Kiệt Tấn
Sông nước Hậu Giang và Nguyễn Ngọc Tư
phù sa nước đục khó dòm
nhớ anh em khóc đỏ lòm con ngươi
Lần trước, bài “Cái rầu bất tận của Nguyễn Ngọc Tư” đã giới thiệu hai tác phẩm của tác giả này: Ngọn đèn không tắt và Cánh đồng bất tận. Bài sau đây bổ túc và đề cập tới hai tác phẩm còn lại: Giao thừa và Tạp văn.
Nắng Hậu Giang mưa Tiền Giang
Nhìn nhau mà lệ rớt hai hàng
Câu ca vọng cổ chìm trong tối
Mùi mẫn còn rung dưới nguyệt tàn
Từ Ngọn đèn không tắt qua đến tập truyện Giao thừa, Nguyễn Ngọc Tư đã bỏ bớt được tính chất học trò trong cách kể chuyện và ngay cả trong lối viết. Tư trở nên già dặn hơn. Truyện kể cũng đơn giản thôi, nhưng mạch lạc hơn. Tập Giao thừa gồm 17 tựa truyện cho 161 trang. Thể văn nói chuyện linh hoạt tự nhiên, không cường điệu ồn ào. Văn gắn bó với đời sống, chơn chất, không sần sùi ngổ ngáo như lối viết “mới” hiện nay. Cách nói thành thật hiền hoà, không xốc táp ngang ngược. Người đọc không thấy ở Tư cái cố gắng “làm văn chương”, không có những câu văn thời thượng, trau chuốt, không có những kiểu nói om sòm mà rỗng tuếch. Bình dị. Đơn giản. Dễ hiểu. “Có sao nói dậy”. Vậy thôi. Mà tại sao phải nói rắc rối? Nhiều khi nói rắc rối là nhằm để che đậy một sự trống rỗng, một cái dốt đặc nào đó ở mình. Cho nên phải “rắc rối hết cỡ nói!” cho thiên hạ tá hoả và phục lăn?
Trong tập Giao thừa, phần lớn bài viết có truyện – có chút truyện, hay gọi là… Đôi khi bài viết được dựng lên quanh một chi tiết, quanh một tình cảm thương ghét, quanh một quyến luyến, một quan tâm, để ý, “có cảm tình” giữa các nhân vật trong truyện. Chẳng hạn: “Giao thừa”, “Bởi yêu thương”, “Chuyện vui điện ảnh”, “Hiu hiu gió bấc”, “Một mối tình”, “Nhớ sông”…
Đọc vài ba truyện khác nhau, có cảm tưởng Tư mê cải lương, mê điện ảnh, và cũng có thể là mê làm đào hát luôn không chừng (?) Có gì mà lấy làm lạ? Đã làm dân miền Nam mà không biết mê cải lương, không biết mê vọng cổ là một thiệt thòi lớn! Truyện “Bởi yêu thương” nhắc tới gánh hát rã khiến cho người đọc ngậm ngùi. Hồi xưa, nhà tôi ở cạnh rạp hát nên tôi cũng đã từng chứng kiến hai ba gánh hát cải lương nhỏ rã gánh tại chỗ vì trời mưa ế khách. Rồi đào kép, hề diễu, người đờn, con nít lân la đi xin cơm ăn trong xóm. Nhưng cũng nhờ láng giềng cô bác thương tình nên không một ai bụng đói. Tình nghĩa đùm bọc đặc thù của người miền Nam. Mưa Tiền Giang nắng Hậu Giang. Những tay hảo hớn sống ngang tàng. Trái tim hào hiệp bao trời đất, Bốn biển anh em rượu rót tràn...
Ngoài mê cải lương, còn có cảm tưởng Tư bị ám ảnh bởi tên gọi của các nhân vật. Những cái tên trở đi trở lại trong nhiều truyện khác nhau, như Ông Chín, San, Xuyến, Điệp, Diệu, Giang... Tưởng chừng như những nhân vật đó có thật trong đời sống. Họ bị phăng cuốn trong dòng đời bất cưỡng, quanh quẩn trong rạch ngòi Hậu Giang chằng chịt, nay được Tư phân cắt thành những mẩu truyện ngắn. Biết đâu chừng khi nối liền hết lại, những mẩu truyện ngắn này sẽ kết hợp thành một truyện dài mạch lạc, một bức tranh đời éo le, lâm ly, ngang trái.
Còn một thứ không thể nào thiếu được trong tất cả các truyện của Nguyễn Ngọc Tư. Đó là sông nước: sông bốn phía, nước tư bề! Quơ chỗ nào cũng đụng nước, ngó chỗ nào cũng thấy sông. Nước là nền, sông là dòng cho ngòi bút của Tư triền miên tuôn chảy, cuốn theo những chữ nghĩa đầy ắp tình người như phù sa lợn cợn. Sinh đẻ ở miệt Hậu Giang, gắn bó với cuộc đất Cà Mau như Tư thì cũng không thể nào khác hơn được. Dứt sông là dứt hơi thở, cạn nước là cạn máu huyết. Là mất hết cái lẽ sống còn. Tư đặt tựa truyện: “Dòng nhớ” (tr. 47). Nhớ gì? “Nhớ sông” (tr. 154). Nhớ sông, nhớ nước, nhớ da diết, nhớ dai dẳng, nhớ muốn khùng, nhớ muốn điên. Nhắm mắt vẫn thấy, hôn mê vẫn thấy. Thấy hoài thấy huỷ.
Truyện “Dòng nhớ”: Một người đàn ông (gọi là ba) trốn nhà theo chung sống với một người đàn bà (gọi là dì) trên ghe thương hồ. Hai người có con với nhau, nhưng rủi ro đứa con nhỏ bò lọt sông chết chìm. Người đàn ông nghe theo lời má, bỏ sông lên bờ cưới vợ khác (gọi là má). Và tiếp theo đó, thỉnh thoảng dì trở lại neo ghe trên bến cũ để ngóng ba, người chồng giờ đây đã vuột khỏi tầm tay mình. “(...) chuyện xảy ra lâu rồi, nhưng người ta vẫn còn nhớ, vẫn còn cắm sào trước bến nhớ ba tôi, vậy mà biểu ba tôi quên cái rụp thì làm sao quên được” (tr. 51). Cắm sào thì cắm sào, đậu bến thì đậu bến, nhưng “người ta nhớ thương đứt ruột có thể chạy ào lại để gặp nhau, nhưng vì lương tâm không làm được, đành ngồi đây ngó lên, ngồi ở trên ngó xuống” (tr. 56).
