Welcome Guest! To enable all features please Login or Register.

Notification

Icon
Error

5 Pages«<2345>
Nguyễn Ngọc Tư
Binh Nguyen
#61 Posted : Wednesday, May 10, 2006 9:56:24 AM(UTC)
Binh Nguyen

Rank: Advanced Member

Groups: Registered, Editors
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 4,945
Points: 1,581
Location: Đông Bắc Gia Trang

Thanks: 1 times
Was thanked: 36 time(s) in 35 post(s)
Tôi nghĩ gì về Cánh Đồng Bất Tận

Tôi quen với Nguyễn Ngọc Tư vì cái tên của mình. Quen đây không phải là quen biết, nói chuyện, mà quen vì tên tuổi, qua văn chương, mà tôi tìm đọc Cánh Đồng Bất Tận. Nói ngắn gọn là tôi chỉ quen Nguyễn Ngọc Tư qua Cánh đồng bất tận.

Số là thế này, tôi nói về cái tên của mình trên một diễn đàn, Bình Nguyên là một cánh đồng bằng, tôi mơ ước đời mình phẳng lặng như một cánh đồng bằng, với một cuộc sống bình thường của một người bình thường, phẳng lặng như một cánh đồng bằng, không chìm nổi, sóng gió, lên thác, xuống ghềnh. Thế rồi tôi làm thơ, hình như tôi cũng đã đăng nhiều thơ lắm, và có một thi sĩ khác tò mò làm quen với tôi. Thi sĩ đó trẻ hơn tôi, cô ta nói về thơ tôi như thế này: "Em nghĩ thơ của chị không phẳng lặng như một cánh đồng bằng, mà đầy sóng gió, giống như Cánh Đồng Bất Tận của Nguyễn Ngọc Tư. Chị đã đọc Cánh Đồng Bất Tận chưa? Đọc xong chỉ thấy toàn là sóng gió."

Tôi cám ơn thi sĩ trẻ đó, và hứa sẽ kiếm đọc Cánh Đồng Bất Tận nếu có dịp. Cái may lại đến với tôi, chỉ chừng tuần sau, tự nhiên tờ báo địa phương tôi ở lại đăng truyện ngắn đó lên. Tờ báo đăng thành nhiều kỳ, tôi cắt ra để dành đọc lại (chuyện này tôi chưa làm với truyện nào bao giờ). Tôi thích câu truyện đó, ở chỗ, văn chương bình dị, nhưng vững vàng, táo bạo, ý tưởng mới lạ, không cọp dê, bắt chước, và thật, rất thật.

Được có mấy người nhìn những sự việc như vậy mà viết thành truyện? Những việc đó là những việc có thật, có thể xảy ra, không viễn vông, tưởng tượng. Nếu viết một truyện cho là có tác dụng giáo dục tốt, thì câu chuyện thường là những câu chuyện nhàm chán. Tôi không thích những câu chuyện như: "Buổi sáng thức dậy, đánh răng rửa mặt, xong đi làm, chiều về nấu cơm, ăn cơm xong, đi ngủ". Viết những chuyện bình thường như vậy, viết làm gì cho tốn giấy? Nguyễn Ngọc Tư còn rất trẻ mà đã có văn phong vững chãi như vậy, lẽ ra mọi người phải trân trọng mới phải.

Thiệt cái ông nào tát vô mặt con gái khi cô ta bảo cô ta đọc C Đ B T, tôi thấy bực mình hết sức. Nếu tôi là NNT tôi cũng sẽ có cảm giác như là ai tát vào mặt mình. Chính vì những tư tưởng hủ lậu như vậy nên văn chương Việt Nam còn nhiều tác phẩm đọc lên cứ y như ăn cơm nếp nát, chán thiệt chán. Tôi nhớ một lần lúc tôi còn nhỏ lắm, tôi đọc Nửa Chừng Xuân của Khái Hưng trong Tự Lực Văn Đoàn, quý vị có tưởng tượng được chị tôi nói gì với tôi không? "Trời ơi, mày dám đọc tiểu thuyết, tao mách bố! " Cứ làm như là tôi làm cái gì ghê gớm lắm, và vì thế tôi phải đọc lén. Nghĩ lại mà tôi còn thấy chị tôi thật thiển cận, trách gì tôi chẳng dám viết gì cả. Chứ nếu mà tôi được khuyến khích đàng hoàng, không chừng đã cho ra đời những tác phẩm bất hủ, chị tôi đã vô tình làm mai một một "tài năng trẻ" thời ấy.

Trở lại với Cánh Đồng Bất Tận, tôi chỉ muốn nói một câu kết luận như vầy: Chế độ Cộng Sản là chế độ độc tài, văn chương chỉ có một chiều, những tài năng ở trong chế độ đó chỉ có mỗi ngày mỗi mai một, văn chương Việt Nam không thể nào phát triển nổi ở trong chế độ ấy.

Bình Nguyên.
Tháng 5, 2006.
Song Anh
#62 Posted : Wednesday, May 10, 2006 3:58:58 PM(UTC)
Song Anh

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 1,004
Points: 18

quote:
Gởi bởi Binh Nguyen

Tôi nghĩ gì về Cánh Đồng Bất Tận

Thi sĩ đó trẻ hơn tôi, cô ta nói về thơ tôi như thế này: "Em nghĩ thơ của chị không phẳng lặng như một cánh đồng bằng, mà đầy sóng gió, giống như Cánh Đồng Bất Tận của Nguyễn Ngọc Tư. Chị đã đọc Cánh Đồng Bất Tận chưa? Đọc xong chỉ thấy toàn là sóng gió."

Tôi nhớ một lần lúc tôi còn nhỏ lắm, tôi đọc Nửa Chừng Xuân của Khái Hưng trong Tự Lực Văn Đoàn, quý vị có tưởng tượng được chị tôi nói gì với tôi không? "Trời ơi, mày dám đọc tiểu thuyết, tao mách bố! " Cứ làm như là tôi làm cái gì ghê gớm lắm, và vì thế tôi phải đọc lén. Nghĩ lại mà tôi còn thấy chị tôi thật thiển cận, trách gì tôi chẳng dám viết gì cả. Chứ nếu mà tôi được khuyến khích đàng hoàng, không chừng đã cho ra đời những tác phẩm bất hủ, chị tôi đã vô tình làm mai một một "tài năng trẻ" thời ấy.

Bình Nguyên.
Tháng 5, 2006.



Vẫn chưa có muộn mà cô bạn...cứ tìm một đề tài nào đó mình tâm đắc nhất...rồi cho nó thành hình ra đời đi...S.A ủng hộ B.N hết mình...Blush
S.A cũng đang tính dịch truyện của N.N.Tư ( có giấy phép của tác giả đàng hoàng à nha Blush) cho người nước ngoài hiểu thêm về một khía cạnh khác của ngôn ngữ văn hóa nước mình...mà văn của N.N.Tư...thật nhiều từ...đọc theo tiếng mình thì dể thương thấm thía...mà dịch ra tiếng nước người sao mà nó chẳng dể thương chút nào...mà lại trơ trơ...S.A muốn làm sao chuyển tải cái cảm xúc của mình...qua bạn đọc nước ngoài...mà còn đang tháo mồ hôi hột đây...

Như trong truyện " Con sáo sang sông....có anh chàng hát cải lương mùi đến rụng rúng luôn...( ý nói muốn rụng cuống rốn đó B.N)...dịch ra thì được...mà nó mất đi cái hay của ngôn ngữ miệt vườn...cho nên có nhiều chuyện...thấy dể...mà không dể chút nào...Big Smile
beerchug


Phượng Các
#63 Posted : Friday, May 12, 2006 3:14:49 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
quote:
Gởi bởi Song Anh
S.A cũng đang tính dịch truyện của N.N.Tư ( có giấy phép của tác giả đàng hoàng à nha Blush)
Approvebeerchug
Văn của NNT mà dịch được là hay lắm đó nghe SA. Rose
Xuân Yên
#64 Posted : Tuesday, August 8, 2006 10:16:32 PM(UTC)
Xuân Yên

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 88
Points: 0



Cánh Đồng Bất Tận Nguyễn Ngọc Tư

Phần 1



Con kinh nhỏ nằm vắt qua một cánh đồng rộng. Và khi chúng tôi quyết định dừng lại, mùa hạn hung hãn dường như cũng gom hết nắng đổ xuống nơi này. Những cây lúa chết non trên đồng, thân đã khô cong như tàn nhang chưa rụng, nắm vào bàn tay là nát vụn. Cha tôi tháo cái khung tre chắn dưới sàn ghe, bầy vịt lúc nhúc chen ra, cuống quýt, nháo nhào quẫy ngụp xuống mặt nước váng phèn. Một lớp phèn mới, vàng sẫm quánh lại trên bộ lông của những con vịt đói, nhớp nháp bám trên vai Điền khi nó trầm mình bơi đi cặm cọc, giăng lưới rào bầy vịt lại. Tôi bưng cái cà ràng lên bờ, nhóm củi.

Rồi ngọn lửa hoi hót thở dưới nồi cơm đã lên tim, người đàn bà vẫn còn nằm trên ghe. Ngay cả ý định ngồi dậy cũng xao xác tan mau dưới những tiếng rên dài. Môi chị sưng vểu ra, xanh dờn. Và tay, và chân, và dưới cái áo mà tôi đã đắp cho là một cái áo khác đã bị xé tả tơi phơi những mảng thịt người ta cấu nhéo tím ngắt.

Và những chân tóc trên đầu chị cũng đang tụ máu. Người ta đã lòn tay, ngoay chúng để kéo chị lê lết hết một quãng đường xóm, trước khi dừng chân một chút ở nhà máy chà gạo. Họ giằng ném, họ quăng quật chị trên cái nền vương vãi trấu. Vai nữ chính, một người đàn bà xốc xếch đã lạc giọng, đôi lúc lả đi vì ghen tuông và kiệt sức. Nhưng đám đông rạo rực chung quanh đã vực tinh thần chị ta dậy, họ dùng chân đá vói vào cái thân xác tả tơi kia bằng vẻ hằn học, hả hê, quên phứt vụ lúa thất bát cháy khô trên đồng, quên nỗi lo đói no giữa mùa giáp hạt. Cuộc vui hẳn sẽ dài, nếu như không có một ý tưởng mới nảy ra trong cơn phấn khích. Họ dùng dao phay chạt mái tóc dày kia, dục dặc, hì hục như phạt một nắm cỏ cứng và khô. Khi đuôi tóc dứt lìa, được tự do, chị vùng dậy, lao nhanh xuống ghe chúng tôi như một tiếng thét, lăn qua chân tôi, đến chỗ cha, làm đổ những bao trấu cha vừa mới xếp.

Đám người ngơ ngác mấy giây để chấp nhận việc con mồi bỏ chạy. Tôi mất mấy giây để háo hức thấy mình nghĩa hiệp như Lục Vân Tiên, tôi lồm cồm xô ghe dạt khỏi bờ, sợ hãi và sung sướng, tôi cầm sào chống thục mạng ra giữa sông, mắt không rời đám người đang tràn ra mé bờ chực lao xuống, nhảy nhót điên cuồng. Rồi tiếng chửi rủa chói lói chìm đi, tiếng bầy vịt tao tác kêu dưới sạp chìm đi, trong tôi chỉ có âm thanh của chiếc máy Koler4 nổ khan, rung bần bật dưới tay Điền, khạc ra những đám khói khét lẹt, đen ngòm. Khói trôi về phía sau chúng tôi, mờ nhoè những bóng người đang tuyệt vọng ngó theo, bàn tay nào đó cầm nắm tóc của chị vẫy lên phơ phất phơ phất.

Cha tôi không đóng vai trò gì trong cuộc tháo chạy ấy, ông im lặng, khi đã đi khá xa, cha ra đằng mũi cầm sào. Tôi bò vào trong ghe, lấy áo đắp lên người chị, sao cho che được đôi vú rách bươm và khoảng đùi rướm máu. Chị cười mếu máo, nói cảm ơn bằng mắt và thiếp đi.

Suốt một quãng đường, chị không hề thay đổi thế nằm, im lìm, lạnh ngắt như người chết. Trong ghe chỉ trôi mênh mang những tiếng rên khi dài, khi ngắn, khi thiu thỉu buồn xo, lúc nghe như tiếng nấc nghẹn ngào?

Nhờ vậy mà chúng tôi biết chị còn sống, để đi với chúng tôi gần hết con sông Bìm Bịp, đến cánh đồng hoang vắng này. Điền hơi lo lắng khi nghe chị vẫn còn rên rỉ, nghĩ là chị đã đói, nó hối tôi nấu cơm mau. Nó thấy tiếc vì trên ghe chỉ còn mấy con khô sặt mặn chát, "tui nuốt còn không vô, nói chi?"

Nhưng chiều hôm đó và cả ngày sau, chị không ăn. Chị từ chối cả uống nước, đợi đôi môi khô đã bắt đầu nứt ra, chị mới chịu hớp một vài ngụm ít ỏi, dường như chỉ đủ ướt môi. Đói và khát, nhưng chị còn sợ đau hơn. Người ta đã đổ keo dán sắt vào cửa mình của chị?

Tôi nói lại với cha và Điền trong bữa cơm. Tôi nghe hai người lặng đi, tiếng đũa tre khua vào miệng chén ngưng bặt. Điền ngó tôi và tôi thì đọc được sự ghê sợ, kinh tởm cồn lên trong mắt cha. Điền chan nước vào chén, lua vội vàng rồi men theo con đường đất dọc mé kinh, nó đi vào trong xóm. Tôi dặn vói theo, ghé tiệm mua giùm ngàn rưỡi đường cát.

Chắc gió đã bạt mất lời tôi, khi quay về, Điền không mang theo gì, nó lẳng lặng xòe tay trước mặt tôi, tay nó dính một lớp gì đó, bóng mượt, trong suốt, và đang khô quánh lại, khiến những ngón tay đơ ra như đá. Điền bảo, "Keo dán sắt?". Dường như những người sản xuất ra loại keo này cũng không ngờ nó nhiều công dụng đến thế. Hai chị em tôi tỉ mẩn lột lớp keo ra, mảng da non trên bàn tay nó bỏng đỏ nhừ, tươm máu. Chúng tôi cùng ngó về chỗ khoang ghe, nghe tiếng thở thênh thang cùng gió?
II


Cánh đồng không có tên. Nhưng với tôi và Điền, chẳng có nơi nào là vô danh, chúng tôi nhắc, chúng tôi gọi tên bằng những kỷ niệm mà chúng tôi có trên mỗi cánh đồng. Chỗ chị em tôi trồng cây, chỗ Điền bị rắn cắn, chỗ tôi có kỳ kinh nguyệt đầu tiên? Và mai này khi trôi dạt đến một nơi nào khác, nhắc đến cánh đồng này với cái tên của chị, chắc chúng tôi sẽ xốn xang.

Sáng sớm ngày thứ ba, chị ngồi dậy được, ngó quanh, chị hỏi, "Trời đất ơi, chỗ nào mà vắng tanh vậy nè". Làng xóm xa xa đằng phía những rặng dừa xanh thẩm. Đồng đất trống trơn, trên đôi bờ kinh chơ vơ những cây gòn. Hai đứa nhỏ đầu mướt sương đang hí húi trộn thức ăn cho vịt, nhìn chị ngạc nhiên đến ngây ngất. Giọng nói chị không bị thương tích gì hết, trong vắt và ngọt ngào.

Chị hỏi "Tắm ở đâu, mấy cưng?". Tôi chỉ xuống kinh. Chị ngó những váng phèn, ngao ngán. Điền nói, đằng kia có một cái ao.

Đó là một hố bom cũ, bình bát mọc quanh, rau muống chằng chịt phủ kín mặt nước, cọng rau ốm nhằng, đỏ au. Chỗ này, hôm qua, Điền đã câu được những con cá thát lát ú mềm. Chị trầm mình dưới đó rất lâu, chẳng kỳ cọ gì, chỉ để nước lạnh chườm dịu lại những chỗ đau. Lúc chị lên bờ, tôi thấy máu lợn cợn theo những giọt nước nhỏ xuống giữa hai đùi, chắc chị đã làm gì với chỗ keo dán ác nghiệt ấy. Rồi cũng lâu lắc, cũng cà nhắc từng bước ngắn như lúc đi, chị với tôi quay lại bờ kinh. Điền hí hửng khi thấy chị chịu mặc chiếc áo sơ-mi thẫm phèn và cái quần cụt quăn queo của nó.

Chỉ có cha lầm lì dọn cỏ quanh chòi. Chỉ có cha là hờ hững với thành quả của hai chị em tôi. Không chấp thái độ lạt lẽo của cha, chị ngó về phía người đàn ông đang vồng lưng trong nắng sớm, chếnh choáng: "Ba mấy cưng đẹp trai dễ sợ?".

Vì lẽ đó? Có phải vì cha mà chị ở lại với chúng tôi, trên một cánh đồng vắng ngắt. Những vết thương đã lành rất mau. Chị cười, bị đánh hoài riết cũng quen. Tôi hỏi chị làm gì để bị đánh. Chị cười, "Làm đĩ". Rồi có lẽ chị áy náy vì quá sỗ sàng với chúng tôi, chị vò đầu Điền "chắc mấy cưng không biết đâu?".

Điền nhìn tôi cười. Chúng tôi đã gặp nhiều, rất nhiều người phụ nữ giống chị. Cứ mỗi mùa gặt, họ lại dập dìu trên đê, lượn lờ quanh lều của những thợ gặt, những người đàn ông giữ lúa và bọn nuôi vịt chạy đồng. Họ cố làm ra vẻ trẻ trung, tươi tắn nhưng mặt và cổ đã nhão, nhìn kỹ phát ứa nước mắt. Đêm đến, sau các đụn lúa, họ thả tiếng cười chút chít, tiếng thở mơn man lên trời, làm nhiều người đàn bà đang cắm cúi nấu cơm, cho con bú trong lều thắt lòng lại. Tối nào mua rượu cho cha, chúng tôi cũng đi ngang qua những đôi người. Chúng tôi nhận ra họ ngay, khi không còn mảnh vải nào trên người họ vẫn điềm nhiên cười khúc khích và uốn éo thân mình chứ không trơ ra ngượng ngịu, cam chịu như những người phụ nữ quê. Sáng sau, họ xiêu xiêu biến mất, đem theo mớ tiền công ít ỏi suốt một ngày làm việc quần quật của đám đàn ông.


Xuân Yên
#65 Posted : Saturday, August 12, 2006 3:53:23 AM(UTC)
Xuân Yên

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 88
Points: 0

Tiếp theo hết chương 1

Chị, cũng giống như họ, chớm tàn tạ, đói rã ruột ở thị thành mới chạy xuống quê, cất cái quán nhỏ, giả đò buôn bán bánh kẹo lặt vặt, thực chất là làm nghề. Ở đó đàn ông dễ tính và thiệt thà. Chị sống nhờ những món tiền họ cắm câu đêm đêm, bằng tiền bán lúa, dừa khô hay những buồng chuối chín. Cũng có lúc thu hoạch bất ngờ, khi chị mồi chài một người đàn ông vào trò chơi giường chiếu, suốt hai ngày đêm, và chị được một triệu hai. Đó là vốn vay xoá đói giảm nghèo, khi về tới nhà, với tám trăm ngàn còn lại trong túi, hẳn người đàn ông ấy não nề biết bao nhiêu, oán chị biết bao nhiêu khi thấy vợ con nheo nhóc bu quanh nồi khoai luộc trong nhập nhoạng nắng chiều.

- Ăn trên mồ hôi nước mắt của người ta nên lâu lâu bị đánh cũng đáng đời, hen mấy cưng?

Chị nói, và ngã nghiêng cười, dường như chị thấy mình trả giá vậy cũng vừa. "Mà hên nghen, nhờ vậy mà gặp được mấy cưng, được ở chung vầy, vui thiệt vui...".

Cha không vui, vì có thêm một miệng ăn. Bầy vịt cũng không vui, chúng mổ vào chân chị mỗi khi chị bước qua rào, "bà ở đây làm chi để phần ăn của tụi tui bị xén bớt, trong máng độn toàn là trấu ngán thấy ông thấy cha, đã vậy còn bắt tụi tui đẻ trứng để nuôi bà". Chị nhảy xổm ra, la oai oái, sau lại cười (mà con mắt đung đưa phía cha) "mai mốt mấy con vịt quỷ này sẽ khoái chị, mấy hồi…".

Nhưng tôi và Điền biết thể nào chị cũng ra đi, trong mỏi mòn. Quãng thời gian chị bên chúng tôi, vì thế cũng mong manh. Nhiều khi lùa vịt ăn mót một đỗi đồng, nghĩ chị bỏ đi, Điền thảng thốt chạy về.

- Mấy cưng thương chị thiệt hả? Tội chưa…!?? ".

Chị ngạc nhiên, thấy nước mắt ràn rụa trên má thằng Điền (mà chị không biết là nó bị bệnh chảy nước mắt sống từ hồi chín tuổi). Thật cảm động khi đời đánh ta tả tơi bầm dập, vậy mà hai đứa nhỏ này lại trìu mến, quyến luyến lạ lùng. Thêm một lý do nữa để chị ở lại với chúng tôi, trong một mùa hạn nóng bỏng, bất thường.

Mùa đến sớm. Vì vậy mà nắng rất dài. Mới rồi, chúng tôi dừng chân ở một xóm nhỏ bên bờ sông lớn mênh mang. Mỉa mai, người ở đây lại không có nước để dùng (như chúng tôi đi trên đất dằng dặc mà không có cục đất chọi chim). Người họ đầy ghẻ chóc, những đứa trẻ gãi đến bật máu. Họ đi mua nước ngọt bằng xuồng chèo, nín thở để nước khỏi sánh ra ngoài vì đường xa, nước mắc. Buổi chiều đi làm mướn về, họ tụt xuống ao tắm táp thứ nước chua lét vì phèn, rồi xối lại đúng hai gàu. Nước vo cơm dùng để rửa rau, rửa rau xong dành rửa cá. Con nít ba tuổi đã biết quý nước, mắc lắm cũng ráng chạy ra vườn đái vô chậu ớt, chậu hành (báo hại cây rụi lá). Ở đó, có người con trai bảo, "ước làm sao trước lúc má tui chết, bà được tắm một bữa đã đời". Câu nói này làm tôi thương anh ta quá chừng. Hôm tôi đi, anh tần ngần đứng bên hè, hỏi nhỏ "Không biết em có muốn ở lại với… má tui?!". Tôi lắc đầu, hai gàu nước ít ỏi của má anh, tôi nỡ nào sẻ nửa?

Tôi giục cha rời khỏi cái xóm tàn tạ đó. Những cánh đồng chúng tôi qua, lúa chết khô khi mới trổ bông. Người ta không thể trồng đậu, trồng dưa vì thiếu nước. Bầy con nít giỡn nhoi trên những con kinh khô trơ lòng.

Chỗ chúng tôi cắm lều cầm vịt, nước đã sắc lại thẫm một màu vàng u ám. Nhưng chúng tôi chẳng có chỗ nào để đi nữa, từ bờ bên kia của sông Bìm Bịp là vùng đệm cho những cánh rừng tràm lớn. Mùa này, người ta lấy nước từ tất cả các dòng sông nhỏ, các con kinh để bơm vào rừng, chống cháy. Chúng tôi cũng không thể ngược sông Bìm Bịp băng qua vùng Kiên Hà, ở đó họ kiểm dịch thú y rất gắt gao. Và dịch cúm gia cầm nghe đâu vẫn còn bùng phát khắp đồng bằng.

Để bầy vịt khỏi bị chôn sống (điều đó đồng nghĩa với việc đứt vốn cho mùa sau), bọn tôi quyết định vẫn cầm chúng ở đây. Chúng được nuôi trong sự mỏi mòn. Ngày ngày, tôi lùa vịt đi ăn mót những bông lúa khô quắt queo trên đồng, không có nước chúng bì bạch, chậm rì và chẳng thể đi xa. Trứng thưa thớt, những quả trứng chúng đẻ ra cũng chai ngắt, dài nhằng, nhẹ tênh, vỏ dày sần sượng. Đòi hỏi gì nữa ở những con vịt đã già, đã đẻ quần quật suốt ba mùa trước, đã vô vọng vì ngày càng khó tìm lúa và cám trong máng thức ăn. Ngay cả nước để chúng tắm táp cũng chua lét vì phèn.

Mà, mùa mưa vẫn còn xa lắm.

Ngày ngày, Điền rủ chị đi giăng lưới, nhắp cá và tát những cái mương cạn. Cá ăn không hết, chị đem vô xóm bán và hãnh diện đưa cho cha vài mươi ngàn thừa sau khi đã sắm ít quần áo. Mắt chị nhìn cha đầy khiêu khích, "Cuộc đeo đuổi vẫn còn dài, cưng à…".

Chị đổ lì. Chị tìm mọi cách để sà vào cha. Một bữa chị bảo Điền xuống ghe ngủ với tôi, còn chị sẽ lên chòi. Đó là một đêm tối nhờ nhờ, trôi trên trời một mảnh trăng mỏng leo lét. Điền ngọ nguậy, xoay trở liên tục, nó kêu khó ngủ, đòi nghe tôi hát, bài gì cũng được. Nhưng Điền vẫn thao thức, dường như giọng hát tôi không át được tiếng sột soạt rạo rực trong cái chòi nhỏ trên bờ. Điền chê ngủ ghe chòng chành quá chừng. Tôi biết lòng nó đang chao.

Điền có những ngày bối rối. Nó hay hỏi tôi, "người ta thương mẹ ra làm sao?". Mặt nó dãn ra, khi biết cây kẹp tóc, trái dừa tươi hay con cá thác lác… mà nó dành cho chị cũng giống hệt như người ta vẫn thường cho mẹ. Và niềm nhớ lúc đi xa, nỗi khao khát được nằm gần, được dụi mũi mình vào da thịt người đó… cũng tự nhiên như ý nghĩ bình thường nhất của những đứa con. Nhưng những nghi hoặc vẫn loay hoay trong mắt Điền, và nó quyết định chịu đựng một mình, khám phá một mình. Thí dụ như đêm nay, cái gì khiến tim ta đau nhói, cái gì làm cho ta cảm thấy giận dữ, nặng nề?

Khi tôi thức dậy, Điền đã mệt mỏi thiếp đi, nó nằm co quắp, hai tay kẹp giữa đùi, mặt buồn như phủ một lớp sương giá. Chị bước ra khỏi chòi, khoan khoái vươn vai. Sự ưng ý, mãn nguyện lấp lánh trên khoé mắt. Khuôn mặt chị tràn ngập ánh sánh, như chị vừa mở ra một cánh cửa mặt trời. Có một con đường nào đó trãi dài trước chị. Chị cười, bảo:

- Hồi hôm sương nhiều ghê, nó nhiểu lên mặt chị hoài, nhột gần chết.

Rồi chị giành nấu cơm. Chị xoắn tay áo lên hì hụi thổi lửa, đầu tóc xấp xãi dính đầy vảy cá. Trông chị như bà vợ tảo tần. Hình ảnh ấy làm tôi ứa nước mắt, nhưng cha tôi chỉ lạt lẽo nhếch cười. Vì cái cười đó mà tôi ứa nước mắt thêm lần nữa.


1 2 3 4
Cánh Đồng Bất Tận Nguyên Tác: Nguyễn Ngọc Tư


Cha đưa chị một ít tiền ngay trong bữa cơm, khi nhà đủ mặt, "Tôi trả cho hồi hôm…". Rồi cha điềm nhiên phủi đít đủng đỉnh đứng lên, sự khinh miệt và đắc thắng no nê trong mắt. Chị nhét tiền vào trong áo ngực, cười, "Trời ơi, ba mấy cưng sộp quá chừng".

Điền và tôi rủ chị đi câu (Chúng tôi cho là chị buồn, dù chuyện đó khá tức cười, làm điếm được trả tiền mà buồn nỗi gì). Suốt buổi, không dính con cá nào, chị nói, "Mắc cười quá, tới mấy con cá quỷ này còn chê chị". Câu nói nghe tỉnh bơ, bâng quơ mà tủi vô phương. Điền lặng bắt con cá rô lội xuống mương, lặn sâu, móc cá vô lưỡi câu của chị. Lúc nó trồi đầu lên thì đã thấy chị cười.

Trưa ấy chúng tôi trầm nghịch dưới nước rất lâu. Chị cười nôn khi thấy bùn bám dưới mũi tôi xám xanh như bộ râu củ ấu. Tự dưng nét mặt chị bỗng âu yếm lạ, như đang nựng nịu một đứa bé con và thằng em trai mười bảy tuổi của tôi đứng đực ra, chết lặng trong nỗi ngượng ngùng. Nước cồn cào chỗ bụng nó, tôi biết chị đang táo tợn làm gì đó phía dưới. Rồi phát hiện ra một mất mát lớn lao, chị thảng thốt kêu lên:

- Trời đất ơi, sao vầy nè, cưng?

Chị toàn hỏi những câu hỏi khó. Chỉ nghe thôi đã đau, nói chi trả lời. Thí dụ như có lần chị hỏi "Má mấy cưng đâu?", "Nhà mấy cưng ở chỗ nào?", thằng Điền đổ quạu:

- Biết chết liền!
III


Những chiều ghe chúng tôi đi ngang qua những người đàn bà ngồi giặt giũ dưới bến sông, tôi hay hỏi lòng, có phải tôi vừa ngang qua má đó không. Tôi cố giữ trong lòng hình ảnh má nhưng rồi ngày càng tuyệt vọng khi thấy nó nhạt nhòa dần, cứ nghĩ mai này gặp lại mà không nhận ra nhau, lòng nghe buồn thiệt buồn.

Má tôi hay mang xoong chảo ra bực sông chùi lọ nghẹ, sẵn đón ghe hàna(bông mua ít rau cải tươi và bán lại những quày chuối chín bói trong vườn. Dần dần, buổi chiều, đám thương hồ hay lại neo ghe chỗ mấy cây mấm trước nhà. Một người bảo không sao xa được người đàn bà có cái cười làm lấp lánh cả khúc sông. Má tôi nguýt dài:

- Dóc…

Người đàn ông cười hề hề, thề " Tôi nói láo cô Hai cho xe đụng chết ngắc" (Ngay lập tức, Điền thì thầm, "thằng chả ở dưới ghe kiếm đâu ra chiếc xe, nói dóc…", và bằng cái vẻ ác cảm lạ lùng, thằng Điền biểu tôi nhìn khuôn mặt và tấm lưng trần chi chít những nốt ruồi của ông ta, bảo "Tại hồi đó má ổng mới sanh ổng ra quên lấy lồng bàn đậy, nên ruồi bu tùm lum").

Cho dù người đàn ông ấy có quá nhiều nốt ruồi, cho dù chẳng cao ráo, đầu ít tóc… nhưng với chiếc ghe chở đầy vải vóc, những người đàn bà lam lũ quê tôi vẫn thường trông ngóng ông ta. Tất cả họ đều trở thành trẻ thơ khi bước chân lên ghe, họ tíu tít, háo hức, họ thèm muốn đến bồn chồn rồi dùng dằng trở lên bờ với tâm trạng tiếc nuối, ngậm ngùi, thấy mình già khi ngang qua bồ lúa vừa hót bớt một lỏm, thằng cha bán vải lấy mấy giạ mà như khứa một ít tuổi xuân đi. Cả đời, cái bồ lúa luôn làm lòng họ đau đáu, khi nghĩ tới bệnh tật, chuyện cất lại cái nhà, hay dựng vợ gã chồng cho con cái.

Bồ lúa nhà tôi đã cạn từ sau Tết. Điều đó làm má tôi hơi buồn, nhưng người bán vải xăng xái bảo, "Cô Hai cứ coi đi, không mua cũng được – rồi ông ta sửng sốt khi thấy má rạo rực khi ướm thử những khúc vải rực rỡ lên người – Chèn ơi, coi nó bình thường vậy mà khoác lên mình cô Hai lại thấy sang quá trời". Má bỗng nhiên thắc thỏm:

- Dóc…

Tôi chưa bao giờ thấy cái màu đỏ lạ lùng ấy. Đỏ hơn bông bụp ngoài sân, đỏ hơn máu. Má ngó chúng tôi, hỏi: "Gì mà nhìn trân trân vậy hai đứa?". Tôi nói, "Má lạ quá hà, nhìn không ra". Má mừng quýnh, "Thiệt hả?". Tôi muốn khóc quá chừng, má con xa lạ với nhau mà sao lại mừng?

Một bữa tôi chiêm bao, chẳng đầu chẳng cuối gì, chỉ thấy vía má giãy dụa trong tấm vải đỏ lạ lùng kia nhưng nó thít chặt, riết lấy, siết dần cho tới khi má thành một con bướm nhỏ, chấp chới bay về phía mặt trời. Giật mình thức dậy mới hay mình ngủ quên trong kẹt bồ lúa, con chó Phèn ngoài hè nôn nóng cào đất rột rẹt chỗ cái lổ chui (Chắc má tưởng hai chị em tôi đi chơi nên chốt cửa trước cửa sau mất rồi). Mà Điền ngồi ém ngay đó, lì ra, không cục cựa, mình nó mướt mồ hôi, không có vẻ gì là nó đang khóc, nhưng nước mắt chảy ròng ròng. Tôi ôm đầu nó, giấu ánh nhìn của nó vào ngực mình.

