Welcome Guest! To enable all features please Login or Register.

Notification

Icon
Error

12 Pages«<89101112>
Sài Gòn mãi mãi là Sài Gòn
viethoaiphuong
#181 Posted : Wednesday, January 6, 2010 5:17:03 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)



Sài Gòn Thuở Đó Làm Sao Quên ?

http://www.youtube.com/watch?v=uxaY9N0AYJ8



viethoaiphuong
#182 Posted : Saturday, February 27, 2010 3:04:29 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
posted by Bích Huyền TV-VB

Vưà đọc bài này vui buồn lẫn lộn, gửi em nhé! (vui vì ông tác giả này có cách hành văn dí dỏm khiến người đọc phải mỉm cười... Chẳng hạn như :


..."Nắng Sài Gòn vẫn gay gắt và nóng rát da. Di chuyển ngoài đường ban ngày, nếu không ngồi xế hộp thì ai cũng khoác vào người cái áo dài tay thật dày để chống nắng, kèm theo khẩu trang trùm kín cổ và ngực, găng tay màu sáng, đi tất dầy, đi giày kín mít, nhìn ai cũng như Ninja. Người quen gặp nhau ngoài đường chả biết ai là ai, thấy xung quanh mình toàn là “những đôi mắt mang hình lựu đạn” đang trừng trừng, sẵn sàng xông vào nhau để “giải tỏa sì-trét” cho khỏi cái bức bối trong người vì tắc đường, khỏi chào hỏi nhau, khỏi mỉm cười xã giao chi ráo.")



Việt Nam, đón tân niên bằng bốn tin buồn
Thursday, February 25, 2010








Hết Tết, đường phố Sài Gòn lại kẹt cứng như nêm. Ðồng đổ cho tướng, tướng đổ cho đồng nên chẳng ai chịu trách nhiệm. (Hình: AFP/Getty Images)



Vương Tỷ/Người Việt


“Tháng Giêng là tháng ăn chơi/Tháng Hai trồng đậu, Tháng Ba trồng cà/Tháng Tư cày vỡ ruộng ra/Tháng Năm làm mạ, mưa sa đầy đồng...” Gì thì gì, hồi xưa, dân mình ăn Tết đến hết Tháng Giêng, ít nhất cũng phải hết ngày rằm Tháng Giêng là ngày “hạ nêu.” Bây giờ, người ta hay nói, “Ăn Tết hết mùng hết mền mới thôi.” Không biết tục lệ “chọn ngày tốt khai trương” sau Tết Nguyên Ðán có từ khi nào, nhưng năm nào người Việt cũng lựa ngày chẵn để khai trương công việc làm ăn. Nhiều người chỉ mở cửa, cúng kiếng một lúc “lấy ngày hên” rồi lại đóng cửa đi chơi tiếp. Nếu không khai trương lấy hên vào các ngày mùng 2, mùng 4, mùng 6 thì phải đợi đến ngày “cửu nhật,” tức mùng 9, đại kỵ ngày mùng 8. Năm nay, người dân Sài Gòn ăn Tết hơi bị dai, phải đến ngày mùng 9 mới đồng loạt mở cửa đông đủ, món gì cũng có.

Sáng mùng 9, cầm tờ báo lên đọc, tôi được “chào đón khai trương” bằng bốn “tin buồn”:

“Tin buồn” thứ nhất là xăng lên giá thêm gần 600đ/lít, tức mỗi lít hiện nay có giá từ 17-18 ngàn đồng, tương tự lúc thời điểm xăng lên giá 19.000đ/lít khi giá dầu thế giới là 147 USD/thùng, còn bây giờ giá dầu thế giới là 74 USD/thùng. Tôi chỉ có một chiếc xe máy đi đây đi đó, nên tôi buồn vì giá xăng tăng thì ít mà buồn vì cảm giác bị lừa dối thì nhiều, bởi lẽ mấy câu so sánh giá xăng trong nước và giá thế giới trong từng thời điểm đăng trên báo giấy Tuổi Trẻ ngày 22 tháng 2, 2010 thì có, mà trên Tuổi Trẻ Online thì đã bị giật xuống mất rồi. Bản tin tiếng Việt trên trang BBC cùng ngày ghi nhận, “Giá dầu thô tuần trước đã giảm xuống dưới 75 đô la Mỹ/thùng trên thị trường thế giới.” Tôi chỉ bảng tin có so sánh giá dầu trong và ngoài nước này cho một người quen hành nghề xe ôm xem, anh ta chỉ biết kêu lên, “Trời ơi, chết tôi rồi!” và ngao ngán lắc đầu. Tôi hỏi đùa cô chủ quán cà phê, “Xăng lên giá rồi, cà phê hẻm có lên giá hông?” Cô chủ quán toét miệng cười, “Em không lên giá nếu mua được cà phê giá cũ. Xăng lên giá thì vài bữa nữa thế nào cái gì cũng lên giá. Người ta chở đồ đi bằng xe chớ đâu có ai cõng đồ đi bộ ra chợ bán.”

“Tin buồn” thứ hai là lô-cốt tái lập trên tất cả mọi nẻo đường thành phố, thôi rồi mấy ngày Tết dung dăng dung dẻ thong dong chạy ngời ngời ngoài đường nay còn đâu. Tiếp tục những ngày ngộp thở giữa kẹt xe và khói bụi mịt mù.

“Tin buồn” thứ ba (cái này chẳng những “buồn” mà còn “đau” nữa) là “Nhiều phụ nữ Việt Nam bị bán sang Trung Quốc.” Cả nước có 63 tỉnh, thành mà đã có “255 địa bàn trọng điểm, 89 tuyến trọng điểm về buôn bán phụ nữ và trẻ em. Ðó là kết quả điều tra cơ bản, rà soát của công an các địa phương vừa được văn phòng thường trực Chương trình quốc gia phòng chống buôn bán phụ nữ, trẻ em thống kê.” Thế thì nước ta trở thành cái thị trường “sản xuất và cung cấp phụ nữ” cho Trung Quốc mất rồi.

“Tin buồn” thứ tư là giá điện mới sẽ tăng gần 5% và áp dụng vào ngày 1 tháng 3, 2010. Ngành điện cứ nói là, “sau việc thực hiện chủ trương điều hành giá xăng, dầu theo cơ chế thị trường, việc đưa giá điện sát hơn với cơ chế thị trường lần này là bước tiếp theo một cách hợp lý xét trên cả ý nghĩa kinh tế và tâm lý xã hội.” Dân đen hoàn toàn hổng hiểu “cơ chế thị trường” ở Việt Nam nó khác với “cơ chế thị trường” các nước tư bản thế nào, chỉ biết rằng ở nước người ta “Nước lên thuyền lên, nước xuống thuyền xuống,” giá thế giới thế nào thì trong nước thế đó; còn xứ mình thì “khi thăng khi giáng” theo kiểu “tùy hứng lý qua cầu,” ở ngoài người ta giảm mà trong nước mình lại tăng, tăng thì như sóng thần, mà giảm thì nhỏ giọt như nước thủy cục.

Hôm nay, tất cả các cửa hàng, công ty đều mở cửa. Tất nhiên, ngoài sự nhộn nhịp thường nhật được lập lại sau những ngày dài vắng lặng do nghỉ Tết thì ở đâu cũng có thêm cái bàn bày mâm cỗ cúng với khói hương nghi ngút, mùi vàng mã đốt khét lẹt bay trong gió. Phố chuyên bán linh kiện vi tính, tin học Bùi Thị Xuân, Lê Thị Riêng (quận 1) vắng người mua, có mấy ai mới đầu năm đã chạy ra hàng mua máy tính bao giờ. Bánh trái, hàng quán càng vắng đậm, bánh ở nhà ăn không hết mà, ra quán làm chi. Một người quen của tôi, ai lại nhà chơi chị cũng năn nỉ ăn giùm bánh chưng. Chị vốn gốc Bắc, lại theo đạo Phật, nên cúng kiếng theo phong tục miền Bắc. Suốt từ ngày 30 đến ngày mùng 4 Tết, ngày nào chị cũng cúng ông bà. Mà mâm cơm cúng phải đủ năm món mặn, món xôi gấc, bánh chưng, không đủ món thì không được. Bánh chưng cúng phải bóc vỏ, xắt miếng để ra dĩa. Cúng xong, bê vào tủ lạnh cất. Hôm sau, chị dọn mâm cỗ mới cúng tiếp. Bọn nhóc nhà chị mãi đi chơi Tết với bạn bè, không thèm ăn cơm nhà. Hết Tết, tủ lạnh nhà chị đầy nhóc đồ ăn đã cúng mà không ai ăn.

Hôm nay cũng là ngày trẻ con trở lại trường, phụ huynh đưa rước nườm nượp. Xe cộ bắt đầu ào ào chen lấn nhau, tranh nhau nhích từng bước ngoài đường. Người lao động nhập cư cũng cùng nhau đổ về thành phố, các ngả đường Sài Gòn đều đông nghẹt xe cộ các loại, kẹt nặng nhất là ngay chân cầu Bình Triệu 2, nơi giáp với bến xe miền Ðông là điểm tập trung nhận các chuyến xe từ miền Trung, miền Bắc quay vào Sài Gòn. Tôi gọi điện cho mấy người quen, hỏi sao giờ này vẫn chưa thấy mặt mũi đâu cả. Họ trả lời, “Ðang bị kẹt xe ở bến phà.” Từ miền Tây lên Sài Gòn mấy trăm cây số, chưa kịp vui mừng vì mới có đoạn đường cao tốc Trung Lương 39km mà báo chí tâng bốc ầm ĩ đến trời thì lại lo xe chạy vào đó nổ vỏ đùng đùng liên tục, chạy nhanh thành ra chạy chậm, đường ngắn lại hóa đường dài. Nghe quý bác ở trên Bộ Giao Thông Vận Tải nói nguyên nhân lật xe, nổ bánh xe hàng loạt ở đường cao tốc Trung Lương là do xe của dân ta kém chất lượng, kiểm định đủ tiêu chuẩn rõ ràng mà vẫn không đủ tiêu chuẩn lưu thông trên đường cao tốc nên lật xe, nổ bánh là phải. Ngành Giao Thông Vận Tải hổng có chịu trách niệm gì hết. Tôi nghe mấy bác đó giải thích mà cứ nghĩ hoài không ra một chuyện: Quái thiệt! Sao cái đường cao tốc mới ngon như thế, đủ tiêu chuẩn quốc tế như thế mà mấy cái xe đời mới bạc tỷ nhập về Việt Nam ầm ầm (báo chí nói ra rả) hổng chịu đi vào đó, để mấy cái xe cũ mèm “kiểm định đủ tiêu chuẩn mà không đủ tiêu chuẩn” tranh nhau chạy vô đó làm chi cho tai nạn dài dài?

Nắng Sài Gòn vẫn gay gắt và nóng rát da. Di chuyển ngoài đường ban ngày, nếu không ngồi xế hộp thì ai cũng khoác vào người cái áo dài tay thật dày để chống nắng, kèm theo khẩu trang trùm kín cổ và ngực, găng tay màu sáng, đi tất dầy, đi giày kín mít, nhìn ai cũng như Ninja. Người quen gặp nhau ngoài đường chả biết ai là ai, thấy xung quanh mình toàn là “những đôi mắt mang hình lựu đạn” đang trừng trừng, sẵn sàng xông vào nhau để “giải tỏa sì-trét” cho khỏi cái bức bối trong người vì tắc đường, khỏi chào hỏi nhau, khỏi mỉm cười xã giao chi ráo. Những con đường trước đó lưu thông hai chiều, sau khi ngành Giao Thông đã điều chỉnh thành một chiều và cắm bảng cấm màu đỏ to đùng ở mỗi đầu đường đàng hoàng, vậy mà vắng bóng cảnh sát giao thông là người ta lại ào ào phóng hai chiều như chẳng có chuyện gì xảy ra. Buồn cười nhất là ở đường Nguyễn Xí (quận Bình Thạnh), một đám hơn chục chiếc xe máy đi ngược chiều mà còn “nghiêm chỉnh” dừng đèn đỏ chờ qua đường nữa chứ.

Thoáng thấy bóng cảnh sát áo vàng, áo xanh ở các đoạn đường, ngã ba, ngã tư quen thuộc. Chỗ nào các chú cũng cầm quyển biên lai lom khom trên yên chiếc xe bồ câu trắng ghi ghi, xé xé, “đính kèm” theo là mấy cô mấy cậu khác mặc áo dân sự đứng bên cạnh gãi tai, gãi đầu, mặt người thì nhăn nhó, người thì cười nịnh. Xem ra, ngày khai trương hôm nay “mấy chú” nhà mình “làm ăn” được nhất.

viethoaiphuong
#183 Posted : Wednesday, March 24, 2010 2:11:39 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
SÀI GÒN SAU HIỆP ĐỊNH GENÈVE (20/7/1954) VÀ HIỆN TẠI

Nhân ngày 20/7/2008, kỷ niệm 54 năm đất nước bị chia đôi, thử nhìn lại vai trò của thành phố Sài Gòn trong quá khứ và hiện tại:

1. Địa vị của Sài Gòn trong lịch sử Việt Nam: Sài Gòn, hòn ngọc Viễn Đông.

Trước thế kỷ thứ 17, tại Miền Nam đã có các dân tộc Phù Nam, Bồn Man, Chàm, Chân Lạp (chúng ta thường gọi là người Miên hay Khmer) đến khai thác những chỗ đất cao như vùng Trà Vinh, Sóc Trăng,v.v...Đa số phần đất còn lại chưa có người ở là một vùng đất mênh mông, nhiều chỗ còn hoang vu, đồng lầy ngập nước với những cánh rừng tràm và cây đước mọc um tùm, muỗi mòng, rắn rết, cá sấu, cọp beo, thú dữ, đĩa đói... Qua các đợt Nam tiến, các chúa Nguyễn đã quy tụ những những người dân có máu phiêu lưu mạo hiểm, có tinh thần tranh đấu, cho đi lập nghiệp ở đất mới. Họ đã phải đối đầu với quân thù, với ma thiêng nước độc, cọp beo thú dữ, cá sấu, rắn rết, muỗi mòng, đĩa đói...Bàn tay của họ đã dựng nên nhà cửa, ruộng vườn, lập thành làng mạc. Trên phần đất vô chủ nầy, ai có sức mạnh thì làm chủ, ai có công lao khó nhọc thì tạo nên ruộng vườn, nhà cửa, làng mạc. Thời Hiền vương Nguyễn Phúc Tần (1649-1687) quân đội của chúa Nguyễn rất hùng mạnh, hai danh tướng Nguyễn Hữu Tiến và Nguyễn Hữu Dật đã đem quân đánh chiếm 7 huyện phía Nam sông Lam của vua Lê chúa Trịnh trong 06 năm và đã đốt cháy 03 chiếc tàu của Hòa Lan do Van Liestvel chỉ huy ở trên biển Đông, chỉ còn một người sống sót chạy về Batavia (Nam Dương), đã làm cho tất cả các nước trong vùng phải kiêng nể. Vua Chân Lạp đã chịu thần phục chúa Nguyễn và triều cống hàng năm. Năm 1692, đầu đời chúa Nguyễn Phúc Chu, toàn bộ lãnh thổ Chiêm Thành đã thuộc về chúa Nguyễn.
Để bảo vệ những nơi có người Việt đến khai khẩn đất hoang, chúa Nguyễn đã cho đóng quân bên cạnh quân đội Chân Lạp. Tại những vùng đất mới, chúa Nguyễn đã cho tổ chức những lực lượng tự vệ gồm có binh sĩ và gia đình của họ kết hợp với dân đến định cư, lập nghiệp. Họ đã thành lập những làng gọi là “đồn điền”, thời bình thì làm ruộng, khi có chiến tranh thì họ là lực lượng chiến đấu tự vệ. Đó là chính sách “tịnh vi nông, động vi binh” đã có từ thời Lý, Trần, Lê...ở nước ta.
Lợi dụng lúc chú cháu vua Miên là Nặc Ông Chân và Nặc Ông Đài tranh quyền, chúa Hiền lấy lý do bảo vệ người Việt nên ra lệnh cho Nguyễn Hữu Cảnh đem 3000 quân vào đóng ở Bà Rịa, bắt được Nặc Ông Chân, sau đó tha cho về và bắt phải triều cống nước ta. Sau khi Nặc Ông Chân chết, Nặc Ông Nộn và Nặc Ông Đài tranh nhau ngôi vua. Đài qua cầu viện vua Xiêm (Thái Lan), Nộn thì chạy sang cầu cứu với chúa Nguyễn. Quân chúa Nguyễn đánh Nặc Ông Đài tại Sài Gòn, Đài bỏ chạy qua Nam Vang và chết ở trong rừng. Chúa Nguyễn chia đôi nước Chân Lạp cho Nặc Ông Thu (là con dòng trưởng) làm vua một nửa nước và Nặc Ông Nộn làm vua phần còn lại. Hai vua Miên đều dưới quyền của chúa Nguyễn, hằng năm phải triều cống. Người Miên (Chân Lạp) dần dần suy yếu, cho đến thời chúa Nguyễn Phúc Ánh (1790-1800), thì còn lại 12 thủ lãnh người Miên chiếm cứ 12 vùng chung quanh Gia Định. Trước khi Nguyễn Phúc Ánh thắng Tây Sơn, thống nhất đất nước vào năm 1802, tất cả 12 thủ lãnh người Miên nầy đã theo về với ông.

Từ thời lập quốc đến thế kỷ thứ 10, biên giới nước ta mới đến Đèo Ngang (Hà Tĩnh sang Quảng Bình). Cuộc Nam tiến thời Lê Thánh Tông (thế kỷ 15,16) quân ta mới đến Đèo Cả (tỉnh Phú Yên). Bảo vệ và phát triển vùng đất mới từ Đèo Ngang trở vào là công lao của Nguyễn Hoàng và con cháu của ông. Cho đến đời Nguyễn Phúc Tần (1649-1687), Nguyễn Phúc Chu (1691- 1725) thì người Việt mới có mặt ở vùng Đồng Nai, Cửu Long (Miền Nam ngày nay). Diện tích xứ Đàng Trong dưới thời các chúa Nguyễn và các vua nhà Nguyễn mở mang còn lớn hơn diện tích nước Việt Nam từ thời Đinh, Lê, Lý, Trần và Hậu Lê. Nói lên điều đó để thấy rằng việc nhà nước CSVN hiện tại xóa bỏ tên Sài Gòn là phủ nhận công lao của tiền nhân đã ba trăm năm mở mang vùng Đồng Nai - Cửu Long tức Miền Nam nước Việt của chúng ta ngày nay.

Tổ tiên của những người Miền Nam chính là dân Ngũ Quảng vào (Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Đức (Thừa Thiên), Quảng Nam, Quảng Ngãi) những danh tướng như Nguyễn Hữu Cảnh (Quảng Bình), Nguyễn Cư Trinh (Thừa Thiên), Châu Văn Tiếp (Bình Định), Đỗ Thanh Nhân (Thừa Thiên), Nguyễn Văn Thành (Thừa Thiên), Lê Văn Duyệt (Quảng Ngãi), Nguyễn Văn Thoại (tức Thoại Ngọc Hầu, Quảng Nam),v.v.

-Sự có mặt của người Hoa (Minh hương) dưới thời các chúa Nguyễn:
Dưới thời chúa Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần (1649-1687) người Mãn Châu xâm lăng Trung Hoa, lật đổ nhà Minh, lập ra nhà Thanh. Những người trung thành với nhà Minh đã bỏ nước ra đi, đem quân đội và gia đình đến nước ta xin theo chúa Nguyễn. Sách “Đại Nam Thực Lục Tiền Biên” và “Đại Nam Liệt Truyện Tiền Biên” do Quốc Sử Quán nhà Nguyễn biên soạn (ghi chép công nghiệp các chúa và các công thần thời các chúa Nguyễn) cho biết:

“Vào một ngày tháng Giêng năm Kỷ Mùi (1679) tức năm thứ 31 dưới triều đại chúa Hiền Vương, hai quan phòng giữ cửa biển Tư Hiền (Thừa Thiên) và Đà Nẵng (Quảng Nam) bỗng phát hiện một đoàn chiến thuyền của Trung Quốc kéo đến nước ta. Lệnh cấp báo được ngựa trạm trình về kinh đô Phú Xuân (Huế) và toàn bộ hải quân của xứ Đàng Trong được lệnh phải phòng giữ cửa biển thật nghiêm ngặt. Nhưng đoàn chiến thuyền kia đã dừng lại ở ngoài khơi và một chiếc thuyền nhỏ chở phái đoàn khách đã đáp vào bờ với những lễ vật và tờ tấu trình bày hoàn cảnh của họ: Đó là những quan quân nhà Minh, bị người Mãn Châu (Nhà Thanh) xâm lăng, không chịu khuất phục cường quyền và để tỏ lòng trung thành với nhà Minh nên họ đã bỏ nước ra đi, đến xứ Đàng Trong, xin được phục vụ và thề hứa tuyệt đối trung thành với chúa Nguyễn. Đạo quân thứ nhất do Dương Ngạn Địch (nguyên Tổng binh Long Môn) chỉ huy, với phó tướng Hoàng Tiến. Đạo quân thứ hai do Trần Thượng Xuyên, (nguyên Tổng binh ở Cao Lôi Liêm, tỉnh Quảng Đông) chỉ huy, với phó tướng Trần An Bình. Toàn bộ lực lượng của họ gồm có 50 chiến thuyền với 3.000 binh sĩ và gia đình”.

Chúa Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần (tức Thái Tông Hiếu Triết Hoàng Đế của nhà Nguyễn), sinh năm 1620, lên nối nghiệp chúa cai trị xứ Đàng Trong từ năm 1648 đến 1687 là người anh hùng đã từng đem quân đánh chiếm 7 huyện phía Nam sông Lam (Nghệ An) của họ Trịnh trong 6 năm và cũng đã tiêu diệt Chiêm Thành và thôn tính đất Chân Lạp, biến xứ Đàng Trong thành một nước giàu có, hùng mạnh vào bậc nhất ở vùng Đông Nam Á thời bấy giờ, uy danh vang dội đến nhà Minh, nhà Thanh bên Trung quốc. Thương nhân người Hoa, Nhật Bản, Mã Lai, Thái Lan (Xiêm La), Phi Luật Tân và các nước Tây Phương như Hòa Lan, Tây ban Nha, Bồ Đào Nha, Pháp, Anh,v.v...cũng đã vào ra buôn bán ở các cửa biển nước ta, đã làm cho Hội An (Quảng Nam) và các nơi khác ở xứ Đàng Trong trở thành những thành phố thương mãi sầm uất.

Được tin cấp báo, Hiền Vương liền triệu tập một cuộc họp tại Huế để bàn về vấn đề nầy. Các quan trong triều đã nhận định rằng:“Phong tục tiếng nói của họ đều khác, khó bề sai dùng, nhưng họ bị thế cùng bức bách đến đây thì không nỡ cự tuyệt” (Đại Nam Liệt Truyện Tiền Biên, bản Hán văn, quyển 6 tờ 14 b bản dịch của Trần Vinh Anh, Lê Ngọc Bích, Nguyễn Đức Cung, Nguyễn Lý-Tưởng, nxb Khai Trí, Sài Gòn, 1974 và Đại Nam Thực Lục Tiền Biên, bản dịch, Hà Nội , 1962, q.5 trang 125)

Với lập luận trên, triều đình chúa Nguyễn đã có hướng giải quyết là chấp thuận cho họ vào tỵ nạn ở nước ta và được làm dân của chúa Nguyễn, phục vụ xứ Đàng Trong. Tờ trình của các quan tâu lên chúa Nguyễn có đoạn viết như sau:“Nay đất Đông Phố, nước Chân Lạp, đồng ruộng phì nhiêu nghìn dặm. Triều đình chưa rỗi mà kinh lý (khai thác, mở mang), chi bằng nhân lấy sức của họ cho đến khai thác để ở, làm một việc mà lơi ba điều” (Đại Nam Thực Lục Tiền Biên, bản dịch, Hà Nội, 1962, q.5 tr.125). Chúa theo lời bàn, bèn đặt yến tiệc ủy lạo khen thưởng, trao cho quan chức, khiến đến ở đất Đông Phố.
Họ đã được chúa Nguyễn cho vào khai phá vùng Bến Tre, Mỹ Tho, Chợ Lớn, Biên Hòa...ngày nay. Họ lập chợ ở bờ sông, mở sòng bài, tổ chức hành chánh, kiểm tra dân số, thu thuế ruộng, đất, thuế bến đò, thuế buôn bán để nuôi quân và nộp cho chúa Nguyễn. Họ có công dẹp yên các cuộc nổi loạn của người Miên ở trong vùng. Thuyền buôn Quảng Đông, Quảng Tây, Phúc Kiến đến buôn bán, bà con người Hoa nghe tin tìm đến lập nghiệp...đã biến vùng nầy thành một nơi trù phú. Về sau, phó tướng là Hoàng Tiến nổi loạn giết chủ tướng là Dương Ngạn Địch để tranh quyền. Chúa Nguyễn ra lệnh cho Nguyễn Hữu Cảnh, (Khâm Sai Kinh Lược ở Biên Hòa) đem quân bắt Hoàng Tiến giết đi, rồi đưa sĩ quan người Việt vào chỉ huy lính người Minh, cho lập ra những làng dành cho người Hoa gọi là Minh hương.

