người non dạ, bị cám dỗ bởi phú quý vinh hoa, là chuyện thường.
Cha vị tha, nhưng dẫu sao nỗi bất bình trong gia đình anh chị em, càng đẩy lòng oán trách chú, lên nấc thang uất giận cao hơn, khi tang thương hằn sâu trong tiềm thức mỗi người, như vết khắc trên đá, không có gì kỳ cọ tẩy xóa sạch.
Vài ba anh chị em chán nãn bỏ cả đi lễ nhà thờ. Nữ tuy là út ít, nhưng đã có trí khôn, biết phân biệt phải trái, đã nhen nhúm trong lòng sự thù giận tình người hừng hực, khởi đi từ đó.
Bây giờ, Nữ muốn lăn xã vào đời, tự kiếm miếng cơm manh áo, mong đỡ bớt gánh nặng cho gia đình. Qua trung gian của Gái Nhỏ, Nữ viết tặng Thương câu:
- "Tình bằng hữu bất diệt trong mỗi chúng ta".
Sau vài lần trò chuyện ngắn ngủi. Nữ và Nguyễn Văn Thương, quen nhau ở xóm cầu Thanh Long, chưa có gì thân, ngày tết Thương theo anh Chín Doãn, ra nhà cha mẹ chơi vui vẻ.
Mồng bốn Thương về nhà, bị ông nội và ba, nện cho một trận nên thân.
Mồng sáu Nữ vào nhà anh Bảy ăn ở đó, để đi học lại, Nữ bị cô bác của nhà Thương chạy đến chửi mắng, la hét inh ỏi. Họ chửi bới những lời thô bỉ, tục tỉu nhất.
Anh Bảy tức mình, ngày Tết ngày nhất không yên mồ yên mã, lần đầu tiên và là lần cuối cùng, anh lôi Nữ ra đánh cho một trận thiệt đáng đòn, cũng nên thân luôn.
Thế là “Tình bằng hữu chết tiệt trong mỗi chúng ta”.
Mặc dù, Thương đã yêu nàng say đắm. Tháng ngày Nữ sống ở Huế, là thế đấy!

_ * _

Kính mời qúy độc giả xem tiếp chương 25
Trân trọng,
Ưu Du
Users browsing this topic
Guest (88)
11 Pages«<23456>»
Forum Jump  
You cannot post new topics in this forum.
You cannot reply to topics in this forum.
You cannot delete your posts in this forum.
You cannot edit your posts in this forum.
You cannot create polls in this forum.
You cannot vote in polls in this forum.