Đứa mười tuổi quay lưng lại, đứa chín tuổi úp mặt vô áo chị nó, nhưng cả hai vẫn như thấy rõ ràng, trên chiếc giường tre quen thuộc, má oằn uốn người dưới tấm lưng chơm chởm những nốt ruồi. Họ cấu víu. Vật vã. Rên xiết.

Đó là hình ảnh ấn tượng cuối cùng của má tôi trên nền một cái nhà nhỏ, đằng trước có bộ bàn chữ U, bộ vạc tre, rồi đến một cái bồ lúa nhỏ dựng gần giường ngủ, và gian bếp thấp. Quanh hè, dài theo những lối đi ra vườn, ra bến là những cục đá tảng, những thân dừa chẻ hai, cha tôi đã hì hục lót để suốt một mùa mưa, chân má tôi không bị dính sình bùn.

Suốt nhiều năm sau đó, tôi không dám nhớ má, bởi ngay vừa khi nghĩ đến má, ngay lập tức hình ảnh ấy hiện ra. Theo đó là rực rỡ trên da thịt màu vải má tôi vừa đổi được (không phải bằng tiền, hay lúa). Mà, đáng lẽ phải nhớ tới khúc má nằm võng hát đưa mình ngủ ấy, hay đoạn má ngồi giặt áo bên hè, hay má cúi đầu giữa vầng khói mơ màng, thổi lửa bếp ung…


1 2 3 4
Cánh Đồng Bất Tận Nguyên Tác: Nguyễn Ngọc Tư


Má có rất nhiều hình ảnh đẹp, và cả khuôn mặt lo lắng của má khi chiều ấy vẫn còn đẹp, nhìn thấy nước mắt không ngừng tuôn rơi trên mặt thằng Điền, má thảng thốt hỏi: "Mèn ơi, mắt con sao vậy?. Tôi trả lời, day day chậm rãi, "Chắc tại nó nhìn thấy chuyện bậy đó, má. Trưa nay nó ngủ kẹt bồ lúa". Má chết lặng nhìn tôi, cái nhìn như lịm đi trên khuôn mặt đẹp não nề. Không thể giải thích vì sao tôi lại hể hả. Và tôi luôn nghĩ rằng chính vì câu nói đó mà má tôi ra đi.

Tôi chạy qua nhà hàng xóm, nói với thím Tư rằng má đi mất tiêu rồi. Cả xóm tưng bừng, kẻ mừng vì vợ mình chưa bỏ theo trai, người vui vì con đàn bà đẹp nhất xóm đã đi rồi, khỏi lo ông chồng suốt ngày thòm thèm dòm ngó, cũng có người buồn, ghe vải chắc chẳng quay lại xóm này. Mọi người bàn ra tán vào, xôn xao, bắt tôi nhớ lại coi trước lúc đi má tôi có hành động gì đặc biệt mang tính dự báo không? Chuyện này quan trọng lắm, nó cho người ta tự kiểm tra trình độ trải nghiệm, suy đoán. Thí dụ như nhà nào có người mới mất họ kêu lên, hèn chi đêm trước có nghe chim cú kêu, thê thiết lắm. Thí dụ như nhà nào bị mất trộm, họ bảo nhau, hồi hôm tui nghe tiếng chó sủa thiệt kỳ, là tui nghi rồi… Nhưng chuyện ra đi của má tôi không mấy ly kỳ...

- Hồi chiều má con không nấu cơm…

- Vậy sao?

- Má con nằm trên giường thở dài…

- Vậy hả? Thở ra làm sao?

Tôi hết biết tả. Tiếng thở thườn thượt, nghe buồn mênh mông, chảy từng giọt như nước mắt. Má tôi thở dài khi ghe cha ghé bến vì biết mai mốt cha lại đi. Má tôi thở dài khi tắm, khi nước trôi dài trên làn da trắng như bông bưởi. Lúc ngồi vá những bộ quần áo cũ. Mỗi lần ghe vải ghé trước bến, má cũng thở dài, tay bối rối nắn vào hai túi áo mỏng kẹp lép. Thở dài cả khi thằng Điền bảo cho con xin tiền mua kẹo, má ơi.

Mọi người không thất vọng, họ cho thời gian lùi lại xa xa, thì ra cũng đã có điềm báo trước mối nhân duyên này tan rã, ngay cái bữa đầu tiên, ngay lần gặp đầu tiên. Má tôi ngồi khóc bên bực con sông Dài, cha tôi chèo ghe đi ngang, đã qua khỏi một quãng nhưng vì mủi lòng, cha quay mũi lại. Cha hỏi, cô về đâu tôi cho quá giang. Má tôi ngước lên, mặt ràn rụa nước, "tôi cũng không biết về đâu". Cha tôi chở người con gái tội nghiệp này về nhà, và trong thời gian suy nghĩ tính coi mình đi đâu, má yêu cha mất rồi, sau đấy thì đẻ hai chị em tôi. Rõ ràng, quá rõ ràng, thấy chưa, má tôi chỉ quá giang một khúc đời rồi đi, ai cũng linh tính vậy, chỉ cha tôi là không, nên bây giờ mới khóc hận, cười đau.

Tới đây thì hết chuyện nói, hàng xóm ra về. Giống hệt như vừa tan đêm hát, họ xì xào đi vào trong đêm, tiếng chó sủa rộ lên dài theo những con đường xóm. Tôi và Điền nằm nhìn trân tráo lên nóc mùng, nghe gió hui hút trên những ngọn tre già bên hè. Một hồi, thím Tư qua, thím kêu hai chị em tôi qua nhà thím ngủ.

Sáng sau, thím đi chợ, tới bến tàu, cho hay "Vợ Út Vũ bỏ nhà. Theo trai" Ông chủ chiếc đò chạy tuyến Hưng Khánh nói lại với mấy bà bạn hàng, và chiều lại cha tôi mới nhận được lời nhắn ấy khi đang lên đòn dong cho một ngôi nhà gần chợ Hội. Nghe nói cha tôi còn cười, giọng ra vẻ giận, "Bộ hết chuyện giỡn rồi sao, cha nội?". Có vẻ khó tin, khi một người nghĩ rằng, chỉ cần mình hết lòng yêu thương, gánh hết sự kiếm sống nhọc nhằn thì sẽ được đền đáp xứng đáng. Có vẻ buồn cười… Và cha tuột xuống đất, run rẩy…

Quãng hành trình về nhà có vẻ rất dài và khắc nghiệt, nó vắt kiệt cha tôi. Cha cười cay đắng, khi thấy quần áo má còn treo trong nhà, còn cả cái khăn tắm và đôi dép Lào cũ, như thể má đang chơi bên xóm, chỉ cần thằng Điền kêu má sẽ xấp xãi chạy về, mừng húm hỏi "Đi chuyến này nữa là đủ tiền mua ti vi màu, phải hôn anh?".

Coi kỹ thì má không đem theo gì. Chi tiết đó làm đau lòng người ở lại, nó cho thấy người đi đã chẳng suy nghĩ, đắn đo, đã không một chút trù trừ, chỉ rũ mình cái rột, sạch trơn, vậy thôi.

Cha đem tất cả đồ đạc của má đem đốt. Khói bay mù mịt trong nhà, mùi vải, mùi nhựa cháy khét lẹt, những cái áo hồng áo tím rúm ró lại, chảy thành những giọt tro. Cha nhìn ngọn lửa, mặt đanh lại, rồi mắt bỗng rực lên, ngây ngất vì một ý nghĩ mới lạ.

Chúng tôi dong ghe đi, quặn lòng ngoái lại căn nhà đang quay quắt dãy dụa trong lửa đỏ. Nghe vẳng theo âm thanh lốp bốp rất giòn của những thanh gỗ cháy, và tiếng xóm giềng í ới gọi nhau. Chắc chắn sẽ có người vỗ đùi cái đét, "Hồi hôm qua, ngó cái mặt u ám của Út Vũ, tui nghi thể nào thằng chả cũng đốt nhà. Nghi đâu có đó, thiệt là y như để vậy, các cha".

Kể nhiều chuyện như vậy là để trả lời chị, nhà tôi, má tôi, rốt cuộc đã trở thành tro bụi mất rồi. Nên khi hết mùa lúa chín, những người nuôi vịt chạy đồng khác đã trở về nhà còn chúng tôi lại tiếp tục lang thang.

Đàn vịt đưa chúng tôi đi hết cánh đồng này đến cánh đồng khác. Đôi khi không hẳn vì cuộc sống, chúng là cái cớ để chúng tôi sống đời du mục, tới những chỗ vắng người. Ở đó, ít ai phát hiện ra sự khác thường của gia đình tôi, và ít hỏi cái câu, "Má mấy đứa nhỏ đâu?". Để cha phải buột lòng nói "chết rồi!" và cười lạt khi nghe người nào đó kêu lên: "Mèn ơi, tội hai đứa nhỏ hôn".


hấp nhận việc con mồi bỏ chạy. Tôi mất mấy giây để háo hức thấy mình nghĩa hiệp như Lục Vân Tiên, tôi lồm cồm xô ghe dạt khỏi bờ, sợ hãi và sung sướng, tôi cầm sào chống thục mạng ra giữa sông, mắt không rời đám người đang tràn ra mé bờ chực lao xuống, nhảy nhót điên cuồng. Rồi tiếng chửi rủa chói lói chìm đi, tiếng bầy vịt tao tác kêu dưới sạp chìm đi, trong tôi chỉ có âm thanh của chiếc máy Koler4 nổ khan, rung bần bật dưới tay Điền, khạc ra những đám khói khét lẹt, đen ngòm. Khói trôi về phía sau chúng tôi, mờ nhoè những bóng người đang tuyệt vọng ngó theo, bàn tay nào đó cầm nắm tóc của chị vẫy lên phơ phất phơ phất.

Cha tôi không đóng vai trò gì trong cuộc tháo chạy ấy, ông im lặng, khi đã đi khá xa, cha ra đằng mũi cầm sào. Tôi bò vào trong ghe, lấy áo đắp lên người chị, sao cho che được đôi vú rách bươm và khoảng đùi rướm máu. Chị cười mếu máo, nói cảm ơn bằng mắt và thiếp đi.

Suốt một quãng đường, chị không hề thay đổi thế nằm, im lìm, lạnh ngắt như người chết. Trong ghe chỉ trôi mênh mang những tiếng rên khi dài, khi ngắn, khi thiu thỉu buồn xo, lúc nghe như tiếng nấc nghẹn ngào?

Nhờ vậy mà chúng tôi biết chị còn sống, để đi với chúng tôi gần hết con sông Bìm Bịp, đến cánh đồng hoang vắng này. Điền hơi lo lắng khi nghe chị vẫn còn rên rỉ, nghĩ là chị đã đói, nó hối tôi nấu cơm mau. Nó thấy tiếc vì trên ghe chỉ còn mấy con khô sặt mặn chát, "tui nuốt còn không vô, nói chi?"

Nhưng chiều hôm đó và cả ngày sau, chị không ăn. Chị từ chối cả uống nước, đợi đôi môi khô đã bắt đầu nứt ra, chị mới chịu hớp một vài ngụm ít ỏi, dường như chỉ đủ ướt môi. Đói và khát, nhưng chị còn sợ đau hơn. Người ta đã đổ keo dán sắt vào cửa mình của chị?

Tôi nói lại với cha và Điền trong bữa cơm. Tôi nghe hai người lặng đi, tiếng đũa tre khua vào miệng chén ngưng bặt. Điền ngó tôi và tôi thì đọc được sự ghê sợ, kinh tởm cồn lên trong mắt cha. Điền chan nước vào chén, lua vội vàng rồi men theo con đường đất dọc mé kinh, nó đi vào trong xóm. Tôi dặn vói theo, ghé tiệm mua giùm ngàn rưỡi đường cát.

Chắc gió đã bạt mất lời tôi, khi quay về, Điền không mang theo gì, nó lẳng lặng xòe tay trước mặt tôi, tay nó dính một lớp gì đó, bóng mượt, trong suốt, và đang khô quánh lại, khiến những ngón tay đơ ra như đá. Điền bảo, "Keo dán sắt?". Dường như những người sản xuất ra loại keo này cũng không ngờ nó nhiều công dụng đến thế. Hai chị em tôi tỉ mẩn lột lớp keo ra, mảng da non trên bàn tay nó bỏng đỏ nhừ, tươm máu. Chúng tôi cùng ngó về chỗ khoang ghe, nghe tiếng thở thênh thang cùng gió?
II


Cánh đồng không có tên. Nhưng với tôi và Điền, chẳng có nơi nào là vô danh, chúng tôi nhắc, chúng tôi gọi tên bằng những kỷ niệm mà chúng tôi có trên mỗi cánh đồng. Chỗ chị em tôi trồng cây, chỗ Điền bị rắn cắn, chỗ tôi có kỳ kinh nguyệt đầu tiên? Và mai này khi trôi dạt đến một nơi nào khác, nhắc đến cánh đồng này với cái tên của chị, chắc chúng tôi sẽ xốn xang.

Sáng sớm ngày thứ ba, chị ngồi dậy được, ngó quanh, chị hỏi, "Trời đất ơi, chỗ nào mà vắng tanh vậy nè". Làng xóm xa xa đằng phía những rặng dừa xanh thẩm. Đồng đất trống trơn, trên đôi bờ kinh chơ vơ những cây gòn. Hai đứa nhỏ đầu mướt sương đang hí húi trộn thức ăn cho vịt, nhìn chị ngạc nhiên đến ngây ngất. Giọng nói chị không bị thương tích gì hết, trong vắt và ngọt ngào.

Chị hỏi "Tắm ở đâu, mấy cưng?". Tôi chỉ xuống kinh. Chị ngó những váng phèn, ngao ngán. Điền nói, đằng kia có một cái ao.

Đó là một hố bom cũ, bình bát mọc quanh, rau muống chằng chịt phủ kín mặt nước, cọng rau ốm nhằng, đỏ au. Chỗ này, hôm qua, Điền đã câu được những con cá thát lát ú mềm. Chị trầm mình dưới đó rất lâu, chẳng kỳ cọ gì, chỉ để nước lạnh chườm dịu lại những chỗ đau. Lúc chị lên bờ, tôi thấy máu lợn cợn theo những giọt nước nhỏ xuống giữa hai đùi, chắc chị đã làm gì với chỗ keo dán ác nghiệt ấy. Rồi cũng lâu lắc, cũng cà nhắc từng bước ngắn như lúc đi, chị với tôi quay lại bờ kinh. Điền hí hửng khi thấy chị chịu mặc chiếc áo sơ-mi thẫm phèn và cái quần cụt quăn queo của nó.

Chỉ có cha lầm lì dọn cỏ quanh chòi. Chỉ có cha là hờ hững với thành quả của hai chị em tôi. Không chấp thái độ lạt lẽo của cha, chị ngó về phía người đàn ông đang vồng lưng trong nắng sớm, chếnh choáng: "Ba mấy cưng đẹp trai dễ sợ?".

Vì lẽ đó? Có phải vì cha mà chị ở lại với chúng tôi, trên một cánh đồng vắng ngắt. Những vết thương đã lành rất mau. Chị cười, bị đánh hoài riết cũng quen. Tôi hỏi chị làm gì để bị đánh. Chị cười, "Làm đĩ". Rồi có lẽ chị áy náy vì quá sỗ sàng với chúng tôi, chị vò đầu Điền "chắc mấy cưng không biết đâu?".

Điền nhìn tôi cười. Chúng tôi đã gặp nhiều, rất nhiều người phụ nữ giống chị. Cứ mỗi mùa gặt, họ lại dập dìu trên đê, lượn lờ quanh lều của những thợ gặt, những người đàn ông giữ lúa và bọn nuôi vịt chạy đồng. Họ cố làm ra vẻ trẻ trung, tươi tắn nhưng mặt và cổ đã nhão, nhìn kỹ phát ứa nước mắt. Đêm đến, sau các đụn lúa, họ thả tiếng cười chút chít, tiếng thở mơn man lên trời, làm nhiều người đàn bà đang cắm cúi nấu cơm, cho con bú trong lều thắt lòng lại. Tối nào mua rượu cho cha, chúng tôi cũng đi ngang qua những đôi người. Chúng tôi nhận ra họ ngay, khi không còn mảnh vải nào trên người họ vẫn điềm nhiên cười khúc khích và uốn éo thân mình chứ không trơ ra ngượng ngịu, cam chịu như những người phụ nữ quê. Sáng sau, họ xiêu xiêu biến mất, đem theo mớ tiền công ít ỏi suốt một ngày làm việc quần quật của đám đàn ông.



[ngày mai post tiếp chương hai]
linhvang
#66 Posted : Saturday, August 12, 2006 4:33:59 AM(UTC)
linhvang

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Editors
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 4,933
Points: 1,248
Woman
Location: University Place, Washington State, USA

Thanks: 23 times
Was thanked: 45 time(s) in 43 post(s)
Chị Xuân Yên,
Cái truyện Cánh Đồng Bất Tận này đã được Song Anh đưa lên rồi mà, ở trang 4 đó.
Tonka
#67 Posted : Monday, October 29, 2007 1:50:51 AM(UTC)
Tonka

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,643
Points: 1,524

Thanks: 95 times
Was thanked: 201 time(s) in 189 post(s)
Tác phẩm “Cánh đồng bất tận” được chuyển ngữ và phát hành tại Hàn Quốc

2007.10.28
Trà Mi, phóng viên đài RFA

Tác phẩm “Cánh đồng bất tận” của nhà văn trẻ Nguyễn Ngọc Tư vừa được chuyển ngữ và phát hành tại Hàn Quốc từ đầu tháng này. Kể từ lần đầu tiên xuất hiện trên tuần báo Văn Nghệ tháng 8 năm 2005, truyện đã được đông đảo bạn đọc trong nước đánh giá rất cao và nhận Giải thưởng Văn học của Hội nhà văn Việt Nam hồi năm ngoái, tuy trước đó không lâu, tác giả của nó từng bị Ban tuyên giáo tỉnh Cà Mau chỉ trích gay gắt chỉ vì những hiện thực được lột tả trong “Cánh đồng bất tận.”

• Bấm vào đây để nghe cuộc phỏng vấn này
• Tải xuống để nghe

Hình bìa cuốn sách Cánh đồng bất tận bằng tiếng Hàn Quốc.
Với ba ngàn ấn bản trong đợt in thứ nhất của Nhà xuất bản Asia tại Seoul, đây là một trong số rất ít các tác phẩm văn học Việt được giới thiệu tới độc giả xứ Hàn. Trà Mi có cuộc phỏng vấn với ông Seo Jae-young, đại diện nhà xuất bản, để tìm hiểu thêm:

Trà Mi: Trước tiên, xin ông cho biết cơ duyên nào tác phẩm “Cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư được Nhà xuất bản Asia chú ý đến?

Ông Seo Jae-young: Nhà xuất bản Asia chúng tôi phát hành Tạp chí Văn học Asia mỗi quý. Hầu hết các thành viên trong ban biên tập cũng là hội viên trong nhóm mang tên “Hội các nhà văn trẻ Hàn Quốc muốn tìm hiểu Việt Nam”, với mục tiêu nghiên cứu, tìm hiểu lịch sử, văn hoá, và nghệ thuật của Việt Nam.
Người biên dịch truyện “Cánh đồng bất tận” ra tiếng Hàn là ông Ha Jae-hong, cũng là một thành viên trong Hội này. Ông ta hiện đang là nghiên cứu sinh về văn học Việt Nam tại Đại học Khoa học xã hội và nhân văn TPHCM. Ông ta biết đến tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư và giới thiệu với chúng tôi, là một nhà xuất bản chuyên phát hành các tác phẩm văn học của Châu Á tại Hàn Quốc.

Trà Mi: Vì sao Nhà xuất bản Asia quyết định giới thiệu cuốn sách với độc giả Hàn Quốc?

Ông Seo Jae-young: Ban đầu quyển sách được dịch ra với ý định giới thiệu trên Tạp chí Asia hàng quý của chúng tôi. Một số thành viên trong Ban biên tập của tạp chí cũng như một số các nhà văn Hàn Quốc rất ngạc nhiên và thích thú khi đọc qua bản dịch này vì lối hành văn và cách kể truyện trong tác phẩm này rất khác biệt so với những tiểu thuyết Việt Nam mà chúng tôi có dịp được biết đến trước đây.
Ban đầu quyển sách được dịch ra với ý định giới thiệu trên Tạp chí Asia hàng quý của chúng tôi. Một số thành viên trong Ban biên tập của tạp chí cũng như một số các nhà văn Hàn Quốc rất ngạc nhiên và thích thú khi đọc qua bản dịch này vì lối hành văn và cách kể truyện trong tác phẩm này rất khác biệt so với những tiểu thuyết Việt Nam mà chúng tôi có dịp được biết đến trước đây.
Ông Seo Jae-young
Nó rất đặc biệt và độc đáo. Tuy nhiên, truyện quá dài không thể đăng hết trên Tạp chí Asia. Cho nên, chúng tôi đã quyết định sẽ phát hành dưới dạng sách truyện và giới thiệu đến bạn đọc ở Hàn Quốc.

Trà Mi: Trước đây, khi trình làng tại Việt Nam, “Cánh đồng bất tận” từng gây nhiều tranh cãi. Có người khen hay, nhưng cũng có ý kiến phê phán rằng truyện này phản ánh hiện thực một cách quá đáng với những ngôn từ thô tục, đến nỗi chính tác giả Nguyễn Ngọc Tư đã bị Ban tuyên giáo tỉnh Cà Mau yêu cầu phải tự kiểm điểm. Quan điểm của ông ra sao?

Ông Seo Jae-young: Đối với môi trường văn hoá Hàn Quốc, truyện này chẳng có gì là thô tục hay nhạy cảm cả. Tuy nhiên, tại Việt Nam, nơi vẫn còn tồn tại chủ nghĩa xã hội, thì có thể tác phẩm này bị coi là hiện thực quá đáng hay khêu gợi tình dục. Từ tác phẩm này, chúng ta thấy rằng dòng văn học hiện đại của Việt Nam có thể được chia thành 2 giai đoạn, trước và sau Nguyễn Ngọc Tư.
Qua tiểu thuyết của cô, người ta có thể cảm nhận được sự thay đổi nhận thức về xã hội và cuộc sống. Tác phẩm của Tư có thể sẽ khiến cho các tác phẩm văn học khác tại Việt Nam trở nên lỗi thời. Và các cây viết mới kiểu “Nguyễn Ngọc Tư” sẽ xuất hiện.
Ngay đất nước Hàn Quốc của chúng tôi đây cũng đã từng trải qua những kinh nghiệm về độc tài chính trị, nhưng chúng tôi đã vượt qua rồi, và đã quen với những quyển tiểu thuyết hiện thực và cởi mở như thế này từ lâu rồi.

Trà Mi: Ông cảm nhận như thế nào về sự tiếp nhận của độc giả Hàn Quốc đối với tác phẩm “Cánh đồng bất tận”?

Ông Seo Jae-young: Sách đã được phát hành ra thị trường khoảng 3 tuần nay, và chúng tôi đã nhận được những phản hồi từ bạn đọc. Mặc dù chưa phải là phổ biến rầm rộ, nhưng cũng có khá nhiều phản hồi. Nhiều nữ độc giả bày tỏ sự xúc động khi đọc tác phẩm này.
Có người cho biết qua đó, họ hiểu biết nhiều hơn về Việt Nam. Thậm chí có người còn nói rằng sau khi đọc “Cánh đồng bất tận”, họ mong muốn có dịp đến thăm Việt Nam. Những cảm nhận này có một ảnh hưởng tích cực đến cái nhìn của người Hàn Quốc đối với các cô dâu Việt Nam đang sinh sống tại đất nước chúng tôi. Người ta cho rằng không có gì giúp chúng ta hiểu rõ hơn về một xã hội hơn là văn chương. Và tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư đã làm được điều đó.
Trà Mi: Đây có phải là lần đầu tiên một tác phẩm văn học Việt Nam được giới thiệu đến độc giả Hàn Quốc?

Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư. Photo courtesy Tuoitre Online.

Ông Seo Jae-young: Không, đây không phải là lần đầu. Mặc dù không có nhiều tác phẩm văn học Việt được giới thiệu tại Hàn Quốc, nhưng những tiểu thuyết đã từng xuất hiện ở đây đều rất hay và thú vị, chẳng hạn như cuốn “Áo Trắng” của tác giả Nguyễn Văn Bông được rất nhiều sinh viên đại học biết đến vào những năm 80.
Vào cuối thập kỷ 90 bước sang năm 2000, tác phẩm “Nỗi đau chiến tranh” của Bảo Minh và quyển “Nếu anh vẫn còn sống” của Văn Lê ra mắt độc giả Hàn Quốc và rất phổ biến. “Cánh đồng bất tận” của Ngọc Tư đang tíêp nối xu hướng này.

Trà Mi: Vì sao văn học Việt Nam ít được chuyển dịch và phát hành tại Hàn Quốc?
Ông Seo Jae-young: Bởi giới độc giả Hàn Quốc đang hướng về văn chương phương Tây, ít người để ý đến các tác phẩm văn học Châu Á, và mục tiêu của Nhà xuất bản Asia chúng tôi là hướng người đọc chú ý đến nền văn chương Châu Á nhiều hơn nữa. Tuy chưa nhiều, nhưng những quyển sách đã được trình làng tại Hàn Quốc là bằng chứng cho thấy các tác phẩm văn học Việt Nam có sức thu hút đối với độc giả nước tôi.

Trà Mi: Nói riêng về quyển “Cánh đồng bất tận”, theo ông, yếu tố nào thu hút nhất đối với độc giả Hàn Quốc: nội dung câu chuyện, tính tranh cãi, hay là những mảng hiện thực của xã hội Việt Nam được mô tả trong truyện?

Ông Seo Jae-young: Chính nội dung của câu chuyện đã hoàn toàn cuốn hút người đọc từ đầu đến cuối. Người Hàn Quốc biết đến Việt Nam từ cuộc chiến tranh trước đây, từ các chuyến du lịch tham quan, từ các cô dâu người Việt trên đất Hàn, hay từ các công nhân Việt xuất khẩu qua đây.
Về hoàn cảnh lịch sử, hai nước có một số điểm khá giống nhau. Cho nên, bạn đọc Hàn Quốc cảm thấy gần gũi và dễ chia sẻ với các tác phẩm văn học Việt. Trong số đó, có nhiều nam độc giả ở độ tuổi 30-40, tức thế hệ đấu tranh chống lại độc tài chính trị ở Hàn Quốc hồi những năm 90. Họ là những độc giả khó tính, luôn tìm tòi những tác phẩm có giá trị, có ý nghĩa.
Trà Mi: Xã hội Việt Nam đang ngày càng trở nên quen thuộc với văn hoá Hàn Quốc qua phim truyền hình và các sản phẩm văn hoá, tiêu dùng khác. Ngược lại, sự hiểu biết của người Hàn Quốc về văn hoá Việt Nam ra sao?

Hình bìa cuốn sách Cánh đồng bất tận của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư.

Ông Seo Jae-young: Tôi nghĩ văn hoá Việt Nam cũng dần trở nên quen thuộc đối với người Hàn. Chẳng hạn như mấy tháng nay ở đây bộ phim nhiều tập nhan đề “Cô dâu vàng” đang được trình chiếu trên TV vào giờ cao điểm hàng ngày, nói về các cô gái Việt Nam lấy chồng Hàn Quốc.
Vả lại, ở Hàn Quốc cũng có các quán ăn Việt và cộng đồng người Việt, tuy không nhiều. Đôi khi tôi cũng thấy có một vài bộ phim tài liệu hay quảng cáo về du lịch Việt Nam nữa.

Trà Mi: Theo ông, yếu tố nào giúp làn sóng văn hoá Hàn Quốc xâm nhập mạnh mẽ vào các nước Châu Á đặc biệt là tại Việt Nam?

Ông Seo Jae-young: Tôi cho rằng đó là nhờ vào công nghệ và sự đầu tư tiếp thị quảng bá. Ngoài ra, cũng phải kể đến các giá trị văn hoá, truyền thống tương đồng giữa Việt Nam và Hàn Quốc.

Trà Mi: Sau “Cánh đồng bất tận”, trong tương lai, nhà xuất bản Asia có dự định sẽ tiếp tục phát hành nhiều thêm các tác phẩm văn học Việt Nam?

Ông Seo Jae-young: Vâng, dĩ nhiên. “Hội các nhà văn trẻ Hàn Quốc tìm hiểu về Việt Nam” là lực lượng nồng cốt của nhà xuất bản Asia chúng tôi. Cho nên, các tác phẩm thú vị nhất mà chúng tôi đang nhắm tới là văn học Việt Nam và tôi tin rằng trong tương lai sẽ có nhiều hơn nữa các quyển sách hay của Việt Nam được chuyển ngữ và giới thiệu đến công chúng Hàn Quốc.

Trà Mi: Chúng tôi cũng rất hy vọng điều đó và xin chân thành cảm ơn ông đã dành thời gian cho cuộc trao đổi này.



http://www.rfa.org/vietn...oducedInSouthKorea_TMi/
Tonka
#68 Posted : Monday, October 29, 2007 2:21:56 AM(UTC)
Tonka

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,643
Points: 1,524

Thanks: 95 times
Was thanked: 201 time(s) in 189 post(s)
quote:
Gởi bởi Phượng Các

quote:
Gởi bởi Song Anh
S.A cũng đang tính dịch truyện của N.N.Tư ( có giấy phép của tác giả đàng hoàng à nha Blush)
Approvebeerchug
Văn của NNT mà dịch được là hay lắm đó nghe SA. Rose



Người Đại Hàn và Việt Nam bị ảnh hưởng bởi Trung Quốc rất nhiều, ngay cả về ngôn ngữ, cho nên dịch sang tiếng Đại Hàn có lẽ tương đối dễ hơn tiếng Pháp hay Mỹ.

Song Anh
#69 Posted : Monday, October 29, 2007 9:05:31 PM(UTC)
Song Anh

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 1,004
Points: 18

quote:
Gởi bởi tonka

Người Đại Hàn và Việt Nam bị ảnh hưởng bởi Trung Quốc rất nhiều, ngay cả về ngôn ngữ, cho nên dịch sang tiếng Đại Hàn có lẽ tương đối dễ hơn tiếng Pháp hay Mỹ.




Em đã đọc đâu đó hình như CĐBT cũng đã được dịch sang tiếng Nhật nữa đó chị.
Em không rành tiếng Đại Hàn...nên không dám lạm bàn.
Riêng đối với em...mặc dù đã hỏi xin phép tác giả...nhưng mà vẫn còn "chùn bước" đây chị ơi...em ngại mình chưa đủ khả năng để chuyển tải cái văn phong của NNT qua bản dịch...
Em ngại từ một tác phẩm " sống " ...mà mình dịch sang thành một tác phẩm " chết " ...thì còn gì là sự tôn trọng đối với tác giả hở chị ?
PC
#70 Posted : Tuesday, October 30, 2007 10:08:53 AM(UTC)
PC

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 5,668
Points: 25
Woman

Was thanked: 4 time(s) in 4 post(s)
Dịch xong rồi còn phải tìm nguồn tài trợ để in ra nữa hay sao vậy SA? Nếu quả vậy thì cái connection của SA cũng ngon lành quá.

Có tìm được người nào đủ thân để họ đọc lại giùm bản dịch và cho nhận xét không vậy? Trên đời này tìm được người chịu cho mình nhận xét trung thực để mình tiếp tục công việc đó thật không phải dễ.

À, mà có dịch được bài nào chưa, hay chỉ còn trong dự tính?




Song Anh
#71 Posted : Tuesday, October 30, 2007 7:03:39 PM(UTC)
Song Anh

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 1,004
Points: 18

quote:
Gởi bởi PC

Dịch xong rồi còn phải tìm nguồn tài trợ để in ra nữa hay sao vậy SA? Nếu quả vậy thì cái connection của SA cũng ngon lành quá.

Có tìm được người nào đủ thân để họ đọc lại giùm bản dịch và cho nhận xét không vậy? Trên đời này tìm được người chịu cho mình nhận xét trung thực để mình tiếp tục công việc đó thật không phải dễ.

À, mà có dịch được bài nào chưa, hay chỉ còn trong dự tính?