Trần Thượng Xuyên, là người có công lớn trong việc bình định nước Chân Lạp, vào sinh ra tử, nhiều trận đánh thắng người Miên, đem lại ổn định cho dân chúng. Sau khi qua đời, dân những nơi ông đã đóng quân trấn nhậm, lập đền thờ để nhớ ơn. Hiện nay tại Biên Hòa và Vĩnh Long đều có đền thờ Trần Thượng Xuyên. Con trai của ông là Trần Đại Định cũng đã phục vụ chúa Nguyễn và được phong làm Tổng binh, là người trung thành, ngay thẳng, lập được nhiều công và cũng được ghi tên vào sử sách.

Mạc Cửu ở Hà Tiên là người Lôi Châu, tỉnh Quảng Đông, trung thành với nhà Minh, không chịu theo tập tục của nhà Thanh (Mãn Châu), đem gia đình theo đường biển chạy về phương Nam, đến đất Sài Mạt nước Chân Lạp (Kampuchia), chiêu dụ người Hoa, Mã Lai, Nam Dương, Ấn Độ, Chân Lạp (Miên)...đến tụ tập buôn bán, bèn mở sòng bạc kiếm lời; lại gặp được hầm chôn giấu tiền bạc nên chẳng bao lâu trở nên giàu có, bèn bỏ Sài Mạt đi đến xứ Phương Thành, chiêu dụ dân phiêu bạt các nơi đến Phú Quốc, Cần Bột, Giá Khê, Luống Cày, Hương Úc, Cà Mâu lập được 7 xã. Nghe đồn nơi ấy thường có tiên hiện ra trên sông nên đặt tên là Hà Tiên. Đất nầy dựa vào núi, dọc theo biển có thể tụ tập bun bán làm giàu được.

Người nước Xiêm (Thái Lan) thường đến xâm phạm, dân Chân Lạp nghe giặc đến bèn bỏ chạy, Mạc Cửu bất đắc dĩ phải xin hàng tướng Xiêm, được vua Xiêm cho ở tại núi Vạn Tuế. Nhân nước Xiêm có nội biến, ông liền bỏ núi Vạn Tuế về đất Lũng Kỳ, dân phiêu bạt về với ông mỗi ngày một đông. Nhận thấy đất Lũng Kỳ chật hẹp nên ông dời về Phương Thành, dân buôn bán theo về với ông càng ngày càng đông, chẳng mấy chốc đất Phương Thành càng ngày càng phồn thịnh.

Lúc bấy giờ chúa Nguyễn Phúc Chu (1691- 1725) đang cai trị xứ Đàng Trong,là người văn võ kiêm toàn, tiếng tăm lừng lẫy đến tận nhà Thanh và các nước Đông Nam Á, người Trung Hoa, Nhật Bản và Âu Châu tới buôn bán tấp nập ở các cửa biển, nhất là Hội An. Người Hoa và người Việt tuy khác tiếng nói nhưng cùng chung một văn tự (chữ Hán) nên Mạc Cửu tuy ở xa mà cũng biết rõ tin tức. Nhân có người bạn là Tô Quân, khuyên Mạc Cửu:“Người Chân lạp tính tình gian xảo, thiếu trung hậu, nên theo về với chúa Nguyễn để vạn nhất có điều gì còn có chỗ nhờ cậy lâu dài”. Mạc Cửu nghe theo. Tháng 8 năm Mậu Tý (1708) tức năm thứ 17 đời chúa Nguyễn Phúc Chu, Mạc Cửu cùng đàn em là Trương Cầu, Lý Xá mang lễ vật đến Huế yết kiến chúa Nguyễn, dâng đất Hà Tiên. Nguyên đất nầy là do chính Mạc Cửu khai phá, xây dựng nên. Chúa Nguyễn không nhọc công chinh chiến mà có, lại thấy bọn họ tướng mạo oai hùng, tới lui cung kính và có lòng trung thành bèn thu nhận đất mới nầy, đặt tên là trấn Hà Tiên, phong cho Mạc Cửu làm Tổng binh. Mạc Cửu được chúa Nguyễn ban cho ấn kiếm, cờ hiệu, được quyền cai trị dân trên một dải đất bao gồm vùng Hà Tiên, Châu Đốc, Rạch Giá, Long Xuyên, Cà Mâu...ngày nay. Chúa cho mở yến tiệc khoản đãi rồi tiễn chân ra về. Mọi người đều hoan hỷ vui mừng.

Với danh nghĩa quan Tổng Binh của chúa Nguyễn, danh chính ngôn thuận, Mạc Cửu cho xây thành quách, tổ chức quân đội, hành chánh, đặt quan cai trị tại địa phương, xây dựng cơ sở, kiểm tra dân số, chiêu hiền đãi sĩ, đón tiếp nhân tài, tổ chức làng mạc, khai khẩn đất hoang...dân chúng theo về mỗi ngày một đông, chẳng bao lâu Hà Tiên trở thành phố thị phồn hoa, đô hội. Ông mất năm 1735, hưởng thọ 80 tuổi. Ông là người đã đóng góp công lao rất lớn cho việc bình định mở mang vùng Châu Đốc, Hà Tiên, Long Xuyên, Rạch Giá, Cà Mau ngày nay, được tặng chức Nhai trấn Thượng trụ quốc Đại tướng quân Võ nghị công, năm 1823 dưới thời vua Minh mạng, ông được phong Thuận Nghĩa Trung Đẳng Thần, cho phép dân xã Mỹ Đức ở Hà Tiên được thờ tự như cũ.

Con ông là Mạc Thiên Tứ, một người văn võ song toàn vừa là danh tướng đánh Đông dẹp Bắc, giữ vững giang sơn, mở rộng bờ cõi; vừa là nhà thơ, nhà văn, đã lập ra Chiêu Anh các tiếp đãi nhân tài, có tác phẩm Hà Tiên Thập Vịnh để lại cho đời sau. Khi Tây Sơn nổi lên, chúa Nguyễn bị giết, ông theo phò chúa Nguyễn Phúc Ánh lưu lạc qua Xiêm, bị người Xiêm bắt giam và chết trong tù.

Họ Mạc vì trung thành với nhà Minh, không chịu làm tôi người Mãn Châu (nhà Thanh), đã bỏ nước ra đi đến quy thuận chúa Nguyễn và trải qua nhiều đời trấn giữ vùng biên cương, vào sinh ra tử, mở mang bờ cõi, xây dựng phố chợ, làng mạc làm cho đất Hà Tiên trở nên phồn thịnh. Họ Mạc đã tận trung với chúa Nguyễn, một lòng chết sống với quê hương dân tộc Việt Nam

Người Hoa đối với nước ta thời đó, tuy ngôn ngữ bất đồng nhưng cùng chung một văn tự (chữ hán) nên việc giao thiệp giữa họ với ta không khó khăn lám. Sống ở nước ta một thời gian, họ dần dần hiểu và nói được tiếng Việt, trải qua một hai thế hệ, con cháu của họ đã thực sự trở thành người Việt.

Trong cuộc Nam tiến, người Việt đã không đi sâu vào vùng Rừng Lá (là vùng đất dọc theo quốc lộ I từ Phan Thiết đến Long Khánh ngày nay) theo kiểu tằm ăn dâu, mà lại theo đường biển xâm nhập vùng Bà Rịa, Đồng Nai, Bến Tre, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Cần Thơ, Long Xuyên...
Sau khi Sài Gòn, Gia Định, Biên Hòa đã thuộc về người Việt thì vùng Rừng Lá đương nhiên là phần lãnh thổ của nước ta. Nhưng mãi cho đến giữa thế kỷ 19, khi người Pháp dòm ngó nước ta thì vùng nầy mới được khai thác. Đầu thế kỷ 20, khi thực dân Pháp mở mang quốc lộ I nối liền Sài Gòn với Phan Thiết thì vùng nầy càng phát triển mạnh nhất là ngành khai thác gỗ và lập các đồn điền cao su, cà phê và trồng cây ăn trái... Sau 1954, dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đã đưa dân từ miền Trung và miền Bắc vào và nhất là sau 1975, khi đất nước hòa bình toàn bộ vùng nầy, từ bờ biển cho đến tận rừng sâu đã tràn ngập người Việt đến định cư, sinh sống.

Xin trích dẫn một vài sử liệu chứng minh sự quan trọng của Sài Gòn (Gia Định) đối với dân tộc Việt Nam:

Sách Đại Nam Thực Lục Chính Biên, Đệ I Kỷ, , 1963, trang 113 ghi lại công tác xây thành Gia Định vào năm Canh Tuất (1790) dứơi thời chúa Nguyễn Phúc Ánh như sau:

“Thành đắp theo kiểu bát quái, mở tám cửa, ở giữa là cung điện, bên tả dựng nhà Thái Miếu, phía sau miếu là kho tàng, bên hữu đặt cục chế tạo, chung quanh là nhà tranh cho quân túc vệ ở. Giữa sân dựng kỳ đài ba tầng, trên làm toà vọng đẩu bát giác, ban ngày kéo cờ, ban đêm thì kéo đèn làm hiệu cho các quân. Thành xây xong gọi tên là kinh thành Gia Định...Tám cửa thành đều xây bằng đá ong, phía Nam là cửa Càn Nguyên và cửa Ly Minh, phía Bắc là cửa Khôn Hậu và cửa Khảm Hiểm, phía Đông là cửa Chấn Hanh và cửa Cấn Chỉ, phía Tây là cửa Tốn Thuận và cửa Đoài Duyệt. Ngang dọc có tám đường, Đông sang Tây dài 131 trượng 2 thước. Nam sang Bắc cũng thế, cao 13 thước, chân dày 7 trượng 5 thước. Phía ngoài thành là hào, hào rộng 10 trượng 5 thước, sâu 14 thước, có cầu treo bắc ngang. Chu vi ngoài thành là 794 trượng. Ở ngoài là đường phố chợ búa, dọc ngang la liệt đều có thứ tự. Hai bên đường quan đều trồng cây thích nghi, gọi là đường thiên lý”
(chú thích: Toà vọng đẩu bát giác là xây theo kiểu bát giác không có mái che. Có mái thì gọi là vọng lâu)

Năm 1822, một phái đoàn Anh Quốc do ông Crawfurd dẫn đầu có yết kiến Tả Quân Lê Văn Duyệt, Tổng Trấn Gia Định. Trong dịp nầy, Crawfurd đã có nhận xét như sau:

“Đây là lần đầu tiên tôi tới Saigun (Sài Gòn) và Pingeh (Bến Nghé). Và tôi bất ngờ thấy rằng nó không thua gì kinh đô nước Xiêm. Về nhiều mặt, trông nó còn sầm uất hơn, không khí mát mẻ hơn, hàng hoá phong phú hơn, giá cả hợp lý hơn và an ninh ở đây rất tốt, hơn nhiều kinh thành mà chúng tôi đã đi qua. Tôi có cảm giác như đây là một vương quốc lý tưởng”
(trích Nguyễn Thanh Liêm: Tìm hiểu văn hoá Đồng Nai - Cửu Long, đăng trên Tậïp san Tìm Hiểu Văn Hoá Đồng Nai - Cửu Long, số 2, trang 31)

Crawfurd cũng đã nhận xét về sinh hoạt của thành phố Sài Gòn dưới thời Lê Văn Duyệt, như sau:

“Thành phố Saigun (Sài Gòn) không xa biển, có lẽ cách độ 50 dặm; thành phố Pingeh (Bến Nghé) gần đó cách thành phố Saigun (Sài Gòn) độ 3 dặm. Dinh tổng trấn khá đồ sộ và uy nghiêm. Các thành trì nằm ở bờ sông An Thông Hà. Nơi đây buôn bán sầm uất. Dân xiêu tán tới đây được tổng trấn cho nhập hộ tịch, qua một hai đời đã trở thành người Gia Định. Đông nhất nơi đây là dân Trung Hoa. Các dân tộc nơi đây được nhà nước bảo hộ và họ đều có nghĩa vụ như nhau. Tất cả đều được sống trong bầu không khí an lành. Trộäm cướp không có. Người ăn mày rất hiếm. Tổng trấn rất nhân từ, tha thứ cả bọn giặc, bọn phỉ, bọn trộm cướp ăn năn. Nhưng ông lại rất tàn bạo với bọn cố tình không chịu quy phục triều đình. Chưa ở đâu kỷ cương phép nước được tôn trọng như ở đây. Một vị quan nhỏ ra đường ghẹo gái cũng bị cách chức lưu đày. Một đứa con vô lễ chửi mẹ, tổng trấn biết được cũng bị phạt rất nặng.

“Ở đây chúng tôi mua được rất nhiều lúa gạo, ngà voi, sừng tê giác, các hàng tơ lụa, đũi thật đẹp. Từ các nơi, dân đi thuyền theo các kênh rạch lên bán cho chúng tôi. Nhìn dân chúng hân hoan vui vẻ, chúng tôi biết dân no đủ. Nhiều người rất kính trọng vị tổng trấn của họ.“Con người này ít học. Nhưng lạ lùng thay là có được cái nhìn cởi mở hơn những đại thần và cả nhà vua học rộng, làu kinh sử của Khổng Giáo. Ngài sống thanh liêm, muốn mở mang đất Gia Định này trù phú hơn mọi quốc gia khác ở trong vùng Biển Đông” (sđd, trang 32)

Năm 1863, Phạm Phú Thứ đi theo phái đoàn Phan Thanh Giản vào Sài Gòn để đi qua Pháp thương lượng chuộc lại 03 tỉnh miền Đông Nam Kỳ bị Pháp chiếm đóng dưới thời vua Tự Đức. Ông đã có nhận xét về thành phố Sài Gòn vào thời đó như sau:

“Trước dinh soái phủ, bên kia đường đi là nơi làm việc của tham biện (1). Bên tay mặt, cách vài trăm trượng, xây sở xem xét khí hậu (2); bên tay trái là nhà ở của các quan tham tán (3) và lãnh binh. Tiếp theo đó là kho thuốc súng. Cách chừng một dặm, ở phía trước và bên trái là bãi tập bắn súng tay (4). Sau dinh soái phủ, dựng một vọng gác, trên nhọn, dưới vuông, chân rộng vài trượng, cao đến năm thước, rỗng ở giữa và có xây bậc thoai thoải, giống hình kỳ đài. Xa một chút, bên tay mặt và bên tay trái dinh (5) là trụ sở của phủ Tân Bình. Phía Đông Bến Nghé là kho, gồm hơn mười dãy nhà lợp bằng lá “phạn cái” (6), chứa gỗ, sắt cùng mọi vật liệu kềnh càng. Kế theo là trại lính và xưởng sửa chữa thuyền sắt và kế theo nữa là kho chưa than đá. Phía Tây Bến Nghé, là nhà ở của các quan bố chính, án sát Tây và nhà ở của sở cảng; ngoài chỗ ở của quân ra, tùy theo vùng đất, người ta chia ra từng khu, nơi này thì xây dựng phố xá, nhà tầng cho những người buôn bán và nơi kia thì vét cửa, đào mương hoặc làm đường, đắp lộ. Các thứ cơ xảo của phương Tây như máy luyện thép, máy xay bột máy điện lôi để truyền tin, đều đã được dùng.”
(trích Nhật Ký Đi Tây của Phạm Phú Thứ, bản dịch của Quang Uyển, nhà xuất bản Đà Nẵng, 1999, trang 58)
Chú thích: (1) inspecteur des affaires indigènes (2) đài khí tượng (chiêm hậu sở) (3) tham mưu (4) pháo thủ trường (5) tức dinh soái phủ (6) tre hay dừa nước

Năm 1894 (Thành Thái thứ 6), nhân dịp Toàn quyền De Lanessan về Pháp, Hoàng Cao Khải, đang giữ chức Phụ chính đại thần, Thái tử thiếu bảo, Võ hiển điện đại học sĩ, Khâm sai Bắc Kỳ kinh lược đại sứ tước Diên mậu tử, hiệu Thái Xuyên...từ Huế vào Gia Định để trình bản dự thảo thỏa ước...lần đầu tiên được đặt chân lên đất Sài Gòn - Gia Định, đã phải ngạc nhiên khâm phục sự trù phú, thịnh vượng của miền Nam:

“Đất Gia Định nguyên là đất của bản triều từ thời long hưng (thời dựng nghiệp của nhà Nguyễn), từ ngày thuộc quyền cai trị của nước Pháp, kể đã hơn 30 năm rồi, xe thuyền kéo đến như góp gió, bến đò, đường sá, quán chợ được mở mang mỗi ngày một đẹp đẻ, thấy được sự tươi tốt sầm uất”
(trích văn bia của Lê Văn Duyệt do Hoàng Cao Khải lập ngày 1 tháng 8 năm 1894 tức 1 tháng 7 năm Giáp Ngọ, Thành Thái thứ 6, nguyên bản Hán văn, do Nguyễn Lý-Tưởng dịch ra quốc văn, đăng trong sách Nhà Bè Nước Chảy Chia Hai, 2003, trang 85)

Và đây, tâm tình của một học sinh từ Bắc di cư vào SàiGòn năm 1954, đã so sánh Sài Gòn với các thành phố lớn của Miền Bắc như sau:

“Tôi vốn là một cậu bé Bắc Kỳ, ngây ngô, theo gia đình vào Nam năm 1954, người lớn gọi đó là cuộc di cư tránh nạn Cộng Sản, còn tôi, vời tuổi 12 lúc đó, chỉ đơn thuần cho là một cuộc phiêu lưu hứa hẹn nhiều lý thú. Quê tôi là một làng ngoại ô thành phố Hải Phòng, hàng ngày tôi cuốc bộ khoảng 2 cây số lên tỉnh học, cuộc sống nửa, tỉnh nửa quê đã cho tôi được nhìn những văn minh của đời sống thời đó, nghĩa là không lạ lùng gì với những máy móc, xe cộ,v.v....nhưng khi biết được gia đình tôi sẽ di cư vào Nam, lòng tôi vẫn cứ nôn nao khi nghĩ rằng, mai kia tôi sẽ được đến Sài Gòn, lúc đó có mỹ danh là “Hòn Ngọc Viễn Đông”, mà theo lời của một vị Linh Mục quen với gia đình tôi, đã có dịp ghé qua kể lại, thì Sài Gòn là một thành phố đèn điện sáng suốt đêm, xe taxi, xe xích lô máy chạy như mắc cưỡi, người bình dân thì có xe buýt, cứ năm mười phút lại có một chuyến, sự đi lại ngày đêm tấp nập. Đúng là nơi phồn hoa đô hội. Ngoài lòng háo hức muốn sớm biết một thành phố nổi tiếng ra, tôi không còn một ý nghĩ nào khác”(Nguyễn Văn Học, tập san Biệt Động Quân số 17, phát hành tại California Hoa Kỳ, tháng 4/2006, trang 10)

Không phải chỉ có thế hệ 1954 mới mơ ước được thấy tận mắt Thành phố Sài Gòn mà ngay sau 1975, biết bao thanh niên, cán bộ, chiến sĩ, đồng bào ở Miền Bắc cũng mơ ước được đi vào Nam một chuyến cho biết Sài Goin. Người Miền Bắc được đặt chân đến Sài Gòn cũng như được đi ra ngoại quốc vậy!

Trước 1954, mặc dù đất nước đang ở trong tình trạng chiến tranh, nhưng Sài Gòn vẫn như hồi thái bình, không bị Việt Minh phá hoại. Từ 1954 trở về sau, dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm cũng như thời Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, nói chung là dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa, Sài Gòn càng phát triển hơn nữa. Nếu kể từ thời các chúa Nguyễn cho đến 1975, trải qua hàng mấy trăm năm với hàng triệu triệu người đã góp công sức mồ hôi và cả xương máu của mình để mở mang, xây dựng Miền Nam, xây dựng Sài Gòn xứng với tên “ Hòn Ngọc Viễn Đông”.

Sài Gòn là thành phố quan trọng nhất về kinh tế, văn hoá, chính trị của nứơc Việt Nam, là thành phố quốc tế, thành phố đa văn hoá gồm đủ mọi sắc dân, mọi ngôn ngữ; là nơi mọi người được sống hạnh phúc, yên ổn làm ăn, nơi đất lành chim đậu, nơi mọi ngừơi mơ ước, tìm đến lập nghiệp...Sài Gòn là trục giao thông quốc tế, đường bộ, đường biển, đường hàng không đều thuận lợi. Trong thế kỷ thứ 18 (năm Canh Tuất, 1790) chúa Nguyễn Phúc Ánh gọi Gia Định là Kinh Thành; trong thế kỷ thứ 19, thời Lê Văn Duyệt làm Tổng Trấn, Sài Gòn được sánh ngang hàng với Bangkok, thủ đô nước Xiêm (Thái Lan), Sài Gòn được gọi là “hòn ngọc Viễn Đông”. Từ 1862 trở đi, sau khi ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ bị quân Pháp chiếm đóng, Sài Gòn đã đi tiên phong trong các cuộc cải cách giáo dục, các phong trào học chữ Quốc Ngữ (thay vì học chữ Hán, chữ Nôm) và viết sách báo, tiểu thuyết bằng tiếng Việt, dịch truyện Tàu bằng chữ Hán ra tiếng Việt...với các nhà trí thức tân học trẻ như Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của,v.v...trứơc các cuộc vận động tại miền Trung, miền Bắc hơn nửa thế kỷ! Tờ báo tiếng Việt đầu tiên ra đời tại Sài Gòn (Gia Định báo, 1865) do Trương Vĩnh Ký chủ trương, trứơc tờ Nam Phong (1917) do Phạm Quỳnh chủ trương tại Hà Nội 52 năm! Sài Gòn là đất mới nhưng đã được xây dựng và phát triển qua nhiều đợt để trở thành một thành phố lớn và quan trọng nhất Việt Nam.

2. Từ năm 1949, Sài Gòn đã trở thành Thủ Đô của Việt Nam.

Năm 1802, sau khi thống nhất đất nứơc, lên ngôi Hoàng đế, vua Gia Long đã chọn Huế (Phú Xuân) làm Kinh đô của nứơc Việt Nam . Cúôi thế kỷ 19, sau khi thôn tính toàn cõi Việt Nam, người Pháp đã đặt Phủ Toàn Quyền tại Sài Gòn (và một Văn Phòng tại Hà Nội) để cai trị toàn cõi Đông Dương gồm 5 xứ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ, Ai Lao, Cao Mên và Quảng Châu Loan (nhượng địa của Pháp tại Trung Hoa). Từ đó địa vị của Huế lu mờ dần. Năm 1945, Nhật đảo chánh Pháp tại Đông Dương, vua Bảo Đại tuyên bố độc lập ở trong khối Đại Dông Á của Nhật và xé bỏ các hiệp ước bất bình đẳng mà Triều đình Huế đã ký với Pháp trong thế kỷ 19. Nhưng chính phủ Trần Trọng Kim lúc đó chưa kịp củng cố nền độc lập của Việt Nam thì Nhật đã đầu hàng Đồng Minh (8/1945) và Việt Minh (do Hồ Chí Minh lãnh đạo) đã tổ chức cướp chính quyền thành công tại Hà Nội (19/8/1945) và 01 tuần sau đó, vua Bảo Đại đã tuyên bố thoái vị (25/8/1945) trao chính quyền cho Việt Minh.

Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh đọc Tuyên Ngôn Độc Lập, ra mắt Tân Chính Phủ và đã chọn Hà Nội làm Thủ đô của Việt Nam. Nhưng chỉ ba tuần sau, quân Pháp đã trở lại thay thế quân Anh tại Sài Gòn, chiếm đóng và thiết lập bộ máy hành chánh trên các tỉnh, thành phố Miền Nam, đồng thời tiến dần ra Trung, Bắc... Sau những cuộc thương thảo với Pháp thất bại, Hồ Chí Minh kêu gọi toàn quốc kháng chiến (19/12/1946). Từ 1947 đến 1949, hầu hết các thành phố, thị trấn Việt Nam đều bị Pháp chiếm đóng và thiết lập chính quyền lâm thời...Trứơc 1954, Hồ Chí Minh đã phải bỏ Thủ đô Hà Nội, bỏ thành phố, rút toàn bộ lực lượng ra miền quê hoặc vào chiến khu ở vùng rừng núi miền Trung và miền Bắc...Trên thực tế, Hà Nội không còn là thành phố thủ đô nữa.