Còn người đàn ông trên bờ cũng không ngớt ngóng ra sông mà nhớ người thuở trước. “(...) đêm đêm cả nhà đi ngủ, ba tôi ngồi hút thuốc trên bộ vạt kê trước nhà, chống rèm lên, ngó ra sông” (tr. 50). “Những đêm đó, ba tôi hút thuốc dữ, cứ nhìn chong chong ra ngọn đèn đỏ ối, nhỏ nhoi, buồn hiu ngoài kia” (tr. 51). Tâm can rời rã, tuy có mặt đó mà cũng đồng thời vắng mặt: “Ông đang ở đây nhưng tâm hồn ông, trái tim ông, tấm lòng ông chảy tan vào dòng nước tự lâu rồi” (tr. 50).
Bằng lối viết dung dị, Tư đã làm bật sáng lên được cái tương tư của hai người tuy cách mặt nhưng không xa lòng. Tương tư đôi chốn tình ngàn dặm, Vạn lý sầu lên nối tiếp mây… [1] Cái thương nhớ tơi bời hiện lên theo từng hình ảnh rõ nét, khắc khoải theo từng chữ viết dung dị mà đúng tận tâm can.
Rồi người đàn bà bỗng dưng bỏ bến sống đi biệt, không còn bao giờ trở lại bến xưa cắm sào mong ngóng nữa. Và cuối cùng người đàn ông chết trong mong đợi, thi thể vùi chôn ở vườn nhà. Người vợ cho dù có hờn ghen hừng hực cũng thấu hiểu được tấm tình khắng khít giữa ông chồng bền lòng và tình địch bền dạ của mình.“Má tôi vẫn không ngừng tìm dì, hỏi để làm gì, má tôi nói để cho dì hay và nói với dì, nếu sống mà không gần được, chừng nào chết, mời dì lên nằm trên đất vườn tôi” (tr. 57). Người đàn bà muốn giúp cho chồng mình chấm dứt dòng nhớ. Nhưng liệu được chăng khi dòng sông vẫn còn đó, con nước vẫn trôi hoài, vẫn trôi xa tắp về miền bất tận. “Đó là nỗ lực cuối cùng má tôi làm để chấm dứt cái cảnh ba nằm bên má mà hồn vẫn hướng về những dòng sông miên man chảy” (tr. 57).
Những dòng sông… Ôi! Những dòng sông… khiến chợt nhớ thơ Nguyễn Bính: “Sông đụng đâu sông, sông gặp sông, Thuyền xuôi theo nước, nước theo dòng, Người về người gặp quê người đó, Ta gặp ai đây giữa bụi hồng?”
Và những dòng sông, những dòng nhớ của Tư vẫn cứ tuôn chảy miệt mài, len lỏi trong khắp cùng ngõ ngách Hậu Giang. Cuối cùng, dòng nhớ biến thành một nỗi nhớ mong khắc khoải: “Nhớ sông”, bài viết chót trong tập Giao thừa. Mà không nhớ sao được, khi cả cuộc đời ba, cả cuộc đời má, cả cuộc đời hai con mình đều gắn bó bền chặt với sông nước. “Bây giờ hỏi lại, Giang nói không có con kinh, con rạch nào mà ghe chưa đi qua, không có đường ngang ngõ tắt nào mà ông Chín không biết. Xuôi dòng, ngược dòng, con nước kém, con nước rong... Không ai nói với ai, nhưng cả nhà ông đều nghĩ, chắc là sống như vầy hoài, như vầy mãi thôi. Chị em Giang đùa nhau, sau này lấy chồng ra riêng, ba cho mỗi đứa một chiếc ghe” (tr. 156).
Giang tự nó nghĩa là sông, cái tên như một định mạng trói buộc từ đời nào với rạch ngòi. “Giang không hiểu sao mình nhớ hoài, nhớ ràng ràng cái ngày đó. Cho nên qua vàm lần nào, Giang đều kéo con Thuỷ ra, Giang chỉ, má chết chỗ này nè” (tr. 156). Má trợt sào té đầu đập vào cái gờ sắt, đôi chân còn bíu vào ghe, rồi cả thân người hụp vào lòng sông, chìm lĩm. Vợ chết, ông Chín vẫn tiếp tục chở hai đứa con gái đi bán hàng bông xuôi ngược trên khắp các ngả sông ngòi. Thuỷ mê đất từ hồi nhỏ, từ thuở còn bồng. “Giang nhắc, ờ phải em ham đất lắm, hồi nhỏ ghe đậu bến nào chế cũng coi em bắt mệt, cứ xoay lưng là em chổng mông cạp đất ăn ngon lành” (tr. 159). Chế là tiếng Tiều châu để gọi chị mình.
Rồi cái mộng ước định cư trên đất liền của ba đã (hay gần như) trở thành sự thật: Giang lên bờ, lấy chồng tên Thuấn ở Đập Sậy, có đất làm ruộng. Những tưởng một khi đã lên bờ định cư rồi là quên được sông. Nhưng liệu quên được không? Thỉnh thoảng ông Chín ghé qua nhà Thuấn thăm con gái và nhậu tì tì với thằng rể tốt bụng. “Ghé Đập Sậy, Giang đòi ông Chín ở lại một đêm, cho Giang xuống ghe ngủ với con Thuỷ. Giang than nức nở, “Trời ơi con nhớ ghe quá trời đất đi”. Xuống ghe, Giang đưa tay rờ rẫm từng món hàng, từng miếng sạp” (tr. 157). Rượu vô ngà ngà, Thuấn than thở với ông già vợ của mình: “Thường thì cơm nước, quét dọn xong, để hở ra giờ nào Giang lấy xuồng chèo đi giờ ấy. Trời đất, nó đi đâu? Thuấn cười chua chát, “Hổng biết, nó chèo khơi khơi vậy đó ba à, con cũng nghi bậy trong bụng, có bữa con rình đi theo, vợ con chèo đã đời rồi nó buông chèo lủi vô đám lá, lấy tay vịn, ngồi ở đó. Rồi chèo về, vậy à” (tr. 158).
