Welcome Guest! To enable all features please Login or Register.

Notification

Icon
Error

2 Pages12>
Nguyễn Huỳnh Mai
Phượng Các
#1 Posted : Thursday, October 28, 2004 4:00:00 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
Nguyễn Huỳnh Mai


Nguyễn Huỳnh Mai ra đời tại làng Long Kiến, tỉnh Long Xuyên, An Giang
Vào thời Ðệ Nhất Cộng Hòa, khi Phật Giáo Hòa Hảo gặp nạn, Nguyễn Huỳnh Mai theo gia đình sống lưu vong tại Cao Miên, sau đó trở về Việt Nam năm 1964 khi tôn giáo được phục hoạt vào thời Ðệ Nhị Cộng Hòa, rồi một lần nữa lại phải cùng đại gia đình rời quê hương khi mất nước.

Tốt nghiệp cử nhân Báo Chí, đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn năm 1972,
làm việc cho tuần báo Tìm Hiểu, cộng tác với nhật báo Chính Luận; đồng thời làm việc cho công ty PASEFOCO tại Sàigòn với chức vụ Phó Giám Ðốc, phụ trách về Hành Chánh, Nhân Viên và Tiếp Liệu.

Di tản sang Hoa Kỳ năm 1975, định cư tại Minnesota rồi California, Nguyễn Huỳnh Mai tiếp tục ngành truyền thông báo chí. Năm 1980 tốt nghiệp cử nhân ngành truyền thanh truyền hình tại đại học Long Beach; làm việc tại đài truyền hình KCET-Los Angeles, cố vấn các chương trình truyền hình về người tị nạn Ðông Nam Á cho đài KOCE-50 Orange County.

Từ 1976 đến nay, viết cho Việt Nam Hải Ngọai (San Diego), Người Việt Tự Do (Nhật Bản), Người Việt (Orange County), Việt Báo và nhiều báo Việt ngữ khác tại các quốc gia có người Việt tị nạn.

Từ 1981 đến tháng 7-2004, tổng thư ký tập san Ðuốc Từ Bi, cơ quan ngôn luận của Giáo Hội Phật Giáo Hòa Hảo tại Hải Ngoại.

Tác phẩm:

Cô Bé Làng Hòa Hảo (1995) (hồi ký),
Hồn Thiêng Dân Tộc (1997) do Mõ Làng xuất bản,
Lên Đường (Xuân 2001) do Cửu Long xuất bản.

Sách mới xuất bản và phổ biến tại trang nhà vào tháng 10-2004 :
Nhật Ký Tâm Linh I: Lời Thầy Dạy.
Nhật Ký Tâm Linh II: Cửu Long Giang Vùng Dậy cũng sẽ được xuất bản và phát hành tại trang nhà trong thời gian tới.

Các tuyển tập phóng sự đã phát hành tại trang nhà gồm: Thăm Miami, Florida; Ðây Newyork; Thăm Houston, Dallas, Texas; Người Việt Ðất Phi. Những tuyển tập Người Việt Ðất Miên, Người Việt tị nạn, Kẻ Mới Người Cũ, v.v. sẽ được tuần tự ra đời trong nay mai.
Phượng Các
#2 Posted : Friday, October 29, 2004 1:54:53 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
Xin bấm vào link sau đây để đọc tiếp:

http://www.nguyenhuynhma...lt.asp?FAQID=1633&page=2
Phượng Các
#3 Posted : Monday, February 21, 2005 1:13:15 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)

Cô Bé Làng Hòa Hảo

LỜI GIỚI THIỆU- GS. Phạm Cao Dương

Cuốn sách người đọc đang cầm trên tay là một tuyển tập gồm những bài viết dưới nhiều dạng thức khác nhau nhưng có chung một bản chất. Đó là những hồi ký của một phụ nữ Việt Nam có cuộc đời gắn liền với một thành phần quan trọng của dân tộc Việt Nam hiện đại, từ sau biến cố bi thảm 1975 sống lưu vong ở hải ngoại. Tôi nhận viết lời giới thiệu tác phẩm này không phải chỉ riêng vì giá trị nhân chứng của nó mà còn vì tự coi là có trách nhiệm của một người đã trực tiếp hay gián tiếp ít nhiều thúc đẩy tác giả cầm bút trong những ngày đầu và sau này là ấn hành và phổ biến những thành quả của những đêm dài thao thức của bà. Trách nhiệm này tôi xin được trình bày một cách tóm tắt như sau:

Tháng 7 năm 1981, trên tạp chí Nhân Chứng do nhà văn kiêm nhà thơ Du Tử Lê chủ trương, qua chủ đề "Vai trò của người lính Việt Nam Cộng Hòa trong cuộc chiến đấu hai mươi năm", giáo sư Nguyễn Khắc Ngữ, nay đã qua đời, và tôi đã được các anh em trong nhóm dành cho hân hạnh mời tất cả các người Việt ở hải ngoại, đặc biệt những người đã từng sống, từng hoạt động, từng cầm súng chiến đấu trong những hoàn cảnh cô đơn và éo le nhất trong ngót nửa thế kỷ qua, viết lại những gì mình đã được tham dự, chứng kiến, nghe được và hiểu biết, đồng thời nếu có thể kèm theo những gì mình còn giữ được, để một cách rộng rãi gợi cho những người Việt Nam còn tha thiết với quê hương, đất nước, nhớ thương các bằng hữu hay chiến hữu hoặc những người thân thương của mình, cùng nhau ôn lại và rút kinh nghiệm về những ngày tháng bi thảm nhưng vô cùng hào hứng của dân tộc và hẹp hơn, gián tiếp hơn là để cung cấp những tài liệu đầy đủ hơn, vô tư hơn và chân thật hơn cho các sử gia tương lai hay cho chính con cháu của mình. Bài chúng tôi viết nhan đề là "Tài liệu cho sử gia".

Như một tình cờ nhưng vô cùng lý thú cho chúng tôi là tờ Người Việt, hồi đó còn là tuần báo, trong số ra ngày 8 tháng 8 năm 1981 đã đăng một bức thư của học giả Huỳnh Sanh Thông từ Đại Học Yale với những lời kêu gọi tương tự. Chưa hết, trong dịp ghé tòa soạn báo này để hỏi thăm các anh em trong ban biên tập sau vụ cơ sở mới của anh em bị một nhóm thanh niên Mỹ tới phá phách và hành hung, khi đề cập đến bài tôi viết cho Nhân Chứng, Đỗ Ngọc Yến lại cho biết thêm là báo của ông cũng có ý làm việc này và riêng ông đã có những mẫu gia phả và mẫu cây phả hệ để phổ biến cho đồng bào hầu đồng bào có thể nương theo đó mà viết hay điền. Hai anh em sống trên đất Mỹ, ít có dịp gặp nhau nhưng cuối cùng cũng đã thông cảm với nhau ít nhất ở một điểm xuyên qua nhu cầu này. Ước vọng của chúng tôi và chắc chắn cũng là của chung của rất nhiều người Việt thời đó, nếu được đáp ứng, sẽ có một tầm quan trọng không nhỏ. Có năm lý do:

Thứ nhất: Nó tạo dịp cho người Việt quốc gia nói lên tiếng nói của mình để từ đó các sử gia tương lai xây dựng lại một cách trung thực và đầy đủ hơn quá khứ đấu tranh của dân tộc từ những ngày đầu bi thảm nhất của đất nước.

Thứ hai: Lịch sử của một dân tộc không phải và không thể chỉ được coi là bao gồm những biến cố chính trị và quân sự xoay quanh những nhân vật lớn của thời đại mà phải được coi là bao gồm toàn bộ các sinh hoạt của dân tộc ấy, kể cả sinh hoạt hàng ngày, rất bình thường của mọi người dân. Ngoài ra người ta không thể giải thích một sự kiện chính trị hay quân sự bằng một sự kiện chính trị hay quân sự khác. Làm như vậy là quá đơn giản và tất nhiên thiếu sót.

Thứ ba: Công tác viết sử không phải chỉ bắt đầu bởi các sử gia mà đã khởi sự từ khi các tài liệu hình thành. Công tác này thường được thực hiện bởi nhà nước, xuyên qua vai trò của các sử quan hay các cơ quan chuyên lo tàng trữ các tài liệu nhưng đồng thời cũng là do ở dân gian. Hai nguồn tài liệu này có trách nhiệm bổ khuyết cho nhau. Trong giai đoạn hiện tại phần hành của nhà nước là do chế độ cộng sản nắm giữ. Nhà nước này do chủ trương và nhu cầu riêng có thể không cho tàng trữ những gì không có lợi cho chế độ, nếu không nói là đã hủy bỏ chúng, đồng thời có thể sửa đổi và ngụy tạo chúng theo ý riêng của mình. Để bổ khuyết, người Việt ở hải ngoại có trách nhiệm phải bảo vệ, tạo dựng lại các tài liệu xuyên qua việc làm mà chúng tôi gọi là dân chủ hóa công tác viết sử. Người dân Việt ở khắp nơi trên thế giới có thể khởi đầu bằng cách viết lại những gì mình biết, viết về đủ mọi khía cạnh trước giờ bị coi là tầm thường không đáng để lịch sử biết tới. Đời sống trầm lặng của các bà nội trợ trong gia đình chẳng hạn.

Thứ tư: Phong trào dân chủ hóa công tác viết sử nếu được thực hiện sẽ khởi đầu cho một giai đoạn mới trong lịch sử văn học của dân tộc. Hãy tưởng tượng ở khắp mọi nơi trên thế giới người Việt hải ngoại thi nhau viết hồi ký để ghi lại những gì mình đã trải qua, đã chứng kiến trong nhiều chục năm ở nước nhà, từ cuộc sống êm đềm hạnh phúc đến những chia ly, thống hận, viết với tất cả những thành tâm, thiện chí, viết cho chính mình, cho con cháu mình, cho bạn bè mình, cho những người thân yêu của mình, và rộng rãi hơn là cho dân tộc mình, viết liên tục ngày này sang ngày khác, năm này sang năm khác... trong nửa thế kỷ tương đương với thời gian trầm luân của dân tộc, chúng ta sẽ có những kho tàng văn học vô cùng phong phú và vĩ đại.

Những tài liệu này không phải tất cả sẽ được gửi đăng báo, in thành sách hay gửi cho các thư viện... mà sẽ nằm trong các tủ sách của các gia đình như là những gia thư vô cùng quí báu vì đã được hình thành bằng xương máu, nước mắt và mồ hôi cùng thời gian chịu đựng cũng như sức chịu đựng của những người liên hệ và người thực hiện. Chúng cũng có thể được đặt nằm trên bàn thờ gia tiên của mọi nhà như những gia phả. Chúng sẽ được các sử gia tham khảo nếu được gia chủ cho phép. Một điều cần được chú ý là vì được viết cho chính tác giả, viết để tưởng niệm những người trong gia đình đã khuất hay của bạn bè của tác giả, viết cho con cháu của chính tác giả, những tài liệu này chắc chắn sẽ vô cùng trung thực ít ra là tới một giới hạn nào đó.

Thứ năm: Vì tài liệu được viết bằng tiếng Việt nên con cháu sau này muốn đọc phải biết tiếng Việt. Đây là một tác động vô cùng quan trọng trong việc bảo tồn ngôn ngữ và văn hóa dân tộc trong các cộng đồng người Việt ở hải ngoại. Nó sẽ gợi hứng cho các bậc phụ huynh trong việc khuyến khích con em mình học viết và học đọc tiếng Việt. Nó sẽ kích thích sự tò mò của con em chúng ta nếu chẳng may các em vì hoàn cảnh đặc biệt nào đó không đọc nổi tiếng Việt nữa. Các em trong trường hợp này sẽ cố gắng học hỏi để gần là tìm hiểu cuộc sống và sự ưu tư của cha mẹ, ông bà mình, xa là dòng dõi của mình.

"Cô Bé Làng Hòa Hảo" là một hồi ký điển hình được thực hiện dựa từ những lý do kể trên. Nguyễn Huỳnh Mai không phải là một nhân vật chính trị hay quân sự nổi tiếng của miền Nam trong thời gian tồn tại của Việt Nam Cộng Hòa nhưng bà có đủ một số những điều kiện cần để viết về cuộc sống của một thành phần quan trọng của dân tộc Việt Nam hiện đại: Phật Giáo Hòa Hảo. Bà không quá trẻ để không được sống hay chứng kiến cuộc sống đạo hạnh và thanh bình của những tín đồ của đạo này cũng như những năm đầy sóng gió dưới thời Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Hòa của miền Nam. Cuộc đời hoạt động cho Phật Giáo Hòa Hảo của thân phụ bà đã đưa đẩy bà đến các cuộc sống không hoàn toàn bình lặng, nhưng nó đã cho bà những dịp tiếp xúc với các nhân vật lãnh đạo của Phật Giáo Hòa Hảo và những gì xảy ra cho họ. Bà cũng không quá già để không có dịp sống với tuổi trẻ ở miền Nam trong những thập niên sáu mươi và đầu bảy mươi, đồng thời mở đầu cho cuộc đời hoạt động của một ký giả ở trong nước, rồi sau này tiếp tục đi học và hoạt động ở nước ngoài. Sự không già đã giúp cho bà có đủ những khả năng cần thiết để theo dõi những gì đã xảy ra chung quanh bà và hiểu được giới trẻ cũng như những vấn đề của giới trẻ. Sự không già cũng giúp bà có đủ sức khỏe và nghị lực để tham gia một cách tích cực vào các hoạt động tôn giáo, xã hội và chính trị bên cạnh những gì thuộc phạm vi chuyên môn, đặc biệt là cầm viết và chăm lo giáo dục các con. Chưa hết, vì được huấn luyện để làm báo, hành nghề ở Việt Nam, tiếp tục hoạt động ở Mỹ, bỏ báo đi học truyền hình, rồi không hành nghề sau khi tốt nghiệp mà làm những việc liên hệ như một người Việt tình nguyện phục vụ cộng đồng, Nguyễn Huỳnh Mai đã viết hồi ký theo chiều hướng này. Bà đã nhìn những sự việc xẩy ra trong đời mình qua con mắt quan sát và phân tích của một ký giả báo chí và truyền hình. Bà vừa làm phóng sự với người ngoài, vừa làm phóng sự với chính mình, trong khi đó vẫn giữ bản chất của mình như một tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo và một phụ nữ Việt Nam với tất cả những ngại ngùng, do dự khi kể lại những gì liên hệ tới cuộc sống của mình và của gia đình mình để in thành sách và phổ biến.

Hồi ký Cô Bé Làng Hòa Hảo được thực hiện dưới nhiều dạng thức khác nhau từ những nhật ký viết thời trước 1975 đến thư gửi các con, rồi hồi ký sau năm 1975. Đây là một sự chọn lựa vô cùng khôn khéo vì một mặt tác giả vẫn giữ nguyên được những gì bà đã viết trước kia, mặt khác bà có thể trình bày các chuyện xẩy ra trong xã hội, trong cộng đồng, trong gia đình hay trong đời sống riêng của cá nhân mình một cách tự nhiên, dễ dàng, đồng thời có thể đưa ra những suy tư và nhận định của riêng mình về đủ về mọi vấn đề từ chính trị, tôn giáo, triết học đến giáo dục con cái và cuộc sống hàng ngày ở những miền đất tạm dung. Người đọc trong những trường hợp này có thể đọc lướt qua một cách dễ dàng nếu không đồng ý với tác giả. Nhưng dù đồng ý hay không đồng ý, người đọc đều có thể thấy bàng bạc trong khắp tác phẩm của bà, Nguyễn Huỳnh Mai đã để lộ ra một tình cảm yêu nước nồng nàn và một lòng tin tưởng tuyệt đối vào tương lai của quê hương, của dân tộc Việt Nam của bà. Bà có một cái nhìn lịch sử xa, dài và tích cực. Cũng vậy trong cách bà nhìn thời gian qua những nét nhăn trên mặt của người phụ nữ là bà. Ghi chú về nghề nghiệp và gia đình vào khoảng đầu năm 1992, bà viết:

"Tôi không bao giờ thấy buồn về những nếp nhăn của mình mà thấy nó dễ thương. Nó cho mình thấy quãng thời gian trôi qua trong cuộc sống của mình. (Mình sẽ không là mình của ngày hôm nay nếu không có một quá khứ dài trên bốn mươi năm)" (trang 287).

Phải long đong vất vả, phải dời bỏ quê hương từ ngày còn nhỏ, phải đổi tên, phải theo học trường Việt-Pháp-Miên rồi trường Pháp với các bạn người Miên và người Tàu, rồi lại trở về Việt Nam để cuối cùng chạy qua Mỹ, lúc nào cũng phải vật lộn với những học đường, những ngôn ngữ và những phong tục tập quán mới, nhưng Nguyễn Huỳnh Mai bao giờ cũng vẫn lạc quan. Bà vẫn luôn luôn cho là "Ông Trời thương cho người Việt đi khắp thế giới" (tr. 311) và bà có nhiều quê hương để mà yêu:

"Mỗi dân tộc đều có những người dân yêu say đắm, nồng nàn quê hương mình, mẹ của con lại có nhiều quê hương để yêu thương. Mỗi quê hương mẹ sống, ăn thức ăn, nghe ngôn ngữ, hít thở không khí, hòa đồng với dân tộc đó, và nó trở thành một phần của tâm hồn và thể xác mẹ." (trang 309).

Đó là Nguyễn Huỳnh Mai, cô bé làng Hòa Hảo, của miền đất mới nhất của dân tộc Việt, nơi tất cả chỉ mới là khởi đầu, kể cả tôn giáo của cô. Nhưng trong cái mở đầu đơn sơ ấy, Phật Giáo Hòa Hảo đã cho phép người ta được tự do đi xa hơn sau khi đã được võ trang bằng những giáo lý căn bản để khỏi lạc đường. Nguyễn Huỳnh Mai đã có được tất cả những tự do để đi xa, để quan sát, để tìm tòi, để phân tích, để nhận định và để học hỏi. Trải rộng trong không gian và thời gian, tác phẩm của bà đã cho người ta thấy lại những kinh nghiệm, những suy tư của bà trong khoảng thời gian ấy. Và bà đã không lạc đường. Cô bé làng Hòa Hảo lúc nào cũng tâm tâm, niệm niệm, cũng lạc quan hướng về làng Hòa Hảo, về quê hương Việt Nam của cô, bất chấp không gian xa lạ và thời gian vùn vụt trôi qua, vì đối với cô "quá khứ, tương lai và hiện tại đều là một" (trang 287).

Chia xẻ sự lạc quan và tin tưởng của Nguyễn Huỳnh Mai, tôi xin được gửi tới người đọc "Cô Bé Làng Hòa Hảo" những lời giới thiệu trên đây.

Huntington Beach, mùa hè năm 1994.
G.S. Phạm Cao Dương



Phượng Các
#4 Posted : Thursday, March 31, 2005 10:21:00 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)

Dẫn Nhập: Như Một Chia Sẻ

Có lẽ tôi nên có đôi hàng tâm sự kẻo độc giả lại nói: "Cô Bé Làng Hòa Hảo sao lại ở nhiều nơi thế ?".

Thật vậy, tôi mường tượng khi quyển sách ra đời nó có vẻ như cái "sọt rác", lúc thì nhật ký, hồi ký, rồi bao gồm nhiều lá thơ tâm sự với con gái nuôi vượt biên, ở trại tị nạn Thái Lan qua Mỹ.



Thêm chuyện đời của tôi, hồi còn nhỏ ở làng Hòa Hảo sau di chuyển đi Cần Thơ, Sàigòn, Nam Vang, Đà Lạt, rồi sang đất khách quê người. Tại Mỹ, gia đình tôi thoạt tiên định cư ở Minnesota, sau dọn về California ở vùng Long Beach lập nghiệp, rồi dời về Mission Viejo.



Tôi không biết cái tựa "Cô Bé Làng Hòa Hảo" có hợp không nữa, hay nên gọi nó là "Bà Già Làng Hòa Hảo"?



Hôm nọ gặp một anh bạn của ông xã thuộc Văn Hóa Vụ của trường Võ Bị Đà Lạt. Anh bảo: "Cái tựa ấy không ai mua đâu chị ạ". Rồi anh đan cử một vài cái tựa thật kêu của một vài văn hào nổi tiếng thế giới ra. Anh đề nghị: "Hay là chị tìm một cái gì thật nhỏ nơi chị ở để tiêu biểu, như con sông chẳng hạn". Tôi cười nói: "Anh định cho tôi giống Siddhartha của Hermann Hesse trong quyển Câu chuyện dòng sông ?. Siddhartha lúc già ở cạnh dòng sông, còn tôi hồi nhỏ xíu, sáng nào cũng ra lan can trước nhà nhìn dòng sông lúc bình minh ló dạng. Con sông của tôi là sông Vàm Nao thuộc dòng Cửu Long. Nhưng thôi anh ạ, tôi chỉ thích một cái tựa giản dị."



Tôi hay nói đùa với bạn bè, biết đâu cuốn sách đầu tiên của tôi sẽ nằm yên đóng bụi trong một căn phòng nào đó. Sau này con cháu tôi sẽ thay bìa lại, rồi đem bán nó với cái tựa đề "Lão Bà Làng Hòa Hảo", vì lúc đó tôi đã cỡi hạc quy tiên rồi.



* *

Tôi cũng tự tìm hiểu xem lý do nào khiến tôi ra sách. Có phải tôi muốn nổi tiếng không? Chắc là không, vì cuốn sách có vẻ "tả pí lù", không giống ai cả. Tôi cũng không phải là nhà văn, thi sĩ, hay triết gia. Tôi chỉ là một "ký giả nửa mùa", nửa mùa vì không hành nghề ký giả hay là một nhà báo hoàn toàn.



Nếu tôi muốn nổi tiếng tại sao tôi đã bỏ viết báo, bỏ ngành truyền hình, vào quét dọn trong một tiệm hoa để học một nghề lao động, tập làm việc tay chân, đổ mồ hôi rồi nhận lấy mấy đồng bạc một giờ? Đổi lại, cái nghề lao động ấy đã phát cho tôi một bằng cấp vô hình nhưng vô giá. Tôi không có giấy chứng nhận, không có mũ, áo, không ai chụp hình quay phim. Đó là bằng cấp "làm người". Tôi đã học về con người, về chính tôi, trong giang sơn nhỏ bé của các tiệm hoa, có đầy đủ hỉ, nộ, ái, ố, có sự chèn ép, ganh tị, mánh khoé, lọc lừa, gian lận... giữa con người với con người. Tôi đã làm tớ cho các chủ Mỹ gốc Ý, Do Thái, Ấn Độ và ba bà chủ Đại Hàn. Tôi đi từ tiệm này qua tiệm kia và lương bổng cứ tăng dần.



Có một lần chủ tôi hỏi khi tình cờ biết tôi đã học ngành truyền hình: "Sao học truyền hình lại đi cắm bông". Tôi bảo tại không thích, khi cắm hoa tôi thấy tâm hồn bình an hơn. Bà tỏ vẻ không tin.



Thói thường người ta cho rằng đổi nghề vì thất bại, nhưng những người ở Mỹ lâu sẽ hiểu là có rất nhiều lý do khác hơn. Tôi có những người bạn lương một năm trên một trăm ngàn mà họ vẫn đổi nghề. Cửa hàng đang khá họ vẫn bán đi khi phát hiện đồng tiền hay danh tiếng không phải là cái mà họ đang tìm.



Sau sáu tháng làm việc với Francise ở Artistry & Flowers năm 1985, tôi từ giã bà, qua tiệm khác lớn hơn ở Mission Viejo để làm Head Designer (thợ chánh). Francise ôm tôi khóc. Chồng bà mất trong một tai nạn xe cộ, các con bà mua cho bà một tiệm hoa để giải sầu. Bà không ngờ tiệm hoa làm khổ bà, vì các cô thợ cắm hoa cứ bắt chẹt, làm khó bà nhất là vào các kỳ lễ lớn. Họ làm thật chậm để kéo dài giờ phụ trội cho bà trả tiền mệt nghỉ.



Tôi cứ ngỡ làm nghề cắm hoa thì tâm hồn được bình lặng. Khi say sưa cắm hoa tôi quên cả chuyện buồn bực hay đau ốm, nhưng cũng có những lúc tâm hồn thật xáo trộn khi giận chủ hay những cô bạn cùng nghề làm việc chung. Tiệm hoa lại là một "ổ nhiều chuyện". Chưa bao giờ tôi nghe nhân viên nói tốt về chủ của mình. Tôi cứ như được xem kịch mỗi ngày.



Hình như tôi đã đi quá xa đề tài. Tôi đang tìm lý do ra cuốn sách, chứ không phải viết về "nghề cắm hoa tại xứ Mỹ".



Nếu cho cái "tả pí lù" này là cuốn sách, thì phải gọi nó là cuốn thứ nhì, vì cuốn thứ nhất tôi viết khi tôi đang làm việc cho chương trình Huấn Luyện Giáo Sư Song Ngữ tại Đại Học Long Beach, năm 1982. Lúc đó tôi làm sinh viên phụ tá với số lương bán thời gian là bốn trăm chín mươi sáu đồng một tháng, với điều kiện phải là sinh viên cao học tại trường này. Các cố vấn và các giáo sư của tôi cùng với tôi đề ra một chương trình cao học đặc biệt gọi là "Indochinese Educational Television". Tôi dự định làm khảo luận với đề tài "Chương Trình Truyền Hình Giáo Dục Cho Trẻ Em Người Đông Dương"



Quyển sách đó ghi lại tâm sự một khúc quanh của cuộc đời tôi, nói lên lý do tại sao qua Mỹ mặc dù kém Anh ngữ tôi vẫn ráng học ngành truyền hình. Sau khi ra trường tôi thất vọng ra sao. Lý do tôi đang viết báo mà quyết định bẻ bút. Tại sao đang qui tụ sinh viên lại nhà để hội thảo, mời thuyết trình viên đến nói chuyện về các vấn đề có liên quan đến Việt Nam lại ngưng không tiếp tục... Cuốn sách nói lên nỗi lòng tôi nghĩ đến sự đau khổ của dân tộc, tâm trạng của một người muốn tìm hiểu, học đạo, muốn bỏ hết để "đi tu", nhưng vẫn phải lo sao cho tròn bổn phận làm con, làm vợ và làm mẹ...



Nếu nói ra quyển sách này viết bằng Anh ngữ thì tôi lại mắc cở vì tôi viết tiếng Anh rất kém. Có lẽ tôi không thể giỏi một sinh ngữ nào ngoài Việt ngữ. Đó là một điều may mắn cho tôi vì lúc theo ba tôi lên Cao Miên sống khoảng năm 1955, sau khi theo học trường Bà Phước một thời gian, ba tôi gởi tôi về Sàigòn để học trường Việt. Tôi học lớp nhì và lớp nhất ở trường tiểu học Lamartine Bàn Cờ, rồi học đệ thất tại trường Kiến Thiết. Sau đó tình hình lộn xộn quá, ba sợ nguy hiểm cho tôi nên mướn người đưa tôi qua Cao Miên.



Từ nhỏ cho đến lúc bấy giờ tôi tên là Nguyễn Thị Ngọc Thu. Lúc học trường Providence ở Cao Miên, mấy "Ma sơ" đặt tôi là Juliette cho dễ gọi. Khi trốn qua biên giới, người đàn bà dắt tôi đi cầm theo khai sanh tên Nguyễn Thị Hường. Đến mỗi cổng lính Việt Nam hay lính Miên bà đều trình khai sanh đó và một số tiền kẹp vào trong. Tôi ngồi yên trong xe niệm Phật xin phò hộ "cho con được qua biên giới bình yên để gặp lại ba mẹ".



Trở qua Cao Miên tôi phải học chương trình Pháp và xuống hai lớp. Con bạn Việt Nam tên Suzanne dốt toán nên dịch các bài toán đố ra tiếng Việt và sau khi tôi làm bài xong nó được chép lại. Tôi lại khổ đau vì Pháp ngữ với những văn phạm giống cái, giống đực, rồi lại chia động từ quá khứ, vị lai... Sau khi học Bandovichea hai năm, ba cho tôi trở lại trường Bà Phước Providence. Tôi thật là khổ, tiếng Tây không giỏi mà phải học thuộc lòng từng chương sách, nào là Địa lý, Sử ký, Vạn vật. Mỗi lần vào lớp đến giờ trả bài tim tôi đập loạn xạ vì "Ma sơ" chỉ đứa nào thì đứa đó phải đọc một đoạn, rồi chỉ đứa khác đọc tiếp theo. Tôi sợ đến ốm nhom phát đau nên ba xin đổi tôi vào trường Lycée Descartes.



Để được vào lớp 5ème Lycée Descartes, tôi phải làm khai sanh lại và cô nàng Juliette Nguyễn Thị Ngọc Thu trở thành Nguyễn Huỳnh Mai.



Cuộc đời tôi tưởng đâu sáng sủa khi được vào học lớp dành cho học sinh Việt, Miên, Tàu... thì lại bị đổi qua lớp đặc biệt toàn là Tây chính cống da trắng, tóc vàng, mũi cao và dĩ nhiên hầu hết các giáo sư lớp này là Tây, Đầm "thứ thiệt". May mắn cho tôi, trong lớp có vỏn vẹn một con bạn Tàu lai Miên và Việt Nam giỏi tiếng Pháp. Người bạn tên Kim Oanh mũi tẹt hơn tôi, tóc dài cũng gầy nhom. Nhờ thế tôi có được một người bạn an ủi nhắc nhở lúc "kẹt" khi không thuộc bài. Có lẽ cũng nhờ màu da khác biệt nên tôi ít bị thầy giáo gọi lên bảng, nhưng cũng không biết bao nhiêu lần tim tôi đập trật nhịp, tay chân lạnh, đổ mồ hôi vì sợ đọc bài bằng tiếng Pháp trước mặt ba mươi trò Tây lẫn Đầm chính cống.



Thế rồi thời cuộc đổi thay nhà Ngô bị lật đổ. Ba tôi hỏi toàn thể gia đình muốn đi Pháp hay về Việt Nam, vì ở Cao Miên cộng sản càng ngày càng nhiều. Ba tôi nói có một ngày ông Sihanouk sẽ hối hận vì đã dung dưỡng cộng sản. Lúc đó nhiều người Việt kiều đã cho con đi học ở Hà Nội hoặc đi vào khu theo Việt cộng. Ba tôi nói: "Qua Pháp thì các con sẽ đi học trường Pháp luôn và vào dân Pháp. Các con sẽ được sung sướng vì ba vẫn tiếp tục làm ngành xuất nhập cảng. Ba có sẵn công ty ở đây và khách hàng cũ quen biết làm ăn bên Pháp nên công việc dễ dàng. Còn về Việt Nam, các con sẽ có cuộc sống khó khăn hơn. Của cải mình đã mất hết nên phải làm lại từ đầu, nhưng các con được sống nơi quê hương mình". Tôi và mẹ, các em đều muốn trở về Việt Nam. Tôi biết đó cũng là ý muốn của ba, nhưng ba hỏi cho có vẻ dân chủ và ba cũng muốn đó là ý chung của cả gia đình.



Gần đến ngày về nước tôi ngủ không được. Ban đêm tôi cứ trằn trọc nghĩ đến lúc về đến quê hương, nhìn đâu cũng thấy người Việt Nam và nói tiếng Việt Nam. Tôi thương từ hình ảnh của chú xích lô, của chị gánh hàng rong. Tôi nhớ đến những trẻ em chạy chơi ngoài đường hay xe bán bánh mì thịt ở đầu ngõ hẻm. Những hình ảnh mà tôi nhung nhớ hình như chỉ là những hình ảnh của những người nghèo. Những phố phường mà tôi nhớ chỉ là những xóm lao động nhà cửa cũ kỹ tróc sơn. Tôi nhớ những góc đường có những cảnh các cô gái xếp từng hàng thùng thiếc, đợi hứng nước máy để gánh về. Những tiếng cãi nhau giành đứng trước, những tiếng cười dòn, tiếng chửi thề om tỏi lại là những âm thanh thân yêu quen thuộc nhất.



Ngày tôi mong đợi được về lại Việt Nam đã đến. Đó là ngày trọng đại nhất của đời tôi, ngang hàng với ngày tôi bế cu Thịnh ngồi trên máy bay, khi anh phi công Mỹ thông báo: "Sàigòn đã mất". Một đằng được về quê hương sau bao ngày xa cách, một đằng "lại đánh mất quê hương" thêm một lần nữa, mà lần sau này thật sự thương đau hơn, như một cái cây bị chặt hết gốc rễ và bay đi trong cơn gió lốc. Khi nghe Sàigòn đã vào tay cộng sản, tôi ôm chặt con vào lòng, trí óc như bị tê liệt. Tôi nhìn chồng, nhìn cha mẹ. Ánh mắt trao nhau như những con người thình lình bị mất hết cảm giác.



Từ Cao Miên, gia đình tôi trở về Sàigòn năm 1964 trên chiếc xe Peugeot 404 màu trắng (sau này cộng sản tịch thu khi chiếm Sài gòn). Chúng tôi bỏ lại cơ nghiệp, cho những người quen tất cả đồ đạc trong nhà. Căn nhà mướn thì trả lại cho chủ phố. Xe càng gần đến thành phố Sàigòn tôi càng thấy hồi hộp rạo rực trong lòng. Ba mẹ tôi có lẽ cũng đã quên đi chuyện vừa bị ông Ấn Độ giựt một số tiền lớn khi đổi tiền Miên ra tiền Việt để về nước xài. Ba bảo: "Thôi kệ, miễn là mình về được quê hương, mình ráng làm ăn gầy dựng lại mấy hồi".



Ngồi trên xe cô bé Việt Kiều hồi hương cứ đếm từ tỉnh, từ đồn, từ cổng, từ cây số để xem còn bao lâu nữa đến Sàigòn. Lúc xe vào ngoại ô tôi nhìn miết hai bên đường trong lòng sung sướng rộn rã làm sao.



Càng đến gần thành phố các xe taxi, xích lô đạp, xích lô máy xuất hiện. Tôi thấy thương những chiếc taxi hai màu xanh trắng một cách lạ kỳ. Và kể từ đó tôi trở về quê hương để sống và thở lại những ngày tháng dài cho đến khi phải xa cách Việt Nam thêm một lần nữa.



* *



Có lẽ độc giả phải lấy roi "đét vào đít" cô bé làng Hòa Hảo vì cô ấy lái đi quá xa đề tài mất rồi.



À mà đề tài gì nhỉ?



Là tìm lý do cho việc in cuốn sách này.



Vâng, tôi đã biết lý do. Đó chỉ là một sự chia xẻ về tình yêu quê hương và những cảm nghĩ về cuộc sống của một đời người, với những người nói cùng một ngôn ngữ, có cùng một màu da.



Nguyễn Huỳnh Mai

Mission Viejo, 1995


Phượng Các
#5 Posted : Thursday, March 31, 2005 10:24:48 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
CHƯƠNG I:HAI LẦN XA QUÊ HƯƠNG

PHẦN A - Nhật Ký Trước 1975


Lời Đức Thầy Dạy:

Sàigòn, 10-9-1966

Mình ghi chép lại những lời Đức Thầy dạy trong Sấm giảng để ghi nhớ trong lòng...


"Địa ngục cũng tại tâm làm quấy

Về thiên đàng tâm ấy tạo ra."

*

"Trí hiền tâm đức chùi lau

Ra công lọc kỹ thì thau ra vàng."

*

"Mục Liên cứu mẹ bằng nay

Nhờ người hiếu hạnh Tâm rày từ bi."

*

"Hãy bền lòng tầm Phật trong tâm

Phật tây phương thật quá xa xăm

Phải tìm kiếm ở trong não trí."

*

"Lời Ta dạy hãy nên suy nghiệm

Phải phá tan ngũ uẩn trong lòng."



NHỨC ĐẦU

Nhức đầu ran óc bởi vì đâu

Nhức mỏi lòng trông dạ hết sầu

Nhứt dạ chờ ngày Trời trả phúc

Nhức gân, nhức cốt cả trời Âu



Nhức đầu bị tiếng nổ đâu đâu

Nhứt quyết làm cho chúng thoát sầu

Nhứt thống dân sanh gầy hạnh phúc

Nhứt tràng lê thứ khỏi lo âu.

(Hoà Hảo năm Kỷ Mão)



TỈNH GIẤC MƠ

Một giấc mơ màng một giấc say

Tỉnh hồn mới biết cuộc trần ai

Trần ai rày đã xa phiền lụy

Ráng bước qua truông kẻo nữa hoài.

Nợ thế âu toan tròn nợ thế

Đường tu sớm liệu vẹn đường tu.



LO NƯỚC

Nước Việt trẻ già mãi ngóng trông

Ngày nào hưng phục cõi trời Đông

Lẽ đâu Tạo Hóa riêng cai độc

Đày khắc mãi chi giống Lạc Hồng.



TÌNH YÊU

Ta có tình yêu rất đượm nồng

Yêu đời yêu lẫn cả non sông

Tình yêu chan chứa trên hoàn vũ

Không thể yêu riêng khách má hồng.



Nếu khách má hồng muốn được yêu

Thì trong tâm trí hãy xoay chiều

Hướng về phụng sự cho nhân loại

Sẽ gặp tình ta trong khối yêu.



Ta đã đa mang một khối tình

Dường như thệ hải với sơn minh

Tình yêu mà chẳng riêng ai cả

Yêu khắp muôn loài lẫn chúng sinh.

(Miền Đông 1946)



Sàigòn 15-9-1966.



Đây là những lời của Chánh Trí Mai Thọ Truyền, trong "Đạo Phật Của Tôi", trích Đồng Nai số 7:"Kiếp này nếu chẳng độ thânThân này muốn độ, chờ luân kiếp nào?". "...Thật vậy, kinh nghiệm chỉ rằng, trong lúc nhắm mắt chạy theo danh lợi tài sắc, mê cuồng như những đứa bé đuổi bắt bươm bướm, chuồn chuồn, một vài cái té nhẹ, trầy da lả gối, đâu đủ sức làm cho con người đứng lại. Phải đụng đầu với những thử thách thực chua cay, gánh chịu những thất bại thật nặng nề, tương đồng với những cái ngã lọi chân gãy tay của trẻ con bắt bướm, người đời mới THỨC TỈNH..."



"...Cửa Từ Bi mở rộng đón chờ,

Đèn Trí Huệ sẵn soi u uẩn..."



Thật chí lý thay!








Phượng Các
#6 Posted : Thursday, March 31, 2005 10:29:38 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
THUỞ BIẾT YÊU:

Sàigòn, 18-9-1966.
Mình sẽ viết gì đây???
Mình ghi lại cuộc đời của một "đứa con gái", nhưng trong tương lai hay dĩ vãng? Dĩ vãng mình có gì vui, hay toàn những kỷ niệm buồn? Hai mươi tuổi, với số tuổi này mình đã gặt hái được những gì? Hay chỉ đôi bàn tay trắng, không một mảnh bằng cho ba mẹ vui lòng. Nhưng có phải tại mình đâu? Tại thời cuộc, tại hoàn cảnh đất nước kia mà! Biết thế, tại sao mình lại cứ khổ tâm?
"Lúc thiếu thời gặp nhiều bất mãn, nhưng tốt về sau." Đó là lời của một ông bạn của ba trong dinh Gia Long xem tử vi cho mình. Mình nghĩ rằng có lẽ đúng, vì mình cảm thấy trong tâm hồn như có một luồng gió mới thổi vào, cuốn đi những nỗi buồn đè nặng tâm tư...
Có phải Đức Thầy không? Có phải chăng Đức Thầy đã giúp con tìm được con đường Chánh Đạo. Đức Thầy đã cứu vớt con trong lúc con đang chơi vơi trong biển khổ.

Sàigòn, 22-9-1966.

"Đời người tựa bóng câu, hơi đâu mà nghĩ tới những chuyện lặt vặt." Câu này của Disraeli và trong tờ "This Week", André Maurois viết: "Câu đó đã giúp tôi nén được bao nỗi đau lòng mà đáng lý ta nên khinh và quên nó đi... Chúng ta chỉ còn sống được vài chục năm trên trái đất này, thời khắc bất tái lai, cớ sao bỏ phí bao nhiêu giờ để ủ ấp trong lòng những ưu tư, bất bình không quan trọng mà chỉ một năm sau là người khác và cả ta đều quên hết? Không nên vậy, hãy nên hy sinh đời ta cho những hành động và cảm tình đáng quý, những tư tưởng cao thượng, những tình thương chân thật, và những sự nghiệp lâu bền."
Từ đây mình cố xóa hết những buồn phiền để nghĩ đến tương lai. Tương lai của mình, của đạo và của đất nước. Mình ước mong sau này có thể giúp cho xã hội ít nhiều, nếu không đạt được cao vọng: cho đất nước. Nhưng trước hết mình mong cuối năm thi đỗ cho ba mẹ vui mừng.

Sàigòn, 11-10-1966.

Đọc xong cuốn "Đời cách mạng của Đức HUỲNH GIÁO CHỦ", mình hỏi mẹ rằng: "Không biết lúc trước ba có gặp Đức Thầy lần nào chưa?" Mẹ nói có. Mình lại hỏi: "Sao ba theo đạo một cách tích cực, tin tưởng mãnh liệt như vậy?" Mẹ trả lời: "Thì nhờ Đức Thầy phát huệ và dẫn dắt cho." Mình ước mong sao cũng được phát huệ như vậy, vì mình cảm thấy trí óc mình còn quá tối tăm, non kém. Không biết những ước vọng của mình sau này có đạt được như ý mong muốn của mình chăng?
Mình ghi lại bài thơ này để biết rõ quan niệm của Đức Thầy về chữ "Tu" mà Đức Thầy thường đọc đi đọc lại trong lúc nhàn rảnh
"Tu là tâm trí nhu mì
Tu hiền tu thảo vậy thì cho xong
Tu cầu cứu vớt tổ tông
Vớt cho bá tánh máu hồng bớt rơi
Tu cầu cha mẹ thảnh thơi
Quốc gia thủy thổ chiều mơi phản hồi
Tu đền nợ thế cho rồi
Thì sau mới được đứng ngồi tòa sen."


Sàigòn, 20-10-1966.

Lúc sáng thầy Phan đọc điểm bài kiểm Việt văn hàng tháng, mình run và lo quá, nhỡ ít điểm thì sao? Mắc cở chết? Nhưng ai ngờ thầy lại gọi tên mình và khen. Lời của thầy như khuyến khích mình, làm mình vui mừng lẫn sung sướng.
Mình tự hứa sẽ cố gắng hơn lên. Mình quyết định bắt đầu viết một chuyện ngắn cho báo Xuân của trường dựa theo bài "Một Câu Chuyện Văn Nghệ" của ba đã viết. Ước mong sao "sự nghiệp văn chương" của mình sau này sẽ không đến nỗi tệ lắm!


Sàigòn, 23-10-1966.

Thật ở đời có nhiều chuyện không thể ngờ. Mình đi học mới vừa về thì được biết Sơn ở cạnh nhà đã chết vì xe đụng. Tuy mình và Sơn không giao thiệp với nhau nhưng sao đứng trước cái chết của Sơn mình cũng cảm thấy đau đớn, nhứt là thương cho má Sơn. Hôm nọ trong lớp học thầy Phan có nhắc câu: "Sự hiện diện của con người trên thế gian này là vô lý." Hôm nay đứng trước thi hài của Sơn mình cảm thấy thấm thía làm sao! Có đụng chạm với sự thật, mới hiểu một cách sâu xa cái ý nghĩa của câu văn.
Buồn ghê! Mình buồn và thương đây không phải cho riêng Sơn mà cho kiếp sống của con người. Con người mới hôm nào cười nói vui đùa, hôm nay đã xuôi tay, đầu bể, mặt méo, tay gẫy, xác thân chết đi không được vẹn toàn. Thế gian này còn bao nhiêu điều đớn đau nữa mà mình chưa được trông thấy?
Mình phải cố làm một cái gì! Phải làm một cái gì để xoa dịu đi bao nỗi đau thương của nhân loại. Bàn tay mình nhỏ bé, trí óc mình non kém. Mình có đoạt được cái hoài bão ấy chăng? Ước vọng quá to lớn, biết mình thực hiện được không?
Nam Mô A Di Đà Phật! Con xin Trời Phật giúp con đạt thành chí nguyện, xin dẫn dắt con trên đường học đạo và trên đường đời.


Sàigòn, 17-3-1967.

Lâu quá mình không viết, vì mình tự cảm thấy mình viết không được thật với lòng mình lắm, và gần như mình không dám viết hết những gì mình nghĩ.
Ờ, mà mình viết cho mình đọc cơ mà, có ai đọc được đâu mà ngại. À, hay là vì những lời đầu tiên mà mình đã hứa với Đức Thầy: tu theo đường lối của Người để phục vụ đất nước, dân tộc và hòa bình nhân loại. Phải chăng mình sợ không giữ nổi lời hứa ấy? Nhưng nghĩ lại mình cũng như bao nhiêu người khác trên thế gian này. Có thể mình thua họ nữa. Làm sao mà mình dẹp được hết những ham muốn, những ước vọng, những ý nghĩ như những vị tu hành.
Đức Thầy đã nói:

"Tu đền nợ thế cho rồi
Thì sau mới được đứng ngồi tòa sen."

