GIỮA HAI LẰN ĐẠN
Chương 10
ĐỜI LÍNH NHỌC NHẰN
Cuộc sống tao loạn bắt đầu nơi chiến trường sôi sục, năm 1962.
Ngày đến. Ngày tàn. Rồi ngày lại ngày, tiếp nối qua nhanh, lạnh lùng qua nhanh. Không đổi mới hơn.
Nhiều chặng đường lầy lội, gập ghềnh, lồi lõm bởi xe tăng, thiết giáp đi tảo trừ, xe GMC cày xới. Đất đỏ ngợp trời mù bay. Bụi cây bờ cỏ đốt trụi, đen thui. Bên sườn dốc hàng thép gai nhiều lớp bao bọc ngọn đồi, chưa chắc hứa hẹn bình an.
Bóng chòi canh gỗ, cao chót vót. Người lính phong sương trông vô cùng đơn điệu, trên vọng gát nơi phòng tuyến. Anh quan sát một vòng cung trách nhiệm, đầu đội nón sắt, súng cầm tay. Anh luôn quan sát tứ phía.
Trận bão lửa. Đạn pháo tầm gần tầm xa, tạo thành cơn cuồng phong quay tít hỏa mù, xoáy bốc, hung hăng điên cuồng hung bạo. Đạn lửa xẹt xẹt bay qua bay lại, đan chéo qua chéo lại. Như màn nhện đỏ ngầu gớm ghiết trên đầu mọi người.
Hằng chục quả đại bác không giật 57ly, đại liên M 60, nổ ầm ầm ghê rợn, bay vút lên trời, rơi xuống ngọn núi cao. Toé ra muôn ngàn mảnh đỏ, đụn khói cuộn phụt lên, bụi lửa mù hắc ám che khuất góc núi. Theo đà lướt, hai quả bom chúi mũi bay xuống tọa độ ấn định, khá chính xác. Khiến địch im hơi lặng tiếng, nhiều ngày giờ.
Nặng nề nhất vẫn là các nơi đình, chùa, miếu, nhà thờ làm bia đỡ đạn bị kích tan nát, tơi bời, hầm trú ẩn phá, hủy diệt nơi thờ phượng. Do ai cấm đoán tự do tín ngưỡng? Những cái đầu mất mũ sắt, mặt đầy máu, văng óc xám bầy nhầy, trộn với đất, cát và tro.
Đôi mắt anh lệch tròng lòi ra, trợn ngược nhìn trừng trừng. Miệng há hốc, nhăn răng, lưỡi dài thườn thượt. Thân hình anh cong gập, tay chân co giật run rẩy từng cơn nẩy, trước khi sụm xuống. Anh bất động vĩnh viễn trong nỗi yêu thương dày vò tột độ.
Chớp nguồn rực lửa từ trong bóng tối. Vẫn cung cách ấy, không khí ngột ngạt nặng nề, oi nồng khó thở. Khói lửa phủ chụp trên đầu. Tất cả đều tàn bạo, dửng dưng. Khi chiến cuộc tỏa sức sống xoáy đảo ác liệt, quay tròn. Sắt lạnh trên từng chặng đường giao tranh thảm khốc. Bi thương tột cùng. Hung hăng. Kinh hoàng nhất.
Bao giếng mắt đẫm lệ chia ly. "Chính hài cốt của người quá cố, đã cấu tạo thành Quê Hương" như Lamartine đã nói. Dù nơi nầy, kinh khủng hơn đất nước nào xa lạ khác. Dù cho Quê Hương Tôi ngất lịm giữa ngàn đắng cay, đau đớn khổ ải không kết thúc.
Người; Người vẫn đi giữa hai lằn đạn. Đi đi, đi mãi... lúc tháng ngày lạnh lùng trôi qua. Tuổi thanh xuân. Sức quyến rũ. Tài nghệ bẩm sinh. Trí dục, đức dục. Niềm tin yêu dần dà tàn phai, phôi pha. Thản nhiên trôi trong cảnh phù sinh kinh hoàng. Ôi! Biết làm thế nào hơn.
Con đường phiá trước trở thành đêm tối mịt mù không cùng. Phút chốc sau đuôi xe, mặt trời nhẹ nhàng rón rén vươn lên, tỏa màu hồng tươi chan hoà, len với màu đỏ thắm và màu vàng tía, như gom cả ánh sáng đầu ngày vừa hé.