Trời ơi! Nhớ tới nước này thì phải gọi là ghiền mới phải. Nhớ sông ! Hay là ghiền sông, ghiền nước, ghiền bơi, ghiền chèo, ghiền cái mui ghe, ghiền cái sạp nằm, ghiền con sóng lăn tăn, ghiền dòng phù sa ngầu đục, ghiền tiếng nước khua bì bõm? Mà một khi đã ghiền tới mức này là kể như hết thuốc chữa. Chỉ còn nước trả Giang lại cho sông nước mà thôi.
Xếp quyển Giao thừa lại, người đọc tự hỏi Giang có phải là người con gái thứ tư trong một gia đình nào đó ở miệt Cà mau xa mút tí tè, nơi tận cùng đất nước: Cô Tư. Tư. Nguyễn Ngọc Tư, cô gái Hậu Giang có cái nhìn hiền hậu, có nụ cười thắm thiết và nước da bánh ít mặn mòi?
Mưa Hậu Giang nắng Tiền Giang
Cô em kẹp tóc bịt răng vàng
Cẩn tim xanh đỏ càng quê lắm
Mắt liếc khua theo guốc rộn ràng...
Mưa Hậu Giang nắng Tiền Giang
Bến sông san sát những nhà sàn
Võng trưa kẽo kẹt em tôi hát
Gió đưa bông thắm nở về chàng
“Ầu ớ… Gió đưa gió đẩy bông trang, Bông búp về nàng bông nở về anh… Ầu ơ…” Nhà sàn, loại nhà nửa trên bờ nửa dưới nước, dựng trên những chưn cột rắn rỏi đóng chặt xuống lòng sông, sàn lót bằng ván. Nhà sàn rất phổ thông ở vùng sông nước đồng bằng Cửu Long, như Bạc Liêu, Cà Mau, Cần Thơ, Vĩnh Long, Mỹ Tho…
Mãi đến khi bước chân vào Tạp văn của Nguyễn Ngọc Tư, “Trăm năm bến cũ con đò” tôi mới bắt gặp lại được chiếc võng đưa và mái nhà sàn ở miệt phù sa của Tư. “Cửa sau nhà tôi trông ra sông. Tôi thường ví đó là một khung tranh, có lúc nó hiện lên những chiếc tàu cao nghệu, hùng hục đi qua, che khuất cả dãy nhà sàn bên kia sông…” (tr. 163)… “Chỗ tôi ngồi có chiếc võng con giăng ngang căn chòi de ra mép nước” (tr. 165). Nhà sàn còn đó, con đò còn đó, võng giăng còn đó, mà tiếng “ầu ơ” ru em đã vỗ cánh bay đi mất biệt tự lúc nào. Có lẽ kể từ sau năm 75, kể từ lúc Tư chào đời và ngủ đưa trên võng, không còn ai nhớ hát ru con bằng những câu ca dao “ầu ơ ví dầu” nữa.
Thời tản cư ở Bạc Liêu, lúc tôi 5 tuổi, ghe ba má tôi trôi dạt xuống tận vùng Đầm Chim, Đầm Dơi. Thỉnh thoảng ba tôi nhắc tới tên sông Trèm Trẹm ở miệt Năm Căn, tôi không nhớ rõ mình đã có lần đi qua con sông đó hay chưa. Cho tới lúc Tư bơi xuồng ba lá đưa tôi đi thăm chợ nổi ở Cà Mau, tôi mới biết chắc là mình đang thả trôi trên dòng sông Trẹm. “Giữa chợ nổi Cà Mau, cảm giác như gặp được những khu vườn của miệt sông Tiền, sông Hậu, như nhìn thấy những rẫy khóm, rẫy mía miên man dọc trên miền sông Trẹm quê mình” (tr. 136). Ở Bạc Liêu, Cà Mau, rất đông người Triều Châu chuyên nghề làm rẫy – với những tiếng gọi nhau rất là chệt “Tiều”: tỉa, hia, chế, số, tùa củ, tùa nứng… (Nói Quảng nói Tiều !) Sông Trẹm, dòng sông ngầu đục đã chảy vào rẫy thơ của Lâm Hảo Dũng thời chinh chiến. “Ấy dòng sông Trẹm xưa nay, Còn thương cây mắm rễ cài trên không. Lênh đênh em một chiếc xuồng, Đời tôi lính trận cỏ bồng chân mây”. Đời trai thời loạn. Một cuộc binh đao. Một cơn máu lửa tơi bời. Bao nhiêu người đã vĩnh viễn nằm xuống trên xứ sở tang thương vì bom đạn? “Hận người con muỗi vo ve, Nên trong cuộc chiến bạn bè giết nhau, Ấy dòng sông Trẹm trôi mau…”
Hãy chậm dầm bơi lại để đi vào cái chợ nổi của Tư và bắt gặp “Chút tình sông nước”. Nằm giữa lòng thành phố Cà mau, quãng cuối sông Gành Hào, đứng trên cầu nhìn về phía mặt trời mọc, người ta có thể nhìn thấy một dãy ghe rập rờn xao động cả mặt sông, những cái chân vịt gác chổng lên loang loáng dưới mặt trời” (tr. 134). Tư thích nói về những cái chợ nho nhỏ họp nhóm chùm nhum ở miệt ruộng rẫy, những cái chợ chộn rộn đầy ắp tình nghĩa, thương mến, thân thuộc, nơi mà mọi người gần như đều biết hết mặt nhau. Chẳng hạn cái “Chợ bên đường” ở một làng quê hẻo lánh nào đó… “Như người phụ nữ chân quê, chợ nhỏ nhoi, hiền hậu, trầm tính dịu dàng (…) Buổi sáng sao mà dậy mùi thơm nồng hăng của rau húng lủi, húng cây, rau cần nước, cần rừng” (tr. 39). Nhưng gà vịt, cá tôm, rau củ trong vườn nhà bày ra đó chỉ để mong bán được, trả giá thấp cao, trông chừng, hoặc canh ngó thôi sao? Không, không ! Đâu phải chỉ có bao nhiêu đó. “Chị em chụm lại rôm rả với nhau chuyện chồng con, chuyện hàng xóm, ruộng lúa, vườn cây… (chuyện xóm quê mà, nói biết chừng nào cho hết)” (tr. 39). Khách từ phương xa tới và có dịp qua ngang chợ, hãy để ý. Hãy để ý cho tận tường, hãy ngó cho thiệt kỹ, hãy hít thở cho thiệt nồng nàn đi rồi sẽ thấy…