Chị PC,
Hiện tại còn nhiều việc đa đoan quá nên em chưa bỏ hết " tâm huyết " vào chuyện này...
Em chỉ ngẩu hứng lâu lâu dịch chơi vài câu ... để giải thích cái lối nói rất là " hình tượng " của người dân miệt vườn Nam Bộ ... với con em mà thôi...thí dụ như : để diễn tả " Giọng ca mùi rụng rún " ... em phải nói là " une voix de velours" thì chúng nó mới hiểu ý ...mà riêng đối với em thì ... như thí dụ trên...tiếng pháp " giọng êm như nhung " lại không gây đủ ấn tượng như giọng ca " mùi rụng rún"...theo tiếng việt...nên chuyện dịch truyện của NNT ... vẫn còn nhiều "trăn trở" với em là ở chổ đó.
Về việc đọc lại giùm bản dịch...em có thể nhờ các thầy cô ( cảTa lẫn Tây) của mình cho ý kiến.
Em chưa bao giờ nghĩ đến việc in ấn hay xuất bản cái chi chi hết...nên không mấy để ý về vấn đề đó chị ơi...lở như nếu có đụng chuyện thì tự mình ráng mà thu hết can đảm đi thuyết phục tác giả và biện hộ cho chính mình với các nhà xuất bản mà thôi...chớ em không có " connexion " nào " ngon lành " hết ...ngoài "phunuviet.org" á...Big SmileBig SmileBig Smile
beerchug
gdt
#72 Posted : Tuesday, February 5, 2008 11:08:42 PM(UTC)
gdt

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 653
Points: 0

Tối nay hơi quởn quởn, đọc được một truyện ngắn của Tư trên một tạp chí Xuân. Thấy trong này chưa có, xin chia sẻ

Chuồn chuồn đạp nước

Nhỏ con tham gia một gameshow, cha là người trợ giúp. Câu hỏi như sau: người ta hay nói chuồn chuồn đạp nước, vậy câu ấy mô tả trạng thái nào của chuồn chuồn ?
a. đẻ trứng
b. tìm kiếm bạn tình
c. đói
d. sắp chết

Ba mươi giây bắt đầu. Cha nói, b là trúng phóc. Nhỏ con hỏi vặn vẹo, chắc hôn nghen. Cha hơi tự ái, chắc chắn trăm phần trăm. Cha biết đoạn trò chuyện này sẽ được phát trên truyền hình toàn quốc, nếu không dằn mặt nó thêm vài câu nữa. Nhỏ con trên trường quay ngần ngừ, nó chọn thêm một quyền trợ giúp nữa, lần này họ lọc lại chỉ còn hai phương án, nhỏ con hú vía, b và d bị xóa trắng. Nhỏ con chọn a, nó lý luận với ông dẫn chương trình, chắc lúc đói chuồn chuồn không còn sức để đi đạp nước đâu. Nhờ kiểu suy luận cùn đó mà những câu hỏi sau nữa nó tự tin vượt qua, cầm tấm séc mười lăm triệu mừng quýnh vẫy tay chào khán giả.

Đó là một ngày tháng chín gió giành ngọn dữ dội. Nam chưa đi mà chướng đã tới thổi cheo heo. Hai cha con rời trường quay, ở bãi đậu xe, nhỏ con nói, phải con nghe lời cha là tiêu tùng rồi. Cha ậm ừ chống chế. Lúc đó quýnh quá mà. Trên đường về nhà gặp lúc triều cường, cha phải chạy vòng qua ngã khác để tránh con đường bị ngập nước, nhưng ở vòng xuyến cha lại phải quẹo phải, nên lạc đi xa. Nhỏ con muốn mau về nhà để cùng mừng tưng bừng với mẹ nên kêu lên, cha đi hướng này chi cho xa vậy? Cha thắng nhúi đầu xe, dục dặc, lâu nay chạy lộn đường hoài, bộ không biết sao mà còn hỏi tới lui!

Nhỏ con chưng hửng không hiểu vì sao cha quạu bất tử. Nhưng nó đang ngây ngất với món tiền thưởng nên không để bụng buồn lâu. Cha nghe nhỏ con im re đằng sau, cùng cụt hứng, lặng lẽ chạy miết. Hồi lâu nghe nhỏ con lại khều khều bên hông, cha mới hay mình đã chạy qua khỏi nhà chừng hai ba mét. Tẻn tò quay lại, nhìn hai mẹ con họ nhảy cà tưng dưới cánh cổng chấp chới những bông hùynh anh, cha hoàn hồn, nếu khi nãy chiếc xe bị ngập bugi tắt máy giữa chừng, không biết mình có xô ngang bỏ lại bên đường sau khi đá vô chiếc xe mấy cái.

Bữa cơm tối đó cha ăn một cách ngượng ngập. Gắp cho nhỏ con cái đùi gà chiên nước mắm, mẹ nói mẹ phải đi mấy cái chợ mới mua được gà thả vườn, cha mới nhận ra trên mâm có thịt gà. Một cơn khó chịu nào đó đầy ứ trong cổ họng cha, vợ không gắp cái đùi gà còn lại cho mình, chuyện này chắc có liên quan tới vụ chuồn chuồn đạp nước mà nhỏ con kể lúc chiều. Khi đó vợ đã cười ngặt nghẽo, vậy mà ba mầy toàn viết văn dạy đời thiên hạ. Cha chép miệng, con người là con … người, cũng có lúc lẫn lộn, em cũng mang dép lộn hoài đó.

Nhưng cha biết mang dép lộn không thể xếp chung với chuyện chuồn chuồn đạp nước. Cha nghi ngờ đáp án của chương trình, nói gì chứ, trong khoảnh khắc ở trường quay và ngay khi nằm trên ghế bố trong phòng, cha thấy hình ảnh con chuồn chuồn đang vào độ tuổi yêu, khao khát bạn tình, cô đơn soi mình trên sóng nước là quá chừng có lý. Cha vùng dậy, chui xuống gầm sàn lục tìm cuốn sách Từ điển tranh về các con vật mà tháng trước dọn dẹp cơ quan cha quẳng về nhà. Cuốn sách mất tăm. Chỉ có một đống rác, cha cằn nhằn, nhà có hai người phụ nữ mà dơ dáy như vầy, thiệt hết chịu nổi.

Cha mặc quần áo xách xe đi, mẹ cầm cây chổi nhìn theo cái lưng dài thượt của cha tự hỏi tại sao bữa nay mình bị nhằn bởi vài tấm giấy báo. Đi nữa chừng, cha vẫn không biết mình đang đi đâu. Rút điện thoại gọi cho ông bạn, rủ ra quán văn nghệ, câu đầu tiên khi bạn kéo ghế ngồi là:

-Chuồn chuồn đạp nước là nó đẻ hả mậy?

Ông bạn gật đầu cái rụp, không mảy may suy nghĩ như đó là chuyện đương nhiên như mặt trời mọc ở đằng Đông

-Ừ, bộ mầy chưa biết hả?

Cha muốn hất ly bia đang uống vô mặt bạn. Ông này làm thơ, dân làm thơ ngu ngơ trên trời với mây gió, vậy mà ổng biết chuyện sinh đẻ của chuồn chuồn. Còn cha thì không . Cái ý nghĩ đó làm cha nẫu nê, bia ngon bao đời nay bỗng dưng đắng đót. Ông bạn nghe kể lại chuyện ở trường quay, ông cố làm ra vẻ mặt nghiêm túc để nén cười, để nói một câu nghiêm túc:

-Thôi bỏ qua mầy ơi, đâu phải cái gì người ta cũng biết hết.
-Ừ, nhưng không biết vụ này thì mất mặt qua, mậy.

Ông bạn nhà thơ cười ha ha:

-Quan trọng là người ta trong mắt mình như thế nào. Tao thấy mầy cứ mệt mỏi vì chuyện mình như thế nào trong mắt người ta.

Nhưng đây không phải là người ta, đây là vợ và con mình, cha nghĩ vậy nhưng không còn hơi sức để cãi. Cha về nhà và ngủ một giấc với hy vọng, khi thức dậy sẽ quên cơn ác mộng mang tên con chuồn chuồn này, thức dậy với một bình minh khác.

( còn tiếp)
gdt
#73 Posted : Saturday, February 9, 2008 7:59:44 AM(UTC)
gdt

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 653
Points: 0


Và đó thật sự là một bình minh khác. Lúc cha bước ra khỏi phòng với cái đầu đau như hôm qua đập vào đá thì con gái cũng dắt xe đạp tới trường, con gái mặc cái áo dây mới mua bằng tiền thưởng, cha ứa gan với cái khoảng vai trần nhỏ nhắn của đứa con gái mười chín tuổi. Cha định cằn nhằn thì những con chuồn chuồn bỗng chao liệng, khiến cha nghẹn ứ. Cha hình dung nhỏ con sẽ trả lời như váy, áo kiểu này bây giờ là mốt đó, con thấy cha không biết gì hết, chuồn chuồn đạp nước còn không biết thì biết gì. Hoặc giả con nhỏ sẽ không nói, nhưng ánh mắt nó nói trong lúc quay lại thay áo khác. Cha sợ điều đó, cha đứng trong phòng tắm và ngậm bàn chải rất lâu, đờ đẫn đến nỗi nuốt hết mớ bọt kem đánh răng trong miệng. Mẹ nói vói vào , Duyên Anh tính mua dàn vi tính mới cho anh, chớ máy cũ chập chờn có ngày bàn thảo mất hết. Cha ỉu xìu, thôi xài máy đó quen rồi, có cái gì lạ mất hứng viết. Mẹ gạn hỏi, giọng gì nghe như chết rồi vậy, anh có bị sao không?

Không, cha không bị sao hết, không có vết xước nào nào dù tối qua trong trạng thái mụ mụ mị trở về nhà. Bữa nhậu thằng bạn trả tiền. Cha không mất gì nhưng thấy mất gì đó. Cha tới cơ quan và bỗng cảm thấy hụt chân như những bậc thang biến đâu rồi. Anh tài xế bước vượt lên, cười hỏi, bữa qua nhậu dữ lắm sao mà sáng nay thấy anh khờ ịt vậy? Cha lượng sượng ờ ờ. Một tháng sau, khi cái gameshow có nhỏ con thi được phát sóng trên truyền hình, anh lái xe sẽ kín đáo cười với cô thủ quỹ ế chồng khi thoáng bóng cha qua cửa, thấy tướng vậy mà cũng dỡ òm. Hàng chục triệu dân trên đất nước này sẽ biết người viết ra những trang văn đầy góc cạnh nóng bỏng, thấu đáo mọi sự được mất, triết lý sâu xa, là một người mất căn bản trầm trọng về…chuồn chuồn.

Buổi chiều lại, cha không vào cơ quan, cha chạy xe về quê. Cha ngồi trong khoảng vườn đượm nắng chiều, nơi cha vẫn thường về khi mệt mỏi hay căng thẳng, tuyệt vọng, nhìn chuồn chuồn đậu trên đám chà trong ao, cào cào búng trên những bụi cỏ ống, mấy con ong ve vãn bông đậu bắp. Bây giờ thì cha nhìn đăm đắm nấm mộ của bà nội, cha rầu rĩ, phải má không chết sớm thì chắc mình đã biết vụ chuồn chuồn đạp nước rồi. Thành ngữ được lưu truyền trên môi những bà già quê mà.

Cha ở với đám chuồn chuồn, cào cào, ong mật suốt cả con nắng tắt, nghĩ mông lung, tụi chuồn chuồn cắn rún mình không biết bao nhiêu lần sao không đẻ cho mình thấy, hay là mình đã từng thấy nhưng cuộc sống thành thị khiến mình quên đi, tại sao không quên chuyện gì khác mà quên chuyện chuồn chuồn đạp nước? Có quá nhiều chuyện nhân tình thế thái mà cha không quên, có nhiều thằng cha xỏ lá cà khịa đâm sau lưng cha, đáng lẽ nên quên để cười trọn nụ, để đời nhẹ nhõm mà cha không quên, thì sao lại quên vụ này? Cha thẫn thờ trở vô nhà đúng lúc chú Út cà xình cà xang từ đằng xóm về, chú say. Cha đã viết cả một tiểu thuyết dài về về đứa em này, một điển hình của sự thoái hóa ở nông thôn. Những sòng nhậu đông đúc, những người nông dân bị mất cảm giác về đất, những bạo hành trong cơn say. Cuốn sách đó cha có đem về nhưng chú không đọc, mà nếu đọc thì chú cũng chẳng hiểu cha đang viết cái gì.

Cuộc đời cha là một sự cao quý xa vời đối với chú Út. Nên thấy mặt cha, chú lấm lét, cố vịn vách để đứng cho vững, để chứng tỏ mình chỉ uống chút xíu thôi. Bình thường, cha luôn ở trước mặt em mình với tư thế đĩnh đạc, miệng thì gầm gừ, mầy hư kiểu này ba má dưới chín suối làm sao yên được. Bình thường thì thím đứng tựa bếp nhìn cái cảnh anh em rầy rà, thím thấy thỏa thuê, sung sướng. Thím hay bồng con ra chợ xã gọi điện thoại méc cha vụ này vụ nọ, thím nói bây giờ thì chú chỉ nghe mỗi mình cha thôi.

Nhưng cha hoàn toàn câm lặng, chiều nay. Cha nín thinh ngó chú đang trùng trình bên vách, rồi lủi thủi dẫn xe qua cây cầu tre cọt kẹt. Thím ngúyt chồng, “ đọ, sáng mắt chưa, nhậu nhẹt tới mức anh Hai giận bỏ về rồi kìa”. Cha ngoái lại tự hỏi, sau khi biết vụ chuồn chuồn đạp nước, không biết cô em dâu của mình có còn gọi điện thoại nữa không?

Cha đã đi qua ba bảy hai mốt bình minh, luôn thức dậy với nỗi tuyệt vọng mình còn nhớ. Ông bạn nhà thơ thấy cha gầy sọp, la lên, “trời đất, không chừng vợ con mầy đã đi khỏi cái trường quay đó rồi, sao mầy còn ở lại hoài chi cho khổ vậy?”

Cha cũng muốn đi. Cha muốn quên nó đi, chuyện nhỏ như con thỏ mà. Cha nói thầm, ừ, quên thì quên, mình có phải thần thánh đâu mà chuyện gì cũng biết. Sai lầm chỉ một chút giữa a và b thôi mà. Cha về nhà, huýt sáo bài hát yêu thích để cho mình phấn chấn trở lại, ngồi viết một truyện ngắn về quan trường, “ để trả lời câu hỏi của con, đấy có phải vũng bùn không mà ai cũng lấm lem khi bước vào”. Cha đọc lại câu dẫn nhập và nghĩ, từ bây giờ chắc mình không thể viết về nông thôn nữa. Cha thấy thấp thóang những cánh chuồn chuồn chao liệng trên mặt ao bèo. Sợ phải nhớ chuyện mình đã cố quên, cha coi lại cái phím chân dung đài tỉnh làm về mình. Nhưng tới cái cảnh cha đang đọc bản thảo còn mẹ với nhỏ con thì ngồi gần đó, lắng nghe mê say, ánh mắt của hai người họ đắm chìm trong ngưỡng mộ, cha bỗng hoang mang. Bầy chuồn chuồn chấp chới trong lòng.

Cha nhớ có lần mình đốt con cúi lấy tổ ong vò vẽ trên cây khế, nhỏ con đã nhìn cha như một anh hùng.

Cha nhớ có lần dầm mưa sửa lại cái máng xối, mẹ đã nịnh nọt, “nhà văn mà làm được mấy chuyện này không phải dễ kiếm à nghen”

Cha nhớ hàng trăm chuyện vụn vặt như vậy. Nhưng bây giờ, cha có hái mặt trăng xuống thì cũng không chắc hai người phụ nữ đó có nhìn mình được như xưa, sau sự cố chuồn chuồn.

Cha bắt đầu vùi đầu vào sách. Cha đọc nhiều tới mức lên mâm cơm là nói vanh vách những hiện tượng thiên nhiên, lịch sử những kỳ quan thế giới, kết cấu của tầng địa chất, sự diệt vong của khủng long ăn thịt và voi mamut, nguy cơ của loài chim cánh cụt khi Bắc cực tan băng. Đặc biệt là chuồn chuồn và những gì có liên quan tới chuồn chuồn, thí dụ như “ Chuồn chuồn bay thấp thì mưa, bay cao thì nắng, bay vừa thì râm” (đám bạn của cha lúc nhậu sương sương ba mớ thị nhại vầy “Chuồn chuồn bay thấp thì cao, bay cao thì thấp, bay vừa thì thôi”). Cái đó thông dụng không tính, nhưng một bữa nhỏ con không có nhà, mẹ hỏi về Duyên Anh đâu, cha nhấm nhẳng, “lúc này chắc có người yêu hay sao, như tổ con chuồn chuồn”. Mẹ chưng hửng:

-Là sao? Hỏng hiểu?

Cha cười mủm mỉm, ủa, hổng biết thiệt hả, nghĩa là bí ẩn đó, có đời nào người ta biết hay người ta thấy cái tổ con chuồn chuồn làm sao đâu. Mẹ hứ một tiếng, trong mắt không hiện ra nể trọng gì, chỉ ánh lên mấy chữ, ông chồng ngớ ngẩn, ăn nói không giống ai.

Cha thấy tuyệt vọng với mớ kiến thức của mình. Buồn quá, lại gọi ông bạn nhà thơ ra quán quen. Đang nghe bạn đọc bài thơ mới làm, cha bỗng chột dạ, giờ này, trên kênh Khám phá đang có chương trình sự sinh sản của gấu trúc. Mình không thể bỏ lỡ, biết đâu nhỏ con lại lại cần mình trong một câu hỏi cắc cớ của chương trình cắc cớ nào đó, và trong lúc con bối rối, mình sẽ giúp nó đem về mười lăm, hai chục triệu gọn hơ.

Cha bỏ bài thơ giữa chừng. Về nhà đúng lúc tivi chiếu lại giây phút huy hoàng của nhỏ con khi nhận tấm séc. Cha chỉ tháo một chiếc giày rồi khập khựng nửa muốn vào nửa không. Nhỏ con càu nhàu, nói không thèm lên truyền hình nữa, nó không ăn ảnh lắm, mặt lại nhiều mụn, dòm không đẹp như ngoài đời.

Cha ra ngồi dưới giàn huỳnh anh, run rẩy châm thuốc hút, tàn đóm rụng xuống chiếc giày còn lại. Trời tối mịt, mà chuồn chuồn vẫn bay rợp lòng. Hay vì chuồn chuồn nhiều quá nên khiến trời tối mịt? Cha cũng không biết nữa.

Nguyễn Ngọc Tư


Đọc xong truyện ngắn này, tôi suy ngẫm và bỗng ngộ ra nhiều điều. Cảm ơn Tư
Huệ
#74 Posted : Tuesday, February 19, 2008 9:39:44 AM(UTC)
Huệ

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 2,105
Points: 0

Dòng nhớ
Nguyễn Ngọc Tư

Sáng nay, má tôi lại ra đứng tần ngần ở chợ Ba Bảy Chín, ngiêng ngiêng ngó ngó một hồi, biểu con nhỏ chèo đò chèo dài dài chợ nổi. Chợ rao bán rau trái dậy động cả một khúc sông, má tôi thấy ghe nào cũng lần xuồng lại, dòm mặt chủ rồi đi. Con nhỏ chèo đò chắc là chèo mối, nó biết bà già định đi đâu, định làm cái gì nên nó biểu :
- Hỏng hỏi thăm thì vô phương kiếm ra, ngoại ơi.
Má tôi ngẩn ngơ. Hỏi chớ, chú ơi, thím ơi, tôi muốn hỏi thăm một người quen. Tên gì? Ghe bán gì? Hai Giang. Ghe bán hàng bông. Trời đất, ở xứ này có tỉ tỉ ghe bán bán hàng bông, cũng có biết bao nhiêu người tên Giang, vậy tướng tá người đó ra làm sao? Bây giờ đâu có biết ra làm sao, gặp được một lần mười sáu năm trước, nhớ sao tả vậy nghen. Đàn bà, chừng sáu mươi, trạc tuổi tôi, tóc dài, da ngăm ngăm, không đẹp không xấu. Mới đầu đi với chồng, sau chồng bỏ lên bờ vì cơ cực quá trời, hồi trẻ có đứa con gái đầu lòng chừng bảy tháng tuổi thì rớt xuống sông chết.
Vậy thì đông lắm, người sống trên chợ này hể mười thì có năm người y chang hoàn cảnh vậy, dân Ba Bảy Chín mà, “ba chìm, bảy nổi, chín lênh đênh”, chị hỏng nghe sao ?
Má tôi chẩng hẩng :
- Vậy ?
- Ừ, người đó quen sao mà tìm coi bộ cực dữ ?
- Quen. Chà, hỏng biết nói sao bây giờ, dài dòng lắm, vợ của chồng tôi.
Nếu vậy thì dài dòng thiệt, chuyện tình tay ba mà phim dính vô chuyện nầy cũng năm bảy tập trở lên, còn cải lương lâm ly không biết bao nhiêu là nước mắt.
Má tôi cũng khóc nhiều rồi.
Má tôi nói hoài, ba mươi tám năm bà về làm dâu nhà chồng, cực có, sướng có, chưa bao giờ nội tôi khắt khe, nhỏ nhặt, khó chịu với dâu, nhưng má tôi vẫn hận nội tới chết mới thôi. Hỏi sao kỳ vậy, má tôi kéo chéo khăn lên chậm chậm vô đôi mắt, “Bộ hết người rồi sao mà nội bây cưới tao cho ổng, đó, bà chỉ tay ra bến, gần hết đời rồi tao có được vui đâu”.
Đó là lúc “ổng”, tức ba tôi chống cây gậy khật khừng lang thang xuống bến. Ông dừng lại chỗ mấy cây tra, lấy tay rờ rẩm, săm soi từng cái lá, cái bông như tay bắt mặt mừng thằng bạn lâu năm mới gặp. Rồi ông lần ra tới đầu bến, đứng dưới hàng mấm già ngày xưa ông trồng để giữ đất cho khỏi lỡ, để mặc cho mấy cái hoa nắng vàng xơ rơ đậu xuống cái đầu húi cua, bạc trắng của mình, ông già thao thiết nhìn ra sông. Chỉ vậy thôi rồi khật khừng quay lên, cái chân trái yếu ớt như tựa hẳn vô cây gậy, cứ mỗi lần chân bước, đầu gậy lại xoáy sâu vô đất một lổ tròn tròn.
Cảnh thì quen lắm, thì ngày nào, buổi nào ba tôi chẳng làm vậy nhưng cứ tụm cả nhà lại, rồi ngồi lặng lẽ dòm, ai cũng nghe đau đau xót xót như ai lấy cật tre cứa tới cứa lui trong lòng. Bởi cái lúc này là lúc sum họp đây, vậy mà sao vẫn thấy thiếu một người, mà thiếu đúng cái người đang lững thững đi dưới nắng kia mới chết.
Sau đợt tai biến mạch máu não lần thứ nhất, nửa người bên trái ba tôi yếu hẳn đi, tưởng chỉ vậy thôi, đến lần thứ hai bỗng dưng tâm trí ông già nhớ quên, ít nói, lẩn tha lẩn thẩn. Nhưng còn sống, còn tự mình đi đứng được là may lắm rồi, ai cũng nói vậy. Lúc đó cả nhà đang ở chợ, ba tôi càng lúc càng buồn, hay chống gậy đi, mấy lần cả nhà bỏ tiệm may đi kiếm ông tở phở. Sau này chỉ cần một mình tôi, vắng ông, tôi chạy xe dọc theo con đường về vườn cũ là gặp. Thấy tôi, ông già khựng lại, không nói gì, nhưng cặp mắt khẩn cầu, da diết, tôi làm như không biết, cầm gậy, đỡ ông lên xe chở về, có lần, ba tôi khóc, ông khóc rưng rức, nước mắt nước mũi nhểu nhão, lòng thòng.
Sau lần ấy, cả nhà quyết định đưa ông về sống trong vườn nhà nội. Vườn bỏ lâu nay, nhưng nhờ cô dượng Ba ở kế bên nhà trồng trọt, trông coi nên chỉ cần dựng căn nhà lên là ở được. Chuyện cắt cử người ở lại với ba tôi thì khỏi phải bàn bởi chừng nào mà má tôi bỏ ông được, “làm gì làm má cũng phải giữ ba”, tôi đùa. Má tôi xua tay :
- Ổng còn nguyên đó chớ có đi đâu, trước không mất giờ còn sợ mất mát gì nữa, mà, giọng má chợt cay đắng, hồi đó giờ ổng có phải của tao đâu mà giữ.
Ba tôi là người của sông. Không phải ông nhớ vườn xưa mà chống gậy về, ông nhớ sông, một ngày ba bốn lượt lủi thủi chống gậy ra bến, đôi mắt như đang nhìn da diết, mà không biết nhìn ai, chỉ thấy mông mênh vậy thôi. Chơ vơ, cô độc. Tựa như ông đang ở đây nhưng tâm hồn ông, trái tim ông, tấm lòng ông chảy tan vào dòng nước tự lâu rồi.
Và cũng y như má tôi, ba cũng không sống được mấy ngày vui, vui thật, vui đúng nghĩa. Hồi tôi còn nhỏ, còn sống chung với bà nội, đêm đêm cả nhà đi ngủ, ba tôi ngồi hút thuốc trên bộ vạc kê trước nhà, chống rèm lên, ngó ra sông. Kiểu ngồi một chân xếp bằng, chân kia dựng lên, rồi tì cái tay cầm điếu thuốc lên cái đầu gối, đêm này qua đêm khác, kiểu ngồi không đổi. Nửa đêm, má tôi đi ém mùng lại, tôi thức giấc, ngó ra chỉ thấy đốm lửa lập lòe, lúc đỏ rực, lúc lại tắt thiu thiu. Má tôi ngồi trong mùng lặng lẽ nhìn ba, còn ba thì nhìn ra sông. Sông cách nhà một cái bến dài chẻ ngang đám dừa nước. Nếu không vướng tầm mắt vào đám ô rô mọc lởm chởm chồm từ mé lá lên, không vướng mấy bụi ráng, bụi lức dại có thể thấy lồng lộng một khúc sông. Đêm sáng trăng, ngồi trên nhà có thể thấy một dòng chảy líu ríu, sáng loáng. Ban đêm, con sông trước nhà tôi không ngủ, nó thức theo những chiếc tàu rầm rì trảy qua, theo tiếng mái chèo quẩy chách bụp rất đều. Dài từ ngã ba Vàm đến đây, nước chảy êm, khuất gió, những chiếc ghe đi đêm hay đậu lại, nghỉ ngơi. Lâu lâu, có chiếc ghe hàng bông lặng lẽ neo lại ngoài bến nhà tôi, treo ngọn đèn chong lên cây đước chơm chởm những cái nhánh con, mỗi nhánh lủng lẳng trái khóm, trái bầu dầm nắng mưa đã teo héo. Không thấy bóng người, chỉ nghe tiếng gàu tát nước cọ vô xuồng xao xác. Hừng đông chạy xuống bến thì ghe đã đi rồi. Những đêm đó, ba tôi hút thuốc dữ, cứ nhìn chong chong ra ngọn đèn đỏ ối, nhỏ nhoi, buồn hiu ngoài kia. Ba tôi thở dài. Má tôi thở dài, chạy qua buồng bên khóc với bà nội tôi, không biết nói cái gì, chỉ nghe lỏm bỏm, tiếng nội làu bàu, “vậy ra má đã làm sai cái gì ?” và má tôi tuyệt vọng “Kiểu này biết chừng nào ảnh mới quên chuyện xưa hả má ?”.
Ngày xưa ba tôi cũng yêu thương một người. Tự ba tôi chọn. Nội tôi dứt khoát không chịu (nội có tỉ tỉ lý do, nhưng cái lý do lớn nhất là người phụ nữ đó đã có một đời chồng), ba tôi mới dắt díu người ta bỏ nhà đi, sống kiếp thương hồ. Hai người trãi qua biết bao nhiêu cơ cực, nào là gặt mướn, làm cỏ lúa, đắp bờ … mới có được một ít vốn, ba tôi sắm cái máy Koler xuống rẫy bán hàng bông. Họ sống nghèo lắm. Mỗi lần đi ghe đi ngang qua nhà, ba tôi khắc khoải ngó lên, vừa nhớ, vừa đau vì cãi nội. Rồi hai người có với nhau đứa con, nhưng chị bạc mệnh chết đuối, tận cùng đau khổ, ba tôi bỏ về nhà, được về, ba tôi cũng phải đáp ứng vài điều kiện của nội, vậy là ba tôi bỏ người ta giữa dòng bơ vơ. Tôi biết được có bao nhiêu đó thôi, kể ra cũng mấy dòng vậy thôi. Mà, cũng phải đợi tới năm mười lăm tuổi, cả nhà mới cho tôi biết. Tôi bật ngửa, chuyện xảy ra lâu rồi, nhưng người ta vẫn còn nhớ, vẫn còn cắm sào trước bến nhớ ba tôi, vậy mà biểu ba tôi quên cái rụp thì làm sao quên được.
Mà, cũng vì ba tôi quên không được má tôi mới thương ông nhiều, sau nầy, lớn lên, biết yêu thương rồi, tôi mới ngộ ra. Con người ta, nhất là đàn ông thương ai mà vì nỗi gì đó quay lưng lại quên mất tiêu thì đúng là không tử tế, không đáng tin chút nào. Với tôi, ba tôi thì quên hay không cũng được, ba đã sống tốt với cả nhà tôi lắm rồi. Ông sống tử tế đến vô cùng, đến thừa, dường như ông gởi gắm tình thương yêu đến cả những người vắng mặt. Ông ít nói, hiền lành, từ tốn với má tôi, những lần má tôi bệnh, ba chèo một hơi mười mấy cây số vừa đi vừa về đưa má tôi ra trạm xá, không than mệt, không thở ra, tận tụy. Lúc nào cũng mình mình tôi tôi, mấy bà hàng xóm nghe tủi cho mình mà khóc, má tôi cũng òa khóc theo, cảnh mỗi người tự người đó biết, người ta hay đứng núi này trông núi nọ vậy mà.
Mơ hồ dường như mình mắc nợ ai đó, cả nhà tôi lúc nào cũng cảm thấy không vui, dù hạnh phúc (hai thứ nầy sao lại không thể đi chung). Không thấy ai đòi nhưng nợ vẫn cứ là nợ, nó rờn rờn quanh quất trong chái bếp ngày ngày khói tỏa, trong mấy chiếc giường ngủ con con, trong hai bữa ăn mỗi ngày. Ngồi quây quần như vầy trong bụng cứ nghĩ, có một người nào đó cô độc, bơ vơ. Mà tội nhất là nội tôi, vốn mê cải lương, nhưng bữa nào ti vi chiếu mấy tuồng có bà mẹ chồng ác nghiệt chia rẽ duyên của con, dâu là thấy nội tôi rầu. Cho tới lúc cuối đời, chắc nội tôi vẫn băn khoăn trong lòng câu hỏi : “ Vậy ra, mình giống mấy bà già trong đó thiệt sao ?”
Má tôi thấy nội bứt rứt cũng không tỏ ra phiền muộn nữa, cốt để an ủi nội tôi lúc cuối đời. Khi nội tôi vừa khuất, má quyết định gặp đối thủ một lần, chỉ định nhìn vậy thôi, chưa biết làm gì mà cũng không biết làm gì người ta, nhưng chắc chắn phải biểu người ta buông tha ba tôi ra, còn gì nữa đâu mà neo ghe trước nhà ngó mong hoài.
Chờ đợi, rình rập hụp hửi mấy lần, chiếc ghe nhỏ với ngọn đèn đo đỏ lại về đậu trước bến nhà tôi, như mong đợi của má. Bữa đó, má nói với ba tôi chèo xuồng về chơi bên ngoại một đêm. Gà gáy chập đầu, bà trở lại, trên xuồng chất đầy mấy thứ rau đồng, bà giả đò làm người đi chợ sớm.
Ngang qua, má tôi tấp xuồng lại kế bên chiếc ghe, than :
- Tính đi chợ cho sớm mà gió quá, chèo không lên, bậy thiệt.
Má tôi tin rằng, người đàn bà kia, cũng như ba tôi, những đêm như vầy không bao giờ ngủ. Mà thật, dì đang chong đèn ngồi thêu áo gối, nghe tiếng má tôi, dì quay lại, dường như sững sờ, bất ngờ một chút, dì cười :
- Dà, đêm nay nhiều gió thiệt – Dì vẹt mớ quần áo ngổn ngang trên cái sạp tre – Chị vô mui ngồi cho ấm, chờ bớt gió rồi đi, ngồi ngoài đó cảm sương chết.
Má tôi không từ chối, bà buộc dây xuồng lại, bước qua ghe. Bà cao người nên ngồi trong cái mui lợp bằng lá chầm đóp phải khom một chút. Họ ngồi đâu mặt với nhau. Má tôi thấy lòng mình bình lặng lạ lùng, hồi ngồi dựng cái cảnh gặp mặt nầy, cứ tưởng là phải làm một cái gì ghê gớm lắm.Có thể vì người đàn bà của ba tôi hiện lên rất hiền, dì mặc chiếc áo cộc tay màu cau khô ở trong, khoác thêm chiếc áo bà ba ở ngoài, mỏng te, nhiều mụn vá. Tóc đã bạc nhiều, lơ thơ vài cọng rủ xuống mặt. Sương gió đã làm cho khuôn mặt dì đen sạm, nhăn nheo. Má tôi nghĩ thầm trong bụng, “xấu hơn mình nhiều”. Má tôi sợ cứ nhìn chằm chằm người ta hoài cũng không phải nên má ngó lơ chỗ khác. Đồ vật trên ghe món nào cũng nhỏ nhắn, tuềnh toàng. Ngay sau lưng chỗ má tôi ngồi, bỏ khoang tát nước có một cây ớt hiểm, một cây sống đời đang trổ bông trồng chung trên miệng cái khạp bể. Dì lúi húi dẹp miếng vải đang thêu dỡ, vói lấy bình thủy, châm nước vô cái bình trà sứt vòi, ho khúc khắc. Má tôi chép miệng, “Cha, có trà uống thì còn gì bằng, mà, chị bịnh hả, mấy lá sống đời nầy ngậm với muối cũng đỡ ho lắm”. Dì ngước lên cười, “Dà, lúc nầy trở gió, cũng nhờ nó…”. Má tôi hỏi :
- Chị đi ghe một mình à, một mình cũng được sao ?
- Dà, cũng được, chị.
- Ủa, chồng chị đâu ?
- Dà, dì bối rối, ảnh… đi xa lắm.
- Còn chồng tôi thì theo vợ bé mất rồi, má tôi nói luôn.
Dì nhìn sững má, dường như để xem xem nỗi đau mất chồng của má với dì có giống nhau. Hồi lâu, dì chợt cúi mặt :
- Uống trà, chị, hoàn cảnh của chị cũng buồn thiệt. Nhưng thể nào rồi ảnh cũng quay về. Thiệt đó, chị, đa số đàn ông đều tốt.
Tốt sao ? Người ta bỏ cô để cưới tôi mà là tốt à, má tôi ngồi lặng, tự hỏi, mà không biết nói gì nữa, cái câu quan trọng nhất chắc không phải nói lúc nầy. Má tôi ngồi ngó quanh, một ánh đèn nhỏ nhoi thôi cũng đủ hắt sáng vài xâu cốm gạo treo trên vách, mấy hủ kẹo, bánh ngọt, tiêu tỏi để bên này, trái cây như khóm, bí rợ, khoai lang thì chất thành hàng bên kia. Sát bên hông dì, dưới tấm vải trắng thêu dỡ là hai xấp quần áo cũ, người lớn có, trẻ con có được xếp ngay ngắn, nhưng hết thảy đều củ kỷ, bạc màu. Má tôi vọt miệng :
- Ủa, chị có cháu nhỏ à ?
Sau nầy, má tôi nói, đó là cái câu tàn độc nhất mà má lỡ miệng đánh ngay vào nỗi đau của dì. Dì nhìn trân trân vào ngọn đèn, cái nhìn đau lặng. “Con bé Phước nhà tôi vô phước lắm chị à, tại tôi không cẩn thận nên cháu vừa mới biết bò đã té sông, trôi mất. Cũng mười mấy năm rồi, bây giờ, nó còn sống, chắc tôi thêu gối cưới cho nó cũng vừa. Tôi… tôi chiêm bao thấy cháu nó hoài, chiêm bao lãng nhách hà, tự nhiên tôi thấy con tôi biết nói, nó biểu má đừng bỏ con, trời ơi, tiếng nó thấy cưng lắm kìa, vía tôi trả lời, mẹ sẽ sống trên sông hoài, hoài hoài với con, vía tôi thấy nó cười…” Dì nói một hơi dài, giọng dì hơi nghẹn lại, “trời ơi, chị có chuyện buồn lòng mà tôi lại kể chuyện buồn lòng nữa, chắc chị phiền tôi lắm. Mớ đồ nầy tôi cất lâu rồi, sợ mốc, cứ mấy tháng là tôi đem ra giặt lại, của con bé con tôi có, của chồng tôi có. Chồng tôi… tôi chỉ còn giữ lại bao nhiêu đây thôi. Chị coi, tôi khùng hôn, không giặt thì không được mà giặt hoài, tới hơi chồng cũng bay, tôi cũng quên mất rồi…”
Dì cười quay quắt. Má tôi chút nữa đã bật khóc, bà cố nén nghẹn ngào :
- Đàn bà mình sao khổ vậy ?
Tiếng gà gáy xa xa, con nước đêm nay mau lớn quá, mới đây thôi đã ngập nửa cây sào neo ghe rồi. Lúc nầy, nước lớn không nghe bìm bịp kêu, mà, nhờ không có, chứ nghe bìm bịp kêu càng buồn nữa. Má tôi ngồi bình tâm lại, vậy thì mình nhỏ nhen gì mà dành với người ta chút nầy nữa. Năm nầy qua năm khác mình được sống chung với ảnh, ban ngày ngoài ruộng, ban đêm chung giường. Ngó mặt nhau ăn cơm, ngủ cũng đâu mặt lại ngủ… Còn người ta, nhớ thương đứt ruột cũng đành ngồi đây ngó lên, giữa đường gặp nhau chỉ nhìn vậy thôi mà không chào hỏi tiếng nào. Đau lắm chớ. Má tôi nhìn ra ngoài trời, vẫn còn khuya lắm, nhưng đã thấy mấy chiếc xuồng đi chợ sớm lướt qua, tiếng mái chèo quẫy chủm trên mặt sông ngọt, nhẹ, cứ tưởng từng lát nước xếp lên nhau như những lát đất cày. Dường như trời bớt gió nhiều rồi. Dì nghiêng đầu ra ngó trời, chừng như nuối tiếc, thảng thốt :
- Trời đất, đêm qua lẹ thiệt. Chắc tôi phải đi bây giờ.
- Sớm vậy sao ?
- Dạ, tôi thường đi… trước lúc người ta thức…
- Tại tôi nhiều chuyện làm chị thêu không xong…
- Không, người đàn bà cười, nét mặt thốt nhiên buồn bã, tôi thêu cho hết đêm, xong rồi lại tháo chỉ ra, tôi sợ, nếu không làm gì, tôi… tôi sẽ nhớ chồng con tôi rồi mắc … khóc, cầm lòng không được. Mà, đàn ông chịu cực khổ nhiều lắm rồi, lấy nước mắt trói buộc họ nữa, tội họ lắm, chị à.
Vậy rồi hai người chia nhau đi. Ghe nổ máy rồi, khói xịt tơi bời, dì còn dặn lại : “Nếu ảnh có quay về, chị đừng giận ảnh nghen. Người ta có đi đâu làm gì thì cũng thương mình chị thôi”. Má tôi không nói, quay đi và khóc.
Tháng sau, má tôi quyết định gom mớ của cải cả nhà có được ra chợ, mua cái nhà. Ba tôi ít chút ít nghề mộc nên nhận đóng tủ, bàn ghế ở nhà, má tôi chiên đậu hủ bỏ mối, chị tôi mở tiệm may, tôi vào Đại học. Mọi thứ được sắp đặt lại, mới mẻ, gọn gẽ. Má tôi bứt ba phải xa sông, nhưng chính bà cũng biết, những dòng nhớ vẫn tiếp tục chảy mãi trong hồn ông. Mà, chính má tôi cũng không quên cái hình ảnh cái rổ úp chén đan bằng nan tre đã xỉn màu, trên đó có cái dĩa, cái tô và ba cái chén, ba đôi đũa như thuở người đàn bà trên ghe còn nguyên một gia đình.
… Tới bây giờ má tôi vẫn chưa tìm được dì. Tôi hỏi má tìm làm gì, má tôi nói để cho hai người gặp lại, coi thần trí ba mầy có đỡ hơn không. Bây giờ thì ba tôi cũng nằm xuống, ông nằm ở lớp mả thứ ba trên cái liếp chôn cất ông bà. Má tôi vẫn không ngừng tìm kiếm dì, hỏi để làm gì, má tôi nói để cho dì hay và nói với dì, nếu sống mà không gần được, chừng nào chết, mời dì lên nằm trên đất vườn tôi.
Đó là nỗ lực cuối cùng má tôi làm để chấm dứt cái cảnh ba nằm bên má mà hồn vẫn hướng về những dòng sông miên man chảy.
Huệ
#75 Posted : Wednesday, February 20, 2008 11:30:54 AM(UTC)
Huệ