Trúc nhắm mắt, cúi gập người xuống, hai tay bưng đầu, run rẩy lo sợ tột cùng. Nỗi khiếp sợ càng mài liếc xuống bờ ngực, cho nỗi đau đớn thêm thấm đẫm từng chân tơ kẽ tóc. Trúc tưởng lúc nầy, như là hoàng hôn dìu dịu, trộn lẫn bình minh tuyệt đẹp, ẩn trong các đài mây ngà.
Một hôm, Đoàn đến trình diễn tại chợ Xóm Chùa. Con đường cũ mấy tháng trước, đầy lá cây mượt mà xanh um, xôn xao rủ rê gọi gió, phủ bóng mát bên ven bờ. Con sông xanh thơ mộng uyển chuyển, êm đềm lượn mình quyến luyến ôm cồn cát trắng, và gió nhẹ mơn man ru khúc đồi thưa. Bây giờ đã khác hẳn.
Người đàn bà hớt hãi, tất tả quảy quang gánh lên vai, vừa chạy vừa kêu:
- Bà con ơi! Chờ tui đi coi văn nghệ với chớ.
Bà quảy "triêng gióng nợ đời", độc nhất vô nhị trên vai, lưng còng xuống những cố gắng vĩ đại. Phía trước triêng gióng, là thằng cháu đích tôn, mệt mỏi co mình ngủ gật trong thúng. Vòng tay bé vẫn ôm bức tượng Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp. Chiếc nôi đời kẽo kẹt trên vai gầy đong đưa. Phía sau là mớ gia tài lộn xộn, áo quần, tô chén, son nồi luộm thuộm. Hai bà cháu sống còn, dắt díu nhau, bò lê trên dòng đời đầy binh lửa.
Trăng chưa mọc, nên trời tối đen. Bóng tối ghê rợn, buồn bã bao bọc làng quê, như có điều bí ẩn. Từng vết nhăn trên trán cụ già trầm tư, ngồi bó gối bên bậc thềm. Đa số dân làng chân không nứt nẻ, sần sùi. Lớp da dày khô khan đầy đất bùn. Tơi rách trên quần áo vá chằn vá đụp. Thân hình gầy còm xanh xao, hốc hác. In dấu ấn triền miên khổ cực, lam lũ, đói lạnh, hằn trên vừng trán, dưới đuôi mắt mệt mỏi lờ đờ, nơi bao mái tóc ngã bạc trước thời gian.
Tuy vậy, họ hân hoan khi xem các đoạn hài kịch, thích thú vỗ tay, qua màn tân cổ nhạc giao duyên. Thế mới biết: Từ trong lớp vải sờn rách thô sơ, họ còn một trái tim nóng bỏng cuống quít gọi tình. Họ cưu mang tình tự quê nhà thắm thiết, dạt dào Tình Quê chân thật. Ngọt ngào, vời vợi như chất men nồng, keo thơm, toả nhựa mật từ hương hoa, khiến mình ngây ngây, say say.
Lũ trẻ con, đứa chạy, đứa bò, đứa lết đít, kéo theo những vệt bùn loang trên mặt đất ướt. Trừ đứa quá lớn, có quần đùi, đa số hầu như trần truồng. Đầu tóc bù xù, mặt mũi lem luốc như chú mèo vá. Tấm thân èo uột, bụng ỏng đít teo. Thật xấu hổ!
Ôi! Giữa cảnh khốn cùng, nghèo đói, chiến tranh liên miên, bệnh tật, thiên tai luôn bám sát người dân, dai hơn điả đói. Còn hay biết gì, mà xấu với hổ cơ chứ!
Đám trẻ thả diều, thấy Hoài ca trên sân khấu, chúng say sưa nhìn cô, liên tục vỗ tay hoan hô. Không vì Hoài hát hay, mà do mừng rỡ, thấy người quen biết. Mấy tuần nay, chiều chiều khi gió bắt đầu lên, hai “cô lính mới” thấy đôi cánh diều cao bay. Con màu trắng cụt đuôi, được nối một đoạn giấy hồng. Thêm một con diều mới, giấy bóng thân màu đỏ, đuôi khúc hồng khúc xanh.