Nắng Tiền Giang mưa Hậu Giang
Xe lam về tới miệt Ba Càng
Ruộng khô thổi nóng lùa chưn tóc
Tóc em thơm phức mùi dưa gang
Nhưng liệu nói như vậy mà đã bày tỏ hết được tấm lòng của mình chưa? Chưa! Tư còn có thêm một cái chợ nữa: Chợ của má. “Tôi gọi những cái chợ ruộng dân dã này là chợ của má. Bởi nó hiền lành, lam lũ như má. Bởi chợ nhỏ nhoi, khiêm tốn như má, nhưng nó mang một cái hồn sâu, mênh mông lắm nên người ta nhắc nhở hoài, thương hoài như thương… má vậy”(tr. 151). Trong chợ của má, những người buôn thúng bán bưng là những ai? “Họ là những người gắn bó máu thịt với cảnh chợ quê này không chỉ vì mưu sinh mà là mối gắn bó thiêng liêng. Không có rau, không đi chợ, đâm… buồn. Có người lặn lội đi bán từng trái bình bát chín, không đủ tiền xe thì đi bộ, “miễn sao đỡ ghiền chợ” (tr. 153). Ở thành thị người ta ghiền quyền lực, ghiền tiền bạc, ghiền karaôkê, ghiền bia ôm, ghiền xăng nhớt, ghiền ma tuý thì ở miệt ruộng rẫy này, người dân quê họ… ghiền chợ ! Một loại ghiền rất tốt cho sức khỏe và càng thắt chặt thêm tình nghĩa xóm làng.
Đi vào thế giới Tạp văn của Nguyễn Ngọc Tư, người ta bắt gặp một trời một biển tình thương và gắn bó. Và cũng chính vì bởi gắn bó liền tay liền ruột với đất đai mà người dân quê phải gánh chịu biết bao là phũ phàng cay đắng, biết bao là nợ nần chồng chất, biết bao là thất vọng ê chề. Đôi ba người tự tử, rất nhiều người bắt buộc phải bán rẻ đất nhà mà ngậm ngùi bỏ xứ ra đi trong hờn tủi và nước mắt. Rồi sẽ thấy.
Tạp văn chia làm 35 tựa trải đều trên 186 trang. Cũng như trong ba tập truyện trước của Tư, trên trang nào của Tạp văn cũng bắt gặp thường trực chữ nghĩa và cách nói miền Nam, đặc biệt là miệt Hậu Giang của Tư. Đếm không xuể, kể không hết. Bút pháp cũng vẫn là giọng văn nói duyên dáng nhuần nhuyễn và tự nhiên của Tư. Lối viết này tạo cảm giác thân quen, gần gũi. Tuy nhiên, cũng nên cẩn thận, chọn lọc kỹ và dùng chữ cho chính xác. Vì nếu cứ viết phóng túng đẩy đưa theo hứng khởi, lối “văn nói “ sẽ rơi vào sự dễ dãi, cẩu thả, làm mất đi phần đóng góp cần thiết và quý giá của người viết: sự sáng tạo. Một khi sáng tạo mất rồi thì tính cách văn chương của bài viết cũng sẽ mất luôn, không còn lôi cuốn được người đọc nữa.
Hai thể loại Tư thường dùng nhứt là tuỳ bút và ký sự. Đề tài khá đa dạng: tiếc thương những vùng đất cũ, bàng hoàng trước những đổi thay sau “giải phóng”, lãng đãng những kỷ niệm về bạn bè ngày xưa, ám ảnh bởi cái nghèo xơ xác dai dẳng của người dân quê, phẩn uất trước thái độ tắc trách và nạn tham nhũng của cán bộ nhà nước. Cái tính chất văn chương ở các tập truyện Giao thừa, Cánh đồng bất tận đã phải tạm gác qua một bên. Cũng dễ hiểu thôi. Chạm trán từng giây từng phút với thực tế cam go, khắc nghiệt, gai góc, thử hỏi còn ai hơi sức đâu mà thẩn thơ vớ vẩn “Hôm nay trời nhẹ lên cao, Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn.” Trong thời khắc hiện tại, người dân quê bắt buộc phải đối đầu với những khó khăn sờ sờ trước mắt và bắt buộc phải nhận thức: “Hôm nay trời nặng lên cao, Tôi buồn “tôi hiểu” vì sao tôi buồn”! Đọc Tạp văn mới thấu hiểu được cái thực trạng thê thảm của người dân quê miền Nam sau “giải phóng”.
Bắt đầu Tạp văn là một cuộc hành trình trở lui về dĩ vãng, khi trời “Trở gió”. “Thoạt đầu, âm thanh ấy sẽ sàng từng giọt tinh tang, thoảng và e dè, như ai đó dứng xa ngoắc tay nhẹ một cái, như đang ngại ngần không biết người xưa có nhớ ta không” (tr. 7). Cơn gió gì mà lạ vậy? Và cứ hiu hiu như vầy hoài sao? “(…) bây giờ (nó) lớn thành một dòng gió, xấp xải, cuống quýt xốc vào tấm tôn bên chái đông đã bị đứt đinh từ mùa trước. Cồn cào. Nồng nhiệt. Mà thiệt dịu dàng. Ôi! Gió chướng” (tr. 7). Cơn gió chướng mùa trước, cơn gió chướng năm ngoái đã trở về thổi vào cõi lòng xốn xang của Tư những niềm nhớ không nguôi.