Hoàn cảnh những ngừơi quốc gia, không Cộng Sản lúc đó phải lưỡng đầu thọ địch”, vừa chống Pháp, vừa chống Cộng Sản, một số chạy theo quân Tưởng Gíơi Thạch qua Trung Hoa, một số ở lại và đã bị Việt Minh bắt giam hoặc bị thủ tiêu. Có ngừơi theo Việt Minh để chống Pháp (gọi là thành phần kháng chiến) về sau đã bị nhuộm đỏ, trở thành Cộng Sản. Những ai không hợp tác với Việt Minh, chạy về thành phố thì bị mang tiếng Việt gian, theo Tây, chống lại tổ quốc, chống lại đồng bào...Người quốc gia, theo Việt Minh hay theo Pháp đều mất chính nghĩa. Nếu lập chiến khu tự vệ thì trứơc sau gì cũng sẽ bị tiêu diệt, không chết về tay Cộng Sản thì cũng sẽ chết về tay ngừơi Pháp. Chính vì thế mà các tôn giáo và đảng phái qúôc gia nghĩ đến giải pháp Bảo Đại. Chỉ có Bảo Đại mới có đủ tư cách đoàn kết các tôn giáo, đảng phái và chỉ có Bảo Đại mới có đủ tư cách đại diện cho Việt Nam nói chuyện với Pháp. Trong lúc đó, tại Sài Gòn, Bolaert, đại diện cho nứơc Pháp, kêu gọi những ngừơi “không Cộng Sản” trong hàng ngũ kháng chiến trở về hợp tác. Vì thế đại diện các tôn giáo, đảng phái, nhân sĩ trí thức tại Sài Gòn, Huế, Hà Nội,v.v...đã qua Hồng Kông gặp cựu hoàng Bảo Đại, yêu cầu ông đứng ra vận động Pháp trao trả độc lập cho Việt Nam. Với hậu thuẫn nầy, Bảo Đại đã lên tiếng tranh đấu đòi hỏi Pháp phải trả độc lập cho Việt Nam.

Từ 1947 đến 1949, sau gần hai năm vận động ngoại giao, cựu hoàng Bảo Đại đã đạt được nhiều thắng lợi...Từ thông cáo chung ngày 5/6/1948 tại Vịnh Hạ Long đến thỏa ứơc ngày 8/3/1949, Bảo Đại đã trở thành Quốc Trưởng của nứơc Việt Nam độc lập, có chính phủ, có quân đội, có nền tài chánh và ngoại giao riêng, được quốc tế thừa nhận. Quân đội Pháp có nhiệm vụ bảo vệ cho chính quyền Việt Nam đang còn mới mẻ, đợi khi nào Việt Nam tổ chức được một Quân Đội hùng mạnh thì Pháp sẽ rút lui. Mỹ đã viện trợ cho quân Pháp tại Đông Dương với danh nghĩa bảo vệ thế giới tự do chống lại sự bành trứơng của Cộng Sản. Việt Nam được độc lập trong khối Liên Hiệp Pháp, xứ Nam Kỳ không còn là xứ thuộc địa của Pháp như trứơc nữa mà Việt Nam là một quốc gia độc lập, thống nhất với ba miền Trung, Nam, Bắc, mỗi miền có một bộ máy hành chánh do vị Thủ Hiến lãnh đạo trực thuộc Chính Phủ Trung Ương đặt tại Sài Gòn. Quốc Trưởng Bảo Đại ban hành Sắc Lệnh bổ nhiệm Thủ Tứơng và thành phần Chính Phủ. Sài Gòn là Thủ Đô của Quốc Gia Việt Nam

3. Sau Hiệp Định Genève (20/7/1954), nhân tài cả nứơc tập trung vào Sài Gòn

Hiệp định Genève (20/7/1954) nước Việt Nam đã bị chia đôi:
Từ vĩ tuyến 17 (sông Bến Hải thuộc tỉnh Quảng Trị) trở ra Bắc gọi là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà theo chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa (tức Cộng Sản) do Hồ Chí Minh lãnh đạo, đặt thủ đô tại Hà Nội.

Từ vĩ tuyến 17 trở vô Nam gọi là Việt Nam Cộng Hoà theo chế độ Tự Do (chủ nghĩa Quốc Gia) do Quốc Trưởng Bảo Đại uỷ quyền cho Thủ Tướng Ngô Đình Diệm lãnh đạo, đặt thủ đô tại Sài Gòn. Thủ Tứơng Ngô Đình Diệm tranh đấu bắt buộc quân đội Pháp trú đóng tại miền Nam sau Hiệp định Genève phải rút về nước giành lại chủ quyền cho người quốc gia và thành lập chế độ Cộng Hoà (1955), đối lập với Cộng Sản miền Bắc.

Mặc dù Sài Gòn là thủ đô của Việt Nam Cộng Hoà (miền Nam) sau Hiệp định Genève (20/7/1954) nhưng từ 1949, Quốc Trưởng Bảo Đại đã chọn Sài Gòn làm Thủ đô của Quốc Gia Việt Nam. Ngoài ra, cũng sau ngày ký kết Hiệp định nầy, nhân tài của cả nước đều quy tụ về đây. Cả triệu ngừơi đã bỏ nhà cửa, ruộng vừơn, tài sản, cơ nghiệp, mồ mả tổ tiên, bỏ cả quê hương xứ sở, bỏ miền Bắc vào Nam tìm tự do, trốn thoát chế độ Cộng Sản Hà Nội. Các nhà trí thức, giáo sư đại học, văn nghệ sĩ, thương gia, nghệ nhân lành nghề, họa sĩ, nhạc sĩ nổi danh...ngay cả những nhà hàng ăn, những đầu bếp giỏi, những món ăn ngon...từ Bắc, Trung, Nam cũng đều tập trung về Sài Gòn...Vào thời điểm đó, người ta không xem Sài Gòn là nơi dành riêng cho Nam Kỳ lục tỉnh nữa, mà là thủ đô của nước Việt Nam, vì nơi đây đã có mặt hầu hết dân Việt từ khắp mọi miền đất nước tụ hội. Tên Sài Gòn luôn luôn được mọi người nhắc nhở, sử sách ghi chép, nói đến Sài Gòn là nói đến miền Nam, là nói đến lịch sử của dân tộc Việt Nam, là nói đến công lao của hàng triệu triệu người, trải qua hơn ba trăm năm, với biết bao thế hệ đã đổ mồ hôi, xương máu, góp công khai phá miền Đồng Nai-Cửu Long, xây dựng và bảo vệ Miền Nam. Vận mệnh của TP Sài Gòn đi liền với vận mệnh của dân tộc Việt Nam.

Hiện nay, Sài Gòn vẫn là thành phố lớn nhất, quan trọng nhất của Việt Nam, là thành phố phát triển, là trung tâm kinh tế, tài chánh, văn hóa, chính trị của cả nước, là nơi quy tụ nhân tài, là sức mạnh của tuổi trẻ. Sài Gòn đã làm lu mờ vai trò Thủ đô của Hà Nội, là hy vọng của dân tộc, có thể làm thay đổi tương lai của Việt Nam...

GS Nguyễn Lý-Tưởng
Triển Chiêu
#184 Posted : Thursday, March 25, 2010 7:14:48 PM(UTC)
Triển Chiêu

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 185
Points: 0

quote:
Gởi bởi viethoaiphuong

SÀI GÒN SAU HIỆP ĐỊNH GENÈVE (20/7/1954) VÀ HIỆN TẠI

Hiện nay, Sài Gòn vẫn là thành phố lớn nhất, quan trọng nhất của Việt Nam, là thành phố phát triển, là trung tâm kinh tế, tài chánh, văn hóa, chính trị của cả nước, là nơi quy tụ nhân tài, là sức mạnh của tuổi trẻ. Sài Gòn đã làm lu mờ vai trò Thủ đô của Hà Nội, là hy vọng của dân tộc, có thể làm thay đổi tương lai của Việt Nam...

GS Nguyễn Lý-Tưởng



Cây cối bị đốn bỏ hết, nhà cửa san sát mất thẩm mỹ. Đâu cũng là hàng quán. Cúp điện liên tục. Dây điện sau 30 năm vẫn còn nằm trên mặt đường. Cứ mưa là ngập lụt, hệ thống thoát nước cũ kỹ, thành phố chỉ nên chứa 3 triệu mà hiện tại chứa gấp 3 lần dân số, ô nhiễm nặng 100%, dân chúng đi phải bịt mồm bịt mũi như nhân giả. Một thành phố thơ mộng thành một thành phố chỗ nhà chọc trời bê tông, nơi hàng quán cửa sắt vô lối, cây xanh chẳng còn, ra đường vừa ô nhiễm không khí vừa ồn ào với kèn xe inh ỏi.
Nói về thành phố Sài Gòn và nói về tình trạng hiện tại thì không còn một chút gì để tự hào nữa mà là chán ngán và xấu hổ.
Dead
PC
#185 Posted : Monday, April 12, 2010 5:57:23 AM(UTC)
PC

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 5,668
Points: 25
Woman

Was thanked: 4 time(s) in 4 post(s)

Mới sáng nay nghe bà vợ nói: "Anh ơi, họ đập quán café Givral rồi!". Tôi bàng hoàng. Vậy là một phần hồn của thành phố lại ra đi. Như nhiều người dân Sài Gòn cũ, tôi cũng đã từng đến đây với bạn bè, gia đình, người thân để nhìn đường phố thân yêu. Nhiều người dân lấy vội chiếc điện thoại di động để chụp những bức ảnh cuối cùng trước khi tiệm Givral đi vào dĩ vãng
.......
http://tuanvietnam.net/2...-cua-sai-gon-lai-ra-di-
viethoaiphuong
#186 Posted : Thursday, April 15, 2010 1:09:06 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
Xe Lam

Xưa, ở Việt Nam có xe lam. Có hai hàng ghế, mỗi hàng ghế ngồi được 5 người.

Trời Sài Gòn ấm. Tan trường về, về xe lam. Cạnh bên là cô. Cô cũng tan trường về. Áo dài cô trắng, tóc cô xanh. Cô thơm mùi...gì đó. Quyến rủ đến nỗi tôi không muốn xuống xe dù đã đến ngõ vô nhà.

Hình như cô cũng chẳng mong tôi đứng dậy! Hình như tôi, cô cứ bị quyến luyến.
Không quyến luyến chiếc xe lam. Không quyến luyến chổ ngồi băng ghế gỗ...ê mông.
Quyến luyến người ngồi êm kế bên cùng mùi hương...ừ ừ...quyến rủ.

Gần cô, gần thật sát, cả bả vai và cánh tay. Gần nhất là mùi hương. Thời gian tự nhiên tan loãng. Đường đi bỗng dưng gần.
Có người nào đó xuống xe. Lẽ ra phải rộng hơn chút. Lẽ ra phải xa nhau chút. Nhưng hình như cô vẫn muốn... tôi cô gần.

Xe đã đến bến cuối, cô và tôi còn mơ màng. Huốt qua nhà xa lắm rồi. Nhà của cô ở và nhà của tôi ở.
Bây giờ phải quay lại. Cũng chiếc xe lam. Cũng băng ghế ngồi chật. Tôi và cô làm cho băng ghế chật lại để cô và tôi lại ngồi gần nhau.

Đi mấy chuyến, về mấy lượt. Cô ơi! Đến lúc ta cũng phải xuống. Cô ơi! Đến lúc ta cũng phải rời nhau.
Hy vọng gặp lại cô chuyến xe lam nào đó nữa với cùng một cảm xúc như nhau.

Nhớ năm xa lắc xưa.

Originally Posted by Kiến Hôi / MGP




tặng bác Kiến Hội và cả nhà MGP xe làm SG ngày xưa đây nà

chời .. mới hôm rồi, "thứ-sĩ" EmNT hỏi :
- MT có kỷ niệm gì dễ thương khi mới vô SG ...?
- nhớ nhất là xe lam .. đường Lê Văn Duyệt. Mỗi sáng sớm mới vừa chập chờn ngủ thì nghe xe lam ré inh ỏi báo thức thay cho chuông đồng hồ rồi đó. Nhưng dẫu sao cũng vui, vì đi đâu cũng dễ dàng và rất thật với cuộc sống của người bình dân.
Theo như HTMT nghĩ, nếu xe lam mà họ làm cho giảm tiếng ồn thì đó là phương tiện giao thông tốt hơn cả, vì có thể đi tới bất cứ ngõ ngách nào?
Còn hơn là bây giờ người ta ai cũng dùng xe honda làm chật chội và ô nhiễm và tắc nghẽn giao thông hơn nơi các thành phố lớn và nhất là SG? Vì HTMT có nghe nhỏ Nhạn Lì tả cảnh kẹt xe ra sao rồi - hãi lắm !!




viethoaiphuong
#187 Posted : Thursday, April 22, 2010 1:16:34 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
Vĩnh biệt Sài Gòn (L' Adieu A Saigon).
Jean Lartéguy


LTS: L’Adieu à Saigon – Vĩnh Biệt Sài Gòn – của Jean Lartéguy tên thật là Jean Pierre Lucien OSTY, có lẽ là cuốn sách đầu tiên được viết bằng ngoại ngữ, nói về cái chết của Miền Nam Việt Nam sau ngày 30/04/1975. Ông là một chiến binh, cũng là nhà văn-nhà báo nổi tiếng của Pháp, tác giả của gần 20 tác phẩm, hầu hết đều nói về cách mạng và chiến tranh. (từ cách mạng Azerbaïdjan qua Amérique Latine, đến chiến tranh Palestin, Đại hàn, Đông dương, Algérie và sau cùng là Việt Nam). Năm 1955 ông nhận được giải Prix Albert Londres.

Người sưu tầm : Suong Nguyen
Người chuyển bài Kim Oanh Australia

Từ căn phòng quen thuộc của khách sạn Continental, Lartéguy ghi lại từng giờ, từng phút hấp hối của Sài Gòn.

Theo Phạm Kim Vinh, “Vĩnh Biệt Saigon là lời đoạn tuyệt của Jean Lartéguy cựu sĩ quan thuộc địa, của Lartéguy thực dân, của nhà văn Lartéguy bị nhiễm độc vì làn sóng khuynh tả lãng mạn của một thế giới hèn nhát trốn tránh sự thật với một Lartéguy phản tỉnh của mùa hạ 1975.

Hơn thế nữa, Vĩnh biệt Saigon chính là lời thú tội và chuộc tội của Jean Lartéguy.

Tháo chạy khỏi Sàigòn trên nóc cao ốc USAID đường Gia Long.AFP

Sau hết, Vĩnh biệt Saigon là lời sám hối của Lartéguy trước cái chết của hàng trăm ngàn người VN trong chiến tranh VN mà Lartéguy đã gián tiếp gây ra trong một thời kỳ đen tối của một kẻ cầm bút lâu năm, quá nửa đời người còn ngu dại để trở thành con mồi chính trị cho một chủ nghĩa man rợ.”

Ta hãy đọc “lá thư tình” của Jean Lartéguy qua các trích đoạn từ bản dịch của Phạm Kim Vinh ấn hành năm 1979 tại California.

27/05/1975

Màn đêm vừa buông xuống Saigon và khép kín luôn cả 25 năm của đời tôi tại đó. Tôi đặt chân đến Saigon lần đầu tiên vào năm 1950. Tôi bị đuổi khỏi thiên đường ấy vào ngày 28 tháng Năm, 1975. Cái thành phố từ đó tôi bị xua đuổi không còn cái tên Saigon nữa. bây giờ tên nó là Hồ Chí Minh. Mỗi ngày thành phố ấy lại càng thêm xa lạ với tôi. Tôi thấy không còn gì để làm ở đó nữa.

Còn thành phố kia, thành phố mà tôi hằng yêu dấu thì đã chết khi các xe tăng Nga chở các toán lính Bắc Việt phá tung cánh cửa sắt của Dinh Tổng thống. Ba người hoả tinh từ Hanoi tới, dáng nhỏ bé, mặc đồng phục xanh, nón lá trên đầu, hông mang súng. Họ làm như vẻ đọc bản án trục xuất tôi vì những “bài báo” của tôi. Họ không biết rằng tôi đã quyết định sẽ đáp chuyến bay ngày mai và tôi không muốn dùng dằng hơn nữa bên giường một người chết. Tôi đã bắt tay họ như bắt tay những người làm xe đòn sau khi họ đã làm xong bổn phận.
Đây không phải là một cuốn sách. Có lẽ một ngày nào đó, tôi sẽ viết cuốn sách ấy. Đây chỉ là lời vĩnh biệt Saigon.

Ngày 26/04/1975

Đêm nay, dường như Tổng thống Thiệu đã bay đi Đài Loan….. Tờ Courier D’ Extrême Orient chạy dài 8 cột trang nhất: “Tổng thống Pháp Giscard D’Estaing nói chuyện điện thoại với đại sứ Pháp tại Saigon.”
Ngoại trưởng Pháp tuyên bố: “Hy vọng một giải pháp chính trị vẫn còn có thể có được.”

Chỉ còn một mình tướng Dương văn Minh chạy ở cuộc đua chính trị tại Saigon. Nhưng vì Tổng thống Trần Văn Hương mới cầm quyền được 5 ngày, do đó ông ta muốn ngồi ở ngôi cho đủ một tuần đã. Ngài tổng thống đề nghị cho Minh Cồ giữ chức Thủ tướng có toàn quyền, nhưng Minh Cồ từ chối.

Tướng Kỳ, đối thủ bất hạnh của Thiệu, viên phi công mặc bộ đồ phi hành huy hoàng tái xuất hiện. Ông ta ở đâu ra vậy? Kỳ tuyên bố ủng hộ tướng Minh. Theo ông ta thì cần có một chính phủ mới để lấy lại lòng tin của dân và đề ra một kế hoạch để đạt cuộc ngưng bắn. Ông ta sẽ cùng với một số tướng lãnh, “những viên tướng giỏi nhất của miền nam”, tìm cách ổn định tình hình quân sự.

Đệ nhất phó thủ tướng (chắc đó là tướng Trần văn Đôn), kiêm tổng trưởng quốc phòng đã ra những biện pháp cương quyết để trừng phạt những công dân nào tìm cách trốn ra khỏi nước.

Biện pháp nào bây giờ? Ai sẽ thi hành? Chẳng còn gì nữa. Quân sự thì rối loạn và chính trị thì trống rỗng. Tướng Đôn thì chẳng có gì để mất mát nhiều. Sanh tại tỉnh Bordeaux, ông ta là dân Tây. Và mặc dầu ông ta đã đốt giấy thông hành và đốt cặp lon quân đội Pháp để làm đẹp lòng ông Diệm và bà Nhu, nhưng ông ta biết là không thể mất cái quốc tịch Pháp. Những trò hề!

Tình hình quân sự tuyệt vọng. Người Mỹ di tản nhân viên và những người Việt thân tín của họ một cách thanh thản như thể họ có rộng rãi ngày giờ.

Cảm thấy bị người Mỹ bỏ rơi, người dân nam Việt Nam và nhất là người dân Saigon, theo linh tính, hướng về người Pháp…. Ở khắp nơi cờ Pháp bắt đầu bay. Người ta sơn mầu cờ Pháp trên mái nhà, trước cửa tiệm. Đối với các tờ báo còn phát hành, người ta gọi cộng sản là phiá bên kia và người ta đành hy vọng một cuộc ngưng bắn.

Tôi nhậu với một đại tá VN, trước phục vụ tại một đơn vị nhảy dù, bây giờ phụ trách báo chí tại bộ Tổng tham mưu. Tôi hỏi:
“Ngày mai, ông làm gì? Chúng ta có thể gặp nhau được không?”
“Tôi bận lắm, không thể gặp ông. Tôi phải lo để đưá con tôi đi ngoại quốc.”

Chính ra là ông lo chuyến đi của ông.
Đồng thời với chuyện nhậu whisky để nói chuyện lập chiến khu, ông ta chuẩn bị chuồn.
.......

Ngày 27/04/1975

3 giờ 30 sáng. Tôi thức giấc vì những trái hoả tiễn nổ làm rung chuyển thành phố. Một trái nổ quá gần. Tôi không thể ngủ lại được. ….
Trong buổi sáng ngày 27 tháng Tư này, tin tức đưa về càng ngày càng tồi tệ. Sư đoàn 18 giữ Xuân Lộc đã phải rút và bị tan rã. Sư đoàn 5 cũng vậy. Để bảo vệ Saigon, chỉ còn có một sư đoàn, vài đơn vị Dù… và một số lính tự vệ chiến đấu Hố Nai. Quốc hội nhóm từ sáng nay. Thảo luận 10 giờ, nhì nhằng để rồi xác nhận tín nhiệm Tổng Thống Trần Văn Hương, mời ông ta nếu cần, chỉ định một nhân vật để thay thế ông đạt tới “một nhiệm vụ hoà bình trong danh dự và trong phẩm cách và với sự chấp thuận của Quốc Hội”…. Nhân vật ấy chỉ có thể là Dương văn Minh. Danh dự và phẩm cách đáng kể gì khi cộng quân đã ở cửa ngỏ Saigon.

Các tướng trình bày tình hình. Có mặt tướng Cao Văn Viên, tổng tham mưu trưởng, Trần Văn Đôn, tổng trưởng quốc phòng, ông tổng trấn Saigon và ông tư lệnh cảnh sát. Tất cả đều nói rằng đã hết cả rồi, rằng những đơn vị cuối cùng đã bị bao vây và chạy tan nát, rằng cần phải thương thuyết với bất cứ giá nào và thật sớm. Nhưng Quốc hội lại không chịu nhận Minh Cồ vì ông ta không phải là người của bọn họ. Trần Văn Đôn lại can thiệp lần nữa. Anh chàng dân Tây ở xứ Bordeaux ấy giữ vai trò phát ngôn cho nước Pháp và bênh vực chính sách của đại sứ Pháp Mérillon. Đôn rất gắn bó với viên đại sứ ấy.
Đôn thắng. Toàn quyền được trao cho tướng Minh. TT Hương chống cây gậy rời ghế. Đã gần như mù, ông vấp phải một bậc thềm.

Minh cùng với Vũ Văn Mẫu trở về nhà để sửa soạn lập chính phủ. Sau cùng, giờ của Minh đã điểm, nhưng đã trễ quá rồi. Trễ cho Việt Nam, trễ cho nước Pháp và nước Pháp đã ngây thơ hy vọng rằng có thể đóng vai trò trung gian qua Minh.

Trước khi đi ngủ, tôi đọc mục điểm báo Việt Nam bằng Pháp ngữ. Có lúc, tôi thấy cần phải dụi mắt. Tờ Tiền Tuyến chạy dài tám cột: “VN Cộng Hoà sẽ không bao giờ đầu hàng cộng sản chừng nào quân đội vẫn còn đó và vẫn còn sự ủng hộ của nhân dân… Tướng Nguyễn Cao Kỳ đã tuyên bố trong một cuộc mít tinh quy tụ 10,000 người rằng các lực lương của VNCH vẫn còn mạnh và sẽ mang lại hoà bình trong danh dự cho xứ sở.”

Tờ Chính Luận: “Không có chuyện thương thuyết đầu hàng.”
Đêm sẽ còn dài.

Ngày 28/04/1975

Thế là rốt cuộc Minh Vồ cũng lập được chính phủ của ông ta. Thực ra thì cái chính phủ ấy chỉ có hai người: Ông Nguyễn Văn Huyền, một người Công giáo ôn hoà, sẽ là Phó Tổng thống và ông Vũ Văn Mẫu, nghị sĩ theo đạo Phật, sáng lập viên của Mặt Trận Hoà Giải, sẽ là Thủ tướng.

Trễ quá rồi. MTGP vừa từ Paris cho biết (dường như cái Mặt Trận ấy chỉ có ở Paris) sẽ không nói chuyện với chính phủ của tướng Minh.
Sáng nay Saigon sao yên tĩnh lạ!

Nhiều chiến sĩ của một Lữ đoàn Dù đang bố trí trong thành phố, sau các bức tường. Những người lính này không chán nản, không tuyệt vọng. Họ bình thản điều động như lúc thao dượt. Đôi khi họ cười vui vẻ và chuyền cho nhau những chai coca. Nhưng họ không nuôi một ảo tưởng nào về số phận của họ hoặc về kết quả của trận đánh cuối cùng này. Tôi có cảm tưởng họ quyết định đánh đến cùng và quyết định sẽ tự chôn dưới những đống đổ nát của Saigon. Và họ vẫn còn giữ được các cấp chỉ huy của họ. Một trong những cấp chỉ huy ấy là một đại tá, trông dáng mệt mỏi và tuyệt vọng. Tôi đã từng cùng ông ta và vài người bạn ăn Tết năm 1971. Lúc đó ông biết là sắp tham dự cuộc hành quân vượt biên giới Lào để cắt đường mòn Hồ Chí Minh và ngay tối hôm đó, ông ta đã không nuôi ảo tưởng về kết quả trận đánh.