Vậy đâu có phải là chỉ đi tu trong chùa mới thật tu đâu. Hiện tại mình sống đây, trong gia đình, trong xã hội, trong cuộc sống tranh đua này, mình cũng có thể đang tu vậy.
"Tu tâm dưỡng tánh."
Bây giờ mình đã thi xong hết kỳ thi nhị lục cá nguyệt rồi. Vậy là chỉ còn đợi đến ngày thi "thật tình" nữa mà thôi. Sao đôi khi mình thấy không sợ gì cả. Mà lại có lúc mình cũng thấy sờ sợ nhỡ rớt rồi sao há! Chắc không rớt đâu. Nếu mình cố học thì làm sao rớt được. Vả lại chẳng lẽ mình rớt hay sao? Cuộc đời mình ít ra từ đây cũng phải sáng tỏ đôi chút.


Sàigòn, 10-8-1967.

Sáng hôm qua anh Công đến cho mình hay là đậu rồi, nhưng sao mình cũng vẫn cứ lo. Chừng nào thấy tên trên bảng mới yên tâm, mình bắt anh Công chở đi xem kết quả. Ảnh nói mình thiếu độ mấy điểm nữa sẽ có thứ hạng. Mình tức quá cứ than hoài. Anh Công nói mình có tham vọng một cách lãng nhách!
Mình tự nghĩ nhảy lớp từ 3ème lên đệ tam chương trình Việt, đậu cũng là khá rồi. Nhưng mình học nhiều, sút đến mấy ký, ít ra mình đậu có thứ hạng thì sự cố gắng của mình mới được đền bù một cách xứng đáng chứ. Nhưng thôi biết làm sao bây giờ.
Sáng hôm nay thức dậy, cảm giác buồn buồn còn quanh quẩn xung quanh phòng. Nhưng một tia sáng vừa lóe lên. Phải rồi mình vừa nằm chiêm bao thấy Đức Thầy, trẻ độ hai mươi mấy tuổi, mặc bộ đồ bà ba trắng, hơi mập hơn trong hình mình thường ngắm và đẹp hơn nhiều. Đức Thầy nhận dạy mình học và một vài người trong đạo nữa chứ. Nhưng sau cùng chỉ còn có một mình mình mà thôi. Đức Thầy tỏ ra rất thân với mình như: choàng tay qua đầu mình để chỉ mình những mảnh giấy mà Đức Thầy nói rằng để làm chứng khi những người khác xin cho con học, Người mới có thể từ chối. Mình ước mong sao sẽ có một ngày mình được hưởng những phút hầu cạnh bên Đức Thầy như trong giấc chiêm bao vậy. Có lẽ đó là một phần thưởng rất lớn cho sự thi đậu của mình. Vì đây là lần đầu tiên mình thấy hầu cạnh và được trò chuyện thân mật với Người. À, mình có hỏi vì sao Đức Thầy từ chối không dạy mấy người kia, Đức Thầy nói bận lắm không có thì giờ để dạy đông người.


Sàigòn, 11-10-1967.

Dạo này mình lười viết nhỉ. Sau ngày mình thi đậu, Tài đi Bạc Liêu, còn mình đi Vũng Tàu. Trước khi chia tay hai đứa lên thăm cô bạn Tú Linh người giới thiệu cho hai đứa quen nhau, rồi Tài mời mình đi ăn. Lúc Tài bắt tay từ giã, một cái bắt tay như muôn ngàn cái bắt tay khác, nhưng tại sao mình xúc động, xao xuyến. Bàn tay mềm mại, ấm áp. Cánh cửa vừa khép lại, mình cảm thấy choáng váng muốn té. Một cái gì? Một cái gì dâng lên cổ. Mình bước vội vào nhà.
Sao lạ nhỉ? Khoảng thời gian nghỉ hè ở Vũng Tàu mình thấy thảnh thơi ghê. Nhớ một hôm đi bộ ra bãi Sau. Buổi sáng Vũng Tàu đẹp lạ. Mình nhìn mãi cảnh hai bên đường mà không biết chán. Đến hồ sen, mình dừng lại ngắm rừng hoa. Ở đây sao mát ghê! Mình ngửi mãi, ngửi mãi mùi hương của hoa sen mà chưa bao giờ thấy thỏa. Mình leo lên bệ cầu ngồi, quên cả cảnh vật chung quanh. Nhìn những đứa bé chống xuồng giữa hồ sen, mình cứ ước ao được như chúng. Ừ nhỉ! Phải chi mình được như chúng, mình sẽ được kề cận những đóa hoa thơm ngát ấy. Sung sướng biết dường bao. Đằng kia xa xa là những dãy núi cát trắng như cảnh sa mạc. À cái gì xanh xanh đẹp nhỉ! Đúng rồi, đó là biển, biển rộng ghê, mình cứ tưởng là trời xanh. Quê nhỉ?
Bãi biển sao vắng lạ, có lẽ trên đời nầy chỉ có biển và mình. Mình xuống tắm tí rồi lại lên lượm ốc cho các em! Buớc mãi và bước mãi! Những lượn sóng cao như muốn ngăn chận bước chân mình. Bọt biển trắng xóa. Sao mình bỗng rùng mình, sợ hãi. Biển ơi, biển rộng quá. Biển có cướp tôi đi không? Mình cảm thấy nhỏ bé, yếu đuối. Sao hôm nay mình sợ biển quá! Một ý nghĩ chợt đến. Ờ phải chi có Tài.
Từ hôm đi Vũng Tàu về đến nay, bao nhiêu là chuyện vui buồn xảy đến. Mình nên buồn hay vui? Kỷ niệm sâu đậm nhất là hôm 30-9-1967. Ngày hôm ấy Tài đã nói nhiều. Còn mình sao lạ vậy? Không dám ngẩng đầu lên. Những cảm xúc là lạ chưa từng thấy. Nước mắt mình đã chực sẵn rèm mi. Một cái gì không thể tả bằng lời nói, làm cho tim mình muốn ngừng đập. Thời gian ơi! Đừng trôi đi, hãy dừng lại nơi đây để cùng tôi tận hưởng giây phút êm ả này. Mình không biết phải làm gì? Mà làm gì bây giờ? Đôi tay mình thừa thãi! Đôi chân mình tê dại! đôi mắt mình bị gắn chặt xuống nền nhà. Ô hay, sao không ngẩng đầu lên Mai? Ngẩng đầu lên để uống trọn những lời nói êm đềm trìu mến. Tóc ơi hãy phủ kín lấy khuôn mặt thẹn thùng này. Đừng để ai thấy nó, dù kẻ ấy là Tài. Thời gian ơi! Hãy dừng lại, tôi van mà, đừng bao giờ trôi đi phút giây này... Tôi say sưa nghe lời tỏ tình đầu tiên. Này, các người xung quanh, xin đừng nói, đừng cười. Các người hãy đứng thẳng và cúi đầu im lặng...
Ô hay sao không ngủ đi Mai, cứ trằn trọc mãi, khuya rồi. Nhạc hôm nay hay quá, toàn là êm dịu đưa mình vào cõi mộng. Lúc nãy trước khi ra về, Tài muốn mình trả lời, mình cứ giả bộ không biết gì. Tức lắm! Ai mà con gái đi nói ra những gì mình nghĩ. Thôi cậy răng cũng chẳng dám. Thời gian ơi! Độc ác lắm, khuya rồi lại phải chia tay. Biết bao lưu luyến! Anh bảo: "Chúc Mai ngủ ngon!" Ngủ ngon ư! Giấc ngủ ở đâu, sao mãi không chịu tới? Mình cứ chập chờn không biết ngủ hay mê. Mình đã trải qua những giây phút ấy rồi sao? Thật hay mơ? say hay tỉnh? Thật mà, nơi phòng khách anh ngồi ở ghế dài cười mãi trước khi nói. Mắc cở ư? Con trai gì mà mắc cở! Tài sẽ nói trong một câu rất ngắn. Thôi nói dài hà. Mai không thích ngắn. Nói đi, sao cứ cười hoài vậy? Lại cười nữa. Cuối cùng cũng nói. Thôi không thèm vì anh nhắc đến tên một người con gái khác. Buồn lắm! Tài biết nói sao bây giờ. Chẳng lẽ mình nói thẳng ra hết nhỡ Mai giận thì sao? Ờ nhỉ! Có lẽ, tại tánh mình khó từ lâu. Thôi cũng tạm được nhưng phải nói lại hay hơn vào lần khác nhé!
Hôm Chủ nhật anh đãi Mai, Tâm, Ánh, Minh Thư, anh Hữu, anh Đinh Hùng đi ăn ở Ngân Đình cạnh bờ sông Sàigòn. Ngân Đình! Ngân Đình! Ngồi đây nhìn mây nước. Đêm từ từ xuống, đêm đen không một vì sao. Gió nhẹ thổi mái tóc bồng. Mai nghĩ gì vậy? Nghĩ gì đâu! Sao Mai buồn? Mình yên lặng nhìn nước. Bên kia sông Thủ Thiêm những ngọn đèn le lói, chập chờn. Một ý nghĩ chợt đến. Bên này sang trọng! Bên kia nghèo hèn! Chứ gì nữa, lúc nãy trời còn sáng, mình chẳng thấy những mái nhà lá chen chúc, san sát nhau, núp dưới những tấm biển quảng cáo là gì? Biết chừng nào, biết chừng nào mình mới hết thấy cảnh "kẻ sang, người hèn" nhỉ? Hai năm nữa ư? Có thể lắm! Mình hy vọng. Món ăn cuối cùng mình chấm ngon nhất. Tâm đồng ý. Ngon thật! Tài đau mà ngồi ngoài sương, ngoài gió, về đau thêm cho mà xem, nói mà không nghe gì hết. Anh đau Mai buồn lắm. Thật mà! Buồn lắm!...
Thôi đau thì ở nhà ráng uống thuốc, một tuần nữa hẳn lại nhe. Trời ơi! Tới một tuần lận, lâu quá Mai ơi! Mình thử ráng chịu xem sao. Tài đến hoài Mai không học được gì hết, lúc này Mai lười lắm đó nhe! Phải ráng để cuối năm thi đỗ cho ba má vui chứ! Bằng một thế kỷ Mai ơi. Thật không? Thật mà! Lấy gì làm bằng chứng. Thôi xoay qua nói chuyện với Tâm đi. Mình đi chung thì phải hòa đồng chớ đừng nói chuyện riêng hoài kỳ lắm. Biết rồi, lúc nãy anh hòa đồng được, bây giờ hòa đồng hết nổi rồi. Anh Hữu ơi! Mấy giờ rồi. 9 giờ đêm, thôi chúng ta về. Chúc Mai ngủ ngon!


Sàigòn, 8-5-1968. (Sau Tết Mậu Thân).
Trưa nay cố nhắm mắt ngủ bao nhiêu lần mà vẫn không được. Những hình ảnh buổi sáng cứ hiện ra trong đầu mình hoài, rồi lại hình ảnh của Vân nữa chứ. Lạy Trời Phật phù hộ cho Vân được tai qua nạn khỏi và tìm gặp được ba má. Vân ơi, Vân, sao hình ảnh Vân cứ lởn vởn trong đầu Mai, sao Mai lo quá, không biết hiện tại Vân ở đâu, ra thế nào mà mấy ngày nay Mai đợi Vân hoài không thấy Vân đến. Quần áo Mai đã sắp sẵn từ lâu, bao nhiêu câu dự định để năn nỉ Vân nhận lấy, vì Mai sợ Vân từ chối, sao Vân vẫn biền biệt tăm hơi. Trường Văn Học đóng cửa, xe cộ ngoài đường thật thưa thớt. Ai đi cũng có vẻ vội vã.
Sáng nay mình, Quyên, Ánh lên nhà thương Sàigòn xem có việc gì có thể tiếp được người ta không. Gặp chị Chín làm y tá ở ngang nhà. Chị nói hôm nay ít bệnh nhân chớ mấy hôm trước làm không kịp. Ba đứa cũng ráng ngồi đó đợi, chớ chẳng nhẽ đến đó lại đi về. Một hồi sau, bệnh nhân lần lượt được chở tới. Mặt mày Ánh xanh lét. Mình cố gượng ghê chứ không sẽ phát khóc vì thằng bé bị trúng đạn ở lưng. Trông tội không thể tả. Đạn đi ngang qua sau lỗ tai nó rồi ghim vào lưng. Người ta mở lưng nó lấy ra một cục đạn, lúc đầu mình tưởng cũng nhỏ thôi, ai ngờ nó dài gần 8 phân, to hơn cả ngón tay cái của mình. Nó sợ quá cứ kêu trời ầm ỷ, nó nói hai hôm rồi không có chi ăn nên đói quá. Thấy nó than tim mình đau không thể tả, đứa em thì bị trúng đạn vào trán lũng một lỗ to, tội nghiệp con bé, mới được chín tháng. Má chúng nó bị miểng bom làm bấy cả lưng. Còn nhiều người nữa... Nhất là một người đàn bà bị thương ở..., thôi mình không muốn nhắc đến cho đau lòng (tuy hình ảnh đó không bao giờ phai mờ trong trí được).
Mình còn nhớ hôm chiều thứ hai, Minh Tâm vừa điện đàm với mình về vụ Thanh Tâm, người yêu đi lấy vợ khác, mẹ thì bị tê liệt gần á khẩu. Cha mẹ vừa mới bị giật nợ, anh bỏ vợ và sáu đứa con lại để đi theo vợ bé. Sao bạn bè học chung lớp Đệ Nhứt ở Văn Học với mình, nhiều đứa sung sướng quá, còn nhiều đứa khổ không thể tả được. Như Nhứt Tâm cũng vậy, ba ghẻ không cho đi học phải tìm việc làm...
Vừa mới qua nhà Điệp chơi, kể chuyện buồn cho Điệp nghe thì Lan kêu. Vừa chạy về đến sân, mình chợt đứng khựng lại. Thu Vân đấy ư? Có thật Thu Vân trước mắt mình chăng. Một Thu Vân đầu bù tóc rối, mình đầy bụi, đi chân không, chạy xe Honda đàn ông. Vân vừa khóc vừa nói nhà Vân bị sập hết rồi, ba má Vân còn kẹt ở trong trận chưa ra được...


Sàigòn, Chủ Nhật, 2-6-1968

Nam Mô A Di Đà Phật.
"Je commence à penser que je pourrai sacrifier "tout" pour l’amour de l’humanité."(Con khởi sự nghĩ rằng con có thể hy sinh tất cả cho tình yêu nhân loại.)
Đó là một sự thật Thầy ơi, không biết đây là lần thứ mấy con nhìn ảnh Đức Thầy mà lệ tuôn tràn. Con không biết tả sao cho siết nỗi khổ tâm của con đây. Con không biết phải làm gì cho đất nước chúng ta. Và một lần nữa bao hình ảnh đau thương của dân Việt lại hiện lên trong đầu óc con.
Từ sáng tới giờ mình cảm thấy buồn không thể tả, bứt rứt, không biết tại sao. Mà mình chẳng muốn ăn uống gì cả. Ngồi học bài cũng thế, những hàng chữ cứ quay cuồng trước mắt. Mình có than với mẹ sao buồn quá, mẹ có vẻ giận mình và nói buồn gì, buồn hoài hà. Có lẽ mẹ không thích mình nói đến tiếng đó. Chiều nay cũng vậy, sau khi đi chơi với Cúc về, mình sang thăm Ánh, gặp Điệp, Quyên và anh Huyên, mình thấy chán nản quá không buồn nói chuyện với ai nên bèn về. Ngồi vào bàn ăn với ba mẹ, điện thoại reo, ba đi nghe, lúc trở lại ba nói bác Phó Quốc Chụ chết. Mình cứ tưởng nghe lầm. Ba nói tiếp: "Chính thằng lính vuốt mắt ảnh mà". Cầm chén cơm trên tay mà không buồn nghĩ tới, mình không biết phải làm một cử chỉ gì đối với một cái tin đau đớn như vậy. Liền lúc đó những kỷ niệm xưa lúc ở Cao Miên lại hiện đến, êm đềm và quý giá vô cùng. Bác trai đang dạy học cho mình, hai bác cháu bàn chuyện thời sự, chánh trị. Trên bàn có chưng mấy cành hoa do mình mang đến biếu bác. Hai bác dắt mình đi ăn hủ tiếu, đãi Bé Hai của hai bác mà... Bây giờ chiến tranh đã cướp bác đi. Hết, thế là hết rồi bác ơi, bác đi để lại bác gái và năm em dại khờ, tương lai sẽ ra sao? Buồn ghê, mưa lại rơi, ngồi đây ghi lại một vài đau buồn và nhìn mưa ngoài trời, phải chăng Ngài cũng đau buồn cho cảnh dưới thế gian nên nhỏ lệ. Đôi khi mình mâu thuẫn lạ, trời mưa mình mừng vì các đám cháy sẽ được dập tắt. Nhưng hỡi ơi, cái vui lại đổi thành cái buồn khi mình nghĩ đến những kẻ không cửa không nhà.
Nhiều lúc đang ngồi học bài, mình thấy buồn bực lạ, mình nói với mẹ là không đi nhà thương mình buồn và nhớ nhà thương ghê. Ngồi học bài, sách vở trước mắt mà hồn mình ở đâu đâu. Mình muốn xé nát sách vở để đi theo tiếng gọi thiêng liêng nào đó nhưng ... Không thi tú tài hai ba mẹ sẽ buồn nhiều... biết làm sao đây? Hừ học, học, học. Học xong, thi xong rồi hẳn cứu thương, hẳn cứu trợ. Nghĩ cũng nực cười, tại sao những việc mình muốn làm, có thể làm và cần thiết làm thì lại phải chờ đến hai tháng nữa. Đậu xong để làm gì, có bằng cấp để làm chi. Toàn là hư danh cả. Lấy bằng cấp để đi cứu đồng bào ư? Tối vô lý. Tại sao không để hòa bình rồi hẳn học cho yên tâm. Một cái gì tưng tức, cay đắng dâng lên tận cổ mình. Mình chỉ là hạt cát.


Sàigòn, thứ bảy, 29-6-1968.

Sáng hôm nay, sau khi buổi lễ đã bế mạc, cầm ly nước ngọt trong tay, mình đứng tựa cột nơi cửa dinh Độc Lập nhìn ra phía nhà thờ Đức Bà. Mưa đã nhẹ hột, lất phất rơi trên thảm cỏ xanh, cảnh vật sao đẹp lạ thường. Sàigòn lại có một nơi đẹp đến thế cơ à! Thật vậy, mình nói với cô bạn đi cùng: "Ở đây nhìn ra, mình có cảm tưởng như phong cảnh ở Ba Lê vậy hả bồ?" Cô bạn tán đồng ý mình.
Mải ngắm cảnh, mình quên tất cả mọi người xung quanh, bỗng một ông đến hỏi, làm mình giật mình: "Xin lỗi các cô, có mấy ông ký giả đến xin phỏng vấn." Mình thấy phát ghét, chúng tôi là cái thá gì mà mấy ông bày đặt phỏng vấn. Mình nhường lời cho cô bạn: "Thưa chúng tôi không thuộc thành phần đảng phái nào cả. Ban tổ chức nhờ chúng tôi đến tiếp tân, thế thôi."
Mặc cho mấy người nói chuyện với nhau, mình tiếp tục ngắm cảnh. Cảnh đẹp nghìn năm một thuở. Một kỷ niệm lại đến với mình. Hôm nọ mình cùng ba má đi ngang dinh, tự nhiên mình có ý nghĩ ngồ ngộ rồi nói: "Biết đâu có ngày con lại chẳng vô đó." Ba mình cười đáp: "Ối, vô đó làm cái gì, ham làm gì cái thứ đó con." Hôm nọ mình đi học về thì có Tuyết Lan đến, mình lấy làm lạ, vì sao lại đi thăm vào buổi chiều sắp tối. Ai dè Lan rủ mình đi tiếp tân ở dinh Độc Lập. Mười cô đều mặc áo vàng. Mình trả lời rằng mình sẽ hỏi lại ba. Mình cứ tưởng rằng ba sẽ không hài lòng và mình cũng không mấy gì muốn đi. Ai ngờ ba lại bảo có đi chơi thì cứ đi cho biết với người ta. Thôi thì đi vậy!
Lúc sắp ra về, người ta yêu cầu các cô trong ban tiếp tân vào chụp hình chung với Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, mình và Lan (em của Hà Thanh) đứng tuốt ở ngoài chắc không thấy. Có lẽ như vậy tốt hơn! Sau này khỏi phiền phức cho mình.
Chiều nay sao nhức đầu lạ kỳ. Chắc mình muốn đau. Đi học về bốn giờ, muốn học bài cũng không được, mình bèn vào hầm cát (hầm chống pháo kích), nghỉ mệt và thiếp luôn tới chiều.
Buổi tối phóng sự truyền hình có chiếu cuộc họp buổi sáng của ông Thiệu, có dính mình trong đó một đoạn, nhưng chỉ xa xa thôi. Sau đó mình lên lầu cúng và ngồi niệm Phật. Mình niệm "Nam Mô Vô Thượng Như Lai". Tài nói cũng niệm theo lời mình dặn, cũng mong là anh giữ lời.
Niệm Phật xong, sao mình thấy hết nhức đầu. Mà sao hay quá nhỉ, mỗi lần nhức đầu, mình tịnh tâm niệm Phật một lát là hết ngay. Đúng rồi, mình đã bắt đầu thấy hiệu nghiệm rồi đó. Lúc trước mình nghe bác hai Hạnh nói niệm như vậy sẽ thấy tiến bộ lắm. Mình cứ nghĩ mãi không biết tiến bộ như thế nào. Bây giờ mình mới biết.
"Nam Mô Vô Thượng Như Lai, xin Ngài dẫn dắt con trên đường đạo đức."
Mình niệm theo như bác hai Hạnh chỉ dẫn, nghĩa là niệm "Nam Mô Vô Thượng Như Lai" ba mươi sáu tiếng, mỗi lần hít hơi vô và nín thở thì niệm. Lúc đầu mình cứ nghĩ đâu đâu và phải rất cố gắng mới tập trung tư tưởng được, và đôi khi còn phải niệm thành tiếng. Dần dần mình thấy khỏi phải đếm và bắt đầu vẽ hình Phật từng nét, từng nét trong tâm. Sau đó một thời gian mình tự nhiên tưởng đến các tượng Phật mà mình đã nhìn thấy ở Vũng Tàu, ở chùa Phú Lâm, chùa Xá Lợi và ở núi Ô Đông bên Cao Miên... Dần dần mình tưởng đến hình ảnh Phật đang tham thiền nhập định ở dưới gốc Bồ Đề và tưởng tượng ra mình cũng quỳ gần đấy niệm Phật "Nam Mô Vô Thượng Như Lai". Mình mong cho con đường tu thân học đạo của mình tiến hơn như vậy nữa và cứ tiếp tục mãi cho đến ngày gặp Đức Thầy.
Sao dạo này mình thấy thích ăn chay lạ. Mỗi khi mình nhai thịt, mình thấy một cảm giác kỳ kỳ, không tả được. Mình ăn mặn không còn ngon và mạnh miệng như xưa nữa.
Mình cầu xin thỉnh thoảng được gặp Đức Thầy trong giấc chiêm bao. Dạo này Sàigòn lộn xộn quá, cứ bị Việt Cộng pháo kích hoài. Mình phải ở lại Sàigòn với ba, để học thi, còn mẹ và các em đã tản cư về Long Xuyên ở tạm nhà bà Mười rồi. Mình buồn lắm.
"Nam Mô A Di Đà Phật. Con xin tối nay được thăm Đức Thầy trong giấc chiêm bao, và con xin thụ huấn những lời khuyên của Thầy sắp truyền dạy."

Phượng Các
#7 Posted : Thursday, March 31, 2005 10:30:46 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
THUỞ BIẾT YÊU (tiếp theo)

Sàigòn, 25-11-1968 (Năm tháng sau).

Ngủ đi chớ Mai! Anh ơi! Anh à! Sao Mai gọi hoài mà anh không nghe, anh vô tình lắm. Mai biết mà, anh nào có nhớ Mai đâu? Không biết mấy giờ rồi nhỉ? Có lẽ 12 giờ rồi đấy. Mình cũng chẳng buồn coi đồng hồ làm chi nữa. Mấy giờ cũng được mà. Thức sáng đêm cho chết luôn cho anh vừa lòng. Mình dặn dì Hai, chị Năm bếp, chừng nào anh có tìm thì nói mình đi lang thang ngoài đường, hoặc nói mình đau rồi nằm ở trên lầu không xuống nổi. Mình quyết định đi lang thang hoài cho anh hết gặp luôn tới chết cơ.
Sáng thứ bảy anh hỏi chừng nào gặp, mình nói không biết. Mình sợ hẹn rồi rủi đi đâu bất tử, lỡ hẹn anh sẽ buồn. Mình nói thế vì muốn anh gọi điện thoại cho chắc hơn. Chiều hôm đó mình đi bác sĩ Huy với mẹ. Năm giờ chiều ba dẫn mình, mẹ, Hòa Việt, Xuân Mỹ đi xem chiếu bóng ở rạp Eden. Tối về cũng nhớ anh ít thôi, vì mới gặp ban sáng kia mà.
Sáng chúa nhật ba mẹ gọi đi ăn phở, thấy còn sớm nên mình đi và đoán rằng anh sẽ gọi lại vào khoảng tám giờ rưỡi. Ăn phở xong mẹ lại bảo đi chợ, mình nóng ruột ghê mà không dám nói chi cả. Thời gian ở chợ sao mà lâu đến thế không biết nữa. Chân mình bước đi mà mắt cứ liếc tứ tung xem có ai đeo đồng hồ đặng coi trộm. Tám giờ rưỡi rồi đấy. À, mà trước khi đi mình có dặn chị Năm bếp và dì Hai là nếu anh có gọi thì nói rằng mình sẽ đi tí xíu về liền.
Về đến nhà, mình thở phào, chạy nhanh vào nhà? Nhà chỉ có mình Tâm thôi mà Tâm lại sửa soạn đi cắt tóc với Điệp, Ánh thì đi xi nê với Thuấn, chị Năm đi chợ, dì Hai đi "xoa" (đánh bài tứ sắc), ba đi với bác Hùng. Ai cũng bỏ mình hết vì ai cũng đinh ninh rằng mình hạnh phúc. Mười một giờ mẹ đi ăn thôi nôi. Mình nhìn đồng hồ hồi sáng đến giờ không biết bao nhiêu lần. Thôi hết hy vọng rồi đó. Có lẽ chiều anh mới đến. Lại đợi. Trưa mình ngủ không được. Lấy sách ra đọc cũng chẳng hết bồn chồn trong lòng. Cứ hết ra lại vào. Bốn giờ. Năm giờ. Lại hết hy vọng. Mình muốn ngồi dậy thay đồ đi đâu cho khuây khỏa, hay đến Cúc chơi. Nghĩ thì nghĩ thế chớ mình không có can đảm ngồi dậy đi thay áo. Ánh, Điệp dẫn Tâm đi đặt giầy. Ánh rủ, mình không đi, Điệp nói mình còn đợi một người. Ánh bảo à quên, thế nào lát nữa ổng cũng lại. Mình nói không lại đâu. Ánh đòi cá với mình... Trở vào nhà ngồi ở phòng khách một mình chán nản lạ. Người mình hôm nay sao nặng nề lạ lùng. Chẳng buồn tắm, chắc người mình hôi như cú. Kệ, chiều mẹ hỏi Tài có lại không, mình đáp không. Mẹ bảo chừng nào nhà không có ai nó không lại chơi, chừng nào nhà khách đông rần rần thì lại. Mình bảo anh đâu có là thầy bói mà biết trước được. Tối nay mình chẳng buồn xem tivi, sửa soạn vào hầm cát ngủ sớm cơ. Khuya ghê mà mình vẫn còn thức. Mình thấy giận anh ghê. Giận kinh khủng. Chắc mình trốn luôn, hỏng cho anh thấy mặt quá. Anh ngu lắm, ba đi làm việc cả ngày thì anh không đến ba cũng tưởng anh đến. Chừng đi Đà Lạt rồi anh có còn được đến nữa không?
Sáng thứ hai, mình sửa soạn xong còn sớm chán. Mình cứ đi tới đi lui xem anh ấy có gọi cho mình không. Điện thoại reo. Mình chạy vội ra nghe. Cho tôi xin nói chuyện với ông Long. Thế là hết. Chín giờ mười lăm rồi. Thôi đi học vậy. Thế mà mình cũng dẹp tự ái, chạy ngang con đường tình yêu xem có gặp anh không. Mấy lần mình định quay xe trở lại nhưng không biết mãnh lực nào thúc đẩy mình cứ lao đầu tới trước mãi. Anh ấy có tới không chị? Mình hỏi chị bán hàng, chị trả lời không. Mình lại còn ngu xuẩn hy vọng rằng anh sẽ đợi mình trước cửa trường đại học Vạn Hạnh. Nhưng không... Mười một giờ mình xin phép giáo sư về để lên trường Luật. Gặp Tấn em anh, mình định làm bộ hỏi: Mấy hôm rày anh Tài đi Vũng Tàu rồi phải không? Hoặc anh Tài về sao cả tuần Mai không gặp? Ý mà không được, cô em của anh đã gặp hai đứa hôm thứ sáu cơ mà. Mới có một ngày mà mình tưởng chừng lâu lắm rồi không gặp lại. Mình thấy buồn ghê. Mười hai giờ tan trường rồi mình gặp Tâm, hai đứa đứng nói chuyện chơi. Chở Tâm về cầu Trương Minh Giảng, xong mình quay xe lại. Xe Jeep thắng két lại sau lưng mình thật gắp. Xin lỗi ông nhé! Ông cụ "nhà binh" đưa tay chào. Mình vừa chạy vừa mỉm cười. Cùng lắm là chết chớ gì.
Trưa nay lại cố ngủ, nhưng không, mình không tài nào ngủ được. Trong tâm hồn mình một khoảng trống mênh mông không thể nào khỏa lấp được. Nghe nhạc ư? Đọc sách ư? Nhàm chán. Đi. Đi. Không được, nhỡ anh gọi thì sao? Sao lúc này mình thèm đi bách bộ trên những con đường Phan Thanh Giản, Công Lý, Trần Quý Cáp, dưới bóng mát của những hàng cây rụng lá. Mùa thu rồi cơ mà. Chắc lá rụng hẳn đẹp lắm nhỉ! Mình muốn đi ngay, nhưng không được vì mình còn hy vọng anh sẽ gọi điện thoại cho mình. Người mình sao cứ mệt mỏi rã rời. Mình tự nghĩ nằm như thế này hoài chắc mình chết mất. Je veux faire quelque chose pour ne pas rester ainsi. Mais non, je ne peux faire absolument rien... rien...car... je l’attends avec impatience. (Mình muốn làm việc gì đó để khỏi ngồi không như thế này. Nhưng không, mình chẳng thể làm gì được hết, vì mình đang nóng lòng đợi chàng.)
Ờ mà chiều nay anh biết mình không có học, chắc thế nào anh cũng đến. Mình thấy vui vui trở lại và chạy lên lầu gội đầu, tắm... Xong mình ra sa lông ngồi đợi điện thoại. Ba mẹ sửa soạn đi, mình mở cổng cho xe ra, chắc ông bà nghĩ thế nào anh cũng đến. Mình ngồi nơi phòng khách không biết bao lâu nữa. Tay cầm sách chuyện đời xưa mà thỉnh thoảng mắt cứ liếc nhìn đồng hồ. Ba giờ rưỡi, có lẽ bắt đầu từ bây giờ anh mới gọi đấy. Bốn giờ, không lẽ lại trễ quá vậy nhỉ. Bốn giờ mười lăm, hết hy vọng rồi. Mình chạy vào hầm cát nằm, buồn ghê, vì mình biết không thể nào đọc nổi một chữ nào nữa cả. Thình lình điện thoại reo. Có thế chứ. Mais c’est idiot! On se trompe de numéro. Je me demande pourquoi on se trompe de numéro en ce moment. Mon coeur me fait mal en pensant à lui, cet homme que j’aimerai, et que j’aimerai toujours jusqu’à la fin de ma vie. (Nhưng trời đất. Người ta lộn số. Mình tự hỏi tại sao lại có chuyện lộn số vào lúc này. Tim mình nhói đau khi nghĩ đến chàng, mình yêu chàng, và yêu mãi đến chết.)
"Je t’aime plus qu’hier et bien moins que demain".
As-tu pensé en ce moment à cette phrase sacrée que je t’avais dite? Oui ou non? Non n’est-ce pas? Je crois que tu es entrain de lire tes livres intéressants, ou bien, tu vas au cinéma... Tant pis pour toi! Tu fais ce que tu veux. Mais moi, je reste toute seule dans ce trou sombre en pensant à toi, mon bien aimé que j’aime de plus en plus passionément. As-tu pensé à cette petite créature qui t’attend chaque second?
"La mer s’endort sur le sable.
Mon coeur s’endort sur ton coeur."
Te souviens-tu de ces deux vers qui résonnent chaque fois que je pense à mon doux-coeur (T)? N’est-ce pas, tu es mon doux coeur? Mes sentiments pour toi je ne sais comment les exprimer. Mais je sens que le chagrin m’envahit, car cela fait deux jours que je ne vois ton visage dont les traits restent inoubliables dans mon coeur, dans mon sang, dans mes veines, dans ma chair...
Oh! Tu sais comment je suis malheureuse. Je ne peux plus supporter ce chagrin si affreux qui monte dans mon coeur, puis dans mes grands yeux et... enfin j’éclate en sanglos. Vraiment, je pleure comme une petite fille. Je pleure en appelant ton nom, mais tu n’entends jamais, oui jamais...
("Bữa nay em yêu anh nhiều hơn hôm qua, và chắc chắn là ít hơn ngày mai".
Giờ này anh có nghĩ đến câu thần chú mà em đã từng nói cho anh nghe? Có hay không? Chắc là không? Em tin rằng anh đang đọc sách hoặc là anh đi xem phim... Mà thôi kệ anh! Anh làm gì cũng được. Còn em, em một mình ở lại trong khoảng tối này để nghĩ về anh, người thương mà em càng lúc càng yêu say đắm. Anh có nghĩ đến người con gái bé nhỏ này đang từng giây từng phút chờ đợi anh?
"Trên bãi cát, biển nằm ngủ
Trên trái tim anh, em cũng ngủ yên".
Anh có nhớ hai câu thơ này đã vang lên mỗi khi em nghĩ đến anh không, người yêu của em? Có phải anh là trái tim dịu dàng của em? Em không thể nào diễn tả hết được tình yêu em đối với anh. Nhưng em cảm thấy nỗi buồn xâm chiếm tâm hồn bởi đã hai ngày rồi em không được nhìn thấy khuôn mặt anh với những đường nét mà em không thể quên. Hình ảnh của anh thấm sâu trong trái tim, trong giòng máu, trong da thịt em...
Ôi! anh biết em đau khổ ra sao. Em không thể chịu đựng được nỗi buồn khủng khiếp này đang trào lên trong lòng em, rồi trong đôi mắt của em để cuối cùng em bật khóc. Thật vậy, em đã khóc như một đứa bé. Em vừa khóc vừa gọi tên anh, nhưng anh có bao giờ nghe tiếng em gọi đâu, ừ, không bao giờ...)
Nín đi chứ Mai! Khóc hoài nhỡ chị Năm bếp, dì Hai thấy mắt sưng cười chết. À há, rồi nhỡ mẹ về mà thấy mắt mình sưng thì kỳ lắm. Chắc chắn giờ này mình không còn hy vọng gì anh đến nữa. Một ý nghĩ chợt đến. Mình đi tìm quà cho anh. Ừ nhỉ. Mình lau nước mắt. Cơn buồn dịu xuống dần. Mà không được, mình đi một mình khó lòng lắm. À phải rồi, rủ bé Xuân Mỹ cùng đi.
Hai chị em xuống thương xá Tax trước nhất. Mình chỉ xem những món đồ anh có thể sử dụng được, còn Mỹ thì toàn là xem đồ chơi thôi. Mãi mê lo chọn đồ cho anh mình quên cả buồn. Mỹ đòi đủ thứ. Mình vừa hỏi xem chiếc cà vạt, cô bé hỏi thỏ thẻ: "Bộ chị tính mua cho anh Tài hả?" Con bé sao mà khôn đáo để.
Chọn mãi vẫn chưa được gì cả. Mình đi ngang tiệm vải thấy có mấy loại vải nâu đẹp ghê. Mình định mua cho hai đứa giống nhau. Nhưng không, phải đợi đi hai đứa để chọn chứ. Mình nói với cô bán hàng: "Mai tôi sẽ đến mua với bạn tôi". Bước ra khỏi tiệm mình nghĩ, có chắc gì ngày mai không? Bây giờ mình hiểu sao anh không đến rồi đây. Mình nhớ lại hôm nọ mình kể cho anh nghe rằng ba nói anh lại hoài thì làm sao mình học được. Đó là duyên cớ thứ nhất. Còn thứ hai có lẽ vì mình thiếu tế nhị, đã hai lần học bài trước mặt anh khi hai đứa gặp nhau. Mình không cố ý gì hết, mình chỉ muốn dò qua một lần cho nhớ bài thế thôi. Nhưng dù sao cũng lỗi tại mình. Có lẽ anh quyết định hôm thứ sáu nên mời mình đi ăn tiệm, mình không chịu nên anh mời sáng thứ bảy, nhưng vẫn không được như ý muốn. Chắc vì vậy nên anh mới giận mình hơi lâu.
Mình quyết định tối nay sẽ nhờ Thiện đem tài liệu cho anh. Mình tức ghê vì ba chỉ mới đưa lúc ăn cơm trưa xong. Phải chi ba đưa sớm hơn, trước lúc lên trường Luật mình sẽ gởi Tấn đem về cho anh, thì chiều hôm nay thể nào anh cũng lại hà.
Anh ơi, bộ anh ghét Mai lắm sao mà xa lánh Mai vậy anh. Hay vì Mai tựu trường rồi nên anh để cho Mai học. Đã có gì để học đâu mà anh quyết định mau vậy, Anh!
Đi hết Tax, sang Departo, rồi trở qua Tax mà vẫn chưa tìm được gì vừa ý ngoài vải may áo sơ mi. Bé Mỹ cứ cằn nhằn hoài sao không xem búp bê mà cứ xem gì đâu không. Con bé kỳ ghê. Mình phải mua ngay một hộp kem cho cô ta mới êm. Mình nghĩ đợi anh đến bao giờ, thôi thì trở lại mua vải may áo cho anh đi. Gặp cô bạn học ở Trung tâm Văn hóa Pháp, cô ta hỏi mình chừng nào. Mình bảo bốn năm nữa. "C’est long, quatre années n’est-ce pas! Mais hélas! On ne peut pas les raccourcir." (Lâu quá, bốn năm nữa ư. Nhưng than ôi! Đâu có thể rút ngắn lại được). Chọn vải xong, hai chị em đi xe taxi về.
Ce soir, assise dans le fauteuil, je regarde la TV. Rien ne m’intéresse...et je deteste tout ce qui m’entoure. Je ferme les paupières et je commence à penser à toi. J’ai envie de t’embrasser bien fort en ce moment... Je t’aime bien, tu sais? Tu aurais du me dire un mot, non? Mais il ne faut pas rester sans nouvelle de la sorte. Tu vas me tuer avec cette absence sans prévenir. Ah! Comme je serais heureuse en dormant dans tes bras! (Chiều nay ngồi trong ghế phô tơi, em xem truyền hình. Chẳng có gì thú vị... Em thấy ghét những gì vây quanh em. Em nhắm mắt để nghĩ đến anh. Em muốn ôm anh thật chặt trong giây phút này... Em yêu anh lắm, anh biết không? Anh có muốn nói với em một lời chăng? Đừng nên lặng thinh như thế này. Anh sẽ giết em bằng sự im lặng triền miên của anh. Ôi! hạnh phúc biết bao khi được ngủ trong vòng tay anh!)

Hai giờ ba mươi sáng.

Sàigòn, 28-11-1968.

Sáng hôm nay mình đang ủi áo dài để đi lễ xả tang bà ngoại nuôi thì anh đến. Anh mặc chiếc áo nâu có sọc đen mà hôm nọ Ánh nói anh giống người Mễ Tây Cơ, còn mình thì nói anh giống Ý (da đen, mũi cao, mắt đẹp). Những người Ý thường hay có cái nhìn thật sâu sắc, mình thường khen với chị Loan Giao típ người này từ khuya cơ. Hai đứa chẳng nói chuyện gì nhiều với nhau cả, mais c’est merveilleux... (nhưng thật là tuyệt vời...)
Sao nhiều khi mình thấy thương anh không bút mực nào tả xiết cả. Tình yêu như lai láng, êm đềm, trầm lặng, nhưng nhiều khi nó lại đến với mình như thác lũ, nồng nàn làm sao nhỉ. Mười giờ mình có lớp học trên đại học Luật Khoa mà chín giờ rưỡi rồi mình vẫn chưa muốn sửa soạn đi. Mình muốn ngồi mãi bên anh và không muốn rời anh nửa bước. Thời gian ơi sao không ngừng lại để tôi được hưởng mãi những phút giây này... Mười một giờ mười lăm, mình bảo anh đợi mình thay áo dài để anh đưa mình xuống cậu Hai dự lễ xả tang bà ngoại nuôi, anh không chịu cứ hối mãi và sau cùng anh bỏ đi. Mình giận lắm. Đi dọc đường lại bị đụng xe, trầy cả chân làm mình càng thấy giận anh thêm.
Bảy giờ tối anh lại. Sao mình lại quên bẵng chuyện giận anh. Anh bảo ngày mai anh đến không được và không chừng sáng thứ bảy anh trở lên Đà Lạt học. Thật bất ngờ vì mình cứ tưởng là còn lâu lắm anh mới đi! Anh giải thích lúc sáng anh sực nhớ đến công việc của ba anh nên anh mới phải đi ngay. Vậy mà mình ngỡ là anh giận.
Sau khi anh ra về mình buồn ghê vì không ngờ anh đi Đà Lạt sớm như vậy. Mình cứ bàng hoàng mãi và không tin đó là sự thật. Nước mắt mình cứ dâng lên mấy lần, mà mình cố nén, sợ ba má thấy (quê lắm). Vừa lúc đó trên tivi chiếu Quỳnh Giao đàn dương cầm bản nhạc Sonate 16, mình lấy cớ chạy lại ngồi ngang ba mẹ xem. Sao mẹ cứ nhìn mình hoài vậy. Mình ngồi lim dim, ngồi im như phỗng đá. Chắc mẹ tưởng tượng mình đang say mê nghe nhạc (có thể đúng vào những lúc khác). Thực ra mình đang chết điếng trong lòng. Nước mắt mấy lần chực trào ra, mình đang thưởng thức sự sung sướng trong đau khổ. Lần đầu tiên mình thấy thấm thía làm sao. Sự sung sướng pha lẫn đau khổ như lịm đi trong tiếng đàn dương cầm... thật tuyệt vời...
Bỗng dưng nước mắt mình rơi trên áo làm mình giật mình liếc mắt nhìn xem có ai thấy không, rồi lẳng lặng đưa tay nhẹ lau đôi mắt (đó là điều mình không bao giờ muốn vì mình rất ghét lau lệ khi mình khóc, tại sao vậy nhỉ?) Chỉ có những kẻ yêu nhau tha thiết mới hiểu được thôi...

HAI NĂM SAU

Sàigòn, thứ hai 11-10-1970.