Tận cùng phương Nam đất nước, nơi mang địa danh Cà Mau, một mũi phù sa nôn nả lấn tràn ra biển Thái Bình, “Đất mũi mù xa”. “Nơi ấy, những ngôi nhà đều không cửa, nhà mở toang cho gió nam vào, chướng tới, bấc qua, nhìn nhà là hiểu người, chân thật đến bày cả gan ruột”(tr. 11). Làm nhớ những ngôi nhà không cửa do chính bàn tay thợ mộc của ba tôi và anh hai tôi chung sức dựng lên ở Bạc Liêu, ở Vĩnh Long. Một truyền thống Hậu Giang còn giữ được. “Người Đất Mũi sao mà hiền từ, mến khách thấu trời thấu đất vậy không biết, dường như sống giữa bao la trời, bao la biển này, người ta phải học cách thương nhau để khỏi cô độc” (tr. 14). Tuỳ bút “Đất mũi mù xa” của Tư là một bài viết vô cùng nồng nàn thắm thiết về phong tục và con người đất Cà Mau. Khiến nhớ muôn trùng.
Gió chướng còn đem về thêm cho Tư một nỗi nhớ khác nữa. Nhớ cái đầm nước mênh mông thuở trước, bây giờ đã xa. “Xa đầm thị Tường”: “Đầm Thị Tường là vùng đầm nước mênh mông với diện tích mặt nước hơn bảy trăm héc ta, quãng rộng nhất gần hai cây số, rộng tay mạnh dầm như dân xứ này, từ bờ nam sang bờ bắc mất hơn một ngàn lát dầm, từ bờ tây sang bờ đông nhìn mút mắt” (tr. 20). Người dân đầm Thị Tường chuyên sống bằng nghề đánh lú cá tôm. Mà cá tôm hồi thời trước thiếu gì, ê hề, ăn mệt nghỉ. Và một khi đã có mồi ngon rồi thì tất nhiên là phải có nhậu nhẹt. Cư ngụ chung quanh đầm là “những người hào sảng đậm đặc chất Nam bộ. Đàn ông nhậu một mâm thì đàn bà cũng một mâm. Đàn ông say thì ca vọng cổ, (…) đàn bà say chỉ nhảy múa cho vơi hơi rượu đi” (tr. 24) Rất nhiều người từ đầm đã ra đi để thành lập những xóm nổi tiếng là kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ thời trước. “Nguời dân móc ruột mình ra mà nuôi cán bộ, sống chết với cách mạng.”(tr. 24) Sống thì không biết sao, chớ chết thì thấy rõ trước mắt. Chết để nuôi hy vọng cho những ngày mai tươi đẹp huy hoàng, chết trong niềm mơ ước một tương lai xán lạn rực rỡ cho con cháu mình mai sau, dĩ nhiên. Để rồi coi. Nhưng còn cái đầm? Đầm Thị Tường bây giờ ra sao? “Chuyện cá tôm nhiều vô kể quanh năm, chuyện một chiếc xuồng con với vài tay lưới có thể nuôi cả gia đình đã quá xa vời. Chuyện xuồng đi tới đâu cá nược đuổi theo đến đấy chỉ còn là cổ tích” (tr. 25). Phải. Cổ tích, nhưng mà là một cổ tích kết cuộc không có hậu. Buồn năm phút! Hay buồn năm ngày, năm tháng, năm năm? Buồn dài dài… Buồn mút mùa lệ thuỷ!
Nhưng khét tiếng chống Pháp và “chống Mỹ cứu nước” đâu phải chỉ có mỗi một mình cái đầm Thị Tường. Còn một cái xã oanh liệt khác nữa. Nó là một trong ba xã vây quanh đầm. Ở đó cũng có toàn là dũng sĩ cứu nước, và toàn là bà già giết giặc hết trơn chớ bộ. Thiếu gì. Đếm không hết. Ở đâu ? Thì ở Hưng Mỹ chớ đâu. Người dân Hưng Mỹ can trường và trung kiên số một. “Nhớ những người dân áo vá, tay lấm chân bùn nhưng một lòng theo Đảng, theo cách mạng. Nhớ hàng ngàn cái hầm đào dưới những vườn dừa bạt ngàn mà người Pháp người Mỹ không tìm được lối vào vì miệng hầm nằm trong trái tim mỗi cụ già, em nhỏ” (tr. 43). Đó thấy chưa? Nói có trật chút nào đâu. Tới em nhỏ cũng là “con nít giết giặc” luôn nữa, huống hồ là mấy bà già và mấy ông già !
Nhưng bây giờ thì sao? Xã Hưng Mỹ le lói tới mức nào sau cái ngày “giải phóng” năm 75? “Ba mươi tháng tư này nữa là tròn 29 năm hoà bình. Con đường quốc lộ về ngang qua xã vẫn ca hoài bài “Đường chỉ đẹp những khi còn… dang dở”. Xã có 3911 hộ, đã ngót 251 hộ nghèo, 13 ấp thì một ấp rưỡi chưa có lưới điện” (tr. 43). Chỉ tiêu mà đạt đến mức đó thì quả thực là cao cấp, còn thành tích thì hết sức là hoành tráng, vậy còn đòi hỏi gì nữa cơ chứ? “Bây giờ đất này còn nghèo hơn trước, cái nghèo lừa mị người xứ xa, lừa mị những ông quan kinh lý ưa kiểm tra lớt lớt” (tr. 44). Kiểm tra lớt lớt là kiểm tra như thế nào cơ chứ? Này! Định xúc phạm và phá hoại Nhà nước đấy phỏng? Nhà nước đang bù đầu để xử lý một vấn đề lớn lao và trọng tâm vô cùng là vấn đề giáo dục. Vậy thì yêu cầu đường sá, điện nước lẻ tẻ làm chi mà lắm thế? “Hỏi cô con gái tên Trang đã học tới lớp mấy rồi, cô cười, nghèo quá, mấy anh em em hổng ai biết chữ” (tr. 45). Không biết chữ thì phải đi học chữ lấy một mình. Nhà nước đâu thể học chữ giùm cho nhân dân được! Nhưng đâu phải chỉ có mỗi một cái “hổng ai biết chữ”. Hưng Mỹ còn có rất nhiều cái “hổng có” khác nữa. “Hồi đó Thị Tường có “ba không”:, không theo giặc, không bỏ Đảng, không bỏ cách mạng. Bây giờ thì “tùm lum không”. Không gạo, không tiền, không cá, không rau cỏ…” (tr. 47) Này này! Hết phá hoại Nhà nước, bây giờ còn định bôi bác chế độ đấy phỏng?