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 2,105
Points: 0

Đời Như Ý
Nguyễn Ngọc Tư

Không giống như người ta, hễ thích cải lương thì đặt tên con là Ngọc Huyền, Lệ Thủy, mê phim Việt Nam thì đặt tên Diễm Hương, Việt Trinh, chú Đời đặt tên cho hai đứa con gái mình là con Như, con Ý.
Ai cũng hỏi, "Làm gì có chuyện đời như ý?". Chú Đời cười, hàng ria mép xoăn tít xồm xoàm quớt lên, tự hào, sao mà không?
Nhìn vẻ mặt này không ai nghĩ chú mù, thấy sao mà tự tin, thanh thản quá chừng. Không ai biết chú khổ còn hơn... cô Lựu. Chú Đời dẫn cả nhà rời Chợ Cũ, Cầu Nhum lang thang lúc con Ý mới bồng nách. Gồng gánh như một gánh hát, chú ca cải lương, bán vé số kiến thiết. Vợ chú nửa điên nửa tỉnh, không biết có phải vui trong bụng lắm không mà suốt ngày cười ngẩn ngơ. Hai đứa con gái đứa mười, đứa tám tuổi phụ cha đem vé số tới mời từng sạp chợ. Đứa nào mặt mày cũng xấu xí, lem luốc, đen đúa, nên nghe cha tụi nó kêu con Như con Ý ai cũng cười.
Một ngày của gia đình chú Đời bắt đầu từ sáng sớm, chú buộc vô mình sợi dây điện nối giữa cây đờn với cái loa con Như đang cầm, nó ghịt dây thì chú bước tới, chùng dây thì đứng lại. Con Ý nhỏ con chạy lăng xăng đằng trước, đứng coi búp bê người ta chưng tủ kiếng. Vợ chú vừa đi vừa ca hát đằng sau, nhặt hoa phượng để lên đầu. Cũng giống như những người hát rong khác, nhà chú có cả thảy bốn người nhưng trên con đường tấp nập, trông họ nhỏ nhoi, cô độc làm sao.
Ở thành phố này có chừng đến ba bốn người hát rong, họ dìu dắt từng đôi, ở tận đằng xa, người ta nghe tiếng ca là biết gánh của ai rồi. Có đôi vợ chồng già ca mùi như Thanh Sang, Thanh Nga; có một đôi trẻ hơn, ông chồng đưa hơi như Trọng Hữu. Chú Đời ca dở, giọng hơi giòn, chói, thuộc lòng chỉ mấy bài "Chiếc áo người vợ hiền", "Con gái của mẹ"... nghe mắc chán. Nhưng chú đi đằng đầu phố, gió đàn lại cuối phố nghe tiếng được tiếng mất nhưng người ta biết ông "Đời Như Ý" sắp đi qua. Cái miệng của ông này sao mà lanh dữ vậy, luôn miệng gọi Ý con, con đừng có đi xa, con Như đi chậm một chút, ba theo muốn đứt hơi rồi, coi má con đâu. Mình ơi, mình à, mình lại gần tui nè. Rồi oang oang bảo vé độc đắc chiều nay nằm ngay đây, ngay trân chỗ này nè. Có hai ngàn một vé, ăn gói xôi chưa kịp mắc răng đã hết, mua giúp tờ vé số đặng giúp tui xóa đói giảm nghèo. Mua đi, để tui đi xin bà con cũng mắc... cho hà. Mấy ông chạy xe ôm nói chú rao làm sao mà láu cá quá, không biết mù thiệt hay mù giả mà sao cái miệng leo lẻo vậy. Chú gỡ mắt kiếng đen ra, cười với đôi mắt lạnh lẽo, sâu hút, "Mấy anh nghĩ vậy riết quen, em đui tối thiệt thòi, rên rỉ, than vãn cũng đâu hết thảm. Mà, em đang sung sướng quá chừng đây, kể lể nỗi gì".
Theo chú nói thì chú sung sướng thật. Vợ chú đẹp, vui vẻ (vì cười hoài), có đi nhậu vợ chú cũng không chù ụ như vợ người ta. Không ngã lòng trước sự hào nhoáng xa hoa, chồng người ta sao mà đẹp trai, sao mà giàu hơn chồng mình. Chỉ cần mỗi bữa sáng, chú mua cho vợ hai ngàn đồng cà phê sữa là vợ mừng rưng rưng nước mắt. Chú sung sướng vì còn có hai chị em con Như con Ý, nhỏ xíu mà giỏi, dễ dạy, đẹp đẽ. Nghĩ vậy nên chú Đời phải vui, vui vì vừa lòng với những gì mình đang có.
Những trưa nắng gia đình chú tạt vào hiên chợ Bách Hóa, nghỉ chân. Con Như lãnh tiền, chạy đi mua cơm về ăn. Họ ngồi giữa ngọn gió mát lồng lộng. Chú Đời lúc nào cũng ngồi ăn chậm rãi, nghe ngóng chung quanh như canh chừng, như bảo vệ bữa ăn thiêng liêng của nhà mình. Chú nghe tiếng đũa khua tinh tang, cuống quít lên miệng chén là biết đứa nào đói đứa nào không. Rồi cằn nhằn vợ, "Mình ăn chậm thôi, nghẹn bây giờ, đó, nghe ặc ặc rồi đó. Con Như lấy nước mà uống. Coi gỡ xương cho em Ý với, con". Bữa nào ăn cơm xong, chú cũng ngồi chải đầu cho ba mẹ con họ, ai đi ngang khen chơi, cha, bữa nay hai đứa nhỏ đẹp gái dữ, chú sướng quá cười hích hác. "Nó giống mẹ. Giống vợ em mới đẹp, giống em xấu hì. Mà, ngộ quá, con của mình, xấu mấy cũng thấy đẹp thấy thương".

Quẩn quanh mấy chợ, mấy khu phố quen hoài bán không chạy như trước, chú Đời phải ráng đi tới tối mịt mới về. Giọng chú ngày càng khàn, nghe khen khét như nồi cơm quá lửa. Đi qua mấy quán nhậu, có người kêu vô, đưa ly rượu, chú trịnh trọng nâng ngang mày đa tạ, chỉ hít tới hít lui khen "Rượu ngon. Mùi đã thiệt" nhưng không uống, chú bảo lúc này giọng dở quá, hình như nghe không khỏe trong mình.
Nên có lúc giọng ca của chú lật bật như hai hàm răng đánh vào nhau, chú biểu con Như đi mua Anagin về cho chú uống. Mấy cô tiểu thương trong chợ cằn nhằn, thằng cha mầy lúc này ca gì như là sốt rét, "Chiếc áo người vợ hiền" hay vậy mà ca lụm cụm như "chiếc áo bà già". Một bữa đi ngang qua trạm y tế phường, con Như dụ, nó nói trong trạm có khám bệnh miễn phí, nên nó dẫn chú vào. Lát sau, lúc từ phòng siêu âm bước ra, chú Đời giận quá, mặt xanh, tay chân run rẩy, "Ba đã nói có bịnh hoạn gì, làm tốn hết mười lăm ngàn đồng bạc".
Chú Đời mau giận mà cũng mau quên. Bữa sau chú còn sắm đồ cho hai chị em con Như. Diện quần áo mới, tắm rửa kỳ cọ sạch sẽ, ai cũng bật ngửa, "vậy ra ông này mù mà tinh, ổng đâu có xạo, mấy đứa cũng ngộ gái quá chớ". Dì Liễu cũng khen.
Dì Liễu bán xoong chảo ở trong chợ Bách Hóa, không có con nên thích con nít, hay rờ rờ đầu chị em Như, Ý, nói với mấy bà bạn, "tui khoái chị em con nhỏ này, nghèo vậy mà đàng hoàng, không đá cá lăn dưa". Con Như nghe thích lắm, về nói với ba, chú Đời hỏi, dì Liễu thích con hay thích con Ý. Như bảo thích bằng chang nhau. Cho con cục kẹo thì cũng cho con Ý một cục. Chú Đời thở dài, "Ba già rồi, hát ca hết ra hơi rồi, chắc là nuôi mấy má con con không nổi, hay là ba cho bả một đứa, nghen".
Dì Liễu tính đâu chú nói chơi, con người quý con như mạng mình, nói cho là cho sao. Ai dè chú làm thiệt. Dì Liễu mừng lắm, những bữa chợ vắng có một đứa hủ hỉ, trông đồ cho mình ngủ cũng vui. Dì chọn con Ý vì khuôn mặt nó đẹp, sáng sủa chứ không buồn bã như con Như. Dì còn đi coi thầy, chọn ngày tốt để rước con Ý về.
Hôm con Ý về với dì Liễu là rằm tháng Hai, chú Đời biểu con Ý mặc đồ mới, kéo nó ngồi vô lòng mình, chú chải tóc cho nó, chú chải lâu vì nó cứ tức tưởi liên hồi. Chú hỏi bữa nay con mặc áo màu gì, nó bảo màu xanh. Chú dặn lòng, mình sẽ nhớ hoài, lúc xa chú, con Ý mặc đồ xanh, mặc dù chú không biết màu xanh ra sao. Chú kêu vợ lại, biểu, "Mình hôn nó một cái đi, mai mốt nó không ở với nhà mình nữa. Mình đẻ ra nó mà tui không nuôi, mình đừng có giận". Vợ chú đâu có giận. Chỉ có con Như giận, nó nức nở, "con thương con Ý nhất nhà mà, ba". Chú không thương à? Thương, nhưng chú chắc dạ lắm, bước đi là đi một nước. Vợ chú rên ti tỉ, ngoái lại nhìn phía chợ hoài. Con Như vẫn khóc. Chú hỏi nó, "Con Ý có nhìn theo không, con". "Có, ba à, tội nghiệp nó quá". Dường như con đường có nhiều ổ gà sao nghe chông chênh quá. Chú Đời cắn môi bước tới.
Nhưng đến chạng vạng, lúc quay về nhà trọ đã thấy con Ý ngồi lù ở cửa. Từ đó không cách gì bứt nó ra được. Chú năn nỉ nó quay lại với dì Liễu, nó không nghe. Chú lấy gậy đánh, nó cắn răng chịu. Chú đưa vợ với con Như trốn khỏi thị xã nó cũng biết cách lần theo. Bảy tuổi, con Ý cũng đã bảy năm lưu lạc giang hồ chớ giỡn. Cuối cùng, một đêm, chú bắt nó ngồi trước mặt mình, ôm lấy đôi vai xương xẩu của nó, chú nói cho con Ý nghe một câu chuyện đau lòng, chú nói nó không phải là con ruột của chú, chú lượm nó ở ngoài đống rác bệnh viện. Chú nuôi nó tới chừng này là để kiếm người bán lại. Dì Liễu cũng trả cho chú hai triệu chớ đâu có ít. Con Ý nhìn tệp tiền chú rút ra từ túi áo, mặt nó lạnh băng. Sáng sau, chú Đời đưa con Ý trở lại với dì Liễu. Lúc quay đi chú hỏi con Như, "Nó có nhìn theo không, con". Con Như nói không. Chú ừ, nấc khan một tiếng rồi cất tiếng ca, "Nuôi con khôn lớn không mong gì con nuôi lại mẹ...", sao mà nghe nghẹn ngào như đang khóc.
Con Như sợ rồi sẽ tới phiên mình. Nó cuống quýt sống, cuống quýt yêu thương chú Đời. Nó ăn ít, lấy đồ cũ ra mặc như thể chứng minh rằng nuôi nó cũng không tốn kém gì mấy. Chú Đời hiểu lòng nó, hay hôn lên mái đầu khét nắng của nó, lặng lẽ thở dài. Lấy số tiền dì Liễu cho, chú Đời đưa vợ vào bệnh viện. Bác sĩ nói vợ chú bệnh đã quá lâu, không có hy vọng chữa lành, nhưng cứ ở lại điều trị một thời gian xem sao. Chú Đời ôm vợ vào lòng, ngồi ngay chỗ băng đá đằng trước, chú nắn đôi tay, rờ rẫm mãi lên mặt vợ, biểu: "Mình ở đây nghen, ráng mau hết bệnh về nấu cơm cho tôi ăn, nói chuyện với tôi chơi. Hồi cưới mình tới giờ, chưa khi nào mình nói câu nào tử tế với tôi, tôi cũng buồn lắm". Vợ chú cười.

Cả gia đình lang thang đó giờ chỉ còn hai người. Đêm khuya trở giấc, chú Đời kéo mền đắp cho con Như, vô tình đôi tay chú quệt trúng hai hàng nước mắt. Chú biết nó thức, chú hỏi "Sao vậy, con đau bụng hả?". Nó tức tưởi, "Bây giờ chỉ còn có mình con, ba đừng bắt con đi đâu hết, để con dẫn đường cho ba, mua thuốc cho ba uống, phụ bán vé số, nghen ba". Chú ừ, bỏ con đi đâu bây giờ.
Chú thường vòng qua chợ Bách Hóa, chú không hát, không dừng lại bán, chỉ kêu con Như tỏ mắt nhìn con Ý coi bữa nay nó mặc áo màu gì, mập ốm ra làm sao, tóc dài bao nhiêu rồi. Đứa con gái lớn buồn bã bảo, "em con mập lắm, trắng hơn hồi nó còn ở nhà mình. Nó cắt tóc tém, coi giống con trai lắm, nó nhìn thấy con mà giả đò như không thấy vậy, ba". Không mặc đồ xanh ba mua à? Không, lâu rồi nó không mặc nữa. Chú nghe vừa mừng vừa đau. Vậy là nó quên chú rồi, nó yên lòng bên người mẹ mới. Vậy là từ nay chú đã xa mãi đứa con này. Lụi hụi hết mùa nắng, giọng chú tắt khèn khẹt trong cổ họng, thậm chí không thể cất lời rao. Chú đờn cho con Như ca, tiếng ca ngọng ngịu và non nớt lắm, vô vọng cổ luôn bị đứt giữa chừng. Tội nghiệp, con nhỏ không có tài, ngáy còn lạc giọng mà ca nỗi gì. Những lúc ngồi bên con, nghe nó ăn giá sống cho họng bớt khan, chú Đời muốn khóc, thấy mình bất lực trước bệnh tật. Chú bảo, "Thôi, bỏ nghề, con".
Đã thấu gần hết cái khổ của kẻ hát rong, đã mỏi đôi chân ròng rã, chú Đời bán cây đờn, cái loa với bộ bình ắc quy. Chú xin cho con Như đi chạy bàn, rửa chén ở quán hủ tiếu Nam Vang. Mới đầu nó không chịu, nó nói ba ở nhà một mình không được. Hồi đó ba buồn còn đờn lửng tửng chơi, bây giờ đờn cũng không còn. Nhưng rồi đến bữa cơm, nó đổi ý, nó không thể để chú Đời quẹt kho quẹt vầy hoài. Một bữa trưa, nó bưng tô nước thịt có nhúng nắm rau chạy về, chú Đời rầy nó làm vậy chi, ông bà chủ chắc không thích, nó cười, chú thím Sảnh biểu con đem về cho ba đó. Người ta thương con lắm. Chú Đời bảo, cuộc đời này, thiệt nhiều người tốt.
Một bữa trưa, chú Đời bắt nó ngồi lâu với chú thêm một chút nữa. Chú lấy lược ra chải đầu cho nó, tóc nó đã dài chấm thắt lưng. Chú nói, không biết chừng nó mười tám hai mươi tuổi tóc dài cỡ nào hen. Con Như cười, chừng đó cho ba chải đầu, thắt bím cho con mệt luôn. Chú Đời bảo, từ đây tới đó còn lâu. Rồi chú than, sao mà chú nhớ vợ với con Ý quá chừng. Con Như bần thần, "Hồi đó, nhà mình vui biết bao nhiêu hén, ba".
Ừ, vui. Trưa vầy, nếu không ở bên hông chợ thì cả nhà chú cũng tụm lại bên một gốc cây nào đó có bóng mát, nghỉ chân, ăn cơm. Hai đứa con nhỏ của chú bữa nào cũng không chịu ngủ lấy sức mà mải mê búng thun. Mở miệng ra rầy, con Ý nịnh, "để con nhổ tóc bạc cho ba". Nó nói đầu ba bạc nhiều lắm, rồi đặt sợi tóc lên bàn tay chú, trời ơi, sợi tóc mỏng tanh, nhẹ te vầy mà nó cũng thấy, con mắt nó sáng ghê. Rồi chú nhớ tới người vợ hay tựa đầu vào vai chú ngủ khì, trong trẻo, vô tư như trẻ con. Tự dưng chú Đời thèm được sống lại những buổi trưa ấy, những buổi trưa đã xa rồi, đã xa mất rồi. Chú biểu, "Mai con chạy ra chợ Bách Hóa, hỏi dì Liễu cho con Ý về, ba gặp một chút, sao... ba nhớ nó quá hà". Nhưng con Ý đâu còn ở chỗ dì Liễu nữa, dì nói nó đi rồi. Con Như tưởng dì giấu, cứ theo năn nỉ hoài, "tội nghiệp ba con mà, dì, cho nó về một chút thôi rồi mai mốt con không lại xin dì nữa". Dì Liễu vốn là người nhân hậu, dì chỉ biết nắm tay nó mà khóc ròng.
Là thật. Con Ý đã bỏ nhà đi bụi đời là thật. Nó đi vì lâu rồi mà không được nhìn thấy người cha tội nghiệp ấy dắt chị nó lặng lẽ qua chợ. Nghĩa là ba nó đã không còn thương nhớ nữa. Vậy thì ở lại làm gì? Con Như quay về, nó phải dừng lại rất lâu, nó không biết phải nói thế nào cho chú Đời đừng đau xót. Nó ngập ngừng đứng chỗ cái hàng ba đầy rêu ướt, chợt nó nghe tiếng hát, trời ơi, là tiếng hát của má nó. "Ầu ơ. Đường dài ngựa chạy biệt tăm. Ơ... Phải duyên chồng vợ ngàn năm cũng chờ". Con Như mừng rỡ xô cửa bước vào, má nó đưa tay lên miệng ra hiệu im lặng, rồi thì thào:
- Đừng la lớn. Mệt rồi. Ngủ đi.
Con Như chạy lại ôm má nó, nó nghĩ chắc chú Đời giả bộ đây, trông con Ý thấy mồ mà không chịu dậy. Nó chọc lét vô mấy cái xương sườn của chú, nhưng chọc mãi, chọc mãi, chú không bao giờ thức nữa.

Làm gì có chuyện đời như ý?

Huệ
#76 Posted : Friday, February 29, 2008 2:22:41 PM(UTC)
Huệ

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 2,105
Points: 0

Một chuyện hẹn hò…

Nguyễn Ngọc Tư

Mưa rồi. Không phải là thứ mưa nhão, ướt, đẫm nước, dịu dàng mà Cóc từng quen thuộc, có cảm giác mưa hơi rát, trơ như một tiếng cười khan. Gió cũng lạ lẫm, chúng rào rào đuổi nhau trên cao, trên ngọn cây, mái nhà. Gần mặt đất là một khoảng không lặng phắt, cả cái lá bìm bìm đeo trên vách chòi cũng không thèm ve vẫy. Cóc hơi lo lắng, sáng này nghe người ta bơi xuồng rôm rả đua nhau đi mua mì gói, họ nói bão tới rồi. Có thùng mì dằn trong tủ, người Thổ Sầu chẳng cần chằng chống, ràng rịt nhà cửa, cũng bình thản qua bão cấp Mười. Nghĩ tới đó, Cóc mắc cười.

Cóc ra cửa, ngó nghiêng. Mưa tạt ướt mặt. Đầm Sầu lặng ngắt. Trong màn mưa đục ngầu ngầu, những cái chòi lá nằm rải rác, thưa thớt, đờ đẫn. Bình thường, Đầm Sầu đã vắng người, vì đã qua mùa tôm cá, bây giờ lại thêm tin bão, đầm nước hoàn toàn hoang vu. Cóc thấy bão đã đến, thật gần.

Nhưng đôi người vẫn nằm kia, tỉnh bơ, lơ ngơ ngủ. Họ ra đây lúc xế chiều, khi trời vẫn còn một chùm nắng héo. Như thể họ tình cờ đi ngang qua căn chòi hoang này, tình cờ thấy người quen, và ghé lại. Người đàn ông chạy xuồng máy đến trước, phất áo quét sơ những bụi bặm, chửi cha mấy cái mạng nhện mắc trên tóc, sau đó nằm dài, nhịp chân, ca lửng tửng. Một hồi thì người phụ nữ tới, những nhát dầm của chị rất dè dặt, chần chừ. Và ngập ngừng, chị vẫn ngồi dưới xuồng, ngó xuống ngón chân:

- Ra đây để nói với anh, em… không thể… Có bão…

Anh cười, không nói gì, cầm tay chị, mơn man.

- Ừ, thì bão…
- Em sợ anh chờ nên mới ra nói anh hay. Có bão thiệt mà, anh.

Chị hụt hơi, bởi bàn tay nhỏ nhắn nhiều vết chai của mình vẫn bị nắm lấy, nâng niu. Từ đấy, không rời. Cóc ngó chị, nghĩ ngay, chị ta đã thua rồi, thua ngay từ ở trong bờ lá xa thẳm kia, khi quyết định hướng mũi xuồng ra đầm. Chắc mẻm, chị sẽ bước lên chòi. Cóc đếm một… hai… hai rưỡi… và cười, thấy chưa, thua rõ ràng.

Cóc cũng đã từng hẹn hò, nên Cóc biết. Nó bao gồm một chuỗi thua cuộc liên tục, mới đầu là sự choáng váng khi gặp gỡ, ra về, cảm giác thất bại sẽ đau nghiến lòng người ta, mắc mớ gì mình lại xao động dữ vậy cà, mình đâu có được xao động, mình đã không còn quyền xao động. Những lần gặp sau, thương nhớ sẽ thít chặt hơn. Đến một bữa, đàn ông bỏ nhỏ, “anh nhớ em quá, mình gặp riêng chỗ nào nghen”, ngay lập tức, người ta lắc đầu. Đàn ông vẫn cười, anh chờ em ở chỗ đó, chỗ đó, em không tới, chắc anh chết… Người ta thảng thốt, thôi, đừng chờ. Nhưng chính người ta lại chờ, đau đáu nghĩ về cuộc hẹn, lòng bảo không đi, không thể đi. Nhưng người ta bước xuống xuồng, bơi đến chỗ đó chỗ đó, nhưng đi một quãng khập khừng, lại muốn quay về, cắn môi nghĩ, thôi ra nói một câu để mắc công người ta kia chờ. Và sập bẫy. Trên đường về, cảm giác thua cuộc ấy rõ ràng hơn, người ta đay nghiến mình, tại sao mình lại đi, đã nói không gặp sao lại gặp? Đi, rồi sao nữa, ngày mai, tương lai?

Cóc đã từng hẹn hò, nên Cóc biết. Nặng nề. Thương tổn. Ngồi trong cái hốc nhà tối, nhìn ra, Cóc thấy ngậm ngùi, cho chị. Cóc biết chị, biết cả chồng chị, một người hay say, hay đứng phắt dậy giữa lúc nhậu, hỏi mấy thằng bạn, ê, đi với tao không ? Đám kia hí hửng hỏi đi đâu, anh ta cười phô hàm răng xếu xáo ra, “Đi đái!” rồi cười hơ hơ hơ, vô duyên dễ sợ. Chị thì ngồi đâu đó, chơi với thằng con mà dỏng lổ tai lên nghe xem chồng có gọi gì không, nướng con cá khô, hay gọt thêm mấy trái cóc, trái ổi. Chị héo hắt, lam lũ, lúc nào cũng khô quắt, cả lúc chồng không đánh, chị cũng gồng lên như gánh một gánh vô hình. Cóc không biết là chị cũng dịu dàng, sạch sẽ và đầy sức sống như bây giờ, như đang ngồi kia, bối rối gật đầu, lắc đầu, buộc phải nói thì chỉ hai tiếng: “Dạ” và “Thôi”, mặc cho người yêu nói tuôn tuôn, những nhớ thương liên tu bất tận. Rồi miệng không nói bằng âm thanh nhưng lời vẫn ngọt ngào. Sau đó, thì ánh nhìn cũng nói, vòng tay cũng nói…

Cóc không thể kể tiếp, bởi vì nó phải lấy tay che mắt. Không thể kể, bởi kể ra người ta sẽ phát hiện ra nó đang dòm lén qua kẻ tay, sẽ phát hiện ra Cóc cũng là giống như những kẻ tầm thường, miệng nói đạo đức, chê mấy chuyện trai gái là hạ tiện, tục tĩu nhưng với bạn tình vẫn háo hức. Cóc đổ thừa tại bàn tay không khép lại được, nhưng nhờ nhìn lén, nó phát hiện ra chuyện không may. Xuồng trôi. Cả hai chiếc đều tuột dây, bởi những bàn tay buộc chúng đều bồn chồn. Cứ như xuồng cũng thực hiện cuộc hẹn hò khác, chúng đủng đỉnh rời nhau, trôi hấp háy xa xa, như chẳng hề quen biết. Cóc hoảng hồn, nhảy chồm lên, kêu “Xuồng trôi kìa! Xuồng trôi mất tiêu kìa!”. Chỉ nghe chị yếu ớt nói, “Đừng anh… Có con cóc…”. Cóc thở dài, bây giờ có con voi ở đây thì cũng vậy thôi. Nên xuồng cứ trôi, chậm rãi, nhơ nhởn, đến khi không còn nhìn thấy trong tầm mắt nữa.

Lúc người phụ nữ giật mình thức dậy, thảng thốt quờ kiếm tấm áo thì hai chiếc xuồng đã gặp nhau ở một bờ lá nào. Cũng có thể chúng bị gió xô dạt về hai hướng khác. Như lúc này, mưa cũng bị gió giật, xé bừa ra, tơi tả, tạt ướt cả bắp chân chị, dẫn cái lạnh chạy buốt sống lưng. Chị hoảng hồn, kêu lên từng tiếng rời:

- Trời ơi! Anh! Ai lấy xuồng mình rồi. Mất hết rồi.