Hôm nay là ngày thứ mấy mình đã nằm trong căn phòng vắng này rồi nhỉ. Thứ năm, thứ sáu, thứ bảy, chủ nhật, thứ hai. À năm ngày rồi còn gì. Hình như không phải mình viết thơ mà cũng không phải mình viết nhật ký nữa. Vậy mình đang viết gì đây? Có lẽ mình muốn trải dài tâm sự thì đúng hơn.
Mấy bữa nay mình nghĩ toàn là những bức thơ cắt đứt, sau đó bỏ ý định, và rồi ý định lại trở về. Chắc mình điên lên mất. Ý định cắt đứt thường đến một cách mãnh liệt khi mình đọc lại những giòng chữ cũ của người ta. Mình thấy rõ sự mâu thuẫn lúc sau này và sự mâu thuẫn đã cho mình thấy người ta không còn yêu mình như trước nữa. Mình đã dại dột mà không thấy được sớm hơn những điều này. Mình còn nhớ hồi hai đứa mới yêu nhau, lúc mình đang học thi tú tài hai thì người ta từ Đà Lạt về chạy đến thăm mình. Lúc đó thì mình gầy và xấu kinh khủng, chỉ còn độ ba mươi tám ký (tức thua bây giờ đến năm ký), mình mặc chiếc quần đen cũn cỡn và cái áo bà ba cũng ngắn ngủn. Mình chạy xuống lầu gặp người ta trước sân. Người ta nhìn mình. Ôi đôi mắt thật âu yếm, đôi mắt tràn ngập tình yêu. Mình thật không ngờ khi xuất hiện trước mắt người ta mình là một cô bé xấu xí thế kia, gầy thế kia mà có thể có được một ánh mắt như thế. Mình nửa ngạc nhiên nửa cảm động vô bờ. Mình đặt niềm tin vào đôi mắt ấy.
Cách đó không lâu, nhân một buổi trò chuyện, người ta đã nói với mình "sao những lần Mai đau anh thấy thương Mai hơn lúc nào hết". Tình yêu bây giờ đã chết rồi sao? Người ta sợ sự thật phũ phàng, người ta sợ nhìn thấy mình xấu hơn những người con gái nằm trong vòng tay người ta nơi xứ lạnh, nên vừa về đến nơi người ta đã điện thoại. Không phải để thăm mình mà để dặn trang điểm. Thật là buồn cười, mình đã khó chịu lẫn buồn nhưng không ngờ sự việc lại là như vậy. Người ta sợ mình xấu hơn... Mình nhớ đến hôm lễ Phật trên đại học Vạn Hạnh. Hôm đó mình gặp con bạn đi với người đàn ông xụi một chân. Nó cho mình hay đã lập gia đình. Khi nói chuyện với mình nó liếc nhìn chồng nó thật âu yếm, rồi khi hai người rời bước, nó trìu mến ôm tay chồng. Sự hãnh diện về người chồng đã hiện lên thật rõ trong ánh mắt và nụ cười của nó. Hình ảnh tuyệt đẹp xa dần. Mình đứng đó, nhìn theo mãi, lòng bồi hồi xúc động. Mình cảm phục con bạn và không biết dùng lời gì để ca ngợi nó. Lòng cảm phục vẫn miên viễn trong lòng mình. Con bạn đã tìm thấy chân hạnh phúc. Mình mong sao cho nó dừng lại ở hạnh phúc đó.
Mình viết đến đây thì bé Xuân Mỹ đem lên cho mình hai bức thư. Một của người ta và một của Thiện, con bác Ba Cụt. Mình đọc thơ người ta trước. Mình đọc hai lần rồi nằm suy nghĩ, một lát sau mình đọc thơ của Thiện gởi từ Bỉ. Thiện vẫn còn ký tên Thủy Thiện, chắc nó vẫn còn thương cô bồ ở Long Xuyên. Hôm người ta còn ở đây, mình có ý định viết thơ báo tin cho Thiện biết về sự rạn nứt giữa hai đứa vì mình nghĩ chỉ có em Thiện mới hiểu được nỗi buồn của mình. Trở lại bức thơ của người ta viết cho mình, sao mình thấy trong lòng là lạ làm sao ấy, vì liên tưởng đến những bức thơ trước. Lời lẽ nồng nàn hơn, hay cũng cùng lời lẽ như vậy, nhưng người ta đã phản bội mình. Mình nghe như có một cái gì mất mát. Cũng căn phòng ấy ở Đà Lạt mỗi khi người ta nói ước mong có sự hiện diện của mình, mình đã thật sự rung động và tưởng tượng như đang ở trong căn phòng ấm cúng ấy để săn sóc người ta lúc người ta đau. Nhưng căn phòng ấy đã là nơi lui tới của nhiều người con gái. Mình chả còn là gì nữa cả, sự hiện diện của mình đã quá thừa. Người ta đã trích lời trong thơ của mình. "Chẳng lẽ anh tỏ thật, mà còn giận là vô lý". Nhưng người ta có tỏ thật hay không mà mình không giận. Người ta sung sướng hãnh diện lắm khi đã gạt được mình, "con bé mà nhiều người cho là khôn". Người ta đã cho là mình hẹp hòi để mình tự ái rồi tỏ ra rộng lượng. Người ta đã lầm vì tình yêu đâu có giản dị như vậy. Mình không hiểu người ta có bị lương tâm cắn rứt khi vẫn còn dối mình hay không nhỉ? Lời nói thường đi đôi với việc làm để chứng minh và gia tăng sự tin tưởng. Và việc làm để chứng minh tình yêu là trở lại" bay bướm". Thật là buồn cười.
Người ta đã viết lúc đi lính trong Thủ Đức ngày 6-8-70 trong quyển tập này: "Anh không phủ nhận với lương tâm là anh yêu em, một tình yêu thành thật, đam mê mà anh phải xây dựng và nuôi dưỡng."

21 giờ 15.
Mai ớ ờ, Mai đọc thơ của người ta mấy lần rồi vậy? Còn giận người ta hết? Hồi chiều Kim Lan tới thăm, sao lại nói với Lan rằng sẽ không đi ngoại quốc được, vì anh không được đi. Vô duyên lạ, người ta không đi thì có ăn nhập gì với mình mà lại bảo vì người ta không đi nên mình bèn ở nhà.
Mình còn giận anh lắm. Chắc không bao giờ mình có cam đảm đọc lại những bức thơ của anh gởi về cho mình trong khoảng thời gian vừa qua tại Đà Lạt. Không biết đến bao giờ mình mới hết giận nữa. Bây giờ mình mới thấy thông cảm những đôi yêu nhau lâu rồi mà vẫn cắt đứt, có lẽ vì quá yêu nên người bị phản bội khó có thể tha thứ được. Và những cuộc ly dị vì không chịu được những san sẻ tình yêu của vợ hoặc chồng. Nếu có vì con mà tiếp tục sống bên nhau thì không còn hạnh phúc nữa. Buồn ghê!
"Đường vào tình yêu có trăm lần vui, có vạn lần buồn..."
Buồn quá. Mà mình không biết nói sao bây giờ. Mình ngưng viết, bước ra bao lơn nhìn khu xóm trong cơn mưa sắp dứt. Qua ánh đèn đường những hạt mưa li ti rơi... thỉnh thoảng một vài chiếc xe chạy ngang. Mình thoáng ngạc nhiên bởi một chiếc xe Lambretta trắng được lái bởi một cô gái mặc áo mưa. Phải chăng là cậu con trai đội lốt? Xa xa, tiếng gõ hủ tiếu mì vang lại. Âm thanh càng làm tăng thêm sự cô đơn của mình. Sao dạo này mình lại yêu nếp sống cô đơn một mình trong phòng vắng đến thế. Mình nhìn xuống cây tre, những lá tre non ướt mượt trông thật đẹp. Cũng dưới tàng cây ấy một tình yêu nồng đượm đã kết hoa. Khi ngập ngừng gật đầu dưới những hạt mưa lâm râm rớt xuyên qua những tàng tre ấy mình có ngờ rằng thực tế bây giờ quá phũ phàng chăng? Chắc là không? Biết nói sao cho vơi nỗi sầu?

Phượng Các
#8 Posted : Thursday, March 31, 2005 10:31:33 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
XÂY TỔ ẤM

Đà Lạt 27-8-1973, 15g15

Bé Ngoan thương,
Ba con vừa mới xách xe đi rồi đó. Con biết ba con đi đâu không? Đi tìm đá lót con đường vào nhà đó. Ba mẹ đang xây tổ ấm cho thật đẹp để đón con của mẹ. Ba mẹ lên Đà Lạt được mấy ngày rồi còn gì.

Hôm qua mẹ mệt quá, nên sáng nay ba con đưa mẹ đi khám. Bà bác sĩ Ngọc bảo con nằm thuận nhưng sụt nhiều. Đó là hậu quả của những ngày tìm nhà và dọn nhà. Thêm những ngày ngồi xe đi chơi với bà ngoại con, dì Mỹ, cậu Nam, cậu Sang, ông dượng Đắc nữa chứ. Mấy người đó lên dọn nhà tiếp, nên bà ngoại muốn dẫn đi chơi cho biết thắng cảnh Đà Lạt.

Mấy bữa nay con mái nhiều, bác sĩ dặn mẹ phải nằm nghỉ một tuần và uống thuốc. Sáng nay đi bác sĩ xong ba mẹ đến ăn cơm nhà bác Long. Bác Long gái hỏi mẹ thích con trai hay con gái. Mẹ trả lời, trước kia mẹ mơ con gái đầu lòng để nó gần gũi mẹ và sau biết lo cho các em. Nhưng không hiểu sao từ lúc cấn thai mẹ lại thích con trai. Ba con cũng hỏi nhiều lần nhưng mẹ tránh trả lời. Bà nội con thì cầu nguyện cho mẹ đẻ con gái để thuận việc làm ăn.

Lúc mẹ cấn thai mà mẹ chưa hay là lúc bà nội giao nhà ở Sàigòn cho mẹ để về Sóc Trăng thăm bà cố, bà nội nằm chiêm bao thấy có một bà bế đứa con trai hỏi nội: "Cháu nội của bà sao bà không ẵm". Bà nội trả lời: "Cháu nội của tôi thì tôi ẵm chớ". Rồi bà nội ẵm con, bà nội thấy cả con chim của đứa bé trai đó.

Bà ngoại của con thì cực với ba mẹ nhiều, lo sắm sửa từng món để cho mẹ ra riêng, từ tấm thớt cho đến cái ghế ngồi, từ hũ muối cho đến hộp đường, đủ thứ hết. Vậy mà còn lặn lội lên đây dọn nhà tiếp. Bà ngoại thấy mẹ và ba thiếu món gì lại ra chợ mua thêm.

Nhà của mình mướn bên hông nhà bà chủ, dài chín thước rưỡi, ngang độ bốn thước. Trông cũng xinh lắm. Bên cạnh có mấy cây đào đầy trái, phía sau có hai cây mít, một cây đang có trái. Ba mẹ sẽ trồng thêm hoa và ươm cây để dành cho bà ngoại. Cục cưng của mẹ biết tại sao mẹ gọi con là bé Ngoan không? Mẹ thích gọi con như vậy vì thấy tên nầy dễ thương, và mẹ cũng muốn sau này con ngoan ngoãn dễ dạy, biết yêu kính ông bà cha mẹ. Đó là ước mong lớn nhất của mẹ.

Bác Long trai bạn của ba con bảo là đứa con nào mà khi có thai nó không hành thì đứa đó là quý tử. Bác Long xem tử vi hay lắm, ít hôm nữa bác sẽ cho ba mẹ biết con là con trai hay con gái. Còn bác Ngọc thì giỏi xem chỉ tay. Hôm mới lên ba mẹ còn là dân du mục, đồ đạc chất đầy... (Ba con về...)

Đà Lạt 1-9-1973

Ngoan thương,
Ba con đưa mẹ đi chợ về nhà, xong vào trường Võ Bị chào cờ. Mẹ còn phải làm thức ăn và ủi một đống đồ, nhưng mẹ vẫn lấy giấy ra viết cho con. Mẹ muốn con của mẹ sau này biết được khoảng thời gian ba mẹ chờ đợi con ra đời, ba mẹ sống như thế nào.

Hôm qua mẹ được thơ ông ngoại con do bác Tài, Giám đốc chi nhánh Nam Việt Ngân hàng trao lại. Mẹ đọc thơ mà không cầm được nước mắt. Ông ngoại con khuyên ba mẹ "ráng thương yêu nhau cho nhiều sẽ bớt buồn". Ông ngoại còn định mỗi tháng gởi thêm cho ba mẹ tiền vì vật giá đắt đỏ, lại thêm lương quân đội của ba con chỉ có mười lăm ngàn mấy.

Hôm nay đi chợ, mẹ lại mua tép để rang cả vỏ ăn cho con có thêm xương. Ba con muốn mẹ ăn đủ chất bổ dưỡng để sau này con được khỏe mạnh, cứng cáp và đủ thông minh. Mẹ nhờ uống thuốc nên đã thấy khỏe, con bớt mái lung tung như mấy hôm trước.

Bà nội con có hứa khi nào cô Út thi tú tài xong, bà nội sẽ lên chơi. Lúc ba mẹ còn ở Sàigòn, bà nội nói con mà giống ba con thì ông nội thương cho mà xem. Dù sao con cũng là cháu nội đầu tiên, mà lại là cháu đích tôn nữa chớ bộ. Bên nội con chỉ mới có cháu ngoại, con cô Ba là chị Mai, chị Ánh, anh Tuấn, còn con cô Sáu là bé Hằng.

Ồ, còn bên ngoại thì con chiếm độc quyền. Chưa chi mà dì Thu của con đã lo học đan, học móc áo, nón, vớ cho con. Còn bà ngoại thì sắm áo cho con, mẹ biết chắc con sẽ được nhiều người cho quà lắm. Mấy bữa sửa soạn lên đây, mẹ đi lựa đồ nhái của Mỹ ở chợ trời cho con. Nếu có ba chắc ba không cho mua vì ba muốn con của ba phải được mặc đồ mới. Nhưng mẹ thấy đồ này đẹp quá, lại hợp ở xứ lạnh nên mẹ mua đại rồi về tẩy trùng mấy lượt nước sôi. Mẹ có mua áo thêu, xây thêu và hài bằng chỉ cotton cho con trong một tiệm lớn, gần hãng Pasetco của mình ở đường Tự Do. Mẹ cũng có đan vớ cho con nữa, nhưng mẹ làm theo mẫu lớn trong sách, từ ba đến năm tháng, con mới mang được. Mẹ đem bàn máy may, đồ đan, móc chỉ, len, lên đây định làm cho con nhưng lu bu có lúc nào rảnh đâu. Ba mẹ buồn, nhớ nhà cứ xách nhau lang thang hoài để giết thời giờ, còn về đến nhà thì dọn dẹp. Có hôm 11 giờ đêm ba mẹ mới ăn cơm. Cách đây mấy hôm ba mẹ đãi mấy bác bạn của ba con: bác Tài, bác Châu, bác Ngọc (xem chỉ tay mẹ, nói mẹ có ngôi sao nếu không có sẵn việc làm ăn lớn để phát tài thì sanh con quý tử), bác Thạnh (cho ba mẹ làm dân du mục mấy bữa mới lên vì bác ấy không trả lời hộ ba con, nên người ta cho mướn mất nhà), bác Quang, bác Jacques. Mẹ đặt bàn ăn trông cũng được lắm, nhưng ngồi ở dưới đất.
Thôi mẹ đi làm công chuyện nhé, gần 10 giờ trưa rồi.

Đà Lạt 4-9-1973, 14g30

Cưng của mẹ,
Sáng hôm qua, ba mẹ đến bác Long để nghe tử vi, và ba con bàn công chuyện làm ăn. Bác Long nói sợ mẹ buồn vì bác ấy đối chiếu hai lá số tử vi của ba và mẹ thì con sẽ là con gái. Mẹ có buồn gì đâu. Con trai hay gái gì mẹ cũng thương hết, miễn là ngoan ngoãn dễ dạy, có hiếu với ông bà cha mẹ là đủ. Có điều mẹ hơi buồn là số ba ít con, chỉ có một đứa hoặc rán ăn ở phúc đức mới có thêm một đứa thứ hai, với lại con thuận và thương mẹ hơn, hay nghịch ý ba con. Điểm nầy mẹ mong sẽ sai vì mẹ biết ba con sẽ thương con lắm.

Lúc ba con đi vào trường thì mưa to lắm. Bây giờ trời đã trong sáng lại, mưa dứt hột, chỉ còn tiếng lách tách của những giọt nước rơi từ mái tôn, nhưng trời vẫn gầm to lắm, long trời lở đất.

Mẹ ngồi ngoài phòng khách nhìn ra cửa. Ngoài kia những con ngỗng trắng đang rửa lông giũ cánh. Những cụm hoa màu hồng, màu trắng đang ủ rũ gục đầu. Những cây hồng quanh nhà chỉ còn lại những trái xanh vì bà chủ đã hái hết trái chín vào buổi sáng. Tiếng gà kêu vang lại từ chuồng phía bên trái nhà mình. Cuối con đường đất là cây thông thật to, mỗi khi gió rít lá thông xì xào, vi vút mẹ thường ngỡ tiếng xe ba con về. Ngồi đây mẹ không thấy được cổng ra vào vì xe phải quẹo sang tay phải mới ra mặt đường. Nếu đợi ba con, mẹ không thể thấy ngay khi ba con về đến cổng. Mẹ phải lắng tai nghe tiếng xe và tiếng đóng cửa xe, vì mỗi khi đi đâu về ba hoặc mẹ phải xuống xe tự mở và đóng cổng để khỏi làm phiền gia đình bà chủ. Bà chủ và các con bà ấy cũng tử tế. Ba mẹ treo ảnh Đức Thầy phía trên cửa ra vào, ngồi đây, khi muốn chiêm ngưỡng ảnh Đức Thầy mẹ chỉ cần ngẩng đầu nhìn lên.

Mưa lại rơi, nhưng kỳ này nhỏ hạt. Trời lại gầm xa xa. Con đường đất lại sình lầy. Sau nhiều lần đi lượm đá, ba con chỉ lót được hơn một thước kể từ cửa nhà mình. Bác Châu hứa dẫn ba con đi chở đất về đổ rồi cũng chẳng có gì, lại thêm một hoàng tử Lèo sau bác Thạnh.

Những giọt nước trên mái tôn cứ lách tách rơi xuống vũng nước nghe buồn làm sao. Tí nữa đây, ba về mẹ và ba sẽ ra phố đón xem có cậu Việt của con lên chơi không? Sao đến hôm nay vẫn chưa có tin gì ở nhà cả. Ba ngày nay ba mẹ lặn lội đi tìm bác Phong vì bác ấy ở Sàigòn lên. Ba mẹ có cho địa chỉ của bác Phong, mà sao dưới nhà vẫn không gởi thơ từ gì hết. Như vậy có nghĩa là ở nhà sắp có người lên. Mấy con ngỗng lần mò đến gần cửa nhà mình. Chúng uống nước, ăn những lá cây non, mẹ bắt chước tiếng kêu của chúng, mà chúng vẫn không thèm nhìn mẹ.

Đà Lạt 28-9-1973

Ngoan cưng,
Ba con về Sàigòn hôm qua. Mẹ hy vọng là kỳ này ba con thành công về việc làm ăn buôn bán thêm, nếu có lời chút đỉnh thì đỡ cho gia đình bé nhỏ của mình biết mấy. Tuần trước bà nội và cô Út Nga lên chơi. Bà nội nói mẹ yếu dây chằng nên đi nhiều bị đau. Bà nội và cô Út cũng thương mẹ con mình nên khóc khi chia tay về Sàigòn.

Dạo này mẹ cũng khỏe một chút vì bà ngoại có gởi chị Tám lên làm việc nhà. Chị Tám lên cùng một ngày với nội con, chị đi với cậu Ca, cậu Sang và cậu Hồng. Mấy ngày khách đông, mẹ mệt lại giận ba con nên bị xúc động mạnh. Mẹ mới ngủ được hai hôm nay thôi, chứ lúc trước vì lo nên cứ ngủ được nửa đêm rồi thức đến sáng, trưa lại không ngủ. Hôm nào mẹ sẽ đi hỏi bác sĩ xem mẹ thức như vậy có hại gì cho con của mẹ không? Mẹ mong ba con làm có tiền chứ nếu cứ đà này thì ba mẹ chịu đựng nhiều lắm là ba tháng nữa. Lương ba con chỉ có mười lăm ngàn, cộng ba ngàn tiền gạo chính phủ thêm mà chi phí mỗi tháng đến trên năm chục ngàn. Mẹ không muốn mướn người làm, mẹ định cố gắng làm việc với sự giúp đỡ của ba con, nhưng bà ngoại rầy mẹ, muốn mẹ nghỉ ngơi để con và mẹ sau này đều mạnh khỏe. Ba con cũng khuyên mẹ nên hy sinh vì con, đừng lo nhiều về vấn đề tiền bạc, đừng buồn vì nhớ gia đình v.v... Mẹ nghe theo nên mẹ hết sức gạt bỏ những cảm xúc khi nghĩ đến những người thân yêu ở Sàigòn và cố xuất tiền mà không buồn lo. Ở Sàigòn mẹ và ba còn để dành tiền trong trương mục tiết kiệm để sanh con.

Mẹ vừa tìm được nguyên do tại sao mẹ lại muốn đẻ con trai hơn. Mẹ muốn con là con trai để tinh thần con được thoải mái, ít lo buồn. Như ba con dù lo bao nhiêu vẫn gạt bỏ được. Đêm đêm trong khi mẹ thao thức lo lắng, dù biết rằng có lo, có suy tính cũng không thay đổi được gì, thì ba con ngủ một giấc thật yên lành sau một ngày chạy đôn chạy đáo đi dạy, đi tìm cách làm ăn. Nhiều khi thấy mẹ lo quá, ba con rầy mẹ, nhưng tánh mình như vậy biết sao bây giờ.

Con xem ông ngoại lo cho mẹ, nuôi mẹ ăn học, đến khi lập gia đình cưới hỏi, ông bà lại phải lo đủ điều. Lúc ba mẹ ra ở riêng cũng phải lo nữa. Bà ngoại đi đâu cũng khóc, hôm nọ dì Huệ lên chơi nói bà ngoại dẫn dì Đào đi sắm áo cưới ở tiệm Bangkok, nơi mẹ và ba đã mua áo. Bà ngoại nhớ đến mẹ, bà ngoại khóc, bà ngoại đi làm răng, làm tóc cũng khóc khi nghĩ đến mẹ. Rồi con xem, khi mẹ sanh con liệu ông bà ngoại có làm ngơ được không? Làm cho cha mẹ nặng lòng vì mình hoài, trong khi mình chưa trả hiếu thảo được thì làm sao mẹ an tâm.

Mẹ sợ rồi đây sẽ có vòng lẩn quẩn nếu con là con gái mà lại chịu ảnh hưởng tánh tình của mẹ. Ai cũng thích tự lập, chính ba con cũng nhất quyết tự lập khi ba mẹ chưa lấy nhau, nhưng mỗi thời một khác. Đất nước mình đang chiến tranh, ba con cũng là lính như bao nhiêu người khác thì đành bó tay chứ biết sao.

Ông ngoại con từng nói với mẹ là: "Tinh thần tự lập ngày nay không còn hợp nữa, mà phải biết cách nào để gia tăng số tiền mà cha mẹ đã trao cho mình mới là thành công". Thời buổi bây giờ mình không làm được gì nếu trong tay không có vốn. Chủ nhật này ba con trở về rất có thể nhà mình sẽ có ông bà ngoại và dì Minh Thư lên chơi. Chắc vui lắm.

Đà Lạt 8-10-1973

Con của mẹ,
Mấy bữa nay bão ở Đà Nẵng, Qui Nhơn thổi tới nên mưa dầm và gió rít lạnh kinh khủng. Hôm bà nội lên chơi, mẹ chỉ mặc có bộ đồ mát mà không thấy lạnh. Mấy bữa nay mẹ phải mặc áo len của ba con ở trong, áo len mẹ ở ngoài mà vẫn lạnh. Tội nghiệp ba con, vậy mà sáng sớm đã phải đi dạy rồi.

Hôm ba đi Sàigòn về, mẹ được thật nhiều thơ của bà ngoại và các dì, cậu của con. Thật không gì vui bằng. Ai cũng có gởi lời thăm con hết, cả dì Ánh làm dâu phụ cho mẹ nữa. À hôm qua có bác Thêm, rể phụ lên chơi, mẹ đãi bác ấy chả giò. Bữa nay, bác ấy trở lại Sàigòn mang thơ về hai nhà nội và ngoại của con. Ba con nói sao mẹ viết thơ gì mà dài quá cho bà nội, bà ngoại đến bảy, tám trang giấy. Mẹ nói kỳ trước mẹ còn viết cho bà ngoại đến gần hai chục trang. Ba và bác Thêm lắc đầu. Mẹ cũng có ý muốn về Sàigòn sớm để chuẩn bị quần áo cho con vì mẹ không biết chừng nào sanh, mà mẹ thấy ba con ở lại một mình tội nghiệp quá, không ai lo cơm nước, săn sóc. Chắc hôm nào bớt bão, mẹ sẽ đi khám xem độ chừng nào sanh.

Cục cưng của mẹ lúc này đạp quá, coi chừng mẹ đánh đòn đó. Hôm đi mua rượu về ngâm thuốc của ông nội mua cho ba con, mẹ và ba giận nhau. Mẹ tức quá, mẹ khóc vì ba con hay nóng tánh, nên nói nặng. Mẹ tủi ghê đi, mẹ khóc nhiều, bỗng con trồi lên một cục thật to không biết phải là đầu con không? Bên trái bụng mẹ nhô lên thật cao, cái bụng mẹ méo xẹo, làm ba mẹ lo ghê. Có phải con đang bênh mẹ đó không? Hả cưng?

Ba đi dạy về rồi chở chị Tám đi chợ. Hôm nay bão, mẹ mới ở nhà đó. Mấy ngày khác, mẹ muốn ở nhà một mình để viết cho con ghê đi, mà ba không cho, ba sợ mẹ ở nhà một mình mẹ buồn.

Con thương, lúc này gia đình mình hạnh phúc lắm. Có lẽ lúc mọi lo âu, buồn bã lắng dịu rồi mình mới thấy nổi bật một thứ tình cảm mình đã có, nhưng trước kia bị những cảm xúc liên miên trấn áp. Cũng như những đêm nằm gác đầu lên tay ba con, nước mắt mẹ đầm đìa thấm ướt cả tay áo của ba. Mẹ buồn, mẹ lo. Nhưng bây giờ lại khác, mẹ thấy ngập tràn một thứ hạnh phúc vô bờ bến.

Nhiều khi mẹ cảm thấy mình muốn ngộp đi trong hạnh phúc đó. Mẹ thấy mẹ thật sung sướng trong tình yêu của ba con. Tim mẹ rung động, mẹ muốn khóc trong sự sung sướng đó. Mẹ hỏi sao không thấy ba con nói gì về thứ hạnh phúc mẹ cảm thấy. Ba nói vì ba đã cảm thấy từ lâu. Mẹ hỏi ba thương con không? Ba nói ba thương con lắm, tình thương đó chứng tỏ qua cử chỉ, đêm nào ba con cũng áp tay lên bụng mẹ để theo dõi từng cử động nhỏ của con.

Ôi đứa con mến yêu của mẹ đang thành hình! Mẹ mong con là một đứa con xinh xắn dễ yêu, ngoan ngoãn như lời cậu Lâm đã nói.

Đà Lạt 11-10-1973

Ngoan của mẹ,
Hồi tối mẹ và ba có gọi điện thoại về nói chuyện với ông bà ngoại. Bà ngoại vui lắm, cậu Việt, dì Mỹ, cậu Nam được thơ mẹ rồi, cả bà ngoại nữa. Dì Thu trách mẹ không viết thơ cho dì, mẹ nhờ ngoại nói mẹ trả lời không xuể. Ông ngoại bận quá không lên chơi được. Mẹ nói với bà ngoại trên này có bão, mưa hoài nên lạnh lắm. Ai ngờ sáng nay có nắng rồi.

Sáng hôm qua, mẹ đi khám bác sĩ Ngọc, bác Ngọc là vợ bác Kiệt, bạn của ba con. Mẹ quê quá vì mẹ nhớ lộn nên mẹ trả tiền bác sĩ thiếu một trăm, kỳ ghê. Bác sĩ nói con nằm thuận đầu xuống dưới. Thật mẹ ngu ghê vậy mà cứ tưởng đầu con phía trên. Bác sĩ nói mẹ bị gò là vì tử cung, hôm trước mẹ tưởng đầu của con. Hèn chi mấy bữa kia con cứ đạp lên ngực mẹ, mẹ lại tưởng con nhào lộn ở trong bụng chớ. Bác sĩ nói bụng mẹ không lớn, đo bụng xong bác sĩ nói bảy tháng như vậy là vừa, và mẹ không có triệu chứng gì là sanh sớm hết. Mẹ cân được 52 ký, mạch lên một phút 10/6. Kỳ này bác sĩ cho mẹ uống hai thứ thuốc Natisédine và Bétotal. Tác dụng cho tử cung và các bắp thịt bụng bớt co thắt và bồi bổ thai.

Tội nghiệp ba con, xe bị hư, trời mưa mà ba con phải đẩy, mình mẩy đầy đất xình. Ba con nhờ hai cậu sinh viên hay học sinh ngoài đường đẩy dùm, ai ngờ xe lọt luôn bánh sau xuống đường mương. Hai anh chàng cười rồi bỏ đi. Mẹ tức mình hết sức. Tinh thần của thanh niên ngày nay đấy ư? Mẹ thích con đi hướng đạo lắm, không hiểu lớn lên con có thích không chứ cậu Việt thì không chịu đi, mặc dù dì Quyên, bạn mẹ hết sức khuyên dụ. Mẹ không thích trẻ con chỉ biết đi chơi rong, đi xem chiếu bóng để giải trí. Ba con kéo xe lên không nổi, phải đến hãng sửa xe của dì Năm nhờ. Thật là phiền.


Đà Lạt 18-10-1973

Cưng của mẹ,
Con biết mẹ đang ngồi đâu viết cho con không? Mẹ đang ngồi nơi cửa sổ, nhìn ra cả một vườn hoa hồng chan hòa ánh nắng của mặt trời buổi sáng. Đẹp quá Ngoan ơi! Mẹ với ba đang ở nhà mới. Bây giờ không còn là 12 Nguyễn Đình Chiểu nữa, mà là số 4 Phan Chu Trinh. Căn phòng tuy nhỏ hơn căn nhà cũ, nhưng sạch sẽ, thoáng khí và... đẹp. Bên cạnh có một nhà bếp nhỏ. Ba mẹ cố tìm chỗ khác cũng vì con đó. Ba con nói con của ba phải được ở nơi nào có ánh mặt trời, có sân tráng xi măng cho con chạy chơi. Nhà cũ tuy cũng đẹp, nhưng chung quanh cây cối um tùm, nên ẩm và con đường vào nhà lầy lội quá. Bà chủ nhà cũ lúc đầu thì tử tế, nhưng khi mình đi thì lại ngược xuôi. Mẹ sợ ba con cãi nhau với bà nên mẹ phải thắp nhang cầu nguyện đó. Nhà mới này sẽ đón con của mẹ trong vòng tay trìu mến của ba mẹ. Con sẽ ở đây với ba mẹ đến bao lâu?

Đà Lạt 30-10-1973

Con thương,
Mấy bữa nay có cậu Việt con lên chơi, cậu mau lớn và cao ghê. Dì Mỹ có viết thơ cho mẹ có vẻ người lớn lắm, dì Mỹ thương mẹ và trông bồng cháu của dì lắm, cậu Nam cũng có gởi thơ nữa.

Có cả dì Tràng (con gọi bằng bà) và cậu Thành, bạn của cậu Việt lên chơi. Bà ngoại thương hai người nầy vì mồ côi như ngoại vậy. Ngoại gởi lên hai chục ngàn vừa vặn ba mẹ sắp hết tiền, hết gạo. Tuần trước mẹ cho chị Tám về nhà ở Củ Chi vài bữa, ai dè chị Tám đau nên ở cả tuần. Mẹ lại xách giỏ đi chợ, ba con làm tiếp việc nhà. Ba con đang nộp đơn thi vào cao học Quốc Gia Hành Chánh. Chị Tám lên hôm trước thì hôm sau nhà có khách, rốt cuộc ba con chẳng học hành gì được bao nhiêu, vì phải đưa mọi người đi chơi rồi lại tiếp chuyện. Lúc này mẹ cố gạt mọi lo lắng buồn phiền để luôn luôn có được bộ mặt vui vẻ. Từ hôm dọn nhà đến hôm cậu Việt lên trời nắng thật đẹp. Vừa có người Sàigòn lên trời mưa vì có bão ở đâu thổi tới. À! Hồi sáng mẹ có nhận được thơ của bà nội, bà nội biểu 10 tây ba con hãy về vì tháng xui, ba con phải đi thi ngày 6, thì làm sao về trễ như vậy được.

Đà Lạt 2-11-1973

Ngoan ơi,
Mẹ mệt mà mẹ vui lắm, từ sáng đến giờ mẹ dọn dẹp nhà cửa chẳng ngơi tay. Con biết tại sao không? Trưa nay ông bà ngoại và các dì cậu con lên chơi. Tối hôm qua, mẹ có nói chuyện điện thoại với bà ngoại. Bà ngoại mới tính sơ khởi mà có mười người lên, không biết còn ai nữa không? Ba mẹ định thứ bảy ba mẹ, bà Xuân Trang, cậu Việt, cậu Thành, chị Tám về Sàigòn, nhưng sáng hôm qua ba con điện thoại về nhà thì ông ngoại biểu đợi chủ nhật về luôn.

Cậu Nam con viết thơ hỏi mẹ con tên gì, cao hay nhỏ, con biết làm gì chưa? Cậu Việt kể cho mẹ nghe cậu Nam viết thơ mà không cho ai xem hết. Cậu ngồi ở bàn phấn bà ngoại có tấm kiếng trước mặt để không ai đến gần cậu. Cậu Việt bò lại mà cậu Nam cũng thấy nữa. Cậu Nam được bao nhiêu tuổi thì ba mẹ quen nhau được mấy năm.

Hồi ba mẹ gặp nhau lần đầu tại nhà thì bà ngoại đang trong thời gian đội khăn, mang vớ, mặc áo len vì mới sanh cậu Nam. Lúc đó, tội nghiệp bà ngoại lắm, bác sĩ phải mổ bụng bà để mang cậu ra vì cậu to quá, bác sĩ hút ba lần mà không được. Cậu Nam nặng bốn kí mấy. Lúc bà ngoại đang bị mổ, mẹ và ông ngoại lo ghê. Mẹ khóc, còn ông ngoại ngồi ôm đầu, mồ hôi nhỏ giọt.

Sáng hôm nay trời tuy không nắng nhiều, nhưng đẹp, hoa hồng nở rải rác vì qua mấy ngày mưa gió, ảnh hưởng của bão. Mẹ cứ mong cho hoa nở đẹp để bà ngoại con ngắm. Quýt hôm nay còn ít quá vì mấy hôm trước chị Tư quản gia hái cho mấy người quen của chị. Tuy nhiên chắc cậu Nam và dì Mỹ con cũng thích lắm vì có cam, hồng và ổi nữa, (Chỉ được ngắm, chứ không được ăn vì của chủ nhà).

Mẹ mong cho đường đi hôm nay được bình an suông sẻ, để gia đình lên đến nơi thật sớm và yên lành.

Sàigòn 15-11-1973

Cưng ơi, lúc này mẹ đang ở Sàigòn đây. Ba con thi xong lên Đà Lạt hôm Chủ nhật 11-11-1973. Từ hôm đó tới nay, mẹ cảm hoài vì thay đổi khí hậu.
Lúc ở Đà Lạt, mẹ khỏe còn về đây nóng nực mồ hôi ra đầm đìa. Bà ngoại con cũng đau nhiều, vậy mà rán dẫn mẹ đi hốt thuốc. Hốt thuốc chỗ này hay nhưng mắc ghê, ba thang thuốc hết 5,400 đồng. Mẹ uống hai thang rồi nên mới khỏe trong người, ngồi đây viết cho con đó.

Mẹ thấy ông ngoại lo cho ba con từng li từng tí, đôi khi mẹ mừng nhưng tủi, vì mẹ không được bên nội con lo như vậy. Cậu Công đã đặt nôi cho con dùm mẹ và cho dầu khuynh diệp. Hôm qua người ta mới chở nôi lại giao, trông hơi to nhưng như vậy con sẽ nằm được lâu trong đó và khỏi té lúc lớn hơn.

Hôm ba con đi, ông ngoại có dẫn mẹ đi bác sĩ, bạn của ông ngoại để thăm thai. Bác sĩ này là Giám Đốc bệnh viện Hùng Vương và cũng là bác sĩ của nhà bảo sanh Sùng Chính, lẫn Phúc Kiến. Ông khuyên mẹ sanh ở Hùng Vương vì nơi đây có đầy đủ dụng cụ y khoa, nhứt là nhà ông ở cạnh nhà thương. Mẹ không biết tính sao, ông ngoại khuyên nên nghe theo. Mẹ muốn làm khai sanh cho con vào đầu năm 1974 để con khỏi mất một tuổi khi đi học. Nếu sanh ở Hùng Vương thì không được để trễ quá mười ngày, vì ở đây họ làm hết thủ tục cho mình, rồi vô sổ hộ tịch luôn, có lẽ mẹ phải chọn nhà thương tư.

Lúc này con đạp mẹ ghê đó, nhiều khi mẹ ngồi khom xuống không được vì con chỏi chân lên.

Sàigòn 22-11-1973

Ông ngoại con vừa đi Nhật sáng nay, bà ngoại, dì Minh Thư, dì Thu và mẹ đưa ông ngoại lên phi trường. Khi ông ngoại về, không biết hôm đó mẹ sanh con chưa? Theo đúng ngày tháng bác sĩ tính thì đến 4-12 mẹ mới sanh. Mẹ vừa đi đến phường để lấy hôn thú sáng nay, ba mẹ phải lo vụ này ghê lắm đó. Ba con nói sợ không kịp làm khai sanh cho con, sau này lớn lên con không hiểu con buồn. Sở dĩ ba mẹ không làm hôn thú hồi mới cưới vì ba con định nếu xin được đi du học thì mẹ sẽ xin theo. Nếu có hôn thú, mẹ xin đi du học không được, vì họ sợ ba mẹ ở luôn.

Hôm nọ cô Hai và bà nội đến thăm ngoại và mẹ. Tội nghiệp bà nội con trời mưa bão mà cũng rán lại. Cô Bảy cũng có đến rước mẹ về chơi hai lần, lần sau mẹ đau nên mệt, nhưng cũng rán đi vì có bà Ba, em của bà nội con ở Bạc Liêu lên chơi. Ngoan ơi, chắc vài hôm nữa ba con về rồi, vậy mẹ bớt lo. Tội nghiệp ba con hôm qua điện thoại về chúc ông ngoại đi bình yên. Ba con nghe mẹ uống thuốc bắc thì lo sợ rối rít, cứ sợ con sẽ đen. Mẹ nói không lẽ đau nhiều rồi cứ rán chịu hay sao. Mẹ có hỏi ông thầy thuốc thì ổng nói con sẽ trắng như Tây, đẹp lắm, không đen đâu.

Con không biết mẹ đang nói chuyện với con hay sao mà con đạp mẹ quá chừng vậy. Bà ngoại hay xoa bụng mẹ và để tay xem con có đạp không. Bà ngoại thương con lắm đấy. "Cháu bà nội, tội bà ngoại mà lị". Người ta còn nói "Cháu ngoại thương dại, thương dột, cháu nội không vội gì thương". Thôi chóng ngoan nhé, rán chờ ba con ít ngày ba con sẽ về ngủ với mẹ con mình, rồi tha hồ mà đạp tay đạp mũi của ba con.XÂY TỔ ẤM
Sàigòn 4-12-1973

Hôm qua mẹ và ba về thăm nội. Bà nội nói nằm chiêm bao thấy một thằng bé ngồi ỉa một cục cứt dài, nội thấy chim nó nữa. Nội mới hỏi: "Con ai mà ỉa tùm lum tùm la vậy cà". Có tiếng người trả lời mà không biết ai: "Con thằng Liêm chớ con ai" (Liêm là tên ở nhà của ba đó). Bà nội nói vậy chắc mẹ đẻ con trai và nếu vậy là con của "Bà". Mẹ nghe nói con của các "Bà" thì khó nuôi. Ba trông con từ mấy bữa nay đó. Mẹ cũng đau bụng lâm râm vào buổi tối, chân tay nhức mỏi khó chịu, nhưng cũng nhờ uống thuốc bắc mấy bữa trước nên ngủ ngon và ít đi tiểu đêm như lúc trước. Mẹ trông cho mau sanh con nhưng nghĩ lúc đau bụng và lúc sanh mẹ sợ ghê. Đáng lẽ ông ngoại về hôm hai tây, nhưng máy bay cứ đổi hoài, chắc chiều nay ông ngoại mới về.

Hôm qua kho xăng Shell lại cháy làm cho xăng khan hiếm nữa. Bà nội dặn ba để dành xăng để đưa mẹ đi sanh. Hôm nay nghe nói đã bán xăng lại rồi, nhưng hạn chế.

Ngoan ơi, là con trai hay con gái gì mẹ cũng cưng hết miễn con ngoan ngoãn như tên của mẹ đặt riêng cho con là mẹ sung sướng rồi. Ba mẹ đặt tên con hồi mới lên Đà Lạt bằng cách viết nhiều tên rồi bắt thăm. Mẹ và ba định đặt lại cho hay hơn, nhưng cuối cùng cũng không tìm được tên nào. Ba con nói không nên đặt tên kêu quá, vì có người tên đẹp và kêu quá cũng không làm nên trò trống gì. Ba con muốn đặt tên thường thôi, nhưng có khi con lại học giỏi và làm nên sau này. Nếu là con trai, ba mẹ đặt Trần Phú Thịnh; còn con gái, tên Trần Huỳnh Mai Thanh.

Phượng Các
#9 Posted : Thursday, March 31, 2005 10:32:36 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
TÌNH MẸ

Sàigòn, 8-1-1974

Thịnh cưng,
Hôm qua là ngày đầy tháng của con. Đáng lẽ ra con trai phải sụt một ngày, nhưng bà ngoại nói nhằm ngày 14 không tốt, nên cúng ngày rằm cho con được thông minh sáng láng. Chiều hôm qua, là ngày ông ngoại con tiếp đại diện Đức Giáo Hoàng tại nhà vào lúc năm giờ chiều.
Ngày mẹ mới sanh con, phái đoàn Đài Loan đến viếng bệnh viện Phúc Kiến lần đầu. Hôm đó các em bé khác về hết, nên họ vào thăm có một mình con. Ông Tổng Trưởng Giáo Dục Đài Loan thăm khi mới sanh, thì lớn lên con phải học cho giỏi nghe không? Còn ngày đầy tháng có Đại Diện Đức Giáo Hoàng đến, lớn lên phải biết lo ăn ở hiền lành, có hiếu thảo với cha mẹ ông bà, biết thờ Trời Phật nhe con.
Sáng hôm qua bà ngoại lo dọn bàn cúng đầy tháng cho con từ tờ mờ sáng và tìm máy hình để chụp cho con. Ông ngoại không có mặt vì phải thuyết trình ở Hội Đồng Kinh Tế Xã Hội. Lối 10 giờ, cô Hai, cô Ba và cô Út đến, còn cô Bảy thì mắc đi làm, cô Sáu đến trước một ngày. Người nào cũng có quà cho con.
Dì Thu mặc áo quần cho con rồi bế con xuống chơi. Con lo ngủ và làm xấu ướt quần cô Hai. Mười một giờ mấy thì ba con mới đưa ông bà nội đến. Ông nội vui lắm, bương bả vào tìm con. Ông bà nội cho con sợi dây chuyền ông Phật to để dành cưới vợ.
Khi ông bà nội lại thì con mừng vui không ngủ nữa, mắt mở to lắm. Hôm nay dì Thư còn nằm nhà thương vì mới mổ ruột, dì Thư đòi về, bà ngoại không cho vì sợ người ta đến chích mà không có. Bà ngoại bận lo dọn và cúng nên chụp hình với con ít lắm. Ông nội có ẵm con nữa (coi bộ thương con lắm). Ông bà nội có đứng gần nhau bế con chụp hình. Tới chừng mẹ bế con thì máy trục trặc làm mẹ cười hoài mà chẳng chụp được gì cả.
Ba con lo chụp hình nên không có hình với con. Phần ông ngoại, bà ngoại thì lo mua sắm để cúng đầy tháng con. Hôm trước, bà ngoại ngủ với mẹ trong nhà thương và đem cơm ra vào. Bà dì Mười cho con chiếc lắc, bác Thuận cũng cho con chiếc lắc. Dì dượng Lâm và cậu mợ Trực có gởi áo, nón cho con. Dì Tâm có cho con cục xà bông thơm, bà Hai Louis cũng cho con xà bông thơm và phấn. Quà của con lúc mẹ nằm nhà thương và ngày đầy tháng nhiều lắm, chắc con mặc quần áo không hết quá.
Hôm nay ông bà ngoại đi cưới vợ cho cậu Hòa Đinh của mẹ tức ông cậu của con. Bà ngoại bận rộn tơi bời, lớp nào dì Thư mổ, lớp nào lo đám cưới, lớp nào lo đầy tháng cho con, rồi lo bánh trái tiếp Đại Diện Đức Giáo Hoàng và lo chở mẹ đi hốt thuốc. Nhờ uống thuốc bắc được ba thang, nên hôm nay mẹ ăn và ngủ được, mà thuốc mắc quá ba thang đến chín ngàn đồng.
Từ hôm ba con về, con không khóc đêm như từ hôm Tết tây nữa. Mấy lúc con khóc đêm, mẹ phải thức và cho con bú sữa mẹ để dỗ con, mẹ muốn kiệt sức. Con bú sữa mẹ, con mau đói và ngủ không yên giấc vì sữa mẹ mau tiêu, mà mẹ lại mất sức vì lúc sanh đau nhiều. Mẹ uống nhiều trụ sinh nên mệt và yếu lắm. Đến hôm nay mẹ ngồi vẫn còn đau.
Tội nghiệp ba con hôm sanh con đến nay phải "dù" hoài chẳng phép tắc gì cả. Lên Đà Lạt, không có mẹ, ba con ăn uống cù bơ cù bất. Mẹ nhớ mấy hôm ở nhà thương, ba con nuôi đẻ thức mệt với mẹ, đứng té qua té lại tội nghiệp ghê đi. Chừng hết phép, ba con đi Đà Lạt thì bà ngoại vô thay thế. Còn bà nội và các cô con thì vào thăm thường lắm. Các dì và cậu của con thì mê con, nhất là tóc con dài híp-pi. Về nhà các cậu và dì cứ vào nhìn con hoài và trông đến giờ con thức bú, mới được bế và hôn con.