Diều sánh vai êm đềm bay lượn trên không, trông thật đẹp mắt, dưới dãi nắng vàng hanh, nhuộm đầy những mái tóc hoe hoe. Nhìn hai con diều, Hoài, Trúc, cảm thấy vui vẻ, len lõi chút hạnh phúc, ấm lòng yêu thương, nồng ngọt tình tự dân tộc dường bao!
Trúc mặc áo mini robe, bên trong có soutien nòng sắt độn khéo, nâng bộ ngực nở nang lên cao. Trúc cùng bạn biểu diễn các điệu Rumba, Bebop, Boston, Valse, Tango, Cha Cha Cha, Pasodoble. Thu Hoa ca bài "Biệt Kinh Kỳ" của Lê Minh Bằng: “Bạn ơi. Quan hà xin cạn chén ly bôi. Ngày mai tôi đã, đã đi xa rồi...”
Buổi công tác nầy, Trúc không đạt kết quả, bị phê kém nhất, kể từ khi đi làm. Làm sao được! Khi trong bất cứ hoàn cảnh nào, Trúc muốn vươn lên, cố gắng hết mình, dù thật khó khăn. Lòng dạ nào mà ca với múa, khi nhìn đồng bào cơ cực lầm than đến vậy?
Dọn dẹp sân khấu, chất đầy lên xe GMC xong, đã hơn nửa đêm. Anh em chia nhau vào xóm, xin ngủ nhờ ngoài vỉa hè nhà đồng bào. Do quá mệt nhọc, vừa ngả lưng xuống chiếu, hầu hết đã ngủ say.
Bỗng loạt súng nhỏ nổ dòn bên rào Ấp Chiến Lược (Strategic Hamlets) vang lên. Mọi người choàng thức dậy. Vụt ngồi lên, nghe ngóng đạn nổ từ hướng nào. Các mái nhà đạn bay vù vù trong không khí. Họ sợ hãi nằm bẹp xuống. Người nầy chồm trên người kia, kêu thất thanh, như con heo bị chọc tiết. Sờ soạn tìm nhau trong bóng tối.
Thời buổi nầy, thà chịu tối yên thân, hơn thắp đèn đóm làm gì. Có đèn chẳng khác nào "Lạy ông, tôi ở bụi nầy". Đi đâu mò mẫm sờ soạng, như người mù, mà chắc ăn dưới ánh trăng mờ nhạt.
Trung úy Phước để ngón tay trỏ lên giữa môi, thì thầm rất khẽ. Anh có ý bảo im lặng, ra dấu cho anh em di chuyển đi chỗ khác. Đó là khuôn mặt của một người đã có vợ và bốn con, đầy tự tin. Anh cứng rắn và quyết tâm hướng dẫn anh em, trong giờ phút nguy hiểm nhất.
Anh ghi nhận nguồn tin cẩn thận, xem xét điạ đồ, địa hình chính xác, điều nghiên, thực hiện ở mứt tốt nhất, nào dám ẩu, liều lĩnh đưa Đoàn vào chỗ thập tử nhất sinh. Là sĩ quan từng trải nơi chiến trường, anh hiểu rỏ mưu lược, am tường về CS, anh không cầm con dao nhọn, xoáy vào tim đồng đội.
Rừng cây không tên, mọc đủ mọi thứ cây ba láp rậm rạp, chằn chịt um tùm, khó vạch lối đi. Hai tay họ luôn chuồi ra phía trước, giạt lối tìm đường. Cành cây xum xuê khô cứng cao tới ngực, tới đầu. Có cây trụi lá, cào xướt rách mặt, tay, chân, quất vào thân những lằn đỏ nhỏ, đau điếng. Người đi sau nối chân người đi trước, thành hàng dọc. Họ lầm lũi bước đi, giữa chỗ lạ cái lạ nước.
Bất cứ đâu đâu, cũng có kẻ thù hiếu sát độc hại rình rập quanh ta, mình không có gì che chắn, dù đã co rúm người lại lũi nhanh. Vẫn như phơi mình lồ lộ giữa trời, làm mục tiêu cho địch nhắm vào.
Tìm ra chỗ đậu xe rồi. Mọi người hối hã leo lên. Xe GMC để đèn mắt mèo, chạy quá chậm trên đường gập ghềnh bờ mô ụ đất. Sương muối rơi lốp đốp trên mui xe, giọt sương to tròn và nặng như hạt mưa. Kỳ thực đó là sương miền núi trắng xóa, làm nặng trĩu thêm bầu trời.