Ông đưa cho tôi một hộp la-de. Tôi hỏi:
« Tình thế ra sao? »
« Chúng tôi sẽ chiến đấu và có lẽ, chúng tôi là những người cuối cùng còn chiến đấu. Nên nói rõ là chúng tôi chết không phải vì Thiệu, vì Hương hay vì Minh. Thiệu là đồ bỏ, Hương là bù nhìn, còn Minh là kẻ quá mềm yếu, cứ đứng một chỗ mà phụng phịu, thay vì dùng sức mạnh để lật đổ Thiệu…. Những kẻ sắp tới sẽ không để cho chúng tôi suy nghĩ theo ý riêng….Những con cá bự đã chuồn rồi. Chúng tôi là cá nhỏ nên kẹt trong rọ… »

Tân Sơn Nhất cháy. Biên Hoà thất thủ. Lửa cháy lớn, sánh rực ban đêm.
Cuối cùng vào lúc 22 giờ 51, lệnh di tản bằng trực thăng được ban ra. Ám hiệu là Option 4.

Tại Mỹ bộ trưởng quốc phòng Schlesinger nhân dịp này ca ngợi quân lực Mỹ: « Ở chiến trường, các bạn là những người chiến thắng, các bạn đã rời sa trường trong danh dự. Viêt Nam sụp đổ vì những áp lực nặng từ bên ngoài, nhưng các lực lượng Mỹ đã cho VN một cơ hội phải chăng để sống sót. » Kissinger thì nói: « Chúng tôi hy vọng người Bắc Việt sẽ không tìm một giải pháp tuyệt đối bằng phương tiện quân sự. Họ đã đổi thái độ, và chúng tôi vẫn không hiểu tại sao. »
Cơn hấp hối của Saigon bắt đầu. Sau bao nhiêu, bao nhiêu ngày nữa nó mới chết?

Ngày 29/04/1975

Giới nghiêm trong 24 giờ để người Mỹ di tản số người Mỹ sau chót (chừng một ngàn người) và hàng chục ngàn người VN được người Mỹ hứa hẹn cho đi theo.
Cuộc bàn giao quyền hành ngày hôm qua: lại một màn hát bội vụng về....

Trực thăng không ngừng đáp xuống và cất cánh tại sứ quán Mỹ. Trước cửa sứ quán, người Mỹ và một số người Việt được họ chọn lựa vứt bỏ xe hơi của họ cho những người bất lương xâu xé. Có cả trăm cả ngàn đang xô nhau trước tấm cửa sắt có lính Thuỷ quân Lục chiến canh giữ. Một người đàn bà khóc trong khi nhiều người mổ xẻ chiếc Mercedes của bà. Bà ta cứ nói đi nói lại: “Thế mà tụi nó hứa sẽ cho chúng tôi đi.”...

11 giờ chúng tôi lái xe tới Tân Cảng.

Thời tiết càng lúc càng nóng. Đàn ông, đàn bà, trẻ con mình đầy bùn, chui qua những rào gỗ có mắc kẽm gai… Họ lội bùn để chui vào những kho hàng Mỹ. Các bà già răng đen bắt đầu ngồi xổm, dạm bán những món hàng vừa mới vồ được, bán để lấy những tờ giấy bạc từ nay trở thành vô dụng!...

Một phái đoàn chính phủ do phó TT Nguyễn Văn Huyền hướng dẫn (ông được Minh Cồ ủy thác thương thuyết) đã tới trước hàng rào kẽm gai căn cứ Tân Sơn Nhất. Bọn cộng sản không tiếp. Chúng không muốn bàn cãi nữa: chúng chỉ nhận sự đầu hàng vô điều kiện.

Graham Martin đến thăm xã giao đại sứ Pháp. Lý do chính là để từ biệt. Và để tặng đại sứ Pháp món quà Mỹ: chiếc xe Cadillac lộng lẫy màu đen. Đại sứ Pháp có lẽ chẳng cần đến món quà ấy nữa. Nhưng Martin mãi tới 3 giờ 30 sáng hôm sau mới ra đi, sau khi bất lực chứng kiến tai hoạ: tai hoạ vì chính sách của ông ta, tai hoạ cho VN.
Nguyễn Cao Kỳ, con người chủ trương “đánh tới cùng” cũng ra đi trên chiếc trực thăng riêng của ông ta. Ông ta nguyền rũa Thiệu vì ít ra, khi chuồn, Thiệu cũng còn có thời gian mang theo nhiều hành lý.
Súng bắn ở khắp nơi.

Đêm chót ở Saigon là đêm điên loạn. Chung quanh thành phố những cây xăng bốc cháy, khi đạn nổ tung. Lúc đáp xuống các mái nhà, trực thăng mở đèn chiếu trông như đôi mắt của những quái vật gớm ghiếc đang tìm mồi.

Tù nhân chính trị đã được trả tự do. Tù thường phạm cũng nhân dịp này trốn luôn. Họ chỉ cần cúi xuống thì sẽ lượm được ngay một vài cây súng. Và những phần tử ghê gớm ấy đã tự võ trang cùng mình….
Saigon không hấp hối. Sau khi đã trút hết chất liệu, Sai gon đang rẫy chết trong thối nát, giữa các đám cháy và cướp bóc. Những kẻ may mắn đã chuồn nhờ các trực thăng của Mỹ. Những người khác thì lo trốn. Có những người thiểu não từ Tân Sơn Nhất trở về. Đó là nơi lại bị hoả tiễn rót vào….

Và chúng tôi, những nhân chứng bị bó tay, phẫn uất. Chúng tôi là những người đã từng yêu dấu thành phố này mà chẳng làm được gì để giúp nó. Saigon bắt đầu sám hối vì những sự mất trật tự, vì sự ưa kiếm chác, vì những quán rượu, những ổ điếm, vì những sòng bạc, vì những đêm điên loạn, vì những cơn mê. Và cũng vì những lúc say mê của trìu mến và của nhiệt tình. Và cái tinh thần độc lập đã từng đôi khi biến cái thành phố này thành một nữ chúa của tự do.
Vì Saigon đã bị kết án tử hình.

Chúng tôi vừa được biết tin ấy. Đài phát thanh của MTGP nghe được ở Tân Gia Ba tuyên bố rằng tên của Saigon từ nay là Hồ Chí Minh. Tên của một người chết. Cái tên ấy không thích hợp với thành phố này.
Tôi trở về phòng. Đại bác 130 ly đã im tiếng. Và hoả tiễn không nổ nữa. Nhưng còn em nhỏ kia đang làm gì? Em đang tắm trong vũng nước lầy ở lề đường, em nhập bọn với những trẻ em trần truồng khác, giỡn chơi dọc theo những bức tường của khách sạn, giống như những con mèo hoang.

Ngày 30/04/1975

Graham Martin và những cộng sự viên cuối cùng đã dùng trực thăng tới mẫu hạm Blue Ridge đang ở ngoài khơi, cách Vũng Tầu 30 cây số.
Mệt mỏi và sầu thảm, ông ta từ chối mọi lời tuyên bố và chui vào phòng riêng. Ông ta còn không mang theo nổi được lá cờ Mỹ như đại sứ Mỹ tại Nam Vang đã làm. Martin bỏ lại cả tấm hình chụp của gia đình Nixon có chữ ký của Nixon tặng.

TT Ford: “Cuộc di tản đã chấm dứt… Cuộc hành quân này đã khép kín một chương trong lịch sử Mỹ.” Henry Kissinger thì cho rằng đây là “một thành công”: di tản được 950 người Mỹ và đưa đi 5,800 người Việt.

Lúc này là 10 giờ 15 sáng. Tướng Minh đọc lời kêu gọi đầu hàng vô điều kiện trên đài Saigon….

11 giờ 30, Long, một đại tá cảnh sát tự bắn vỡ sọ trước bức tượng Thuỷ Quân Lục Chiến đối diện trụ sở Hạ viện. Ông nằm sóng sượt, chiếc nón kết có hoa lá bạc đặt trên ngực. Máu và óc chảy từ bên tai trái ra. Ông vẫn còn thở. Lúc ấy có tiếng sè sè của máy quay phim và máy chụp hình. Một lát sau, ông tắt thở tại bệnh viện Grall.

12 giờ 5 phút, một xe jeep chạy tới đường Catinat, trên xe cắm lá cờ VC lớn, trong khi nhiều xe tăng tới chiếm Dinh Độc Lập. Cờ VC được trưng lên trước tiền đình. Một chiếc T-54 húc tung cánh cửa sắt vì người ta chậm mở cửa, rồi bắn một phát đại bác và vài tràng súng đại liên để thị oai. 14 xe tăng khác theo sau, pháo tháp mở , cành cây cắm đầy xe. Binh lính đội mũ lợp lá theo kiểu mũ thuộc địa, quân phục xanh và đi dép HCM chế tạo bằng võ xe hơi, võ trang bằng tiểu liên AK-47 của Trung quốc, nhẩy ra khỏi xe tăng, chạy vào Dinh.
Trên bao lơn, cờ của chính phủ cách mạng lâm thời được kéo lên. Saigon bị chiếm và không cháy. Chỉ thiếu chút nữa thôi.

Phó tổng thống Nguyễn Văn Huyền, thủ tướng Vũ Văn Mẫu và tướng Minh là những diễn viên và cũng là những nhân chứng của những giờ chót của Saigon. Họ kể cho tôi nghe những giờ chót ấy.

Và số phận của Saigon đã được định đoạt trong vài phút của ngày 30 tháng Tư, trong khoảng từ 10 giờ 30 đến 11 giờ sáng….
Không còn chút hy vọng nào để thương thuyết nữa. Hỗn loạn ngự trị ở đường phố và những đơn vị đầu tiên của cộng sản đã vào Saigon. Nhưng ở khắp nơi đều có những ổ kháng chiến, những đơn vị ưu tú bám lấy lãnh thổ.

Gần Lăng Cha Cả, các chiến sĩ Dù đã đánh trận chót. Họ chiến đấu tới 11 giờ rưỡi, cho tới khi các cấp chỉ huy của họ từ cuộc gặp gỡ đau thương với tướng hoa lan Dương Văn Minh trở về thuyết phục họ từ bỏ cuộc chiến. Họ đã dùng bazooka làm nổ tung 5 xe tăng Nga T-54 nặng 54 tấn. Một chiếc nổ tung cùng với đạn dược trong xe….

Ngày 1/5/1975

Cô gái ngồi ngoan ngoản gần một toà nhà của bệnh viện Grall. Kế bên cô là một chiếc vali còn mới bằng plastic và một chiếc giỏ mây mà ta thấy người Thượng quen dùng. Cô ta mặc áo dài màu đen kiểu của người Thượng nhưng tóc của cô màu hung và nước da trắng: một cô gái Thượng lai Pháp.

Cô ta bao nhiêu tuổi? 18? 20? Làn sóng tị nạn ghê gớm đã cuốn cô ta đi, nhưng cô ta vẫn còn giữ mình nguyên vẹn tới được nhà thương dùng làm nơi tạm trú này, nhà thương có treo một lá cờ Pháp.

Tôi phải đến gần mới nhìn thấy được những giọt nước mắt trên má cô ta. Trong khi đám người tị nạn bên cô ồn ào như đàn ong vỡ tổ quanh những gói đồ ngổn ngang, cô gái im lặng. Những đứa trẻ ngủ gục giữa những người tị nạn. Người ta vừa cho họ biết rằng họ phải trở về nhà. Saigon không bốc cháy. Saigon chỉ đổi chủ thôi…. Cô gái ấy là kết quả của một mối tình giữa một người Pháp và một thiếu nữ người Rhadé. Người cha đã trở về Pháp. Cô làm viêc tại một phòng thí nghiệm của một y viện Mỹ vùng cao nguyên. Người ta đã di tản cô ta cùng với số nhân viên của nhà thương và hứa sẽ đưa cô đi Mỹ. Từ Mỹ, cô sẽ tìm được cách tới Pháp và sẽ tìm được Chalons-sur-Marne là nơi ở của người cha. Nhưng người Mỹ đã ra đi một cách hỗn loạn. Họ đã bỏ rơi cô ta. Cô đã chạy tới bệnh viện Grall vì cô nghe nói đó là nơi trú ẩn của những người có quốc tịch Pháp. Cô gái tưởng mình là người Pháp.

Có hai xác chết nằm bên nhau trong nhà thương Grall. Đó là hai viên tướng nam VN, tự tử bằng thuốc Nivaquine: tướng Phạm Văn Phú, tư lệnh vùng cao nguyên, và tướng Nguyễn Khoa Nam tư lệnh vùng 4 và quân khu 4….

Tôi vẫn không tin là Saigon vừa mới rơi vào tay những người cộng sản. Đó chỉ là một cơn ác mộng. Ngày mai tôi sẽ tỉnh dậy và nó chẳng có gì xảy ra hết.

6 giờ sáng tôi giật mình thức giấc vì những tiếng hú trong loa phóng thanh truyền đi một thứ nhạc quân hành, xen kẻ là những khẩu hiệu…
Mọi tờ báo đều bị đóng cửa, kể cả tờ Courrier D’Extrême-Orient của người Pháp. Chỉ có một tờ Saigon Giải Phóng in chữ đỏ và hình HCM chiếm hết nửa trang nhất.

Tôi tới nhà MinhCồ. Ông ta chưa được về nhà. Người tài xế của ông cho biết đã nhận được tin của bà Minh, nói rằng ông ta được đối xử tử tế và chắc sẽ được về sớm.

Ngày 3/5/1975

Chúng tôi tới Hố Nai, chiến luỹ của người Công giáo chống Cộng di cư. Một gác chuông nhà thờ chịu hư hại nặng vì đạn đại bác. Vậy là đã có giao tranh ở đây. Tôi ngừng xe và xin gặp Cha sở. Một người đàn bà chừng 40 tuổi đề nghị hướng dẫn chúng tôi tới gặp Cha sở. Tôi hỏi bà ta: “Thưa bà, tình hình ra sao?”

Bà ta cúi đầu: “Con trai tôi và 17 người bạn của nó vừa bị xử bắn. Tôi mới đi chôn chúng nó xong.”
“Câu chuyện xảy ra như thế nào?”
“Chúng nó là tự vệ và chúng nó đánh đến cùng. Chúng nó đứng cả trên gác chuông bắn xuống. Thế là rồi chúng nó bị bắn chết hết.”
Cha sở ngồi yên lặng trên chiếc ghế gỗ, hai tay để trong chiếc áo dòng. Phòng rất rộng, chắc được dùng làm nơi hội họp hàng ngày. Cha sở chừng 60 tuổi. Cha từ Phát Diệm di cư cùng các con chiên. Khi tôi hỏi Cha thì Cha bảo người thông ngôn rằng Cha không biết tiếng Pháp. Ở một góc phòng có một người cầm súng ngồi. Chắc hắn không phải là lính chính quy vì hắn mặc bọ đồ bà ba đen.
“Thưa Cha mọi sự tốt đẹp chứ?”
“Phải.”
Tôi nhấn mạnh: “Thưa Cha, mọi việc bình thường?”
“Phải.”
“Có thể phỏng vấn Cha trước máy thu hình?”
“Không, không được.”
Không hiểu vì sao lúc ấy tên lính gác lại ra ngoài xem có chuyện gì không. Lúc ấy thì Cha sở nói với tôi bằng thứ tiếng Pháp rất giỏi.
“Tình thế của chúng tôi rất ngặt nghèo. Tai hoạ đã giáng xuống đầu chúng tôi. Xin hãy nói với các bạn người Pháp của chúng tôi để họ cầu nguyện cho chúng tôi. Chúng tôi cần có những lời cầu nguyện ấy. Xin vĩnh biệt.”

Ngày 15/5/1975

Có diễn binh kỷ niệm sinh nhật HCM. Dự trù có ba ngày liên hoan mừng chiến thắng. Biểu diễn các khí giới tối tân của Nga. Lần này có thêm vài đơn vị mặc đồ đen của bưng biền. Một phần trong số đó là người Nam, nhưng tỷ lệ này không bao giờ quá 30 phần trăm. Rốt cuộc tôi tìm thấy cái huyền thoại MTGP trên khán đài danh dự. Bác Thọ, bác Phát và bà Bình “thân mến” những nhân vật quan trọng tại Paris, nhưng ở đây họ đã tụt xuống hàng thứ 11….. Rồi tới vụ đàn áp các ký giả ngoại quốc ở nhà hàng Continental. Vô tuyến viễn ấn và những liên lạc với nước ngoài đều bị cắt đứt. Những hộp phim và những cuộn phim nằm chờ và chất đống ở đó, vô dụng… sau khi đã cấm chúng tôi đi ra ngoài Saigon, kể từ sáng nay, người ta lại cấm chúng tôi cả chụp hình nữa. Hai chuyên viên thu hình của Nhật bị còng tay giải đi vì họ quay phim cảnh đường Catinat. Các ký giả của các nước “anh em” như Nga, Hung Gia Lợi, Đông Đức, Ba Lan và đặc phái viên của AFP từ Hà Nội được gửi tới để chứng kiến vụ diễn hành chiến thắng….

Ngày 29/5/1975

Vĩnh biệt Saigon.

Tôi tới Saigon lần đầu tiên vào năm 1950. Tôi đã yêu dấu Saigon và đã ghét thành phố ấy hai mươi lăm năm. Đó là một cô gái làng chơi tồi tệ, tham lam, ưa khoái cảm, ưa đồ gia vị và ưa những hương thơm ngát, nghe theo người này ngã theo người kia, nhưng không bán mình cho ai. Một thành phố tự do, và bây giờ không còn được tự do nữa.
Màn đêm đã buông xuống thành phố ấy, và buông xuống quãng đời 25 năm lính, ký giả và nhà văn của tôi.
Tôi đã bay trên thành phố ấy lần chót, trong chuyến bay Aeroflot của cộng sản để tới Vạn Tượng….

Saigon ơi vĩnh biệt.!
viethoaiphuong
#188 Posted : Thursday, April 22, 2010 5:24:37 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)


THÁNG TƯ - Nhớ về Saigon!


Hình ảnh di tản


GỌI MÃI SÀI GÒN ƠI

thơ: Linh Hồn Cuả Tre
nhạc:Hồ Hải

Gọi Sài Gòn sao nghe lòng thật đắng
Xa tít mù Sài Gòn đó cuả tôi
Đã một lần nước mắt mặn trên môi
Âm thầm bước vẫy tay chào Cố Quốc

Ngày tôi đi một nưả hồn khóc ngất
Đến bao giờ trở lại Sài Gòn ơi
Vướng theo chân tâm tư rối tơi bời
Dần mờ nhạt những neỏ đường thành phố

Cho tôi ôm dáng liêu xiêu gãy đổ
Mồ hôi tràn Mẹ tưới mát đời con
Nâng giùm tôi bóng người em bạc phước
Lê bước gầy đạp nát tuổi thơ qua

Xin ấp ủ mái tóc dài cuả chị
Thôi mượt mà vì cơm aó cô liêu
Giấc mơ xưa có về lại một chiều
Đem ru mộng vào cuộc đời dần tan

Gọi Sài Gòn vẫn nghe lòng thật đắng
Mộng bình thương mà xa quá tầm tay
Vẫn trong tim từng nỗi nhớ thương hoài
Người lữ thứ bên góc đời quạnh quẽ

Xin được nhớ nguyện cầu cho quê Mẹ
No ấm đời cất khổ giúp dân tôi
Nơi thật xa có kẻ một mình ngồi
Gọi tên mãi Sài Gòn trong xót xa

Linh Hồn của Tre

PC
#189 Posted : Saturday, September 18, 2010 2:38:01 AM(UTC)
PC

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 5,668
Points: 25
Woman

Was thanked: 4 time(s) in 4 post(s)
Cà phê SàiGòn xưa
LƯƠNG THÁI SỸ - AN DÂN 2010/09/08

Bạn đã uống cà phê nhiều, bạn biết muốn pha một ly cà phê tuyệt vời đâu có khó. Cà phê loãng nước nhưng đậm mùi thơm, cà phê mít đặc quánh mà vô vị, hãy chọn một tỷ lệ pha trộn thích hợp là đã đi được 70% đoạn đường rồi; muốn kẹo thêm nữa hả? Muốn hưởng cái cảm giác chát chát, tê tê đầu lưỡi phải không? Dễ mà, thêm vào chút xác cau khô là xong ngay. Bạn muốn có vị rhum, thì rhum; bạn thích cái béo béo, thơm thơm của bơ, cứ bỏ chút bretain vào. Bạn hỏi tôi nước mắm nhĩ để làm gì à? Chà, khó quá đi, nói làm sao cho chính xác đây! Thì để cho nó đậm đà. Đậm làm sao? Giống như uống coca thì phải có thêm chút muối cho mặn mà đầu lưỡi ấy mà. Uống chanh đường pha thêm chút rhum cho nó ra dáng tay chơi. Như kẻ hảo ngọt nhưng vẫn cắn răng uống cà phê đen không đường cho lập dị. Thèm đá muốn chết nhưng cứ chốn bạn nhậu thì nằng nặc đòi uống chay không đá cho giống khác người, cho đẳng cấp. Tôi không biết, không tả được, mời bạn hãy thử và tự cảm nhận lấy. Bạn đòi phải có tách sứ, thìa bạc; bạn nói phải nghe nhạc tiền chiến, phải hút Capstan (dộng vài phát hết gần nửa điếu và rít đỏ đầu), Ruby hay Basto xanh mới đã đời, thú vị phải không? Bạn đã có đủ những gì bạn cần, sao lại cứ thích đi uống cà phê tiệm? Tôi không trách bạn đâu. Cà phê ngon chỉ mới được một nửa, nhưng chúng ta đâu chỉ cần uống cà phê, chúng ta còn ghiền “uống” con người tại quán cà phê; “uống” không khí và cảnh sắc cà phê; “uống” câu chuyện quanh bàn cà phê và nhiều thứ nữa. Vậy thì mời bạn cùng tôi trở lại không khí cà phê Sài Gòn những năm cuối 1960 và đầu 1970.

Sài Gòn những năm giữa thập niên 1960 đến đầu thập niên 1970 tuổi trẻ lớn lên và tự già đi trong chiến tranh. Những “lưu bút ngày xanh” đành gấp lại; những mơ mộng hoa bướm tự nó thành lỗi nhịp, vô duyên. Tiếng cười dường như ít đi, kém trong trẻo hồn nhiên; khuôn mặt, dáng vẻ tư lự, trầm lắng hơn và đầu óc không thể vô tư nhởn nhơ được nữa. Những điếu thuốc đầu tiên trong đời được đốt lên; những ly cà phê đắng được nhấp vào và quán cà phê trở thành nơi chốn hẹn hò để dàn trải tâm tư, để trầm lắng suy gẫm. Có một chút bức thiết, thật lòng; có một chút làm dáng, thời thượng. Đối với một thanh niên tỉnh lẻ mới mẻ và bỡ ngỡ, Sài Gòn lớn lắm, phồn vinh và náo nhiệt lắm. Phan Thanh Giản đi xuống, Phan Đình Phùng đi lên; hai con đường một chiều và ngược nhau như cái xương sống xuyên dọc trung tâm thành phố giúp định hướng, tạo dễ dàng cho việc di chuyển. Cứ như thế, cái xe cọc cạch, trung thành như một người bạn thân thiết lê la khắp Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định.

Những ngày này, tôi là khách thường trực của quán Cà phê Thu Hương đường Hai Bà Trưng. Quán nằm ở một vị trí đẹp, chiếm ba lô đất ngó chéo qua phía trại hòm Tobia; nơi đây có một căn phòng hẹp vừa đặt quầy thu tiền, vừa là chỗ ngồi cho những ai thích nghe nhạc với âm thanh lớn, phần còn lại là một sân gạch rộng, có mái che nhưng không ngăn vách, từ trong có thể nhìn rõ ra đường qua những song sắt nhỏ sơn xanh với một giàn hoa giấy phủ rợp. Ngồi đây có thể nghe được văng vẳng tiếng nhạc vọng ra từ bên trong; cảm được chút riêng tư cách biệt, nhưng đồng thời cũng có thể nhận ra được sức sống bừng lên mỗi sáng, dáng vẻ mệt mỏi, u ám mỗi chiều đang lặng lờ chảy qua trên đường phía ngoài.