Sàigòn, 7-2-1974

Cưng Thịnh của mẹ,
Mẹ con mình sắp đi Đà Lạt sống với ba rồi. Lúc trước ba con bàn với mẹ là mẹ sẽ đi làm khi cứng cáp. Bây giờ nhớ mẹ con mình quá chịu không nổi nên điện thoại về gọi lên. Ba mẹ định chịu cực không mướn người làm. Lúc mẹ ở trên đó vật giá đã đắt, bây giờ xăng lên giá còn đắt hơn nữa. Tiền xe đò đi chợ lúc trước từ nhà mình lên chợ Hòa Bình là ba chục đồng, bây giờ là sáu chục đồng. Nếu đi chợ phải tốn một trăm hai chục đồng tiền xe.
Con cưng, sao con không ngủ mà cứ thở rồi quơ tay chân hoài vậy. Nết của con xấu lắm nhe, mỗi lần không vừa ý việc gì thì thở như đã gánh mấy đôi nước vậy đó. Hễ khóc thì co tay chân lên, gân cổ la, mặt mày đỏ rồi tím ngắt, mũi xanh lè. Bà vú con cứ ẵm hoài vì thấy con khóc bả sốt ruột. Mẹ rầu lắm vì hôm 1-2-1974 mẹ cho con và bà vú đi Vũng Tàu, Bác sĩ Trương Huy Phúc rọi kiếng cho bà, thấy phổi bị nám. Bà vú hứa không hôn con nữa để được bế con đi Đà Lạt. Bà nội tỏ ý muốn để bà vú lại, bà nội đi, nhưng bà ngoại sợ mẹ bế con từ đây lên Đà Lạt xa quá mẹ chịu không nổi vì đường bụi, dằn và nhất là xe không có máy lạnh rồi con giãy, con khóc vì con không chịu nóng. Bà nội định đi hôm trước, hôm sau về nên bà ngoại sợ không ai dọn dẹp nhà cửa, lo cơm nước và giặt giũ tiếp mẹ mấy bữa đầu, nên bà ngoại tính đi theo.
Hôm qua mẹ và cậu Sang đưa con về nội chơi, ông nội bế con từ lúc đến cho tới khi về. Con ngủ li bì trong lòng ông nội. Ông nội ngồi trước kiếng để ngắm con trong ấy, mỗi lần con thức là ông nội xích đu chiếc ghế để ru con. Bà nội thấy ông nội vậy cũng vui lắm.
Con thương, mẹ vừa ngưng viết để đưa con đi vào Phúc Kiến xem lại chỗ chích ngừa lao cho con. Người ta dặn sáu tháng cho con trồng trái và chích ngừa tê liệt.
Ba con viết thơ về nói ba con buồn lắm, không ai thân thuộc trên vùng cao nguyên đó hết. Bà vú của cậu Nam kể mẹ nghe, ba con nói không biết người ta sao, chớ ba con mới có một đứa con nên nhớ quá. Hễ nằm xuống là nghĩ đến con hà. Có con nên mẹ cho ba ra rìa, ba cho mẹ ra rìa, nghĩa là ba mẹ đều thương yêu con hết. Con ở trên lầu mẹ ở dưới đất mà mẹ còn nhớ con, huống hồ chi ba con ở tận Đà Lạt.
Trên giấy tờ ba con được biệt phái về Sàigòn vào tháng tư, nhưng thực tế khó mà đoán được vì trong quân đội mà! Có người được biệt phái từ năm trước, mà năm nay mới được về thì sao.

Đà Lạt, 18-2-1974

Cưng của mẹ,
Vậy là mẹ con mình sống tại Đà Lạt đã hơn một tuần. Đến hôm nay con mới được tắm đó, còn mấy hôm trước mẹ chỉ lau mình cho con. Hôm nay bắt đầu có nắng lại rồi. Từ hôm con dặt chân lên Đà Lạt, trời rét căm căm, bà nội bà ngoại, vú đều chịu không nổi. Còn mẹ thì tưởng phải trở về Sàigòn vì trong người mệt rã rời.
Hôm lên, bà nội, vú và mẹ đi xe hơi của ba mẹ do dượng năm, ba cậu Sang lái. Bà ngoại đi xe đò chở tủ lạnh và bốn thùng giấy cho mẹ. Con thấy nội ngoại gì cũng thương con và ba mẹ ghê không? Bà ngoại về trước, bà nội ở lại vì thấy con khịt mũi. Bà may cho con vài bộ đồ nỉ mặc cho ấm, vì hai bộ do bà ngoại cho con hôm đầy tháng đã chật rồi. Bà vú đáng lẽ về hôm qua để đi Vũng Tàu khám lại bệnh, nhưng tội nghiệp mẹ con mình nên ở lại đến cuối tháng.
Cưng ơi! Vậy là ba mẹ được toại nguyện là con được sống, dù một khoảng thời gian ngắn, trong căn nhà nhỏ bé nhưng ấm cúng mà ba mẹ đã chuẩn bị để đón con. Đó là một căn phòng nhỏ, nằm chung với dãy nhà cất phía sau một căn biệt thự lớn. Mấy căn kia đều có gia đình sĩ quan như ba con mướn. Một căn làm nhà bếp và cho quản gia ở. Con ơi, con còn bé bỏng quá, chưa biết thưởng thức cảnh đẹp quanh mình. Trước cửa nhà mình là cả một vườn hoa muôn sắc, một bầu trời rộng với những áng mây trắng xóa. Hôm nay nắng đẹp rồi. Con mau lớn để ba mẹ bế con đi chơi nhá.
Mẹ đang ngồi cạnh con để viết cho con đây. Con đang nằm ngủ trên giường của ba mẹ. Căn nhà mình yên tĩnh quá, mẹ nghe thật rõ hơi thở của con. Con yêu. Con xinh quá bé Ngoan ơi! Mắt con to, mũi con cao, miệng con nhỏ mộng đỏ, cằm con lẹm. Mỗi khi con cười chiếc miệng xinh hòa cùng đôi mắt long lanh. Mẹ nhìn con mà sung sướng vô cùng. Mẹ tự hỏi: "Mình đã tạo ra một con người xinh xắn đó ư?" Mẹ không ngờ tạo hóa lại huyền diệu như vậy. Con là máu là xương, là da thịt của mẹ tạo nên. Có thật như vậy chăng? Trán con cao và rộng, thật đẹp. Tóc con đen nhánh và rậm giống ba con. Khi con ngủ con đẹp như búp bê, hai má tròn, khuôn mặt hồng hào.
Mẹ nhớ khi ở Sàigòn, lúc ngủ con mới thật là đẹp, vì con mặc quần áo hở tay chân và không đội nón. Chiếc áo thun trắng để hở chiếc ngực nở phồng, hai cánh tay tròn lẳn của con đưa lên cao. Con mặc chiếc tã nhỏ để lộ hai cái "đùi ếch" (bà ngoại gọi thế), làm dì Thư và cậu Việt con mê lắm, cứ hôn hoài. Ở trên này lạnh, mẹ phải ủ con, mặc áo ấm, đội nón. Mấy hôm đầu không quen, con cứ lắc đầu như múa lân vậy đó. Con đội nón của cô Ba cho (ôm khuôn mặt có hai cánh cột dưới càm). Trông con giống "thỏ con" hết sức. Ba mẹ hay nhìn nghiêng khi con ngủ, trông con dễ thương ghê. Mẹ hay gọi con là "thằng móm".
Ngoan ơi, ba con đem xe đi sửa rồi, chắc kỳ này tốn nhiều đó. Ba mẹ cố gắng tiện tặn vì lúc này có con. Ba mẹ phải để dành tiền lo cho con. Mẹ bây giờ ăn uống chẳng cần ngon, miễn sao cho no, cho qua buổi là được rồi. Con xem kỳ trước ba mẹ lên Đà Lạt, một thùng ga có một ngàn tư, mà bây giờ là ba ngàn rưỡi, dầu lửa năm mươi lăm đồng, lên một trăm bốn chục đồng. Cái gì cũng lên giá kinh khủng.
Rồi đây không biết sẽ ra sao vậy bé Thịnh? Con trả lời giùm mẹ đi? Riêng con đã có hai thùng sữa cậu Công mua giùm hôm Tết. Mẹ đỡ lo sữa cho con vài tháng ...

Đà Lạt, 25-2-1974

Thịnh cưng của mẹ,
Sao hôm nay con ấm đầu làm mẹ lo quá. Ở xa ông bà ngoại con có gì mẹ lo ghê lắm, nhất là bà vú con đau nặng nên về Sàigòn rồi. Mẹ vừa thắp nhang và bế con lại lạy Phật và Đức Thầy cho con được mạnh giỏi, đừng đau ốm gì hết. Hôm nay con bú còn gần nửa chai sữa và muốn ọi ra. Mẹ đỡ con lên lâu ghê mà con cũng chẳng ợ gì hết.
Hôm qua bà ngoại con lại gởi vú Bảy lên, mẹ đã gởi thơ dặn bà ngoại đừng lo cho ba mẹ nữa vì ba mẹ đã lớn rồi. Ba mẹ định tự làm lấy việc nhà vì mướn người làm tốn kém lắm. Hôm thứ sáu bà vú về Sàigòn, con cứ khóc hoài làm ba với mẹ thay phiên nhau bế con liên miên. Mẹ thì săn sóc cho con và nấu cơm, ba đi làm về đến nhà là quần quật. Lớp nào giặt tã, xách nước rửa chén hộ mẹ. Hôm thứ bảy chỉ có hai mẹ con ở nhà vì trong trường bắt ba đi lội bộ từ sáng đến chiều.
Thịnh ơi, mẹ cưng con quá. Ba biểu tập cho con tối ngủ một mình, nhưng mẹ sợ mẹ nhớ con ngủ không được. Con nằm kế bên mà mẹ còn nhớ huống hồ nằm riêng. Ba nói ngủ chung hoài sợ con đeo theo mẹ rồi chừng muốn đi đâu cũng không được. Ban đêm mẹ quen nghe hơi thở của con. Mẹ thuộc từng giờ giấc con cựa quậy. Con tiểu, con khát nước, hoặc con bị nóng quá mẹ trở gối cho con, hay kéo con xích qua chỗ khác cho mát lưng.
Giờ phút này mẹ viết cho con là khoảng mười một giờ trưa. Con đang nằm bên cạnh mẹ trên giường. Mẹ thoa thuốc, mặc thêm áo, mang vớ, găng và đội nón cho con. Hồi nãy mẹ có cho con uống nửa gói thuốc nóng và thắp nhang cho con lạy nữa.
Cưng ơi, xa gia đình nơi vắng vẻ mẹ không biết trông cậy nơi ai ngoài Đấng thiêng liêng. Lúc con khóc hay sổ mũi ấm đầu mẹ thường thắp nhang cầu nguyện cho con chóng mạnh và gia đình ta được hạnh phúc thật nhiều. Ba mẹ còn trẻ, đường đời còn dài phải ra sức chịu đựng cực khổ để nuôi con nên người. Ba hăm nếu lớn lên con hư hỏng, du đãng, bụi đời, thì ba bỏ luôn. Nếu con sẽ như vậy, liệu ba con có can đảm thực hiện lời nói đó không ? Tình cha mẹ thương con như biển hồ lai láng mà Thịnh.

Đà Lạt 5-3-1974, 11giờ

Thịnh cưng,
Con cự nự mãi đến bây giờ mới chịu ngủ. Mẹ tức cười con ghê đi. Con khóc mẹ cho con ngậm nắm vú, con quơ lên miệng chụp núm vú kéo ra cầm tay. Vậy mà con khóc om sòm, ngón tay cái con móc vào khoanh núm vú tòn ten, mồm thì khóc trông buồn cười ghê. Hôm qua tới nay con vui vẻ lại, cười hoài mẹ mới yên lòng không thôi mẹ lo quá hà Thịnh ơi. Mẹ nói với ba lớn lên con ngồi hút thuốc nhả khói, mắt con nhìn xa xăm, mũi cao, miệng đẹp, nhất là trán con thật cao thông minh chắc trông con đẹp lắm. Các cô mê cho mà xem. Ba con cười nói chưa chi đã bày đặt cho con hút thuốc.
Ngoan ơi, hôm nay trời nắng đẹp quá, mẹ thấy gia đình mình hạnh phúc ghê đi. À mẹ quên, "Ông ngoại hôn cháu ngoại Thịnh và nhớ nó nhiều", đó là thơ ông ngoại gởi cho con. À, hôm đi Vũng Tàu mẹ có xin quẻ thì Đức Thánh Trần nói mẹ có con trai lanh lợi, để mẹ chép cho con nhe:
Quẻ thứ mười ba - Đại cát
Triệu có tích trử, không lo thiếu thốn

Thơ
Nhất thế nhân long khởi dị thường
Mão-Kim (1) thiên tử khởi mang dương
Hà ưu tam quốc phân tranh đảnh
Ca vũ môn đình chỉ nhật vương
(1) Họ Lưu tức Hán Bái Công

Dịch
Hào kiệt đời nay dễ mấy ai
Núi non sản xuất chứa anh tài
Ra tay định cuộc san hà lại
Trăm họ âu ca đội đức Ngài

Giải
Việc nhà cửa được may mắn luôn
Cầu quan cầu tài ước sao được vậy
Hôn nhân vợ chồng cân sắc, cân tài,
thiên duyên hảo hợp
Con cái sẽ được con trai lanh lợi
Mồ mả, được cuộc đất cải táng
Kiện thưa thắng lợi
Tật bệnh lành mạnh như thường
Người đi xa và của cải mất sẽ tìm lại được
Nuôi súc vật và tầm sẽ được đại lợi.

Đà Lạt, 22-3-1974

Cưng của mẹ, sao mấy hôm nay con không chịu bú, con bắt đầu giỡn nhiều rồi đó. Ngày mai con được ba tháng rưỡi. Chủ nhật rồi ba mẹ đưa con đi bác sĩ thì con được sáu kí lô chín. Bác sĩ nói gan con to vì con tham bú nhiều. Trong vòng hai mươi ngày con lên được bốn trăm gram. Lúc này mỗi lần con bú ba phải che mắt con, mẹ kềm cứng hai chân con, vậy mà con la hét vẫy vùng không chịu bú, con cứ tìm ở kẽ hở bàn tay của ba xem có thấy ai để giỡn. Ba mẹ la rầy con thì con cười, hai tay con quơ lung tung, có khi ôm chai sữa đẩy ra hoặc nắm tay ba hay mẹ đang che mắt con. Mẹ không ngờ bà ngoại và cậu Sang lên. Mẹ mừng ghê, con được hai bộ đồ mới. Bà ngoại nhớ con quá không kịp thay quần áo lên thăm con đại. Ông ngoại không hay bà ngoại đi nữa. Cậu Sang con thì chưa kịp từ giã cô Út Nga của con.
Cưng ơi, mấy hôm bà ngoại lên nhà mình vui lắm, con được bà ngoại bế chụp hình. Con mặc mấy bộ đồ thun của cô Hai, cô Bảy và cô Út cho con hôm đầy tháng. Trông dễ ghét ghê. Lúc này con nằm trong nôi chân thò ra ngoài, đong đưa hay đạp cánh cửa xếp lại nghe lốc cốc vậy đó. Con lớn thấy rõ.
Hôm nay mẹ lấy hộp phấn thuốc của ngoại đem lên cho con xức. Từ sáng đến giờ mà con đã hết đỏ cổ, sẩy ở lưng cũng lặn hết rồi. Cả tuần nay mẹ thoa Cortilar cho con mà không hết. Bà ngoại đã về hôm qua rồi, ba mẹ định đầu tháng về Sàigòn. Lúc trước bà ngoại dặn đừng lên xuống đường xa cực khổ lại tốn kém. Kỳ này bà ngoại còn khuyến khích về nữa chứ, chắc ông bà ngoại và các dì nhớ con quá chịu không nổi rồi.

Đà Lạt 27-3-1974

Cưng của mẹ,
Mẹ ngồi nơi cửa sổ nhìn lại con của mẹ nằm trong nôi, con cứ nói ư e lung tung, chân tay đạp quơ mãi mà không biết mỏi. Mẹ vừa cột một sợi giây đỏ lên cái chuông có nhạc trên nóc mùng cho con nhìn. Con thấy lạ lắm sao mà nhìn hoài vậy? Ba mẹ vừa đưa con đi bác sĩ hôm kia. Mẹ cho con mặc đồ nhái. Mẹ cứ ngỡ còn rộng, ai ngờ đã ngắn rồi, con phải co chân mới mặc được. Đầu con đội nón phi công của cô sáu, cổ quấn khăn quàng do vú bảy thắt cho con. Trông con của mẹ xinh quá là xinh. Con hay bỏ sữa quá, lại đi phân lợn cợn trắng và vàng, trong như sương sa.
Nè,lúc này con có tật hay bặm môi lắm nhé. Lại hay phun nước miếng phèo phèo. Mẹ ngồi đây mà còn nghe nữa đó. Mẹ gọi tên con, con không thấy mẹ mà con cười. Dạo này con bú ít nên không lên kí. Mẹ giận lắm đó nghe. Mẹ đọc sách của bác sĩ nói trẻ con sau sáu tháng biếng ăn vì thiếu chất sắt. Chất sắt của người mẹ đã bắt đầu hết rồi. Ba mẹ nghĩ tuy con mới ba tháng rưỡi, nhưng vì cân lượng con bằng em bé sáu tháng, nên có thể con thiếu chất bổ chăng? Bác sĩ Thọ cho con thêm thuốc bổ và dặn nấu nước rau pha sữa cho con bú.
Sáng nay mẹ đi chợ, còn ba vô trường. Ba mẹ lo lắng lắm Thịnh ơi. Mẹ nửa muốn về Sàigòn nửa muốn ở lại vì tài chánh eo hẹp quá. Trong một tháng con đi bác sĩ ba lần đã hết phân nửa số lương của ba con rồi đó. Tháng nào ba mẹ cũng phải đắp tiền để dành vào số lương lính của ba mới đủ xài, nếu hết tiền để dành...(?)
Cưng của mẹ, ba mẹ nhìn con đủ thấy hạnh phúc tràn trề và bỏ qua một bên mọi lo lắng cho tương lai. Tương lai gần thì khó khăn vì ba con kẹt trong quân đội, không thể nào có cơ hội làm ăn thêm được. Tương lai xa ba mẹ đỡ lo hơn vì ông ngoại có cho mẹ phần hùn trong công ty. Vì vậy mẹ nghĩ khi lớn lên con sẽ không bị thiếu thốn thua kém bạn bè. Ba mẹ sẽ cố lo cho con, từ nhỏ đến lớn mẹ chỉ ao ước được học đàn dương cầm, bây giờ mỗi khi nghe tiếng đàn dương cầm mẹ muốn khóc. Thịnh có thích học dương cầm để đàn cho mẹ nghe không? Con trai đầu lòng yêu quý của mẹ. Người ta thường khen con gái đầu lòng gần gũi mẹ, được nhờ cậy hơn. Vậy con trai của mẹ sẽ làm thế nào để mọi người nhìn con, mà ước muốn có một cậu con trai đầu lòng đi...

Đà Lạt, 23-4-1974

Thịnh yêu quý,
Gần một tháng nay mẹ mới viết cho con, hôm 30-3 ba mẹ đưa con về Sàigòn, về đến nhà con của mẹ xinh ghê vì trời nắng hai má con hồng hồng. Con được đến nhà ông nội nhiều lần lắm, ông nội cưng con ghê đi. Ông nội ngồi kế bên quạt cho con, ông nội để con trên bàn, con đạp cổ đạp vai, ông nội thích lắm cười vang. Ông nội dành bế con hoài từ lúc đến cho đến khi về, chắc sau này Thịnh đeo ông nội lắm! Ông ngoại nói mặt con nữa lớn vui lắm. Mỗi chiều ông ngoại đi làm về mệt ngồi nghỉ ở phòng khách, mẹ bế con đặt vào lòng ông, con làm ông tỏ vẻ vui và sung sướng lắm.
Con bú lâu và hay bỏ sữa nên bà ngoại lấy sữa Guigoz trắng cho con uống. Con có vẻ chịu và bú mau hơn. Trước khi trở lên Đà Lạt, ba và bà ngoại chạy rất nhiều nơi mà mua được cho con chỉ có ba hộp. Tội nghiệp bà ngoại không tiếc gì đối với con cả. Lớn lên Thịnh nhớ làm cho bà ngoại vui lòng nhe. Lúc này mẹ buồn quá, ông ngoại đã đi ngoại quốc, ở nhà các dì cậu đi chơi, đi ciné, bà ngoại ở nhà một mình tội nghiệp ghê. Mẹ và ba điện thoại về thăm gặp bà than ở nhà trên có một mình. Phải có ba mẹ và Thịnh thì bà đỡ buồn. Hôm về Sàigòn bà ngoại có cho con tiền truất hữu đất của bà, dì hai Hồi Văn cũng cho con nữa. Mẹ mượn của con để mua cho con cái phít lọc nước vì nước ở Hồ Than Thở dơ lắm. Quanh hồ người ta trồng rẫy nên thuốc giết sâu bọ chảy xuống hồ. Mẹ đọc báo thấy phái đoàn Thượng Viện lên điều tra vì người ta đồn rằng ai uống nước Đà Lạt sẽ tuyệt tự ba đời. Mẹ đâu có muốn con trai của mẹ...
Cưng của mẹ, trở lên đây vài hôm con lại xổ mũi, ấm đầu rồi khóc cả đêm. Mẹ và vú bảy phải bế con. Mẹ tội nghiệp con nên bế con luôn trên tay suốt mấy giờ liền vì đặt con xuống con bị giật mình tay chân run lên. Sáng hôm sau 17-4 ba mẹ vội đưa con đi bác sĩ Thọ mới biết là con bị sưng lỗ tai. Mấy hôm nay con mạnh lại rồi và bú quá mau, 180cc mà con bú không đầy năm phút. Thật khổ, con bú chậm thì quá chậm làm ba mẹ rầu. Nay lại bú quá mau, ba mẹ lại lo, mà đổi núm vú có lỗ nhỏ, con lại hét vì sữa ra ít.
Trưa nay ba mẹ và vú Bảy ăn cơm, con ở trong giường ngóc đầu dậy, tay nắm thành giường nhìn ba mẹ, thật thấy thương vô cùng. Con lại biết nắm cả chấn song để lấy thế ngóc đầu dậy nữa chứ. Con quá rồi Thịnh ơi! Dạo này con nhỏng nhẻo lắm hay rên ư ư hoặc rặn có hồi dài vậy đó. Ba rầy thì con nín, ba im con lại hét nữa. Mẹ lại gần giường nhìn con thì con nín rồi cười cầu tài. Mẹ bỏ đi con khóc tiếp. Thịnh nhỏng nhẻo lắm đấy!

Đà Lạt, 10-5-74

Thằng chó của mẹ,
Ba con đi dạy rồi, con đang ngủ yên trong nôi, giấc ngủ trưa của con thường kéo dài từ một đến năm giờ chiều. Con của mẹ lúc này hay liệng gối ôm lên đầu giường lắm, ngủ thì gác hai chân lên hai gối ôm, hai tay giơ lên trời thấy ghét ghê.
Dạo này ba mẹ cưng con vô cùng. Con hay nằm hai tay quơ lung tung, hai chân đạp đùng đùng, mặt thì ưa hất lên, mắt trợn mà lại nhìn xuống, trong khi mỏ chu ra rồi nhai nhép nhép. Con lại hay le lưỡi rồi làm trời mưa phèo phèo. Hai chân con lúc này cứng lắm, con ham chỏi chân đứng dậy, nhưng mẹ không dám cho con đứng lâu trên ngực mẹ. Lúc con tắm con đạp chân đùng đùng nước tràn ướt nhà.
Hôm qua ba giận mẹ ngồi ăn cơm từ hột, con cứ nhìn ba cười sằng sặc. Mẹ bế con đặt vào lòng ba vì ba đang ngồi xếp bằng dưới đất. Con lật ngang, ba không thèm đỡ, đầu con lật úp xuống gạch con khóc ngất mặt đỏ gay. Mẹ ôm con mẹ khóc. Lát sau ba đến gần đòi ẵm con, mẹ giận ba, mẹ không cho.
Cục cưng của mẹ lúc này má phính ra trông thấy ghét ghê. Con bú nước cà-rốt và đậu ve. Con cứ đi tiêu lỏng hoài mẹ nói vú Bảy nấu nước cháo cho con bú, coi bộ con chịu lắm. Hôm trước bà ngoại gởi lên cho con một thùng Guigoz, 24 hộp. Con khỏi lo đói rồi. Con đã được năm tháng, qua hết tháng thứ sáu con bú qua sữa vàng.
Cưng ơi, ham bú lắm đấy. Hễ thấy chai sữa là cười thật tươi, chân đạp đùng đùng hà. Ba con hổm rày lo lắm, bây giờ thì ba con đã có tên trong bảng danh sách thặng dư của trường. Cầu xin Trời Phật phò hộ cho gia đình nhỏ bé của mình! Nếu ba được biệt phái về Sàigòn, ba mẹ đỡ tốn kém hơn, lại được gần hai gia đình và mẹ có thể vừa đi học vừa đi làm phụ thêm lương quân đội của ba để lo cho con.

Đà Lạt, 23-5-74

Ngoan ớ ờ,
Dì Xuân Mỹ mới lên thăm con đó, con mừng không? Dì lên bằng xe Desoto. Ông ngoại nói hôm sau lên với phái đoàn Nhựt, ai ngờ khi ba mẹ, dì Mỹ đi đón ở phi trường Liên Khương mới biết ông không lên.
Bà ngoại gởi thức ăn lên nhiều ghê đi, nào xoài cát, xoài thơm, thịt kho nước dừa, hai trái khóm, khô mực, tôm lụi, khô cá sặc, một bao gạo, mận v.v... Riêng con thì bà gởi cam, xà bông đá, xà bông bột để giặt tã. Bà ngoại còn cho hay đã mua cho con một thùng sữa vàng rồi. Ông bà ngoại lo cho ba mẹ và con nhiều quá, biết lấy gì đền đáp bây giờ.
Cưng ơi, mẹ đi đâu một thời gian lâu về con có còn thương mẹ không? Mẹ bế con, con có khóc không? Mẹ đã viết thơ về xin với ông bà ngoại giúp mẹ tiếp tục học khi ba mẹ về Sàigòn. Con ở với ngoại là mẹ khỏi lo lắng gì cả, mẹ muốn đi tu nghiệp thêm ở ngoại quốc để sau này đi làm được lương cao. Mẹ muốn đời sống các con mẹ sau này được sung sướng đầy đủ, học hành đàng hoàng. Nếu các con dở môn gì, ba mẹ sẽ đủ sức mướn giáo sư kèm. Thích học đàn, học võ v.v... mẹ và ba cũng đủ tiền cho học. Mẹ muốn học đàn dương cầm ghê mà tài chánh còn eo hẹp quá.

Đà Lạt, 28-5-74

Con cưng của mẹ,
Con đã ngủ yên từ hai giờ trưa đến giờ, mẹ vừa ủi tã ướt của con xong. Ba đi dạy rồi, vú Bảy xin về Long Xuyên vì má vú ấy đau. Sáng mẹ biểu vú gắn đèn cầy (thế sáp) lên tóc con, rồi liếm nước miếng vào tay con nữa để con đừng nhớ. Mẹ sợ con nhớ rồi mất sức thôi hà. Sáng nay trời u ám, mưa mấy đám nhưng chỉ lất phất. Nếu trời này mà vào thời gian trăng mật của ba mẹ thì thú biết mấy. Nhưng bây giờ thì ... tã con không khô, Thịnh ơi! Con đi tướt từ sáng đến giờ ba lần. Ba con đưa vú Bảy ra bến xe Minh Trung rồi mua Arobon và Cérélac cho con. Con đi tiêu xấu, mẹ chưa dám cho con ăn bột đâu.
Con nằm trên giường mẹ ngủ ngon lắm. Tối con ngủ với mẹ nhe, cục cưng. Mẹ mong trời nắng để tã con mau khô, mẹ dọn dẹp bếp núc lại cho sạch sẽ theo ý của mẹ. Nhà bếp của mình bên cạnh không có cửa thông qua, nên trời mưa mẹ phải mặc áo mưa, đội nón lá đi nấu cơm, trông chả đẹp tí nào. Rửa chén cũng vậy vì vòi nước ở ngoài sân. Hễ lúc con ngủ thì nhà mình im phăng phắc, ai làm gì cũng làm nhè nhẹ, đi nhè nhẹ. Ba con hay bị mẹ la nhiều nhứt vì làm cái gì cũng gây tiếng động. Khi con thức nhà mình như mở hội, tiếng cười, tiếng xi tiểu, tiếng kêu con, giỡn với con thật rộn ràng. Không khí bừng sống dậy sau một thời gian ngủ yên.
Ba mẹ vừa mới thâu tiếng con cười giỡn, tiếng con khóc, tiếng ư ư rồi gọi ba ba thật rõ, tiếng con khóc đòi bú, tiếng nuốt sữa, ngáp khi thức dậy, lúc con tập thể thao và giỡn với ba mẹ v.v... Vui lắm cưng ơi. Khi nào ba về Sàigòn, mẹ nói ba đem băng nhựa nầy về cho ông bà nội và ông bà ngoại nghe.
Dì Thư con sắp đi Pháp rồi, không biết có gặp Thịnh trước khi đi không? Nếu ba con được biệt phái thì khoảng 15-6 gia đình mình về sống với ngoại rồi. Chà, chắc giờ này vú Bảy con đến Sàigòn rồi. Thế nào bà ngoại cũng lo cho mẹ cho xem. Lo không ai làm tiếp công việc nhà và trông con. Ba con dạo này phải vào trường nhiều và trực gác thường hơn vì lúc này họ gắt lắm. Tối hôm qua mẹ ngủ không được mẹ suy nghĩ về gia đình mà khóc hoài. Mẹ thấy bà ngoại đối với mẹ là một bà tiên. Bà ngoại còn là người mẹ hiền không những tốt với mẹ, mà còn tốt với nhiều người nữa, dù ai đã cư xử xấu với ngoại. Con có thương ngoại không Thịnh?

Đà Lạt, 7-6-74

Cưng ngoan,
Ba về với bà ngoại rồi. Con cứ đi cầu hoài một ngày ba bốn lần. Mẹ biểu vú Bảy đi chợ mua Arobon cho con. Bà ngoại, cậu Nam, cậu Việt, dì Mỹ, ông dượng Năm lên thăm con hôm 1-6 rồi về hôm 5-6. Bà ngoại sợ ba con về mà vú Bảy chưa lên, mẹ ở nhà một mình nên mới lên nhà mình đó. Tội nghiệp bà ghê đi. Bà mua cho mẹ đủ thứ trái cây vì sợ mẹ thèm, nào soài riêng, thơm, xoài cát, dâu, chôm chôm, măng cụt. Mẹ để dành ăn lần.
Cưng nhớ ba ban đêm sao hay khóc quá vậy. Con thèm ăn bột quá nhưng mẹ không dám cho ăn nhiều vì bụng con sôi ột ột.

Đà Lạt, 16-6-74
Ba đem kết quả thử phân của con về, bình thường. Vậy mà hôm trước ông bác sĩ nói con bị kiết làm mẹ lo sợ hết sức. Ông ngoại con nghe mẹ nói trong điện thoại cũng lo lắm.

Đà Lạt, 19-6-74
Cưng của mẹ, mẹ kê tập trên giường con để viết. Con lấy chân đạp làm mẹ viết méo xẹo. Hôm nay 29 tháng tư nhuần con được sáu tháng rưỡi. Mẹ đi chợ Chi Lăng về, vú Bảy cho hay con đi trong xe giáp vòng trong nhà. Vú phải lấy ghế chận ngay cửa.
Con đang nằm trong nôi, la om sòm, lật nữa. Con đang phá cái ly nhỏ mẹ đựng núm vú của con. Mẹ lấy lại con la ư ư. Con đã ngủ yên mẹ mới viết lại. Con thở đều đều. Thỉnh thoảng con nút nắm vú. Lúc này mẹ cho con bú năm giờ sáng, mười một giờ mẹ cho con ăn bột Cérélac. Một giờ trưa bú rồi con ngủ đến năm giờ chiều mẹ cho con ăn. Sáu giờ bú rồi tám giờ rưỡi bú xong ngủ đến sáng. Mẹ có ý định cho con ăn nhiều hơn rồi bỏ hẳn hai cữ bú. Con ăn khá hơn Thi Linh, con dì Tư quản gia, sắp thôi nôi mà nhỏ hơn con. Còn con bé con dì Xuân bên cạnh đã qua thôi nôi, mà trông không vạm vỡ như con.
Con ngủ mặt thấy ghét ghê đi. Con ham đi chơi lắm. Hôm ngoại lên con được đi thác Prenn chụp hình nữa. Hôm chủ nhật ba mẹ và vú Bảy bế con đi phố Hòa Bình, vào vườn hoa thành phố rồi lên Viện Đại Học Đà Lạt. Con dạo này quá lắm. Mẹ bế con mệt ghê vì con xoay trở luôn luôn, ham nhảy nữa. Cho con ăn bột, con quơ hai tay đạp hai chân. Có khi con cho tay vào miệng hay chụp muổng bột. Mẹ giận con lắm mẹ đánh... xuống nệm. Cục cưng lúc này hết gọi ba như lúc năm tháng rưỡi. Con gọi cha cha om xòm và nói đủ thứ mà mẹ không hiểu gì cả. Mẹ có thu băng con nữa đó, lớn lên con thích không? Mẹ thích chụp hình con lắm, nhưng tốn tiền quá.

Đà Lạt, 30-6-74

Chou chou ơi!
Sáng nay con đi chơi vui không? Con được đi vô trường Võ Bị Đà Lạt, nơi ba con dạy, đến Hồ Than Thở chơi, mà con ngủ. Sau đó ba chạy ra chợ mua cá mòi Sumaco nè. Rồi lên đồi sân cù. Ba mẹ và vú Bảy đến hết chỗ này tới chỗ kia để xe cho con đi, nhưng vì hôm qua trời mưa đất ướt lồi lõm, con đi không được. Lúc ba mẹ và vú Bảy đang ăn con làm xấu cho một bọc thúi lắm, phải bỏ bộ đồ nhái vàng thay vào bộ bông xanh cho con. Con bỏ hết cữ ăn mười một giờ vì đã hết bột Cérélac. Mẹ cho con ăn bột nhi đồng ($90) và bột Bích Chi ($150) cho rẻ hơn. Nhưng hai loại bột này phải khuấy trên bếp. Con ưa Cérélac lắm, bột này lên giá đến $1000 một hộp rồi, nhưng mẹ sẽ cố mua cho con ăn. Hôm ba con về Sàigòn lên bà ngoại có gởi cho con một thùng Guigoz vàng 24 hộp nên cũng đỡ cho ba mẹ. Ông nội có đưa tiền cho ba năm chục ngàn để mua đồ cho con, nhưng ba không lấy. Thấy ông nội buồn ba mới lấy mười ngàn lên mua nón vớ và bình sữa cho con. Ba nói đáng lẽ ba phải đi làm nuôi ông bà nội mới phải, nhưng ba kẹt quân đội, biết sao bây giờ.
Cưng ơi, mẹ đã viết thơ về cho ông bà ngoại hay là mẹ định đưa con về Sàigòn. Mẹ và con đi ba buồn lắm nhưng làm sao bây giờ. Mẹ và con ở trên này, ông bà lên thăm đường xá xa xôi, nguy hiểm vì dạo này Việt Cộng hay chận đường. Ba mẹ và con sống tại Đà Lạt hết sức hạnh phúc, mẹ biết sau này khó tìm lại khoảng thời gian đẹp như vậy. Sáng nào con cũng chạy khắp cùng sân, con tuột dốc trước cửa nhà làm mẹ chạy theo muốn hụt hơi. Nhờ con ủi vào xe Thi Linh, con chị Tư, nên nó đi được chút chút rồi đó. Thi Linh sắp ăn thôi nôi mà dở hơn con quá. Mấy hôm nay con ngồi vững lắm rồi. Ba cho con bộ bài con ngồi con chơi. Nè, nữa lớn mà đánh bài mẹ ghét lắm à nhe. Con phải giống mẹ không thích đánh bài mẹ mới vui lòng.
Hôm qua ba mẹ nhận được thơ bà nội, cô Hai và cô Bảy của con. Ai cũng gởi lời thăm con hết. Hôm 24-6 mẹ có gởi thơ mời ông bà nội con lên chơi sau khi cô Út con thi xong. Không biết có lên không? Mẹ đố con đó? Nhưng mẹ hy vọng mẹ mời ông nội con sẽ lên, hy vọng vậy thôi chứ ông nội lớn tuổi ít chịu đi đâu lắm.
Ngoan ơi, mẹ cưng con quá, mẹ thương con vô bờ. Mẹ ghiền mùi da thịt của con nhứt là khi con hơi nặng mùi mồ hôi. Chua chua mà lại thơm mới lạ. Mẹ hít vào mẹ thấy sung sướng vô cùng. Mẹ nhớ gia đình, nhớ ông bà ngoại, nhớ các dì, các cậu quá. Mẹ muốn về nhà nhưng ngại tốn kém và không biết xa con mẹ có chịu nổi không? Từ lúc sanh con ra tới giờ, mẹ con mình chưa hề xa nhau.

Đà Lạt, 11-7-74

Chệt Tửng ơi!
Ông nội và cô Út lên thăm con hôm chủ nhật 7-7. Ba con đã xin được phép thường niên đợt nhì nên ông nội đợi thứ bảy 13-7 sẽ về cùng gia đình mình. Hồi sáng này ba mẹ, ông nội và cô Út đưa con đi hớt tóc. "Chou chou" ơi! xinh ơi là xinh vậy đó. Trông con lớn hẳn và sáng sủa ghê đi, mẹ cưng "Chou Chou" quá.
Hôm trước mẹ nhớ nhà mẹ sửa soạn quần áo định hôm sau về Sàigòn. Sắp xếp xong mẹ thương con quá, chưa đi mà đã nhớ, lòng đau như cắt, mẹ khóc và bỏ ý định đi. Bây giờ mẹ mới hiểu tình mẹ thương con như thế nào. Bà ngoại có gởi thơ cho mẹ do cô Út đem lên, bà ngoại cũng nói là xa mẹ con mình lòng bà ngoại đau như cắt và vì thế nên bà ngoại không muốn con xa ba con. Chỉ có khi làm cha mẹ rồi mình mới hiểu một cách thâm thúy ý nghĩa hai chữ "tình mẹ". Con ơi, chắc mộng du học của mẹ không thành rồi chó con ơi.
Dì Mỹ và cậu Nam có gởi thơ cho con nữa. Dì Mỹ nói đi vô đi ra nhìn ảnh con mãi không chán, cậu Nam có vẽ một cái bông mà nhụy là gương mặt bé Thịnh.
Cục cưng, tối nay ba con trực nên ngủ trong trường. Tội nghiệp ba con ghê, mấy bữa nay ông nội bế con thường xuyên. Ông nội ôm con và hôn con hoài. Ông nội cưng con lắm. Con nhìn ông nội cười hoài hà. Mấy hôm nay con biết đòi rồi đó nhe. Hồi nãy mẹ vừa sửa soạn xong quần áo vào va li để mốt về Sàigòn. Mẹ mong về dưới con ăn ngủ được như thường để đừng xuống ký. Con về kỳ này con sẽ được cưng lắm cho coi.
Chou ơi! Đôi giày bà ngoại cho đã hả miệng rồi. Cục cưng đi giỏi rồi đó nghe! Cả nhà ăn cơm con cứ chạy vô mâm cơm hoài vì nhà mình ngồi ăn cơm dưới đất mà. Có khi con chung vô đít bàn ở trong đó khều túi xách của ông nội. Hôm qua con lại kệ tủ kéo đổ rỗ thuốc, mẹ la con, mặt con bơ bơ hà.

Sàigòn, 17-8-1974

Con cưng yêu của mẹ,
Mẹ con mình đã dọn về ở yên với ông bà ngoại, ba con sẽ về sau vì bận gác thi. Cưng ơi, con khôn ghê, hôm tối sửa soạn dọn nhà để về Sàigòn, con mừng và giỡn cười hết sức. Lâu quá mẹ không viết cho con vì bề bộn đủ chuyện hết. Kỳ vừa rồi về Sàigòn với ông nội và cô Út hết mười mấy ngày trời nóng nên con quạu, con nằm nghiêng ngủ không hà. Trở lên Đà Lạt vài hôm là bà cố Út đưa cậu Việt lên học D’Adran vì bà ngoại đau phải nằm nhà thương không đưa cậu lên được. Cậu Việt lên một tuần rồi ông bà ngoại lên với bà cố Chín dọc đường gặp việt cộng chận đường bắn chết người nên ông bà đến trễ. Tội nghiệp bà ngoại vừa mới bớt đau, ông ngoại, bà cố Út và bà cố Chín về trước chở tủ lạnh và đồ đạt của ba mẹ chút ít.
Sau đó thứ hai 12-8 sẵn bà ngoại và dì Mỹ về Sàigòn, mẹ con mình có giang xe, chứ nếu không ba con phải thuê xe đò Minh Trung rất mắc tiền.
Con cưng à, còn vụ này nữa, mẹ thấy vú Bảy con muốn nghỉ để đi làm cho ngoại quốc được nhiều tiền hơn. Mẹ cũng thương vú vì vú đã sống với mình những ngày tại Đà Lạt thật hạnh phúc êm đềm. Vú cưng và lo cho con nhưng ai lại chẳng muốn tìm được nhiều tiền hơn, làm sao trách người ta được, phải không con? Mẹ chỉ lo con nhớ vú rồi ốm thôi. Con chóng ngoan nhé dù vú nghỉ cũng có mẹ lo cho con, con vẫn ăn ngủ như thường nhe con trai của mẹ.
Mẹ mong như thế lắm con cưng ơi!

Sàigòn, 21-8-1974

Cưng yêu của mẹ,
Sáng nay ba con viết thơ cho hay thứ bảy về. Ba nhớ con ghê lắm. Ba nói ở trong trường thường hơn vì về nhà nhớ mẹ con mình rất buồn.
Hôm nay mẹ đã sắp xếp xong hết trên lầu nơi ba mẹ và con ở. Con ở phòng cậu Việt, bà ngoại dành nguyên tủ năm ngăn để cho con đựng quần áo. Trên đầu tủ chưng bày những hình bằng gỗ xinh lắm, phòng cậu Việt và cậu Tuấn đã trang hoàng sẵn trông đúng là phòng con trai, toàn hình đá banh trên cửa tủ và cửa phòng.
Hôm nay mẹ xem tivi thấy anh chàng đóng kịch có thân hình lực lưỡng, mặt trông cũng đẹp. Mẹ ước mong sau này con cũng được như vậy. Trong kịch hắn đánh cả bọn du côn để giải thoát cho người yêu đó con. Bà nội hay nói con lớn lên con sẽ giống ông nội. Ba và các chú hồi nhỏ, nhỏ con hơn con. Vậy mà ba và các chú cũng cao trên một thước bảy không hà, nên con trai của mẹ phải cao và to hơn nữa nhá. Ba con ngực lép lắm, con đừng có giống nhe, trông yếu quá hà.

Sàigòn, 18-9-1974

Bé Ngoan yêu,
Ông ngoại đã đi Pháp hôm 10-9. Hôm ông đi con nhăn răng cười với ngoại hoài. Xấu quá! Bà ngoại đã đi Đà Lạt thăm cậu Việt rồi. Hôm qua ba mẹ đưa con và vú già của con lên Thủ Đức ăn sinh nhật của Yên Khang con cậu Công. Con vui và giỡn dữ lắm, kéo xe đi cùng nhà.
Lúc này mẹ vẫn đi học ở Hội Quản Trị Xí Nghiệp sáng thứ ba và thứ sáu, khóa Quản Trị Nhân Viên với cậu Sang. Còn buổi tối thứ ba, năm...
Phượng Các
#10 Posted : Thursday, March 31, 2005 10:33:47 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
DI TẢN

Sài gòn, 10-4-1975
Bé Thịnh, mẹ buồn, ba buồn, cả nước ai cũng buồn vì chiến tranh. Bao nhiêu tỉnh đã mất vào tay cộng sản. Mẹ bồn chồn làm việc không được. Ba con buồn lắm vì nếu Liên Hiệp Quốc can thiệp được thì ba con ra đi bỏ lại ông bà nội, ba con đau lòng muốn ở lại để trả hiếu cho cha mẹ, liệu có trả hiếu đươc chăng? Hay cũng chết vào tay cộng sản hoặc ở tù.
Mẹ có cái đay của người Tàu để dành nếu có giặc đến mẹ đay con lên lưng chạy. Mẹ đay thử con khoái lắm nhún nhảy trên lưng mẹ. Con thân yêu! Ôi ngây thơ quá cho con tôi nào biết gì. Có bao đưá bé như con bị liệng xuống biển trên đườmg di tản.
Mẹ muốn khóc!


Sàigòn, 26-4-1975
Ba mẹ định đi bằng tàu với bác Chánh, nhưng ông bà nội và ngoại đều không muốn vì nguy hiểm quá. Mỗi buổi chiều ăn cơm xong, ba mẹ thường đưa con về thăm bên nội nhiều hơn. Cảm giác chia cách xâm chiếm tâm hồn mọi người. Ba con bị giằng co trong lòng rất nhiều. Tuy nhiên mẹ biết là ba con đã lựa chọn sự ra đi vì lý tưởng tự do và tương lai của con.
Riêng mẹ, đêm nào cũng theo dõi đài phát thanh BBC với ông ngoại. Càng nghe càng thấy cõi lòng mình tan nát. Niềm hy vọng Mỹ can thiệp cứ nhỏ dần, nhỏ dần...