Tới đây xin mở ngoặc nói về một hiện tượng đang xảy ra ở đất nước ta. Khi đi karaôkê, kể từ Đà Lạt ra tới Huế, ở đâu các em nhỏ hậu phương cũng đều xổ ra toàn là giọng miền nam. Ngay cả tiếng “Huệ” cũng lai giọng Nam kỳ. Tò mò “hỏi người em nhỏ lạc loài từ đâu?” Em thì nói từ Chợ Gạo, Mỏ Cày, Bến Tranh, Chương Thiện… Em thì “thành thật khai báo với cách mạng”, em là em nhỏ Bến Tre, Giồng Trôm, Đồng Tháp, Cái Nhum… Toàn là những vùng ủng hộ kháng chiến ngày trước. Và toàn là gái miền Tây. Bật ngửa! Và khi em Chợ Gạo cất giọng mũi nhão nhẹt dân dã để lâm ly biểu diễn karaôkê thì vẫn cứ nhứt định là “anh cầm tầm vông vạt nhọn, em cầm dao phay sáng ngời, hai đứa mình phom phom chạy qua cầu khỉ quyết chí diệt thù, phất cao lá cờ cách mạng…” khí thế vô cùng hùng dũng. “Rằng quen mất nết đi rồi!” Cái “tiếng xấu” mà các cô gái miền Tây phải hứng chịu này, Tư cũng đã có dịp nói phớt qua trong “Kính thưa anh nhà báo!” Khi bạn bè hỏi em gái từ đâu đến, em gái đã chẳng đặng đừng, lí nhí, thẹn thò thưa thốt: “Thưa, em ở Cà Mau” (và tôi làm sao tránh được ánh mắt cười cợt, nghi ngại của người thị thành khi biết tôi là gái miền Tây)” (tr. 105). Đóng ngoặc.
Trở lại Hưng Mỹ. Lần này, sau khi đọc kỹ “Ngậm ngùi Hưng Mỹ” lần nữa, thấy ở đoạn kết Tư cũng có nhen nhúm lên một chút hy vọng trong lòng bà con ta đó chớ. “Nghe mấy ông thầy coi nước nói năm nay tôm tép khá lắm đây (…) Không biết có phải là những lời an ủi, vực nhau đứng dậy rồi bị đồn đại ra không, nhưng tôi biết ơn mấy ông lắm lắm, khi nhen lại cái khát vọng sống trong lòng người Hưng Mỹ. Ờ, sống để mà bước tới” (tr. 50).
Từ xưa đến nay, hy vọng vẫn luôn luôn là liều thuốc trị được bá bịnh – trừ bịnh ỉa chảy dĩ nhiên! Chú Hai sạt nghiệp vì đổi qua nghề nuôi vịt, nhưng ác thay, lại trúng nhằm mùa dịch cúm gia cầm. Nợ ngân hàng lút đầu. Vậy mà trong nhà vẫn không ngớt tiếng cười rộn rã. “Rầu cũng nghèo mà cười cũng nghèo, sao mình hỏng cười, hỏng hy vọng cho đỡ khổ hả cô?” (tr. 113). Chí lý! Thiếm Hai duy vật biện chứng Mác Lê như vậy rất là chí lý, nghe lọt lỗ tai hết cỡ nói. Dân Hậu Giang ta bao giờ cũng lạc quan... hết thuốc chữa. Vì có sao đâu? “Lúa thất thì hy vọng trúng mùa sau, giá rẻ như bèo thì cứ đinh ninh năm sau sẽ được giá. Lứa này tôm chết thì chờ lứa sau, lúc thả bọc tôm nhỏ như cây kim xuống đầm, vẫn mong mai này còn gặp lại chúng” (tr. 113/114). Tư chợt bừng mắt trước một điều hết sức hiển nhiên – hiển nhiên tới mức người ta không để ý, như cái không khí mình đang thở chẳng hạn. “Tôi nhận ra rằng, nông dân mình xưa rày có món đặc sản “độc” lắm, nhờ món đó mà họ sống từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ đời này sang đời khác. Đó là “hy vọng” (tr. 113)
Hết vớt tôm chết thì tới chôn vịt sống. Hết cúm gia cầm thì có liền “bão tôm” thổi tới “từ tốn, lặng lẽ, mà bào mòn sức chịu đựng của con người”. Lo gì! “Vớt từng con tôm nhỏ bằng ngón tay út lên lòng rưng rức, đứt ruột (...) Có ai làm gì nó đâu mà nó chết, mình quý nó còn hơn mạng mình nữa mà? (...) Má tá hoả khi biết hầu hết tôm giống trên thị trường không hề được kiểm dịch” (tr. 118). Này! Đừng có vu oan cho Nhà nước nhé cô Tư! Nhà nước ta ngày đêm không ngừng lo lắng đào sâu giải pháp cho nhân dân. Nhà nước không ngừng quy hoạch, không ngừng chuyển dịch cơ cấu sản xuất. Người khác chỉ rành có sáu câu, chứ Nhà nước ta thì rành tới sáu câu... rưỡi. “Người dân bao đời gắn bó với cây lúa bây giờ nôn nả cho nước mặn vào đồng để nuôi tôm” (tr. 99). Cũng hợp lý thôi. Cây lúa cần nhiều nước ngọt mà thu hoạch lại quá ít ỏi thì thay nước mặn vào! Còn chờ gì nữa? “Chỉ mới một mùa tôm (đầu) thôi, bác à, nhưng đó là mùa tôm người nông dân vùng chuyển dịch vắt kiệt mình ra trước bao nỗi cực nhọc, buồn vui” (tr. 116). Vắt kiệt? Cô đừng có quá nhời chứ cô Tư. Đã vắt kiệt rồi thì làm sao vẫn cứ còn vắt hoài được hoài? “Chuyện tôm chết nông dân đã rành sáu câu rồi, chỉ khác, đây là năm thứ tư tôm chết, nghĩa là năm thứ tư nông dân Cà mau vắt kiệt mình trong nỗi lo đói nghèo” (tr. 108). Năm thứ tư? Tội nghiệp quá nhỉ? Nhưng ba bốn năm nay chịu đựng nổi, chắc bà con nông dân ta vẫn hãy còn đủ hy vọng để mà lướt qua năm thứ năm. Và không chừng còn “dư sức qua cầu” luôn năm thứ sáu.