Chủ quán ở đây là một người đặc biệt: Khó chịu một cách dễ thương. Hình như với ông, bán cà phê chỉ như một cách tiêu khiển và pha cà phê là một nghệ thuật kỳ thú. Ông hãnh diện với tên tuổi của Thu Hương và muốn bảo vệ nó. Bạn là khách uống cà phê phải không? Xin cứ ngồi yên đó. Cà phê được bưng tới, ông chủ sẽ ngồi đâu đó quan sát và sẽ xuất hiện đúng lúc cạn phin, sẽ bỏ đường, khuấy đều cho bạn và sẽ lịch sự “xin mời” khi mọi việc hoàn tất. Ly cà phê như vậy mới là cà phê Thu Hương, đó là cung cách của Thu Hương, đặc điểm của Thu Hương. Trong lãnh vực kinh doanh quán cà phê, có người dùng âm thanh; có người dùng ánh sáng và cảnh trí; có người nhờ sự duyên dáng của tiếp viên; có người dùng phẩm chất của cà phê để hấp dẫn khách. Ông chủ Thu Hương đã chọn cách cuối cùng, cách khó nhất và ông đã thành công. Khách đến với Thu Hương là ai? Nhiều lắm, nhưng dù từ đâu họ đều có điểm giống nhau là tất cả đều trẻ và đều có vẻ “chữ nghĩa” lắm; “ông”, “bà” nào cũng tha tập cours quằn tay, cộng thêm các tập san Sử địa, Bách khoa, Văn và vân vân...

Bạn thường ăn phở gà Hiền Vương, phở Pasteur; bạn thường đi qua đi lại liếc liếc mấy bộ đồ cưới đẹp ở nhà may áo dài Thiết Lập, vậy bạn có biết cà phê Hồng ở đâu không? Thì đó chứ đâu, gần nhà may Thiết Lập, cách vài căn về phía đường Nguyễn Đình Chiểu, ngó xéo qua mấy cây cổ thụ ở bờ rào Trung tâm Thực nghiệm Y khoa (Viện Pasteur). Tôi phải hỏi vì tôi biết có thể bạn không để ý. Quán nhỏ xíu hà, với lại cái tên Hồng và tiền diện của nó trông ủ ê cũ kỹ lắm, chứ không sơn phết hoa hòe, đèn treo hoa kết gì cả. Từ ngoài nhìn vào, quán như mọi ngôi nhà bình thường khác, với một cái cửa sổ lúc nào cũng đóng và một cánh cửa ra vào nhỏ, loại sắt cuộn kéo qua kéo lại. Quán hẹp và sâu, với một cái quầy cong cong, đánh verni màu vàng sậm, trên mặt có để một ngọn đèn ngủ chân thấp, với cái chụp to có vẽ hình hai thiếu nữ đội nón lá; một bình hoa tươi; một con thỏ nhồi bông và một cái cắm viết bằng thủy tinh màu tím than. Phía sau, lúc nào cũng thấp thoáng một mái tóc dài, đen tuyền, óng ả, vừa như lãng mạng phô bày vừa như thẹn thùng, che dấu.

Cà phê Hồng, về ngoại dáng, thực ra không có gì đáng nói ngoài cái vẻ xuề xòa, bình dị, tạo cảm giác ấm cúng, thân tình và gần gũi; tuy nhiên, nếu ngồi lâu ở đó bạn sẽ cảm được, sẽ nhận ra những nét rất riêng, rất đặc biệt khiến bạn sẽ ghiền đến và thích trở lại. Hồi đó nhạc Trịnh Công Sơn đã trở thành một cái “mốt”, một cơn dịch truyền lan khắp nơi, đậu lại trên môi mọi người, đọng lại trong lòng mỗi người. Cà phê Hồng đã tận dụng tối đa, nói rõ ra là chỉ hát loại nhạc này và những người khách đến quán - những thanh niên xốc xếch một chút, “bụi” một chút (làm như không bụi thì không là trí thức)- đã vừa uống cà phê vừa uống cái rã rời trong giọng hát của Khánh Ly. Không hiểu do sáng kiến của các cô chủ, muốn tạo cho quán một không khí văn nghệ, một bộ mặt trí thức hay do tình thân và sự quen biết với các tác giả mà ở Cà phê Hồng lâu lâu lại có giới thiệu và bày bán các sách mới xuất bản, phần lớn là của hai nhà Trình Bày và Thái Độ và của các tác giả được coi là dấn thân, tiến bộ. Lại có cả Time, Newsweek cho những bạn nào khát báo nước ngoài. Quán có ba cô chủ, ba chị em; người lớn nhất trên hai mươi và người nhỏ nhất mười lăm, mười sáu gì đó. Nói thật lòng, cả ba cô đều chung chung, không khuynh quốc khuynh thành gì, nhưng tất cả cùng có những đặc điểm rất dễ làm xốn xang lòng người: Cả ba đều có mái tóc rất dài, bàn tay rất đẹp và ít nói, ít cười, trừ cô chị. Những năm 1980, Cà-phê Hồng không còn, tôi đã thường đứng lại rất lâu, nhìn vào chốn xưa và tự hỏi: Những người đã có thời ngồi đây mơ ước và hy vọng giờ đâu cả rồi? Còn chị em cô Hồng: những nhỏ nhẹ tiểu thư, những thon thả tay ngà, những uyển chuyển “chim di” giờ mờ mịt phương nào?

Viện Đại học Vạn Hạnh mở cửa muộn màng nhưng ngay từ những năm đầu tiên nó đã thừa hưởng được những thuận lợi to lớn về tâm lý, cùng với những tên tuổi đã giúp cho Đại Học Vạn Hạnh được nhìn vừa như một cơ sở giáo dục khả tín, vừa như một tập hợp của những thành phần trẻ tuổi ý thức và dấn thân. Tuy nhiên, dường như cái hồn của Đại Học Vạn Hạnh được đặt tại một tiệm cà phê: Quán Nắng Mới ở dốc cầu, ngó xéo về phía chợ Trương Minh Giảng. Quán Nắng Mới có nhiều ưu thế để trở thành đất nhà của dân Vạn Hạnh, trước nhất vì gần gũi, kế đến là khung cảnh đẹp, nhạc chọn lọc và cuối cùng, có lẽ quan trọng nhất là sự thấp thoáng của những bóng hồng, có vẻ tha thướt, có vẻ chữ nghĩa. Các nhóm làm thơ trẻ đang lên và đang chiếm đều đặn nhiều cột thơ trên báo chí Sài Gòn ngồi đồng từ sáng đến tối để... làm thơ. Nhưng đông hơn cả, ấm áp hơn cả là những nhóm hai người, một tóc dài, một tóc ngắn chờ vào lớp, chờ tan trường và chờ nhau. Nắng Mới đã sống với Vạn Hạnh cho đến ngày cuối cùng. Nắng Mới nay không còn. Những con người cũ tứ tán muôn phương.

Có một quán cà phê thân quen nữa không thể không nhắc đến: Quán chị Chi ở gần đầu đường Nguyễn Phi Khanh, kế khu gia cư xưa cũ, rất yên tĩnh và rất dễ thương, nằm phía sau rạp Casino Đa Kao. Ở đó có những con đường rất nhỏ, những ngôi nhà mái ngói phủ đầy rêu xanh, những hàng bông giấy che kín vỉa hè, trầm lắng cô liêu và im ả tách biệt lắm mà mở cửa ra là có thể nghe người bên trái nói, thấy người bên phải cười và có cảm tưởng như có thể đưa tay ra bắt được với người đối diện bên kia đường. Quán chị Chi độ chín mười thước vuông, chỉ đủ chỗ để đặt ba bốn chiếc bàn nhỏ. Quán không có nhạc, không trưng bày trang trí gì cả ngoại trừ một bức tranh độc nhất treo trên vách, bức tranh đen trắng, cỡ khổ tạp chí, có lẽ được cắt ra từ một tờ báo Pháp. Tranh chụp để thấy một bàn tay giắt một em bé trai kháu khỉnh, vai đeo cặp sách, miệng phụng phịu làm nũng, hai mắt mở to nhưng nước mắt đang chảy dài theo má, phía dưới có hàng chữ nhỏ: “Hôm qua con đã đi học rồi mà”. Khách đến với chị Chi không phải coi bảng hiệu mà vào, cũng không phải nghe quảng cáo, mà hoàn toàn do thân hữu truyền miệng cho nhau để đến, nhiều lần thành quen, từ quen hóa thân và quyến luyến trở lại. Chị Chi có bán cà phê nhưng tuyệt chiêu của chị là trà; loại trà mạn sen, nước xanh, vị chát nhưng có hậu ngọt và mùi thơm nức mũi. Trà được pha chế công phu trong những chiếc ấm gan gà nhỏ nhắn, xinh xinh. Ấm màu vàng đất, thân tròn đều, láng mịn, vòi và quai mảnh mai, cân đối. Mỗi bộ ấm có kèm theo những chiếc tách cùng màu, to bằng ngón tay cái của một người mập, vừa đủ cho hốp nước nhỏ. Ấm có ba loại, được gọi tên ra vẻ “trà đạo” lắm: độc ẩm, song ẩm và quần ẩm, nhưng hồi đó chúng tôi thường “diễn nôm” theo kiểu “tiếng Việt trong sáng” thành ấm chiếc, ấm đôi và ấm bự. Trà được uống kèm với bánh đậu xanh - loại bánh đặc biệt của chị Chi- nhỏ, màu vàng óng và mùi thơm lừng. Nhắp một ngụm trà, khẽ một tí bánh, cà kê đủ chuyện trên trời dưới đất, trông cũng có vẻ phong lưu nhàn tản và thanh cao thoát tục lắm. Quán chị Chi giờ đã biến tướng ít nhiều nhưng dù sao cũng xin cảm ơn chị và xin đại diện cho những anh chị em đã từng ngồi quán chị bày tỏ lòng tiếc nhớ đến chị và đến những ngày khó quên cũ.

Những năm cuối thập niên 60 Sài Gòn có mở thêm nhiều quán cà phê mới, và thường được trang hoàng công phu hơn, có hệ thống âm thanh tối tân hơn và nhất là quán nào cũng chọn một cái tên rất đẹp, phần lớn là dựa theo tên những bản nhạc nổi tiếng: Cà phê Hạ Trắng, Lệ Đá, Diễm Xưa, Hương Xưa, Hoàng Thị, Biển Nhớ, Hoài Cảm, Da Vàng... Tuy nhiên, ở một con đường nhỏ - Hình như là Đào Duy Từ - gần sân vận động Thống Nhất bây giờ, có một quán cà phê không theo khuôn mẫu này, nó mang một cái tên rất lạ: Quán Đa La. Đa La là Đà Lạt, quán của chị em cô sinh viên Chính Trị Kinh Doanh, có lẽ vừa từ giã thác Cam Ly, hồ Than Thở để về Sài Gòn học năm cuối tại nhà sách Xuân Thu hay sao đó, mở ra. Trường kinh doanh quả là khéo đào tạo ra những môn sinh giỏi kinh doanh: Tin mấy cô sinh viên mở quán thật tình là không được chính thức loan báo ở đâu cả; tuy nhiên, cứ úp úp mở mở như vậy mà tốt, nó được phóng lớn, lan xa, tạo ấn tượng mạnh và quán được chờ đón với những trân trọng đặc biệt, những náo nức đặc biệt. Những cô chủ chắc có máu văn nghệ, đã cố gắng mang cái hơi hướm của núi rừng Đà Lạt về Sài Gòn: Những giò lan, nhưng giỏ gùi sơn nữ, những cung tên chiến sĩ đã tạo cho quán một dáng vẻ ngồ ngộ, dễ thương; rồi những đôn ghế, những thớt bàn được cưa từ những gốc cây cổ thụ u nần, mang vẻ rừng núi, cổ sơ đã giúp cho Đa La mang sắc thái rất ... Đa La. Ngày khai trương, Đa La chuẩn bị một chương trình văn nghệ hết sức rôm rả, với những bản nhạc “nhức nhối” của Lê Uyên Phương, Nguyễn Trung Cang, Lê Hựu Hà... Đa La đông vui, chứng kiến sự nở hoa và tàn úa của nhiều mối tình. Nhưng Đa La vắng dần những người khách cũ và đóng cửa lúc nào tôi không nhớ.

Cà phê Hân ở Đinh Tiên Hoàng, Đa Kao là quán thuộc loại sang trọng, khách phần lớn ở lớp trung niên và đa số thuộc thành phần trung lưu, trí thức. Bàn ghế ở đây đều cao, tạo cho khách một tư thế ngồi ngay ngắn, nghiêm chỉnh và bàn nào cũng có đặt sẵn những tạp chí Pháp ngữ số phát hành mới nhất. Câu chuyện ở Hân chắc là quan trọng lắm, lớn lắm; nhìn cái cách người ta ăn mặc; trông cái vẻ người ta thể hiện là biết ngay chứ gì; có lẽ cả thời sự, kinh tế tài chánh, văn chương, triết học đều có cả ở đây. Một chỗ như vậy là xa lạ với dân ngoại đạo cà phê. Nhưng Hân là một nơi hết sức đáng yêu, đáng nhớ của nhiều người, dù ngồi quầy là một ông già đeo kính như bước ra từ một câu chuyện của văn hào Nga Anton Chekov. Về sau, đối diện với Hân có thêm quán cà phê Duyên Anh của hai chị em cô Hà, cô Thanh; cô em xinh hơn cô chị và được nhiều chàng trồng cây si. Hai tiệm cà phê, một sang trọng chững chạc, một trẻ trung sinh động, đã trở thành một điểm hẹn, một đích tới mà khi nhắc đến chắc nhiều anh chị em ở trường Văn Khoa, trường Dược, trường Nông Lâm Súc ngay góc Hồng Thập Tự - Cường Để còn nhớ, cũng như nhớ món bánh cuốn ở đình Tây Hồ bên trong chợ Đa Kao thờ cụ Phan, nhớ quán cơm “lúc lắc” trong một con hẻm nhỏ đường Nguyễn Bỉnh Khiêm mà nữ sinh viên vừa đi lên căn gác gỗ vừa run khi được mấy chàng mời cơm.

Bạn nào muốn gặp các nhà văn nhà thơ, muốn nhìn họ ngậm ống vố, đeo kính cận nói chuyện văn chương thì mời đến quán Cái Chùa, anh em nào muốn có không khí trẻ trung đầm ấm mời đến Hầm Gió; anh em nào muốn có chỗ riêng tư tâm sự thì cứ theo đường Nguyễn Văn Học chạy tuốt lên Gò Vấp, vào quán Hương Xưa, ở đó có vườn cây đẹp, các cô chủ đẹp và cái cách người ta đối đãi với nhau cũng rất đẹp. Cũng đừng quên nhắc đến quán Chiêu, hẻm Cao Thắng. Rồi còn cà phê hàng me Nguyễn Du, cũng Beatles, cũng Elvis Presley như ai ; và cả pha chút Adamo quyến rũ. Giá ở đây thật bình dân nhưng thường xuyên chứng kiến những pha so găng giữa học sinh hai trường nghề Cao Thắng và Nguyễn Trường Tộ.

Chán cà phê thì đi ăn nghêu sò, bò bía, ăn kem trên đường Nguyễn Tri Phương, góc Minh Mạng hoặc bên hông chợ Tân Định. Phá lấu đã có góc Pasteur-Lê Lợi, nhưng chỉ dành cho các bạn có tiền. Rủng rỉnh tí xu dạy kèm cuối tháng có Mai Hương (nay là Bạch Đằng Lê Lợi). Quán Mù U, hẻm Võ Tánh, chỗ thương binh chiếm đất ở gần Ngã tư Bảy Hiền dành cho những bạn muốn mờ mờ ảo ảo. Muốn thưởng thức túp lều tranh mời đến cà phê dựa tường Nguyễn Trung Ngạn gần dòng Kín, đường Cường Để. Rồi quán cà phê Cháo Lú ở chợ Thị Nghè của một tay hoạ sĩ tên Vị Ý. Cao cấp hơn có La Pagode (đổi thành Hương Lan trước khi giải thể), Brodard, Givral. Thích xem phim Pháp xưa, phim Mỹ xưa và ngồi... cả ngày xin mời vào rạp Vĩnh Lợi trên đường Lê Lợi để chung vai với đám đồng tính nam. Vào Casino Sài Gòn có thể vào luôn hẻm bên cạnh ăn cơm trưa rất ngon tại một quầy tôi đã quên tên. Nhưng rạp Rex vẫn là nơi chọn lựa nhiều nhất của SV, cả nghèo lẫn giàu. Cuộc sống SV cứ thế mà trôi đi trong nhịp sống Sài Gòn. Nghèo nhưng vui và mơ mộng. Tống Biệt hành, Đôi mắt người Sơn Tây sống chung với Cô hái Mơ. Đại bác ru đêm sánh vai với Thu vàng. Ảo vọng và thực tế lẫn vào nhau. Thi thoảng lại pha thêm chút Tội ác Hình phạt, Zara đã nói như thế! Che Guervara, Garcia Lorca. Tất cả những gì tôi nhắc tới là một chút ngày cũ, một chút cảnh xưa, một phần hơi thở và nhịp sống của Sài Gòn trong trí nhớ. Xin tặng anh, tặng chị, tặng em, đặc biệt là tặng tất cả những ai tha hương có lúc bỗng bàng hoàng nhận thấy, dường như một nửa trái tim mình còn đang bay lơ lửng ở cà phê Hồng, Thu Hương, hay đâu đó ở quê nhà.

LƯƠNG THÁI SỸ - AN DÂN

viethoaiphuong
#190 Posted : Tuesday, December 7, 2010 7:44:06 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)



SAIGON MỘT THỜI CỦA MỘT ĐỜI

Có nhiều bài thơ về Sài Gòn. Thành phố ấy, với nhiều người, là thánh địa của kỷ niệm. Với Nguyên Sa, là Tám Phố Sài Gòn, là “Sài Gòn đi rất chậm buổi chiều”, là “Sài Gòn phóng solex rất nhanh” “Sài Gòn ngồi thư viện rất ngoan” là “Sài Gòn tối đi học một mình”, là “Sài Gòn cười đôi môi rất tròn”, là “Sài Gòn gối đầu trên cánh tay”.. Với Quách Thoại buổi sáng, là “sáng nay tôi bước ra giữa thị thành để nghe phố nói nỗi niềm mới lạ tiếng xe tiếng còi tôi nghe đường xá cả âm thanh của cuộc sống mọi người một nụ cười chạy ẩn giữa môi tươi trên tim nóng trong linh hồn tất cả ..” Với Trần Dạ Từ là buổi trưa, về Thị Nghè: “vẫn một mặt trời trên mỗi chúng ta và mỗi chúng ta trên một bóng hình tôi vô giác như mặt đường nhựa ẩm trũng nỗi sầu đau náo nức lưu thông mùa hạ đi qua tựa hồ giấc mộng tôi chạy điên trong một bánh xe tròn và đứa trẻ hít còi người đàn bà bước xuống ôi chiếc cầu , ôi sở thú. ôi giòng sông..” Với Cung Trầm Tưởng, là mưa, là “mưa rơi đêm lạnh Sài Gòn mưa hay trời khóc đêm tròn tuổi tôi mưa hay trời cũng thế thôi đời nay biển lạnh mai bồi đất hoang..” Với Luân Hoán, là ngồi quán, là “ngồi La Pagode ngắm ngườithấy em nhức nhối nói cười lượn qua mini-jupe trắng nõn nà vàng thu gió lộng chiều sa gót giày ngẩn theo tóc, tuyệt vời bay hồn thơ thức mộng trọn ngày bình yên” Với Bùi Chí Vinh, là ngày bãi trường mùa hạ “những chiếc giỏ xe chở đầy hoa phượng em chở mùa hè của tôi đi đâu chùm phượng vĩ là tuổi tôi mười tám tuổi thơ ngây khờ dại mối tình đầu..”..

Và với nhiều thi sĩ khác, Sài Gòn là phố cây xanh, là đêm cúp điện, là chiều mưa giọt, là trưa nắng đỏ. Ôi Sài Gòn, của cõi thơ không cùng, của những chân trời thi ca bao la, của những trái tim lúc nào cũng dồn dập nhịp thở của tháng ngày tuy náo động nhưng chẳng thể nào quên.

Với riêng tôi, Sài Gòn là muôn vàn kỷ niệm. Là những con đường quen thân , nhắc lại một thuở ấu thời. Là ngôi trường Chu văn An, nơi tôi miệt mài suốt bảy năm trung học. Là trường Khoa Học, là trường Luật trước khi vào lính. Là cổng Phi Long vào phi trường Tân Sơm Nhứt khi vừa nhập ngũ. Là những mơ mộng tuổi trẻ, lúc vừa bước vào đời sống quân đội trong một đất nước đang trong tình trạng chiến tranh.

Buổi trưa , nằm dài trên sân cỏ mượt nhìn lên nóc nhà thờ Ngã Sáu , dưới bóng cây dầu cao vút, nghĩ về tương lai nhìn theo những sợi mây bay qua . Nghe xôn xao trong lòng những sợi nắng lung linh. Ôi, thuở còn đi học, mấy ai tiên đoán được số mệnh mình. Mây bay đi, như đời trôi qua.

nằm trên cỏ nhìn trời cao
lung linh sợi nắng thuở nào phai phai
nhìn tượng Chúa dưới tàng cây
giơ vai chĩu nặng tháng ngày chiến tranh
mùa hạ mấy bước đi quanh
cổng trường đóng những đoạn đành thế thôi
ngày mai đi bốn phương trời
mây phiêu lãng chợt thương đời phù du..”

Sài Gòn những mùa thu. Có những con đường xôn xao áo lụa. Có những buổi tan học nhìn tà áo trắng mà mơ ước vu vơ. Để đêm về, trên trang vở học trò, vẽ bâng quơ đôi mắt ai, mái tóc ai:

“Thành phố ấy , xôn xao tà áo trắng
nắng hanh vàng trải lụa những mùa thu
guốc chân sáo để hồn ai ngơ ngẩn
bước mênh mang nghe quẩn sợi sương mù
mây vào áo lồng lộng bay chiều gió
lụa trắng trong e ấp buổi hẹn hò
sợi mi cong tưởng chập chờn ngực thở
tóc ai buông dài xõa những câu thơ.
Thành phố ấy, mấy ngã tư đèn đỏ
Ai chờ ai khi kẻng đánh tan trường
Bài thơ trao còn nguyên trong cuốn vở
Thuở ngại ngùng lần bước đến yêu thương..”

Sài Gòn của một thời mặc áo lính. Khi ở xứ biên trấn xa xôi, nhớ về thành phố với người thương, với phố quen, trên máy bay lượn vòng thành phố , nghe như mình đã trỡ về quê hương mình. Khi đổi về đơn vị ở phi trường Biên Hòa , mỗi buổi sáng tinh sương ghé phở Tàu Bay, ăn tô phở đầu ngày trong cái không khí trong veo buổi sớm , nay nhớ lại còn trong dư vị miếng ăn ngon của một thời tuổi trẻ.

Năm 1968, lệnh tổng động viên nên vào lính nhập khoá với những người cùng trang lứa. Lúc ấy, với hăng hái của người nhập cuộc, hiểu được bổn phận của một công dân thi hành nghĩa vụ quân sự với đất nước. Lúc ấy, mắt trong veo và tâm hồn như tờ giấy trắng:

“Bọn ta ba trăm thằng tuổi trẻ
Chọn không gian tổ quốc mênh mông
Mắt sáng môi tươi như tranh vẽ
Vào lửa binh không chút nao lòng
Chia sẻ với nhau thời bão gió
Đời muôn nhánh rẽ ngược xuôi nguồn
Cánh chim phiêu bạc ngàn cổ độ
Tử sinh ai luận chuyện mất còn?
Ngồi uống cùng nhau các hảo hán
Tưởng ngày xưa rượu tiễn lên đường
Sách vở giảng đường thành dĩ vãng
Những chàng trai dệt mộng muôn phương..”

Rồi , vận nước đến thời , gia đình ly tán, đi vào trại tù , nếm đủ những cay đắng của đời cải tạo . Khi trở về, Sài Gòn, cảnh vẫn cũ nhưng người xưa đã khác . Như Từ Thức về trần , cả một thế thời thay đổi. Người về, từ trại tù nhỏ sang qua nhà giam lớn, vẫn những con mắt công an cú vọ rập rình, vẫn những lý lịch trích dọc, trích ngang đeo đuổi. Tạm trú, tạm ngụ , ở chính ngôi nhà của mình. Nơi sẽ định cư của những người tù cải tạo , là những vùng kinh tế mới xa xăm , những nơi chốn đầy ải của ngày tuyệt lộ. Trở về xóm cũ, làm người lạ mặt:

“Đỏ bầm mặt nhựt cơn mê
lạnh tanh khuôn mắt người về dửng dưng
vào ra lối rẽ ngập ngừng
mấy năm sao lạ , nỗi mừng chợt xa
cầu thang quẩn dấu chân qua
đời như hạt nước mưa sa bóng chiều
từ rừng máu giọt gót xiêu
thảm thương phố cũ nắng thiêu mộng người
đỏ bầm ánh điện đường soi
cây nhân sinh chợt nẩy chồi cuồng điên
nhìn soi mói nụ cười đen
mắt hằn dấu đóng chao nghiêng một ngày.”