Arkansas, 29-5-1975

Con yêu của mẹ,
Cả tháng nay, mẹ không viết cho con. Chỉ có một tháng mà biết bao đổi thay. Mẹ con mình đã xa Sàigòn, rất xa, cả nửa vòng trái đất.
Cưng ơi, hiện gia đình mình đang sống trong trại Fort Chaffee, Arkansas, trên đất Mỹ con ạ. Con đã có giấy tờ và sẽ là công dân Mỹ. Mẹ con mình đã qua bao nhiêu đoạn đường. Mẹ rất muốn viết cho con trên đường đi, nhưng mẹ mệt mỏi quá. Tuy gặp nhiều khó khăn, nhưng nhờ ơn Trời Phật và Đức Thầy phò hộ, gia đình mình đã được thoát nạn.
Lúc ngồi trên máy bay quân sự qua Subic Bay ở Phi Luật Tân, con ôm mẹ khóc thét vì tiếng máy bay kêu to quá. Con bỏ sữa luôn không chịu bú nữa. Mẹ dỗ gì con cũng không nín. Sau đó mình đi tàu qua đảo Grandy và di chuyển qua đảo Guam bằng máy bay.
Ở Guam, mẹ con mình sống trong lều của lính, khí hậu nơi đây nóng kinh khủng. Chỉ có gió và cát. Ba con cả ngày đi xếp hàng lo giấy tờ hoặc lãnh cơm cho mẹ con mình ăn. Tội nghiệp con thích chạy nhảy, nay cứ phải ở hoài trên ghế bố, nên con cứ lăng xăng tối ngày. Con ngủ trưa nóng ghê, thấy thật là tội nghiệp. Có khi mẹ cho con ở trần, chỉ mặc cái quần đùi.
Sau đó, họ chở mình đi. Ai cũng ngỡ đi Mỹ, không dè qua Asan Camp ngủ ghế bố, hoặc nằm dưới đất thật hỗn độn. Ở đây, ba mẹ gặp gia đình hai ông bà Lưu Hùng, cùng các con là bạn của mẹ lúc còn nhỏ ở làng Hòa Hảo. Có đủ dì Ánh, dì Điệp, Bình, Tú, Hiệp, chỉ thiếu chú Lưu Huyên đã tử trận.
Nhìn gia đình ông bà bác Lưu Hùng quây quần trong một góc nhà, mẹ thấy lòng se thắt, nhớ ngày xưa gia đình này đã phải di cư từ ngoài Bắc vào Nam tay trắng, sau bao năm gầy dựng rồi nay lại trắng tay...

Con thương,
Mẹ đau từ hôm ở lều qua đến trại Asan. Mẹ chưa hết bệnh lại tới con. Tội nghiệp con bị nóng sốt, mũi chảy và ho. Sau đó tất cả được chuyển qua Anderson, ở giường sắt hai tầng. Hôm sau được đi Mỹ, gia đình mình đúng 10 người. Kỳ này, ai cũng tưởng đi California, ai ngờ họ đưa luôn qua trại Fort Chaffee. Mẹ nghe nói, ở đây đỡ khổ hơn, vì ở trong trại lính, còn ở trại Pendleton, California, rất lạnh và có muỗi vì phải ở lều.
Cưng ơi, mẹ gầy, xanh lắm vì mẹ cảm lâu, đau cổ nên uống nhiều trụ sinh mất sức. Qua đây giờ giấc trái ngược. Ban đêm ở đây là ngày ở Guam. Khuya con cứ thức dậy đòi đi chơi, đòi ăn, hành mẹ hết mấy đêm vậy đó. Con lại ôm cứng mẹ từ hôm rời Việt Nam, không chịu ai hết. Mẹ đuối, mẹ mệt, nhưng mẹ thương con thật nhiều. Con đi đường xa, ăn uống thất thường nên ốm.
Hôm nay con đỡ rồi, tuy còn hơi chảy mũi. Chiều nay mẹ ở nhà coi phòng, ba dắt con xuống sân chơi, nhờ vậy mẹ mới có giờ viết cho con đó. Tai của mẹ bị đau từ hôm đi máy bay, hôm nay nó sưng to bên trong, nên nhức lắm. Nhờ có thuốc trụ sinh của ông ngoại mang theo, nên mẹ uống mới đỡ. Mẹ lo không biết đời sống bên nhà như thế nào. Trước hôm ra đi, ba mời các cô chú đến nhà họp lần cuối. Ba mẹ và con lạy từ giã ông bà nội. Ba con xin lỗi tội bất hiếu và nhờ chú Năm thay thế ba lo cho ông bà của con.
Hôm mới qua đây mẹ có viết thơ về nhà, nhờ hội Hồng Thập Tự gởi, nhưng chắc không đến nơi. Mẹ cũng có viết thơ qua Pháp nhờ dì Minh Thư đánh điện tín, mà vẫn không có kết quả. Mẹ viết lúc ở đảo Grandy, chắc đã lạc mất. Mẹ định gởi thơ khác qua ngã Thái Lan, nhờ ông ba nuôi người Thái của mẹ chuyển, nhưng mẹ lại sợ ở nhà bị liên lụy.

Con cưng,
Có một điều làm cho mẹ sung sướng và hãnh diện là trên bước đường di tản, gần như con luôn luôn ở trên tay mẹ. Mặc dù mẹ yếu đuối, hay đau, mẹ vẫn cố lo cho con và mang con đến bất cứ nơi nào bình yên?
Phượng Các
#11 Posted : Thursday, March 31, 2005 10:34:39 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
CÔ BÉ LÀNG HÒA HẢO

Làng Hòa Hảo!
Chỉ vỏn vẹn có ba tiếng, vậy mà mỗi lần nhắc lại, tim tôi luôn luôn rung động xao xuyến. Cả một khung trời kỷ niệm ấu thơ ẩn hiện vấn vương. Rồi hình ảnh hiền hòa chơn chất của một ngôi làng Miền Tây từ ký ức bé thơ trở về lại đậm đà rõ nét: Con sông hiền hòa với những chiếc thuyền qua lại. Con đường đất đi quanh Thánh Địa Hòa Hảo với những chiếc xe lôi, xe đạp hay những người bộ hành mặc áo quần dân quê giản dị.
Tôi làm sao quên được ngôi làng với những buổi tờ mờ sáng khi tiếng gà bắt đầu gáy hay những buổi chiều chạng vạng tối, mùi hương bay tỏa nơi nơi, nhà nhà đều thắp nhang đèn hành lễ.
Ba mẹ nói tôi được sanh ra giữa lằn tên mũi đạn. Vậy mà tuổi thơ của tôi tại làng Hòa Hảo sao quá êm đềm. Khi bắt đầu đời sống của một con người, tôi không biết chiến tranh mà chỉ biết sự an lạc. Tôi được nhìn thấy những người chung quanh sống với nhau trong sự chơn chất, thương yêu với tình đồng đạo, tương kính nhau như anh em chú bác một nhà. Qua bao nhiêu vật đổi sao dời, bao lần ly hương xa xứ, quê hương thanh bình vẫn là lời mời gọi thiết tha nhất đối với tôi.
Mẹ kể cho tôi nghe: "Trước 1945, ở Sàigòn nhiều gia đình tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo mua ghe lớn để dọn về làng Hòa Hảo. Các ông các bà thấy thời cuộc không yên giống như lời tiên tri trong Sám Giảng của Đức Huỳnh Giáo Chủ nên họ thức tỉnh, về làng Hòa Hảo tu hiền. Lần lần họ mua đất cất nhà ở luôn vì thấy nơi đây an lành vui vẻ, không ai tranh chấp cao thấp, sống một cuộc đời bình dân giản dị. Trong làng nhà không đóng cửa, giấc ngủ êm đềm, không phải bận tâm như chốn phồn hoa đô hội".
Ở làng Hòa Hảo, trước mỗi nhà đều có một bàn thông thiên. Bàn thông thiên hình vuông, được đóng trên một cái cột đứng, trên đó có một bình bông, ba chung nước, một lư hương và một cái đèn cóc thấp bằng dầu lửa. Đèn này bằng thiếc, trên ống khói có một cái nắp nhỏ che mưa để đèn khỏi tắt.
Mỗi ngày cứ năm giờ sáng và sáu giờ chiều, các tín đồ nam nữ đều mặc áo tràng màu đà, thắp hương lên đèn hành lễ. Sau khi làm lễ trước ngôi Tam Bảo nơi bàn thờ đặt trong nhà, họ ra bàn thông thiêng để cúng lạy bốn hướng. Hướng chánh bàn thông thiên họ đọc bài Quy Y, còn ba hướng kia thì đọc bài Tây Phương Ngũ Nguyện.
Cũng như các tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo khác, mỗi lần đến bất cứ nhà ai, tôi thường theo người lớn đến trước bàn thờ xá ông bà, xá Phật, cúi đầu trước chân dung Đức Thầy rồi mới bắt đầu nói chuyện hay chạy đi chơi.
Sau này, khi đã dời nhà lên thành phố, mỗi khi cùng với gia đình về làng dự Đại Lễ 18 tháng 5, ngày Đức Thầy lập đạo, nếu đến gia đình bà con nào đang đi vắng chúng tôi vẫn tự động vô nhà, làm lễ trước bàn thờ rồi tìm chỗ ngủ như ở nhà mình vậy.

* *
Chuyện làng Hòa Hảo, đối với mẹ tôi, là một đề tài vô tận, kể không bao giờ hết.
Mẹ nói khi còn con gái mẹ thường lên nhà Đức Ông, thân sinh của Đức Thầy để làm công quả. Mẹ, cô Năm Biên, em Đức Thầy và cô Năm Kiết là ba người bạn kết thân với nhau. Ba người ngủ chung một mùng, ăn chung một mâm, quần áo cũng đổi nhau mặc chung. Thuở đó ai cũng mặc màu đà hoặc màu đen. Mỗi lần làm công chuyện hay đi cúng ba cô cùng đi một lượt. Khi cúng xong cùng ngồi niệm Phật chung một phòng.
Mỗi ngày vào khoảng năm giờ sáng ba người thức dậy thay phiên nhau nấu nước pha trà cho Ông Bà dùng, có lúc bóp tay chân cho Ông Bà, thật là thương hết sức.
Đó là khoảng thời gian mẹ học ở trường nữ công ngang trường Tôn Thọ Tường, Sàigòn. Các giáo sư Pháp dạy thêu may và làm bánh mứt. Mỗi năm trường đều có triển lãm. Mỗi lần hè hay vào dịp lễ là mẹ về làng Hòa Hảo.
Mẹ kể, bàn tay mẹ nhỏ xíu thường hay thêu thùa mà mẹ cũng đi chùi nồi bằng trấu. Mẹ nhớ có lần Đức Ông bảo mẹ gánh nước thử mẹ bèn biểu anh gánh nước đặt đôi nước xuống, mẹ kề vai gánh thử thì nặng ơi là nặng! Vì gia đình khá giả từ nhỏ đến lớn, không có làm việc nặng nên mẹ gánh nước không nổi. Đức Ông Đức Bà thương mẹ lắm, Ông Bà nói mẹ hiền, thiệt thà, siêng năng lo làm công chuyện. Mỗi ngày mẹ lau chùi bàn Phật, nói giảng. Vào thời kỳ này chánh quyền hay dòm ngó nên ít ai đến Tổ Đình. Những người thân lắm thì mình mới đọc giảng cho người ta nghe chớ không có công khai như về sau này. Lúc đó Tây đang buộc Đức Thầy phải đi xa, biệt cư.
Mẹ giải thích mặc dù là con nhà giàu nhưng khi đã theo Đạo, nghe lời Thầy dạy, tu thì phải hy sinh tất cả tinh thần lẫn vật chất nên mẹ mặc áo vạt miểng màu đà, quần vải đen. Khi làm công quả mẹ cũng bỏ guốc, bỏ dép, đi chân không như mọi người. Có điều mẹ cười khi nói với tôi: "Lúc đó ở làng phái nữ mặc xú cheng bị người ta cười dữ lắm, nên mẹ may áo lót là một miếng vải ngang, kết ba chục cái nút gài cho ngực sát lại. Mỗi lần giặt là phải phơi chỗ kín đáo. Quần thì phải mặc quần lá nem chứ không may quần đáy giữa. Áo thì đơm nút ốc chứ không đơm nút bóp. Tóc phải chảy thẳng lên chứ chảy bảy ba cũng bị cười, cũng không để móng tay dài..."
Đến giai đoạn Thổ dậy và Việt Minh lùng kiếm bắt cán bộ Phật Giáo Hòa Hảo thì dân làng tại đó bảo vệ nhau hết sức tận tình. Anh em đồng đạo coi nhau như ruột thịt. Nhà ai có đau ốm thì đến cạo gió hay giúp đỡ chuyện nọ chuyện kia. Có lúc dân chúng bị bịnh thổ tả thì trong làng tổ chức một ban chẩn tế. Hễ nhà ai có bịnh thì gõ mõ. Ban chẩn tế đến nhà cạo gió, cho uống thuốc rượu do Đức Thầy cho toa. Họ bổ thuốc ngâm rượu chuyền đi khắp nơi trong làng và họ pha thật nhiều để cứu bịnh. Hễ ai bị ói mữa đi tiêu uống thuốc vào thì hết. Mẹ nói năm đó ghê quá. Còn mỗi lần Tây "bố" thì anh em trong làng chạy xe đạp la lên. Nhà ai có con gái đẹp thì lo đi trốn. Mẹ và dì Hai Bắc đi xuống mé sông dưới bến của Tổ Đình. Nơi này sóng vỗ lâu ngày đất lở nên có chỗ hõm vô. Mẹ và dì Hai vô đó ngồi, kéo lục bình che bên ngoài. Khi nào các anh liên lạc cho hay Tây đi rồi thì mới leo lên.
Lúc còn nhỏ, trước khi lên Sàigòn học nữ công, mẹ học École Primaire, sau này là trường tiểu học Long Xuyên. Đến bây giờ đã trên năm mươi năm qua mà mỗi lần nhắc đến thầy cô, mẹ vẫn còn thương kính. Mẹ học với cô Ba Giáp, Cô Phán và cô Năm Liệp. Mẹ học môn nào cũng khá, chỉ trừ môn toán mẹ rất dở vì không thích tính toán, nhưng mẹ vẽ giỏi và thêu thùa rất khéo. Các cô giáo thường mượn mẹ thêu khăn để tặng bạn. Bà Mười không tin hễ thấy mẹ điểm cao là bắt mẹ vẽ lại ở nhà.
Hồi nhỏ mẹ thích tu nên phòng mẹ để hình Phật Bà, mỗi ngày mẹ cúng lạy bốn thời: Năm giờ sáng, mười hai giờ trưa, năm giờ chiều và mười hai giờ khuya. Tối trước khi đi ngủ, mẹ ngồi kiết già niệm Phật ở trong mùng.
Khi tựu trường, mẹ ở trọ nhà thầy giáo Cứ và cô giáo Hoa. Mẹ nói: "Hồi đó khác bây giờ. Từ ngày người Bắc di cư vào Nam, học sinh sinh viên mới mặc áo dài đi học. Còn thời của mẹ, Pháp thuộc, học trò mặc đồ bà ba trắng, ủi có nếp đàng hoàng, xách cặp táp, kẹp nách thêm cây dù che nắng, che mưa."
Nơi mẹ ở trọ có rất đông học sinh. Con trai ở trên lầu, con gái ở tầng dưới. Mỗi giường ngủ có bốn cô con gái. Lúc tan học về nhà ăn cơm, các cô gái lo dọn bàn, bưng cơm và đồ ăn. Mấy cậu con trai lo gắp tôm tép, đồ xào chôn dưới chén, bới cơm lên trên. Các cô con gái phần chậm chạp, phần sợ cô giáo không dám nói, nên có nhiều bữa ăn cơm không, hoặc chan nước cá kho còn dư.
Mẹ cười khi kể chuyện các trò con trai. Buổi tối các cậu ngồi học bài cho thầy cô thấy mặt rồi đi đâu mất. Khi thầy cô soạn bài, sửa bài xong thấy vắng các cậu thì xách roi mây giỡ mùng kêu từng người một. Thầy cô thấy họ đắp mền đàng hoàng mà kêu hoài không ai nhúc nhích gì hết nên khều mền lên, thấy bên dưới toàn là gối ôm. Thầy cô làm thinh đợi khi các cậu leo cửa sổ về, chun vô mùng đắp mền xong mới kêu ra hỏi tội. Thì ra các cậu trốn đi xem hát bóng. Thế rồi thầy cô kêu nằm dài ra, đét vào đít mỗi cậu hai roi.
Mẹ kể đến đây lòng bồi hồi xúc động nhớ các anh em bạn trai thuở xưa mà rơi nước mắt. Tôi hỏi mẹ tại sao buồn thì mẹ nói: "Nghĩ mà tội nghiệp lắm con ơi! Trong những cậu đó, về sau này có nhiều người chết vì Việt cộng đó con. Thôi đừng nhắc chuyện xưa buồn rầu đó nữa. Nó chứa biết bao nhiêu kỷ niệm vui lẫn buồn. Thời loạn con ạ! Bây giờ mình ở Mỹ ăn đủ thứ. Mẹ ưa ăn hủ tiếu mà mẹ thấy nhiều thịt mẹ ớn quá con ạ! So sánh lại thời mẹ mười mấy tuổi ở Long Xuyên, mỗi tuần mới ăn một tô hủ tiếu của chú Sình người Tàu. Chú đẩy một cái xe ba bánh, phía trước ở chính giữa có cái thùng nước lèo, chung quanh để thịt và gia vị, rau, hẹ, bánh... Xe có lợp mui vải che nắng, mưa. Chú bán một tô hai đồng xu. Nếu thêm thịt thì hai đồng rưỡi. Chú Sình để hủ tiếu và vài miếng thịt heo vô tô đá, thêm hai miếng gan, một miếng tim, một chút thịt bằm, chế nước súp vô. Xong để hành hẹ, một chút xà lách xon, xịt chút xì dầu, tiêu. Vậy mà ngon hết sức. Đâu phải vậy xong đâu con. Còn cách ăn có nghệ thuật nữa. Lúc còn nhỏ không làm gì cho ra tiền nên mẹ ăn xài kỹ lưỡng lắm, cho xứng đồng tiền mà lại thích thú nữa. Mẹ bưng tô hủ tiếu ngồi bên cạnh bạn ở lề đường. Mẹ gắp thịt, gan, tim để một bên rồi ăn hủ tiếu trước. Mẹ tính ăn xong rồi thưởng thức các miếng thịt cho ngon. Ai dè mấy người bạn rình mẹ ăn xong hủ tiếu, họ gắp thịt, tim gan trong tô của mẹ ăn hết rồi cười ầm lên. Mẹ nghĩ lại thời thơ ấu thật là sung sướng, không bận tâm lo nghĩ."
Mẹ tôi lại kể tiếp: "Các con đừng cười. Hồi nhỏ mẹ cũng chơi nhà chòi như các con. Thứ bảy về nhà mẹ bưng quần áo xuống sông chỗ cầu Henry, bây giờ là cầu Hoàng Diệu, chỗ đồn Sơn Đá của Pháp để giặt đồ. Chủ nhật mẹ cất nhà chòi lợp bằng lá chuối, rồi cắt lá bạc hà làm nón. Trước nhà mẹ ở đường Gia Long có cái rạch. Từ ngoài đường vào nhà mẹ phải qua cái cầu. Mẹ xuống rạch cắt lục bình, lấy khúc giữa làm bánh mì. Rồi mẹ ngồi bán bánh mì suốt ngày vui lắm".
"Con biết không, đến bây giờ nhắc lại chuyện xưa mà lòng mẹ vẫn còn thương kính các thầy cô. Sau này dù lớn tuổi cũng vậy, gặp cô giáo mẹ vẫn khoanh tay, cúi đầu chào đàng hoàng. Mẹ thấy tình thầy trò không hề phai lạt. Mẹ cảm thấy tâm thần xúc động, sợ sệt, khép nép như hồi còn đi học."

* *
Hiện nay mặc dù xa cách Việt Nam hằng nửa trái đất, nhưng mỗi lần nghĩ đến quê xưa, tôi thường giỡ ra xem lại những bức hình lưu niệm. Niềm thương nhớ quê hương lại trào dâng. Những kỷ niệm thời thơ ấu sống lại thật rõ rệt, như vừa xảy ra ngày hôm qua.
Tôi có những bức ảnh chụp tại sân trước hay sân sau căn nhà cạnh bờ sông thời kỳ tản cư sống tại làng Hòa Hảo. Những bức ảnh này ba tôi ghi năm 1950, lúc đó tôi được ba tuổi. Có hình tôi ngồi trên lan can nhà, hai chân nhỏ xíu đánh tòn ten, cái mặt tròn xoe. Cái thì tôi mặc bộ đồ pi-da-ma con trai, tay đeo đồng hồ. Có cái hai tay thọt vào túi áo, hai má chảy xệ. Cái hình mà tôi không thích lắm vì mặt tôi trông hơi đần, là tấm hình tôi mặc bộ đồ bông tây kiểu con trai. Tôi chụp với anh Khanh con nuôi của cô Năm Biên em gái Đức Thầy. Anh Khanh là con của cô Hai chị của Đức Thầy. Cô Năm không có con nên nhận anh Khanh làm con. Khuôn mặt anh Khanh trông không giống lúc anh lớn lên chút nào. Lúc nhỏ má anh phính, còn khi tôi gặp anh lúc anh sắp cưới vợ thì anh gầy nhom, cao nhòng. Trong hình này tóc tôi dài tới vai, bàn tay trái của tôi nắm chặt lấy ngón tay cái của bàn tay phải của anh. Hai chúng tôi đứng cạnh mấy cây chuối, sau lưng tôi là cây chuối non, chỉ mới cao bằng tôi thôi.
Hồi xưa sao mà người ta hà tiện phim quá. Hình rửa nhỏ xíu nên xem rất khó. Trong bức hình khác tôi đang cưỡi con ngựa gỗ. Có cái tôi đang ôm Thảo, cháu gái của tôi, con của cậu Tư Hồng. Mẹ tôi mồ côi cha mẹ sớm nên có nhận hai em nuôi là cậu Hồng và cậu Tặc mà tôi gọi là Ba Hồng và Má Tặc vì lúc hai cậu còn thanh niên ai cũng gọi đùa hai cậu là vợ chồng vì hai cậu đi đâu cũng có nhau. Hai cậu là tài xế của Đức Thầy. Cậu Tặc được Đức Thầy đặt tên là Võ Văn Đắc.
Tấm hình tôi thích nhất cũng chụp lúc ba tuổi. Tôi mặc chiếc áo tràng nâu bé xíu đang đứng chỗ bàn thông thiên. Tôi đứng trên bục xi măng vuông, nơi trải chiếu lên để cúng lạy. Chiều cao của tôi được ba phần tư của bàn thông thiên. Không hiểu sao tôi nhớ những kỷ niệm thời đó một cách rõ rệt vậy.
À, còn một tấm hình mặt tôi đưa ra, mắt lim dim trông thấy ghét hết sức. Hình này cô năm Biên giả trai mặc áo sơ mi, mang kiếng đen, đội nón nỉ. Má tôi mặc áo dài ngồi một bên, cô Năm ngồi một bên, tôi và anh Khanh ngồi giữa. Tay mặt anh Khanh choàng qua vai tôi.
Bức ảnh này làm tôi liên tưởng đến lúc tôi gặp anh tại nhà thương Đồn Đất, lúc Đức Bà lâm trọng bịnh. Tôi và anh đều bỡ ngỡ vì qua mười mấy năm không gặp. Anh lên Sàigòn học còn tôi bôn ba tận Cao Miên mới hồi hương. Hôm đó tín đồ đến viếng Đức Bà rất đông. Mọi người đều im lặng cầu nguyện cho Bà. Tôi thấy Bà nhìn tôi. Nước mắt tôi tuôn ra vì không ngăn được xúc động.
Mẹ ngoắc tôi vào nói nhỏ: "Nắm tay Bà đi con, sợ rồi không còn có dịp". Tôi vuốt bàn tay Bà, lúc đó sưng húp lên mà lòng xúc động mãnh liệt. Tôi bước vội ra ngoài, anh Khanh đến bên tôi nói chuyện an ủi. Hai anh em lo lắng thở dài.
Tôi được gặp Đức Bà thêm một lần nữa tại Tổ Đình lúc theo gia đình về dự lễ 18 tháng 5. Sau đó Bà mất vào ngày mồng 2 tháng 6, 1967 tại Thánh Địa Hòa Hảo. Anh Khanh chịu tang thay thế Đức Thầy lúc Thầy còn vắng mặt.
Có một bức ảnh mà tôi thấy thích nhất. Trong ảnh, tôi là một cô bé rất điệu và dễ thương. Ba tôi ghi năm 1951. Cô bé mặc chiếc áo đầm có cái nơ trước ngực, chân mang giày trắng có quai, tóc chải bảy ba có gắn một cái nơ nhỏ. Miệng cô bé cười toe, hai bàn tay xòe ra, õng ẹo trông có vẻ "con gái" lắm. Ảnh này tôi cũng chụp tại bàn thông thiên. Không biết ông câu nào lại phơi luới để đi chài cá lên hàng rào thành ra cái phông của bức ảnh nhờ vậy mà đẹp ra.
Không hiểu tại sao mẹ tôi lại thích cho tôi giả trai lúc còn nhỏ. Chắc lúc có bầu, mẹ mơ sinh con trai. Hình một tuổi của tôi ngồi trên ghế giống y đứa con trai với mái tóc hớt cao sát ót. Hình mẹ bế tôi chụp trong tiệm cũng vậy nữa.
Có một tấm ảnh tôi chụp chung với chị Tư con của bà vú, tôi mặc bộ đồ trắng, tóc bum bê, hai mắt tròn xoe. Một tấm khác tôi chụp với chị Thanh, người vú em chuyên dắt tôi đi chơi.
Dưới tấm hình tôi chụp với chị Loan Giao ba ghi Hoàng Cầm và Loan Giao. Chị Giao ốm nhom ốm nhách, mặc chiếc áo bà ba may trừ hao nên dài lòng thòng. Chị Giao là con của dượng Hai họa đồ Tố ở Hưng Nhơn. Dượng Hai giúp rất nhiều bà con từ ngoài Bắc di cư vào Nam ở tại nhà dượng. Có nhiều lần tôi định hỏi tại sao hồi nhỏ ba tôi đặt tên cho tôi là Hoàng Cầm mà tôi quên, bây giờ thì ba đã mất rồi. Có người bảo Hoàng Cầm là tên một vị thuốc rất đắng. Tôi tự hỏi không biết có phải nghĩa là con chim màu vàng không?
Ngoài những bức ảnh của tôi còn có những bức ảnh của mẹ. Mẹ ngồi tại bàn viết tóc thắt bính kiểu người Bắc quấn vòng lên đầu. Mẹ mặc áo dài cổ bâu hở, tay cầm viết. Trên bàn có chậu hoa sen bằng giấy do mẹ làm, trên kệ có đồng hồ reo. Trên vách có treo tấm lịch có hình phong cảnh. Cạnh mẹ ngồi là vách có dán giấy, xa hơn là vách lá, có một cái võng đong đưa treo ngang các kèo nhà.
Trong một tấm hình khác mẹ ngồi trên ghế xưa có nệm bọc nhung bông trong tiệm hình. Mẹ mặc áo dài, đeo bông, giây chuyền và lắc. Vai mẹ choàng khăn sọc ca-rô bằng len. Chân mẹ chéo nguẩy. Tay mặt mẹ gác lên ghế, tay trái đặt trên đùi. Hình này trông mẹ ra dáng con của giòng họ Nguyễn Hòa có tiếng ở làng Long Kiến, Ông Chưởng.
Có hình ba chụp mẹ đang tắm dưới sông với dì Ba Yến và chị Hai Hồi Văn. Ba người mặc nguyên quần áo. Dì Ba Yến là con của bà Sáu Nhạn và là vợ của cậu Sáu Dữ, cháu Đức Ông. Cậu Sáu Dữ tên thật là Huỳnh Hữu Thiện. Cậu bị mật vụ thời ông Diệm bắt giết lúc đi từ Sàigòn về miền Tây cùng với dượng Ba Lê Hoài Nam, thầy giáo Tập, ông Huỳnh Thiện Tứ và tài xế Dành. Tất cả đều là tín đồ trung kiên của Đức Thầy. Sau thời ông Diệm, tất cả năm gia đình đều thưa nội vụ ra tòa và đã thắng kiện. Những người thi hành mệnh lệnh của chính quyền cũ có nhận tội trước tòa và các gia đình nạn nhân đã được bồi thường.
Tuy nhiên dù có bồi thường bao nhiêu tiền đi nữa cũng không bù đắp được sự đau khổ mất mát của những thân nhân ở lại. Những cái chết này quá đau thương vì họ bị bỏ vào bao bố cột đá nhận sâu dưới lòng sông Nhà Bè.
Trong một bức ảnh khác mẹ đang chèo xuồng với bà Sáu Nhạn, hai người đều mặc đồ bà ba đen, đầu đội khăn chàng tắm ca-rô. Trong hình có chị Annie hiện giờ đang ở Hoa Thạnh Đốn, Chị "Ni" là cháu ngoại của bà ngoại Cò, mẹ tinh thần của mẹ tôi. Chị đang ngồi trên xuồng, tay cầm chiếc dầm vọc nước.
Tôi có được những tấm hình quý giá và nhiều đồ kỷ niệm trong đó có những bài báo mà tôi viết lúc còn ở Sàigòn, cũng nhờ ông xã tôi ráng xách theo lúc chạy vào những ngày mất nước, 30-4-1975.
Trong ký ức, tôi nhớ ba có một tấm hình chụp ngược ánh sáng mặt trời, đang ngồi ở lan can hút thuốc, cái phông phía sau là bờ sông. Có lẽ chú Hai Răng chụp cho ba. Chú Hai Răng tên Pháp là Jean, tên thật là Nguyễn Thành Ngọc, chú là thợ chụp hình. Tôi rất sợ chú mỗi khi chú hôn, râu chú chích vào mặt tôi rất đau. Nếu tôi không cho chú hôn chú sẽ giả làm người cùi. Hai tay chú rút lại đưa tới đưa lui. Miệng chú mếu một bên, nước miếng chảy lòng thòng, làm tôi khóc thét lên... Đến lớn mỗi lần gặp chú, tôi hay năn nỉ chú làm người cùi lại cho tôi xem. Chú Răng là anh dì Ba Yến, con bà Sáu Nhạn.
Mỗi lần xem album thấy ít hình ba, tôi buồn ghê, vì khi gia đình tôi chạy lên Nam Vang gởi nhà cho chú Hai. Chú ấy sợ bị xét nhà nên bao nhiêu hình của ba chú chôn hết sau hè căn nhà ba má mua cho tôi ở đi học tại đường Bàn Cờ. Về sau, người chủ mới đập nhà ra cào nền lên cất lại phố lầu. Những hình ảnh kỷ niệm thời trẻ của ba bị mất gần hết.
Tôi thích nhất là hình ba mặc đồ sĩ quan quân đội Phật Giáo Hòa Hảo trông ba vạm vỡ oai phong ghê. Tôi còn thấy hình ba mặc quần tắm chụp dưới bãi biển Vũng Tàu với hai anh hộ vệ là anh Chín Ốm và anh Chín Mập. Phải chi hai anh ấy qua được bên Mỹ thì tôi tha hồ phỏng vấn thời ba còn trẻ, vì hai anh luôn luôn theo cạnh ba vào sanh ra tử, ngay cả lúc kháng chiến ở bưng biền.
Hai anh hết sức trung thành với ba. Anh Chín Ốm đi theo ba vượt qua biên giới Cao Miên. Anh nói, anh liều sống chết với ba. Khi gia đình tôi hồi hương thì hai anh trở về làm việc với gia đình tôi cho đến ngày mất nước.
Trong hình tôi thấy ba tôi và hai anh người nào trông cũng có vẻ vạm vỡ, ngực to bụng eo. Anh Chím Mập hồi đó là lực sĩ tập tạ. Tuy anh mặt rỗ nhưng rất có duyên và đắt mèo. Sau này khi gia đình tôi hồi hương, anh làm tài xế cho ba tôi. Vì không tập tạ nũa bụng anh bự ra, còn anh Chím Ốm vẫn còn ốm như thường.

* *
Mẹ kể, khi tôi được tám tháng, mẹ có sữa ít quá nên phải nấu giò heo và đu đủ ăn để có sữa cho tôi bú. Mẹ ăn hoài mà cũng ít sữa nên mẹ phải mướn một bà vú trẻ mới hai mươi hai tuổi ở Chợ Mới, cũng đẻ con so để cho tôi bú ké với con của bà. Bà ấy cho tôi bú và săn sóc tôi được vài tháng thì nhớ nhà nên xin về. Mẹ tôi phải mua sữa Guigoz pha trong chai cho tôi bú nhưng tôi không chịu và cứ đòi bú vú mẹ hoài. Mẹ đành cho tôi bú và ăn thêm cho đến bốn tuổi thì mẹ tôi bôi dầu Nhị Thiên Đường vào vú. Tôi bị cay quá nên không đòi bú mẹ nữa.
Nghe mẹ nói tôi mới biết cái cô mặc áo đầm xòe đứng trong hình với mái tóc có cài nơ vẫn còn vòi sữa mẹ. Vậy mà tôi vẫn hay chọc Cường, đứa con thứ hai của tôi đẻ ở Mỹ, tối nào cậu cũng tu một chai sữa tươi trước khi ngủ cho đến bốn tuổi.
Gia đình tôi cũng như nhiều gia đình khác chạy giặc tản cư về cất nhà ở tại làng Hòa Hảo. Căn nhà tôi ở quay mặt xuống sông Tiền Giang. Con sông thật lớn mênh mông. Bên kia bờ là Tân Huề, ở dưới bãi làng Tân Huề có Tân Quới, Tân Long.
Những buổi bình minh ló dạng, sau khi cúng lạy xong mẹ thường đứng nhìn những chiếc xuồng thả câu trên mặt sông có sóng gợn lăng tăng, trông rất êm đềm và đẹp mắt. Có những lúc mấy ông câu được nhiều cá đem vào bờ, mẹ đón mua cá tươi để kho hoặc nấu canh chua.
Nhà tôi ở gần nhà Đức Ông hay còn gọi là Tổ Đình. Bên cạnh là nhà bà ngoại Cò, nhưng người trong làng gọi là nhà bà Sáu Nhạn, em bà Năm Cò. Dì Ba Yến, con của bà Sáu biên thơ qua cho mẹ tôi hay là bà Sáu đã qua đời vào tháng 5 năm 1991.
Bà ngoại Cò và bà Sáu Nhạn là hai tín đồ trung kiên tin tưởng Đức Thầy mãnh liệt. Bà ngoại rất giàu, có vựa cá ở Sàigòn và lo về tài chánh cho đạo. Mặt bà tròn, đẹp và nghiêm. Giọng nói của bà to và rổn rảng nên tôi rất sợ. Mỗi lần gặp bà, tôi mau mau khoanh tay thưa bà ngoại rồi chạy đi chơi. Bà ưa hỏi: "Con bé đó hả, lại đây ngoại biểu. Đói bụng không bà ngoại cho ăn hủ tiếu?"

* *
Mẹ tâm sự: "Lúc con còn nhỏ mẹ thường vào làng Hưng Nhơn. Hễ ai có bị ghẻ lở thì mẹ cho thuốc. Hễ ai bị ghẻ khuyết mẹ lấy nước nóng pha ấm ấm và thuốc tím rửa sạch, chậm lại cho khô rồi mẹ rắc thuốc, băng lại ít ngày thì hết. Còn ghẻ ngoài da thì mẹ xức pô-mát. Mẹ giúp người nghèo đau ốm mẹ thấy rất vui."
Bên cạnh nhà bà ngoại Cò có dư một cái chái. Cái chái là một mái cất bên hông nhà. Nơi này để băng hay ghế ngồi chơi hay nghỉ chân. Mẹ kêu mấy ông bà đi ăn xin, lớp mù, lớp ghẻ, lớp đi chống gậy, câm, điếc, đủ thứ vì mẹ giúp được cái gì mẹ giúp. Khổ một điều là mẹ không có khả năng lo nổi mà càng ngày họ càng đông. Mẹ lo không xuể.
Mẹ còn kể cho tôi nghe chuyện đám cưới ở nhà quê nữa. Mẹ nói: "Họ nhà trai đi rước dâu bằng ghe máy. Theo tục lệ người Việt Nam nếu đến sớm thì đàng gái không cho ghe cập bến, phải chạy đến nơi khác đậu. Nhiều khi bị đuổi vì chủ nhà nói họ có con gái, họ sợ xui con gái họ sẽ ế. Vì vậy nên đàng trai phải tách bến chạy vòng vòng ngoài sông, chờ đến đúng giờ tốt, đàng gái mới cho lên nhà. Lối xóm người lớn, con nít đứ?ai bên đường xem đám cưới rất đông."
Nghe tôi hỏi về "bộ đồ lớn" để đi ăn cưới ở quê nhà, mẹ cười:
"Ngày xưa đi đám cưới ở thôn quê, người già mặc áo dài khăn đóng chỉnh tề, còn người trẻ mặc sao cũng được miễn cho kín đáo sạch sẽ, nghiêm trang thôi."
Tôi còn nhớ dạo đó phần nhiều thanh niên trong làng mặc pi-da-ma đi ăn cưới hay giỗ. Họ ủi và xếp thẳng để khi mặc còn lằn xếp mới đẹp. Mỗi lần ủi đồ thì phải đốt than, mở nắp bàn ủi ra để than vào. Khi nào bàn ủi nguội thì mở nắp ra quạt hoặc bỏ thêm than vô...
Đôi khi ba mẹ cũng có đi dự đám giỗ. Mẹ thường đến sớm để làm tiếp, nhổ lông gà vịt hoặc làm cá, nhặt rau. Khi nào chủ nhà cúng xong, họ mời khách và bà con xúm lại dùng cơm chớ không có ai đem món gì. Nếu mình có đem bánh trái cúng ông bà, họ cũng nhận vui vẻ. Khi dọn ăn, phe nam ngồi ghế đặt quanh bàn, còn phe nữ ngồi xếp chè he quanh mâm cơm dọn trên bộ ván ngựa.
Mẹ nói trong gia đình Phật Giáo Hòa Hảo còn có một tập tục phổ thông. Khi đến bữa ăn mọi người gác đôi đũa ngang chén cơm, chắp tay lâm râm nguyện vái, xá ba xá rồi bắt đầu ăn. Ăn xong cũng gác đũa ngang chén xá ba xá rồi mới đứng dậy.
Ba mẹ giải thích cho tôi động tác này là tỏ lòng hiếu thảo với Cửu Huyền Thất Tổ, ông bà cha mẹ đã quá vãng. Tập tục này cũng bắt nguồn từ thuyết Tứ Ân, trong đó Đức Thầy có nói: "Ta hưởng tấc đất ngọn rau là nhờ ơn đồng bào nhơn loại cung cấp."
Khi có một chút trí khôn tôi hỏi ba về ý nghĩa tấm Trần Đà mà người tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo nào cũng có trên bàn thờ. Ba tôi giải thích: "Mầu đà là sự kết hợp của tất cả các màu sắc khác, nên tượng trưng cho sự hòa hợp của nhân loại, không phân biệt chủng tộc và cá nhân. Vì vậy chúng ta thờ phượng để tiêu biểu tinh thần vô thượng của nhà Phật."
Về sinh hoạt của làng Hòa Hảo, mẹ cho biết có chợ, nhà thương, trường học, chùa chiền, nhà máy xay lúa, tàu bè, xe cộ nhưng rất thanh thản không ồn ào, phức tạp và nhộn nhịp làm cho lòng người phải xáo trộn lo âu như đời sống ở thị thành. Mẹ cười nói với tôi: "Hồi nhỏ xíu con thấy ngoài đường lộ có nhiều xe chạy lên chạy xuống, con cứ đòi đi hoài. Mẹ cũng thường cho con đi xe lôi từ chợ Mỹ Lương xuống chợ Đình ăn quà rồi về, vậy mà con mừng lắm đó."
Trước mặt chợ Đình là ngã tẽ sông Tiền qua sông Hậu gọi là Vàm Nao, bên kia bờ sông là chợ Thuận Giang.
Khi nào xe chạy về nhà phải chạy ngang qua nhà Đức Ông, nếu chạy luôn thì đến chợ Mỹ Lương hay còn gọi là chợ Đường Tắt, Phú An, Phú Lâm, Long Sơn, Tân Châu. Xe lôi qua lại nhà Đức Ông, mọi người đều xuống xe, dở nón xuống rất kính cẩn vì nơi đây là nhà của thân sinh của Đức Thầy. Trước nhà Đức Ông cách con đường lộ là cầu mát nơi tàu bè của các phái đoàn chánh phủ ghé viếng Tổ Đình. Từ đường lộ xuống nhà mát có trồng một hàng dừa. Sau này nhà mát bằng gỗ được xây lại rất lớn bằng xi măng. Nhưng tôi vẫn thích cái nhà mát cũ kỹ nhỏ bé ngày xưa. Từ đường lộ vào nhà Đức Ông là vườn cây ăn trái có trồng đủ loại bông để cúng và nhiều chậu kiểng.
Trước Tổ Đình có bàn thông thiên, rồi đến nhà khách lợp lá. Kế đến là nhà lợp ngói, phía trước có thờ Phật và ông bà bên nội bên ngoại, phía sau để ở. Bên trái có một dãy nhà dành cho khách ở lại ngủ và ăn cơm, phía sau có nhà bếp và vườn cây ăn trái rất mát mẻ.
Đức ông ở gần người chị thứ tám, nhà phía bên phải, còn bên trái là nhà ông Út, em trai của Đức Ông.
Mẹ nói ở trong làng buổi sáng có nhóm chợ, kẻ mua người bán rộn rịp. Tàu bè chạy đưa khách qua lại trên sông. Trẻ con đi học, người lớn đi làm. Nhà thương và các cơ sở đều làm việc. Buổi chiều không khí trở lại yên lặng. Sau khi ăn cơm xong mọi người bắt đầu nghe đọc giảng.
Làng Hòa Hảo có ba độc giảng đường, nơi tín đồ họp lại để nghe đọc giảng, kinh sách. Phía sau nhà lồng chợ Mỹ Lương một cái, ở ngã ba Tấn Lễ một cái và một cái nữa ở ngã ba Lộ Sứ. Gần chợ Đình có một cái chùa lớn cất từ xưa, thờ Phật rất kỹ lưỡng và trang nghiêm. Tên chùa là An Hòa Tự. Ngày rằm và mồng một kẻ ra người vào lễ Phật tấp nập.
Cũng như các nơi khác, chợ Đình có một bến đò đưa khách qua sông đi buôn bán ở chợ Thuận Giang và chợ Mỹ Hội Đông (Xẻo Bún), ngang cua Nàng Ét của làng, hoặc đi về Chợ Mới ở bên làng Kiến An, Ông Chưởng.
Nếu muốn qua Năng Gù thì khởi điểm từ chợ Đình đi tàu bọc vòng theo cồn Ông Chủ Bó đến bến đò Thị Đam. Ngang sông lớn có chiếc bắc chở cả xe hơi từ Thị Đam đi qua Năng Gù. Bắc này thường được dòng cặp bằng ghe máy lớn. Từ bến bắc Năng Gù khách có thể đón xe đò đi Long Xuyên, Châu Đốc rồi lên Sàigòn rất thuận tiện.
Nếu từ Sàigòn về Hòa Hảo thì đi xe đò khỏi Long Xuyên về đến bắc Năng Gù. Xuống bắc trở qua bến đò Thị Đam, đi xe lôi vòng theo đường Hưng Nhơn về chợ Mỹ Lương rồi quẹo mặt là đến Tổ Đình, nhà Đức Ông. Nếu không muốn đi đường bộ thì mỗi ngày đều có tàu hay tắc rán đi từ làng Hòa Hảo qua Long Xuyên hoặc trở về.
Bây giờ tôi cầm bút ghi lại những kỷ niệm về ba mẹ, mới thấy tôi biết về thuở nhỏ của ba rất ít. Tôi hối tiếc vì đã không hỏi ba, vả lại tôi cũng không ngờ ba mất sớm. Tôi nhớ một chút ít là lúc nhỏ đi học ngoài Bắc ba cũng làm báo trong lớp bị thầy bắt được nên bị phạt. Ba mặc áo dài đen đi học và móc cây dù trên vai. Mỗi lần ba đánh lộn, ba cột hai vạt áo qua hai bên hông.
Bà nội tôi mất sau ông nội. Khi được tin bà nội mất ba tôi buồn lịm đi mấy tuần lễ không nói chuyện. Mỗi ngày ba lạy bàn thờ bà nội một trăm lạy. Ba nói ba phải lạy đủ mười ngàn lạy để chịu tội bất hiếu không săn sóc ông bà. Thỉnh thoảng, ba hay biểu mẹ mua tép khô nhỏ hay mua thịt bằm ram thật mặn để ba ăn vì món đó bà nội hay làm cho ba ăn đi học lúc còn nhỏ.
Ba vào Nam lúc còn thanh niên. Ba theo làm việc với dượng hai Kinh Lý Nguyễn Ngọc Tố, là một cao đồ của Đức Thầy và là chức sắc lớn trong Giáo Hội Phật Giáo Hòa Hảo Trung Ương. Mỗi lần ba đi Sàigòn về làng Hòa Hảo ba hay mua quà cho tôi và chị Loan Giao. Tôi thích nhất là búp bê nhắm mắt mở mắt.
Lúc tôi được khoảng bốn tuổi mẹ bị đau ruột dư đến thời kỳ thứ ba. Ba đưa mẹ lên Sàigòn mổ và gởi tôi ở chơi với hai chị vú tại nhà dượng ba Lê Hoài Nam, một cao đồ của Đức Thầy. Dượng thuộc chi đội Ba Mươi Nguyễn Trung Trực. Trước kia dượng Ba ở Sàigòn, dượng theo Đức Thầy nên về làng Hòa Hảo cất một nhà máy xay lúa ở chợ Mỹ Lương, nơi có con rạch rẽ vào Hưng Nhơn. Sau này dượng Ba hiến nhà máy cho Giáo Hội. Dượng bị mất tích trên đường về Hòa Hảo họp, về sau mới biết dượng bị dìm chết dưới lòng sông Nhà Bè.
Nhà dượng Ba ở cạnh nhà máy và ngang một cái miếu. Trong làng ai cũng sợ oai Đức Ông, lúc đó mấy đứa trẻ nhỏ như tôi gọi là Ông Cố. Nếu có ai làm lỗi thì bị quỳ hương tại miếu này. Nếu lỗi nặng sẽ bị quỳ nhiều cây hương rất đau đầu gối. Đến bây giờ các tín đồ đã từng ở làng Hòa Hảo đều nhắc kỷ niệm bằng cách dọa quỳ hương mỗi khi có ai làm lỗi.
Từ lúc tản cư về làng Hòa Hảo, mẹ tôi làm thư ký lo về sổ sách cho nhà máy. Khi mẹ nằm nhà thương Đồn Đất Sàigòn, tối nào tôi cũng khóc vì nhớ mẹ. Một đêm tôi nghe tiếng dượng Ba ra lệnh: "Mở cửa cho con bé ra sân sau rồi đóng cửa lại". Ở ngoài trời tối, tiếng côn trùng kêu làm tôi nín khóc ngay. Đến bây giờ nhớ lại lần bị phạt ấy, tôi vẫn còn ớn xương sống.
Dì Ba rất đẹp, người mảnh khảnh. Dì có cho tôi một túi vải nâu, loại túi vải nhỏ để bạc cắt rồi vắt ở lưng quần. Mỗi lần dì dượng cho tôi tiền xu, tôi bỏ vào túi và rút giây lại cho khỏi rớt mất. Dì Ba có cô con gái đẹp có tiếng trong vùng là chị hai Sáng. Chị Sáng mắt bồ câu, chị hay mặc áo xẩm để lộ hai cánh tay no tròn trắng nõn. Các cậu trong làng mê chị rất đông. Mỗi lần có người liệng thơ vào hàng rào hay sai trẻ nít đưa thơ là các chị xúm nhau đọc rồi cười. Có một lần chị hai Sáng đi chợ về, sau khi lấy rau thịt ra thì có thêm một củ ngải của cậu trai nào liệng vào giỏ để mê hoặc chị. Nhưng chị không có thương ai cả.
Có những lúc khác ba mẹ và tôi đến thăm dượng Hai ở Hưng Nhơn. Tôi thích chơi với chị Loan Giao hay Dung, Thảo con của "Ba Hồng" em nuôi của mẹ, là chồng của chị Hồi Văn, con của dì hai Hòa Yên, chị ruột của mẹ. Bà con tản cư từ ngoài Bắc vào ở đây rất đông, đến mấy chục người. Nào là gia đình bác Lưu Hùng, bác luật sư Hà. Con nít nhỏ bằng tôi cả chục đứa, đứa nào cũng cắt tóc bum bê nói tiếng Bắc rất khó nghe. Suốt ngày chúng tôi đi hái nhãn lồng hay loanh quanh dưới mấy tàng cây trứng cá. Khi thì đánh đủa, búng hột me, nhảy cò cò, chạy đua. Có lần tôi chạy đua mau quá, chị Giao đưa chân ra cản lại làm tôi té bể môi, trầy đầu gối. Tôi khóc quá và mét mẹ. Chị Giao khóc hu hu nói:"Tại nó chạy mau quá, con không biết làm sao cho nó ngừng, con lấy chân cản nó lại."