Cóc mắc cười, mưa bão như vầy ai mà mò ra giữa đầm lấy xuồng. Nó trôi rồi, bà chị ơi. Tui kêu rã họng, mấy người không nghe, ráng chịu. Người đàn ông mệt phờ ngồi dậy, thò đầu ra mưa, ngó quanh quất, giọng mệt phờ, ờ ha, mất tiêu. Trôi mất tiêu rồi. Giọng chị bỗng nghẹn lại, em làm sao về nhà được đây? Anh cười cười, chụp lấy tay chị, về làm gì, ở lại với anh. Mắt chị lạc đi, em làm sao về nhà được, bão tới sát bên rồi. Anh cũng là bão vậy, thêm cơn bão nữa nghen, anh vẫn mơn trớn. Cóc hơi bực, hãy nhìn chị ta đi, chị đang lo lắng sắp té xỉu rồi kìa. Chốc nữa cơn bão tới, căn chòi này chắc chắn bay mất, may lắm thì còn trơ lại cái sàn đóng bằng vạc cau. Sau đó thì sao? Nếu sống qua bão, thì cũng bị lạnh teo, đói meo, bởi ở đây hoàn toàn không mì gói. Cóc cũng đang đói, bầy muỗi dự cảm được bão, chúng nấp sâu vào bẹ những đám lá quanh đầm. Anh đã nhận ra sự bất an của chị qua bàn tay mướt mồ hôi, anh cười, sau bão thì người ta sẽ thấy mình ở đây, họ sẽ ra rước mình, em lo gì. Câu nói đó đã dìm chị sâu hơn vào vô vọng, chị rớt nước mắt.

- Người ta sẽ thấy hai đứa mình …

Chị thảng thốt. Những ý nghĩ bỗng bời bời, xấp xãi chạy trên gương mặt tròn, tái ngắt. Cóc thấy chị ngó nó, mà không ngó nó. Trống rỗng, tuyệt vọng.

- Bà con sẽ nghĩ nầy nghĩ nọ…
- Thôi mà, em. Mình sẽ nói là dọc đường bị bão, tình cờ gặp.
- Người ta đồn rùm lên…
- Thôi đi, em.
- Em biết nói sao với con em bây giờ ? Chị kêu lên, rúm lại, hức một tiếng, như ý nghĩ kia đã xuyên thẳng qua người. Anh nằm ngoẻo xuống, nửa như thật sự rã rời, nửa lại giống đang giễu cho vui. Nhưng chị không cười, chị vạch vách lá nhìn ra, như chiếc xuồng đang trốn ở đó, trêu cợt chị. Không có gì cả. Cóc ngó theo, nó cũng mong có một phép thần kỳ. Chị day vào, bắt gặp anh đang nhìn mình, giận dỗi, xa lạ. Cảm thấy mình hơi vô lý, chị cười, như ai đơm sẵn nụ cười, và chị gắn hờ lên miệng. Trời ơi, Cóc kêu lên, không vui mắc gì phải cười để chiều chuộng lòng nhau?

- Tại em sợ… Hồi xưa, em có nhỏ bạn. Đời nó buồn lắm, mẹ nó bị tù…

Anh cười khào, ứ hự, bất chấp mạng sống lặn lội hẹn hò trong mưa gió gầm gào, anh không chờ đợi để nghe câu chuyện lãng xẹt, chẳng dính gì tới chuyện tình mình. Nhưng chị vẫn kể, giọng thản nhiên, như thể câu chuyện đã làm chị bình tâm lại, như chuyện đó thì phải thì phải nói bằng ngữ điệu dửng dưng đó, bởi có phải chuyện của chị đâu, có phải nỗi đau của chị đâu.

- Mẹ nó làm giám đốc, nhưng thích cải lương, thích nghệ sỹ, xài nhiều tiền của công ty vô mấy chuyện hát hò. Có bữa, nghe Minh về hát bên Thổ Cường, bà chạy xe hơi gần hai trăm cây số để đem cho ông Minh mắc dịch đó ơ cá dứa kho tộ. Nhà báo người ta viết về vụ đó quá trời.

Anh lại mơn man cổ chân chị, bây giờ nó đã lạnh, cứng đờ như nước đá. Việc của anh là làm cho da thịt chị ấm lại, mềm ra, anh không đếm xỉa gì câu chuyện xa xôi đó, chỉ mỗi Cóc lắng nghe bi kịch của cuộc đời, bi kịch của đứa con bỏ nhà đi, vì xấu hổ, buồn tủi, không phải vì người mẹ ở tù mà vì ơ cá kho, không phải là ơ cá kho bình thường trên mỗi mâm cơm người ta hay mút mút, quẹt quẹt, mà ý nghĩ, ngoài ơ cái kho, phải còn cái gì nữa. Cái-gì đó thì ai cũng biết là cái-gì.

Cóc bỗng liên tưởng tới đứa con chị đang trốn bão trong căn nhà chỉ có mì gói, không dây chì, không bao cát. Nó sẽ qua khỏi cơn bão này, dù mái nhà có bay vèo, có đổ sập. Có gì đâu, bão lần nào cũng tan hoang, nhưng rồi sau bão, cả nhà nó sẽ bò ra từ gầm bộ ván ngựa, thu dọn, sắp xếp, cất lại cái nhà khác, nhỏ hơn, te tua, tuềnh toàng hơn. Đứa con sẽ đi qua cơn bão này gọn ơ vì mì gói đang có sẵn. Nhưng có một cơn bão khác mà cả đời nó cũng không đi khỏi, nó sẽ nhớ hoài chuyện mẹ nó cùng một người đàn ông xa lạ ở trong căn chòi giữa Đầm Sầu, khi ai nấy đều về nhà, về chỉ để nhìn nhau chứ không ngăn được cây đổ, nhà sập. Nhưng hai người đó không về, họ ở ngoài đầm, để làm gì thì không nói ra cũng biết làm gì.

Cóc muốn khóc, tội cho cái cảnh tận cùng tuyệt vọng của chị. Và tận cùng cô đơn, dù người đàn ông kia có (lại) siết chị vào lòng. Cóc mà là anh ta, Cóc chỉ ngồi im lặng, nghe câu chuyện của người bạn nào đó, nghe cái giọng dửng dưng, nhưng che tiếng tim người đang nhói. Đàn ông, trong máu có pha chất vô tâm, mà thằng cha này vô tâm hết chỗ nói, tới mức bi kịch “ơ cá kho” là của chị (ví dụ vậy, nghi nghi vậy) thì thằng chả cũng không biết cách nào để an ủi một tấm lòng đau.

Ngay cả tình yêu trong chị vừa giãy chết, anh ta cũng không biết, nên tay cứ miết mãi trên da chị, giờ đã lạnh như đồng. Mắt chị đã tắt ánh nhìn lấp lánh, cồn lên một chút thất vọng, một chút não nề. Đúng cái kiểu của Cóc khi người yêu bỏ về trước sau cuộc hẹn hò mây mưa. Lúc Cóc vẫn còn say ngủ. Cóc thức dậy, bạn tình đã nhảy xuống xuồng theo người ta vào trong xóm. Cóc chua chát, trời sanh nó có bộ da nhạy cảm, cái phổi nhạy cảm. Nó không trở về đất nữa. Căn chòi có bậc thang cũ, đuôi lá lệt phệt, che kín, con nước lên xuống đủ độ ẩm ướt, Cóc lấy làm nhà. Nó dần quên đời đau.

Để bữa nay chị lại là Cóc của một bữa xưa nào. Có thể thấy chị đang khóc lặng. Cóc ngó theo ánh nhìn của chị đang mông lung ngoài trời, cả Đầm Sầu là một khoảng mưa mờ và tối. Xa xa, đằng sau bờ lá, nhà chị ở đó, chữ nhà không bao gồm người chồng cười hơ hơ hơ, nhà-chị là đứa con đang ôm mền gối chui xuống dưới bộ ván mọt ăn lổ chỗ như cái rổ, nằm chèo queo. Nhà-chị đang hỏi, không biết làm sao mà mẹ chưa về, rốt cuộc mẹ đi đâu ? Nhà-chị không hề nghĩ, nếu biết mẹ đi đâu, làm gì nó sẽ bị bão quăng quật, hành hạ suốt đời.

Cóc lại gần chị hơn. Nó có thể nghe được tim chị bỗng đập rộn lên, tung phá những bức tường đang quây nhốt chị, ngạo nghễ trước cơn bão đang khoái trá lồng lên, hú hét. Cóc nghe thoáng một lời giã biệt, rất khẽ, hay là chị chẳng nói gì hết, chị nhảy ào xuống nước, nhanh như một cái nháy mắt, nhanh hơn cả khoảnh khắc Cóc đớp một con muỗi đói. Anh chồm theo, chẳng kịp ới lên, bàn tay chìa ra, chới với nhìn chị bươn bả vẹt sóng, nôn nả về phía bờ lá xa xăm. Cóc vói ngó theo, màn mưa che khuất tầm nhìn, thấy cái đầu chị rướn cao, nhấp nhô như con rùa đang bơi, đầm thì xa, rộng, sóng đang cồn lên, giận dữ. Không biết chị có đủ sức để chạm tay vào bờ đất ?

*

Những ngày sau bão, tôi thường một mình ra Đầm Sầu, tôi tự hỏi cơn gió nào đã hắt mẹ tôi khỏi xuồng, và nơi nào mẹ ngã xuống? Không đánh dấu được vào nước, tôi khắc lên be xuồng, gần lái, chỗ mẹ hay ngồi bơi.

Một lần, ghé lại căn chòi hoang, tôi thấy con cóc đang nhìn mình, như khóc. Hay vì tôi đang khóc, nên thấy vậy…
Huệ
#77 Posted : Friday, February 29, 2008 2:24:29 PM(UTC)
Huệ

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 2,105
Points: 0

Những mùa trăng ướt

Nguyễn Ngọc Tư


Sanh cùng tuổi Nhêm, xuống tóc thọ giới cùng một ngày, lúc loay hoay vận y cà sa, Sanh bất ngờ thò tay vào sờ soạng giữa hai đùi Nhêm rồi cười tí tởn, “Nhỏ xíu. Vậy tui làm anh nghen”.

Nhêm đỏ mặt, gật đầu, vì Sanh khôn ngoan, dữ dằn và già dặn hơn. Những đứa trẻ như Sanh luôn già trước tuổi. Cha hứng nước thốt nốt rơi từ ngọn cây xuống đất gãy cổ, mẹ nó đi cõng hàng lậu thuê qua biên giới, chết đuối giữa dòng nước lũ, chỉ một năm sau. Sanh tựa cửa nhìn những người thân mình bước đi vào sớm mai và cũng trong những buổi sớm mai ứa nắng trên đồng, họ về bằng chiếc cáng với hơi thở đã tắt. Sanh sống với chú. Nhà chú cũng nghèo, thím chia thức ăn cho con mình trước, tới Sanh chỉ còn miếng cơm cháy với chút nước cá kho. Sanh vào chùa để “kiếm ăn”, như lời nó nói, là chọn lựa giữa đói triền miên và đói nửa buổi.

Tui còn cha mẹ đâu mà tu báo hiếu, Sanh nói thẳng. Vào những buổi chiều đói rã rời, long đầu óc, đã có lúc Nhêm rủ Sanh lén lút ăn cái gì đó, Sanh lắc đầu, tui phải giữ giới để trả ơn buổi sáng và trưa Phật cho tui ăn no. Và Sanh để mặc Nhêm lăn lộn với cái bụng trống rỗng cồn cào, nó ngáy pho pho. Đói cũng là một thói quen của Sanh, từ tuổi lên mười.

Nhêm thì nghĩ mình không bao giờ có thể quen được những cơn đói buổi chiều tà. Khi nhà hàng bên kia đường bắt đầu có khách. Gió từ mé biển cứ đòng đưa mùi thức ăn trên đầu, làm nó nghẹt thở như thể đó là dây thòng lọng. Cái vòng rào loang lổ nước sơn và cánh cổng rơi vài mảng gạch không thể chặn lại mùi dầu cháy tỏi trong chảo. Sanh nhìn Nhêm suốt buổi tối cứ thều thào nhỏ dãi, nó giễu cợt, “Nhắm có ở chùa được tới năm sau không, ê?”.

Nhưng Nhêm đã ở chùa ba năm. Thời gian đủ để nó bình tâm, thôi quay quắt trước những ngọn gió trần tục ban chiều. Ba năm cũng đủ cho những nhà hàng, quán ăn phục vụ khách du lịch kịp quây kín, như bóp nghẹt ngôi chùa. Hành trình khất thực có chút thay đổi, Sanh và Nhêm không còn đi trên lộ nhựa, dọc bờ cát ven biển, dưới những hàng cây thốt nốt im lìm. Phum sóc đã dạt xa lên đồng, co cụm gần chân núi Cóc. Và những thức ăn mà bà con dâng thường không có những mùi thơm của những quán xá bên đường.

Nên thỉnh thoảng, khất thực xong, bọn Sanh vòng về con đường bắt đầu ướp nắng để thưởng thức sự vương vất của những món ăn xa lạ. Các cô gái với những bộ trang phục buông tuồng trễ nải tụm lại ngó hai nhà sư trẻ cười cợt, “Lục ơi, tu chi cho khổ vậy, về nhà ôm em sướng hơn nhiều…”. Nhêm cúi đầu bước đi, chân líu ríu. Sanh ung dung đằng sau, mắt lại đầy giễu cợt, “Thấy chịu không nổi thì về nhà đi, Nhêm”.

Lần về thăm nhà gần nhất, mẹ Nhêm cũng nói vậy, sau khi chắp tay vái nó ngoài sân, “sư về nhà luôn đi, ba năm rồi còn gì…”. Giọng bà mỏng, ríu dần lại khi cha nó bước ra, cha muốn nó tu đạt tới tỳ kheo, muốn nó được cả sóc kính nể và trọng vọng, điều mà cho dù có nhiều đất ruộng và trâu, cha Nhêm cũng không có được. Ông đành đặt hy vọng vào Nhêm.

- Na Thi vẫn chưa về đâu - Cha nói.

Cha biết cách để Nhêm tự nguyện ở lại chùa, học kinh kệ. Na Thi chưa về. Cô nhận lời phụ bán quần áo cho thím A Phò khi Nhêm vào chùa được hơn năm. Trưa cuối gặp nhau bên hè, đá chân vào đám cỏ mần trầu, cô bần thần vuốt mãi mớ tóc xoăn tít, Nhêm đi rồi em ở lại đây buồn lắm, ngang qua nhà Nhêm em nhớ quá. Em đi vài năm em về, lúc đó Nhêm cũng hoàn tục rồi. Ngoéo tay, ngón tay cũng run, nóng bỏng. Rồi Nhêm lại khăn gói tới chùa xa, không gặp Na Thi lần nào, về nhà thấy mẹ Na Thi buông nón chắp tay lạy đằng xa, bà nói ngay, Na Thi có về, nó hỏi thăm sư có khỏe.

Trong lúc Nhêm trông Na Thi về thì biết đâu Na Thi cũng chờ đợi nó, ý nghĩ đó làm những câu kinh Phạn cứ vuột khỏi môi, trôi tuột. Lục Cả hơi buồn. Vài đệ tử nhập thế, chùa chỉ còn Lục Cả, Nhêm và Sanh. Hai sa di cứ loay hoay với những bài tụng sơ đẳng nhất, nên Lục Cả cô đơn với những kiến thức Phật pháp sâu sắc, bao la, cô đơn với những pho kinh thư đồ sộ. Ông hầu như không kỳ vọng vào đám trẻ, một vô thần, níu Phật để trốn chạy cái đói, cái ghẻ lạnh, một ngóng mãi phía cổng chùa.

Khuôn viên chùa rộng mênh mông, người ít, mà lá cây rụng vô kể, cỏ cũng nhiều. Suốt ba tháng nhập hạ, sư trẻ dường như chỉ tụng niệm và làm cỏ. Cỏ lớn nhanh, mãnh liệt đến nỗi họ phạt cỏ đằng trước thì sau lưng đã lún phún mầm xanh. Tưởng tượng, chỉ một tháng họ không cầm dao làm lụng, cỏ sẽ vươn tận thềm chính điện, lút đầu người. Vậy nên lúc cắm đầu thổi lửa vào đống cỏ khô, Sanh nhằn, sao mà tui ghét trời mưa quá.

Nhêm cũng ghét. Giữa lễ nhập hạ cho tới xuất hạ, chỉ là những cơn mưa dài, lướt thướt. Hai đứa quẩn quanh trong chùa, cắm mặt vô những trang kinh, mắc chán. Sanh học lóm được nghề làm tranh kiếng, nên xin Lục Cả ít tiền mua vật liệu, mày mò làm. Những lúc ấy Nhêm thật sự cô đơn, Sanh bỏ quên Nhêm để cắm mặt vẽ bức chân dung cha mẹ nó. Vài lần Sanh đã ném cọ đi khi phác thảo hình ảnh cha mẹ mình ngồi thảnh thơi, an nhàn trong căn nhà gạch khang trang. Nó dằn vặt vì đấy không phải là chân dung của những người thân, không giống họ chút nào, cả căn nhà, cả nếp áo phẳng phiu, tươi rói. Rốt cuộc bức tranh thờ dang dở, vì trong ký ức Sanh đã không còn lưu giữ những khuôn mặt cũ. Điều đó làm nó tuyệt vọng. Sanh hay rủ Nhêm xách cuốc chim đi làm cỏ ở gần rào sau, từ đó nhìn lên cánh đồng dưới chân núi là những phum nhỏ nằm quẩn dưới chòm cây xanh rì, khói bếp len qua những tầng lá thành những sợi lam mỏng vờn, phai mãi vào nền trời. Thốt nốt dọc theo các con đường nhỏ ngoằn ngoèo vẽ vào cánh đồng những nét cô đơn, vết mực đậm và đầy đặn ở phía này và bắt đầu mỏng vút cuối tầm nhìn. Dưới trăng chiều, vài con trâu quay tít cái đuôi xua những con ruồi xanh lè, to bằng đầu ngón tay cứ chực xông vào. Thấy Sanh níu vào rào, Nhêm hỏi, “Nhớ nhà hả ?”. Dứt mắt khỏi sóc Tà Cóc đang im lìm dưới làn mưa mỏng, quay vào sala, giọng Sanh quạu quọ, “Có nhà đâu mà nhớ”.

Nhêm sợ Sanh, nó có thể rất hiền lành, tử tế, nhưng Nhêm nói điều gì đó nhắc nhớ tuổi thơ buồn bã, và Sanh nổi khùng lên. Nhưng làm sao Nhêm biết chuyện nào buồn, chuyện nào không ? Bởi vậy, hai đứa hay hục hặc nhau vì những chuyện không đâu, thí dụ Nhêm buồn tình lấy hơpâm gõ bài “chim sáo”, hai gáo dừa mới lộp cộp đã bị Sanh đá văng lông lốc, ai mà biết lúc người ta khiêng cha Sanh từ ngoài đồng về, ông chủ lò nấu đường vẫn dửng dưng ngồi gõ hơpâm cho hết bài, rồi mới thủng thẳng phủi đít đứng lên, “Chết rồi hả ? Thôi, tiền còn nợ tao coi như xóa bỏ”. Những chiều Sanh ngồi trước sala, lặng lẽ nhìn bồ đề rụng lá, Lục Cả thở dài, có lẽ ông thất vọng vì nhà chùa không làm lành được những khối tổn thương trong lòng Sanh, cũng như bất lực trước một xã hội tổn thương, những giá trị luân lý đục ngầu bên ngoài cánh cổng.

Ở đó cũng có đám người đang ghét cay ghét đắng mưa rơi. Khách du lịch thưa thớt. Gió biển ướt rượt thổi qua dãy nhà hàng, khách sạn vắng người, những cô gái không lượn lờ ngoài sân nữa mà co cụm trong nhà, hết giũa móng tay tới sơn móng chân, hết tỉa chân mày đến se lông mặt. Rồi sự lười nhác trễ nãi biến mất, họ tản đi khi người đàn bà cho vay tiền góp, lăn cái thân năng chịch vì mang cả ký lô son phấn trên mặt đứng trước nhà hàng tru tréo gọi Lan Huệ, Sầu, Ai ơi. Mấy chục chiếc vòng chất gần đến cổ tay kêu leng keng mỗi khi bà chuyển động.

Nhờ âm thanh đó, cùng với dáng người thấp lé đé các con nợ luôn phát hiện bà từ xa, và họ biến mất. Cô cũng tạt vào chùa vào một bữa âm thanh những chiếc vòng xủng xẻng đã quá gần. Te tái vào ngồi ở thềm sala, cô dáo dác nói, cho ngồi chút chơi nghen. Nhưng mặt cô không có vẻ là chơi, căng ra khi bóng người qua cổng. Sanh mỉa mai, có trốn nợ thì trốn chỗ khác, ở đây là chỗ tu hành. Cô độp ngay, giọng cố kìm lại nên nhỏ mà rắn đanh.

- Ủa, đây là chỗ từ bi mà, mắc gì tôi không được vô. Ừ, trốn nợ đó. Hay là Lục…cho tiền đi, trả nợ xong tôi không ghé đây nữa.

Nói rồi cô phủi đít dợm đứng lên, nhưng mớ âm thanh leng keng vẫn còn quanh quẩn ngoài kia. Cô trùng trình ngó Sanh, “chùa này đâu phải của Lục, mắc gì tôi sợ”. Cô ngồi lại, điệu bộ lỳ ra, vẻ thách thức.

Những ngày sau, cô lại tới. Cô nhận ra một chỗ nương náu an toàn, nơi mà mọi lời mắng chửi rủa sả không vọng đến, hoặc hoặc vói theo một cách yếu ớt. Chùa không hẳn là thiêng liêng với họ nhưng là sức mạnh tinh thần của tộc người. Ai cũng biết điều đó. Họ đã chứng kiến những cái sroc nghèo xơ xác, những ngôi nhà cột cặm trống trước trống sau nhưng ngôi chùa thì luôn luôn rực rỡ. Đó là lý do Nhêm ở đây, cha muốn nó là một con người rực rỡ. Đó là lý do Sanh ở đây, nó không bao giờ đói dưới sự rực rỡ này. Đó là lý do cô ở đây, cộng đồng người trong sroc kia sẵn sàng thấm máu vào áo mình để giữ cái rực rỡ tồn tại trong thế giới đức tin của họ.

Cũng không tìm được lý do khác cho việc cô gái lui tới chùa. Cô chẳng hề yêu thích ai ở đây, cái cách nói chuyện khinh khỉnh, sấn sổ, ngạo ngược của cô nói lên điều đó. Nhưng Lục Cả luôn bất an, ông luôn sai sư trẻ làm lụng mỗi khi cô nhẩn nha lại. Và ba tháng hạ của năm mười bảy tuổi, họ đã làm rất nhiều việc, lợp lại mái sala, sơn một số chi tiết trong chính điện, cuốc đất mảnh vườn sau để gieo cải, quét lá khuôn viên chùa. Cô luôn lẻo đẻo đi theo, hỏi những câu ngớ ngẩn, thí dụ, sao không đốn bỏ cây bồ đề luôn để khỏi quét lá cho mắc công? Sao bức tranh này không sơn màu xanh mà là màu vàng? Sao nền chính điện cao dữ vậy? Lục Cả nhiều lúc cũng buồn cười, ông nói, tụi tôi làm không mệt bằng nghe cô hỏi. Cô rụt cổ cười. Nhêm cảm giác, nếu bóc mảng son phấn ra, mặt cô sẽ lành và trong như em gái nó.

Chắc cô cũng bằng tuổi ấy, mười sáu, hoặc nhỏ hơn. Sanh hỏi tuổi, cô vặt vẹo, “Lục rảnh quá thì đi tụng kinh, xoi mói chuyện của tôi làm gì?”. Sanh xúi Nhêm hỏi thăm tên, quê quán cô gái này, Sanh nói “con nhỏ đó ghét sư, tại hôm trước sư đuổi…”.

Nhưng Nhêm cũng không khá hơn, hỏi, cô chỉ vào khoảng sân, châm chọc :

- Cỏ.

Người nhà chùa xem đó là tên của cô. Cỏ bằng tuổi Na Thi, mười bảy. Đương nhiên là từ nơi khác đến. Lục Cả nói, những đứa con gái làm nghề này chỉ đổi chỗ cho nhau. Con gái ở đây thì bôn ba xứ người mua vui cho thiên hạ bằng đuôi mắt cuối mày, và ngược lại. Chúng làm nên một cuộc nổi trôi buồn bã. Nhêm bỗng liên tưởng tới Na Thi mỗi khi nhìn Cỏ cố che mảng da thịt bằng cách kéo cái áo ngắn ngủn nằm vắt vẻo nửa lưng trên.

Nỗi nhớ Na Thi đã lạt đi rất nhiều, Nhêm áy náy lắm. Sau lễ xuất hạ, trời vẫn còn nhập nhòa mưa. Nhưng bọn Nhêm không bỏ bất cứ buổi khất thực nào, dù là đi dưới mưa. Không hẳn vì những thức ăn cúng dường hai sư có được sau một buổi vòng tay ôm bát, mà vì nỗi nhớ những nẻo đường, hàng cây, bờ đá… Ba tháng quẩn chân vườn chùa, bỗng dưng thấy mọi thứ đều thay đổi, lạ lẫm, và trò đùa của các cô tiếp viên rảnh rổi ngày càng tai quái hơn, có lần qua quán “Duyên Quê”, một cô môi đỏ trút vào bát họ ít thức ăn. Quay lưng đi một quãng, Cỏ lao theo giằng lấy bát, hắt xuống đất. Mớ thịt đã bị băm nát nằm vãi trên sân. Cỏ hằn học hỏi :

- Thịt rắn đó. Muốn phá giới sao?

Các cô khác đấm vào lưng nhau cười ngặt nghẽo. Sanh ngó sững cô, cái nhìn ánh lên chút dịu dàng, hàm ơn. Về tới cổng chùa rồi Nhêm vẫn còn ngơ ngác. Nó sợ. Những người không có đức tin sẵn sàng báng bổ đức tin. Nhưng Sanh vẫn thích đi trên con đường đang còng lưng gánh những quán bia, nhà hàng, nên ngày nào nó cũng kéo Nhêm vòng lại. Ngày nào cũng thấy Cỏ ngồi chán chường ở quầy bar trong quán, nét mặt, khóe môi, bàn tay… tất cả chi tiết trên người cô buông lơi, trễ nãi, cảm giác mọi thứ đang rời nhau và trôi đi. Cả nụ cười mỉm khi nhìn thấy người nhà chùa cũng là nụ cười đang trôi vô định. Nhưng hành trình đột ngột thay đổi, Sanh không đi qua đó thêm một lần nào, vì một buổi trưa ngang qua cuộc tiễn đưa, thấy Cỏ đang chèo kéo quấn vào đám đàn ông sắp lên xe, trong cái khói nắng mùa hạ. Mắt còn đậu lại trong khi chân vẫn liên tục bước, sư trẻ thấy Cỏ ngó theo, thoáng chênh chao.

Cô không ghé chùa nữa, vì mùa khô bắt đầu quay lại, khách lác đác đến tắm biển, uống bia. Buổi chiều, sư trẻ đi nhổ những dây mướp đã chết khô trên bờ rào, dáo dác ngó về phía cổng, ai bước vào hai đứa cũng thất vọng thở hắt ra.

Ngày cuối cùng của mùa hạ, người trong sroc mượn sân chùa làm lễ cúng trăng. Cỏ ghé chơi lúc sắp khuya rồi. Khỏi nói Nhêm mừng như thế nào, đến nỗi, nó tự hỏi, gặp Na Thi, nó có mừng được bằng cỡ đó không. Sanh không tỏ thái độ gì, dửng dưng ngậm ngọn cỏ vung vinh trên môi, “ủa, tối nay không ở nhà chơi với tụi nhà giàu?”, Cỏ cười, “mắc mớ gì tới Lục?” rồi lảng đi, lại gần Nhêm, coi người ta bắt mấy đứa nhỏ ăn cốm dẹp, theo thông tục. Hồi nhỏ, Nhêm cũng được đút cốm dẹp, khi người ta vuốt lưng, hỏi, năm nay muốn gì, nó gần như òa khóc, “mắc tiểu quá, con muốn đi tiểu”. Năm đó nắng dai, lúa bị khô háp trên đồng, hành không đặng củ, cả sroc cứ đổ thừa tại Nhêm.

Giờ thì mấy đứa nhỏ cũng trợn trạo ngốn cốm dẹp và nói thích lúa, thích gạo. Điều đó làm Nhêm buồn cười, trẻ con không thích đồ chơi đẹp, quần áo đẹp thì thôi, lúa gạo mà làm gì. Chắc là cha mẹ chúng đã dạy trước, Nhêm cũng từng buộc phải học thuộc lòng. Chỉ là tụi nó bây giờ khôn ngoan hơn, và không bị mắc tiểu giữa chừng, như Nhêm. Đang kể chuyện vẩn vơ thì sương trên đuôi lá bồ đề rụng xuống trán, Nhêm giật mình.

Không thấy Cỏ ngồi bên cạnh nữa. Sanh đã kín đáo lôi xểnh cô ra phía sau sala, chỗ những dây bìm bìm leo xum xuê trên mái chuồng gà bỏ hoang. Nỗi nhớ, sự ghen hờn, xót xa, niềm kiêu hãnh giày bừa trong lòng Sanh làm nó như mê đi. Cỏ chỉ cười nhẹ, xấp xãi bước theo, vẻ mặt không ngạc nhiên chút nào. Hoặc cô đã chờ đợi điều này lâu, nên chỉ thở cồn cào như một con sóng nhỏ khi tay và môi Sanh bắt đầu uống ngấu lấy cô. Thằng con trai đó đi qua những cơn đói nhưng chưa bao giờ ngưng sống, như cỏ của những mùa trăng ướt.

Nhêm tìm thấy Sanh đang đứng đối mặt với khoảng tường, y cà sa căng tròn, bọc lấy thân thể Cỏ. Cô chỉ còn đôi chân, và khuôn mặt, phần còn lại của cơ thể đã tan biến. Bóng trăng lấp ló chồm vào đôi người lấp ló. Nhêm chết sững và nỗi tức giận nào đó ứa ra bưng mắt, buốt những đầu ngón tay, nó hồng hộc chạy về phía chánh điện, chỗ Lục Cả đang tụng khúc cầu an.

Sanh rời khỏi chùa vào chiều hôm sau, hoàn toàn không có một nghi lễ hoàn tục nào đưa tiễn. Ngang qua quán rượu, Sanh dừng lại chờ rất lâu mới thấy Cỏ ơ hờ bước ra, Sanh chụp níu lấy tay :

- …Đi với tôi nghen?!

- Đi với Lục thì lấy gì ăn? - Cỏ hắt tay Sanh, lạnh lùng hỏi lại.

Không biết, ngay việc bây giờ đi về đâu Sanh còn không biết. Có thể đi làm thuê, làm mướn ở một nơi xa xôi nào đó, đào đất, trèo thốt nốt lấy nước, làm cửu vạn hay vác những bộ tranh kiếng bán dạo khắp nẻo đường. Sanh nuốt thất vọng quay đi. Đám con gái trong quán thò đầu ra cửa sổ, nhìn theo cái lưng gù gù như cõng đá, tru lên thảm thiết, trời ơi, Lục đừng đi, Lục mà đi thì tụi tui phải chung tiền cho con quỷ sứ này, phải biết Lục dễ dụ dỗ vậy, tụi này không đánh cuộc… Sanh khựng lại một vài giây, rồi nó gần như bỏ chạy, nó cảm thấy mình tắt thở rồi. Chết trước khi những cơn đói ập đến trừng phạt nó, vì sự bội tín, vô ơn với Đức Thích Ca.

Những ngọn gió cuối mùa Nam còn sót lại đưa tin thắng cuộc của cô tiếp viên đi nhanh. Người đàn bà cho bạc góp hể hả đòi được món nợ cũ, ghé chùa nói với Lục Cả, “Riết rồi không thấy người nữa, chỉ thấy mấy thứ giống người...”, rồi day mắt về phía sư trẻ đang quét lá giữa sân chùa vắng, “may nhờ lục Nhêm tu tập tử tế…”

Nhêm nghe được, cười khan, nỗi buồn cào cấu rát lòng, sao người ra đi lại là Sanh mà không phải nó, sao cô gái đó chọn Sanh? Hỏi hỏi và hỏi. Trời thì cao và xanh xao.

oc huong
#78 Posted : Sunday, March 23, 2008 4:34:34 AM(UTC)
oc huong

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 1,180
Points: 0


Mai Hồng
Thời gian huyền thoại trong truyện ngắn “Cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư


1. “Cánh đồng bất tận”, truyện ngắn của tác giả Nguyễn Ngọc Tư, giải thưởng văn học do Hội nhà văn Việt Nam 2006 trao tặng.

Có thể nói, khi viết “Cánh đồng bất tận”, Nguyễn Ngọc Tư đã thể hiện một nỗ lực sáng tạo mới của mình. Nhà văn thừa nhận: ".. Tôi muốn thay đổi, muốn làm mới chính mình. Tôi muốn thử sức ở những đề tài khó, gai góc. Tôi cảm nhận được sự nhàm chán của bạn đọc, bạn viết với văn của Nguyễn Ngọc Tư..".

Bạn đọc sẽ có nhiều quan điểm riêng và nhiều cách tiếp cận với cái mới của tác phẩm này. Cứ vin theo lời của chính tác giả, chúng ta có thể ghi nhận “Cánh đồng bất tận” có những biểu hiện "làm mới" thực sự, vì một cách chủ quan nhất, ấn tượng của người đọc về ngòi bút Nguyễn Ngọc Tư trở nên mới mẻ, thú vị hơn qua tác phẩm. Ấy là một cách nói, nhưng nghiêm túc mà đánh giá, “Cánh đồng bất tận” là một thể hiện mới của chặng văn chương hiện thực lấn dần sang địa hạt huyền thoại trong hành trình sáng tạo của chị. Đó là một trạng thái có thật trong truyện ngắn thấm đẫm chất thơ này khi chúng ta khảo sát kỹ về không gian, thời gian của nó. Trong bài viết này, tôi không muốn nói đến thời gian huyền thoại như là thủ pháp nghệ thuật của Nguyễn Ngọc Tư ở “Cánh đồng bất tận”, tôi nghiên cứu thời gian huyền thoại như một sự hiện hữu trong quá trình sáng tạo của tác giả và để lại dấu vết trên tác phẩm, như thế trước hết để đảm bảo chính tính khách quan và tự nhiên của ngòi bút Nguyễn Ngọc Tư.