Về trình diện công an khu vực , nhìn nụ cườigằn vừa mỉa mai vừa soi mói , nhìn đôi mắt cú đóng dấu vào một ngày thất thế của người bại binh, ôi đau xót cho một đời ngã ngựa.

Ở Sài Gòn những ngày giặc chiếm, vẫn còn âm hưởng của một cuộc chiến chưa tàn . Trên chuyếbn xe bus nội ô, một người lính què dẫn dắt người lính mù hát những bài hát ngày xưa ngày còn chiến đấu dưới cờ. Quân lực VNCH là tập thể của những người lính tin tưởng vào công việc làm của mình. Dù thua trận nhưng họ không muốn làm hèn binh nhục tướng…

“trang lịch sử đã dầy thêm lớp bụi
ngăn kéo đời vùi kín mộ phần riêng
Và lãnh đạm chẳng còn người nhắc đến
Người trở về từ cuộc chiến lãng quên
Đôi mắt đục nhìn mỏi mòn kiếp khác
Dắt dìu nhau khập khiễng chuyến xe đời
Người thua trận phần thịt xương bỏ lại
Trên ruộng đồng sầu quê mẹ rã rời
Chuyến xe vang lời thơ nào năm cũ
Nhắc chặng đường binh lửa thuở xa xưa
khói mịt mù thời chiến tranh bụi phủ
Nghe bàng hoàng giọt nắng hắt giữa trưa
Tiếng thê thiết gọi địa danh quen thuộc
Thuở dọc ngang mê mải ngọn cờ bay
Cuộc thánh chiến gió muộn phiền thổi ngược
Dấu giày buồn còn vết giữa sình lầy
Nghe lời hát tưởng đến người gục ngã
Cả chuyến xe chia sẻ một nỗi niềm
Âm thanh cao xoáy tròn dù gỗ đá
Thức hồn người vào nhịp thở chưa quên
Ơi tiếng hát vinh danh đời lính chiến
Cho máu xương không uổng phí ngày mai
Có sương khói từ mắt thầm cầu nguyện
Cho lỡ làng không chĩu nặng bờ vai
Người thản nhiên những tia nhìn cú vọ
Đây thịt xương còn sót lại một đời
Còn ngôn ngữ của Việt Nam đổ vỡ
Dù rã rời nhưng vẫn thắm nụ cười
Ta nghe rực trong hồn trăm bó đuốc
Mặt trời lên xua tăm tối cho đời..”

Ở Sài Gòn năm 1980, là những ngày tôi cựa quậy trong nan lồng

Nghèo đói, bất công, đe dọa, bắt bớ, đủ thứ khổ nạn đổ lên đầu người dân nhất là những người được thả về từ trại tù. Mỗi ngày trình diện công an, rồi mỗi tuần , mỗi tháng nhưng áp lực thì càng ngày càng tăng. Tạm trú, từng tháng, từng ngày. Không có một chỗ nào ở thành phố cho các anh, người thua trận. Tôi, không có hộ khẩu, ở tạm trong nhà của mình. Rồi tham gia tổ chức vượt biên ở Bến Tre bị công an tỉnh này lên Sai Gòn tìm bắt . May là thoát được nên sau đó là phải sống lang thang đêm ngủ chỗ này tối ở chỗ khác. Những buổi tối trời mưa, đạp xe đi tìm chỗ tạm trú , mới thấy ngậm ngùi cho câu than thở trời đất bao la rộng lớn mà sao ta chẳng có chốn dung thân. Những buổi chiều nắng quái , đi trong thành phố, mới thấy cảm gíac của một kẻ cô đơn như con chuột đang cuống cuồng trong lồng giữa cơn mạt lộ. Thấy đi tới đâu cũng gặp những cặp mắt ngại ngùng của những người thân, từ chối thì không nỡ mà chứa chấp thì bị liên lụy nên tôi phải tìm một phương cách để cho qua đêm dài. Thuê phòng trọ hay khách sạn cực kỳ nguy hiểm , nên chỉ cómột cách là trà trộn vào những người ngủ ngoài đường . Lúc ấy , ở Sài gòn đầy những người ngủ ở hè phố, Họ là những người từ kinh tế mới về chịu không kham sự khổ cực hay những người vượt biên hụt trở về nhà bị chiếm. Mà chỗ an toàn nhất là bến xe Ngã Bảy. Ở đây là đường ranh của nhiều phường nên chỉ có một quãng ngắn, ở chỗ này bố ráp thì chỗ kia vẫn bình thường như không có gì xảy ra. Tôi có xem một video của trung tâm Asia có ghi lại hình ảnh của nhạc sĩ Trúc Phương cũng hoàn cảnh phải ra xa cảng để ngủ qua đêm mà chạnh lòng. Thì ra , ở lúc ấy , có nhiều người chung cảnh ngộ, phải lang thang ngủ đầu đường xó chợ một cách bất đắc dĩ. Bao nhiêu chuyện trái tai gai mắt, công an lộng hành , bắt người không cần lý do , kinh tế thì lụn bại, ngăn sông cấm chợ, cả nước nghèo đói không đủ gạo ăn , kỹ nghệ trì trệ không sản xuất được gì đáng kể. Rồi chính sách phân biệt đối xử , giáo dục thì nhồi sọ , hồng nhiều hơn chuyên, thi cử tuyển chọn theo lý lịch hơn là thực tài, y tế thì thiếu thuốc men phương tiện và y sĩ trình độ kém lại làm việc tắc trách. Thật là một thời tệ mạt nhất trong lịch sử dân tọc ta.

Ngủ ở bến xe Ngã Bảy, mướn cái chiếu 1 đồng , kiếm một chỗ qua đêm , tôi đã chứng kiến nhiều chuyện. Có những bà mẹ góp nhóp tiền bạc đi thăm con ở một trại tù nào đó, chờ xe ba bốn ngày, sống lang thang lếch thếch chờ đợi. Cũng có những người không nhà, nằm la liệt dưới mái hiên, sinh sống ăn ngủ và làm tình một cách thản nhiên như đang sống trong nhà mình. Cũng có những trai tứ chiếng, những gái giang hồ quanh quẩn kiếm ăn. Những anh lơ xe, những chị buôn hàng chuyến, những mối tình, hừng hực xác thịt cứ diễn ra hàng đêm. Rồi những đêm mưa gió, ướt át, những tiếng chửi than trời trách đất cứ dòn dã . Hình như, ở gần nỗi khổ, tâm hồn họ bị chai sạn đi. Công an từ phường này qua phường kia luôn luôn bố ráp nhưng như một trò chơi cút bằt. Áo vàng mũ cối đi qua, chỉ ít lâu sau là đâu vẫn đấy

“ .. hè phố rác lạc loài hoa dại
nở buồn tênh phiến gạch ngậm ngùi
cỏ đớn hèn hạt sầu kết trái
ươm bao năm dầu dãi nụ cười
ngủ chợp mắt đèn khuya vụn vỡ
ho khan ai quằn quại phổi khô
tiếng còi hú nhát đinh vỡ sọ
nghiến xe lăn tim nhịp chày vồ
rưng não tủy bầu trời tháng chạp
cành cỏ khô héo mãi phận mình
ở vu vơ ngỡ ngàng tiếng khóc
đêm bến xe tưởng chốn u minh
đường bảy nhánh chỗ nào phải lối
ngủ nơi đâu còi rúc giới nghiêm
như tiếng cú rúc trong huyệt tối
người lao xao cõi tạm cuồng điên
gío nhọn hoắt ngon lành da thịt
mưa giọt soi mộng dữ chân người
ánh đèn pin mắt ai tội nghiệp
bờ đá xanh lạnh buốt chăn đời..”

Ở một đất nước vào thời kỳ mà cây cột đèn nếu đi được cũng muốn vượt biển , thì còn con đường nào khác hơn là thách đố với định mệnh.

Những lần sửa soạn ra đi , tự nhủ hãy đi một vòng thành phố thân yêu để rồi vĩnh biệt không còn gặp lại. Những khúc sông , những cây cầu , những dãy phố , mỗi mỗi đều nhắc đến kỷ niệm và khi sắp sửa ra đi như mất mát một phần đời sống mình. Có buổi tối , đi trong mưa, để tưởng nhớ lại lúc xa xưa, khi bềnh bồng trong cảm giác lãng mạn của một người đi tìm vần thơ.

Mai ta đi xa. Thôi giã từ thành phố. Lòng đau như cắt trong lúc giã từ "ta thắp nến đọc hoài trang sách kể

Chuyện người tù vượt ngục suốt một đời
Ta hùng hực cánh buồm chờ gió đẩy
Sống một ngày thêm thúc giục khôn nguôi
Đã đắp xóa bao lần cơn mộng biếc
đường phải đi cho đến lúc xuôi tay
sóng loạn cuồng con thuyền trôi biền biệt
giăng buồm lên phương viễn xứ một ngày
Ta cũng biết còn xa vùng đất hứa
Phải đi qua địa ngục chín mươi tầng
Đời hiện tại xích xiềng theu bão lửa
Nỗi niềm riêng còn khóe mắt thương thân
Đã thấm thía ngày qua ngày tù tội
Chim trong lồng mơ vùng vẫy trời cao
Cười khinh mạn những chão thừng buộc trói
Về phương đông nơi bến đỗ tay chào
Mộng ước mãi chiều nao vời cố quận
Chim sẻ ngoan còn ríu rít phố phường
Loài ác điểu vẫn gây căm tạo hận
Bẫy gai chông ngầm phục ở quê hương
Ta tin tưởng có quỉ thần dẫn lối
Dù giặc thù vây bủa cả không trung
Còn một chén nốc ngụm men vời vợi
Gió chuyển rồi thôi đến lúc lên đường
Chuyện sinh tử dỡn chơi thêm ván cuối
cạn láng rồi thử thách với phong ba
ngôi tinh đẩu dẫn ta về bến đợi
đường biển vẽ rối tay lái thẳng lối qua.”

Bây giờ, nhiều người trở lại nói thành phố đã đổi khác. Hết rồi, những con đường cũ, những ngõ hẻm xưa. Hết rồi, những tâm tình thuở nào, của một htời trong một đời người. Tôi, có lúc đọc những bài viết cũ, ngắm lại những hình ảnh xưa, lại nhói đau như vừa đánh mất một điều gì trân quí. Thôi vĩnh biệt sài Gòn, tiếng kêu thảng thốt của người vừa đánh mất một phần đời sống mình…

Nguyễn Mạnh Trinh


Sài Gòn vĩnh biệt-Vũ Khanh

http://www.youtube.com/watch?v=TMyJLQvb3tE

Sài Gòn ơi, tôi đã mất người trong cuộc đời
Sài Gòn ơi, thôi đã hết thời gian tuyệt vời
Còn lại đây, những kỷ niệm sống trong tôi
những nụ cười tắt trên môi
những giọt lệ vương sầu đắng

Sài Gòn ơi, nắng vẫn có còn vương trên vĩa hè
Từng ngày qua, mưa vẫn có ngập lối đường về
Và mùa thu, lá còn đổ xuống công viên
bóng người còn bước nghiêng nghiêng
tôi vẫn nhớ thương cho người yêu

Tôi giờ như con thú hoang lạc đàn
Từng ngày qua, từng kiếp sống, đếm thời gian
Kiếp tha hương, lắm đau thương, lắm chua cay
Tôi gọi tên quê hương mãi thôi

Sài Gòn ơi, tôi xin hứa rằng tôi trở về
Người tình ơi, tôi xin hứa trọn mãi lời thề
Dù thời gian, có là một thoáng đam mê
Phố phường đầy những ánh sao đêm
Nhưng tôi vẫn không bao giờ quên


viethoaiphuong
#191 Posted : Sunday, December 12, 2010 7:32:32 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
Sài Gòn Vẫn Là Sài Gòn







Phượng Các
#192 Posted : Friday, December 24, 2010 1:39:23 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,686
Points: 19,998
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)


Sài Gòn, ngày lạ mặt

Trần Vũ

Tôi trở lại đường Trương Minh Giảng bây giờ mang tên Lê Văn Sỹ. Thận Nhiên chạy xe Dawoo phía trước, tôi lái chiếc Cub phía sau. Nắng loang loáng trên mái tóc Nhiên nhẵn thín. Nắng loá con đường giữa trưa sáng bóng các biển hiệu. Nhà may Thủy Tiên, hiệu sơn Tất Thành, Karaoké Thời Mới... Một giờ trưa, nắng toé lửa. Chúng tôi hứng trận nắng như hứng những mảnh mặt trời nguyên vẹn rớt ụp xuống mặt. Tôi muốn dừng xe uống nước, nhưng Nhiên vẫn lầm lũi chạy tiếp, thỉnh thoảng quay lại kêu: ‘‘Nhà anh Mậu khó kiếm lắm’’. Tôi nghĩ Nhiên lạc, vì chúng tôi quần tới quần lui khúc giữa Sư Vạn Hạnh và nhà thờ Ba Chuông. Trận nắng nhảy múa trước giỏ xe cub như một ảo ảnh. Tôi trông thấy lại cảnh gia đình hốt hoảng chạy ra phi trường Tân Sơn Nhất. Tôi trông thấy lại cảnh chen lấn giữa tiếng súng Quân Cảnh cố vãn hồi trật tự. Thầy căng thẳng cực độ lái xe Toyota chở chúng tôi im thin thít tìm cách rời khỏi Sài Gòn hỗn loạn. Cũng con đường này, qua khỏi đường rày xe lửa, nhà thờ Ba Chuông đâm lên Lăng Cha Cả, tôi bó gối sợ hãi trông thấy một thanh niên bê bết máu phóng xe Honda lao ngược chiều la lớn ‘‘tụi nó chiếm Tân Sơn Nhất rồi’’ và gương mặt Thầy nhăn nhúm tuyệt vọng. Thầy quành xe lao về hướng Khánh Hội tìm một đường sống khác. Vô ích, Thầy không biết Thầy sẽ chết 13 ngày sau đó khi lá cờ Quyết Chiến Quyết Thắng bay trên nóc hầm De Castrie tại Ðiện Biên Phủ một lần nữa phất lên ngạo nghễ ‘‘hãnh tiến’’ trên đường phố Sài Gòn của tháng 5 im lặng. Thầy không biết, Thầy sẽ vĩnh viễn yên nghỉ tại đây, trên mảnh đất này, nơi Thầy di cư tìm đường sống tháng 9-1954.

Bà gởi tôi đi vượt biên thực hiện một hoài bảo đã có từ những ngày Hà Nội sau tản cư. Bà gởi tôi đi, nhưng tôi trở về để chứng kiến lại một lần nữa, nỗi tuyệt vọng của gia đình buổi sáng 30 tháng 4 trên con đường này. Những tuyệt vọng hãy còn loang loáng ẩn hiện trên các mặt tiền những ngôi nhà đường Trương Minh Giảng. Những lớp cửa sắt im phắc. Những cánh cổng của những ngôi nhà ban trưa đóng kín, im ỉm. Tất cả giống câm điếc, giống những mặt người không thốt thành lời, chỉ có những dấu hỏi ngầm giữa tròng mắt: ‘‘Tìm gì? muộn rồi.’’

Tôi nhìn mặt đường. Tôi nhìn hai hàng cây. Tôi nhớ rõ, chỗ này bánh bao Ông Cả Cần, chỗ kia bò nhúng dấm, Thầy vẫn đưa gia đình đến ăn những tối thứ bảy. Tôi còn nhận ra hàng hiên lớp hội họa truyền thần bà ghi tên cho tôi học vẽ bây giờ là tiệm mát xa chân với đèn ông sao xanh đỏ. Vẫn con đường này, như không thể có con đường nào khác, vẫn là những thước nhựa tôi đã dẫm lên thời bé, nhưng đã là lớp nhựa tráng tên người khác.

Lê Văn Sỹ, tôi không biết là ai, nhưng tôi biết Trương Minh Giảng đánh Trấn Tây Thành, chiếm Kampuchia. Sao Trương Minh Giảng cũng thi hành nghĩa vụ quân sự quốc tế, giải phóng nhân dân Khmer mà tên ông bị bại đi trên các cột đèn này? Còn sống chắc ông nổi cơn thịnh nộ. Còn sống, tôi với Nhiên không dám nổi cơn thịnh nộ. Thế hệ tôi thiếu dũng, kiên, cường. Thế hệ tôi sợ hãi ở mỗi ngã tư đèn xanh đèn đỏ bị công an kêu lại xử lý.

Nhiên đỗ xe. Chúng tôi đi tìm một nhà văn miền Nam.

Miền Nam? Một quốc gia biến mất. Văn chương miền Nam? cũng biến mất. Còn Dương Nghiễm Mậu? Một gương mặt bí hiểm. Thế hệ tôi chưa kịp đọc ông. Chúng tôi hãy còn quá nhỏ, dù miền Nam tràn ngập sách báo, dù chúng tôi đi thuê truyện mỗi chiều, ngốn ngấu Duyên Anh, Nguyễn Thanh Trịnh, Ðinh Tiến Luyện, Từ Kế Tường, Nguyễn Ðình Toàn... Chúng tôi chưa ai đọc Gào Thét, Buồn Vàng, Ngày Lạ Mặt, Cũng Ðành,... Dương Nghiễm Mậu ở một thế giới nào đó vô cùng xa xôi mà chúng tôi không thể mường tượng. Tháng 4-75 đến quá sớm để tuổi trẻ kịp tận hưởng.

Dương Nghiễm Mậu tiếp tôi với Nhiên trong ngôi nhà lát đá mát lạnh. Không khác mấy khí hậu trong truyện ông, khô, lạnh lẽo. Mỗi tiếng động đều hàm chứa một nội dung rõ rệt, tựa như những điều muốn nói phải qua một phiến lọc khác dành riêng cho những ai có khả năng hiểu ra. Dăm bức sơn mài Dương Nghiễm Mậu làm lấy treo trên vách. Một gói thuốc Con Mèo gần cạn. Tủ sách để tượng trưng trống rỗng.

Tủ sách của một nhà văn miền Nam sau ngày “giải phóng” trống rỗng. Tôi nhìn tủ sách kỳ lạ. Thầy cũng có một tủ sách và tủ sách ấy ăn vào tuổi thơ tôi không hề biến mất. Tôi không thể nhớ tủ sách đem về khi nào, chỉ biết, từ lúc có trí khôn, tủ sách đã ở đó, chễm chệ và sừng sững. Thầy buôn bán theo truyền thống Trung Hoa, nhưng tủ sách chiếm nửa bức tường. Chiếc bóng của chúng tôi, của kẻ ăn người ở trong nhà luôn chao lượn lên khung kính phản chiếu những hình ảnh lặng lờ. Những khi tôi ngủ quên trên ghế đệm, tủ sách ngả chiếc bóng đen đè lên mình. Khi tôi thức giấc, chiếc bóng hoá trở lại thành tên khổng lồ mặt gỗ chứa thật nhiều sách rình rập canh chừng. Nhưng tôi lớn lên và nỗi sợ hãi biến mất, chỉ còn những tò mò thấp thoáng trên các tựa sách ở tầng cao khóa kín. Chính trong những năm đầu trung học đệ nhất cấp, khi chiều cao cho phép với lên phần có ổ khoá, tôi khám phá Dương Nghiễm Mậu. Sách của ông xếp cạnh sách Mai Thảo, Nguyễn Thị Hoàng. Tuổi Nước Ðộc, Con Sâu, Trong Hoang Vu, xếp cạnh Mười Ðêm Ngà Ngọc, Sống Chỉ Một Lần, Viên Ðạn Ðồng Chữ Nổi, Hạnh Phúc Ðến Về Ðêm, Vòng Tay Học Trò, Dưới Vừng Hoa Trắng, Tiếng Chuông Gọi Người Tình Trở Về...

Tôi không bao giờ được phép xem. Với tôi là một khiêu khích. Tôi vẫn đi thuê truyện, say mê với Hitler và Những Tên Ác Quỷ Y Khoa, Hitler và Mặt Trận Miền Ðông, Moshe Dayan Bức Tường Thành Do Thái, Tora Tora Tora Bay Về Trân Châu Cảng, Kamikaze Những Trận Không Chiến Dữ Dội Nhất Lịch Sử Thái Bình Dương, Về Miền Ðất Hứa...nhưng Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Thị Hoàng, Mai Thảo vẫn là một kích thích. Cho đến bây giờ tôi vẫn không hiểu vì sao mình đã ngoan ngoãn nghe lời Thầy đến như vậy, tôi thuê truyện, nhưng chỉ thuê những cuốn sách Thầy cho phép đọc. Những cuốn sách nhà cấm, tôi nhìn tò mò, nhưng không cầm đến. Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Thị Hoàng, Mai Thảo, Túy Hồng, Trùng Dương, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Thế Uyên, Mặc Ðỗ, Thế Phong, Nguyễn Thụy Long,... xếp ngay ngắn sau lớp kính có ổ khoá.

Buổi trưa ngồi với Nhiên, Dương Nghiễm Mậu không nói điều gì. Ông chỉ lẳng lặng pha trà cười nhẹ nhàng, nghe Nhiên nói, nghe Nhiên kể về nỗi sôi sục huyết quản của một thi sĩ, của Nhiên và bạn bè Nhiên. Tôi khác Nhiên, tôi chỉ muốn hiểu thế giới bí mật của văn xuôi. Dương Nghiễm Mậu cười nhẹ như tàu dừa lay, gần như ông không động đậy. Ở Dương Nghiễm Mậu nụ cười diễn ra ở chuôi mắt, ở ngón tay đập cán thuốc mà nhịp nhanh chậm thay cho tiếng cười luôn luôn kín đáo. Dương Nghiễm Mậu rót trà. Ông hiểu thế hệ tôi và Nhiên không còn ai uống trà nữa, nhưng ông vẫn rót. Váng nước vàng màu mỡ gà, giữa buổi trưa nóng hực sủi tăm như số lượng dấu hỏi chất chứa trong đầu tôi từ buổi trưa tháng 5-75 Bà mở khoá cho chúng tôi đọc tất cả sách người lớn của tủ sách đồ sộ, trong vòng 48 giờ rồi Bà đem bán ký vì Công an phường đã ra lệnh tịch thu văn hoá phẩm đồi trụy của Ngụy. Tôi còn nhớ Bà bán cân ký 150 đồng ông Thiệu mỗi ký. Bà bán sạch tủ sách, kể cả sách thiếu nhi Lữ Hân Phi Lục, Phan Tân Sĩ Phú, Tintin, Lucky Luke, Astérix Obélix, chở đi mấy xe ba gác. Bà bán sạch tuổi thơ tôi trong chớp mắt. Làm sao tôi đọc hết hai mươi năm văn học miền Nam trong 48 giờ? Làm sao tôi trưởng thành kịp trong 48 tiếng để hiểu những chiếu bài mạt chược, trong phòng khách sạn rì rầm, hai người đàn ông đàn bà làm gì trên mặt nệm trong tiểu thuyết Mai Thảo. Tôi chưa đến 13 tuổi nhai ngốn ngấu Vòng Tay Học Trò của Nguyễn Thị Hoàng trên sân thượng giữa trưa nắng ngun ngút, cố mường tượng ra cô giáo Hoàng với đồi thông Ðà Lạt trong ngôi nhà gỗ thông thơm phức với tên nam sinh tên Minh sớm biết hút thuốc, có bật lửa zippo và gan dạ tán tỉnh cô giáo. Tôi ngốn ngấu Tháng Giêng Ðưa Ðám của Nhã Ca, kinh ngạc khám phá tiểu thuyết có sức chở mang gấp mười lần tivi số lượng hình ảnh Tết Mậu Thân ngoài Huế. Trưa nắng thiêu đốt. Tiếng động chiến xa T-54 ầm ĩ từ Gò Vấp đổ xuống Phú Nhuận băng lên đại lộ Hai Bà Trưng không át nổi âm thanh của 16 vỏ chai bia mỗi ngày Túy Hồng quắp rổ đi đổi cho Thanh Nam lúc còn sống trong building Cửu Long và diễn ra trong tiểu thuyết Tôi Nhìn Tôi Trên Vách. Không át nổi tiếng nhạc xập xình mỗi buổi tối cô ca ve đi làm luôn có một người đàn ông chờ sẵn, đem đến một gói Salem xanh biếc trong Thủy và T6 của Thế Phong... Tôi khám phá xã hội miền Nam ngay trong ngày xã hội đó bị xích sắt T-54 nghiến nát dưới lòng đường. Tôi chưa kịp đọc Dương Nghiễm Mậu. Tôi chỉ kịp trông thấy ông bị vất lên xe ba gác chở ra lề đường. Nhưng cũng chỉ một hai tháng sau lề đường bị truy quét tàn dư Mỹ Ngụy và ông biến mất.