* *
Những kỷ niệm mộc mạc ở làng Hòa Hảo ăn sâu vào tâm hồn tôi, tưởng như không thể nào phai lạt được.
Hè năm 1988, ba mẹ tôi mua một căn nhà ở gần khu Sàigòn Nhỏ (Little Saigon) để dưỡng già. Ba mẹ dự định ở đó để đi bách bộ ra đường Bolsa ăn sáng, mẹ đi chợ, mua thuốc tây, thuốc bắc cho gần. Con cháu cuối tuần đi khu Việt Nam ăn nhà hàng hay đi chợ, rồi tiện ghé thăm ba má luôn, khỏi phải đi xa như lúc ba mẹ ở Los Alamitos.
Một hôm ba cười ngoắc tôi ra phòng khách. Ba kéo màn cửa sổ để lộ ra hai lồng chim máng hai bên cửa sổ. Mỗi lồng chim có một con. Ba kéo sợi dây của mỗi lồng chim. Tiếng chim trống và chim mái kêu lên thánh thót, ríu rít. Ba liếc mẹ, cười âu yếm bảo: "Mẹ con mua đó".
Ba mất đã gần hai năm rồi. Mỗi lần ghé Bolsa thăm mẹ, tôi thường hay nhìn hai chiếc lồng chim im lìm trên cửa sổ.
Tôi ngồi nơi phòng khách im lặng, với một cảm giác mất mát tưởng không bao giờ vơi.

California, 14-6-1991

Phượng Các
#12 Posted : Thursday, March 31, 2005 10:35:30 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
NHỮNG NGÀY THƠ ẤU

Chỉ mới ba tuổi đầu, con bé đã biết mỗi buổi sáng lúc bình minh ló dạng ra lan can nhìn giòng sông gợn sóng lấp lánh dưới ánh mặt trời. Hình ảnh dòng sông Cửu Long vào lúc ban mai chói rạng dưới bầu trời xanh của quê hương mến yêu hình như chưa bao giờ bị lãng quên sau mấy mươi năm qua. Con bé lớn lên trong khói lửa quê hương theo chân cha mẹ dời đổi nhiều nơi trên mảnh đất Việt Nam, đã một lần phải tha phương cầu thực tại xứ chùa Tháp vì chính sách đàn áp tôn giáo, nay lại phải một lần nữa rời quê hương thân yêu vì sự xâm chiếm của cộng sản. Qua bao lần vật đổi sao dời, tình yêu quê hương vẫn dạt dào mãnh liệt, vẫn là niềm xúc động triền miên trong dòng máu Việt Nam, trong từng làn da sớ thịt của cô bé ngày nào hay đứng ngắm giòng sông bên lan can căn nhà tại ngôi làng Hòa Hảo?

Con bé nhớ hình ảnh thuyền con của các ông câu chuẩn bị về nhà sau một đêm câu cá lưới tôm. Hình ảnh các xuồng, ghe chở bầu, bí, rau về hướng chợ Đường Tắc cho kịp buổi chợ. Những khuôn mặt bình thản, vui cười vẫy tay với bé, những khuôn mặt rạm nắng, mạnh khỏe với những nét vô tư của người dân quê. Họ có biết họ đang sống những giây phút êm đềm nhất trên mãnh đất quê hương chăng?

Có lẽ vì căn nhà của bé cất dựa sát mé sông nên bé sống nhiều với giòng sông chăng? Bé còn nhớ buổi chiều ba thường hay ra lan can đàn mandolin hay thổi sáo hoặc ngâm thơ. Ba thường hay đàn bài "Dừng Bước Giang Hồ" rồi nhịp lên sàn nhà rầm rầm. Ba đặt tên bé là Hoàng Cầm, còn mẹ thấy bé lúc đó mặt mày trắng trẻo mắt to mẹ sợ khó nuôi nên đặt tên Miên cho bé là Chăng-Cà-Mum-Đuôi-Then (là đen thui). Mẹ nói như vậy cho dễ nuôi. Lúc nhỏ, mẹ đã may cho bé một chiếc áo tràng màu nâu để sáng, chiều theo mẹ cúng lạy. Mỗi lần bé ra trước bàn thông thiên cúng lạy sau khi đã lạy Phật và ông bà trong nhà, bé hay nháy mắt với các bạn đến chơi ra chiều rất nghiêm trang. Ý bé nói là hãy đi chỗ khác chơi lúc bé đang lạy Phật. Sau khi cúng lạy xong, bé ngồi xếp bằng với mẹ ở lan can trước nhà để niệm Phật.

Nhà của bé cách Tổ Đình chừng hai phút đi bộ. Tổ Đình là căn nhà của Đức Ông Đức Bà Huỳnh Công Bộ, thân sinh của Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ mà bé và những người còn nhỏ đều gọi là Sư Ông. Bé còn nhớ tất cả những người đi xe lôi, xe đạp mỗi lần đi qua Tổ Đình đều bước xuống dắt xe, giỡ nón cúi đầu chào để bày tỏ sự cung kính. Suốt những năm thơ ấu sống tại ngôi làng này, bé không thấy ai quên cả.

Bé thường hay theo mẹ qua thăm Đức Ông Đức Bà mà cũng như các trẻ em khác, bé gọi là Ông Cố, Bà Cố. Tổ Đình rất rộng nhất là vườn trước vườn sau. Bà Cố thường hay ngồi ngoáy trầu trên sạp gỗ, còn Ông Cố thường hay ngồi cạnh bàn để uống trà. Gần đó, bên hông nhà có nhiều bàn được xếp dài để làm nhà ăn. Nhà bếp lúc nào cũng sẵn sàng thức ăn chay sáng chiều cho khách thập phương, hay đồng đạo đến viếng Tổ Đình.

Khách thập phương đến Tổ Đình phần nhiều đều dùng thủy lộ vì làng Hòa Hảo nằm tại giao điểm giữa sông Hậu Giang và Tiền Giang, gọi là Vàm Nao. Tại ngõ tẽ này có một ngôi chùa Phật còn gọi là An Hòa Cổ Tự và chợ Đình. Từ chợ Đình có một con đường dọc theo mé sông Tiền Giang đi ngang qua Tổ Đình, qua nhà của bé kéo dài đến chợ Đường Tắc, qua miễu Bà rồi lên chợ Vàm, chợ Tân Châu. Bé còn nhớ lúc bấy giờ không có nhà ai khóa cửa hết, mỗi lần đồng đạo đến viếng nhau thì việc trước nhất là đến bàn thờ thấp nhang lạy Phật, xá chân dung Đức Thầy rồi mới trò chuyện. Khi bé ra đời, Sư Ông đã xa vắng. Tuy chưa gặp Sư Ông, nhưng bé và các người cùng lứa tuổi rất thương và kính trọng Sư Ông. Ai làm bé buồn bé hay đến trước ảnh Sư Ông để mét. Bé thương kính Sư Ông qua cách hành xử dạy dỗ của những người lớn quanh bé. Tất cả đều đối xử với nhau trong tình đồng đạo, thương yêu kính nể và giúp đỡ nhau tận tình. Bé hay nghe mẹ hay các anh chị họ kể chuyện Sư Ông, hay đọc giảng Sư Ông cho bé nghe.

Thỉnh thoảng ba mẹ phải đi công tác giáo sự xa nên bé có dịp sống với bà con hoặc các đồng đạo. Ở đâu bé cũng được mọi người thương. Nhưng đôi khi bé bị ghét vì có tánh nhỏng nhẻo, khóc dai mỗi khi nhớ mẹ. Bé sợ nhất là dì Tư Bự, ở cạnh nhà, dì hay cầm cây củi thật to dùng để nhóm lửa, khỏ cộp cộp đòi đánh bé mỗi lúc bé khóc hoài không chịu nín.

Bé rất nhát và sợ đau nên lúc lên năm tuổi vẫn chưa chịu xỏ lỗ tai. Có dạo bé ở chơi nhà dì dượng Lê Hoài Nam, một hôm có gánh hát xiệc sơn đông đến biểu diễn ở chợ Đình. Mấy chị chỉ lo làm bếp chẳng ai dắt bé đi xem cả. Tiếng trống sơn đông dồn dập làm cho bé quýnh nôn cả lên, năn nỉ các chị dẫn đi xem. Các chị ra điều kiện nếu chịu xỏ lỗ tai thì sẽ được xem. Bé thèm xem sơn đông mãi võ quá nên bằng lòng. Mấy chị lấy viết chấm rồi thoa dầu khuynh diệp lên lỗ tai, xong lấy kim chỉ xỏ vào hai tai bé. Bé ham xem sơn đông quên cả đau. Bây giờ mỗi lần nhớ lại tiếng trống sơn đông, tiếng rao thuốc tán, thuốc tể, rồi hình ảnh múa võ, để gạch lên ngực lấy búa đập bể tan, trong lòng bé vẫn còn nôn nao, thích thú.

Có lúc bé được ở Hưng Nhơn, nhà dượng hai Họa Đồ. Nhà dượng hai xây bằng đất trộn rơm rồi phết vôi trắng, rất rộng. Nhà lúc nào cũng đông vì bà con di cư từ miền Bắc vào đều ở đó. Dượng Hai nuôi tất cả họ hàng con cháu hai bên đến mấy chục người. Bé thường hay lẩn quẩn với các trẻ nít khác dưới chân mấy cây trứng cá để hái trái.

Dù nhát, bé cũng rất khoái tắm sông, bắt ốc gạo. Buổi trưa, bé nhờ các anh chặt một cây chuối để tập lội bì bõm ở con sông nhỏ sau nhà. Cách Hưng Nhơn khoảng mười cây số là Hiệp Xương. Người dân sống tại đây lúc nào cũng đủ ăn vì có nhiều lúa sạ, cá tôm. Vào mùa nước, người ta có thể nhìn thấy cá lóc mẹ lội trước, phía sau có cả đàn lòng ròng (cá lóc con) hàng trăm con lội theo. Ngoài ra, còn có ốc bưu, chim trích và chim bánh ích. Mỗi khi có ai bơi xuồng đến nơi có chim bay lên thì lấy được ổ chim có rất nhiều trứng. Đó là chưa kể đến kinh Thần Nông mang tôm, cá sặc, cá chốt, cá he, cá trê, về rất nhiều vào mùa nước từ Biển Hồ bên Nam Vang. Vào mùa này, dân làng đi lưới bắt tôm cá ăn không xuể. Cá tôm khi theo kinh Thần Nông về đẻ thêm rất nhiều trứng, đến mùa nước xuống thì tôm cá bị kẹt lại ruộng đồng, các đìa, kinh hay mương nhỏ. Thật là một nguồn cung cấp thiên nhiên cho đời sống người dân tại đây.

Mặc dù người dân tại Hiệp Xương phải sống trên ghe hay nhà sàn vào mùa nước, nhưng nước lớn cũng không ảnh hưởng đến lúa gạo, nguồn cung cấp chính của người dân, vì tại đây, cũng như các tỉnh Châu Đốc, Long Xuyên hay Sa Đéc, Kiến Phong, người dân sống nhờ lúa sạ. Lúa sạ chịu đựng được mùa nước vì nước cao đến đâu thì lúa cao lên đến đó. Việc trồng lúa sạ lại dễ hơn lúa thường, người nông dân chỉ cần cầy đất, phơi đất cho khô, sau đó bừa đất cho bể ra rồi sạ lúa (gieo lúa) vào trước mùa mưa. Khi mưa xuống, lúa mọc lên vừa kịp mùa nước. Trồng lúa sạ tại đây có hai điều lợi là không phải bỏ phân vì được bổ dưỡng bởi phù sa, nhờ mùa nước và không phải làm cỏ vì mực nước lên đến đâu lúa cao lên đến đó. Trồng lúa này khỏi phải gieo mạ, cấy mạ hay bón phân như các loại lúa khác. Người dân chỉ cần chờ lúa chín rồi gặt về.

Từ nhỏ đến lớn bé thường nghe người lớn nói đến thời Nghiêu Thuấn, bé có cảm nghĩ mình cũng đã từng sống một thời tuổi thơ hòa bình an lạc, tương tợ như thời Nghiêu Thuấn vậy. Bé bây giờ thỉnh thoảng đã bắt đầu tự nhổ cho mình một vài sợi tóc trắng. Tóc trắng càng nhiều, tình yêu quê hương lại thêm đậm đà rộn rã theo nhịp đập của con tim . Bé đau lòng khi nghe các đồng đạo vượt biên đến sau nói về ngôi làng Hòa Hảo của bé. Ngày xưa, người dân tại đây sống nhờ vào thiên nhiên nên được tự do tu hành, sống cuộc đời thanh đạm, an lạc. Nay ngoài vấn đề phải gia tăng năng xuất, còn phải lệ thuộc vào sự kềm kẹp của nhà cầm quyền cộng sản về mặt tín ngưỡng cũng như đời sống.

Bé được biết sau khi "giải phóng", cộng sản đã làm đê bao quanh khu vực Thánh Địa Hòa Hảo để dẫn thủy và thoát thủy, chận nước vào mùa nước và bơm nước vào mùa khô để làm hai mùa lúa: vụ Đông và vụ Xuân. Phương thức này nếu muốn thành công thì phải có ba điều kiện: phân bón, thuốc sát trùng và nước, mà muốn có nước phải có máy bơm và dầu nhớt. Ba điều kiện trên phải lệ thuộc vào sự phân phối của chánh quyền, và đều khan hiếm tại Việt Nam. Với việc làm "trái mùa" của cộng sản tại vùng đất Hòa Hảo đã làm thay đổi mọi sanh hoạt của người dân tại đây. Chẳng những đã thiếu lúa gạo, người dân còn mất cả cá tôm, nguồn thực phẩm thiên nhiên phong phú của trời ban cho, cộng thêm việc tín ngưỡng, lễ lạc lại bị kềm chế. Thật khác hẳn, ngày xưa mỗi lần Đại Lễ 18-5 dưới sông thủy lục, trên bờ thì dâng cộ, cờ xí rợp trời, pháo bông rực rỡ. Tất cả 11 tỉnh miền Tây đâu đâu cũng vang lên tiếng đọc Sám Giảng, truyền rao giáo lý của Đức Thầy dạy người dân tu hành, sửa đổi để sống trong tình thương đại đồng.

Ngày nay người dân tại làng Hòa Hảo đang sống trong kềm kẹp, thiếu ăn, thiếu mặc, nhiều tín đồ trung kiên với Đạo với Thầy đã bị giết hay bị tù đày. Tổ Đình nay vắng vẻ đìu hiu. Không phải chỉ dân tại làng Hòa Hảo đang sống trong cơ cực, đau khổ mà dân miền Nam, miền Trung và nhất là miền Bắc đang rên xiết dưới một chánh sách đi ngược lại lòng dân. Lòng dân hay lòng người là lòng Trời, chế độ nào đi ngược lại lòng dân chắc chắn sẽ không thể tồn tại được. Đức Huỳnh Giáo Chủ đã từng nói rằng:
"Lòng dân chớ khá xem khinh
Bạo tàn giết mất nhân tình, thì thua."

28-6-1988.

Phượng Các
#13 Posted : Thursday, March 31, 2005 10:36:25 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
NHỚ QUÊ HƯƠNG

Có những lúc nằm thiu thiu ngủ với cảm giác trôi bềnh bồng trên mặt sông, tâm hồn tôi thật nhẹ nhàng êm ái. Đó là khi tôi hồi tưởng thời còn bé bỏng theo mẹ đi Long Xuyên thăm bà Mười. Bà Mười là em út của ông Ngoại tôi. Bà có đôi mắt to, nghiêm khắc khiến tôi sợ sệt, e dè mỗi khi khoanh tay thưa bà.

Bà Mười của tôi có chiếc mũi cao, dọc dừa. Miệng bà rộng. Mỗi khi bà cười để lộ hàm răng đều đặn với một chiếc có viền vàng chung quanh ở cạnh khóe môi. Tóc bà Mười chảy thẳng ra sau và cuộn tròn lại như con ốc. Bà giữ nếp tóc bằng cái lược đồi mồi nhỏ bé xinh xinh. Dáng bà Mười tầm thước, bà nghiêm nghị, đoan trang.

Lúc đó thời cuộc lộn xộn nên bà Mười rời làng, tản cư ở trên ghe, rày đây mai đó. Bà ở trên chiếc ghe tam bản lớn, rộng rãi, ngăn nắp. Phía trước, phía sau đều có che thêm hai mái tôn. Mỗi khi đến thăm bà Mười, chúng tôi đi xuống chiếc cầu nhỏ rồi bước xuống thuyền của bà. Tôi hay nắm chặt tay mẹ. Tay kia mẹ vịn chiếc sào cắm trước mũi ghe. Mẹ luôn luôn thận trọng vì sợ tôi rớt xuống sông. Lúc đó tôi chỉ độ năm, sáu tuổi. Chúng tôi để guốc dép ở mũi ghe rồi mới chui vào mui ghe. Bà Mười ngồi xếp bằng nói chuyện với chúng tôi. Mỗi khi trời nóng, bà phe phẩy cây quạt. Lúc mệt bà kéo gối nằm. Có khi mẹ tôi cũng nằm để trò chuyện với bà.

Ghe của bà Mười lúc nào cũng ngăn nắp, sạch sẽ. Từ vách cho đến sàn ghe, chỗ nào cũng đánh vẹc-ni láng bóng. Trước mũi ghe có che thêm một tấm tôn lớn để làm nơi tiếp khách. Ngồi nơi đây gió thổi mát mẻ, vừa nói chuyện uống nước, vừa nhìn cảnh vật chung quanh, ghe thuyền qua lại, rất thích thú. Khoảng giữa ghe có mui để ở, tất cả đồ đạc đều để tại đây. Ban đêm bà Mười khóa của trước và sau lại rồi mới ngủ. Phía sau ghe cũng có che miếng tôn để nấu nướng, ngồi ăn cơm. Gần đuôi ghe bà Mười có giăng dây phơi quần áo, dựa bánh lái có một cái nhà tắm. Bên hông nhà bếp có một sàn nước đóng thấp xuống gần mực nước, để giặt quần áo, rửa chén hay làm cá, rửa rau, vo gạo, v.v...
Một hôm mẹ đang nói chuyện với bà Mười, chị bếp đang nấu ăn, tôi được dịp vọc nước với mấy cái bong bóng. Tôi ngồi trên sàn nước để cho nước sông vào mấy cái bong bóng, rồi cột bong bóng lại mấy ngấn để làm búp bê.

Không hiểu vì mê chơi hay tay tôi quá bé bỏng ngắn ngủn hoặc cúi xuống hơi quá đà, tôi rớt luôn xuống sông nghe một cái "ùm". Chị bếp chạy lại nắm áo tôi lên. Tôi khóc òa vì uống nhiều nước sông vừa sặc sụa, mình mẩy ướt như chuột lột. Mẹ vừa sợ vừa giận nên rầy tôi rất nhiều. Vì tôi nhỏ quá không có quần áo thay, mẹ phải phơi quần áo tôi trên sào. Còn tôi thì quấn khăn ngồi trong ghe cho đến lúc quần áo khô mới được mẹ dắt về. Những lần khác qua Long Xuyên chơi, tôi được chị vú dắt đi xem cải lương gánh Phụng Hảo. Chị vú tôi chỉ mười mấy tuổi, chị ấy rất mê cải lương. Còn tôi thì hay đòi về vì rất sợ bà Phàn Lê Huê. Tôi nhớ bà mặc áo cẩm bào, trên mão có hai cái lông trĩ, như hai cây roi dài. Bà hay kéo hai cây roi đó xuống mỗi khi ra oai, trợn mắt. Trên lưng bà gắn nhiều cờ đủ màu sắc. Bà múa gươm vù vù rất mạnh mẽ. Tôi sợ nhất lúc pháo nổ bà mở nắp hòm sống dậy là tôi nhắm mắt nhất định đòi về. Chị vú em giận tôi hết sức, hăm dọa nếu tôi đòi về chị sẽ không cho tôi đi xem nữa. Có lần khác tôi đi xem gánh Việt Hùng Minh Chí. Tôi nhớ là tuồng cao bồi có đu dây trong rạp hát và bắn súng. Tôi cũng rất sợ vì tiếng súng nổ và mùi pháo khét nghẹt.
Bà Mười ở góa nên sống với cậu Thuận. Cậu Thuận chỉ đi chơi với bạn trai nên ít để ý đến tôi; tôi nghe nói cậu học giỏi nhứt lớp. Thỉnh thoảng cậu cho tôi mấy cục kẹo hay năm cắc bạc.

Tôi cũng có vài kỷ niệm khác, được chơi trên ghe như lúc ở làng Hòa Hảo. Tôi hay xuống ghe ông bà Đốc để câu cá. Ông bà Đốc tản cư về làng, đậu ghe dưới bến nơi nhà bà Tư Cần Đước. Tôi có một cần câu nhỏ để câu cá lòng tong. Nhiều khi tôi chỉ ngồi trên ghe chơi nhìn cá lội. Tôi thích nhứt những buổi trưa hè ở trên ghe gió thổi nhè nhẹ rất khoan khoái. Thỉnh thoảng ghe chòng chành khi có tàu lớn chạy qua tạo thành những luồng sóng mạnh đập vào hông ghe. Thuở ấy, mẹ thường hay dắt tôi đi thăm bà con hay bạn bè. Người nào cũng tản cư ở ghe để dời đi rày đây mai đó cho dễ dàng, nhanh chóng lúc có biến loạn.

Có một lần cậu Sơ dắt đường cho mẹ và tôi qua Hiệp Xương thăm dì dượng ba Lê Hoài Nam. Từ Hưng Nhơn ở Hòa Hảo chúng tôi phải băng qua cánh đồng thật xa mới đến Hiệp Xương. Tôi mỏi chân quá đi không nổi, cậu Sơ phải cõng tôi. Trời nắng mọi người đều ra mồ hôi nhỏ giọt. Mẹ mới nói: "Thôi bây giờ mẹ mướn xe bò đi tắt đường đồng cho mau."
Thế là tôi được đi xe bò. Bánh xe bò bằng cây mà lại đi trên đất cày nên rất giằn. Mẹ và tôi ngồi lắc qua lắc lại. Cậu Sơ và ông chủ xe bò đi quen nên họ ngồi tỉnh bơ. Xe bò đi cà rịt cà tang mãi đến chiều mới tới Hiệp Xương. Bà bếp của dì dượng tôi bắt ốc, làm sạch sẽ, ướp ngũ vị hương, xỏ xâu nướng rồi kho với mắm. Mắm ăn với bông súng, rau dừa, rau muống, rau thơm, trộn với dừa khô nạo. Bữa cơm đó mẹ, cậu Sơ và tôi ăn thật ngon. Vừa đói bụng, vừa lạ miệng, ốc nướng thơm ơi là thơm. Mọi người ăn hoài không muốn nghỉ. Ăn cơm xong thì mặt trời cũng vừa lặn. Dượng tôi thắp đèn dầu lửa rồi cùng dì tôi và mẹ hàn huyên tâm sự.

Ghe cà-dom của dì dượng tôi, mũi dài, mui ngắn, nên dượng tôi lợp thêm phía trước bằng lá. Hai bên ghe có treo hai tấm rèm bằng tre, cũng lợp lá. Khi nào trời nóng, dượng tôi lấy cây chống lên cho gió thổi vào.

Tôi nằm thiu thiu ngủ bên cạnh mẹ, mẹ vừa nói chuyện vừa xoa lưng tôi. Xung quanh nơi đó cây cối rậm rạp. Vì ghe đậu ở rạch nên tiếng côn trùng, ếch nhái, ễnh ương kêu làm cho tôi sợ nên cứ rút dần lại nằm gần mẹ. Nhờ hơi mẹ sưởi ấm, tôi ngủ lúc nào không biết.

Cảm giác bình yên, êm đềm của những giấc ngủ trên mảnh đất quê hương vẫn còn in đậm và mãi mãi trong tôi?

15-9-1992.

Phượng Các
#14 Posted : Thursday, March 31, 2005 10:38:18 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
VỀ THÁNH ĐỊA DỰ LỄ

Tiếng động cơ của những ghe máy hòa lẫn với tiếng gọi nhau ơi ới, tiếng cười, tiếng chào hỏi, tiếng rao hàng mời khách, tạo thành một thứ âm thanh tuy hỗn độn, nhưng rất phong phú, tuy lạc nhịp nhưng lại rất rộn rã, tuy mộc mạc bình dân, nhưng lại rất dễ cảm dễ yêu... Đó là thứ âm thanh đặc biệt của bến bắc Miền Tây (Ôi, sao bây giờ tôi thèm nghe lại những âm thanh này như thế!)...

Tôi để mặc các em líu lo với những chùm mía ghim, những trái dừa tươi... đẩy ghế đứng dậy bước tới cạnh lan can bằng gỗ của căn quán nghèo dựng bên cạnh bờ sông. Vài cơn gió chiều nhẹ thổi làm tôi thấy khoan khoái như trút đi hết những mệt mỏi của một ngày đi đường, từ Saigon về Hòa Hảo.

Đang lơ đãng nhìn những chiếc ghe lớn nhỏ đậu san sát, dọc theo bờ sông Hậu, mắt tôi chợt dừng lại nơi chiếc ghe chài thật lớn. Trên mui ghe là khung cảnh đầm ấm của một gia đình chài lưới. Khoảng 14, 15 người, kẻ đứng người ngồi quây quần quanh mâm cơm chiều với một tô chao và một dĩa dưa leo, bữa cơm chay thật đơn giản nhưng mọi người ăn hết sức ngon lành. Kẻ gắp dưa chấm chao, người và cơm, kẻ chạy đi bới cơm. Nồi cơm thật lớn bốc khói chẳng mấy chốc đã vơi. Tôi chợt mỉm cười nghĩ đến những bữa cơm chay mà mình sẽ được dùng miễn phí tại các trại tiếp tế, gọi là trạm ăn, vào ngày mai, ngày Đại Lễ Kỷ Niệm 18 tháng 5, ngày Đức Thầy thành lập đạo Phật giáo Hòa Hảo.

Chiếc bắc từ bên kia bờ sông đang trở qua và sắp cặp bến. Mọi người xôn xao hẳn lên. Tôi dắt các em cùng ba má vội vã đi xuống bắc. Hôm nay đi bắc, không phải mua giấy. Tất cả ghe, tàu, bắc, các phương tiện chuyên chở công cộng trong vùng này đều miễn phí trong ba ngày 17, 18, 19 tháng 5. Đó là một sự biểu lộ lòng tha thiết của người tín đồ Phật giáo Hòa Hảo đối với ngày đại lễ của Đạo, mong sao mọi người đều quy tụ về Thánh Địa thật đông, vui.

Khác hơn những chiếc bắc lớn ở bắc Mỹ Thuận, Cần Thơ hay Vàm Cống, chiếc bắc tại Năng Gù này rất nhỏ. Đó là một loại phà có ghe máy cặp bên kéo đi. Trên bắc các em bé vẫn tới lui rao hàng. Tôi mua cho các em mấy gói đậu phọng luộc và vài cái chong chóng bằng giấy màu. Hôm nay bắc phải chạy rất chậm vì trên sông có nhiều tàu, ghe, tác rán, xuồng ba lá chở bắp, khoai, bầu, bí, dưa, mướp, cùng các loại thực phẩm để gom về tiếp tế cho các trạm ăn miễn phí đãi khách hành hương...

Bắc càng đến gần bên kia bờ Thánh Địa, bức ảnh lớn chơn dung Đức Thầy càng hiện rõ trước mắt mọi người, cùng với tiếng đọc giảng phát ra từ các ống loa độc giảng đường. Những lời thơ trầm ấm ngân nga vang lên làm cho tôi cảm xúc mạnh. Tôi thành kính khe khẽ đọc theo:

Khai ngọn đuốc từ bi chí thiện
Tìm con lành dắt lại Phật đường
Thương dân lành giáo đạo Nam phương
Đặng chỉ ngõ làm lành lánh dữ
Sách Thánh đạo ghi trong Tam Tự
Người mới sanh tánh thiện Trời dành
Bởi lớn lên tập nhiễm lợi danh
Nên tật xấu che mờ thiện tánh
Thiếu giáo dục thiếu thêm đức hạnh
Ta quyết lòng nhắc lại tánh xưa.
..........................................
Đó là những câu khởi đầu quyển GIÁC MÊ TÂM KỆ của Đức Thầy và cũng là bài học thuộc lòng đầu tiên mà ba má đã dạy khi tôi mới biết đọc biết viết. Những câu thơ thật giản dị trên là ánh đuốc soi đường cho tôi trên mấy chục năm nay. Dù ở hoàn cảnh hay không gian nào, tôi cũng nguyện cố gắng giữ Tánh Thiện mà Trời Phật đã ban cho lúc mới chào đời. Ngoài ra tôi cũng cố sửa đổi những thói hư tật xấu, cố gắng làm sao tròn bổn phận người tín đồ Phật giáo Hòa Hảo, đối với Tứ Ân, tức Ân Tổ Tiên Cha Mẹ, Ân Đất Nước, Ân Tam Bảo, Ân Đồng Bào Nhơn Loại...
Tiếng máy tầu nổ thật to rồi tắt hẳn. Hành khách theo nhau bước lên bờ. Đây là Thánh Địa. Các chú xe lôi mời gọi hành khách. Trời gần tối, gia đình chúng tôi lên một chiếc xe lôi có gắn máy Suzuki để chạy cho mau...

Cũng như các con đường ở Miền Tây hôm đó, con đường trải đá từ khu Hưng Nhơn ra đến Chợ Mỹ Lương nhà nào cũng treo cờ vàng ba sọc đỏ, và cờ đà PGHH. Vào giờ này tất cả các bàn thờ, bàn thông thiên đều đã lên đèn và thắp nhang. Tín đồ mặc áo tràng mầu đà cung kính làm lễ. Tôi im lặng trước sự trang nghiêm của cảnh vật và tôi nhớ lại năm nào...

Khi chiếc xe lôi chạy ngang căn nhà mái lá vách đất trộn rơm của Dượng Hai Họa Đồ, căn nhà mà mười mấy năm trước đã làm nơi tạm trú cho nhiều gia đình di cư từ Bắc vào Nam (1955), tôi lại nhớ đến anh Huyên, Ánh, Điệp con bác Lưu Hùng lúc đó còn bé tí, thường hay múa những điệu đồ mì sol mang từ chiến khu Miền Bắc vào. Chị Hằng, chị Nguyệt con bác luật sư Hà, thường hay thêu thùa may vá (Sau này, gia đình bác Hùng và bác Hà định cư ở Florida.) Thời kỳ đó chúng tôi cùng đi học trường tiểu học gần chợ Đường Tắt. Tôi thích nhai bắp rang từng hột bỏ trong túi, hay cơm vắt của bác Hùng gái làm, rồi khi khát nước thì ngừng ở bất cứ nhà nào cũng có cái lu nước mưa trước cửa, cứ tự nhiên múc uống ngon lành rồi đi tiếp tục...

Xe đang chạy mau, bỗng chậm hẳn lại và chú tài xế đưa tay lên đầu giỡ nón xuống, hành khách trên xe cũng đều làm như vậy, ai nấy đều hướng về phía Tổ Đình, cúi đầu kính cẩn... Tổ Đình là căn nhà nơi Đức Thầy ra đời và lập Đạo, lúc đó Đức Thầy đi vắng, Đức Bà thân sanh Đức Thầy còn sống, căn nhà vẫn lợp lá, mộc mạc như cũ, vì Đức Thầy đã ra lịnh không được phí tiền xây cất lớn lao...

Đêm đó chúng tôi ngủ tại nhà bà tư Cần Đước, một tín đồ gốc ở vùng Cần Đước, Long An. Gia đình bà rất giàu có, nhưng vì mộ đạo, nên bỏ hết ruộng vườn về làng Hòa Hảo cất nhà ở đó để tu. Bước vào nhà, công việc đầu tiên của mọi người là theo ba má đến thắp nhang lạy Phật, kính lễ ông bà và xá trước chân dung Đức Thầy.

Buổi tối Thánh Địa càng thêm rộn rịp, người ta đi suốt đêm ngoài đường. Tiếng đọc giảng vang lên từ các Độc giảng đường, tiếng con trẻ vui mừng gọi nhau đi xem lễ, xem cộ đèn và hoa đăng thoàn. Trên bờ, cộ đèn cũng gọi là hoa đăng xa, từ từ diễn hành, toàn dùng các loại bông thật như bông trang, bông cúc, bông huệ, bông chuối, bông cau, được trang điểm bằng ánh đèn điện khi chớp khi tắt. Mỗi xe tượng trưng cho ý nghĩa của một đề tài về Đạo, hay một đoạn nào trong mấy chục ngàn câu giảng của Đức thày... Có xe biểu tượng cảnh Cực lạc, có xe làm chân dung Đức Thầy bằng hàng gấm, có xe làm theo hình Đức Phật Thích Ca, tất cả đều biểu lộ một ý hướng mộ đạo, kính Thầy...

Khi đoàn cộ đèn đã đi qua, hướng về Tổ Đình, thì dưới sông đã bắt đầu sáng rực với những đoàn hoa đăng thoàn, cũng gọi là bè thủy lục. Các bè thủy lục từ các tỉnh và vùng lân cận đổ về, mỗi nơi mang một màu sắc đặc thù, có nhiều chiếc rất lớn. Các em tôi thích nhứt là thủy lục được thiết trí trên các phà, cũng gọi là chẹt, hay trảng, thường dùng để chở máy cày hay trâu bò, có ghe máy kèm bên để đẩy... Cũng có loại thủy lục, thiết trí trên những chiếc tàu máy cỡ trung, nên cao hẳn lên... Ánh đèn muôn màu từ các bè thủy lục phản chiếu xuống mặt sông lớn sóng vỗ lăn tăn tạo ra muôn ngàn mảnh sáng rung động, trên một bề dài khoảng ba cây số, thật là một cảnh tượng mà tôi chưa bao giờ được thấy ở nơi khác trên quê hương mình.

Trong lúc đó trên bờ hàng trăm ngàn người chen chúc nhau đi, hay tìm một chỗ để nhìn ra sông xem thủy lục, có người rớt luôn xuống nước... Giữa tiếng đọc kinh giảng vang lên từ các bè thủy lục, bỗng có những tiếng pháo thăng thiên nổ, tung từng cụm sáng ngũ sắc lên nền trời. Các em tôi, và chính tôi, ở cái tuổi còn thơ ngây lúc đó, thật là được xem cho thích mắt... trước khi ngủ để mai thức sớm đi hành lễ.

Khác hẳn với cảnh trí muôn màu sắc tưng bừng hôm qua, hôm nay Thánh địa thật trang nghiêm. Mọi người trở lại với bổn phận chính yếu là đi hành lễ. Từng đoàn người, đặc biệt các Ban Trị Sự từ các nơi khắp Miền Tây về đây, đồng phục khăn đóng áo dài đen, xếp hàng theo sau đại diện Tổ Đình, lúc đó là Ông Út và Cô Năm, Ban Trị Sự Trung Ương, quan khách, chánh quyền, ngoại giao đoàn... đang đi bộ tới địa điểm hành lễ ở An Hòa Tự, một ngôi chùa cổ đã có sẵn tại làng...

Khách hành hương có dịp xem các phòng triển lãm. Tôi chú ý nhứt đến khu triển lãm tranh của họa sĩ Hà Khê đã đem từ Ấn Độ về, qua một chuyến đi tìm đề tài theo các dấu chân của Đức Thích Ca, từ nơi Ngài đản sanh, nơi Ngài mộ đạo, Ni Liên Thiền, nơi Ngài thành đạo, Bồ Đề Đạo Tràng, nơi thuyết pháp lần đầu, Vườn Lộc Uyển, Linh Thứu Sơn, nơi Ngài tịnh lần cuối cùng và nơi Ngài tịch diệt, với những cảnh sông Hằng, thành phố cổ Benarès... Họa sĩ Hà Khê đã tâm nguyện đi xứ Phật để vẽ lại các dấu tích của Phật đem về vừa làm phong phú nghệ thuật, vừa dùng tranh làm tài liệu trong các lớp đào tạo giảng viên truyền đạo, khi ông đảm nhận chức Phó trưởng ban Phổ Thông Giáo Lý Trung Ương... Những khóa giảng về cuộc đời Đức Thích Ca đã làm say mê nhiều người, và Họa sĩ Hà Khê cũng đã đem các tranh đó đến thuyết trình và triển lãm ở nhiều trường Đại Học (Tiếc thay, họa sĩ Hà Khê đã chết, sau khi cộng sản chiếm miền Nam). Tôi còn thích thú đến dự một lớp huấn luyện đạo cho các em thiếu nhi. Tôi chú ý nhứt đến phần thi đọc giảng. Giảng viên chỉ đọc một câu giảng nào đó, và hỏi các em có biết câu đó thuộc đoạn nào trong kinh giảng Đức Thầy, em nào nói trúng trước, thì được khen, nhưng phần sau quan trọng hơn, là phải giải thích ý nghĩa câu đó, nếu không hiểu thì giảng viên cắt nghĩa cho tất cả đều nghe. Hào hứng nhứt là thi đọc kế tiếp câu đó, em nào thuộc được nhiều câu sau đó thì được ban khen. Tôi lấy làm lạ có em khoảng 10, 12 tuổi mà dám đọc luôn một lần hàng chục câu, sau khi giảng viên khởi đọc một câu...

Sau khi hành lễ tại An Hòa Tự, chúng tôi về Tổ Đình. Tôi rất cảm động khi trở lại nơi mà tôi đã được sống khi còn thơ ấu, trước khi đi học. Ba má tôi thường lui tới đó, sau khi quy y làm tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo...
Cũng tại nơi đây Ba tôi thường đến làm công tác giáo sự, còn tôi thì được chơi vui dưới những hàng dừa rợp mát trong vườn... Tổ Đình vẫn y nguyên không thay đổi, hai hàng bàn dài tại nhà khách vẫn còn đó để đãi khách dùng cơm chay khi về hành lễ, những cây điệp hoa đỏ, những lu nước mưa trong vắt để ai cũng có thể uống khi đông người... Sau đó chúng tôi ra thăm phần mộ Đức Ông, ngay phía sau cánh đồng, chỗ nào cũng toàn là người chen chúc nhau hành hương...

Buổi trưa là lúc mà các em tôi thấp thỏm đợi chờ, vì được hứa dẫn đi ăn cơm khỏi trả tiền tại các trạm ăn. Có năm trạm ăn thật lớn tại vùng Thánh Địa, mỗi năm khoản đãi khoảng hai triệu bữa ăn trong ba ngày lễ, vì có khoảng từ 300 ngàn người về dự, ăn sáu bữa trong một ngày, cho nên bất cứ lúc nào, các nơi đây đều rộn rịp... Những đội tình nguyện phân công nhau nấu những chảo cơm vĩ đại, những nồi canh, nồi kho tưởng chừng cả mấy trăm người ăn cũng không hết... Nhưng vẫn không đủ vì thực khách đông quá... Ai cũng có quyền đến ăn, và ăn bất cứ lúc nào, ăn bao nhiêu cũng không giới hạn. Đặc biệt chỉ có ăn chay mà thôi. Nguồn tiếp tế các loại rau quả, gạo, củi cho dịch vụ này cũng khá quan trọng, đồng đạo ở khắp các tỉnh miền Tây đều ý thức như một thói quen cứ đến dịp này là tự động chở bầu, bí, rau cải, bắp, gạo, củi, nước tương, chao... về trao lại các ban quản trị trạm ăn... Chúng tôi ăn thật ngon lành vì đói bụng cũng có, mà vì lạ miệng, trong một khung cảnh rất đặc biệt vì nhìn ai cũng thấy ăn ngon lành mà mình bắt thèm... Tôi cứ ngồi nghĩ lẩn thẩn: làm sao mà có thể lo cho xuể, nếu không có một tinh thần tự nguyện cao độ?

Gia đình chúng tôi ở Thánh Địa cho đến ngày hôm sau mới ra về. Tôi rời làng Hòa hảo nhưng lòng vẫn còn quyến luyến, muốn ở lại thêm ít lâu, vì cô bác, bạn bè tôi ở đây nhiều quá... Đồng đạo của ba mẹ tôi ai cũng coi tôi là con cháu, thành ra bà con sao mà đông vô cùng, đúng là như lời Đức Thầy có nói: KHẮP BỐN BIỂN LIÊN GIÂY HÒA HẢO...

Hôm nay ngồi ở một nơi không phải quê hương mình, tôi cố ghi lại những hình ảnh sống động của một ngày Đại Lễ 18-5 cách đây đã gần 10 năm rồi. Trí nhớ như phai đi, không còn ghi lại được tất cả chi tiết mà mình trìu mến giữ lại, nhưng cảm nghĩ về quê hương, về Đức Thầy, về Nền Đạo, về Thánh Địa, về tất cả dĩ vãng, như có một sức sống trong tôi mà tôi tin rằng sẽ không bao giờ có thể phai nhạt được...

Lòng tôi se thắt khi tôi nghĩ đến đồng đạo của tôi đang phải sống đọa đày dưới một chế độ vô thần vô đạo. Bao nhiêu người đã bị tù, bao nhiêu người đã chết vì cương quyết một lòng trung kiên với Thầy với Đạo, với Tổ Quốc, không chịu khuất phục trước bạo lực...

Tôi cầu nguyện Ơn Trên cho ngọn bút yếu mềm của tôi có thêm năng lực để phục vụ Quê hương, Đạo pháp, cùng góp sức với đồng bào, đồng đạo phục vụ dân tộc Việt Nam, để lại được sống những ngày thanh bình hòa lạc, trên đất nước thân yêu...