Xóm làng chìm ngập trong đêm sương ẩm ướt lạnh lẽo. Con đường cái quan nhòe đi, uốn lượn dưới ánh trăng rừng, giống con bạch xà khổng lồ nằm ngủ. Phút chốc vầng mây đen phủ trùm góc trời khuya. Cách nhau mươi bước, không ai nhìn thấy vật gì.
Cây cối đen nghịt chìm trong bóng tối thăm thẳm. Đom đóm chập chờn, lúc tắt lúc sáng trên những ụ mối. Tiếng côn trùng rỉ rã. Quốc kêu hè về. Bầy dơi ăn đêm kêu chít chít, đập thân vào hông xe bồm bộp. Dế gáy ré ré. Muỗi vo ve nhiều vô số kể. Ếch nhái kêu uồm uộp. Thỉnh thoảng con cú nấc từng tiếng cụt lũn; Nghe ớn lạnh giữa khuya muôn trùng khổ ải, đơn điệu, hoang tàn, đầy kinh dị.
Đến một cánh đồng ruộng đã gặt, còn trơ cuống rạ. Tất cả xe tắt đèn, mò mẫm chạy chậm chạp, ì ì trong bóng đêm. Trăng lá mít, như con thuyền đơn độc méo mó, ẩn hiện trôi bềnh bồng trong vùng mây đục. Xe chạy khó khăn, như con rùa bị thương, bò trên đường nhựa nóng.
Đến tụ điểm, họ chia đều ra trực gát. Cạnh đơn vị Pháo Binh, có thiết xa M 41 trang bị đại bác, cùng máy chiếu hồng ngoại tuyến, đề phòng lúc giao tranh về đêm. "Phe ta" ra dấu hiệu cho nhau, bằng máy truyền tin PRC – 25.
Đơn vị bạn nhận ra bạn láng giềng, đồng ý cho vào nghỉ trong cánh ruộng khô. Người ta trải poncho nằm chung dưới đất sình, mặc bầy giun, dế, rắn, rết, sâu, bọ hung xủi đất dưới lưng. Người mắc võng trên thân cây, gió lạnh xuyên qua lồng lộng dưới lưng. Người nằm trên đường cái. Người chui vào gầm cầu, hay leo lên các xe chất đầy đồ dùng. Đời lính đầy nhọc nhằn, gian khổ vô cùng, mà quá bạc đãi!
Hoả châu luôn rơi cuối rừng, trông đơn điệu, kinh hoàng. Một tiếng động cơ rít xoáy, nghe khô khan. Pháo Binh cho dùng hoả tập TOT từ nhiều hướng, bắn cận phòng vào một mục tiêu nã đạn. Bay ngang đỉnh đầu mọi người, xẹt ra vệt lửa đỏ dài, lướt gió vun vút. Vài giây sau, tiếng nổ ầm ầm, rền rĩ ngân vọng.
Phiá xa xa, hiện lên mấy cây nấm khổng lồ, khói xám xịt, lửa đỏ rực từ mặt đất đùn lên, đùn lên mãi, cuồn cuộn từng vòng. Trông dễ sợ vô cùng trong bầu trời khuya u ám.
Mùi thuốc súng xông ra, hăng nồng, hôi không chịu thấu. Từ nắp đáy súng cối, vỏ đạn chạm vào nhau kêu lẻng kẻng, bốc khói khét lẹt. Như mùi lông da trâu bò thúi.
Bùm!!! Chỉ một tiếng nổ nghe rùng rợn, ớn lạnh giữa đêm trường hoang vu cô tịch. Là dường như tất cả mọi vật, đều trở thành tro bụi, đất cát, khói đen mù mịt, lửa đỏ rực. Mùi khét bay về không chịu nỗi. Đau buồn da diết!
Chuyến đi nầy ký ức Hoài, Trúc, ghi lại những gì mục kích được, giữa hai lằn đạn quầng xiết lấy nhau.