Diễn đạt một cách đơn giản, thời gian huyền thoại trong truyện kể là cách thức làm cho một câu chuyện hiện thực bị tách ra khỏi bối cảnh lịch sử, bối cảnh xã hội của nó; câu chuyện hiện thực trở nên phi thời gian, cuộc sống diễn ra trong đó có thể đã, đang và sẽ diễn ra vào bất kỳ thời điểm nào mà không mất đi ý nghĩa hiện thực chân thật của nó. Mốc thời gian lịch sử, thời gian xã hội trở nên không quan trọng để diễn đạt một hiện thực vĩnh cửu nào đó thuộc về con người. Thời gian huyền thoại thường trải màu sắc bàng bạc của nó qua sự tái điệp thời gian (xét trong trật tự niên biểu) và những câu chuyện xảy lặp từ quá khứ đến hiện tại (của một nhân vật hay của một số nhân vật), những đoạn ngưng của hồi ức, của trữ tình ngoại đề khiến người đọc khó nắm bắt được thời gian, và sự mờ hoá thời gian…

Ám ảnh bởi một chốn - không thời gian trong “Cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư đuổi theo những dòng thời gian trôi trong ký ức của nhà văn, người viết lấy làm e ngại sợ mình rơi vào một sự phi lý khi khẳng định về một chốn - không thời gian. Nhưng cảm nhận luôn có cái lý riêng của nó, một chốn - không thời gian vì đó là kết quả của một sự ảo/ẩn hoá thời gian. Tình cờ bắt gặp một điểm tương đồng trong cách nhìn về thời gian ảo hoá của Bruce Holland Rogers, người viết xin trích ra để gợi hứng cho những liên tưởng về thời gian trong tác phẩm này:

"Hãy thử quan sát lối kết cấu của Trăm năm cô đơn, cuốn tiểu thuyết của Gabriel García Márquez. Như người đọc cảm nhận được ngay từ trang thứ nhất, bắt đầu với một đội hành quyết, rồi một chuyến hành trình hồi khứ rất dài, thời gian trong thế giới quan hiện thực thần kỳ không phải bao giờ cũng trôi về phía trước. Quá khứ xa xăm thì có mặt ngay trong từng khoảnh khắc hiện tại, và tương lai thì đã xảy ra rồi. Những sự thay đổi lớn lao trong trình tự thời gian của dòng tự sự phản ánh một thực tại hầu như nằm bên ngoài thời gian. Điều này giải thích sự hiện hữu của những hồn ma, những điều linh thị, và cái cảm giác rằng thời gian là một sự tái điệp vĩ đại chứ chẳng phải là một tiến trình đi tới. Trong tiểu thuyết của García Márquez, một số sự kiện nào đó cứ tiếp tục quay trở lại với tiêu điểm của hiện tại, ngay cả cho dù thời gian cứ dần dà trôi xuyên qua ba thế hệ." (“Thực ra, chủ nghĩa hiện thực thần kỳ là gì?” - Bài đăng trên http://www.tienve.org)

Ở “Cánh đồng bất tận”, sự ảo hoá thời gian hay thời gian huyền thoại chỉ đi đến một chừng mực nào đó, nhưng cái phổ thời gian ấy lại được trùm lên rất rộng, hầu khắp toàn văn. Để xoáy vào một không gian sống, nơi mà con người, không phải du mục từ cánh đồng này sang cánh đồng khác, từ dòng sông này sang dòng sông khác, từ quá khứ đến hiện tại, mà du mục qua các miền của một cõi đời: Hận, Thù, Nhớ, Thương…

Vì thế, mới có một hình ảnh thời gian phi thời gian/thời gian vĩnh hằng như thế này:

"Và chiếc ghe, cánh đồng, dòng sông thênh thang mãi ..."


2. Trật tự - sự tái điệp thời gian

Tái điệp thời gian là sự trở đi trở lại của thời gian, các tổ hợp chập đôi của thời gian hiện tại - quá khứ, quá khứ - hiện tại, quá khứ - quá khứ của quá khứ/quá khứ hoàn thành cứ dằng díu vào nhau. Thủ pháp đó tạo nên cảm nhận (thực chất là ảo giác) về sự bất tận của thời gian.

Theo cấu trúc của tác giả, tác phẩm gồm 8 phần, có thể lấy đó làm 8 lớp truyện kể:

(Xin lưu ý với bạn đọc một điểm: ngay cả trong mỗi phần của truyện ngắn này cũng có sự sai trật niên biểu, do đó, ở đây, người viết chỉ đưa ra nội dung sự kiện chính của mỗi phần).
A. phần 1 (4 trang), ba cha con dừng lại ở một con kinh nhỏ nằm vắt ngang cánh đồng, biến cố bất ngờ xảy ra, hai chị em (tôi - là chị - tên là Nương, được nhắc đến tên 1 lần duy nhất trong tác phẩm qua lời người cha, Điền - là em) cứu thoát một người đàn bà bị đánh bầm dập và đưa lên thuyền.
B. phần 2 (8 trang), người đàn bà sống cùng họ trong cuộc đời du mục, nhiều lần hai chị em thấy ông bố trả tiền cho người đàn bà đó sau mỗi tối ngủ cùng. Dòng thời gian lan sang hồi tưởng về cuộc đời đã qua của người đàn bà, và những biến đổi tâm - sinh lý của Điền.
C. phần 3 (7 trang), ký ức về người mẹ bỏ nhà.
D. phần 4 (4,5 trang), sau sự bỏ đi của người mẹ, ông bố thờ ơ với 2 đứa con, quay lưng lại với cuộc sống trên đất liền, để sống cuộc đời du mục trên các con sông. Hai chị em buộc phải tự học cách sống, một cuộc sống bất thường, cay đắng, tù u.
E. phần 5 (8 trang), trong hành trình du mục, người cha đùa cợt với tình cảm của người đàn bà nhẹ dạ, mời họ lên thuyền rồi bỏ họ lại bên bờ những con kinh.
F. phần 6 (11,5 trang), nối tiếp dòng hồi ức, người cha tiếp tục lừa gạt những người đàn bà khác, tâm lý không - bình - thường của hai chị em khi bước vào tuổi trưởng thành trong một cuộc sống không có giáo dục, ít giao tiếp với con - người, khoảng cách giữa hai chị em với người cha càng lớn.

G: phần 7 (9 trang): tiếp nối mạch thời gian khi người đàn bà được hai chị em cứu thoát. Một thời gian sau, dịch cúm gia cầm ào tới, các cán bộ địa phương thản nhiên thi hành lệnh trung ương, thiêu huỷ gà vịt, người đàn bà đi ngủ với những người cán bộ thừa hành mệnh lệnh để cứu vịt cho nhà hai chị em. Điền bỏ đi tìm người đàn bà ấy và không trở lại. Người cha trở nên chú ý đến con gái hơn.
G. phần 8 (5 trang), nhân vật tôi (người con gái) bị mấy tên chuyên cướp vịt cưỡng hiếp ngay trước mặt người cha. Tác phẩm khép lại ở những dòng có tính chất hoá giải, "xí xoá" nỗi đau và lòng hận thù, để yêu thương vút bay lên như một lời ca gọi ngây thơ và hồn nhiên.
Dưới đây là niên biểu của truyện:

C1 - D2 - E3 - F4 - A5 - B6 - G7 - H8

Trong đó, các mốc thời gian rõ ràng hơn là:

C1: quá khứ xa nhất của mạch truyện chính, người mẹ bỏ nhà đi khi Điền 9 tuổi, "tôi" 10 tuổi
E3: năm "tôi" 13 tuổi
F4: năm Điền 16 tuổi

Như vậy, thời gian truyện diễn ra trong vòng 7 năm. Mạch kể đi theo trình tự:

A5 - B6 - C1 - D2 - E3 - F4 - G7 - H8

Nhận xét:
• B6 là đón trước của G7
• Từ C1 - F4 là hồi ức, là ngoái lại, là quãng ngưng của mạch kể về thời gian hiện tại
• Như vậy, nhìn bao quát, “Cánh đồng bất tận” là hai mảnh chuyện được kể lồng vào nhau, câu chuyện trước và sau khi gặp người đàn bà bị đánh (ở phần 1). Quá khứ là hồi ức đan xen với hiện tại, mô hình thời gian theo cấu trúc toàn bộ truyện ngắn là hiện tại - quá khứ - hiện tại.
• Từ C1 đến F4 là dòng hồi tưởng có trật tự, cũng tương tự những phân mảnh nhỏ như từ A5 đến B6, từ G7 đến H8 là hiện tại tiếp diễn tuần tự theo niên biểu. Nhưng như thế, rõ ràng là có sự tái điệp thời gian. Vì về cơ bản, câu chuyện vẫn tịnh tiến theo chiều thời gian nhưng điểm đầu và điểm cuối tác phẩm trùng vào nhau, năm "tôi" 17 tuổi (điều này không hề dễ phát hiện, vì con số tuổi chỉ thời gian bị chìm lấp trong vô số những cụm từ thời gian không xác định khác). Kết cấu thời gian theo mạch vòng.
• Sự sai trật niên biểu đồng thời với sự tái điệp thời gian càng rõ và dày đặc hơn trong từng phần nhỏ của tác phẩm (ví dụ, ở C1). Cứ ở mỗi thời điểm hiện tại, nhân vật lại có ký ức hiện về. Sự vật hay cảnh huống hiện tại đều chứa đựng đầy ắp cả quá khứ. Sự trộn lẫn thời gian đó khiến cho ta có cảm giác như con người đang trôi trong một không gian - thời gian vô tận, mờ ảo.

3. Xảy lặp - sự trộn lẫn của thời gian

Xảy lặp trong tác phẩm làm trừu tượng hoá thời gian, kiếp người. Những sự giống nhau về hành động, về cảnh huống từ quá khứ đến hiện tại, từ người trước đến người sau sẽ tự nhiên tạo ra sự trà trộn về thời gian, làm cho thời gian trở nên mờ ảo, như không có ranh giới phân định, như không có cột mốc. Bên cạnh đó, sự lặp lại về từ ngữ hé lộ bề sâu của đề tài, của vấn đề trong tác phẩm. Sự lặp lại nhiều lần làm cho tính hiện thực của câu chuyện trở nên mờ nhạt dần, câu chuyện được kể nhiều lần luôn làm cho người ta đón nhận như một huyền thoại, người ta không bắt buộc phải tin vào tính hiện thực của nó (giống như câu chuyện ngụ ngôn về một người kêu cứu).

Ở “Cánh đồng bất tận”, về hành động, có sự xảy lặp của mô-típ mà chính tác phẩm tự tạo ra: mô-típ đón nhận và rũ bỏ, tình thương và thù hận. Người đàn ông (nhân vật người cha) đón nhận người đàn bà (nhân vật người mẹ "tôi"), chắc hẳn phải với một lòng thương, sau đó người mẹ bỏ đi, thì ông ta bắt đầu có sự thù hận, chắc chắn không phải thù hận một người đàn bà mà thù hận cuộc đời vì bị mất niềm tin vào tình thương yêu. Sau này, người cha đón nhận thêm nhiều người phụ nữ khác - như một cách chơi bời/giải toả và trả thù - và lại rũ bỏ họ một cách không thương tiếc, nhưng thực ra, với nhiều người, ông từ bỏ họ vì muốn trả họ về đúng vị trí, thiên chức của mình (như người đàn bà ở Bàu Sen), rũ bỏ vì ông không thể đem lại điều gì tốt cho họ nữa (như đối với "chị").

Người đàn bà bị đánh có cuộc đời và số phận giống như những người đàn bà trên đê, những người đàn bà làm điếm. Chị có khác, hay được tập trung miêu tả sâu hơn họ ở tình thương, khát vọng tình thương. Nhưng cuối cùng chị cũng phải ra đi. Người mẹ bỏ đi và cho đến sau này, khi "tôi" rơi vào cảnh tương tự của người mẹ thì vỡ lẽ rằng, mẹ cũng bị cưỡng hiếp như mình. Những sự xảy lặp ấy khắc hoạ số phận của người đàn bà ở những vùng đất vẫn còn ngập trong u tối. Và thời gian xảy ra những cảnh huống ấy không còn quan trọng nữa, tất cả chúng vẫn như lẩn quất đâu đây, ở bất kỳ góc khuất lấp nào.

Ở mỗi chỗ xảy lặp ấy lại là chỗ tác giả gài vào những chi tiết xoáy sâu hơn vào tâm lý nhân vật. Nhìn chung, nhân vật im lặng trước biến cố. Đó là sự đóng kín của cõi lòng. Vì thế mà các nhân vật dường như đều khoác lên mình một tấm áo của sự bí ẩn, u uẩn. Lòng người cũng như cánh đồng u minh bất tận ấy. Đấy là thế giới thiếu sự đồng cảm và tình thương. Nói đúng hơn, tình thương và sự bao bọc xuất hiện như bản năng. Và do vậy, nhân vật khát, khát cháy những gì thuộc về ánh sáng của con người.

Về từ ngữ, hay lặp cụm từ "con người", "đồng loại", "người - bình - thường", "người".. Những xảy lặp này thấm đẫm ý vị triết lý. Ở đây, hai chị em, trong cuộc sống du mục rất xa loài người của mình đã vọng về những phẩm chất người. Thèm muốn cuộc sống con người bình thường, ấy là một cách nói, nhưng thực tình không đơn giản chỉ là vậy, cuộc sống con người bình thường trong tâm niệm của nhà văn là cuộc sống tràn ngập tình thương yêu và sự giáo dục/ánh sáng của văn hoá. Cõi vọng của nhân vật được đặt trong thời gian có vẻ dằng dặc và không gian cánh đồng bất tận như vậy là rất xác đáng.

Trong tác phẩm còn hay trở về cụm từ "nỗi nhớ", trở về hình ảnh dòng sông, đặc biệt là cánh đồng. Tác phẩm mở ra ở hình ảnh cánh đồng và kết thúc ở hình ảnh cánh đồng. Men theo cánh đồng với lộ trình lật ngược trở lại, từ hiện tại lần về quá khứ, từ trang cuối lên những trang đầu tác phẩm, chúng ta sẽ nhận ra một triết lý cuộc sống đã được huyền thoại hoá.


4. Quãng ngưng

Về cơ bản, các phần không có sự chênh lệch quá lớn về thời gian sự kiện so với thời gian văn bản. Những nhân vật đều được miêu tả dàn đều, qua những hồi ức (hồi ức cũng chính là những đoạn ngưng). Có nhiều hồi ức, nhiều đoạn miêu tả tạo nên nhiều đoạn ngưng cho câu chuyện. Tất cả tạo nên nhịp kể chậm, đều. Nhịp kể trở nên dằng dặc miên man trong cảnh sống u hoài bất tận trên cánh đồng. Nó đặc tả sự lưu cữu, từ đọng của cuộc sống. Thành ra một chốn - không thời gian. Những quãng ngưng này là những chỗ dừng chân để nhân vật cắt nghĩa cuộc sống.

Ví dụ, tràn ngập hình ảnh cánh đồng với các tên gọi khác nhau. Theo tôi, cánh đồng là ẩn dụ cho một cõi lòng, cõi lòng người hoang sơ tù đọng. Đầu tiên, ở phần D2: hai chị em lạc giữa cánh đồng, hình ảnh giống như biểu tượng con người lạc giữa chính cõi lòng người. Tiếp đó, cánh đồng Chia Cắt, ở phần G7, phải lòng người là cánh đồng u đọng đó nên sự chia cắt là tất yếu. Chia cắt cũng là một xảy lặp nhức nhối khắp chiều dài thời gian! Sự chia cắt với mẹ, với những người đàn bà mà cha rũ bỏ, với chị, với Điền. Trên cánh đồng ấy, có nhiều sự chia cắt mà chỉ có một sự đi tìm, Điền đi tìm chị. Nơi chỉ một lần người cha gọi tên con gái "Nương, ngủ sớm đi!" làm cho người con mắt cay, ngợp nhưng không đủ "hàn gắn sự đổ nát" và "sắp xếp những mảnh vỡ lạo xạo trong lòng". Rõ đấy là cánh đồng thiếu vắng tình thương. Cũng ở G7, đoạn ngưng của nhân vật "tôi" trở về cuộc sống trên cánh đồng tù đọng bao nhiêu năm thì đã mang một ý nghĩa khác, đó là phản ứng lại sự u tù u đọng của cuộc sống. Được miêu tả nhiều chất thơ nhất là đoạn viết về cánh đồng Bất tận, ở H8, cuối truyện, đầy ẩn ý, đó là miền hoang sơ trong cõi con người, miền có những đứa trẻ thất học và những kẻ mang tên Hận, Thù. Nhịp điệu đoạn ngưng bỗng cất lên bay bổng như dọn sẵn cho một sự báo ứng sáp xảy ra. Để hoá giải, để cứu vớt, trong những câu kết mang đậm triết lý nhà Phật. "Đứa bé đó, nhất định nó sẽ đặt tên là Thương, là Nhớ, hay Dịu, Xuyến, Hường... Đứa bé không cha nhưng chắc chắn được đến trường, sẽ tươi tỉnh và vui vẻ sống hết đời, vì được mẹ dạy, là trẻ con, đôi khi nên tha thứ lỗi lầm của người lớn".

Cái kết này, thực ra là ý hướng đạt đến đạo của người viết trẻ tuổi Nguyễn Ngọc Tư. Như chị tâm sự: "Tôi hiểu biết về Phật giáo không nhiều, vớ được quyển sách nào thì đọc cái ấy. Cũng có điều hiểu được, học được, làm được, nhưng nhiều điều buộc phải "bó tay". Ví dụ như mấy lời này: "Khi nào bạn bực tức, giận dữ, hãy bất động! Ngay tại đó! Đừng cử động! Đừng làm gì cả! Đừng nói gì - dù chỉ một lời. Hãy yên lặng và bất động hoàn toàn. Tuyệt đối không biết gì đến kẻ hoặc sự việc làm cho mình giận dữ" (Hạn chế sân hận, trải rộng tình thương - Tỳ kheo VISUDDHÀCÀRAZ). Trời ơi, mình giận muốn chết, muốn gào thét, muốn cào cấu, muốn đập phá mà không cho mình nhúc nhích, sao có thể hả hê? Đạt được đạo mới khó làm sao...". Nên, đó là một mong ước, ngây thơ, thành thực, và đẹp đẽ của người viết văn.


5. Từ bỏ tính xác định về thời gian

Đáng chú ý là, thời gian trong “Cánh đồng bất tận” không có những con số cụ thể của năm tháng. Thời gian có khi được tính theo số tuổi, nhưng tuổi đời người cũng chỉ là cụ thể hoá của một sự ảo hoá. Thời gian được tính và được nhắc nhiều theo mùa, mùa mưa, mùa nắng. Và như vậy, màu thời gian cũng đồng nghĩa với hai màu đó. Người viết chưa có đủ điều kiện thời gian để đếm bao nhiêu lần "mùa" được nhắc tới. Cuộc sống, cõi đời có bao nhiêu mùa? Không tính được. Và như thế, thời gian trong “Cánh đồng bất tận” không phải là thời gian xác định hay cố định, nó có thể nằm trong bất cứ dòng chảy nào trong lịch sử thời gian. Nó là thời gian của hàng trăm năm trước thì cốt truyện cũng hợp lý, nó là thời gian của hiện tại thì câu chuyện cũng chân xác, là thời gian của tương lai thì kiếp du mục ấy vẫn còn có thể diễn ra. Xét từ dấu hiệu ngôn ngữ, dịch cúm gia cầm có thể là một dấu hiệu chỉ thời gian hiện tại, thời gian xã hội những năm gần đây, nhưng nó lại không có ý nghĩa quan trọng, nó chỉ là một sợi dây nối kết thời gian lỏng lẻo hiện thực tác phẩm với thực tại cố định ngoài cuộc sống.

Ta hãy xem lại những cụm từ chỉ thời gian, đo thời gian chạy dọc tác phẩm: mùa hạn, suốt một quãng đường, chiều hôm đó và cả ngày hôm sau, sáng sớm ngày thứ ba, mùa đến sớm, mùa mưa vẫn còn xa lắm, có những ngày, trưa ấy, những chiều, một bữa tôi chiêm bao, suốt nhiều năm sau đó, đứa 10 tuổi ... đứa 9 tuổi, lần đầu tiên hai chị em tôi, sau này, quãng thời gian ấy, mùa du mục của chúng tôi kéo dài liên tục từ mùa mưa sang nắng, rồi lại mưa, mùa khô năm tôi 13 tuổi, trời đất ủ dột nhìn mưa vào mùa, có lần, đến 16 tuổi, suốt những năm tháng sống tù đọng trên đồng; bây giờ, gió chướng non xập xoè trên khắp cánh đồng Bất tận, sau này... Đấy là thời gian vật lý, thì kéo dài trong 7 năm mà cảm giác thời gian lê thê, hoà nhịp với thời gian của sự du mục triền miên. Là thời gian của tâm trạng, thời gian của hồi ức, hồi tưởng, thì đấy là thời gian bất tận của cõi đời, cõi người. Do nhà văn có ý hướng đến Phật giáo mà thời gian có những khi mang tên Hận, Thù, Nhớ, Thương...


6. Tôi cho rằng, “Cánh đồng bất tận” viết về thời gian của kiếp người, du mục qua những miền nhân cách, tính cách, số phận con người. Không gian trong truyện không có gì mờ ảo, vì nó là một không gian mà sự sống phủ lớp áo bàng bạc bất tận. Nhưng thời gian trong truyện đã được ảo hoá một cách thông minh và tự nhiên/ngẫu nhiên. Màu sắc huyền thoại của thời gian cộng với ý nghĩa phổ quát của cốt truyện, nhân vật làm cho tác phẩm chuyển tải được một hiện thực vĩnh cửu của con người. Đó là vấn đề về ánh sáng và tình thương trong cuộc sống con người, những hằng số nghệ thuật của mọi thời đại. Do vậy, “Cánh đồng bất tận” là một tác phẩm văn chương hiện thực pha màu huyền thoại, mà huyền thoại bao giờ cũng là một nghệ thuật của sự phi thời gian, của sự tồn tại vĩnh hằng. Chạm đến tấm màn của huyền thoại, là Nguyễn Ngọc Tư đã bắt gặp trong quá trình sáng tạo của mình một phương cách giữ màu tươi mới cho tác phẩm văn chương.

© 2007 talawas



© www.talawas.org | về trang chính
tìm
(dùng Unicode hoặc không dấu) tác giả:
A B C D Đ E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Ý Z

Văn họcVăn học Việt Nam
10.4.2006
Song Chi
Thật đáng sợ - Vài suy nghĩ nhân chuyện nhà văn Nguyễn Ngọc Tư bị Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Cà Mau kiểm điểm vì truyện ngắn “Cách đồng bất tận”

Ðọc bài phỏng vấn ông Dương Việt Thắng - trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Cà Mau đăng trên báo Tuổi Trẻ số ra ngày 8.4.2006 và bài viết của thạc sĩ Vưu Nghị Lực - phó giám đốc Sở Vă hoá Thông tin Cà Mau đăng trên báo Tuổi Trẻ số ra ngày 9.4.2006, cảm giác đầu tiên của tôi là sự rùng mình kinh sợ và ngao ngán. Kinh sợ và ngao ngán vì đến thời điểm này rồi mà người ta vẫn còn có những cách đọc như thế, cách phê phán như thế, cách ứng xử như thế với một nhà văn. Tôi không muốn trích dẫn ra đây những câu phê phán tác giả và truyện ngắn “Cánh đồng bất tận” của hai nhân vật trong hai bài báo trên, cũng như cách hành xử của cơ quan chức năng tỉnh Cà Mau khi đề nghị Hội VHNT tỉnh phải “kiểm điểm tác giả một cách nghiêm khắc”, phải “tạo điều kiện cho nhà văn nâng cao nhận thức nghiệp vụ chuyên môn chứ như hiện nay Nguyễn Ngọc Tư chỉ mới học xong lớp 11” nên viết sai lệch, viết tầm bậy, hoặc như lời ông Dương Việt Thắng, “có ý kiến còn đòi bài trừ, trục xuất nhà văn ra khỏi địa bàn”... Nếu đây là thời điểm của mấy mươi năm trước thì còn có thể hiểu được, nhưng đây là năm 2006 rồi, vậy mà người ta vẫn suy nghĩ và ứng xử với nhà văn như vậy đấy. Ðã là thế kỷ thứ 21, đã hơn 30 năm kể từ khi thống nhất đất nước và hai mươi năm từ khi Ðảng và Nhà nước Việt Nam tuyên bố đi theo con đường “đổi mới”, nhưng thực tế đã cho thấy sự “đổi mới, cởi trói” đó chỉ mới được áp dụng một cách rất nhỏ giọt trong lĩnh vực kinh tế, còn về mặt chính trị, tư tưởng thì chẳng thay đổi gì. Có thể được phép làm ầm ỹ, tung hô hết mức những cuốn nhật ký kiểu như Nhật ký tuổi 20, Nhật ký Ðặng Thuỳ Trâm… nhưng mọi cách viết khác, “chệch hướng” khỏi nhiệm vụ “giáo dục và định hướng, nói về cái tốt trong xã hội” mà người ta định ra cho VHNT, cho những người sáng tác... là không thể được. Người ta kêu lên rằng cái truyện ngắn “Cánh đồng bất tận” này không có tác dụng giáo dục xã hội, giáo dục con người, phản động, xuyên tạc thực tế xã hội, hay“có mặc cảm tính giao bệnh hoạn” (chữ dùng của ông Vưu Nghị Lực), người ta lo sợ rằng giới trẻ mới lớn lên đọc cái truyện ngắn này sẽ hoài nghi vào xã hội... Vậy tất cả những chuyện tiêu cực, tham nhũng, bất công, những vụ bê bối động trời như vụ PMU vừa qua, những con người như Lương Quốc Dũng trong vụ bê bối dính tới gái vị thành niên trước kia hoặc Bùi Tiến Dũng trong vụ PMU... được phơi bày nhan nhản hằng ngày có làm cho giới trẻ hoài nghi về xã hội hơn gấp nhiều lần là do đọc một cái truyện như “Cánh đồng bất tận” không?

Muốn có một nền VHNT phát triển phong phú thì phải có một môi trường sáng tác lành mạnh, tự do. Với một môi trường sáng tác vẫn còn quá nhiều điều bị kiểm duyệt, không được cho phép hoặc tệ hơn là sẵn sàng chụp mũ, quy kết, kiểm điểm, lên án... tác giả và thu hồi, cấm in ấn, cấm phổ biến, cấm thể hiện... đối với tác phẩm như vẫn đang xảy ra ở Việt Nam, liệu có thể có một nền VHNT phát triển phong phú và lành mạnh được không? Câu trả lời đã quá rõ. Ðòi hỏi người sáng tác phải có những tác phẩm “gan ruột”, nói lên nhiều chiều kích khác nhau của hiện thực cuộc sống, nhưng đừng quên rằng cũng phải có một đối tượng người đọc người nghe tương xứng. Nếu vẫn còn có những cách đọc chỉ muốn VHNT có một chiều, một dòng sáng tác, một kiểu “mặc đồng phục tư tưởng” như VHNT ở miền Bắc trước năm 1975 và sẵn sàng chụp mũ, quy kết mọi cái gì khác thì đừng mong sẽ có được những tác giả dám sống và viết những điều mình nghĩ. Mọi biểu hiện khen hoặc chê quá mức tác phẩm, “chê cho nó chết” mà “khen cũng là khen cho nó chết”, như đã từng xảy ra với một số tác phẩm của các nhà văn, nhà thơ trẻ Ðỗ Hoàng Diệu, Nguyễn Thế Hoàng Linh, Nguyễn Vĩnh Nguyên, Nguyễn Thuý Hằng... đều là những biểu hiện bất bình thường phản ánh một môi trường sinh hoạt văn học nghệ thuật bất bình thường, chỉ có trong một quốc gia không có nền tự do dân chủ thật sự trong sáng tác. Và bây giờ là trường hợp Nguyễn Ngọc Tư với “Cánh đồng bất tận”.

Một nhà văn nữ như Nguyễn Ngọc Tư, sinh ra và lớn lên ở một vùng đất xa xôi tận cùng đất nước, sáng tác trong điều kiện “một tay viết một tay bế con hoặc nấu cơm, ngồi viết trong tiếng máy chạy đều đều của những con tàu chạy ngang qua nhà”, rất có ý thức rằng văn học là một cái gì đó tuy lớn lao thật nhưng không phải lớn đến nỗi chị phải hy sinh những cái cụ thể mà mình đang có: gia đình, chồng con, cuộc sống êm đềm ổn định bình thường hằng ngày..., như trong những lời chị đã từng phát biểu trong các bài phỏng vấn báo chí, thì liệu một sự cố như thế này có làm cho chị chùn tay lại mà không dám viết bất cứ cái gì nữa không? Viết để làm gì khi mà phải bị kiểm điểm, bị phê phán dữ dội trong một số bài viết như của thạc sĩ Vưu Nghị Lực, thậm chí còn bị đe doạ “bài trừ, trục xuất nhà văn ra khỏi địa bàn”?

Và cuối cùng, điều mà tôi muốn nói đến ở đây là thái độ rất trịch thượng của ai đó khi nhắc đến việc nhà văn Nguyễn Ngọc Tư có nhận thức tư tưởng và nghiệp vụ chuyên môn non kém vì chỉ “mới học xong lớp 11 mà thôi”. Có ai quy định rằng để trở thành một nhà văn, nhà thơ cần phải tốt nghiệp thạc sĩ, tiến sĩ không? Tất nhiên, để có thể đi lâu dài và đi xa trên con đường sáng tác, việc có một nền tảng văn hoá dày dặn, có một kiến thức sâu rộng là một điều kiện không thể thiếu. Nhưng điều đó không có nghĩa là chỉ có một con đường thu nạp kiến thức duy nhất qua trường lớp, học hành, tốt nghiệp bài bản. Cũng có nghĩa là đừng nên đánh giá trình độ con người - cụ thể ở đây là người sáng tác, qua bằng cấp!

Câu chuyện này chỉ lại thêm một lần nữa chứng minh rằng sống làm một người dân bình thường ở xứ mình đã khó, làm một người sáng tác ở xứ mình càng khốn khổ hơn nhiều!



Song Chi, đạo diễn phim, hiện sống tại Sài Gòn.

© 2006 talawas

Nguồn: talawas.org
oc huong
#79 Posted : Sunday, March 23, 2008 4:41:29 AM(UTC)
oc huong

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 1,180
Points: 0


Kiệt Tấn
Sông nước Hậu Giang và Nguyễn Ngọc Tư


phù sa nước đục khó dòm
nhớ anh em khóc đỏ lòm con ngươi


Lần trước, bài “Cái rầu bất tận của Nguyễn Ngọc Tư” đã giới thiệu hai tác phẩm của tác giả này: Ngọn đèn không tắt và Cánh đồng bất tận. Bài sau đây bổ túc và đề cập tới hai tác phẩm còn lại: Giao thừa và Tạp văn.

Nắng Hậu Giang mưa Tiền Giang
Nhìn nhau mà lệ rớt hai hàng
Câu ca vọng cổ chìm trong tối
Mùi mẫn còn rung dưới nguyệt tàn

Từ Ngọn đèn không tắt qua đến tập truyện Giao thừa, Nguyễn Ngọc Tư đã bỏ bớt được tính chất học trò trong cách kể chuyện và ngay cả trong lối viết. Tư trở nên già dặn hơn. Truyện kể cũng đơn giản thôi, nhưng mạch lạc hơn. Tập Giao thừa gồm 17 tựa truyện cho 161 trang. Thể văn nói chuyện linh hoạt tự nhiên, không cường điệu ồn ào. Văn gắn bó với đời sống, chơn chất, không sần sùi ngổ ngáo như lối viết “mới” hiện nay. Cách nói thành thật hiền hoà, không xốc táp ngang ngược. Người đọc không thấy ở Tư cái cố gắng “làm văn chương”, không có những câu văn thời thượng, trau chuốt, không có những kiểu nói om sòm mà rỗng tuếch. Bình dị. Đơn giản. Dễ hiểu. “Có sao nói dậy”. Vậy thôi. Mà tại sao phải nói rắc rối? Nhiều khi nói rắc rối là nhằm để che đậy một sự trống rỗng, một cái dốt đặc nào đó ở mình. Cho nên phải “rắc rối hết cỡ nói!” cho thiên hạ tá hoả và phục lăn?