17-4-1981

Phượng Các
#15 Posted : Thursday, March 31, 2005 10:39:17 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
MẸ LÀ QUÊ HƯƠNG

Trong đời tôi không có nỗi lo sợ nào cho bằng lo sợ mất mẹ. Tôi còn nhớ lúc 11, 12 tuổi, tôi phải sống xa ba mẹ vì lúc đó ba mẹ tôi phải sống lưu vong tại Cao Miên, còn tôi thì phải sống ở Việt Nam vì ba mẹ muốn tôi theo học trường Việt.
Mỗi đêm trước khi đi ngủ tôi thường hay nghĩ đến mẹ và hay tưởng tượng lúc mẹ mất. Nước mắt tôi tràn ra và tôi nhất quyết nếu mẹ chết tôi sẽ chết theo, tôi sẽ nhảy vào mồ để được chôn chung với mẹ. Bây giờ đã lớn tuổi rồi, tôi có hai đứa con trên mười tuổi. Tình thương mẹ vẫn rạt rào sâu đậm, và tôi thường tự hỏi nếu mẹ mất tôi phải làm sao, chắc là không chết theo được vì tôi cũng có con và thương yêu chúng như mẹ tôi thương tôi vậy. Mỗi khi nhìn tóc mẹ càng ngày càng bạc nhiều hơn, da mẹ nhăn hơn, tim tôi đau thắt, những giờ phút bên cạnh mẹ đối với tôi giờ đây quý giá vô cùng. Mấy mươi năm qua tôi đã đánh mất thì giờ quý giá bên cạnh mẹ quá nhiều. Tôi hay khắc khẩu với mẹ nên hay cãi mẹ lắm. Sở thích của tôi và mẹ khác nhau và đôi khi sự suy nghĩ cũng khác nhau. Ngày nay tôi chấp nhận hết những gì mẹ thích và những gì mẹ nghĩ.

Tôi nghĩ rằng nếu điều gì làm cho mẹ buồn, mẹ giận có thể khiến mẹ đau và như vậy mẹ sẽ giảm tuổi thọ.
Những giây phút gần bên mẹ đối với tôi hiện nay là những giây phút thiền quán. Tôi luôn luôn theo dõi tôi để biết rằng những lời nói, hành động, cử chỉ của tôi không làm buồn lòng mẹ để không còn có sự bào chữa rằng tôi đã vô tình làm cho mẹ buồn như nhiều năm qua nữa.

Mẹ là sự hiện diện của cả một quá khứ Việt Nam đau thương, của cả những kỷ niệm bình yên, đẹp đẽ của quê hương tôi. Mẹ và tôi cả hai thế hệ đều sống trong chiến tranh Việt Nam. Tôi không quên được những lũy tre già, buồng cau, vườn trầu, những buổi tối quanh quẩn dưới cây trứng cá. Những buổi sáng tôi nhìn ánh bình minh trên sông Tiền Giang, ánh nước lóng lánh, những chiếc ghe, xuồng ngược xuôi, những người dân quê mộc mạc trong chiếc áo đen tay vịn chiếc nón lá, miệng nở nụ cười hiền hòa. Tôi nhớ mãi những buổi trưa ôm thân cây chuối lội bì bõm dưới sông hay ngồi trên sạp tre, ăn bắp rang, nhìn con heo nái mập bự đang cho đàn heo con bú.

Chúng ta được sanh sản và lớn lên bởi bầu sữa mẹ Việt Nam. Chúng ta được nuôi dưỡng bởi những ngọn rau, những dòng sông ngọt ngào của đất nước Việt Nam. Sự hiện diện của ta nơi nào là đất nước Việt Nam ở nơi đó. Có ai thương yêu mẹ mà không thương quê hương của mình vì mẹ là mảnh đất đã mang lại sự hiện diện của ta trên mặt đất này. Nếu chúng ta quên cội, quên nguồn bỏ quê hương mình thì tiếc thay cho sự hy sinh, đau đớn, banh da xẻ thịt của mẹ để có ta.

Tôi biết một ngày nào đó mẹ tôi sẽ mất nhưng sự hiện diện của mẹ vẫn còn mãi mãi. Đó là sự hiện hữu của đất nước Việt Nam. Tôi sẽ noi gương mẹ để cho đất nước tôi mãi mãi được tồn tại, lớn mạnh bằng cách truyền đạt tình yêu thương của một người mẹ, của quê hương Việt Nam cho hai con tôi. Chúng sẽ không cảm nhận được tình yêu quê hương nếu chúng chưa cảm nhận được tình yêu của mẹ chúng. Chúng không rung động được khi nghe những bài hát, lời nói bằng tiếng Việt Nam nếu chúng không nói, không hiểu và không đọc được ngôn ngữ Việt Nam. Sự không nói, không nghe, không đọc được ngôn ngữ Việt Nam khiến cho chúng có mặc cảm và từ mặc cảm đó chúng tách rời cộng đồng Việt Nam.

Chúng ta, các thế hệ trưởng thành đã được nuôi dưỡng, sanh thành từ mảnh đất mẹ có bổn phận thiêng liêng vun bồi các mảnh đất mới, bé bỏng, lẻ loi để cho mảnh đất chúng ta càng ngày càng lớn mạnh. Biên giới chúng ta không còn vỏn vẹn hình chữ S mà biên giới của Việt Nam sẽ ở khắp hoàn cầu.

Mùa Vu Lan 1989.

Phượng Các
#16 Posted : Thursday, March 31, 2005 10:40:01 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
THƠ CHO BA

Mission Viejo, ngày 28-11-1991

Ba kính yêu,
Chưa viết được chữ nào mà nước mắt con đã ràn rụa tuôn rơi. Con nhớ ba quá vì ngày này năm rồi là ngày con, mẹ, Thu và chú Kỉnh đưa ba đi nhà thương. Hôm đó ba đã gầy yếu, cử chỉ bắt đầu chậm chạp, khuôn mặt của ba nghiêm nghị, buồn bã thâm trầm. Ba mệt và ít nói vì phải qua các thủ tục của nhà thương.

Con còn nhớ cách đó ít lâu, một buổi tối đang ngồi viết thì trong lòng con thấy bất an, bồn chồn, khó chịu như có lửa đốt vậy. Con bèn đứng dậy ra về. Chỉ năm phút sau thì có điện thoại cho hay là cả ngày ba đến văn phòng lo làm báo Đuốc Từ Bi. Khi lái xe về nhà ba vô nằm tại phòng khách, ba mệt, khó thở, như hụt hơi. Vợ chồng con cấp tốc chạy lại nhà ba mẹ. Khi đến nơi thì thấy ba đang khó khăn trả lời điện thoại, tiếng mất tiếng còn. Ba khẩn khoản nói với vị nào ở đầu giây bên kia: "Thưa cụ, tôi mệt lắm, không thể nào tiếp chuyện với cụ được. Xin cụ để cho dịp khác..." Và kể từ đó bệnh ba nặng dần và nặng dần.

Con vừa có ý định mua máy video để thu hình vì con thấy ba mẹ và má chồng con cũng như dì ba Lê Hoài Nam, chú Kỉnh đều trọng tuổi. Con muốn ghi lại kỷ niệm và hình ảnh cho các con cháu sau này xem để nhớ những người thân yêu. Nhưng máy chưa mua, con đã phải bỏ việc làm, bỏ gia đình để về sống với ba mẹ những ngày sóng gió đau khổ nhất trong gia đình mình. Những nỗi lo âu sóng gió hơn cả những lần phải xa quê hương lưu vong thời Đệ Nhất Cộng Hòa lên Nam Vang, bị lính kín Cao Miên làm khó theo dõi, những ngày mình chạy vào lúc mất nước, những lúc đau buồn lặng câm của ba mẹ khi phải sống xa quê hương lần thứ hai. Ba thường than thở: "Trước kia ở Nam Vang mình còn thấy được ngày về, còn bây giờ thì..." Rồi ba lặng thinh... Con còn nhớ bài thơ "Giấc Mơ Cố Hương" của ba khi mình rời trại Fort Chaffee, Arkansas để qua Minnesota sinh sống năm 1975. Ba hay ngâm:

Canh tàn rồi lại canh tàn
Nửa mê, nửa tỉnh theo hồn mộng du
Về đâu? Ơi hỡi! Về đâu?
Không là du mục, cũng Do Thái rồi.

Hoặc:
Giấc mơ chợt tỉnh, bàng hoàng
Bỗng dưng nước mắt dâng tràn nửa đêm
Xót xa thân phận đỗ quyên
Mái đầu đã bạc, truân chuyên vẫn nhiều.

Qua bao sóng gió gian truân của cuộc đời mà con đã trải qua với ba mẹ và sau bao lần gia đình mình xây dựng rồi mất mát, ba chỉ cười lạt. Đôi khi ba cười có vẻ thích thú khi kể lại với các con chuyện ba gài số, cho xe chạy tuốt xuống sông Cần Thơ để chánh quyền không lấy được. Mình đã bỏ tất cả để chạy thoát thân lên Nam Vang. Ba vượt biên giới trước mấy chị em con và mẹ. Ba can đảm bò qua chỗ Việt cộng đang đóng binh nghỉ để qua Miên. Những giây phút đó rất nguy hiểm cho ba vì trong một tích tắt ba có thể bị họ phát giác. Khi đến biên giới, bị lính Miên rượt, ba phải bỏ quần áo, mặc quần đùi giả làm thường dân. Mỗi lần hồi tưởng lại, con thương ba vô cùng! Thân ba gian truân, chìm nổi nơi xứ lạ quê người nhưng vẫn luôn luôn nghĩ đến bổn phận đối với quê hương. Ba khổ sở, buồn rầu, có lúc con nghe ba ngâm:

Lạy trời mau tắt loạn ly
Cho bao nhiêu kẻ đã đi tìm về
Rồi trong những buổi chiều quê
Ngồi trên bến cũ, lắng nghe tiếng lòng!

Ba ơi! Ba là một người cha xứng đáng của chúng con, thân ba lưu lạc nơi đất khách quê người mà ba lo tìm công ăn chuyện làm để lo cho gia đình đoàn tụ. Con còn nhớ ba mua cho má một cái giấy lăn tay của một bà Việt Nam sanh đẻ ở Cao Miên đã chết, để má giả làm người Việt kiều nơi xứ Miên đặng má lên ở với ba. Ba bán hết nữ trang của má con, rồi ba lại cực khổ xây dựng tạo lập lại sự nghiệp nơi xứ người. Ba cùng với hai người bạn lập ra hãng SOCFEIC nhập cảng đồ Pháp về bán, có búp bê biết đi, dầu thơm, phấn son, thuốc làm cho tóc mấy người đầu quăn như Tây đen thành ngay ra. Rồi có cả lều để cắm trại, áo tắm biển, chén dĩa không bể v.v... Đủ mọi thứ gì mà ba nghĩ là bán được.

Khi qua Mỹ con vẫn còn giữ được một cái áo tắm của ba nhập cảng lúc mình ở Nam Vang. Con nhớ ba biểu diễn các loại chén dĩa không bể của ba bằng cách lót ván và chạy chiếc Deux Cheveaux ọp ẹp của mình lên. Con không ngờ "Ông Ba chánh trị" của con lại thật nhiều sáng kiến khi ba bước sang lãnh vực kinh doanh. Lúc đó, con lớn hơn các em nên được ba cho nhiều hàng mẫu nhất. Bây giờ con vẫn còn cái hình bế búp bê biết mở mắt nhắm mắt đó ba. Hình này con đứng trên sân thượng nhà mình lúc mình mướn nhà ở Ô-Cà-Xây của ông bà chủ chuyên sản xuất lu đựng nước. Con còn nhớ con chụp hình lúc mùa xoài. Họ nấu xoài chín rồi cán ra phơi để dành ăn. Ối cha ruồi ơi là ruồi! Kỷ niệm mà con yêu nhất là lúc mình cắm trại ở bờ biển Komponsom. Ba lựa chỗ vắng vẻ, cảnh đẹp, biển yên sạch sẽ để đừng ai "quấy rầy" gia đình mình. Ba quay phim cho tụi con, ba mướn tàu đi câu cá về cho mẹ con nướng ăn. Chỉ có vài con cá mà thấy vui ghê hở ba. Mình chỉ có cái khó khăn là không có nước ngọt nên phải mướn người gánh nước thôi.

Ba à, con yêu nước mình lắm. Nhưng con chỉ thích lúc ba không làm chánh trị, vì những lúc đó gia đình mình thật là hạnh phúc. Mẹ và các con có ba bên cạnh luôn luôn. Ba có thời giờ nhiều với gia đình, ba đi biển, ba đi lội hay đánh vợt với tụi con và ba luôn cạnh mẹ.

Ba thường nói, cuộc đời ba "lên voi xuống chó" rồi ba cười. Lúc nào ba cũng nhìn cuộc đời với khía cạnh khôi hài. Ba kể cho con nghe lúc chính quyền cho người theo đuổi bắt ba. Ba nói mỗi lần họ theo ba là ba lừa một cách. Ba kể mỗi lần ba rời Hội Quán Phật Giáo Hòa Hảo ở đường Bùi Thị Xuân là khi mở cổng ra ba luôn luôn cho hai xe đi hai ngã ra trước, để cho họ theo rồi ba mới đi xe sau chạy ngõ khác. Vậy mà vẫn có một lần họ liệng được một trái lựu đạn vô xe mà may quá nó không nổ. Có lẽ họ vội quá nên không mở chốt. Đôi khi con có cảm nghĩ riêng là ba có vẻ lý thú về những chuyện vào sanh ra tử.

Mỗi lần nhớ lại chuyện lính kín Miên theo dõi ba để làm tiền là con bắt tức cười. Trong lúc mẹ lo sợ thì ba lặng lẽ theo dõi ngược lại họ và chụp hình mấy cái anh chàng lính kín, rồi khi họ mời ba lên văn phòng thì ba đưa hình cho họ xem. Ba còn cười nói: "Các ông theo tôi làm chi để cho tôi chụp hình mà không hay?". Bây giờ mỗi khi xem phim trinh thám là con cứ cười vì nhớ đến chuyện này. Ba nói với con tại tụi lính kín Miên nó hay "làm le" nên dễ biết. Người ta làm mật vụ thì phải kín đáo, còn họ lại làm tàng muốn cho người khác biết là mình quan trọng. Lúc nào họ cũng mang kiến đen, mặc áo bành tô, đội nón xụp xuống thì "bố ai" mà không biết.

Ba thương, trong lúc khổ hay nghèo ba cũng đều tìm cách khôi hài chọc mẹ, hay trêu các con cho nhà mình vui hơn. Con nhớ ba viết thơ gạt mẹ là ba lo xong nhà cửa rồi mới rước mẹ con lên Cao Miên. Lúc đó có lẽ là năm 1955. Khi mẹ con lên đến Nam Vang thì chỗ hẹn của mình là nhà ngủ và dĩ nhiên là chưa nơi nương tựa. Sau đó mình dọn về ở nhờ nhà ông Năm ở chợ Cây Táo, do bà Tư Cần Đuớc giới thiệu. Lúc đó con và mẹ phải đi may thêm quần áo ở nhà một bà Miên. Có một lần đến may quần áo thì gặp họ đang ăn cơm. Thức ăn họ để trên những miếng lá, ở giữa là một tô canh. Họ ăn bằng tay, và lấy tay tát nước canh ra cơm ngoài miếng lá. Họ là những người bình dân, còn những người hoàng tộc thì ăn cơm bằng dĩa và muỗng nĩa. Con và mẹ đợi họ ăn xong thì bà chủ đến đo áo cho con. Con rất thấy khó thở vì tay của bà còn dính mùi mắm "bò hóc". Con sợ mùi này lắm cho đến khi lớn lên dần ở Cao Miên, khi đi với mẹ ra chợ ăn bún Num-bò-chóc con mới hết sợ mắm này, nhất là được xem phim dân đánh cá làm lưới ở Biển Hồ. Cảnh lưới cá về rồi phân chia loại nào để bán, loại nào để làm mắm và cách thức làm mắm như thế nào. Mắm bò hóc của thường dân làm bằng cá nhỏ nguyên con. Còn mắm bò hóc của vua ăn thì bỏ xương bỏ da chỉ lấy thịt cá, rồi họ muối để làm mắm, kho hay chưng, mùi bay thơm lắm. Có lẽ thức ăn của dân tộc nào cũng ngon, cũng có cái đặc thù của nó, nhưng cái khác là "cách ăn" phải không ba? Con còn nhớ ông Năm Nón sống bằng nghề mua nón cũ làm lại nón mới. Ông hấp, giặt, tẩy, chải nỉ lại để "băng đô". Màu ông làm xong thì cái nón giống y như mới vậy. Ông Năm da đen mặt rỗ, giọng đồng. Ông có cái tật ít tắm và dĩ nhiên không gội đầu. Lâu lâu ông lấy lược dầy chải hết đất rồi trét brillantine lên. Tóc ông bóng mượt và sát da đầu. Người ông có xâm nhiều hình. Ông nóng tánh và có "nghề võ". Mỗi lần ông đánh bà Năm nghe "bình bịch" mà bà làm thinh, tỉnh bơ vì nghe nói bà ta có học "gồng".

Ba thương, rốt cuộc rồi mình cũng mướn được một căn nhà ở tầng dưới đất. Vì nhà sàn lót ván nên mấy đứa nhỏ Miên ở trên lầu cứ đái xuống hoài. Vậy mà ba còn đùa là trời mưa. Mẹ và con rất "phiền", nhất là phải đi cầu tiêu hầm vừa đầy vừa dơ vừa có dòi làm con sợ xanh mặt. Sau đó gia đình mình mướn xe ngựa dọn nhà lên ở Cầu Lầu, nơi có rất nhiều Việt kiều. Ở đây thì sạch sẽ hơn nhưng có điều mình phải ở tầng dưới đất của nhà bà Chín Song. Con nhớ mẹ hay để băng nhạc Ngọc Cẩm, Nguyễn Hữu Thiết nghe. Mỗi lần Ngọc Cẩm hát "Vì đâu trăng vui nên trăng rụng xuống cầu". Ba lại nhăn mặt tỏ vẻ ngạc nhiên hỏi mẹ: "Sao vậy mình, tại sao mà răng lại rụng xuống cầu". Mẹ cãi: "Trăng mà, ai hát răng hồi nào". Mấy lần sau mẹ biết ba chọc nên làm lơ giả bộ không nghe.

Thời gian này con hay theo mẹ đi chợ, Minh Thư và Thanh Thu còn nhỏ nên ở nhà với chị vú, còn ba đi làm. Con hay đi ăn ngoài chợ với mẹ, có khi con chạy ra chợ mua quà vặt một mình. Con thích nhất là ăn xôi bắp. Có lẽ xôi bắp trên Cao Miên ngon hơn bất cứ chỗ nào. Bắp họ xát ra nấu rồi rưới mỡ hành và nước cốt dừa lên, vừa ngọt, vừa thơm lại vừa béo. Còn một món mà con thích nữa là chuối nướng. Con phải ngồi bên lò than để canh chừng vì đứng dậy đi là có đứa khác dành ngay. Chuối ta chỉ hơi chín, xỏ vào cây, quẹt một lớp nước muối. Khi chuối chín thì bên ngoài có một lớp bột trắng, đó là muối khô lại. Có lúc con chỉ thích ăn như vậy. Chuối hơi chín nên vừa dẻo, vừa ngon ngọt, vừa mằn mặn, vừa thơm, lớp da bên ngoài lại hơi dòn. Có lúc đổi "gu" con để cho chị bán chuối lấy thớt đè dẹp rồi chế nước dừa thắng với mỡ hành lên. Thật là một món quà vặt tuyệt hảo.

Ba làm ăn khá dần nên mình dọn nhà căn nhà sàn mướn của ông quan Năm người Miên. Ngang nhà mình có nhà cô năm Cây Gòn và xéo bên kia ngang nhà ông Năm Nón, là nhà ông năm Giáo. Ở nhà dưới của cô năm Cây Gòn có mấy đứa con nít hay rủ con qua "đá tràm", nhảy "cò cò" hoặc chơi "u". Con thì ốm o, tong teo nên hay thua lắm.

Quanh vùng đó có nhiều gia đình Việt kiều nên mấy cô giáo người Việt mở trường làng, chỉ có hai lớp học cho trẻ nhỏ. Phòng học ngăn bằng vách lá, có hai chương trình Việt và Miên. Ngôi trường nhỏ núp bóng dưới cây ô môi. Trong mấy người bán hàng vặt có "bà Liệu" bán chuối chiên là đáng tội nghiệp hơn cả. Mấy trẻ nít thường hay theo chọc bà. Hễ chúng la lớn là bà giật mình la theo rồi chúng nó nói cái gì, làm gì là bà nói theo, làm theo. Con thấy bất nhẫn nên thường kể cho ba nghe, vì có khi bà liệng hết tiền trong túi và trẻ con bu lại lượm.

Thưa ba, có phải viết báo là "cái nghiệp" không ba? Con nhớ khi mình ở Cái Vồn sau là quận Bình Minh, lúc đó ba là "chủ bút" của tờ báo Chiến Đấu, ba làm thơ, ba viết chuyện ngắn, ba hay ký tên Xuân Mỹ và Thanh Huyền Lang. Loại bài mà độc giả say mê nhất là các phóng tác của ba về truyện trinh thám. Tối về ba viết say mê. Lúc đó con còn nhỏ mà hay nhỏng nhẻo quá. Ai cũng ghét con về cái tật hay khóc dai. Con có thể khóc từ lúc bị má rầy cho đến lúc ba về. Con ngồi ngay nấc thang rên ư ử đợi ba. Khi con nghe giày ba khua cộp cộp là con bắt đầu khóc lớn để gây sự chú ý của ba. Tới chùng ba rầy má là tại sao ăn hiếp bé Hai thì con mới nín.

Lên đến Nam Vang đất lạ, quê người, đời sống khó khăn, chung quanh thì Việt kiều thân cộng nhiều. Vậy mà ba lại còn tiếp tục làm báo... chống cộng. Phe kia thân cộng thì người ta có tờ Trung Lập, có tiền và đã lâu đời. Vậy mà tờ Hữu Nghị của ba lại dám "bút chiến" với họ. Con còn nhớ con phải đi bộ vòng vòng chợ Cây Táo làm bộ hỏi mua tờ Hữu Nghị thì mới biết họ dấu báo của mình không bán. Vậy mà tờ báo cũng sống được khá lâu và độc giả tăng dần. Con cũng phục sự kiên nhẫn của ba và bác Văn Kim. Tòa soạn phải ngụy trang kín đáo, mấy lần bị lính kín bao vây nhưng họ bắt hụt vì mình đã dọn đi trước rồi.

Lúc gia đình mình trở về Sài Gòn sau thời Đệ I Cộng Hòa, con đi các thư viện để tìm tờ báo Chiến Đấu của ba, xin vài bản làm kỷ niệm. Còn tờ Hữu Nghị thì đóng thành một tập lớn theo khổ báo hàng ngày. Khi gần mất nước, gia đình mình quyết định bỏ hãng xưởng, nhà cửa ra đi một lần nữa. Con cứ bưng các tờ báo ra ngắm nghía tiếc rẻ mãi. Ba mới biểu: "Thôi bỏ đi con, đừng tiếc, con nhìn xem bao nhiêu sự nghiệp, sách vở, tài liệu của ba, ba cũng phải bỏ vậy".

Qua xứ Mỹ, mặc dù tuổi đời chồng chất, ba lại gắng sức vươn lên tạo lập lại sự nghiệp cho các con, trong khi đó ba không ngừng tìm mọi cách liên lạc với các đồng đạo ở khắp nơi. Rồi thì một lần nữa ba lại... làm báo. Nhưng lần này thì báo Đạo. Cuốn Đuốc Từ Bi đầu tiên bộ mới màu vàng có in hình Độc Giảng Đường Phật Giáo Hòa Hảo. Trong lời trung lộ "tái tiếp truyền thống" ba đã ghi: "Tập san Đuốc Từ Bi phát hành ở hải ngoại, không phải một trạng thái khởi đầu, mà chính là một sự tiếp tục."

Trong vài hàng lịch sử ba viết: "Giáo Hội Phật Giáo Hòa Hảo phục hoạt sau cuộc đảo chánh 1-11-1963, Ban Trị Sự Trung Ương quyết định phát hành một cơ quan truyền đạo và thông tin lấy tên là "ĐUỐC TỪ BI", phát nguyên từ hai câu thơ rút trong kinh giảng Phật Giáo Hòa Hảo:

"Khai ngọn đuốc Từ Bi chí thiện
Tìm con lành dắt lại Phật đường."
(Giác Mê Tâm Kệ - Đức Huỳnh Giáo Chủ).

Thưa ba, hôm nay lật lại tờ báo cũ, lòng bồi hồi xúc động nhớ ba, con mới biết ý nghĩa của tên tờ báo đã rút ra từ những câu giảng mà ba mẹ đã dạy con thuộc lòng khi còn bé. Ba mẹ đã có công ơn thắp cho con một ngọn đuốc, gieo vào lòng con một chủng tử TỪ BI. Con nguyện tiếp tục con đường mà ba mẹ đã vạch ra để mãi mãi ngọn ĐUỐC TỪ BI sẽ rực rỡ chói lòa.

Thương ba.
Bé Hai.



Phượng Các
#17 Posted : Thursday, March 31, 2005 10:41:33 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
VIỆT NAM RỒI SẼ THANH BÌNH

(Viết nhân ngày lễ Đản sanh Đức Thầy)

Quê hương Việt Nam! Quê hương Việt Nam lúc nào cũng âm vang trong lòng tôi. Đó là lời mời gọi thiết tha nhất mà tôi luôn luôn mong muốn có ngày trở lại để sống, để thở, để uống những ngụm nước ngọt ngào múc lên từ giòng sông Cửu Long.

Thật êm đềm làm sao những buổi rong chơi nô đùa trên các bờ đê, nhìn đồng ruộng với những hạt lúa chín vàng rung rinh trước gió. Hình ảnh các chú bé chăn trâu, bác nông phu chân lấm tay bùn, thật thà chất phác vẫn luôn luôn thân thương đượm tình người.

Tôi sống những ngày thơ ấu nơi ngôi làng nhỏ bên giòng An Giang thật êm đềm, nồng nàn tình tương thân tương ái. Mọi người đối xử với nhau như bà con ruột thịt. Thật đúng như tên ngôi làng. Đó là làng Hòa Hảo.

Tôi chỉ biết đến sự đau khổ của chiến tranh từ khi rời xa mảnh đất thân yêu rày đây mai đó, theo bước chân của cha mẹ bôn ba nơi xứ người. Xa Việt Nam lúc chỉ mới lên bảy tuổi, tôi cảm thấy lạc lõng giữa nhiều ngôn ngữ lạ. Tại Nam Vang, người ta nói tiếng Miên, tiếng Tàu, tiếng Pháp. Đất lạ quê người gia đình tôi sống với bao nỗi bơ vơ, mất mát, lòng thương nhớ quê cha đất tổ.

Gia đình tôi phải xa Việt Nam vì tôn giáo Phật Giáo Hòa Hảo bị đàn áp, nhưng chính tôn giáo ấy đã ảnh hưởng mãnh liệt trong tình yêu quê hương, nghĩa đồng bào nơi tâm hồn tôi.

Ba mẹ thường hay đọc Sám giảng thi văn giáo lý của Đức Huỳnh Giáo Chủ cho tôi nghe. Những câu thơ nói về niềm ưu tư đến vận nước khiến tôi rung động nhất, như bài "Lo Nước":

Nước Việt trẻ già mãi ngóng trông
Ngày nào hưng phục cõi trời Đông
Lẽ đâu tạo hóa riêng cay độc
Đày khắc mãi chi giống Lạc Hồng.

Trong bài "Gọi Đoàn Thanh Niên" có những câu tôi học thuộc lòng và xem đó như những lời nhắc nhở:

Chớ có ngủ li-bì trong mộng
Để dân ta mãi sống khốn cùng.

Hoặc:
Hy sinh báo quốc tận trung
Đem bầu nhiệt huyết so cùng sắt gang
Việt Nam là giống Hồng Bàng
Muôn đời xa lánh tai nàn diệt vong.

Ba tôi thường ngâm bài "Gọi Đoàn Chiến Sĩ" vào những buổi chiều với khuôn mặt đâm chiêu xúc động:

Hãy tỉnh giấc hỡi muôn ngàn tráng sĩ
Nhìn thời xưa hùng vĩ nước nhà ta
Bắc Nam một giải san-hà
Mồ hôi giọt máu ông cha tài bồi
Nay vận nước đến hồi thịnh thái
Chí anh hùng ta hãy noi gương
Một mai nước được phú cường
Tấm thân tráng sĩ cột rường nhà Nam.

Với một giọng thanh tao mẹ tôi hay ngâm bài "Gọi Đoàn Phụ Nữ" mỗi khi chải tóc cho tôi, hay ôm tôi vào lòng:

Chị em ôi, Bắc Nam là một
Chị em là rường cột giống nòi
Giỡ? sử xanh Nam Việt mà coi
Gương Trưng, Triệu còn roi muôn thuở
Chẳng có lẽ xưa hay mà nay dở
Khiếp nhược là cái cớ vong gia
Chí anh hùng của khách quần thoa
Đâu có kém bực tu mi nam-tử
Sách Thánh Hiền truyền lưu mấy chữ
Thất phu còn trách nhiệm với non sông
Cả tiếng kêu bạn gái má hồng
Đem son phấn điểm tô Tổ Quốc.

Gia đình tôi may mắn được trở lại quê hương sau mười năm xa cách. Tôi và các em được cắp sách đến trường học ngôn ngữ Việt Nam, sống với đồng bào ruột thịt của mình. Nhưng, đau đớn thay, năm 1975 miền Nam đã mất, ba mẹ tôi không chấp nhận chế độ vô thần nên phải dắt chúng tôi ra đi, bỏ tất cả sản nghiệp vừa mới gầy dựng lại.

Nay tuy đã sống nơi xứ người gần hai mươi năm, nhưng tình yêu quê hương đồng bào ruột thịt của tôi lại càng phát triển mạnh mẽ,đậm đà hơn bao giờ hết. Với niềm tin tuyệt đối nơi tôn giáo,tôi chắc chắn rằng tất cả những chế độ vô thần rồi sẽ sụp đổ và nước Việt Nam của chúng ta sẽ được thanh bình.

Trong bài "Khuyến Nông" viết năm Ất Dậu 1945, Đức Huỳnh Giáo Chủ đã khuyến khích nông gia ở các tỉnh miền Tây Nam Phần như sau:

Cả kêu điền chủ phu nông,
Đứng lên đừng để ruộng đồng bỏ hoang
Muốn cứu khỏi tai nàn của nước
No dạ dày là chước đầu tiên
Nam Kỳ đâu phải sống riêng
Mà còn cung cấp cho miền Bắc Trung.

Cũng trong bài này, Ngài ân cần dặn dò:
"Gởi một tấc lòng son nhắn nhủ
Khuyên đồng bào hãy rủ cho đông
Nắm tay trở lại cánh đồng
Cần lao nhẫn nại Lạc Long tổ truyền".

Ngài còn cho biết thêm :
"Dầu những kẻ vô tình với nước
Cũng tỉnh hồn mơ ước tự do
Tiếng vang độc lập reo hò
Từ Nam chí Bắc nung lò khí thiêng."

Theo Ngài, khi nào người Việt Nam cùng một lòng với nhau, quê hương ta sẽ được tự do thanh bình. Trong bài "Tặng Đoàn Thanh Niên Ái Quốc", Đức Huỳnh Giáo Chủ có nói:

Gương trung nghĩa Thánh Thần cảm động
Ắt có ngày mở rộng cơ quan
Từ Nam ra Bắc xa ngàn
Nhưng lòng phải một mới toàn mưu hay.

Cũng trong bài này Ngài đã nói về tương lai nước Việt Nam như sau:
Vừa nghe nói Đoàn Thanh Niên Ái Quốc
Lòng sĩ tăng bỗng bật sự vui say
Âu là Trời đã sẵn bày
Non sông chìm đắm có ngày phục hưng
Khắp Á Đông tưng bừng náo nhiệt
Nô nức nhau kiến thiết quốc gia
Kẻ sang hải ngoại về nhà
Người trong tăng lữ cũng là ước ao.

(12-1993)

Phượng Các
#18 Posted : Thursday, March 31, 2005 10:42:16 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
THỊNH

Thịnh bảo tôi đến Jenny Craig Center gần nhà để hỏi về chương trình ăn kiêng. Cách đây một năm, con tôi đã tỏ ý muốn đến một trung tâm ăn kiêng. Thịnh nói cần sự giúp đỡ của người khác, nhưng tôi bác bỏ vì tôi nghĩ tùy thuộc vào ý chí của nó, chứ ăn kiêng rồi mà cứ ăn nhiều trở lại thì không có kết quả.

Thịnh thường nói: "Mẹ không biết, mẹ chỉ nói mà không chịu nghe", hoặc "Con không thích nói chuyện với mẹ vì mẹ không hiểu".

Có lẽ con tôi nói đúng. Tôi chỉ biểu nó bớt ăn, rầy nó khi thấy nó ăn nhiều, và những điều đó không giúp nó được.

Mỗi lần thấy Thịnh ăn cheese, mayonaise, big-mac là tôi buồn, tôi giận. Tôi rất thích nấu những món lạ, món Pháp cho gia đình ăn, nhưng tôi lại buồn vì thấy Thịnh ăn ngon và ăn nhiều. Tôi nấu cái gì Thịnh ăn cũng nhiều hết. Tôi nấu những món mà tôi nghĩ rằng ít làm cho mập, rồi cuối tuần Thịnh ăn pizza và hamburger tôi lại giận vì cho rằng uổng công. Tôi lo cho Thịnh, nhưng Thịnh vẫn tiếp tục ăn đồ ăn quá béo bổ.

Nhiều khi hai mẹ con cãi nhau vì chuyện ăn uống. Thịnh giận nói: "Mẹ, nếu mẹ không giúp gì cho con được thì mẹ đừng nói nữa"; hoặc "Con thích ăn vì con đói" hay "con thích ăn vì đồ ăn ngon".

Lúc còn sống, ông ngoại ưa kể đi kể lại khi ông hỏi: "Con không sợ mập sao?" Thịnh trả lời: "Con không sợ mập mà con sợ đói hà". Lúc đó Thịnh còn nhỏ khoảng gần mười tuổi.

Không biết Thịnh bị quá cân lượng có phải tại tôi không? Lúc sắp rời Việt Nam, Thịnh mới 16 tháng. Đến phi trường Tân Sơn Nhất, Thịnh bắt đầu bỏ sữa. Hộp sữa bột Guigoz mang theo còn nguyên. Đến trại tị nạn ở Grand Island Philippines, rồi qua Guam, Thịnh ăn thức ăn tôi lãnh về. Thịnh gầy và móm. Ở Guam trời nóng Thịnh mặc xì líp, ở trần ngồi trên ghế bố. Lúc đó chúng tôi ở lều vải, trời nắng và gió, cát bụi mù mịt.

Hôm đếm đảo Guam trời tối. Các anh lính Mỹ dựng lều cho chúng tôi đang ăn đùi gà chiên. Thấy Thịnh đói quá, tôi xin các anh một đùi gà. Không biết có phải tại vậy mà Thịnh "mê ăn gà" không?

Qua tới Fort Chaffee, Thịnh đeo tôi cả ngày. Vì đổi giờ cho nên ban đêm Thịnh thức đòi tôi ẵm đi chơi, ban ngày ngủ, tại vậy tôi gầy nhom. Tôi và Lệ, cô em họ cứ hay ép Thịnh ăn đồ ăn của em bé trong hũ (baby food) của trại phát vì thấy Thịnh ốm quá.

Tháng 6-1975, chúng tôi định cư ở Minnesota, nơi có tuyết lạnh vào mùa đông. Có những buổi sáng thức dậy tuyết phủ ngập cả chiếc xe. Nhiều lúc xe không nổ máy vì quá lạnh. Có một lần Thịnh bị sưng phổi phải gọi xe cấp cứu vì Thịnh thở không được. Họ phải đưa Thịnh đi ngay vào nhà thương. Chỉ có một đêm mà Thịnh ốm và xanh như con "khỉ già", bị cột tay chân vào thành giường, và nằm trong mùng để thở dưỡng khí. Ban ngày tôi ở đó, ban đêm ông xã tôi ngủ dưới đất bên cạnh giường Thịnh, vì Thịnh không chịu xa chúng tôi nửa bước.

Khi có tôi thì Thịnh đòi ba nó, khi có ông xã thì Thịnh đòi tôi. Ban ngày tôi phải bắt ghế cho Thịnh ngồi cạnh của sổ để "đợi ba". Những người Mỹ chưa quen với lối sống của người Á Đông có vẻ ngạc nhiên về cách săn sóc con của chúng tôi. Quanh phòng Thịnh các trẻ em đều ở một mình. Thỉnh thoảng, cha mẹ các em chỉ đến thăm một chút rồi về. Các em trong đó phần nhiều đều bị cột vào thành giường để khỏi té, hoặc giựt kim lúc đang vào nước biển. Vậy mà có lúc cũng có em té xuống đất. Lúc đó có lẽ Thịnh được bốn tuổi và đại gia đình chúng tôi mua được một căn nhà ở Edina. Sở dĩ chúng tôi chọn khu này vì có trường học tốt và yên tĩnh. Cảnh ở đây rất giống Đà Lạt. Khoảng thời gian này tôi nhớ Đà Lạt ghê.

Từ khi bị sưng phổi, Thịnh thường hay bị dị ứng và suyễn. Mỗi tuần hai lần tôi phải chở Thịnh xuống phố Minneapolis để chích thuốc Allergy (dị ứng). Thịnh cứ hay suyễn và mỗi lần sau các trận suyễn, Thịnh xanh và ốm nên vợ chồng tôi phải ép Thịnh ăn hamburger và khoai tây chiên của Mc Donald. Cứ thế cho đến khi Thịnh lớn dần. Có lẽ ngày nay con tôi quá cân lượng là lỗi của chúng tôi, ngày xưa ép con tôi ăn vì nó suyễn và mất sức chăng?

Lúc mang bầu Thịnh, vợ chồng tôi ở Đà Lạt. Sau khi sanh Thịnh ở Sàigòn, tôi lại đem Thịnh trở lên Đà Lạt vì ông xã tôi muốn gần cậu con trai đầu lòng. Thịnh hay xổ mũi luôn vì Đà Lạt lạnh, trời mưa và dĩ nhiên là nhà không có sưởi.

Vợ chồng chúng tôi ở trong một căn phòng nhỏ chỉ đủ để hai cái giường và một cái nôi. Chúng tôi phải ngồi ăn cơm ở dưới đất. Lúc đó ông xã tôi đi dạy môn kinh tế tại trường Võ Bị Đà Lạt. Đôi khi tôi tự hỏi, có phải lúc nhỏ ở Đà Lạt, Thịnh chịu lạnh không nổi nên bị xổ mũi hoài. Rồi lại ở Minnesota quá lạnh bị sưng phổi, vì thế nên bị suyễn luôn không?

Có nhiều người nói thuốc suyễn có kích thích tố làm cho ăn nhiều và mập. Tôi thấy điều đó có lẽ đúng, vì mỗi lần chích thuốc suyễn Thịnh ít khi chịu ngồi yên, vừa thở mệt mà lại chạy giỡn, nên dĩ nhiên Thịnh phải ăn nhiều vì đói.

Có một dạo Thịnh bị suyễn nhiều vì đổi từ trường tiểu học Weaver ở Los Alamitos về La Tierra ở Mission Viejo. Lúc đó Thịnh học lớp bốn, nhưng khu học chánh này dạy trình độ cao, và nhiều bài học bài làm hơn. Mỗi ngày sau khi đi học về Thịnh lo làm bài, học bài hoài vì sợ cô giáo rầy. Hơn nữa mỗi lần suyễn, Thịnh nghỉ ở nhà, có khi vài ngày, hoặc một tuần, nên bài dồn lại nhiều. Vậy mà Thịnh rất cố gắng nên được điểm cao. Điểm Thịnh bắt đầu xuống khi học với ông thầy lớp sáu, Thịnh nói ông thầy của Thịnh lúc nào cũng nói về ông và luôn luôn cho ông là người giỏi nhất. Lần đầu tiên tôi gặp một ông thầy ở xứ Mỹ bảo tôi, cứ việc đánh con khi chúng lì và ông ta cũng đánh con như thường, nếu chúng không nghe lời.
Năm đó Thịnh cao lớn thấy rõ. Thịnh đứng ngang với các đứa bạn Mỹ cùng lớp và còn cao hơn vài đứa khác. Lúc tốt nghiệp tiểu học, trong khi các bạn ăn mặc thường thì Thịnh đòi mặc một bộ đồ veste mới để lên lãnh bằng. Lúc học tiểu học Thịnh học đờn hồ cầm, và có vào ban hợp ca của trường. Nhưng ngày trình diễn Thịnh mắc cở với ba mẹ, nên chỉ nhép miệng chút chút, chớ không hát to như các bạn khác.

Lúc học với ông thầy lớp sáu, có lẽ Thịnh bị suyễn nhiều nhất. Tôi không dám đi làm xa cũng vì thế. Nhiều hôm tôi đi làm trong tiệm hoa mà cứ phập phồng không biết nhà trường gọi lúc nào. Nhiều khi Thịnh thở không được, không phải vì suyễn mà vì uống nhiều loại thuốc quá nên bị thuốc hành. Ông hiệu trưởng bắt Thịnh liệt kê những thuốc đã uống và yêu cầu tôi nói với bác sĩ là bà cho Thịnh uống quá nhiều thuốc. Tất cả tám loại, mỗi ngày ba lần.

Mỗi tuần bác sĩ bắt Thịnh chích hai lần. Rất nhiều lúc Thịnh không bịnh nhưng sau khi chích thuốc dị ứng, Thịnh bị phản ứng, mắt đỏ lên và bắt đầu khò khè. Bà ta bắt vào thở máy. Chất thuốc Alupent để vào máy cho Thịnh thở làm tim Thịnh đập mạnh, mặt Thịnh xanh, có nhiều lúc ói ra nhiều nhớt. Những lúc đó, hay những lúc chở Thịnh đi cấp cứu vào nhà thương ban đêm, tôi thấy cuộc đời không còn niềm vui nữa. Tôi chỉ mong ước cho Thịnh hết bịnh suyễn.

Lên lớp bảy Thịnh bắt đầu học kém, làm mất bài làm, vào lớp trễ... Khi học tiểu học từ sáng đến trưa Thịnh chỉ học một lớp và một cô hay thầy, bây giờ chạy đi đổi lớp lung tung. Lúc thì tủ bị kẹt, lúc thì chạy từ lớp này qua lớp kia bị suyễn. Điểm thể dục của Thịnh thấp, vì có nhiều buổi sáng sau khi chạy trong lớp, Thịnh lên cơn suyễn. Tôi phải thường xuyên viết giấy xin cho Thịnh được miễn chạy, vì vậy ngay cả điểm thể dục của Thịnh cũng thấp.

Vì Thịnh suyễn hoài nên phải ngưng học lớp Việt ngữ vào chủ nhật. Rồi một thời gian sau thì ngưng sinh hoạt hướng đạo. Một phần vì các huynh trưởng hay bận việc nên sinh hoạt không được đều đặn như xưa. Một phần Thịnh thích đá banh một tuần hai lần, và thứ bảy hay đi đấu với các đội khác vùng.

Thịnh và Cường đều thích đá banh, nên tôi phải làm việc bán thời gian để sau giờ học của các con, tôi có thể đưa rước hai anh em đi đá banh hoặc dợt nhạc hòa tấu ở trường, và tôi có thể đi chợ, nấu cơm chiều.

Năm lớp bảy, có một dạo tự nhiên Thịnh bỏ ăn và bỏ hết thuốc. Lúc suyễn Thịnh cũng không uống thuốc suyễn. Bác sĩ của Thịnh đề nghị chúng tôi cho Thịnh đi bác sĩ tâm thần và bà cho là Thịnh bị tim. Tôi lại nghĩ rằng Thịnh mệt tim vì uống nhiều thuốc suyễn. Tuy nhiên chúng tôi cũng cho Thịnh đi bác sĩ đặc biệt về tim, mang máy đo tim. Kết quả, Thịnh không có bị tim gì cả. Dạo đó có xảy ra vụ người ta chết vì ăn nhiều phô mai có chất độc, hay uống thuốc bán ở chợ có thuốc độc gì đó. Thịnh ăn thật ít và trong một tuần sụt năm kí lô. Lúc đó, tôi chỉ mong sao cho con tôi ăn được, và tôi tự hứa là khi nó trở lại bình thường, tôi sẽ không rầy và ép nó chăm học nữa. Miễn cho nó mạnh khỏe là đủ rồi.

Thịnh là đứa bé nhiều tình cảm. Có một lần ông xã tôi mướn cuốn phim về chiến tranh nguyên tử, vừa mới vặn lên một chút thấy người ta chết vì chiến tranh hóa học, Thịnh khóc òa lên và bắt tắt liền. Lúc học tiểu học, có lần cô giáo bắt Thịnh làm một tấm bích chương để dán hình Thịnh thích, gọi là "My very own poster all about me". Chỗ ghi câu "Gia Đình và Tôi", Thịnh dán hình chụp cả đại gia đình mấy chục người, hình Thịnh khi mới biết lật, chụp ở Đà Lạt và hình tôi bế Thịnh ngồi chơi trước cửa phòng với ông xã tôi mặc đồ chuẩn úy lúc dạy ở Võ Bị Đà Lạt. Nơi chú thích những gì Thịnh ghét, Thịnh dán hình thuốc lá Marlboro, loại thuốc mà ông xã tôi hay hút và hình ông Khomeni. Nơi những gì Thịnh thích, Thịnh dán hình Tổng Thống Reagan và phi hành gia trên mặt trăng.