Trúc và Hoài nằm ngược, nằm xuôi trong ca bin xe GMC. Mở cửa kính ra, thì muỗi ào vô như bầy ong, gió rừng ùa vào lạnh kinh khủng. Đóng cửa lại, thì nồng ngộp. Chịu không nỗi. Xoay qua trở về một hồi lâu, Trúc gát chân lên tay lái, đụng phải cái còi xe. Nó "tin, tin, tin" một hồi dài, nghe ghê rợn giữa cảnh trí không bình yên. Khiến mọi người run sợ toát mồ hôi. Họ sợ lộ mục tiêu. Các anh chửi nhoi trời đất:
- Đứa nào ngu quá vậy? Mất dạy thật. Ông đá cho một cú, bay đầu bi giờ.
- Ngu như con bò. Đi ra khỏi ca bin ngay đi à.
- Coi chừng tao vặn cổ tréo ngược ra sau, hết ngu si.
- Thôi. Trúc xin lỗi. Mắt cá chân Trúc nó mù, hổng thấy đường. Xin lỗi.
- Lỗi với phải gì! Coi chừng toi mạng cả đám nha.
Không hiểu Trúc có biết tên người vừa nói câu sau cùng đó không? Hoài thì tưởng anh ta là quen, hóa ra không phải. Tưởng vậy, nhưng nào phải người quen. Mặc các anh chửi thề, văng tục quá sá. Hai cô gái nằm im trong ca bin xe, ôm nhau khúc khích cười.
Dù Trúc có là con cháu ông Tá ông Tướng, nếu lầm lỗi khi ra chiến trường, vẫn bị anh em chửi nhoi trời đất, chả kiên nễ nịnh nọt gì!
Trúc quay lại cùng hướng, hai đứa nằm chèo queo, nói chuyện rù rì một hồi, bỗng im bặt. Có lẽ không phải bước chân dừng lại gần cửa xe, chẳng qua hai cô say chuyện, nhầm lẫn đó thôi. Trúc ú ớ vài tiếng ngập ngừng, rồi thở đều và ngáy nhẹ, thả hồn vào giấc mộng khuya.
Trời tối và kinh dị quá! Nhất là khi ăn bờ ngủ bụi, nằm trơ trọi giữa cánh đồng vắng lặng, đầy mùi tử khí. Cảm giác ớn lạnh toát lên, từ đồng ruộng quạnh hiu càng tăng. Màu đen xám hoang vu rờn rợn.
Hoài trằn trọc mãi không sao chợp mắt, (dù trong giây lát). Nằm mà không sao chợp mắt phút nào, nên đêm hóa ra dài đằng đẵng. Từng tiếng thở dài nhè nhẹ vang lên trong đêm trường, thay tiếng nấc âm thầm. Thay niềm đau thế sự, có tác dụng bền lâu, vang dội tận đáy lòng Hoài trăm ngàn ray rứt.
Bây giờ cách xa Dalat cả ngàn dặm sơn khê, Hoài nhớ biết mấy giờ phút thoáng mát, êm ái, yên tĩnh và bình an. Nơi đó, mẹ đã từng ru con, qua bao câu ca dao ngọt ngào, tự thuở con còn nằm nôi, bên dòng đời chao đảo, đau vùi, trôi trôi.
Ngày bận rộn việc nầy việc nọ luôn luôn, khiến thể xác mệt mỏi, tinh thần căng thẳng hơn. Sự khó chịu buồn bực thường dõi theo, trong lúc mình làm sang việc khác. Hình ảnh người Trưởng Ấp bị bọn nằm vùng giết chết thê thảm, thân ông ta vắt trên cây cầu Khỉ cheo leo. Cây cầu thân thương nơi làng quê, móc từ bờ nầy sang rạch kia, qua hàng bao thế kỷ, vẫn không thay đổi hình dáng, tưởng đã êm đềm, ấm nồng duyên quê. Chứ ngờ đâu, in dấu sợ hãi kinh khủng!
Gió rít lộng qua cây cầu cheo leo lắc lư, kêu kẽo kẹt, chơ vơ, trơ trọi, mà không có vật gì cản lại. Gió lạnh lùa sương dày đặc, cuộn thành từng lọn, bồng bềnh trắng xoá, mù mịt, bất nhẫn, lồng lộng thổi qua dòng sông đau thương.
Như đuổi theo cuộc trốn chạy miết mãi. Cuồng nộ. Không ngưng nghỉ. Không nương nhẹ.
_ * _Kính mời quý độc giả xem tiếp... Chương 11
Trân trọng,