Dương Nghiễm Mậu hiện ra trở lại buổi trưa Lê Văn Sỹ. Ông yên lặng quan sát tôi với Nhiên. Chúng tôi, những độc giả thiếu nhi của miền Nam cũ, cũng đột ngột hiện ra trước mắt ông. Cũng đành... dường như ông muốn nói vậy. Tôi cũng quan sát ông, quan sát cái tủ sách trống trơn của một nhà văn miền Nam. Tôi ngắm ông với cảm giác kỳ quặc là ông hãy còn trong tủ kính bị khóa, giống như ông đang là cuốn sách câm chưa được phép mở ra cho tôi xem. Nhưng Dương Nghiễm Mậu vẫn ở đó, trong sâu thẳm của một miền Nam ngã đạn.


Tiểu sử Trần Vũ:


Sinh năm 1962 tại Sài Gòn trong một gia đình Bắc di cư, nguyên quán Sơn Tây và Phú Thọ, theo học Lasan Taberd đến 1976. Vượt biên đến Palawan, Phi Luật Tân năm 1979 rồi nội trú trong cô nhi viện tại Pháp. Làm phân tích điện toán cho Fédération Nationale de la Mutualité Française. Chủ biên tập san Hợp Lưu từ tháng 1/2003 đến tháng 7/2005. Đã viết 50 truyện ngắn, truyện vừa, tiểu luận, ký, tùy bút.

1 user thanked Phượng Các for this useful post.
linhvang on 8/24/2016(UTC)
viethoaiphuong
#193 Posted : Thursday, January 13, 2011 7:57:26 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
Lịch sử nhà thờ Đức Bà Sàigòn



Nhà thờ Đức Bà Sàigòn (năm 2007)

Giáo Đường

Tên chính Vương cung thánh đường Chính tòa Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội.

- Tôn giáo Công giáo Rôma
- Chức năng Nhà thờ chính tòa
- Quốc gia Việt Nam
- Vùng Tổng Giáo phận Saigon
- Thành phố Saigon
- Địa chỉ Công trường Công xã Paris
- Kiến trúc
-Thiết kế J. Bourad
- Phong cách Kiến trúc Roman
Cao 57 mét (đỉnh thánh giá)

Nhà thờ Đức Bà Saigon, tên chính thức là Vương cung thánh đường Chính tòa Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội (Immaculate Conception Cathedral Basilica), là nhà thờ lớn nhất và đặc sắc nhất tại Saigon với 2 tháp chuông cao 60 m, tọa lạc tại trung tâm thành phố (Số 1 Công trường Công xã Paris, Quận 1). Đây là một trong những công trình kiến trúc tôn giáo đặc sắc thu hút nhiều khách tham quan nhất tại thành phố.

Lịch sử

Ngay sau khi chiếm Saigon, Pháp đã cho lập nhà thờ để làm nơi hành lễ cho tín đồ Công giáo trong đoàn quân viễn chinh. Ngôi nhà thờ đầu tiên được lập ở đường số 5 (nay là đường Ngô Đức Kế).
Nhà thờ đầu tiên đó quá nhỏ nên vào năm 1863, Đô đốc Bonard đã quyết định cho khởi công xây dựng ở nơi khác một thánh đường bằng gỗ bên bờ "Kinh Lớn" (còn gọi là kinh Charner, thời Việt Nam Cộng hòa là trụ sở Tòa Tạp tụng). Cố đạo Lefebvre tổ chức "Lễ đặt viên đá đầu tiên" xây dựng nhà thờ vào ngày 28 tháng 3 năm 1863. Nhà thờ xây cất bằng gỗ, hoàn thành năm 1865, ban đầu gọi là Nhà thờ Saigon. Về sau, do nhà thờ gỗ này bị hư hại nhiều vì mối mọt, các buổi lễ được tổ chức trong phòng khánh tiết của "dinh Thống Đốc" cũ, về sau cải thành chủng viện Taberd, cho đến khi nhà thờ lớn xây xong.
Tháng 8 năm 1876, Thống đốc Nam kỳ Duperré đã tổ chức một kỳ thi vẽ đồ án kiến trúc nhà thờ mới. Ngoài mục tiêu có chỗ thờ phụng, hành lễ cho tín đồ, việc xây dựng nhà thờ lớn cũng nằm trong mục đích phô trương đạo Công giáo và sự vĩ đại của nền văn minh Pháp trước người dân thuộc địa. Vượt qua 17 đồ án thiết kế khác, đồ án của kiến trúc sư J. Bourad với kiến trúc theo kiểu Roman cải biên pha trộn nét Gotich đã được chọn.



Nhà thờ Đức Bà Sàigòn, mặt sau



Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn, mặt bên

Ban đầu, địa điểm xây cất được đề nghị ở 3nơi:

• Trên nền Trường thi cũ (nay là góc đường Lê Duẩn và Hai Bà Trưng, tức vị trí tòa Lãnh sự Pháp).
• Ở khu Kinh Lớn (tại vị trí nhà thờ cũ, nay thuộc đường Nguyễn Huệ).
• Vị trí hiện nay.

Ngay tại vị trí hiện nay, vẫn từng có dư luận về sự tranh chấp của ba phía: nhà cầm quyền Pháp muốn xây cất một nhà hát ở đây, phía Tin Lành muốn cất nhà thờ Tin Lành và phía Công giáo muốn xây nhà thờ Công giáo. Sau một thời gian tranh chấp, ba bên đành phải bắt thăm.
Riêng phía Công giáo, giám mục Colombert yêu cầu giáo dân toàn giáo phận ăn chay cầu nguyện và xin dâng cho Đức Trinh Nữ Maria lo liệu.
Đến ngày bắt thăm, phía Công giáo bắt thăm trước và trúng thăm, hai phía kia bất bình và yêu cầu bắt thăm lại. Lần này, nhà cầm quyền Pháp dành bắt thăm trước, kế đến phía Tin Lành, nhưng phía Công giáo lại trúng thăm [1].

Sau khi đề án thiết kế được chọn, Đô đốc Duperré cho đấu thầu việc xây dựng thánh đường và cũng chính kiến trúc sư J. Bourad là người trúng thầu và trực tiếp giám sát công trình này. Mọi vật liệu từ xi măng, sắt thép đến ốc vít đều mang từ Pháp sang. Đặc biệt mặt ngoài của công trình xây bằng loại gạch đặt làm tại Marseille (Pháp) để trần, không tô trát, (đến nay vẫn còn màu sắc hồng tươi), không bám bụi rêu.



Ngày 7 tháng 10 năm 1877, Giám mục Isidore Colombert đặt viên đá đầu tiên trước mặt Phó soái Nam Kỳ và đông đủ nhân vật tai mắt thời ấy. Thánh đường được xây dựng trong 3 năm.
Lễ Phục sinh, ngày 11 tháng 4 năm 1880, lễ cung hiến và khánh thành được cố đạo Colombert tổ chức trọng thể với sự có mặt của Thống đốc Nam Kỳ Le Myre de Vilers.

Hiện nay, trên bệ phía trên, bên trong cửa ra vào nhà thờ, có chiếc bảng cẩm thạch gắn trong hành lang (transept) ghi ngày khởi công, ngày khánh thành và tên vị công trình sư.
Tất cả mọi chi phí xây dựng, trang trí nội thất đều do Soái phủ Nam Kỳ đài thọ, với số tiền 2.500.000 franc Pháp theo tỷ giá thời bấy giờ.

Ban đầu, thánh đường có tên gọi là Nhà thờ Nhà nước vì thánh đường do nhà nước Pháp bỏ tiền xây dựng và quản lý.
Năm 1895, nhà thờ xây thêm hai tháp chuông, mỗi tháp cao 57,6 m và hai tháp có 6 chuông đồng lớn nặng 28,85 tấn. Trên đỉnh tháp có đính một cây thánh giá cao 3,50 m, ngang 2 m, nặng 600 kg. Tổng thể chiều cao từ mặt đất lên đỉnh thánh giá là 60,50 m.



Tượng đồng Giám mục Adran và Hoàng tử Cảnh

Trên vườn hoa trước nhà thờ, năm 1903, người Pháp cho dựng tượng đồng Pigneau de Béhaine (còn gọi là Giám mục Adran vì vị này làm Giám mục hiệu tòa Adran) dẫn hoàng tử Cảnh (con vua Gia Long) để ca ngợi công lao của nước Pháp "bảo hộ", "khai hóa" cho Việt Nam. Tượng đài này bao gồm một bệ bằng đá hoa cương đỏ hình trụ tròn và bên trên là bức tượng tạc hình đức cha Adran với phẩm phục giám mục, tay trái dẫn hoàng tử Cảnh. Tượng làm bằng đồng, được đúc tại Pháp, giới bình dân thời đó thường gọi là tượng "Hai hình" để phân biệt với tượng "Một hình", là bức tượng của Đô đốc Hải quân Pháp Genouilly ở phía công trường Mê Linh (cuối đường Hai Bà Trưng, gần bờ sông Saigon). Năm 1945, tượng này bị phá bỏ, nhưng cái bệ đài bằng đá hoa cương đỏ thì vẫn còn tồn tại ở đó mà không có bất cứ một bức tượng nào ở trên.

Năm 1959, Linh mục Giuse Phạm Văn Thiên (sau làm Giám mục giáo phận Phú Cường, nay đã qua đời), cai quản Giáo xứ Saigon bấy giờ, đi dự đại hội Thánh Mẫu ở Vatican, đã đặt tạc một tượng Đức Mẹ Hòa Bình bằng loại đá cẩm thạch quý hiếm.



Khi tượng từ Roma gửi sang Saigon bằng đường thủy, Linh mục Giuse Phạm Văn Thiên đã làm lễ dựng tượng trên cái bệ đài vẫn còn để trống kể từ năm 1945 vào ngày 16 tháng 2 năm 1959 và dâng tước hiệu Nữ Vương Hòa Bình. Tự tay linh mục viết câu kinh cầu nguyện "Xin Đức Mẹ cho Việt Nam được hòa bình" rồi đọc trước đông đảo quan khách có mặt hôm ấy.

Ngày hôm sau, Hồng y Aganianian từ Roma qua Saigon để chủ toạ lễ bế mạc Đại hội Thánh Mẫu, đã làm phép bức tượng này vào buổi chiều ngày 17 tháng 2 năm 1959. Do bức tượng này mà từ đó Nhà thờ có tên gọi là Nhà thờ Đức Bà.

Ngày 05/12/1959, Tòa Thánh đã cho phép làm lễ "xức dầu", tôn phong Nhà thờ Chánh tòa Saigon lên hàng Vương Cung Thánh Đường (basilique). Từ đó, tên gọi chính thức của thánh đường là Vương cung thánh đường Đức Bà Saigon.

Năm 1960, Tòa Thánh thành lập hàng giáo phẩm Việt Nam với ba tòa Tổng Giám mục tại Hà Nội, Huế và Saigon. Nhà thờ trở thành nhà thờ chinh tòa của vị Tổng giám mục Saigon cho đến ngày nay.

Những nét đặc sắc

Trong quá trình xây dựng, toàn bộ vật liệu xây dựng từ xi măng, sắt thép đến ốc vít đều mang từ Pháp sang.
Mặt ngoài của công trình xây bằng loại gạch đặt làm tại Marseille để trần, không tô trát, (đến nay vẫn còn màu sắc hồng tươi), không bám bụi rêu.

Một số ngói vỡ trong nhà thờ có in hàng chữ Guichard Carvin, Marseille St André France (có lẽ là nơi sản xuất loại ngói này), mảnh ngói khác lại có hàng chữ Wang-Tai Saigon. Có thể đây là mảnh ngói được sản xuất sau tại Saigon dùng để thay thế những mảnh ngói vỡ trong thời gian Thế chiến thứ hai do những cuộc không kích của quân Đồng Minh.

Toàn bộ thánh đường có 56 ô cửa kính màu do hãng Lorin của tỉnh Chartres (Pháp) sản xuất.
Móng của thánh đường được thiết kế đặc biệt, chịu được tải trọng gấp 10 lần toàn bộ kiến trúc ngôi nhà thờ nằm bên trên. Và một điều rất đặc biệt là nhà thờ không có vòng rào hoặc bờ tường bao quanh như các nhà thờ quanh vùng Saigon - Gia Định lúc ấy và bây giờ.
Nội thất thánh đường được thiết kế thành một lòng chính, hai lòng phụ tiếp đến là hai dãy nhà nguyện. Toàn bộ chiều dài thánh đường là 133 m, tính từ cửa ngăn đến mút chót của phòng đọc kinh. Chiều ngang của hành lang là 35 m. Chiều cao của thánh đường là 21 m. Sức chứa của thánh đường có thể đạt tới 1.200 người.

Nội thất thánh đường có hai hàng cột chính hình chữ nhật, mỗi bên sáu chiếc tượng trưng cho 12 vị thánh tông đồ.

Ngay sau hàng cột chính là một hành lang với khá nhiều khoang có những bàn thờ nhỏ (hơn 20 bàn thờ) cùng các bệ thờ và tượng thánh nhỏ làm bằng đá trắng khá tinh xảo. Bàn thờ nơi Cung Thánh làm bằng đá cẩm thạch nguyên khối có hình sáu vị thiên thần khắc thẳng vào khối đá đỡ lấy mặt bàn thờ, bệ chia làm ba ô, mỗi ô là một tác phẩm điêu khắc diễn tả thánh tích.

Trên tường được trang trí nổi bật 56 cửa kính mô tả các nhân vật hoặc sự kiện trong Thánh Kinh, 31 hình bông hồng tròn, 25 cửa sổ mắt bò bằng kính nhiều màu ghép lại với những hình ảnh rất đẹp. Tất cả các đường nét, gờ chỉ, hoa văn đều tuân thủ theo thức Roman và Gôtich, tôn nghiêm và trang nhã. Tuy nhiên, trong số 56 cửa kính này hiện chỉ còn hai cửa là nguyên vẹn như xưa.

Nội thất thánh đường ban đêm được chiếu sáng bằng điện (không dùng đèn cầy) ngay từ khi khánh thành. Vào ban ngày, với thiết kế phối sáng tuyệt hảo, hài hòa với nội thất tạo nên trong nội thất thánh đường một ánh sáng êm dịu, tạo ra một cảm giác an lành và thánh thiện.

Ngay phía trên cao phía cửa chính là "gác đàn" với cây đàn organ ống, một trong hai cây đàn cổ nhất Việt Nam hiện nay. Đàn này được các chuyên gia nước ngoài làm bằng tay, thiết kế riêng, để khi đàn âm thanh đủ cho cả nhà thờ nghe, không nhỏ mà cũng không ồn. Phần thân đàn cao khoảng 3 m, ngang 4 m, dài khoảng 2 m, chứa những ống hơi bằng nhôm đường kính khoảng một inch. Phần điều khiển đàn nằm riêng nối với thân đàn bằng những trục, có những phím đàn như đàn organ bình thường và những phím to đặt dưới sàn nhà (dài chừng 3 m, ngang khoảng 1m) để người điều khiển đàn đạp lên khi dùng nốt trầm. Đàn còn có những thanh gõ lớn để đập vào phần dưới các ống hơi phát ra âm thanh.

Hiện nay, cây đàn này đã hoàn toàn hỏng do bị mối ăn phần gỗ bàn phím điều khiển bằng tay.

Ban đầu, hai tháp chuông cao 36,6 m, không có mái và chỉ có độc một chiếc cầu thang hẹp chừng 40 cm bề ngang. Nội thất gác chuông rất tối và sàn được lót sơ sài bằng những miếng gỗ nhỏ cách khoảng, nhìn xuống thấy sâu hút. Vào năm 1895, thánh đường xây thêm hai mái chóp để che gác chuông cao 21 m, theo thiết kế của kiến trúc sư Gardes, tổng cộng tháp chuông cao 57 m. Có tất cả 6 chuông lớn (sol, la, si, đô, rê, mi), gồm sáu âm, nặng tổng cộng 28,85 tấn, đặt dưới hai lầu chuông. Bộ chuông này được chế tạo tại Pháp và mang qua Saigon năm 1879. Trên tháp bên phải treo 4 quả chuông (sol, si, rê, mi); tháp bên trái treo 2 chuông (la, đô). Trên mặt mỗi quả chuông đều có các họa tiết rất tinh xảo.

Ba quả chuông to nhất là chuông si nặng 3.150 kg, chuông re nặng 2.194 kg và đặc biệt là chuông sol là một trong những quả chuông lớn nhất thế giới: nặng 8.785 kg, đường kính miệng chuông 2,25 m, cao 3,5 m (tính đến núm treo). Chuông này chỉ ngân lên mỗi năm một lần vào đêm Giáng Sinh.

Các chuông đều được điều khiển bằng điện từ bên dưới. Riêng ba chiếc chuông lớn trước khi đánh đều được khởi động bằng cách đạp (vì quá nặng) cho lắc trước khi bật công tắc điện.
Vào ngày thường, thánh đường chỉ cho đổ một chuông mi hoặc rê vào lúc 5 giờ và 17g30.

Vào ngày lễ và Chủ nhật, nhà thờ thường cho đổ ba chuông.
Vào đêm Giáng Sinh thì mới đổ cả 6 chuông. Tiếng chuông ngân xa tới 10 km theo đường chim bay.

Bộ máy đồng hồ trước vòm mái cách mặt đất chừng 15 m, giữa hai tháp chuông được chế tạo tại Thụy Sĩ năm 1887, hiệu R.A, cao khoảng 2,5 m, dài khoảng 3 m và ngang độ hơn 1 m, nặng hơn 1 tấn, đặt nằm trên bệ gạch. Dù thô sơ, cũ kỹ nhưng hoạt động khá chính xác. Để điều chỉnh đồng hồ, phía sau máy có một chiếc đồng hồ to cỡ đồng hồ reo trong gia đình. Chỉ cần theo dõi chiếc đồng hồ con này, có thể biết đồng hồ lớn chạy chậm, nhanh, đúng hay sai giờ. Mỗi tuần phải lên giây đồng hồ một lần và chiếc cần để lên giây đồng hồ giống như tay quay máy xe. Đồng hồ còn có hệ thống chuông riêng, tuy nhiên đã không còn hoạt động do dây cót quá cũ.

Mặt trước thánh đường là một công viên với bốn con đường giao nhau tạo thành hình thánh giá. Trung tâm của công viên là bức tượng Đức Mẹ Hòa bình (hay Nữ vương Hòa bình). Tượng do nhà điêu khắc G. Ciocchetti thực hiện năm 1959. Tên của tác giả được khắc ở trên tà áo dưới chân, phía bên trái của bức tượng. Bức tượng cao 4,6 m, nặng 5,8 tấn, bằng đá cẩm thạch trắng của Ý, được tạc với chủ đích để nhìn từ xa nên không đánh bóng, vì vậy mà toàn thân tượng, kể cả vùng mặt vẫn còn những vết điêu khắc thô. Tượng Đức Mẹ trong tư thế đứng thẳng, tay cầm trái địa cầu, trên trái địa cầu có đính cây thánh giá, mắt Đức Mẹ đăm chiêu nhìn lên trời như đang cầu nguyện cho Việt Nam và cho thế giới được hoà bình. Chân Đức Mẹ đạp đầu con rắn (mà hiện nay, đầu con rắn đã bị bể mất cái hàm trên).

Trên bệ đá, phía trước bức tượng, người ta có gắn một tấm bảng đồng với hàng chữ Latinh:

REGINA PACIS - OPRA PRONOBIS - XVII. II. MCMLIX

Nghĩa là: NỮ VƯƠNG HÒA BÌNH - CẦU CHO CHÚNG TÔI - 17.02.1959
Phía dưới bệ đá, người ta đã khoét một cái hốc chỗ giáp với chân tượng Đức Mẹ, trong đó có một chiếc hộp bằng bạc, chứa những lời kinh cầu nguyện cho hoà bình của Việt Nam và thế giới. Những lời cầu nguyện đó được viết lên trên những lá mỏng bằng những chất liệu khác nhau như bằng vàng, bạc, thiếc, nhôm, giấy, da và đồng, được gởi tới từ nhiều miền của Việt Nam, kể cả từ một số vùng ngoài miền Bắc.
viethoaiphuong
#194 Posted : Sunday, January 16, 2011 9:03:22 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)

Sài Gòn, quán nhậu khổng lồ



Trần Tiến Dũng

SÀI GÒN - Khu Bình Phú nằm bên trái trục đường Hậu Giang, quận 6, một khu dân cư mới phát triển sau thập niên 1980, cứ đi khoảng trăm mét là gặp một quán cà phê. Ðường Lữ Gia thuộc quận 11, nối từ đường Lý Thường Kiệt đến Nguyễn Thị Nhỏ, chỉ dài chưa đến nửa cây số, trừ một bên đường là nhà thi đấu thể thao Phú Thọ, trạm biến điện... phần bên đường còn lại dầy đặc các quán nhậu.

Quán cà phê sang trọng mọc lên như nấm sau mưa ở Sài Gòn. (Hình: Trần Tiến Dũng)
Những khu phố trên chỉ là đơn cử hiện tượng mở quán, ngồi quán ở Sài Gòn.
Người Sài Gòn trước năm 1975 vẫn có thói quen “người sang ngồi quán sang, bình dân ngồi quán cóc,” nhưng thường thì người có công việc ổn định ít ngồi quán. Thời nay, quán cà phê, quán ăn đủ mọi hạng trở thành công sở, văn phòng, điểm giao dịch... của đủ mọi tầng lớp. Hình ảnh dễ gây khinh ngạc nhất của Sài Gòn là chuyện trong hẻm, ngoài đường xe chạy như thác lũ, và trong quán thì đông đặc người bất kể ngày đêm, bất kể trong giờ làm việc hay ngoài giờ.

Quán nhậu từ hoành tráng đến bình dân phục vụ mọi lúc, mọi nơi bất kể đêm ngày. (Hình: Trần Tiến Dũng)
Chúng tôi hỏi chuyện một cô nhân viên của một chi nhánh ngân hàng, cô nói: “Ít ra tụi này cũng ngồi quán một ngày ba bốn lần. Hạn chế lắm rồi đấy, mà cũng không rõ vì sao lại cứ phải đưa nhau ra quán, dù là có việc cần hay chẳng có việc, sếp không cho thì hẹn, cứ a lô nhau một tiếng là nhào vào quán.”
Sự bùng nổ mở quán của Sài Gòn không chỉ diễn ra ở các mặt tiền đường mà đã lấn sâu vào mọi ngõ hẻm. Những quán được ưa chuộng nhất của Sài Gòn là những quán có bàn để thực khách có thể ngồi ngó ra đường, ra hẻm. Trong lòng một đô thị người, xe chật chội, khói bụi kinh khủng thì lợi ích gì mà cứ thích ngồi hàng hàng lớp lớp ngó ra đường. Nhiều người không ngần ngại trả lời là: Ngó ra đường để có chút khoảng trống bớt ngộp thớ.
Với những người có công việc ổn định, một khi rời nhà vào buổi sáng thì họ chỉ trở về nhà vào lúc khuya để ngủ. Nếu ai có khoảng giờ trống trong ngày, họ thường không về nhà vì sợ phải di chuyển trong sự rối loạn về giao thông và môi trường, thế là kéo nhau vào quán.

Hẻm nhỏ đi khó lọt chân nhưng cũng mở quán nhậu và cũng đầy khách. (Hình: Trấn Tiến Dũng)
Ða số dân nhập cư, trừ lúc ngủ, họ lại càng không muốn về nhà trọ chật hẹp. Cả với những người có nhà riêng, họ cũng chọn tiếp khách ở quán để dễ thở hơn là phải chạy về nhà. Một người đàn ông trung niên nói: “Trừ buổi tối, ban ngày mà muốn gặp mặt vợ vì việc cần cũng hẹn ra quán cho xong.”
Ở nhiều khu sang trọng, Sài Gòn không thiếu những quán có kiểu như một văn phòng lớn với nhiều phòng làm việc riêng, có những quán có ghế sofa, có nệm ngồi nệm lót lưng để khách ngã ngửa hàng giờ đồng hồ...
Tuy nhiên cũng có giới ngồi quán vì một lý do là dư dả tiền và dư thời gian. Ph. một người đàn ông trung niên, có con đi du học tự túc ở Úc, có 5 căn nhà nhỏ cho thuê nguyên căn, thu nhập hàng tháng trên năm mươi triệu. Có thể xếp địa vị của người đàn ông này là tiểu chủ, cũng có thể gọi đó là kẻ vô công rỗi nghề cũng không sai. Một người thường ngồi quán với ông kể: “Hôm qua, nó mới đòi hùn với tụi tôi một triệu để nhậu, tụi tôi không cho vì không họp rơ, nó giận, nói ‘nhậu coi bóng đá, hát với nhau, coi vú coi giò gái tiếp viên hoài cũng chán, xin được theo chúng mày nhậu đờn hát một chút chúng mầy không cho. Chúng mày chảnh quá, *** cần!’ Những người rỗi việc, thu nhập cao như ông Ph. việc ngồi quán sẽ giúp giải quyết “nỗi khổ tâm,” san lấp được thời gian, vừa “được tốn tiền” với giá phải chăng vừa được hưởng thụ các món ăn chơi không quá sa đọa.