Mùa “bão tôm” từ tốn và nạn tôm chết hà rầm dàn trải lê thê trên nhiều bài viết của Tư trong Tạp văn: “Ngậm ngùi Hưng Mỹ”, “Thư từ quê”, “Đi qua những cơn bão khô”, “Chờ đợi những mùa tôm”, “Gió mùa thao thức”... Trong cảnh cùng quẩn, người dân quê ngước nhìn lên “trên” để mong cứu giúp. “Trên” đây không phải là “trên Trời” hay “ơn Trên”, mà là “ở trên”. Rồi “ở trên” mới ra tay ban phép mầu ra làm sao? “Mấy ông Nhà nước không nghĩ ra cách nào cứu tụi tui, để vầy hoài, hai năm nữa không chết đói cũng chết vì trộm cướp cho cô coi, bần cùng sanh đạo tặc, ông bà mình dạy vậy” (tr. 108). Làm gì mà lo xa quá vậy? Mới chỉ có bấy nhiêu đấy thôi mà bà con đã kêu trời như bộng! Cũng tại bà con hết đấy chứ. “Báo chí than bà con mình thiếu thông tin, thiếu hiểu biết rầm trời, các chú “ở trên” nhằn, bà con mình nóng vội quá” (tr. 118). Thì lỗi tại bà con rành rành đây này! “Thuở đời nay, năm nào mấy ổng cũng lên ti vi kêu năm này phấn đấu đạt năng suất cao hơn năm trước, khuyến khích giống mới này trúng hơn giống cũ, vậy mà làm ra hột lúa trần thân, bán không có giá, mấy ổng đổ thừa tại nông dân làm cho cố mạng nên bán không được” (tr. 184). Nhưng đổ thừa như vậy cũng đâu có trật. Làm chi mà làm cho cố sát, ai mà ăn dộng cho hết. Hơn nữa, bây giờ bà con ta lại còn bày đặt “phấn đấu” với lại “năng suất” năng siết rùm beng. Hồi xưa ở Cờ Đỏ, má tui cũng có một thời cày thuê cấy mướn, nhưng đâu có biết “phấn đấu” với “năng suất” là cái khỉ mốc gì! Vậy mà vẫn có gạo ăn hoài hoài.
Bà con cứ đòi hỏi Nhà nước phải có bổn phận đối với nhân dân. Chớ còn cái bổn phận của nhân dân đối với Nhà nước bà con để nó ở đâu? Bộ quăng nó cho chó ăn hết rồi hả? “Khi đôi bàn tay gầy guộc của tôi vuốt lại những tờ bạc lẻ nhàu nát lem luốc mồ hôi, dầu nhớt... để nộp thuế cho đằng phường, nghĩ tới mấy vụ tham nhũng động trời ngay tại quê mình, nghĩ tới những bữa tiệc vung vinh tiền triệu, chắc cái mặt tôi buồn hết biết, mà tôi còn khóc, hổng chừng...” (tr. 166) Thôi mà Tư! “Lau mắt đi em, đêm đã khuya rồi, buồn chi nữa em?” Tư hãy bắt chước cái lạc quan kinh niên của má mình. “Ai biểu làm nông dân làm chi. Chỉ hy vọng mấy ông “ở trển” làm cách nào cho dân bớt khổ, má tôi nhấn mạnh, bằng cái giọng hết sức tin tưởng, “Mấy ổng hứa rồi...” (tr. 185). Đó thấy chưa! Ngày nào mà mấy ổng còn hứa thì bà con ta vẫn còn có “quyền” hy vọng. Hy vọng dâng cao, hy vọng miên man, hy vọng tràn trề, không biết để đâu cho hết. Vậy thì bà con còn than cái nỗi gì? “Thôi thôi... Đủ lắm rồi! Xin đổi giùm cho tuồng khác. Thành thật cám ơn đồng chí.”
Khi bị vây kín bốn bề bởi những khó khăn của đời sống, người ta thường có một phản ứng rất tự nhiên để bảo tồn lấy mình: chạy trốn! Bỏ đi nhậu, đi karaôkê, đi du lịch. Hoặc coi phim bộ, đi ăn tiệm, đi gặp gỡ bạn bè, nói chuyện tào lao, đàn đúm ca hát. Nếu không làm gì được hết thì người ta chạy trốn thực tại bằng cách lùi sâu vào cõi không thực. Thả hồn về những kỷ niệm đẹp ngày cũ. Về những ký ức có bóng mát cỏ cây, có tiếng nước vỗ lách tách, có tiếng lá khua tâm sự rì rào. Về những dòng sông thương nhớ, về những đò xưa bến cũ, về những cuộc tình dang dở bây giờ đã mây trôi...