Trong tập Giao thừa, phần lớn bài viết có truyện – có chút truyện, hay gọi là… Đôi khi bài viết được dựng lên quanh một chi tiết, quanh một tình cảm thương ghét, quanh một quyến luyến, một quan tâm, để ý, “có cảm tình” giữa các nhân vật trong truyện. Chẳng hạn: “Giao thừa”, “Bởi yêu thương”, “Chuyện vui điện ảnh”, “Hiu hiu gió bấc”, “Một mối tình”, “Nhớ sông”…

Đọc vài ba truyện khác nhau, có cảm tưởng Tư mê cải lương, mê điện ảnh, và cũng có thể là mê làm đào hát luôn không chừng (?) Có gì mà lấy làm lạ? Đã làm dân miền Nam mà không biết mê cải lương, không biết mê vọng cổ là một thiệt thòi lớn! Truyện “Bởi yêu thương” nhắc tới gánh hát rã khiến cho người đọc ngậm ngùi. Hồi xưa, nhà tôi ở cạnh rạp hát nên tôi cũng đã từng chứng kiến hai ba gánh hát cải lương nhỏ rã gánh tại chỗ vì trời mưa ế khách. Rồi đào kép, hề diễu, người đờn, con nít lân la đi xin cơm ăn trong xóm. Nhưng cũng nhờ láng giềng cô bác thương tình nên không một ai bụng đói. Tình nghĩa đùm bọc đặc thù của người miền Nam. Mưa Tiền Giang nắng Hậu Giang. Những tay hảo hớn sống ngang tàng. Trái tim hào hiệp bao trời đất, Bốn biển anh em rượu rót tràn...

Ngoài mê cải lương, còn có cảm tưởng Tư bị ám ảnh bởi tên gọi của các nhân vật. Những cái tên trở đi trở lại trong nhiều truyện khác nhau, như Ông Chín, San, Xuyến, Điệp, Diệu, Giang... Tưởng chừng như những nhân vật đó có thật trong đời sống. Họ bị phăng cuốn trong dòng đời bất cưỡng, quanh quẩn trong rạch ngòi Hậu Giang chằng chịt, nay được Tư phân cắt thành những mẩu truyện ngắn. Biết đâu chừng khi nối liền hết lại, những mẩu truyện ngắn này sẽ kết hợp thành một truyện dài mạch lạc, một bức tranh đời éo le, lâm ly, ngang trái.

Còn một thứ không thể nào thiếu được trong tất cả các truyện của Nguyễn Ngọc Tư. Đó là sông nước: sông bốn phía, nước tư bề! Quơ chỗ nào cũng đụng nước, ngó chỗ nào cũng thấy sông. Nước là nền, sông là dòng cho ngòi bút của Tư triền miên tuôn chảy, cuốn theo những chữ nghĩa đầy ắp tình người như phù sa lợn cợn. Sinh đẻ ở miệt Hậu Giang, gắn bó với cuộc đất Cà Mau như Tư thì cũng không thể nào khác hơn được. Dứt sông là dứt hơi thở, cạn nước là cạn máu huyết. Là mất hết cái lẽ sống còn. Tư đặt tựa truyện: “Dòng nhớ” (tr. 47). Nhớ gì? “Nhớ sông” (tr. 154). Nhớ sông, nhớ nước, nhớ da diết, nhớ dai dẳng, nhớ muốn khùng, nhớ muốn điên. Nhắm mắt vẫn thấy, hôn mê vẫn thấy. Thấy hoài thấy huỷ.

Truyện “Dòng nhớ”: Một người đàn ông (gọi là ba) trốn nhà theo chung sống với một người đàn bà (gọi là dì) trên ghe thương hồ. Hai người có con với nhau, nhưng rủi ro đứa con nhỏ bò lọt sông chết chìm. Người đàn ông nghe theo lời má, bỏ sông lên bờ cưới vợ khác (gọi là má). Và tiếp theo đó, thỉnh thoảng dì trở lại neo ghe trên bến cũ để ngóng ba, người chồng giờ đây đã vuột khỏi tầm tay mình. “(...) chuyện xảy ra lâu rồi, nhưng người ta vẫn còn nhớ, vẫn còn cắm sào trước bến nhớ ba tôi, vậy mà biểu ba tôi quên cái rụp thì làm sao quên được” (tr. 51). Cắm sào thì cắm sào, đậu bến thì đậu bến, nhưng “người ta nhớ thương đứt ruột có thể chạy ào lại để gặp nhau, nhưng vì lương tâm không làm được, đành ngồi đây ngó lên, ngồi ở trên ngó xuống” (tr. 56).

Còn người đàn ông trên bờ cũng không ngớt ngóng ra sông mà nhớ người thuở trước. “(...) đêm đêm cả nhà đi ngủ, ba tôi ngồi hút thuốc trên bộ vạt kê trước nhà, chống rèm lên, ngó ra sông” (tr. 50). “Những đêm đó, ba tôi hút thuốc dữ, cứ nhìn chong chong ra ngọn đèn đỏ ối, nhỏ nhoi, buồn hiu ngoài kia” (tr. 51). Tâm can rời rã, tuy có mặt đó mà cũng đồng thời vắng mặt: “Ông đang ở đây nhưng tâm hồn ông, trái tim ông, tấm lòng ông chảy tan vào dòng nước tự lâu rồi” (tr. 50).

Bằng lối viết dung dị, Tư đã làm bật sáng lên được cái tương tư của hai người tuy cách mặt nhưng không xa lòng. Tương tư đôi chốn tình ngàn dặm, Vạn lý sầu lên nối tiếp mây… [1] Cái thương nhớ tơi bời hiện lên theo từng hình ảnh rõ nét, khắc khoải theo từng chữ viết dung dị mà đúng tận tâm can.

Rồi người đàn bà bỗng dưng bỏ bến sống đi biệt, không còn bao giờ trở lại bến xưa cắm sào mong ngóng nữa. Và cuối cùng người đàn ông chết trong mong đợi, thi thể vùi chôn ở vườn nhà. Người vợ cho dù có hờn ghen hừng hực cũng thấu hiểu được tấm tình khắng khít giữa ông chồng bền lòng và tình địch bền dạ của mình.“Má tôi vẫn không ngừng tìm dì, hỏi để làm gì, má tôi nói để cho dì hay và nói với dì, nếu sống mà không gần được, chừng nào chết, mời dì lên nằm trên đất vườn tôi” (tr. 57). Người đàn bà muốn giúp cho chồng mình chấm dứt dòng nhớ. Nhưng liệu được chăng khi dòng sông vẫn còn đó, con nước vẫn trôi hoài, vẫn trôi xa tắp về miền bất tận. “Đó là nỗ lực cuối cùng má tôi làm để chấm dứt cái cảnh ba nằm bên má mà hồn vẫn hướng về những dòng sông miên man chảy” (tr. 57).

Những dòng sông… Ôi! Những dòng sông… khiến chợt nhớ thơ Nguyễn Bính: “Sông đụng đâu sông, sông gặp sông, Thuyền xuôi theo nước, nước theo dòng, Người về người gặp quê người đó, Ta gặp ai đây giữa bụi hồng?”

Và những dòng sông, những dòng nhớ của Tư vẫn cứ tuôn chảy miệt mài, len lỏi trong khắp cùng ngõ ngách Hậu Giang. Cuối cùng, dòng nhớ biến thành một nỗi nhớ mong khắc khoải: “Nhớ sông”, bài viết chót trong tập Giao thừa. Mà không nhớ sao được, khi cả cuộc đời ba, cả cuộc đời má, cả cuộc đời hai con mình đều gắn bó bền chặt với sông nước. “Bây giờ hỏi lại, Giang nói không có con kinh, con rạch nào mà ghe chưa đi qua, không có đường ngang ngõ tắt nào mà ông Chín không biết. Xuôi dòng, ngược dòng, con nước kém, con nước rong... Không ai nói với ai, nhưng cả nhà ông đều nghĩ, chắc là sống như vầy hoài, như vầy mãi thôi. Chị em Giang đùa nhau, sau này lấy chồng ra riêng, ba cho mỗi đứa một chiếc ghe” (tr. 156).

Giang tự nó nghĩa là sông, cái tên như một định mạng trói buộc từ đời nào với rạch ngòi. “Giang không hiểu sao mình nhớ hoài, nhớ ràng ràng cái ngày đó. Cho nên qua vàm lần nào, Giang đều kéo con Thuỷ ra, Giang chỉ, má chết chỗ này nè” (tr. 156). Má trợt sào té đầu đập vào cái gờ sắt, đôi chân còn bíu vào ghe, rồi cả thân người hụp vào lòng sông, chìm lĩm. Vợ chết, ông Chín vẫn tiếp tục chở hai đứa con gái đi bán hàng bông xuôi ngược trên khắp các ngả sông ngòi. Thuỷ mê đất từ hồi nhỏ, từ thuở còn bồng. “Giang nhắc, ờ phải em ham đất lắm, hồi nhỏ ghe đậu bến nào chế cũng coi em bắt mệt, cứ xoay lưng là em chổng mông cạp đất ăn ngon lành” (tr. 159). Chế là tiếng Tiều châu để gọi chị mình.

Rồi cái mộng ước định cư trên đất liền của ba đã (hay gần như) trở thành sự thật: Giang lên bờ, lấy chồng tên Thuấn ở Đập Sậy, có đất làm ruộng. Những tưởng một khi đã lên bờ định cư rồi là quên được sông. Nhưng liệu quên được không? Thỉnh thoảng ông Chín ghé qua nhà Thuấn thăm con gái và nhậu tì tì với thằng rể tốt bụng. “Ghé Đập Sậy, Giang đòi ông Chín ở lại một đêm, cho Giang xuống ghe ngủ với con Thuỷ. Giang than nức nở, “Trời ơi con nhớ ghe quá trời đất đi”. Xuống ghe, Giang đưa tay rờ rẫm từng món hàng, từng miếng sạp” (tr. 157). Rượu vô ngà ngà, Thuấn than thở với ông già vợ của mình: “Thường thì cơm nước, quét dọn xong, để hở ra giờ nào Giang lấy xuồng chèo đi giờ ấy. Trời đất, nó đi đâu? Thuấn cười chua chát, “Hổng biết, nó chèo khơi khơi vậy đó ba à, con cũng nghi bậy trong bụng, có bữa con rình đi theo, vợ con chèo đã đời rồi nó buông chèo lủi vô đám lá, lấy tay vịn, ngồi ở đó. Rồi chèo về, vậy à” (tr. 158).

Trời ơi! Nhớ tới nước này thì phải gọi là ghiền mới phải. Nhớ sông ! Hay là ghiền sông, ghiền nước, ghiền bơi, ghiền chèo, ghiền cái mui ghe, ghiền cái sạp nằm, ghiền con sóng lăn tăn, ghiền dòng phù sa ngầu đục, ghiền tiếng nước khua bì bõm? Mà một khi đã ghiền tới mức này là kể như hết thuốc chữa. Chỉ còn nước trả Giang lại cho sông nước mà thôi.

Xếp quyển Giao thừa lại, người đọc tự hỏi Giang có phải là người con gái thứ tư trong một gia đình nào đó ở miệt Cà mau xa mút tí tè, nơi tận cùng đất nước: Cô Tư. Tư. Nguyễn Ngọc Tư, cô gái Hậu Giang có cái nhìn hiền hậu, có nụ cười thắm thiết và nước da bánh ít mặn mòi?

Mưa Hậu Giang nắng Tiền Giang
Cô em kẹp tóc bịt răng vàng
Cẩn tim xanh đỏ càng quê lắm
Mắt liếc khua theo guốc rộn ràng...

Mưa Hậu Giang nắng Tiền Giang
Bến sông san sát những nhà sàn
Võng trưa kẽo kẹt em tôi hát
Gió đưa bông thắm nở về chàng

“Ầu ớ… Gió đưa gió đẩy bông trang, Bông búp về nàng bông nở về anh… Ầu ơ…” Nhà sàn, loại nhà nửa trên bờ nửa dưới nước, dựng trên những chưn cột rắn rỏi đóng chặt xuống lòng sông, sàn lót bằng ván. Nhà sàn rất phổ thông ở vùng sông nước đồng bằng Cửu Long, như Bạc Liêu, Cà Mau, Cần Thơ, Vĩnh Long, Mỹ Tho…

Mãi đến khi bước chân vào Tạp văn của Nguyễn Ngọc Tư, “Trăm năm bến cũ con đò” tôi mới bắt gặp lại được chiếc võng đưa và mái nhà sàn ở miệt phù sa của Tư. “Cửa sau nhà tôi trông ra sông. Tôi thường ví đó là một khung tranh, có lúc nó hiện lên những chiếc tàu cao nghệu, hùng hục đi qua, che khuất cả dãy nhà sàn bên kia sông…” (tr. 163)… “Chỗ tôi ngồi có chiếc võng con giăng ngang căn chòi de ra mép nước” (tr. 165). Nhà sàn còn đó, con đò còn đó, võng giăng còn đó, mà tiếng “ầu ơ” ru em đã vỗ cánh bay đi mất biệt tự lúc nào. Có lẽ kể từ sau năm 75, kể từ lúc Tư chào đời và ngủ đưa trên võng, không còn ai nhớ hát ru con bằng những câu ca dao “ầu ơ ví dầu” nữa.

Thời tản cư ở Bạc Liêu, lúc tôi 5 tuổi, ghe ba má tôi trôi dạt xuống tận vùng Đầm Chim, Đầm Dơi. Thỉnh thoảng ba tôi nhắc tới tên sông Trèm Trẹm ở miệt Năm Căn, tôi không nhớ rõ mình đã có lần đi qua con sông đó hay chưa. Cho tới lúc Tư bơi xuồng ba lá đưa tôi đi thăm chợ nổi ở Cà Mau, tôi mới biết chắc là mình đang thả trôi trên dòng sông Trẹm. “Giữa chợ nổi Cà Mau, cảm giác như gặp được những khu vườn của miệt sông Tiền, sông Hậu, như nhìn thấy những rẫy khóm, rẫy mía miên man dọc trên miền sông Trẹm quê mình” (tr. 136). Ở Bạc Liêu, Cà Mau, rất đông người Triều Châu chuyên nghề làm rẫy – với những tiếng gọi nhau rất là chệt “Tiều”: tỉa, hia, chế, số, tùa củ, tùa nứng… (Nói Quảng nói Tiều !) Sông Trẹm, dòng sông ngầu đục đã chảy vào rẫy thơ của Lâm Hảo Dũng thời chinh chiến. “Ấy dòng sông Trẹm xưa nay, Còn thương cây mắm rễ cài trên không. Lênh đênh em một chiếc xuồng, Đời tôi lính trận cỏ bồng chân mây”. Đời trai thời loạn. Một cuộc binh đao. Một cơn máu lửa tơi bời. Bao nhiêu người đã vĩnh viễn nằm xuống trên xứ sở tang thương vì bom đạn? “Hận người con muỗi vo ve, Nên trong cuộc chiến bạn bè giết nhau, Ấy dòng sông Trẹm trôi mau…”

Hãy chậm dầm bơi lại để đi vào cái chợ nổi của Tư và bắt gặp “Chút tình sông nước”. Nằm giữa lòng thành phố Cà mau, quãng cuối sông Gành Hào, đứng trên cầu nhìn về phía mặt trời mọc, người ta có thể nhìn thấy một dãy ghe rập rờn xao động cả mặt sông, những cái chân vịt gác chổng lên loang loáng dưới mặt trời” (tr. 134). Tư thích nói về những cái chợ nho nhỏ họp nhóm chùm nhum ở miệt ruộng rẫy, những cái chợ chộn rộn đầy ắp tình nghĩa, thương mến, thân thuộc, nơi mà mọi người gần như đều biết hết mặt nhau. Chẳng hạn cái “Chợ bên đường” ở một làng quê hẻo lánh nào đó… “Như người phụ nữ chân quê, chợ nhỏ nhoi, hiền hậu, trầm tính dịu dàng (…) Buổi sáng sao mà dậy mùi thơm nồng hăng của rau húng lủi, húng cây, rau cần nước, cần rừng” (tr. 39). Nhưng gà vịt, cá tôm, rau củ trong vườn nhà bày ra đó chỉ để mong bán được, trả giá thấp cao, trông chừng, hoặc canh ngó thôi sao? Không, không ! Đâu phải chỉ có bao nhiêu đó. “Chị em chụm lại rôm rả với nhau chuyện chồng con, chuyện hàng xóm, ruộng lúa, vườn cây… (chuyện xóm quê mà, nói biết chừng nào cho hết)” (tr. 39). Khách từ phương xa tới và có dịp qua ngang chợ, hãy để ý. Hãy để ý cho tận tường, hãy ngó cho thiệt kỹ, hãy hít thở cho thiệt nồng nàn đi rồi sẽ thấy…

Nắng Tiền Giang mưa Hậu Giang
Xe lam về tới miệt Ba Càng
Ruộng khô thổi nóng lùa chưn tóc
Tóc em thơm phức mùi dưa gang

Nhưng liệu nói như vậy mà đã bày tỏ hết được tấm lòng của mình chưa? Chưa! Tư còn có thêm một cái chợ nữa: Chợ của má. “Tôi gọi những cái chợ ruộng dân dã này là chợ của má. Bởi nó hiền lành, lam lũ như má. Bởi chợ nhỏ nhoi, khiêm tốn như má, nhưng nó mang một cái hồn sâu, mênh mông lắm nên người ta nhắc nhở hoài, thương hoài như thương… má vậy”(tr. 151). Trong chợ của má, những người buôn thúng bán bưng là những ai? “Họ là những người gắn bó máu thịt với cảnh chợ quê này không chỉ vì mưu sinh mà là mối gắn bó thiêng liêng. Không có rau, không đi chợ, đâm… buồn. Có người lặn lội đi bán từng trái bình bát chín, không đủ tiền xe thì đi bộ, “miễn sao đỡ ghiền chợ” (tr. 153). Ở thành thị người ta ghiền quyền lực, ghiền tiền bạc, ghiền karaôkê, ghiền bia ôm, ghiền xăng nhớt, ghiền ma tuý thì ở miệt ruộng rẫy này, người dân quê họ… ghiền chợ ! Một loại ghiền rất tốt cho sức khỏe và càng thắt chặt thêm tình nghĩa xóm làng.

Đi vào thế giới Tạp văn của Nguyễn Ngọc Tư, người ta bắt gặp một trời một biển tình thương và gắn bó. Và cũng chính vì bởi gắn bó liền tay liền ruột với đất đai mà người dân quê phải gánh chịu biết bao là phũ phàng cay đắng, biết bao là nợ nần chồng chất, biết bao là thất vọng ê chề. Đôi ba người tự tử, rất nhiều người bắt buộc phải bán rẻ đất nhà mà ngậm ngùi bỏ xứ ra đi trong hờn tủi và nước mắt. Rồi sẽ thấy.

Tạp văn chia làm 35 tựa trải đều trên 186 trang. Cũng như trong ba tập truyện trước của Tư, trên trang nào của Tạp văn cũng bắt gặp thường trực chữ nghĩa và cách nói miền Nam, đặc biệt là miệt Hậu Giang của Tư. Đếm không xuể, kể không hết. Bút pháp cũng vẫn là giọng văn nói duyên dáng nhuần nhuyễn và tự nhiên của Tư. Lối viết này tạo cảm giác thân quen, gần gũi. Tuy nhiên, cũng nên cẩn thận, chọn lọc kỹ và dùng chữ cho chính xác. Vì nếu cứ viết phóng túng đẩy đưa theo hứng khởi, lối “văn nói “ sẽ rơi vào sự dễ dãi, cẩu thả, làm mất đi phần đóng góp cần thiết và quý giá của người viết: sự sáng tạo. Một khi sáng tạo mất rồi thì tính cách văn chương của bài viết cũng sẽ mất luôn, không còn lôi cuốn được người đọc nữa.

Hai thể loại Tư thường dùng nhứt là tuỳ bút và ký sự. Đề tài khá đa dạng: tiếc thương những vùng đất cũ, bàng hoàng trước những đổi thay sau “giải phóng”, lãng đãng những kỷ niệm về bạn bè ngày xưa, ám ảnh bởi cái nghèo xơ xác dai dẳng của người dân quê, phẩn uất trước thái độ tắc trách và nạn tham nhũng của cán bộ nhà nước. Cái tính chất văn chương ở các tập truyện Giao thừa, Cánh đồng bất tận đã phải tạm gác qua một bên. Cũng dễ hiểu thôi. Chạm trán từng giây từng phút với thực tế cam go, khắc nghiệt, gai góc, thử hỏi còn ai hơi sức đâu mà thẩn thơ vớ vẩn “Hôm nay trời nhẹ lên cao, Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn.” Trong thời khắc hiện tại, người dân quê bắt buộc phải đối đầu với những khó khăn sờ sờ trước mắt và bắt buộc phải nhận thức: “Hôm nay trời nặng lên cao, Tôi buồn “tôi hiểu” vì sao tôi buồn”! Đọc Tạp văn mới thấu hiểu được cái thực trạng thê thảm của người dân quê miền Nam sau “giải phóng”.

Bắt đầu Tạp văn là một cuộc hành trình trở lui về dĩ vãng, khi trời “Trở gió”. “Thoạt đầu, âm thanh ấy sẽ sàng từng giọt tinh tang, thoảng và e dè, như ai đó dứng xa ngoắc tay nhẹ một cái, như đang ngại ngần không biết người xưa có nhớ ta không” (tr. 7). Cơn gió gì mà lạ vậy? Và cứ hiu hiu như vầy hoài sao? “(…) bây giờ (nó) lớn thành một dòng gió, xấp xải, cuống quýt xốc vào tấm tôn bên chái đông đã bị đứt đinh từ mùa trước. Cồn cào. Nồng nhiệt. Mà thiệt dịu dàng. Ôi! Gió chướng” (tr. 7). Cơn gió chướng mùa trước, cơn gió chướng năm ngoái đã trở về thổi vào cõi lòng xốn xang của Tư những niềm nhớ không nguôi.

Tận cùng phương Nam đất nước, nơi mang địa danh Cà Mau, một mũi phù sa nôn nả lấn tràn ra biển Thái Bình, “Đất mũi mù xa”. “Nơi ấy, những ngôi nhà đều không cửa, nhà mở toang cho gió nam vào, chướng tới, bấc qua, nhìn nhà là hiểu người, chân thật đến bày cả gan ruột”(tr. 11). Làm nhớ những ngôi nhà không cửa do chính bàn tay thợ mộc của ba tôi và anh hai tôi chung sức dựng lên ở Bạc Liêu, ở Vĩnh Long. Một truyền thống Hậu Giang còn giữ được. “Người Đất Mũi sao mà hiền từ, mến khách thấu trời thấu đất vậy không biết, dường như sống giữa bao la trời, bao la biển này, người ta phải học cách thương nhau để khỏi cô độc” (tr. 14). Tuỳ bút “Đất mũi mù xa” của Tư là một bài viết vô cùng nồng nàn thắm thiết về phong tục và con người đất Cà Mau. Khiến nhớ muôn trùng.

Gió chướng còn đem về thêm cho Tư một nỗi nhớ khác nữa. Nhớ cái đầm nước mênh mông thuở trước, bây giờ đã xa. “Xa đầm thị Tường”: “Đầm Thị Tường là vùng đầm nước mênh mông với diện tích mặt nước hơn bảy trăm héc ta, quãng rộng nhất gần hai cây số, rộng tay mạnh dầm như dân xứ này, từ bờ nam sang bờ bắc mất hơn một ngàn lát dầm, từ bờ tây sang bờ đông nhìn mút mắt” (tr. 20). Người dân đầm Thị Tường chuyên sống bằng nghề đánh lú cá tôm. Mà cá tôm hồi thời trước thiếu gì, ê hề, ăn mệt nghỉ. Và một khi đã có mồi ngon rồi thì tất nhiên là phải có nhậu nhẹt. Cư ngụ chung quanh đầm là “những người hào sảng đậm đặc chất Nam bộ. Đàn ông nhậu một mâm thì đàn bà cũng một mâm. Đàn ông say thì ca vọng cổ, (…) đàn bà say chỉ nhảy múa cho vơi hơi rượu đi” (tr. 24) Rất nhiều người từ đầm đã ra đi để thành lập những xóm nổi tiếng là kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ thời trước. “Nguời dân móc ruột mình ra mà nuôi cán bộ, sống chết với cách mạng.”(tr. 24) Sống thì không biết sao, chớ chết thì thấy rõ trước mắt. Chết để nuôi hy vọng cho những ngày mai tươi đẹp huy hoàng, chết trong niềm mơ ước một tương lai xán lạn rực rỡ cho con cháu mình mai sau, dĩ nhiên. Để rồi coi. Nhưng còn cái đầm? Đầm Thị Tường bây giờ ra sao? “Chuyện cá tôm nhiều vô kể quanh năm, chuyện một chiếc xuồng con với vài tay lưới có thể nuôi cả gia đình đã quá xa vời. Chuyện xuồng đi tới đâu cá nược đuổi theo đến đấy chỉ còn là cổ tích” (tr. 25). Phải. Cổ tích, nhưng mà là một cổ tích kết cuộc không có hậu. Buồn năm phút! Hay buồn năm ngày, năm tháng, năm năm? Buồn dài dài… Buồn mút mùa lệ thuỷ!

Nhưng khét tiếng chống Pháp và “chống Mỹ cứu nước” đâu phải chỉ có mỗi một mình cái đầm Thị Tường. Còn một cái xã oanh liệt khác nữa. Nó là một trong ba xã vây quanh đầm. Ở đó cũng có toàn là dũng sĩ cứu nước, và toàn là bà già giết giặc hết trơn chớ bộ. Thiếu gì. Đếm không hết. Ở đâu ? Thì ở Hưng Mỹ chớ đâu. Người dân Hưng Mỹ can trường và trung kiên số một. “Nhớ những người dân áo vá, tay lấm chân bùn nhưng một lòng theo Đảng, theo cách mạng. Nhớ hàng ngàn cái hầm đào dưới những vườn dừa bạt ngàn mà người Pháp người Mỹ không tìm được lối vào vì miệng hầm nằm trong trái tim mỗi cụ già, em nhỏ” (tr. 43). Đó thấy chưa? Nói có trật chút nào đâu. Tới em nhỏ cũng là “con nít giết giặc” luôn nữa, huống hồ là mấy bà già và mấy ông già !

Nhưng bây giờ thì sao? Xã Hưng Mỹ le lói tới mức nào sau cái ngày “giải phóng” năm 75? “Ba mươi tháng tư này nữa là tròn 29 năm hoà bình. Con đường quốc lộ về ngang qua xã vẫn ca hoài bài “Đường chỉ đẹp những khi còn… dang dở”. Xã có 3911 hộ, đã ngót 251 hộ nghèo, 13 ấp thì một ấp rưỡi chưa có lưới điện” (tr. 43). Chỉ tiêu mà đạt đến mức đó thì quả thực là cao cấp, còn thành tích thì hết sức là hoành tráng, vậy còn đòi hỏi gì nữa cơ chứ? “Bây giờ đất này còn nghèo hơn trước, cái nghèo lừa mị người xứ xa, lừa mị những ông quan kinh lý ưa kiểm tra lớt lớt” (tr. 44). Kiểm tra lớt lớt là kiểm tra như thế nào cơ chứ? Này! Định xúc phạm và phá hoại Nhà nước đấy phỏng? Nhà nước đang bù đầu để xử lý một vấn đề lớn lao và trọng tâm vô cùng là vấn đề giáo dục. Vậy thì yêu cầu đường sá, điện nước lẻ tẻ làm chi mà lắm thế? “Hỏi cô con gái tên Trang đã học tới lớp mấy rồi, cô cười, nghèo quá, mấy anh em em hổng ai biết chữ” (tr. 45). Không biết chữ thì phải đi học chữ lấy một mình. Nhà nước đâu thể học chữ giùm cho nhân dân được! Nhưng đâu phải chỉ có mỗi một cái “hổng ai biết chữ”. Hưng Mỹ còn có rất nhiều cái “hổng có” khác nữa. “Hồi đó Thị Tường có “ba không”:, không theo giặc, không bỏ Đảng, không bỏ cách mạng. Bây giờ thì “tùm lum không”. Không gạo, không tiền, không cá, không rau cỏ…” (tr. 47) Này này! Hết phá hoại Nhà nước, bây giờ còn định bôi bác chế độ đấy phỏng?

Tới đây xin mở ngoặc nói về một hiện tượng đang xảy ra ở đất nước ta. Khi đi karaôkê, kể từ Đà Lạt ra tới Huế, ở đâu các em nhỏ hậu phương cũng đều xổ ra toàn là giọng miền nam. Ngay cả tiếng “Huệ” cũng lai giọng Nam kỳ. Tò mò “hỏi người em nhỏ lạc loài từ đâu?” Em thì nói từ Chợ Gạo, Mỏ Cày, Bến Tranh, Chương Thiện… Em thì “thành thật khai báo với cách mạng”, em là em nhỏ Bến Tre, Giồng Trôm, Đồng Tháp, Cái Nhum… Toàn là những vùng ủng hộ kháng chiến ngày trước. Và toàn là gái miền Tây. Bật ngửa! Và khi em Chợ Gạo cất giọng mũi nhão nhẹt dân dã để lâm ly biểu diễn karaôkê thì vẫn cứ nhứt định là “anh cầm tầm vông vạt nhọn, em cầm dao phay sáng ngời, hai đứa mình phom phom chạy qua cầu khỉ quyết chí diệt thù, phất cao lá cờ cách mạng…” khí thế vô cùng hùng dũng. “Rằng quen mất nết đi rồi!” Cái “tiếng xấu” mà các cô gái miền Tây phải hứng chịu này, Tư cũng đã có dịp nói phớt qua trong “Kính thưa anh nhà báo!” Khi bạn bè hỏi em gái từ đâu đến, em gái đã chẳng đặng đừng, lí nhí, thẹn thò thưa thốt: “Thưa, em ở Cà Mau” (và tôi làm sao tránh được ánh mắt cười cợt, nghi ngại của người thị thành khi biết tôi là gái miền Tây)” (tr. 105). Đóng ngoặc.

Trở lại Hưng Mỹ. Lần này, sau khi đọc kỹ “Ngậm ngùi Hưng Mỹ” lần nữa, thấy ở đoạn kết Tư cũng có nhen nhúm lên một chút hy vọng trong lòng bà con ta đó chớ. “Nghe mấy ông thầy coi nước nói năm nay tôm tép khá lắm đây (…) Không biết có phải là những lời an ủi, vực nhau đứng dậy rồi bị đồn đại ra không, nhưng tôi biết ơn mấy ông lắm lắm, khi nhen lại cái khát vọng sống trong lòng người Hưng Mỹ. Ờ, sống để mà bước tới” (tr. 50).

Từ xưa đến nay, hy vọng vẫn luôn luôn là liều thuốc trị được bá bịnh – trừ bịnh ỉa chảy dĩ nhiên! Chú Hai sạt nghiệp vì đổi qua nghề nuôi vịt, nhưng ác thay, lại trúng nhằm mùa dịch cúm gia cầm. Nợ ngân hàng lút đầu. Vậy mà trong nhà vẫn không ngớt tiếng cười rộn rã. “Rầu cũng nghèo mà cười cũng nghèo, sao mình hỏng cười, hỏng hy vọng cho đỡ khổ hả cô?” (tr. 113). Chí lý! Thiếm Hai duy vật biện chứng Mác Lê như vậy rất là chí lý, nghe lọt lỗ tai hết cỡ nói. Dân Hậu Giang ta bao giờ cũng lạc quan... hết thuốc chữa. Vì có sao đâu? “Lúa thất thì hy vọng trúng mùa sau, giá rẻ như bèo thì cứ đinh ninh năm sau sẽ được giá. Lứa này tôm chết thì chờ lứa sau, lúc thả bọc tôm nhỏ như cây kim xuống đầm, vẫn mong mai này còn gặp lại chúng” (tr. 113/114). Tư chợt bừng mắt trước một điều hết sức hiển nhiên – hiển nhiên tới mức người ta không để ý, như cái không khí mình đang thở chẳng hạn. “Tôi nhận ra rằng, nông dân mình xưa rày có món đặc sản “độc” lắm, nhờ món đó mà họ sống từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ đời này sang đời khác. Đó là “hy vọng” (tr. 113)

Hết vớt tôm chết thì tới chôn vịt sống. Hết cúm gia cầm thì có liền “bão tôm” thổi tới “từ tốn, lặng lẽ, mà bào mòn sức chịu đựng của con người”. Lo gì! “Vớt từng con tôm nhỏ bằng ngón tay út lên lòng rưng rức, đứt ruột (...) Có ai làm gì nó đâu mà nó chết, mình quý nó còn hơn mạng mình nữa mà? (...) Má tá hoả khi biết hầu hết tôm giống trên thị trường không hề được kiểm dịch” (tr. 118). Này! Đừng có vu oan cho Nhà nước nhé cô Tư! Nhà nước ta ngày đêm không ngừng lo lắng đào sâu giải pháp cho nhân dân. Nhà nước không ngừng quy hoạch, không ngừng chuyển dịch cơ cấu sản xuất. Người khác chỉ rành có sáu câu, chứ Nhà nước ta thì rành tới sáu câu... rưỡi. “Người dân bao đời gắn bó với cây lúa bây giờ nôn nả cho nước mặn vào đồng để nuôi tôm” (tr. 99). Cũng hợp lý thôi. Cây lúa cần nhiều nước ngọt mà thu hoạch lại quá ít ỏi thì thay nước mặn vào! Còn chờ gì nữa? “Chỉ mới một mùa tôm (đầu) thôi, bác à, nhưng đó là mùa tôm người nông dân vùng chuyển dịch vắt kiệt mình ra trước bao nỗi cực nhọc, buồn vui” (tr. 116). Vắt kiệt? Cô đừng có quá nhời chứ cô Tư. Đã vắt kiệt rồi thì làm sao vẫn cứ còn vắt hoài được hoài? “Chuyện tôm chết nông dân đã rành sáu câu rồi, chỉ khác, đây là năm thứ tư tôm chết, nghĩa là năm thứ tư nông dân Cà mau vắt kiệt mình trong nỗi lo đói nghèo” (tr. 108). Năm thứ tư? Tội nghiệp quá nhỉ? Nhưng ba bốn năm nay chịu đựng nổi, chắc bà con nông dân ta vẫn hãy còn đủ hy vọng để mà lướt qua năm thứ năm. Và không chừng còn “dư sức qua cầu” luôn năm thứ sáu.