Món lẩu dê và các loại lẩu khác thắp sáng vỉa hè Sài Gòn hàng đêm. (Hình: Trần Tiến Dũng)

Muốn hút khách, các quán nhậu ở Sài Gòn ngày nay phải đua nhau tiến lên “hiện đại hóa” mở rộng từ diện tích quán đến việc xét tuyển các em tiếp viên chân dài - mát mẻ. Nếu Sài Gòn xưa chỉ có các sân khấu đại nhạc hội, bến xe, sân vận động mới ồn ào thì ngày nay các quán nhậu hoành tráng là nơi ồn ào tới đỉnh. Cứ vô quán nhậu là cứ hả họng hò hét, hả họng nốc bia là cách tốt nhất để quên thực tại, mỗi người đang là con cá bị ngộp thoi thóp trong vùng nước ô nhiễm từ chính trị đến văn hóa...
Một đặc điểm là quán nhậu không còn là chốn đặc quyền của giới đàn ông. Nữ giới đến quán nhậu đủ mọi thành phần, không phân biệt trí thức hay dân lao động. Chị em ta, có khi lập hội xị, kéo nhau hết quán này tới quán khác để chứng minh chuyện ăn nhậu nam nữ bình quyền. Người lạ vô quán nhậu Sài Gòn cẩn thận lời lẽ kẻo bị sỉ vả, vì lớ ngớ tưởng chị em đang ngồi nốc bia cùng bàn với đàn ông là dân không đàng hoàng.
Các bà chủ, các vị phu nhân cũng ra sức cạnh tranh ngồi quán với cánh đàn ông. Không khó tìm những quán cà phê, quán nhậu có đông quí bà đủ các hạng tuổi nhưng đa phần là tuổi từ U 40 trở lên. Có dạng kinh doanh câu lạc bộ nhảy đầm, gọi đơn giản hơn là quán nhảy, quán nhảy mở cửa từ 9 giờ sáng. Một người đàn ông là khách thường xuyên của “câu lạc bộ quí bà” kể: “Quí bà đến điểm nhảy, thay quần áo, trang điểm lại, rồi xì tiền cho người ta đi chợ thế. Nhảy nhót với kép trẻ đến gần giờ nấu cơm trưa lại tất bật xách giỏ thức ăn về nấu cho chồng con. Ðâu ra đó cả, chẳng thiếu sót gì.”
Ðối điện với hiện tượng ngồi quán miên man của dân Sài Gòn riết thành quen. Và ngày nay từ du khách ngoại quốc đến Việt kiều, nhiều người đã hiểu thực trạng chất lượng sống của đô thị này cũng hồn nhiên thông cảm và rồi cũng kéo nhau ra quán để hú hí. Và chắc ai cũng cho rằng Sài Gòn ngày nay không chỉ là một đô thị lớn mà còn là một cái quán khổng lồ.


PS.
Computer of VHP không xem được hình ảnh direct, nên đang bỏ trống những hình ảnh minh họa trong bài viết.
Nhưng khi nào hỏi được người gửi bài nầy lên liên mạng toàn cầu thì VHP sẽ bổ sung hình ảnh.
viethoaiphuong
#195 Posted : Sunday, January 16, 2011 8:10:16 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
Nhớ tiếng rao hàng Sài Gòn

Friday, December 31, 2010

Tất cả những ai từng sống ở Sài Gòn đều biết một di sản truyền đời của đời sống kinh doanh-mua bán ở đô thị này là tiếng rao hàng. Tiếng rao từ gánh hàng rong cho đến các xe bán tạp hóa, các xe quảng cáo tuồng cải lương vang khắp đường phố bến sông, từ sáng tinh mơ cho đến tận đêm khuya luôn hòa huyện với hơi thở đời sống người Sài Gòn.

Một cựu người thợ hồ kể. “Tôi ở chung cư, tối tối ưng làm xị rượu để ngủ. Biết ý tôi, bà cụ bán hột vịt lộn hễ đến là cất tiếng rao: Ai hột vịt lộn úp mề không! Nghe tiếng rao của cụ mấy chục năm tôi đâm ghiền. Hôm nào mưa gió quá, thấy vắng tiếng rao của bà cụ là nhớ, rồi lo không biết cụ có ốm đau gì không. Nói thiệt, nhớ tiếng rao như nhớ tiếng ru của má tôi ngày xưa vậy.”

Khi nghe người người lính già này nhắc về bà cụ bán hột vịt lộn chúng tôi cũng nhớ bà cụ ấy. Giọng bà rao như hát và một điều kỳ lạ là ai nghe cụ rao cũng không đoán được tuổi của cụ. Cụ gốc người Bắc di cư, trước thì gánh hàng, sau vì vai đau, chân yếu cụ sắm chiếc xe gỗ ba bánh đẩy hàng đi rao bán khắp các hẻm ở quận Tân Bình, quận 11... Ðến khi vắng bóng, vắng tiếng rao của cụ người ta mới ngỡ ngàng là cụ đã mất. Bây giờ, dù món hột vịt lộn vẫn bán đầy phố nhưng không ai rao hàng nữa. Với nhiều người, cùng với chuyện khuất bóng của cụ là cả một nền văn hóa-nghệ thuật rao hàng của Sài Gòn cũng chết theo.

Một vị Việt kiều già hỏi: “Chú có nhớ thì nhắc giùm, tôi chỉ nhớ cái âm lớ lớ của ông già bán chè mè đen.” Chúng tôi đi hỏi và được mấy ông người Hoa ở khu chợ Thiếc nhắc tiếng rao đó là: Chí mè phủ. Nhưng tiếng rao này từ giọng gốc của những người Quảng Ðông nghe như giọng ngâm thơ Ðường, hay vô kể!

Nhưng có lẽ giọng rao của ông già bán cháo huyết ở xóm chúng tôi là lạ lùng hơn cả, vì ông là người Hoa nhưng khi rao bán cháo huyết bằng tiếng Việt, ông không rao nguyên câu mà chỉ rao mỗi một âm: Huyết! Tiếng huyết kéo dài và cao vút nghe bí hiểm như tiếng hú. Ai ở Sài Gòn vào khoảng đầu giờ đêm đến khuya cũng nhớ tiếng rao bánh giò, bánh chưng. Tiếng rao của những người bán hàng này thường được tiếng cọc cạch của sên, líp chiếc xe đạp cà tàng “đệm nhạc.” Thường thì câu đầu của “ca từ” là nguyên văn: Ai bánh giò, bánh chưng! Nhưng đến câu sau chỉ còn là: Giò, gai, chưng đây. Người nghe cảm nhận được nhịp rã rời của đôi chân và một cuộc đời vất vả kiếm sống.

Một chị bạn kể. “Tôi hồi nhỏ mê giọng rao của chị bán chè: Ai ăn chè bột khoai, nước dừa đường cát hôn! Nghe trong mà ngọt còn hơn nghe Ngọc Giàu hát vọng cổ. Có lần mua chè, tôi hỏi. Chị có giọng trời cho vậy sao không làm nghệ sĩ. Chị mà đi hát người ta mê rần rần. Chị cười buồn hiu với tôi rồi nói một câu mà tôi nhớ đến giờ: Có chắc chị đi hát đỡ khổ hơn hôn em!”

Ngày nay ở Sài Gòn gần như tiếng rao hàng đã mất. Thủ phạm có thể là sự ô nhiễm tiếng ồn khủng khiếp, nhưng tiếng ồn cũng chỉ là thủ phạm hình thức, thủ phạm thật sự là sự suy thoái toàn diện của văn hóa trước những cơn bão tư bản hoang dã cùng thói cưỡng đoạt của tập đoàn độc quyền đã biến mọi người thành nạn nhân: Một thầy giáo về hưu nói “Mấy ông có để ý không, người bán báo dạo ngày nay không rao, không mời nữa. Có người cứ thế mà đưa thẳng cả xấp báo vào mặt khách. Bán vé số cũng vậy, ngày trước người ta bán vé số rao mời rất hay: Vé số chiều xổ đây. Trách mấy người khổ mua bán rong là điều không phải, chỉ thấy buồn thôi.”

Thật ra ngày nay giới bán dạo Sài Gòn cũng có cách rao hàng. Ðiển hình như những xe bán: Keo dính chuột, họ rao hàng bằng loa điện hẳn hoi.

Có điều ngôn ngữ và âm điệu rao chẳng thể nào quen tai được chớ nói gì đến chuyện nghệ thuật rao hàng như ngày xưa. Một số mặt hàng khác cũng chuyển qua rao hàng bằng loa điện như mua bán đồ cũ, đồ xưa, còn bán cà rem, kẹo kéo, băng dĩa nhạc thì tha hồ mở nhạc hiệu, đến ngay cả mấy tay mài dao, mài kéo cũng phát loa như cỡ mấy cái loa sắt gắn trên cột điện của hệ thống thông tin tuyên truyền chế độ. Ðến cả mấy cái Parkson, siêu thị to đùng hễ bán ế, hoặc muốn câu khách là mời mấy nhóm nhạc múa disco, nhóm lân sư rồng về múa hát loạn xạ, vừa không giống ai lại vừa góp phần tạo thêm hỗn loạn âm thanh. Và dàn hòa âm hết công xuất phát hằng ngày này khiến ai cũng đinh tai nhức óc...

Nếu ở Sài Gòn ngày nay mà bạn không bị chứng điếc do môi trường hoặc điếc do bị nhồi nhét cả một đống rác âm thanh thì bạn là người thật may mắn. Và càng là nạn nhân, người Sài Gòn lại càng nhớ đến những tiếng rao hàng một thời làm nên diện mạo và bản sắc nghệ thuật bán hàng văn minh lịch sự. Cùng với cái chết của những tiếng rao hàng chân phương trong sáng như một câu hát ru, người Sài Gòn cũng mất dần những căn tánh - ứng xử thị dân nhân văn.

Ký sự Trần Tiến Dũng/ Người Việt

&&&


Có Ai Còn Nhớ Tiếng Rao Hàng ?

Nhớ chứ, tôi nhớ rất nhiều.

1979, năm đó tôi tròn 12 tuổi. Chúng tôi vừa mất bà nội, vừa mất căn nhà đang ở, trong khu xóm Tân Sa Châu. Chúng tôi lễu thễu theo ba mẹ về ở chung với người bác dâu cả đã vừa bị góa chồng.

Khi còn trẻ, bác trai làm nghề thầy giáo, bác gái làm nghề y tá đỡ đẻ. Sau khi hai bác cưới nhau đã lâu, không làm sao kiếm được một mảnh con nối dõi, họ bèn cùng nhau xây, dựng lên một căn nhà rộng lớn có 4 tầng và nhiều phòng, tạo thành một nhà trường mẫu giáo dành cho những con em lối xóm nghèo. Những em học trò, quần thủng đít, mũi chảy, tóc dựng không chải, là con tinh thần của họ. Sau khi mất nước, nhà trường đã bị dứt đoạn trở thành như một cái nhà mả trắng lớn, chôn tinh thần và sức khỏe suy nhược của bác trai trong một tuổi còn quá trẻ, 65 tuổi.

Từ đó, bác gái đội cái khăn tang trắng, lê lết từ phòng này qua phòng nọ trong cảnh cơ độc: không chồng, không con, không học trò. Chuyện nhà chúng tôi vì đi vượt biên bị mất hộ khẩu, không có nơi tạm chú, là như một hũ mắm tôm treo đầu giường. Không gia đình nào dám cho vào ở chung vì sợ bị liên lụy. Chỉ có một mình bác Huỳnh gái là vui mừng khi có những bước chân trẻ chạy ở trong nhà, hơi thở thân thương, những khuôn mặt thân quen, và đôi tai để nghe những lời than vãn về cảnh cơ độc và thân già cả .

Nơi đó, bác đã cho chúng tôi ở trong một căn phòng lớn nhất nhà, có một cái balcony nhô ra lối xóm, tuy vẫn có mái nhà và cửa kính đóng kín mít. Dạo đó chúng tôi hay thích giăng mùng ra nằm ngoài ban công cho nó mát.

Mỗi khi trời sáng tinh mơ, con gà trống ngóc đầu lên dõng dạc gáy, là tôi lại nghe tiếng hàng xóm rục rịc dạy. Tiếng người ta thọc cái gáo vào cái lu múc nước đánh răng rửa mặt. Những tiếng ngáp to, tiếng khạc nhổ, tiếng người ta vác gánh ra giếng của chợ, bơm nước về đổ đầy lại thùng phuy bằng sắt.

Chừng khoảng nửa tiếng sau, khi mặt trời vừa ló dạng với những tia nắng hừng đông, là những tiếng động quen thuộc của khu chợ Trương Minh Giảng lại bắt đầu: "cháo lòng đây", "giường tủ bàn ghế ai bán không? Bàn tủ giường ghế ai bán không?", "Ze chai", "Chè đậu xanh nước dừa bột bán đê", "đậu hũ nóng đê", "nước trà nóng". Cái tiếng rao mà tôi hay nhớ nhất là "Bánh bèo, èo, èo" với một giọng bắc lanh lảnh làm mình rởn tóc gà mà tụi tôi hay ngạo lại là "Chua như *** mèo...èo...". Những tiếng gõ mõ của mấy ông già tầu để mời bà con ăn "hủ tiếu", tẩm quất (massage), và tiếng rao mời cộc lốc "mì".

Nguyên một tầng dưới nhà, bác gái đã cho một tổ hợp làm mì sợi mướn. Khoảng chừng 9h là công nhân viên bắc đầu vác xác tới làm, cười nói ồn ào, và máy móc bắt đầu rung chuyển chạy xình xịch cả ngày cho tới 5,6 h chiều.

Những tiếng động này là sự sống của khu chợ Trương Minh Giảng. Nó như là một bài nhạc, trổi lên từ lúc tờ mờ sáng, bắt đầu từ tiếng "ò ó o o". Tiếng động đó càng ngày càng tăng lên, nhanh hơn, và mạnh hơn như hơi nóng của ánh mặt trời. Rồi những tiếng động đó dần dần tan đi trong làn gió chiều thoảng và hoàn toàn tan biến, cùng với ánh sáng mạnh của mặt trời, trong màn đêm bóng tối tĩnh mịch.

Những tiếng mời hàng, những tiếng kẽo kẹt của cái gánh bằng tre, tiếng lê lết của những đôi dép cao xu, cùng với tiếng thép quay "rào, rào" của cái bánh xe từ những chiếc xe đạp, xe xích lô đạp. Mùi xăng nồng và tiếng nổ máy "bập, bập" của những chiếc xe xích lô máy chạy băng qua ngõ hẻm nhỏ. Cả tiếng dế kêu "chíp chíp chíp" và tiếng chó dại hú từng chập cũng phải ngưng lặng lại, nhường cho những tiếng muỗi vo ve trong bóng tối.

Một ngày vừa trôi qua trong khu phố Trương Minh Giảng. Những giấc mộng nồng ấm lại có thể tỏa ra phiêu du trong một vài giờ còn lại, sau bức màn đêm dầy đặc---

Lê Thị Hồng Mên
viethoaiphuong
#196 Posted : Wednesday, January 19, 2011 6:42:36 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)

Sài Gòn và món củ kiệu tôm khô đón Tết

by Tran Tien Dung on Thursday, January 20, 2011 at 2:54pm



Ở một chung cư nghèo, người dân mang hũ củ kiệu ra phơi nắng,
chuẩn bị ăn Tết.(hình: Trần Tiến Dũng)


Dĩa củ kiệu tôm khô trên bàn ăn ngày Tết của các gia đình Sài Gòn.
(Hình: Trần Tiến Dũng)


Trước cả hội tảo mộ, lặt lá mai, hái dưa hấu….hình ảnh tết đến sớm nhất đối với mọi gia đình người Việt Nam là những bó củ kiệu, củ hành, củ cải… được các bà các chị mang từ chợ về để chế biến thành những món được gọi chung là dưa món. Nhưng trong những món được ưa thích nhất của các gia đình người miền Nam phải nói là củ kiệu.



Vùng cung cấp củ kiệu lớn nhất ở Việt Nam có lẻ là Bình Định, Khánh Hoà, Đồng Tháp… Cứ bắt đầu vào tháng chạp là ở các chợ đầu mối Sài Gòn ùn ùn đưa củ kiệu về các chợ nhỏ. Nhìn những bành củ kiệu bự tổ chảng như mảng cỏ lớn được đưa ra bán, ít ai hình dung được là chỉ sau ít ngày, đám cỏ lấm lem bùn đất đó sẽ hoá thân thành món củ kiệu trắng tươi trong hủ thuỷ tinh của mỗi gia đình.



Việc chế biến món củ kiệu cũng chẳng có gì công phu nhưng công đoạn ngâm nước tro, cắt, lột, phơi nắng củ kiệu cũng không thể nói là dễ dàng. Một người đàn ông nói. “ Ra tiệm mua củ kiệu làm sẳn thì ăn không vừa miệng, còn ăn của vợ làm thì lại sợ tiếng bả rên kể công đau lưng mõi vai.” Đúng là ai có ngồi tách từng lớp vỏ của kiệu mõng dính để có từng củ kiệu trắng tươi mới biết là “ ăn chua” thế nào.



Theo sách thì củ kiệu: vị đắng, tính ấm, làm ấm bụng, tán khí kết, khỏi đầy hơi, bổ thận khí, mạnh dương, còn có tác dụng lợi tiểu, chữa chứng bệnh đái dắt, nếu ăn đều thì chịu được rét lạnh, bổ khí, điều hòa nội tạng cho béo khỏe. Nhưng hỏi ra chẳng mấy ai quan tâm đến chuyện ăn nên thuốc của củ kiệu, chỉ thấy nhà nhà, người người khoái khẩu là ăn tới, nhất là dân nhậu lại càng ăn để đưa cai cho tới luôn.



Người ta nói các món dưa món ở Việt Nam là một “phát minh” của người nghèo để nuốt trôi bữa cơm thiếu thốn đồ ăn, có người phủ nhận, họ cho rằng mấy tay nhà giàu bữa ăn thịt cá ê hề rất cần dưa món kích thích thêm khẩu vị mà tận hưởng món ngon thế gian. Nhưng có lẽ chỉ riêng món củ kiệu – dưa hành trong ba ngày tết là đạt được sự đồng thuận cao nhờ hiệu quả trong việc giúp cả dân giàu, người nghèo “hoá độ” được thịt mở, bánh chưng và cả “núi” những món ngon khác trong ba bữa tết.



Nói về mâm cơm ngày tết VN ai cũng nói đến những món được tôn vinh là quốc hồn quốc tuý nhưng dám chắc là không ai không đưa đủa gắp món củ kiệu tôm khô.



Khác với người miền Bắc ăn dưa món kèm bánh chưng, người miền Nam không ăn củ kiệu với bánh tét bao giờ. Theo cách của nhiều gia đình Sài Gòn, dĩa củ kiệu tôm khô là một món riêng. Một dĩa củ kiệu-tôm khô có rắt thêm một lớp đường cát trắng, có khi thêm vài lát hột vịt bắc thảo. Món này phụ nữ , trẻ con có thể ăn chơi nhưng với cánh đàn ông ưa bia rượu lại là món đưa cay ngày tết thượng hạng. Khoái khẩu và dễ nuốt đến nỗi- nhiều tay bộm nhậu đi chúc tết, nốc rược bia suốt cả ngày mà trong bụng chỉ có củ kiệu, tôm khô. Một tay bộm nhậu gân cổ tôn vinh món mồi tôm khô-củ kiệu như sau: Quí vị có thấy các món ta nào lại hạp rơ với bia tây bằng tôm khô củ kiệu chưa?



Thật khó mà tả hết vị ngon chảy nước miếng của món củ kiệu-tôm khô. Thật kỳ lạ khi món củ kiệu vốn là một món đồ chua nhưng khi ăn vào lại có vị ngọt nồng nàn, ăn kèm với vài con tôm khô, nhất là tôm bạc đất sẽ được thêm vị ngọt bùi từ thịt tôm, nếu để ngấm lâu một chút vào vị giấm có trộn đường thì lại thêm vị ngọt khác thường khó tả, rồi chấm một chút tương có ớt xắt lại thêm vị ngọt mặn, ngọt cay. Kể ngần đó vị ngọt vẫn chưa đủ, nếu không cảm nhận được tổng hoà mùi thơm khó tả có một không hai của món củ kiệu- tôm khô.



Dù ngày nay, cánh bác sĩ thông qua báo chí vẫn cố khuyên người ta tránh ăn các món lên men để phòng ngừa bệnh ung thư, nhưng nhiều nhà nghiên cứu và cả trang Wilipedia tiếng Việt điều cho rằng cây củ kiệu có từ thời các Vua Hùng và do một nàng Mỵ Nương có tên là Kiệu tìm ra, nên từ đó loại cỏ thơm này có tên là Kiệu.



Không ai biết cứ liệu trên có đúng hay không, dù người ta có quyền hồ nghi nhưng sẽ là “khủng hoảng” khó tưởng tượng nếu ăn tết ở Sài Gòn mà lại không dưa món, củ kiệu tôm khô.


Trần Tiến Dũng


Phượng Các
#197 Posted : Wednesday, October 5, 2011 11:52:43 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,686
Points: 19,998
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
Đêm Nhớ Về Sài Gòn - Nhạc Trầm Tử Thiêng, ca sĩ Don Hồ

http://www.phoquang.org/...usic&op=playsong&id=423
Phượng Các
#198 Posted : Sunday, May 6, 2012 5:49:11 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,686
Points: 19,998
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
Con đường mang tên Saigon

Sunday, 06 May 2012 11:56

Guelph là 1 thành phố nhỏ, nhưng nằm gần vài trường đại học rất nổi tiếng của vùng Ontario và Canada. Đa số các sinh viên đều biết tiếng những trường đại học này, nhất là trường University of Waterloo là trường đại học kỹ thuật đứng hạng 4 trên thế giới, sau MIT của Mỹ.



Guelph, Ontario: Một thành phố nhỏ ở tỉnh Ontario đã có một con đường, được đặt tên là đường Saigon theo như những tin tức vừa phổ biến.

Ông Trần Ngọc Dõng, một trong số những người Việt đã ký tên vào thỉnh nguyện thư xin tòa thị chính thành phố Guelph đặt tên cho một con đường là Saigon đã cho biết như sau:

Guelph là một thành phố có chừng trên một trăm ngàn dân với khoảng 2,500 người Việt, nằm cách thành phố Toronto khoảng 70 cây số, trên xa lộ 401 về hướng biên giới Hoa Kỳ. Ông Dõng và khoảng 450 người Việt khác đã ký vào thỉnh nguyện thư xin đặt tên đường Saigon từ năm 2003. Bản thỉnh nguyện đã được sự ủng hộ của bà Liz Sandals dân biểu tỉnh Ontario và ông Dave Birtwistle, nghị viên thành phố.

Tên đường Saigon đã được chính quyền thị chính cũng như công ty xây cất trong vùng chấp thuận vào tháng ba năm 2006. Nhưng tình hình kinh tế suy thoái của những năm 2007-2009 đã khiến việc xây cất khu nhà mới trong vùng bị trì hoãn mãi cho đến đầu năm 2012 mới hoàn tất. Khu nhà mới có một con đường có tên đường Saigon đã là một giấc mơ thành sự thật của nhiều người tỵ nạn sống trong thành phố này..

Thành phố Saigon đã bị cộng sản đổi tên, nhưng ở xứ Canada tự do dân chủ, chúng ta vẫn có đường Saigon.

Calitoday
Vũ Thị Thiên Thư
#199 Posted : Monday, May 7, 2012 12:11:50 AM(UTC)
Vũ Thị Thiên Thư

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 5,033
Points: 2,430
Woman
Location: Thung Lũng Lá Rơi

Thanks: 231 times
Was thanked: 87 time(s) in 84 post(s)

heart

RoseRoseRose
Tonka
#200 Posted : Tuesday, May 8, 2012 9:37:14 AM(UTC)
Tonka

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,649
Points: 1,542

Thanks: 95 times
Was thanked: 204 time(s) in 192 post(s)
Chỗ này có gần nơi Bình Nguyen ở hay không? Bình đã đi tới chưa?
Không biết Saigon có nghĩa gì không nhỉ?
Users browsing this topic
Guest (2)
12 Pages«<89101112>
Forum Jump  
You cannot post new topics in this forum.
You cannot reply to topics in this forum.
You cannot delete your posts in this forum.
You cannot edit your posts in this forum.
You cannot create polls in this forum.
You cannot vote in polls in this forum.