Nắng Tiền Giang mưa Hậu Giang
Sông Mỹ đò đưa bến Vĩnh Tràng
Bên chùa tôi đã ôm em siết
Xa rồi còn tiếc chuyến đò ngang
Cái phản ứng để tự vệ của Tư trước những bức bách của đời sống cũng vậy thôi. Trong đời Tư cũng đã từng có những dòng sông cũ, những bến đò xưa, những “Trăm năm bến cũ con đò”. “Trăm năm để lỡ hẹn hò, Cây đa bến cũ con đò khác đưa”. Một bến đò cũ nào đó để Tư thả hồn mình về đó nổi trôi, hầu dìm bớt đi những nỗi muộn phiền đang vây khổn tư bề. “Bến đò nằm cạnh nhà. Có thể nghe được tiếng bước chân người xoèn xoẹt lại qua, nghe mũi đò chạm lịch kịch vào bến, và tiếng chèo chém ngọt vào mặt nước những lát cắt dày. Và nhiều khuya nghe tiếng gọi đò xao xác (...)” (tr. 163). Rồi tự hỏi biết đâu chừng mình đã nghe lộn tiếng gì thành tiếng gọi đò của ai đó. “Đêm nghe tiếng ếch bên tai, Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò” [2] . Khách đi đò cũng khác nhau lắm. Có khi là những người phụ nữ đi chợ sáng lấy đò trưa trở về bên kia sông. Có khi là đám học trò đứng ngồi lóc nhóc trên đò qua bờ bên này để tới trường. “Có người qua đò rồi quay về, có người không trở lại. Bến đò cũng là nơi nhiều đứa con gái qua sông lên thành phố rao bán mình trong những “chợ vợ”, để lại mấy thằng con trai chiều chiều ra bến đón đã đời mới ngơ ngác, trời ơi, mình đang chờ ai đây?” (tr. 166). “Chiều chiều chim vịt kêu chiều, Bâng khuâng nhớ bạn chín chiều ruột đau...” Dứt một cuộc tình. Tàn một đời trai. Rồi đời trinh nữ. Khóc đi em!
Dòng sông cũ, con đò xưa đã êm đềm đưa Tư lâng lâng vào “Đôi bờ thương nhớ”. Chiều qua, Tư nhận được thư của bạn mình báo sẽ cố thu xếp trở về cố hương thăm nhà. “Rồi bạn kể ra một dọc những cảnh moi từ ký ức cũ, nào là những tàn cây trứng cá đằng góc sân, hàng điệp đỏ gie mình ra mé nước che cái bến, mấy chiếc xuồng ba lá buộc dập dềnh vào chân cầu” (tr. 123). Bạn xa xứ vậy mà đã 12 năm rồi. Mười hai năm đã trôi qua, biết bao là vật đổi sao dời trên cái xứ sở nát tan này. Và cũng biết bao là đổi thay trong công cuộc vá víu lại đất nước. Vì vậy, khi thấy bạn mình nhắc nhở những cảnh xưa mà bạn còn nhớ, Tư đâm lo ngay ngáy cho bạn mình. “Nhà cũ của bạn tôi nằm đâu? Cái xóm nhỏ nhìn ra sông, đón nắng từ sông, uống gió từ sông đó bây giờ đâu? Thở dài. Những ngôi nhà trống huơ, hoang tàn, trơ trơ gạch ngói, cái còn cái đã ngụp một nửa dưới nước...” (tr. 124). Khi thư bạn nhắc lại cảnh cũ người xưa, Tư cũng thầm tiếc và ước ao mình có được phép mầu để dựng lại ngôi nhà cũ, trồng lại hàng điệp đỏ, trồng lại cây trứng cá lá mềm năm xưa, và còn nhiều thứ khác nữa... Nhưng rồi Tư bỗng giựt mình chợt nghĩ lại. “Tỷ dụ như tôi làm được những điều phi thường ấy thì bạn của tôi ơi, cái hồn quê, hồn đất năm xưa đã không còn. Mà tánh bạn cũng như tôi, khăng khăng hoài: “Hoa nào đẹp bằng hoa tuổi nhỏ, Ổi nào ngon bằng ổi năm xưa”. Kỷ niệm của những ngày tuổi trẻ vô giá” (tr. 128). Chẳng những vô giá mà lại còn hết sức cần thiết nữa. Ôm vào lòng mình kỷ niệm dĩ vãng (và ôm luôn cả hy vọng tương lai) như cái phao nổi, hầu giữ cho mũi mình còn lé đé trên mặt nước trong hiện tại để mà thở. Cũng được! Cũng tốt thôi!
May mắn thay! Trong lúc Tư còn lặn hụp chới với giữa dòng kỷ niệm ngoài khơi thì còn có được một người đứng trụ hai chưn rất vững trên đất liền để mà... lạc quan. Phải! Có thiệt. Và Tư đã gặp con người lạc quan đó: nhỏ Bèo! “Má ơi! Con quạ nó đứng chuồng heo, Nó kêu bớ má bánh bèo chín chưa?” “Chín rồi! Đừng có kêu nữa, coi chừng tắt tiếng!” Bèo! Một nhỏ bạn lâu quá chừng không được giáp mặt. Mà giáp mặt rồi thì sao? “Bèo rối rít mời tới nhà chơi, mà, cái giọng của con bạn, trời ơi, nó tươi rói, giòn tan, sung sướng, tự hào (...) Rồi nó cười hực hỡ, rạng rỡ, như thể nhà nó là một thiên đường“ (tr. 60) Một thiên đường! Thiệt sao? Cái nhà của con nhỏ đó ra làm sao mà nó le lói quá cỡ thợ mộc vậy? “Ai dè nhà nó nằm tuốt trong con hẻm Cỏ sau lưng siêu thị. Đó là một con hẻm dài, hẹp te, tối tăm, sình bùn ọp ẹp, ngoa ngoắt (...) điệu này, tới cuối hẻm, chắc nhà chỉ còn bằng cái miễu Ông Tà” (tr. 60) “Hoàng hôn dần xuống, tiếng chuông chiều dần dần vẳng xa, em Bèo xanh lướt nhẹ gót hồng từ từ trôi sâu vào hẻm Cỏ tím, để rơi lại sau lưng mình một mùi hương vương vấn của cỏ nội hoa đồng...” Tuyệt! Thơ mộng ngất ngư. Lãng mạn thấu trời! Vậy mà chê con người ta là chê ra làm sao? Còn...