Mùa “bão tôm” từ tốn và nạn tôm chết hà rầm dàn trải lê thê trên nhiều bài viết của Tư trong Tạp văn: “Ngậm ngùi Hưng Mỹ”, “Thư từ quê”, “Đi qua những cơn bão khô”, “Chờ đợi những mùa tôm”, “Gió mùa thao thức”... Trong cảnh cùng quẩn, người dân quê ngước nhìn lên “trên” để mong cứu giúp. “Trên” đây không phải là “trên Trời” hay “ơn Trên”, mà là “ở trên”. Rồi “ở trên” mới ra tay ban phép mầu ra làm sao? “Mấy ông Nhà nước không nghĩ ra cách nào cứu tụi tui, để vầy hoài, hai năm nữa không chết đói cũng chết vì trộm cướp cho cô coi, bần cùng sanh đạo tặc, ông bà mình dạy vậy” (tr. 108). Làm gì mà lo xa quá vậy? Mới chỉ có bấy nhiêu đấy thôi mà bà con đã kêu trời như bộng! Cũng tại bà con hết đấy chứ. “Báo chí than bà con mình thiếu thông tin, thiếu hiểu biết rầm trời, các chú “ở trên” nhằn, bà con mình nóng vội quá” (tr. 118). Thì lỗi tại bà con rành rành đây này! “Thuở đời nay, năm nào mấy ổng cũng lên ti vi kêu năm này phấn đấu đạt năng suất cao hơn năm trước, khuyến khích giống mới này trúng hơn giống cũ, vậy mà làm ra hột lúa trần thân, bán không có giá, mấy ổng đổ thừa tại nông dân làm cho cố mạng nên bán không được” (tr. 184). Nhưng đổ thừa như vậy cũng đâu có trật. Làm chi mà làm cho cố sát, ai mà ăn dộng cho hết. Hơn nữa, bây giờ bà con ta lại còn bày đặt “phấn đấu” với lại “năng suất” năng siết rùm beng. Hồi xưa ở Cờ Đỏ, má tui cũng có một thời cày thuê cấy mướn, nhưng đâu có biết “phấn đấu” với “năng suất” là cái khỉ mốc gì! Vậy mà vẫn có gạo ăn hoài hoài.

Bà con cứ đòi hỏi Nhà nước phải có bổn phận đối với nhân dân. Chớ còn cái bổn phận của nhân dân đối với Nhà nước bà con để nó ở đâu? Bộ quăng nó cho chó ăn hết rồi hả? “Khi đôi bàn tay gầy guộc của tôi vuốt lại những tờ bạc lẻ nhàu nát lem luốc mồ hôi, dầu nhớt... để nộp thuế cho đằng phường, nghĩ tới mấy vụ tham nhũng động trời ngay tại quê mình, nghĩ tới những bữa tiệc vung vinh tiền triệu, chắc cái mặt tôi buồn hết biết, mà tôi còn khóc, hổng chừng...” (tr. 166) Thôi mà Tư! “Lau mắt đi em, đêm đã khuya rồi, buồn chi nữa em?” Tư hãy bắt chước cái lạc quan kinh niên của má mình. “Ai biểu làm nông dân làm chi. Chỉ hy vọng mấy ông “ở trển” làm cách nào cho dân bớt khổ, má tôi nhấn mạnh, bằng cái giọng hết sức tin tưởng, “Mấy ổng hứa rồi...” (tr. 185). Đó thấy chưa! Ngày nào mà mấy ổng còn hứa thì bà con ta vẫn còn có “quyền” hy vọng. Hy vọng dâng cao, hy vọng miên man, hy vọng tràn trề, không biết để đâu cho hết. Vậy thì bà con còn than cái nỗi gì? “Thôi thôi... Đủ lắm rồi! Xin đổi giùm cho tuồng khác. Thành thật cám ơn đồng chí.”

Khi bị vây kín bốn bề bởi những khó khăn của đời sống, người ta thường có một phản ứng rất tự nhiên để bảo tồn lấy mình: chạy trốn! Bỏ đi nhậu, đi karaôkê, đi du lịch. Hoặc coi phim bộ, đi ăn tiệm, đi gặp gỡ bạn bè, nói chuyện tào lao, đàn đúm ca hát. Nếu không làm gì được hết thì người ta chạy trốn thực tại bằng cách lùi sâu vào cõi không thực. Thả hồn về những kỷ niệm đẹp ngày cũ. Về những ký ức có bóng mát cỏ cây, có tiếng nước vỗ lách tách, có tiếng lá khua tâm sự rì rào. Về những dòng sông thương nhớ, về những đò xưa bến cũ, về những cuộc tình dang dở bây giờ đã mây trôi...

Nắng Tiền Giang mưa Hậu Giang
Sông Mỹ đò đưa bến Vĩnh Tràng
Bên chùa tôi đã ôm em siết
Xa rồi còn tiếc chuyến đò ngang

Cái phản ứng để tự vệ của Tư trước những bức bách của đời sống cũng vậy thôi. Trong đời Tư cũng đã từng có những dòng sông cũ, những bến đò xưa, những “Trăm năm bến cũ con đò”. “Trăm năm để lỡ hẹn hò, Cây đa bến cũ con đò khác đưa”. Một bến đò cũ nào đó để Tư thả hồn mình về đó nổi trôi, hầu dìm bớt đi những nỗi muộn phiền đang vây khổn tư bề. “Bến đò nằm cạnh nhà. Có thể nghe được tiếng bước chân người xoèn xoẹt lại qua, nghe mũi đò chạm lịch kịch vào bến, và tiếng chèo chém ngọt vào mặt nước những lát cắt dày. Và nhiều khuya nghe tiếng gọi đò xao xác (...)” (tr. 163). Rồi tự hỏi biết đâu chừng mình đã nghe lộn tiếng gì thành tiếng gọi đò của ai đó. “Đêm nghe tiếng ếch bên tai, Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò” [2] . Khách đi đò cũng khác nhau lắm. Có khi là những người phụ nữ đi chợ sáng lấy đò trưa trở về bên kia sông. Có khi là đám học trò đứng ngồi lóc nhóc trên đò qua bờ bên này để tới trường. “Có người qua đò rồi quay về, có người không trở lại. Bến đò cũng là nơi nhiều đứa con gái qua sông lên thành phố rao bán mình trong những “chợ vợ”, để lại mấy thằng con trai chiều chiều ra bến đón đã đời mới ngơ ngác, trời ơi, mình đang chờ ai đây?” (tr. 166). “Chiều chiều chim vịt kêu chiều, Bâng khuâng nhớ bạn chín chiều ruột đau...” Dứt một cuộc tình. Tàn một đời trai. Rồi đời trinh nữ. Khóc đi em!

Dòng sông cũ, con đò xưa đã êm đềm đưa Tư lâng lâng vào “Đôi bờ thương nhớ”. Chiều qua, Tư nhận được thư của bạn mình báo sẽ cố thu xếp trở về cố hương thăm nhà. “Rồi bạn kể ra một dọc những cảnh moi từ ký ức cũ, nào là những tàn cây trứng cá đằng góc sân, hàng điệp đỏ gie mình ra mé nước che cái bến, mấy chiếc xuồng ba lá buộc dập dềnh vào chân cầu” (tr. 123). Bạn xa xứ vậy mà đã 12 năm rồi. Mười hai năm đã trôi qua, biết bao là vật đổi sao dời trên cái xứ sở nát tan này. Và cũng biết bao là đổi thay trong công cuộc vá víu lại đất nước. Vì vậy, khi thấy bạn mình nhắc nhở những cảnh xưa mà bạn còn nhớ, Tư đâm lo ngay ngáy cho bạn mình. “Nhà cũ của bạn tôi nằm đâu? Cái xóm nhỏ nhìn ra sông, đón nắng từ sông, uống gió từ sông đó bây giờ đâu? Thở dài. Những ngôi nhà trống huơ, hoang tàn, trơ trơ gạch ngói, cái còn cái đã ngụp một nửa dưới nước...” (tr. 124). Khi thư bạn nhắc lại cảnh cũ người xưa, Tư cũng thầm tiếc và ước ao mình có được phép mầu để dựng lại ngôi nhà cũ, trồng lại hàng điệp đỏ, trồng lại cây trứng cá lá mềm năm xưa, và còn nhiều thứ khác nữa... Nhưng rồi Tư bỗng giựt mình chợt nghĩ lại. “Tỷ dụ như tôi làm được những điều phi thường ấy thì bạn của tôi ơi, cái hồn quê, hồn đất năm xưa đã không còn. Mà tánh bạn cũng như tôi, khăng khăng hoài: “Hoa nào đẹp bằng hoa tuổi nhỏ, Ổi nào ngon bằng ổi năm xưa”. Kỷ niệm của những ngày tuổi trẻ vô giá” (tr. 128). Chẳng những vô giá mà lại còn hết sức cần thiết nữa. Ôm vào lòng mình kỷ niệm dĩ vãng (và ôm luôn cả hy vọng tương lai) như cái phao nổi, hầu giữ cho mũi mình còn lé đé trên mặt nước trong hiện tại để mà thở. Cũng được! Cũng tốt thôi!

May mắn thay! Trong lúc Tư còn lặn hụp chới với giữa dòng kỷ niệm ngoài khơi thì còn có được một người đứng trụ hai chưn rất vững trên đất liền để mà... lạc quan. Phải! Có thiệt. Và Tư đã gặp con người lạc quan đó: nhỏ Bèo! “Má ơi! Con quạ nó đứng chuồng heo, Nó kêu bớ má bánh bèo chín chưa?” “Chín rồi! Đừng có kêu nữa, coi chừng tắt tiếng!” Bèo! Một nhỏ bạn lâu quá chừng không được giáp mặt. Mà giáp mặt rồi thì sao? “Bèo rối rít mời tới nhà chơi, mà, cái giọng của con bạn, trời ơi, nó tươi rói, giòn tan, sung sướng, tự hào (...) Rồi nó cười hực hỡ, rạng rỡ, như thể nhà nó là một thiên đường“ (tr. 60) Một thiên đường! Thiệt sao? Cái nhà của con nhỏ đó ra làm sao mà nó le lói quá cỡ thợ mộc vậy? “Ai dè nhà nó nằm tuốt trong con hẻm Cỏ sau lưng siêu thị. Đó là một con hẻm dài, hẹp te, tối tăm, sình bùn ọp ẹp, ngoa ngoắt (...) điệu này, tới cuối hẻm, chắc nhà chỉ còn bằng cái miễu Ông Tà” (tr. 60) “Hoàng hôn dần xuống, tiếng chuông chiều dần dần vẳng xa, em Bèo xanh lướt nhẹ gót hồng từ từ trôi sâu vào hẻm Cỏ tím, để rơi lại sau lưng mình một mùi hương vương vấn của cỏ nội hoa đồng...” Tuyệt! Thơ mộng ngất ngư. Lãng mạn thấu trời! Vậy mà chê con người ta là chê ra làm sao? Còn...
oc huong
#80 Posted : Monday, March 24, 2008 3:15:29 AM(UTC)
oc huong

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 1,180
Points: 0

Chuyện vui điện ảnh
Nguyễn Ngọc Tư



Người ta nói chú Sa y chang như cầu thủ bóng đá Vũ Công Tuyền của tuyển quốc gia. Vũ Công Tuyền sáng chói ở tuổi ba mươi, còn chú Sa bốn mươi bốn tuổi thì tự nhiên nổi tiếng toàn quốc. Chú Sa sống ở hẻm Cựa Gà, ngó ra dốc cầu Quay cũ. Ðầu hẻm có dựng cái bảng "Hẻm văn hóa 115", nhưng người trong thành phố vẫn quen gọi là hẻm Cựa Gà. Nghĩ lại, để chữ "Hẻm văn hóa Cựa Gà" cũng bậy, nghe nó tệ nạn làm sao ấy. Người trong hẻm làm đủ nghề, từ mới vô ngạch công chức cho tới cán bộ về hưu, từ công nhân cho tới bán bắp luộc, mua ve chai lông vịt, thiến heo... Họ gọi đó là nghề tay mặt. Nghề tay trái là đóng phim. Bà con mê đóng phim lắm, không phải vì sống được mà vì vui. Người đầu tiên rủ mọi người vô nghệ thuật diễn mướn là chú Sa. Chú Sa làm bảo vệ kiêm thêm trồng bông xén cỏ ở hãng phim truyền hình, người rất quý bà con trong xóm. Chú thấy không thể để cho ngoài trăm khuôn mặt quanh mình cả đời sống thầm sống lặng, kẹt trong hẻm này hoài. Chú kéo cả xóm đi đóng phim để an ủi mỗi người có lúc thấy mình vô phim khác ngoài đời. Bây giờ là trào lưu làm phim chiến tranh để nhớ về quá khứ, mà hễ làm loại phim đó là phải cần thiệt nhiều diễn viên quần chúng. Thanh niên vô vai lính, lúc bên mình, lúc thay áo qua bên giặc. Ông bà già, con nít đóng vai dân, nhiều nhất là dân chạy loạn. Sồn sồn cỡ chú Sa hóa trang vô vai lãnh đạo tham mưu hoặc làm quan Tây. Tuổi nào có vai nấy, chạy ào qua cái mương, nước văng sáng trắng, có thấy mặt mũi gì đâu nhưng vẫn gọi đây là vai, vẫn vui. Dân hẻm Cựa Gà hồi nào giờ nổi tiếng hịch hạc, dễ chịu. Riêng về chú Sa, một lần diễn vai ông nông dân, thằng sĩ quan ngụy chạy lại lia lia cây súng hỏi: "Thằng Việt cộng chạy hướng nào?". Chú Sa chỉ. Giặc chạy đi. Máy quay cận cảnh chú Sa mằn mằn cái đầu khăn rằn, cười bí hiểm kiểu như "tao xỏ mày đó, thằng ngu"... Tính đi tính lại, đó là vai có da có thịt, mặt mày rõ ràng nhất của chú.



Vậy mà bây giờ chú được diễn chính mới lạ chứ. Cơ hội tình cờ thôi. Hôm đó đạo diễn Long Xưởng vừa mới đọc xong kịch bản, qua phòng giám đốc cãi cọ một hồi về vụ thiếu kinh phí mà bắt làm phim cho hay, rồi dắt xe ra cổng. Lúc đó chú Sa đang đuổi mấy thằng nhóc lẻn vô đá banh trong sân. Tụi nhóc ôm trái banh chạy lòng vòng, chú Sa lụi dụi đuổi theo. Miệng la, mắt trợn trắng, râu tóc dựng ngược. Lúc đầu ông đạo diễn còn cười, sau đó đứng thỗn ra, nhìn chăm chăm. Ông Long Xưởng nói:



- Tôi cho ông năm triệu!

Chú Sa giật mình:

- Giỡn hoài, làm gì cho tôi dữ vậy?

- Ðóng phim.

Ðạo diễn nói thiệt gọn.



Nhưng dính vô nghệ thuật rồi mọi chuyện đâu có gọn như vậy. Dứt khoát là không giống như chuyện đóng cổng, tưới bông mỗi ngày rồi. Chú Sa cầm xấp kịch bản để coi trước về tới đầu hẻm mà vẫn còn run. Chú tính thôi đi. Chú ghé quầy cô Thư ngồi chơi. Cô Thư nhìn chú chằm chằm: "Bộ bữa nay anh Ba bị rầy hay sao mà bần thần vậy?". Chú lắc đầu. Con bé Mén, con gái cô Thư, đi học về mồ hôi mồ kê nhễ nhại, nó chúi đầu vô cái quạt máy, tay vỗ vỗ đầu gối: "Má tính làm sao chớ con lội bộ chịu hết nổi rồi - nó ngước qua chú Sa - thiệt đó chú Ba". Cô Thư phân trần với nó mà nhìn chú Sa như là nói với chú:



- Con coi, cái sạp mình dột te mà còn chưa có tiền sửa, mưa gió có buôn bán gì được đâu. Chiếc xe đạp coi được cũng năm bảy trăm nghìn chớ đâu ít.



Chú Sa nhìn cảnh gà mái nuôi con mà ngậm ngùi. Chờ con Mén đi vô nhà rồi, chú Sa mới thủ thỉ:

- Ở hãng người ta định giao cho tui đóng phim vai lớn.

- Mèn ơi - cô Thư la lên - Thiệt vậy sao anh Ba? Vai chính hả?

- Ừ, cũng gần chính, có điều vai ác.

- Thôi, chuyện đó mà nhằm nhò gì. Em ủng hộ anh Ba hết mình.



Hẻm Cựa Gà cũng ủng hộ chú Sa hết mình. Tối tối đi làm về, bà con tụ lại nhà chú, đọc thuộc lòng kịch bản, vô vai cho chú diễn thử luôn. Chú Sa diễn vai thiếu úy Cón (nghe cái tên thôi cũng thấy ghét rồi), một tên ác ôn giết vợ, hãm hại vợ người, tàn sát trẻ nít, huênh hoang phá xóm phá làng, sau chết vì bị chó điên cắn. Bên chính diện có diễn viên Hoàng Bửu với Khánh Trang đang nổi lên là hai diễn viên ăn khách, một đôi ăn ý. Bác Tư Cự vui vẻ bảo: "Vậy là chú Sa mày so cựa toàn thứ dữ không rồi, nhưng mà hổng sao, mình làm cho kỹ thua gì tụi nó". Cô Thư lo cho chú nhiều nhất, cô khuấy sữa bột gà nóng đem qua cho chú Sa bồi dưỡng, chú uống cái nụ cười của cô ngọt ngào, béo ngậy tới ba bữa sau còn chưa tan. Cô thì hay cười lắm, lúc cười mấy nếp nhăn chỗ khóe miệng dãn ra, cô trẻ lại chừng năm tuổi. Má con Tí Hoa làm nghề bán bắp nướng biểu "bà Thư lấy chồng cho rồi". Cô Thư cười: "Tui đang chờ người ta". Chú Sa đánh lô tô trong bụng, biết cô Thư nói tới mình. Khi đi theo đoàn làm phim ở Long Khánh hơn mười lăm ngày, chú Sa nhớ nhất là cô Thư. Chú đinh ninh hoài lời cô: "Em thấy anh diễn không thua gì cảnh chuyên nghiệp đâu nghen. Nội em thấy tướng anh vô vai đó là ngon rồi".



Chú Sa vẫn nể cô Thư vì cô hiểu biết cuộc đời rất sâu sắc do đọc nhiều báo. Cô nói y như thật. Khi chú mặc bộ đồ rằn ri vô mình rồi, ông đạo diễn không chê vào đâu được Long Xưởng hô máy một cái là nét mặt chú Sa lạnh như người chết, con mắt trắng dã, lừ đừ, nụ cười bí hiểm. Lúc quay cận cảnh khuôn mặt chú còn ghê nữa, da sần sùi, u uẩn như da cóc, tay chân đầy lông lá, cái răng cửa gãy chìa ra một nụ cười chết chóc với lỗ trống sâu hun hút. Trả lởi phỏng vấn báo Ðiện ảnh, ông Long Xưởng không tiếc lời khen: "Từ hồi tôi làm đạo diễn tới giờ chưa gặp diễn viên nào đóng hay như thế".



Sau câu nói đó, chú Sa nổi tiếng khi phim vẫn còn làm hậu kỳ. Báo chí đua nhau nói về chú, một diễn viên không chuyên, như thể chú cứu vãn tình hình điện ảnh nước nhà vậy. Chiều nào đạp xe về cô Thư cũng chào chú Sa bằng nụ cười rạng rỡ: "Bữa nay báo có anh nè, hình bự lắm, đẹp lắm". Chú Sa rẽ xe lại, cùng cười, trong lòng ước cô Thư hiểu được chú ghé lại là chỉ vì cô chứ không phải do cuốn báo có in hình chú. Lật qua lật lại một chút, chú Sa kẹp vô đó hai triệu rưỡi bạc vừa mới được ứng ở hãng. Chú ngại ngần như người ta mới đi hối lộ lần đầu:



- Cô mua chiếc xe cho con nó, còn lại mướn thợ sửa cái kiốt, chắc không dư bao nhiêu đâu. Ðể tôi lãnh hết tiền còn lại tôi cho cô mượn luôn làm vốn bán truyện tranh, tụi con nít mê lắm.



Cô Thư xúc động tới ngẩn ngơ:

- Thôi , đừng anh, thì anh cũng để xài chớ...

- Tôi chỉ cần năm bảy trăm để đóng cái giường đôi thôi cô Thư à, cô đừng ngại. Tôi một thân một mình, có nuôi ai đâu...



Phải cô Thư hỏi chú đóng giường đôi làm gì thì thế nào chú cũng nói luôn bụng dạ mình. Già cả rồi chớ còn son trẻ gì nữa mà ngần ngừ. Nhà cô Thư ngó ngang qua nhà chú Sa. Hai cái cửa hai nhà liếc xéo qua nhau tình tứ. Chỉ cần đứng chỗ cửa sổ là có thể nhìn thông thống qua nhà bên kia. Cô Thư sống với con Mén, chồng cô chết vì tai nạn công trường xây dựng. Chú Sa thì đơn chiếc từ buổi còn con trai. Chú Sa thương cô Thư không biết từ hồi nào (mấy thứ tình cảm thật lòng khó mà có cái mốc nhất định lắm, nó như những giọt nước nhỏ hoài nhỏ hoài xuống ly, tới một ngày cái ly bỗng tràn đầy), nhưng rõ ràng nhất là hồi cô leo lên mái nhà đóng tấm thiếc tróc nóc lại, bị búa đập giập tay. Chú nghe đau buốt trong lòng như chính chú bị giập tim vậy. Kể từ đó, cách này hay cách khác chú luôn giúp cô Thư, mót nửa tháng lương để ngày nào cũng mua giùm cô cuốn báo, lúc thì tạt qua Trường Cây Bưởi đón bé Mén về. Rồi sửa bộ vạt giường, chở cát về đắp sân, trồng bông trang đỏ, chú làm hết. Mệt mà vui phừng phừng. Bà con trong hẻm cười thì thà thì thụt, hỏi chú Sa sao không che cái mái ngang hẻm nối hai nhà làm một cho rồi. Chú Sa bảo: "Còn chờ ý người ta". Cô Thư cười cười hoài, biết tình ý ra làm sao. Nhưng gần đây nhất, sau vụ đóng phim, cô Thư có nói: "Không biết người ta nổi tiếng rồi có còn ghé chỗ em nữa không hen?". Chú Sa nói liền: "Ghé, ghé chớ, hổng ghé chỗ này thì biết đi đâu".



Chú Sa không ngờ.



Hôm đài truyền hình chiếu bộ phim Chiến tranh, cả hẻm nôn nao. Năm giờ chiếu phim thì bốn rưỡi nhà nào nhà nấy nấu cơm tươm tất rồi. Chú Sa mở ti-vi, bà con kéo lại, chú hồi hộp tới mức không biết ngồi đâu ngay trong nhà mình. Sau đó là tới phim. Hồi đầu mọi người còn khen chú mặc bộ đồ mắc toi đó coi oai thiệt, nhưng rồi sau đó nín bằn bặt, người ta quên chú Sa ở hẻm Cựa Gà đi, chỉ còn lại thằng Cón ác ôn. Thằng Cón cưỡng hiếp vợ một cán bộ Ðảng mình đang mang thai. Tới chừng biết đứa bé kia không phải con mình, hắn xé đứa nhỏ làm hai ngay trên giường đẻ, trước mặt người mẹ, cầm bằng đã giết chị ta. Phim bạo liệt, trần trụi. Thằng Cón chết, nó cũng không chết bình thường như người ta, nó chết trong dằn vặt. Cái mặt lạnh tanh gớm ghiếc của nó co giật méo xệch, bọt mép sùi sụt. Nó cắn vô mấy thằng lính đứng quanh nó. Ðiên dại tới lúc bị bắn chết. Mọi người theo dõi thằng Cón chết, vừa hể hả vừa ghê tởm. Ðúng lúc một chiếc xe kem đi ngang qua, tiếng chuông lảnh lót, con Tí Hoa giật mình khóc thét, chú Sa lấy đường phèn cho, nó còn khóc dữ, nó vùng khỏi chú với cặp mắt kinh hoàng và giấu mặt vô lòng má nó cho tới lúc màn ảnh xuất hiện chữ "sản xuất năm 2000". Chú Sa thở phào, mời mọi người uống trà và chuẩn bị ăn cháo gà nhưng hết thảy đã lẳng lặng ra về. Cô Thư tính ở lại, con Mén cũng lôi về luôn sau khi bỏ lại cho chú cái nhìn căm ghét. Chú Sa chới với. Sau tiếng khóc của con Tí Hoa, rõ ràng chú đã đánh mất một cái gì đó, lớn lắm, quả tình là không có gì bù đắp được.



Bộ phim thật sự gây tiếng vang. Ðám diễn viên chuyên nghiệp dắt xe qua cổng đã gật đầu chào chú Sa chớ không nghếch mặt lên đủng đa đủng đỉnh đi qua như trước. Nhưng họ chỉ xẹt qua xẹt lại cái cổng chưa đầy mười giây còn chú Sa thì cô đơn suốt buổi. Chú chỉ mong qua bộ phim này chú được sống yên ả, bình dị như cũ. Chú ngán nổi tiếng thiệt rồi. Bây giờ chú thèm được ghé chợ mua mớ cải xanh buộc ghi-đông đạp xe thong dong về hẻm Cựa Gà, ghé qua Trường Cây Bưởi đón con Mén (chú quên chuyện nó đã mua xe mới), tạt lại cô Thư để ngó cô cười. Sau đó chạy qua lối hẻm, qua tụi con nít đang chơi, tụi nó chạy theo xe, chú dừng lại chỗ cây me ông Tư Cự. Vô nhà uống miếng trà, tới chừng nghe mùi chiên xào mới sực nhớ mình cũng đói. Chú thèm đứng trong sân nhà cô Thư cầm cây kéo cắt tỉa đám bông trang đã đâm tua tủa ngọn. Ừ, chú chỉ mơ vậy, thèm vậy thôi.



Buổi chiều, chú ghé quầy báo cô Thư hỏi tờ An ninh thế giới dù biết chắc bữa nay tờ đó chưa ra. Trời ụp mưa, chú ngồi lại, buồn tình, than:



- Sao mà ra nông nỗi này hả cô? Chuyện đó chỉ là trong phim thôi mà.

Cô Thư thông cảm, an ủi:

- Bà con mình cạn nghĩ, cứ tưởng phim như ngoài đời: Tánh anh em biết, hiền từ chớ đâu có hung ác gì với ai. Mà cũng tại anh, đóng chi mà sắc dữ vậy không biết.



Chú Sa hờn trong bụng, "vậy mà nói hiểu mình". Tánh chú, đã làm thì phải làm cho tới nơi tới chốn, làm cà lơ phất phơ mà nhận năm triệu bạc của người ta thì lương tâm cắn rứt lắm. Hơn nữa đây là phim chiến tranh, thời chiến tranh biết bao nhiêu thằng ác ôn như vậy, nhiều thằng còn ác hơn, tàn bạo hơn. Chú ngồi giãi bày với cô Thư thì hết mưa con Mén về, nó nhìn chú lom lom như muốn bứng chú đi. Chú Sa thấy ngột ngạt quá nên từ giã về. Con Mén vùng vằng:



- Mai mốt đừng cho ổng ghé đây nữa nghe má.

- Trời đất, sao vậy con?

- Con thấy mặt ổng là con ghét.



Cô Thư biết là tại bộ phim. Cô kể về chiếc xe đạp, về cái sạp báo khang trang như bây giờ là nhờ chú Sa. Con Mén nguầy nguậy không nghe:

- Thì tui nói vậy đó.



Khi nó cộc cằn chuyển hệ sang "tui" thì cô Thư biết chuyện nghiêm trọng thiệt rồi. Thấy chưa, tiền bạc đâu phải lúc nào cũng xây đắp được tình yêu đâu... Tội nghiệp chú Sa dễ sợ.



Chú Sa vẫn tiếp tục đi về trên con hẻm hẹp te mà nghe trống vắng thênh thang. Tụi con nít nghe tiếng xe đạp chú tè tè lọc cọc thì chắc mẩm đứa nào đứa nấy mặt xanh mặt tím chạy vô nhà trốn. Tụi nó hỏi nhau: "Ổng đi chưa?", cũng tại má tụi nó nhát hoài, lì lợm, không ăn cơm là bị chú Sa ăn thịt. Rõ ràng là ấn tượng về thằng thiếu úy Cón mạnh mẽ quá sức tưởng tượng, rõ ràng là người ta bị giật mình bởi tội ác. Bà con ngại ngần ác cảm giạt xa chú đã đành, chí cốt như bác Tư Cự còn lánh chú. Chú qua nhà, bác Tư làm bộ day mặt vô tưới bụi hẹ kiểng, tưới hoài, nước chảy ròng ròng tràn ra hàng ba, ngước lên thấy chú Sa đang chỏi chân nhìn:



- Lâu quá ông anh không vô em uống trà?

Bác Tư cười gượng:

- Tui kẹt quá chú ơi - Rồi sợ chú Sa không tin, bác nói thêm - Tui đau bao tử.



Chú Sa gật đầu rồi đạp xe đi, buồn là buồn bác Tư không tin chú chớ không giận. Ai chớ chú Sa thì rành chuyện bác Tư. Quê bác ở Bình Hưng, coi phim chiến tranh quên sao được cảnh con gái đầu của bác bị thằng Nguyễn Lạc Hóa ở biệt khu Hải Yến moi gan, ăn thịt ngay trước mặt bác. Cũng như trong phim, cầm bằng tan nát hết lòng cha. Mà thằng Hóa ác ôn đó sao mà y chang thằng Cón ác ôn trong phim, thằng Cón mà chú Sa đóng.



Chú Sa thấy đây đúng là một tai nạn, có điều nó hành hạ chú lâu quá, không biết tới chừng nào mới thôi. Chú tỉ tê than với ông đạo diễn, ổng cười: "Mình hy sinh cho nghệ thuật mà". Chú quạu: "Nghệ thuật con mẹ gì, vì năm triệu đó chớ" . Làm ra đồng tiền chân chính đúng là đổ mồ hôi, sôi con mắt, mất mát tình thâm. Chuyện đâu có gì nhưng mấy hôm sau cô Thư chặn xe biểu chú Sa ghé lại, chìa tờ báo trước mặt chú, nét mặt giận hờn. Lật ra, mục "Chuyện vui điện ảnh" đúng là nói chuyện của chú than với Long Xưởng. Báo còn sáng tác thêm chuyện chú bị chọi đá u đầu. Chú Sa nghĩ tới nước đó thì chết còn sướng hơn. Cô Thư dằn dỗi: "Anh nói thiệt đi, vui lắm sao, vui lắm à?". Chú Sa định phân trần thì chực thấy cô Thư rơi nước mắt. Cô đã từng kêu chú ráng chờ cho bộ phim đó nguôi đi, phai đi, chắc bà con cũng quên mất đất chớ nhớ làm gì. Nhưng lòng cô lung lay, biết con Mén có quên được không, biết nó lớn nó có hiểu tấm lòng của má nó? Hay là tới chừng nó quên được rồi thì cô với chú Sa hai người đã chống hai cây gậy, móm mém hết, nói làm chi chuyện chung đôi. Những buổi tối, con Mén đi học Anh văn, cô Thư bắc cái ghế ngồi cửa trước, chú Sa bắc cái ghế ngồi cửa trước, giả bộ nhìn trời nhìn đất. Cô Thư thương con, sợ nó buồn. Và chú Sa thương cô, sợ cô buồn. Ðúng là "cách nhau một tấc, dài thêm khúc lòng". Chung quy cặn nguồn cũng tại chiến tranh hết, dù chiến tranh đã trôi qua mấy chục năm rồi.



Cũng may mà còn giọt nước mắt buồn tủi của cô Thư vì bị bộ phim mắc dịch đó ngăn trở, còn cái bóng cô ngồi cửa trước để nhớ nhau. Còn cặp mắt bần thần của ông Tư Cụ khi chú Sa một mình qua ngõ, còn những ký ức ngọt ngào về tình cảm giữa chú với bà con... Chú Sa đã bắt đầu thấy niềm vui cháy le lói trở lại.



Hằng đêm, chú Sa đốt nhang van vái hương hồn ba má chú, van vái đất trời cho gián nhấm, chuột cắn bộ phim đó hoặc giá nó sẽ mốc meo trong kho lưu trữ đi cho rồi để mỗi dịp lễ lạt khỏi bị lấy ra chiếu đi chiếu lại, phiền lòng giữa buổi vàng thau...





Users browsing this topic
Guest (32)
5 Pages«<2345>
Forum Jump  
You cannot post new topics in this forum.
You cannot reply to topics in this forum.
You cannot delete your posts in this forum.
You cannot edit your posts in this forum.
You cannot create polls in this forum.
You cannot vote in polls in this forum.