Riêng ba điều ước của Thịnh viết trên tấm bích chương là tôi không bao giờ quên:

Điều thứ nhất, Thịnh mong cho thế giới có hòa bình; điều thứ hai, không có người nghèo; điều cuối cùng Thịnh mong sẽ là người mạnh khỏe nhất trên đời.

Đọc những điều ước trên, tôi thấy thương con quá. Có lẽ trong đời tôi, điều mà tôi không thích và sợ nhất, là bịnh suyễn của Thịnh và ông xã tôi hút thuốc lá.

Hồi còn nhỏ, tôi rất thân với dì Xuân. Dì nhỏ tuổi hơn tôi, dì học giỏi và đẹp có tiếng ở trường Thoại Ngọc Hầu, Long Xuyên. Năm nào dì cũng được lãnh phần thưởng xuất sắc của trường. Tóc dì dài, mũi cao mơ mộng, miệng cười má lúm đồng tiền. Nhưng mỗi khi dì lên cơn suyễn, trông dì thật mệt và tội nghiệp. Lúc ở Sàigòn, mỗi lần nghỉ hè tôi thường hay về Long Xuyên chơi ở nhà dì. Nhiều đêm tôi chợt thức thấy dì ngồi thở khó khăn và hình ảnh đó không bao giờ phai mờ trong trí tôi. Ngờ đâu bây giờ đến lượt Thịnh cũng bị khổ sở vì bệnh này.

Chuyện "ông bố hút thuốc lá" là một bận tâm khác. Cả hai anh em Thịnh, Cường tìm mọi cách cản ngăn ba chúng hút thuốc. Có dạo nhà trường dạy về sự nguy hiểm của thuốc lá. Hai đứa về nhà thấy thuốc lá ở đâu là dấu hoặc vò nát rồi liệng thùng rác. Ông xã tôi phải đi theo xin từng điếu một. Nhiều lần, hai đứa giận đỏ cả mặt vì ba chúng cứ hút thuốc hoài, bỏ không được.

Một hôm Cường khóc nói với tôi: "Mẹ là vợ mà sao không tiếp tụi con nói với ba vậy". Tôi bảo: "Mẹ nói hoài không được". Tôi không muốn nói nữa vì mỗi lần nói đến thuốc lá là vợ chồng mất vui.

Thịnh mua cho ba nó một cuốn video "Stop Smoking" (Ngưng hút thuốc). Nó vặn cho ba nó xem, một lát ba nó ngủ khò. Chẳng thấy hiệu quả mà ba nó cũng chẳng chịu xem một mình, nên cuốn video bị chìm trong lãng quên.

Niềm hy vọng cuối cùng của hai thằng con trai là đợi bà nội qua đoàn tụ để bà nội rầy ba. Bà nội qua đoàn tụ tháng 9-1989 và bà nội rầy, ba của chúng vẫn trơ trơ nên hai đứa buồn lắm. Nhất là thấy bà nội xỉa thuốc, tụi nó lại sợ bà bị ung thư cổ.

Bây giờ hai con tôi yêu cầu ba chúng hút thuốc ngoài sân để chúng không bị suyễn. Hai đứa giải thích là người hít hơi thuốc còn bị hại hơn người hút thuốc. Nhiều khi tôi tự an ủi là có nhiều điều mình cho là kém may mắn lại là một điều may. Cũng như Thịnh bị suyễn thì chắc cả đời nó sẽ không hút thuốc lá. Mong thay!

Mấy năm đầu, sau khi tôi lấy chồng, có lần ba tôi nói: "Con Mai ghét của nào trời trao của đó". Ông xã tôi không nghiện rượu hoặc mê cờ bạc, nhưng có bạn thân thì cũng uống cho say. Anh không đi tìm chỗ đánh bài nhưng nếu bày sòng trước mắt thì cũng nhảy vào đánh (khá mê). Còn thuốc lá thì mỗi ngày cả hai gói. Có chuyện khó khăn trong công việc làm hay trong đời sống nhiều chừng nào, thì anh ấy hút thuốc nhiều chừng đó.
Khoảng thời gian Thịnh bỏ ăn vợ chồng tôi lo vô cùng. Tôi hay ngồi bên giường Thịnh hay hôn Thịnh trước khi Thịnh đi ngủ. Thịnh không ăn nên ốm nhom, tôi phải lấy quần áo cũ cho Thịnh mặc, vậy mà cũng vẫn còn rộng. Tôi tự hứa khi nào Thịnh chịu ăn lại, tôi sẽ không bao giờ rầy lúc Thịnh ăn nhiều nữa.

Mỗi lần Thịnh suyễn, tôi đưa thuốc suyễn Thịnh lắc đầu, nhất định không uống, chỉ nằm nghỉ và bơm thuốc Ventoline. Có lúc suyễn nhiều sợ đi bác sĩ không kịp để chích thuốc suyễn, Thịnh ngồi ngay xuống đất, chắp tay niệm Nam Mô A Di Đà Phật. Một lần suyễn vào buổi tối Thịnh bắt ba chở đi bác sĩ. Thịnh cứ niệm Phật trên xe và kêu khó thở. Ông xã tôi nói, nếu cảnh sát có rượt chắc anh ấy cũng không ngừng.

Từ lúc tự động bỏ thuốc tới giờ, Thịnh cố tự chữa bằng cách nghỉ ngơi khi lên cơn suyễn. Thịnh chỉ bơm thuốc vào miệng hít vào cho nở cuốn phổi ra. Khi suyễn nhiều thì đến bác sĩ gia đình để chích thuốc. Tôi cũng cho Thịnh đi châm cứu và Thịnh bắt đầu chơi thể thao nhiều. Năm nào đến mùa đá banh, hai anh em đều có vào đội banh. Có mùa thì chơi dã cầu hoặc bóng rổ. Năm rồi Thịnh cố gắng chạy nhiều để vào đội đá banh ở trường. Lúc đó, nhờ chạy nhiều nên người Thịnh tuy to nhưng rắn chắc và thon hơn bây giờ, và dĩ nhiên là có rất nhiều lần Thịnh phải tranh đấu với các cơn suyễn.

Thịnh và Cường đều bị dị ứng nên gần như nghẹt mũi kinh niên. Mỗi lần nằm gần con ban đêm tôi ngủ không được vì tội nghiệp con quá. Hai anh em đều thở bằng miệng nên môi lúc nào cũng khô. Mỗi lần đổi mùa thu hay mùa xuân hai đứa nghẹt mũi nhiều vì phấn hoa.

Hè vừa rồi tôi đem Thịnh đến bác sĩ De Berry chuyên môn về tai mũi họng. Ông có một ống cao su nhỏ, đầu ống cao su có đèn để đưa vào mũi xem. Vừa nhìn vào là ông nói xương mũi bên mặt Thịnh bị gồ ra nên Thịnh bị khó thở và khi nghẹt mũi thì nước mũi chảy xuống cổ họng làm Thịnh khò khè và gây nên suyễn. Ông đề nghị mổ mũi cho Thịnh. Thịnh mừng lắm vì mong rằng không nghẹt mũi, bớt suyễn Thịnh sẽ chơi được nhiều thể thao hơn.

Nam nay Thịnh đã 17 tuổi lớp 11, Thịnh ở trong đội bóng chuyền của trường. Mỗi ngày Thịnh đều dợt banh và mỗi tuần đấu hai lần. Thịnh mê bóng chuyền hơn cả đá banh hay các loại thể thao khác. Thịnh hay mời cha mẹ đến xem mỗi lần đội Thịnh đấu với các trường bạn. Đến xem tôi mới biết Thịnh đưa banh giỏi và là người quan trọng của đội. Chỉ có một điều là Thịnh to con hơn các bạn trong đội.

Khi cố vấn của trung tâm Jenny Craig hỏi lý do Thịnh muốn xuống cân, Thịnh nói để được nhanh nhẹn hơn và nhảy cao hơn khi chơi bóng chuyền. Thịnh nói với Nancy, cố vấn, là ông thầy có hứa nếu Thịnh xuống cân thì năm tới ông sẽ cho Thịnh chơi banh nhiều hơn. Tôi được Cường cho biết riêng là ông thầy của Thịnh nói, nếu Thịnh xuống cân sẽ được vào đội tuyển của trường.

Tôi thầm nghĩ biết đâu Thịnh bị quá trọng lượng cũng là một điều tốt, để có cơ hội học hỏi. Bây giờ Thịnh phải gặp cố vấn để nói chuyện và đến lớp học về các môn như kỷ luật, bỏ các thói quen xấu, học về cách dinh dưỡng v.v... Thịnh sẽ rèn luyện được ý chí của mình. Mỗi ngày Thịnh ăn uống theo thời khóa biểu và thực đơn của chương trình.

Lúc trước có lẽ vì nghẹt mũi kinh niên nên Thịnh khó tập trung tinh thần để làm bài hay học bài. Từ ngày mổ mũi đến giờ việc học của Thịnh có phần tiến bộ. Cường không thích học nhạc nhưng Thịnh lại tự chọn môn âm nhạc. Khi lên trung học đệ nhất cấp (Junior High School), Thịnh ngưng học nhạc nhưng lúc lên lớp tám Thịnh học âm nhạc trở lại và sử dụng hồ cầm.

Thịnh nói với với tôi khi chơi nhạc Thịnh thấy học khá hơn. Năm đó tôi có xem Thịnh đi trình diễn ở đại học Saddleback College, trường trung học của Thịnh được chấm hạng nhì, sau trường trung học Los Alamitos. Lên trung học Thịnh chỉ cần học hai năm về âm nhạc thôi, nhưng Thịnh quyết định học luôn bốn năm cho đến khi ra trường.

Năm nay tôi không còn phải lo đưa rước Thịnh nhưng lại lo Thịnh chạy xe quá mau. Dĩ nhiên ngoài chuyện bảo hiểm xe, tiền trả góp xe hàng tháng, còn có tiền bị phạt, đụng xe v.v...

Hai ngày nay Thịnh phải nộp cho tôi mỗi ngày mười đồng vì Thịnh đi học trễ, đậu bậy nên bị phạt 35 đồng. Thịnh nhờ tôi giữ bí mật và tôi nói khi nào Thịnh góp đủ tôi mới chịu ký chi phiếu trả tiền phạt.

Sỡ dĩ Thịnh phải dấu, vì ông xã tôi vừa mới trả cho Thịnh một giấy phạt vượt đèn đỏ hôm Thịnh đi Disneyland về với các bạn. Mấy tháng trước thì anh ấy cũng đã đóng tiền phạt cho Thịnh chạy xe quá tốc độ và tiền Thịnh học lại lớp lái xe để không bị ghi vào hồ sơ cảnh sát.

Mấy ngày đầu tiên thấy con phải ăn theo thực đơn của chương trình ăn kiêng, tôi thấy tội nghiệp quá. Tôi vào phòng thấy Thịnh nằm im. Tôi tưởng Thịnh ngủ nên tắt tivi, Thịnh mở mắt ra nói: "Mẹ à, con mệt và đói". Tôi nói: "Để mẹ gọi họ hỏi xem họ có cho con đủ thức ăn không nhe". Thịnh bắt tôi gãi lưng mà phải gãi mạnh cả hai tay. Thịnh thật giống tôi hồi nhỏ cũng ghiền mẹ gãi lưng lắm, nhất là lúc tôi được bảy, tám tuổi ở Cái Vồn, Cần Thơ. Chiều chiều mẹ tôi hay ngồi trên bộ ván trước nhà nói chuyện với bạn bè hàng xóm, tôi thường hay nằm bên cạnh, gió hiu hiu làm tôi buồn ngủ. Đó là lúc tôi hay đòi mẹ gãi lưng nhất.

Thịnh ăn kiêng đến ngày thứ ba thì khoe với tôi: "Con xuống được bốn cân mẹ à". Tôi thấy Thịnh có một vẻ vui khác lạ. Mẹ tôi nói: "Mẹ thấy Thịnh ở trần ngắm kiếng tới, ngắm lui con ạ". Bà nội thấy Thịnh ăn ít nên xót ruột, sợ Thịnh đói.

Tuần đầu Thịnh phải đi học lớp dành cho vị thành niên và một lớp định hướng (orientation). Tôi năn nỉ Thịnh để được đi cùng mà Thịnh nhất định không cho. Thịnh nói lớp đầu tiên Thịnh muốn đi một mình. Thịnh đi học và hẹn với bạn ra công viên đánh banh luôn. Tôi mừng lắm vì như vậy Thịnh sẽ vắng mặt lúc tôi nấu cơm chiều và bữa cơm gia đình. Tôi sợ Thịnh thèm ăn tội nghiệp, vì lúc nào tôi nấu ăn Thịnh cũng xin được nếm. Có khi nếm nhiều quá tôi phải rầy, tôi nói con trai ăn bốc hay ăn vụng trong bếp là xấu lắm.

Hôm Thịnh ăn kiêng ngày thứ nhất, nhằm lúc anh bạn từ thuở trung học Taberd của ông xã tôi bên Việt Nam qua. Tôi đãi anh Tài, trùng tên với ông xã tôi, món chả cá Thăng Long. Thịnh bốc hết mấy miếng cá nướng. Thịnh nói vì thơm quá. Qua ngày sau Thịnh bốc hết mấy miếng thịt vịt trong nồi bún vịt và mấy cục sườn heo kho với tàu hủ. Tối Thịnh than đói quá, Thịnh ăn thêm hai miếng phó mát, một miếng thịt nguội và mấy miếng bánh lạt. Tôi dặn Thịnh phải khai hết với cố vấn để họ tìm cách giúp. Khi Thịnh đi học ở trung tâm Jenny Craig về thì có vẻ tự tin hơn, nói với tôi: "Mẹ à, đứa nào cũng ăn gian hết hà!".

Tôi và ông xã hay đi bách bộ sau khi anh ấy đi làm về và nghỉ ngơi độ nửa giờ. Anh luôn luôn thích cả gia đình ăn cơm chung buổi chiều vì cả ngày kẻ đi làm người đi học. Đối với anh ấy bữa cơm chung rất là quan trọng để vợ chồng mẹ con gần gũi nhau. Hôm nào đi làm về mà thấy con ăn cơm xong hoặc vừa ăn vừa xem tivi là anh ấy "xụ mặt" ngay. Nhiều khi tôi phải giải thích là các con đi học cả ngày, chiều đứa thì chơi bóng chuyền, đứa đánh quần vợt. Về đến nhà đứa nào cũng đói quá làm sao đợi đến bảy, tám giờ tối. Còn bà nội mấy cháu năm nay đã bảy mươi sáu tuổi, người lớn không nên để bụng đói sẽ mất sức hay đau bao tử, vả lại bà quen bên Việt Nam dùng cơm lúc năm giờ chiều.

Bây giờ tôi muốn giúp Thịnh ăn kiêng nên đề nghị với anh là tôi sẽ nấu nướng giản dị hơn. Nhất là tránh nấu những món Thịnh thích như gà xào mặn với gừng, cá bông lau kho tộ, mắm chưng.

Tôi còn nhớ lúc Thịnh tám, chín tuổi, mỗi lần tôi làm mắm chưng là Thịnh khoanh tay: "Cám ơn mẹ làm mắm chưng". Khi Thịnh ăn mắm chưng là phải ăn với dưa leo. Khi ăn bò nướng vỉ hay nhúng dấm Thịnh chấm với mắm nêm. Mắm kho và rau Thịnh cũng biết ăn. Mặc dù Thịnh ưa mắm và tôi cũng rất thích cho con ăn thức ăn dân tộc nhưng tôi rất ít nấu vì sợ Thịnh bị dị ứng hay bị suyễn, kéo đàm.

* *
Cường không phê bình về nghề nghiệp của tôi gì cả, nhưng những lúc gần đây Thịnh nói với tôi: "Con không thích mẹ làm bông". Tôi hỏi tại sao? Thịnh nói: "Con thích mẹ có nghề nghiệp chính thức."

Tôi nói với Thịnh nghề cắm hoa cũng là một nghề tốt vậy. Tôi có thể làm rất nhiều tiền hay nổi tiếng, nếu tôi bỏ nhiều thì giờ đi trình diễn, hoặc tham dự các cuộc thi cắm hoa lớn. Nhiều bà chủ tiệm muốn tôi làm toàn thời gian và hứa nếu làm lâu, họ sẽ bảo trợ tôi trong ngành này để tôi gia nhập hội và đại diện tiệm hoa đi tham dự các nơi.

Tôi hỏi Thịnh: "Vậy con thích mẹ viết báo hay làm cho đài truyền hình hơn à? Mẹ có thể nổi tiếng và làm nhiều tiền hơn nhưng mẹ phải làm đi làm xa vì các đài truyền hình và các hảng phim ở tận Hollywwod lận. Nếu làm những nghề đó mẹ phải đi, có khi cả tuần hay cả tháng như bác Sang ở đài NBC vậy. Rồi ai đưa rước, nấu ăn dọn dẹp cho tụi con?" Tôi nói đến đây, Thịnh làm thinh không trả lời, nhưng tôi biết sự chọn lựa của Thịnh.
Lúc trẻ con xóm tôi bắt đầu hư hỏng, bỏ học, hút thuốc, hỗn với cha mẹ, vợ chồng tôi thật là bối rối, có ý định dọn nhà đi, hoặc là xin chuyển con đi trường khác, để nó không bị ảnh hưởng của bạn bè.

Chúng tôi đã dọn nhà từ Long Beach xuống Mission Viejo vì nghĩ rằng vùng này sự giáo dục tốt và khí hậu ít ô nhiễm để Thịnh và Cường bớt suyễn và dị ứng. Lúc mới về ở đây thì tất cả các đứa bé hàng xóm đều học tiểu học. Mỗi năm trôi qua, các đứa bé lớn dần và sự khổ tâm của các cha mẹ khu tôi ở bắt đầu gia tăng. Nhất là kể từ khi trẻ con bắt đầu lên lớp bảy, lớp tám.

Lúc thì bà hàng xóm ngang nhà tôi mắng vốn Mary ở gần nhà là anh em Mark chọc ghẹo Laura, liệng giấy con bé hay tuột quần đưa mông cho con bà. Hôm thì Mark lén ăn cắp xe hơi chạy bị cảnh sát bắt. Có hôm tôi đi làm về thấy hai ba xe cảnh sát bên cạnh nhà. Sau đó mới biết Mark bị ba đánh nên gọi cảnh sát. Một ông cảnh sát nói chuyện, khuyên giải Mark ở trước nhà. Trong phòng khách thì hai ông khác nói chuyện với vợ chồng Mary.
Thịnh hay khó khăn với em nhưng quá tốt và yếu mềm với bạn bè. Bạn mượn gì Thịnh cũng cho. Lúc thì đồ chơi, lúc thì xe đạp, hoặc tiền. Khi Thịnh cho Dany mượn đến mười đồng, tôi bảo Thịnh phải đòi. Tôi nói: "Mẹ cho con tiền ăn bánh sao con cho nó mượn hoài vậy. Nếu nó mượn thì phải trả". Mỗi lần tôi bảo Thịnh đòi dĩa hát, xe đạp, băng nhạc, đồ chơi điện tử hay tiền đã cho bạn mượn, Thịnh cứ khước lần hoặc trả lời: "Con có đòi rồi". Tôi có cảm nghĩ Thịnh hay tội nghiệp những đứa bạn kém may mắn hơn vì cha mẹ chúng nó ly dị.

Có lúc chúng tôi quyết định dọn nhà, nhưng những căn nhà mới mắc tiền và lại nhỏ hơn căn nhà chúng tôi đang ở. Căn nhà chúng tôi đang ở có cửa sau đi xuống dưới đồi là trường tiểu học La Tierra. Chúng tôi mua căn nhà này để tiện cho việc hai con đi học gần và để khi bà nội qua đoàn tụ có thể nhìn các cháu lúc ra chơi cho đỡ buồn khi các cháu đi học, các con đi làm. Nhưng lúc bà nội qua Mỹ thì Thịnh, Cường đã lên trung học vì xin giấy quá lâu.

Có một lần tôi hỏi ý kiến ông thầy của Thịnh là có nên chuyển Thịnh sang một trường khác để xa đám bạn không? Thầy Thịnh khuyên, tốt nhất là giữ và theo dõi con, rồi hướng dẫn nó vì ở trường nào cũng có học sinh tốt và học sinh xấu.

Khi Thịnh, Mark, Dan, Scott lên trường trung học Mission Viejo thì Thịnh thường xin cho các bạn quá giang đi học hoặc đi làm. Thịnh thường hay hỏi tôi lúc tôi ngừng xe đón Thịnh và Thịnh dắt đám bạn đứng sẵn bên xe để cho tôi không từ chối. Trực và Toàn hay quá giang nhiều nhất. Toàn thì không nói làm gì vì ba nó đi học tập rồi chết, mẹ nó có chồng khác nên nó qua Mỹ ở với chú. Còn những đứa khác đều có cha mẹ đầy đủ nên nhiều khi tôi bực quá cằn nhằn Thịnh thì Thịnh bảo tại ba mẹ tụi nó bận hay đi làm. Tôi nói: "Mẹ cũng biết đi làm vậy nhưng mẹ muốn dành thì giờ cho hai con, chứ không lẽ mẹ phải lo hết cho lũ con của hàng xóm".

Tôi biết trẻ con hàng xóm bực bội tôi và hay chế nhạo Thịnh là có mẹ chăm sóc như em bé. Mỗi lúc Thịnh chạy qua trước sân lúc tụi nó đang tụm năm tụm ba nói chuyện chơi, hút thuốc, chửi thề, nhổ nước miếng rồi vặn nhạc xe hơi đùng đùng, là tôi gọi Thịnh về. Chúng thường nhìn tôi với đôi mắt thiếu thiện cảm. Mỗi lần vào nhà tôi chơi, tụi chúng cũng không biết chào hỏi người lớn.

Thịnh thương bạn nên rất thích tôi chơi với mẹ của bạn. Mỗi lần tôi đi sắm quần áo hay đi chợ Việt Nam ở Bolsa với Mary, Thịnh rất mừng. Mary và đứa con út rất mê phở. Lúc đám nhỏ còn học tiểu học tôi thân với Mary hơn. Mary là người đảo Guam. Ba mẹ Mary sinh mười lăm đứa con. Mary nói lúc nhỏ rất nghèo, nhà anh chị em đông nên thường phải ăn cháo mới đủ cho cả nhà. Có lẽ Mary lai Phi nên hơi đen. Mỗi lần nhà Mary có tiệc thì tôi thấy họ hay nướng thịt ba rọi và ăn ngon lành.

Lúc tôi mới dọn nhà đến, thằng con út của Mary mới vào lớp chuẩn bị mẫu giáo (pre-school). Mỗi lần tan học nó phải chạy vòng vòng ngoài sân cho đến khi hai anh nó đi học về mở cửa cho nó vào. Tôi có tánh hay "lo chuyện thiên hạ" nên hay tội nghiệp thằng bé vào những lúc trời mưa. Mary để mấy đứa con ở nhà quen rồi nên chỉ thỉnh thoảng gọi điện thoại hỏi thăm.

Tôi thường hay khéo léo nói xa gần khuyên Mary. Tôi bảo nếu con còn nhỏ mà mình không lo, xem chừng thì lúc nó lớn mình mệt lắm. Mary cũng hiểu, lúc nào cũng "I know, I know" (tôi biết, tôi biết) nhưng vẫn vậy.

Có một lần cuối tuần cả nhà Mary đi cắm trại, đứa con trai lớn ở nhà mở tiệc. Bạn bè nó kéo đến càng lúc càng đông, vì hễ chúng nghe có chỗ mở tiệc là không được mời cũng kéo đến. Tôi có cảm tưởng căn nhà hàng xóm tôi sắp xập đến nơi nếu cảnh sát không đến kịp. Sau đó Mary kể cho tôi nghe vì bọn trẻ kéo đến đông quá, Tom anh của Mark gọi chú đến tiếp để đuổi đi, vì không có ba mẹ nên không dám gọi cảnh sát. Thế là có đánh lộn, Mary nói nhà bà bị thủng vách tường và bà phạm luật vì con bà dưới mười tám tuổi mà có ấu đả, mở tiệc lúc không có cha mẹ ở nhà. Tom xong trung học thì đi Oklahoma học hai năm nghề sửa xe.

Khi Thịnh và lũ bạn lên lớp mười, tôi thường thấy Mark ở nhà hoặc ở tiệm rượu trong giờ học. Dần dần đến Dan, bạn cũ ở sau đồi. Thịnh hay lén tôi lấy xe chở Jennifer bồ của Mark và lũ hàng xóm đi. Khi thì đi xin việc làm, khi đi sắm sửa hay đi chợ. Thịnh xin phép tôi đi đâu một chút, dặn tụi bạn đi bộ ra đầu đường rồi Thịnh chạy ra đó rước. Tôi thường nói với Thịnh: "Thịnh à, chuyện đó để ba mẹ tụi nó lo. Ba mẹ tụi nó có trách nhiệm phải lo cho tụi nó. Mẹ không đổ xăng để con chở tụi nó như vậy. Còn con phải dành thì giờ học bài chứ không có "đi chơi vòng vòng" với tụi nó hoài mẹ không bằng lòng". Tôi dọa lấy chìa khóa xe lại không cho Thịnh lái xe nữa, nhưng Thịnh cũng vẫn vậy.

Tuy nhiên từ khi Mark bỏ học, xin việc không được vì để tóc dài, rồi Jennifer có bầu, gia đình phải đưa lên ở thành phố Los Angeles. Cô ta phải ở trong trung tâm dành cho nữ học sinh vị thành niên có bầu mà không được nhìn nhận. Từ hôm đó trở đi Thịnh có vẻ suy nghĩ và lo học, lo tương lai hơn. Nhất là Thịnh thấy Jennifer phải xin trợ cấp xã hội, thẻ y tế... Thịnh thấy tương lai của bạn mình mờ mịt. Lúc này tôi không cần giải thích hay khuyên dạy Thịnh nữa mà tôi biết Thịnh sẽ tự suy nghĩ lấy.

29-4-1991.

Phượng Các
#19 Posted : Thursday, March 31, 2005 10:43:04 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
THẰNG LÙN

Thằng Lùn là biệt danh của Louis Trần Phú Cường. Louis là tên ông xì-pông-xo gốc Do Thái của gia đình tôi. Cường rất ghét ai gọi nó bằng cái tên Louis nên cái tên này bị "dẹp tiệm" ngay từ lúc nó còn nhỏ. Các cô, các thầy, các bạn Mỹ phải bẻ miệng chu môi khi đọc tên nó, mỗi người phát âm một cách, nhưng chẳng ai gọi đúng. Kẻ thì đọc "cung", "coong" v.v... Vậy mà thằng Lùn vẫn nhất định không chịu xài tên Louis. Mỗi khi tôi hoặc ông xã gọi nó bằng Louis để chọc ghẹo nó thì nó cười nói:"It sounds stupid!".

Có một lần tôi đọc nhật ký viết ở Đà Lạt cho cu Thịnh lúc còn nằm trong bụng mẹ. Thịnh không chú ý nhiều hoặc có vẻ hơi quê vì không đọc giỏi chữ Việt Nam, riêng Cường thì chú ý lắm. Cường hỏi: "Mẹ à, mẹ có viết gì về con không mẹ?" Tôi "ngớ" ra không biết trả lời sao. Chẳng biết tại sao tôi không viết gì về Cường. Có lẽ lúc mang bầu nó là lúc chúng tôi đang còn hoang mang với tâm trạng, nào mất nước, đổi đời, đầu óc còn nhớ lại chuyện lăn lóc tại các trại tị nạn, nay trại này, mai trại khác.

Chúng tôi quyết định có thêm một thằng nhóc để cho hai anh em nó có bạn khi gia đình chúng tôi ở trong trại định cư Fort Chaffee, Arkansas. Chiều chiều, sau khi xếp hàng lãnh cơm ăn xong, hai vợ chồng chúng tôi thường dắt Thịnh (lúc đó khoảng một tuổi rưỡi) đi dạo vòng vòng trong trại. Chúng tôi thường bàn chuyện tương lai trong lúc bách bộ. Hai đứa nghĩ nếu tôi không có bầu thì khi ra khỏi trại, bị cuốn vào "guồng máy xứ Mỹ" chúng tôi sẽ không dám có đứa thứ hai nữa. Cuộc sống xứ lạ quê người hẳn là sẽ khó khăn, vất vả, muốn có thêm con, chúng tôi phải có ngay trong thời kỳ chờ đợi này.

Vậy là một tháng sau tôi đi khám ở bệnh viện của trại và kết quả là chúng tôi sẽ có một thằng nhóc thứ hai. Sở dĩ biết trước có thêm một đứa con trai vì tôi có linh cảm và một phần nào ông thầy tử vi đã xem cho tôi lúc tôi mới sanh Phú Thịnh. Ông ấy bảo thằng em sẽ học khá hơn thằng anh, gia đình tôi sẽ xuất ngoại và nhập tịch ngoại quốc. Ông xã tôi không tin vì ông rất ghét thầy bói. Lúc đó tôi nửa tin nửa ngờ vì ông xã tôi đang dạy ở Võ Bị Đà Lạt. Tôi bảo đùa: "Chắc là anh xuất ngoại qua Kampuchia đánh giặc quá".

Thịnh được sinh ra ở Việt Nam mà lại cao và lớn nhanh như thổi. Còn Cường, sinh ngay trên đất Mỹ thì nhỏ con. Thằng anh mập mạp, chúng tôi phải canh cho nó đừng ăn nhiều. Thằng em, ngay khi còn nhỏ, cứ phải mang đi cân đi đo, rồi hỏi bác sĩ sao nó chậm lớn quá. Lúc nhỏ Cường bị dị ứng nên phải bú sữa Isomilk. Trẻ con uống sữa này ít khi sổ sữa. Cường không ăn cheese, không ăn mayonnaise, không thích uống sữa... Những gì mà Cường không thích, Thịnh lại mê. Nhiều bữa cơm tôi phải rầy la hò hét, Cường mới chịu ăn thêm, nếu không thì chỉ ăn một chén.

Gia đình tôi đến Minnesota vào tháng 6, 1975. Công ty xuất nhập cảng Weinstein đã bảo trợ cho đại gia đình chúng tôi. Thế là sau khi định cư được một tuần, ba và ông xã tôi đi làm ngay. Đây là giai đoạn hạnh phúc nhất vì đại gia đình tôi sống gần nhau và ba luôn luôn gần gũi mẹ và chúng tôi. Lúc đó mang bầu nên tôi quanh quẩn trong nhà nấu nướng, chỉ ra ngoài khi đi chợ và ban đêm đi học Anh văn.

Tôi bắt đầu học hỏi cuộc sống Mỹ và có cảm tình với người Mỹ qua hai vở kịch trong truyền hình "Search for Tomorow" và "The Young and The Restless". Riêng Thịnh thì hay xem Fonji với các cậu, nên ở nhà hay bắt Thịnh bắt chước bộ điệu của tài tử Fonji. Thế là Thịnh đứng ẹo một bên, một ngón tay cái chỉ ra phía sau lưng.

Gia đình chúng tôi ở trong hai căn chung cư, mỗi căn được hai phòng. Sau đó gia đình ông bạn thân của ba tôi, một người anh họ và hai người cháu của ba mẹ tôi cũng về đó, nên nhà tăng lên mười sáu người mà chỉ có một chiếc xe hơi. Thời đó, điều mà chúng tôi mừng nhất là mua được nước mắm. Tôi và cô em họ hay chặt gà để nấu gà xào mặn. Mỗi lần làm món này thì cứ y như ở tầng dưới dộng cây lên rầm rầm phản đối tiếng khua chặt gà. Vì đông người, nên tiếng chân nhiều và nhất là cu Thịnh chạy tới chạy lui nên chúng tôi hay "bị" than phiền. Thế là mỗi lần làm gà xào mặn, sườn ram, giò heo hầm măng... cậu em họ lại phải bưng thớt, bưng thịt xuống tận dưới hầm chỗ đậu xe để chặt.

Lúc Cường được sáu tháng, tôi đi học tại Đại học Minnesota. Lúc đầu tôi định theo ngành báo chí nhưng sau đổi qua ngành truyền hình. Tôi biết hai ngành đó đều khó nhưng quyết học, vì tôi tức giới truyền thông Mỹ lúc đó làm như quên chuyện chúng tôi bị mất nước, nhất là khi đọc những bài báo nói không đúng về chiến tranh Việt Nam hay các chương trình truyền hình xuyên tạc sự thật. Bực nhất là khi xem chương trình truyền hình "Vietnam 30 Months, After Thirty Years of War". Tôi nghĩ rằng dù không viết hay nói giỏi tiếng Mỹ, mình cũng vẫn có thể thực hiện những chương trình truyền hình nói về Việt Nam một cách xác thực. Vậy là tôi đổi sang học truyền hình. Nhưng khi ra trường đi làm truyền hình, tôi mới vỡ mộng và chuyển sang ngành cắm hoa không một chút luyến tiếc. Giả thử mà tôi không có lý tưởng gì cả, chỉ học truyền hình, rồi kiếm việc đi làm, chắc cuộc đời tôi đã khác biệt lắm rồi...

Tội nghiệp cho gia đình nhỏ bé của tôi. Hai anh em thằng Lùn lúc còn nhỏ phải đi săn tin với mẹ. Nào là biểu tình 30 tháng tư, đánh dấu ngày mất nước, rồi hội thảo, văn nghệ đấu tranh... Lúc dọn về Cali ở Long Beach tôi đi học toàn thời gian, lại viết cho hai tờ báo tiếng Việt, nên lúc nào cũng bận rộn. Ông xã tôi thì lái xe đi theo giữ con. Không biết thuở xưa mà anh ấy biết có vợ viết báo cực như vậy thì anh có đợi tôi đến bảy năm hay không?

Lúc mới đậu tú tài, tôi ghi tên học luật. Ba tôi muốn tôi học ban kinh tế để đi làm ngân hàng. Tôi thấy học luật vất vả quá. Mỗi ngày phải đến sớm để "giành chỗ". Lúc học thì đè lên lưng lên cổ nhau để ghi "cua", nên tôi qua đại học Vạn Hạnh xem thử. Tôi thấy không khí ở đây thật là thoải mái, không giành giựt chen lấn, không phải "gạo" bài dày cộm và nhất là tôi biết tánh tôi không học được lối từ chương.

Sau khi đọc kỷ yếu ngành báo chí, tôi thích quá nên về nhà xin ba đổi ngành. Ba tôi nói làm báo "nghèo" lắm. Ba hỏi hay là ba cho tôi đi qua Nhựt học sửa sắc đẹp. Tôi bảo làm nghề này chỉ sửa cho các cô các bà bề ngoài thôi mà tôi muốn giúp cho mọi người về tinh thần cơ. Tôi nhớ có một giáo sư bảo viết báo có thể giúp được hàng triệu người gì đó. Tôi mê cái ý này lắm nên nhất định học báo chí.

Tôi cố thuyết phục ba. Tôi nói: " Con thấy học báo chí con sẽ được mở mang kiến thức về rất nhiều vấn đề. Vả lại có kiến thức con sẽ dạy cho con của con, và nghề này vừa đi làm vừa có thì giờ lo cho con ba ạ." Thế là ba tôi đồng ý. Khi ở Việt Nam lúc tôi viết phóng sự cho báo Chính Luận, mỗi bài được trả 3.000 đồng tiền nhuận bút. Lương ký giả tờ báo này theo tôi được biết là khoảng 60 ngàn. Cũng gần ngang với lương phụ tá giám đốc của tôi tại công ty hải sản đông lạnh PASEFOCO bên kia cầu chữ Y.

Qua xứ Mỹ ông xã tôi lại phải nuôi tôi để tôi đi học truyền hình và viết báo. Viết cho báo tị nạn không có nhuận bút nên phải có thiện chí và lý tưởng lắm mới viết được. Cuối tuần, ngoài việc đi chơi với gia đình, nghỉ ngơi, dọn dẹp nhà cửa hay lo chợ búa, người viết báo còn phải đi săn tin vì các sinh hoạt cộng đồng chỉ nhằm vào những ngày nghỉ. Ngoài ra còn phải tốn kém nhiều thứ như gởi thư hỏa tốc, mua phim, rửa hình lấy liền, để gởi về tòa soạn cho kịp lên khuôn. Đã học về báo chí và viết lách chuyên nghiệp, lại cứ phải viết "chùa" tháng này qua năm khác nhiều khi cũng tủi thân. Nhưng báo chí Việt ngữ hải ngoại, những năm đầu, có được là do sự hy sinh chung từ nhiều phía.

Nhiều lúc tôi cằn nhằn ông Đinh Thạch Bích chủ nhiệm báo Việt Nam Hải Ngoại khi có dịp đến thăm tòa soạn. Ông ấy bảo báo của ông không có quảng cáo, mỗi lần in báo ông đều phải đắp tiền túi vào. Tòa soạn của ông rất nhỏ, nằm tầng dưới căn nhà ông đang ở và ông cùng các cộng tác viên đều phải thức đêm để làm báo. Tờ báo khác mà tôi cộng tác cũng thế, lúc lên San Jose thăm, tôi thấy tòa soạn báo Người Việt Tự Do ấn bản Mỹ Châu không có sưởi nên mùa đông anh Đỗ Thông Minh bệnh. Vậy là viết bài đã không có lãnh nhuận bút, lại còn phải mua thuốc bổ mang đến biếu các anh, vì thấy họ làm việc cho lý tưởng.

Khi hai tờ báo tôi đang hăng say cộng tác đứng về hai phía, tôi rất buồn nên gác bút một thời gian khá lâu. Tờ Người Việt Tự Do đóng cửa chuyển qua làm tờ Kháng Chiến của Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam do Tướng Hoàng Cơ Minh lãnh đạo, còn tờ Việt Nam Hải Ngoại chống lại Mặt Trận này. Lúc bấy giờ báo Việt Nam Hải Ngoại ủng hộ Lực Lượng Quân Dân (bị Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi ký văn thư giải thể để gia nhập Mặt Trận QGTNGPVN) còn lại của Đại Tá Lục Phương Ninh.

* *
Có lẽ thằng Lùn sẽ giận tôi. Nó sẽ hỏi tôi viết về nó hay viết về tôi cũng nên. Lúc tôi tốt nghiệp đại học Long Beach, Lùn được bốn tuổi mà còn ôm chai sữa. Tôi thường bắt các con đi cúng, rồi ngồi niệm Phật năm mười phút trước khi đi ngủ. Thịnh thì có da có thịt nên lúc nào cũng ngọ nguậy còn Cường ngồi tham thiền rất yên. Thịnh hay chắp tay trên ngực còn Cường thì để hai tay trên đầu gối, ngón cái và ngón trỏ giao nhau. Có lần Cường nói: "Con feel được energy, mẹ ơi".

Cường bị tai nạn hai lần do trẻ con hàng xóm gây nên. Một lần Cường đang đạp xe ba bánh bằng mủ thì chú bé Mễ hàng xóm xô Cường té bể trán mang xẹo. Lần khác, Cường đang cùng trẻ con hàng xóm chạy xe đạp trên các ụ đất của căn nhà bên kia đường thì bị một đứa bạn xô té gãy chân.Tính Cường can đảm, ít nhỏng nhẻo than thở khi đau như Thịnh. Lúc Cường gãy chân là khoảng thời gian tôi đang cảm thấy những biến chuyển tâm linh rất mạnh mẽ và đang cố ghi lại những cảm nhận, kinh nghiệm về các trạng thái tâm linh của mình. Thời gian này tôi bỏ nửa chừng chương trình cao học về truyền hình giáo dục cho trẻ con tị nạn mà tôi đang theo để lấy các lớp về tôn giáo, thiên văn học... và đọc rất nhiều sách, cũng như gặp nhiều người để thảo luận và học hỏi. Tôi nghĩ rằng những đứa bé ở Việt Nam mới cần tôi chứ ở xứ Mỹ chương trình giáo dục trẻ em trên truyền hình thiếu gì.

* *
Anh Lùn của tôi có lẽ sẽ cho rằng mẹ nó lại lạc đề rồi. Cường còn có một cái biệt danh nữa là "ông già hà tiện". Cường xài tiền rất kỹ và cất rất ngăn nắp. Đôi khi muốn tập cho con để dành tiền, tôi mở trương mục cho con để tiền lì xì vào sau mỗi dịp Tết. Trong khi tiền của Cường càng ngày càng tăng thì Thịnh rút lần rút hồi và xài cho đến hết.

Tuy nhiên Cường hà tiện rất đúng cách. Cường để dành tiền mua xe đạp, hoặc đồ chơi hay món gì Cường thích. Vì vậy để thưởng công cho con, chúng tôi thường trả phân nửa hay một phần món gì mà Cường muốn mua. Thịnh ăn xài lớn nên chỉ còn cách chơi ké đồ chơi của em. Một hôm tôi hỏi hai anh em khi lớn lên tiền kiếm được để làm gì? Thịnh nói phân nửa cho trẻ em ở Phi Châu, phân nửa số tiền còn lại cho người nghèo, còn lại chút ít Thịnh xài. Tôi hỏi Cường thì "ông già hà tiện" nói: "Không cho ai đồng nào hết vì cho thì không đủ tiền xài". Tôi hỏi: "Vậy con không giúp trẻ em ở Phi Châu sao?" Cường thản nhiên trả lời: "Để cho Micheal Jackson lo". Lúc đó Micheal Jackson và Lionel Richie phát hành dĩa nhạc "We Are The World" để lấy tiền cho trẻ em Phi Châu. Có thể Cường có lý vì chỉ sáng tác có một bản nhạc mà Micheal Jackson đã thu được nhiều triệu bạc.

Thấy Cường có vẻ tính toán quá nên tôi buộc Cường phải tiếp tục học đàn. Cường nhất định chỉ học đàn hết năm lớp bảy rồi ngưng. Cường cho rằng học đàn mất thì giờ và điểm nhạc thấp làm cho điểm trung bình của Cường xuống. Tôi dụ Cường bằng cách thưởng tiền khi Cường đi trình diễn cho các ông bà già xem hay hòa tấu ở trường tiểu học cũ, để giới thiệu ban nhạc ở trường nó. Ông xã tôi hay "yếu lòng" nói với tôi: "Thôi em ạ, con nó không thích thì đừng ép tội nghiệp". Tôi bảo: "Nó tính toán quá nên phải cho nó học âm nhạc để cho nó có tình cảm, mơ mộng, nghệ sĩ tính một chút chứ. Con nít có khi nó biết nó thích, nhưng cũng có khi nó không biết nó có năng khiếu trừ khi nó thử anh ạ."

Lúc ở Minnesota, hai con còn nhỏ, tôi thường mở nhạc êm dịu cho con nghe suốt đêm. Tôi thấy xã hội tây phương cuồng loạn quá. Sách báo, phim ảnh toàn là bạo lực, khiêu dâm mà tôi không thể không cho con xem truyền hình được. Phim về giáo dục có giới hạn mà tôi còn phải đi học, đi làm không thể ngồi kế bên con hoài để kềm giữ nó. Nhất là lúc nó lớn, nó học những gì ở bạn bè, phim ảnh mình đâu có biết. Vì vậy, việc đưa vào tâm hồn chúng những âm nhạc êm dịu, những tình cảm thương yêu, tôi cho là cần thiết.

Thấy mướn đàn tốn kém quá, "ông già hà tiện" bèn đề nghị tôi mua cho cu cậu một cây đàn. Dĩ nhiên chàng lựa đàn hơi to hơn khổ người của chàng để "được xài lâu" và mẹ khỏi tốn thêm tiền mua cây khác. Thế là thằng lùn của tôi tiếp tục học đàn vĩ cầm cho đến năm nay lớp chín và đàn cùng ban hòa tấu với Thịnh ở trường trung học Mission Viejo.

Thịnh lúc nào cũng thích cả nhà xem chàng trình diễn với cây hồ cầm to tổ bố, xứng với chiều ngang và chiều cao của nó. Riêng Cường vì tự cho rằng mình đàn dở nên thường trốn ở hàng ghế phía sau và vì Cường nhỏ con nên mỗi lần đi xem, chúng tôi phải cố tìm mới thấy Cường.

Năm nay là năm tôi thấy kết quả nhất đối với việc hướng dẫn Cường. Tôi không thấy Cường than phiền về việc học nhạc nữa mà lại có vẻ thích thú khi đệm đàn cho các bạn trình diễn trên sân khấu. Mặc dù rất bận rộn vì mỗi chiều đều tập quần vợt hoặc qua các trường khác đấu giao hữu, Cường vẫn giữ đủ bốn hôm đi trình diễn ở trường và ở nhà hưu dưỡng Leisure World cho người già. Điều ngạc nhiên nữa của chúng tôi là Cường mở nhạc cổ điển rồi ngồi bên cạnh máy hát nghe hòa tấu hàng giờ, nhất là mấy bản nhạc độc tấu bằng vĩ cầm. Đôi khi tôi tự hỏi mình có sai không, khi tôi buộc con tôi học một môn học mà nó không thích? Tôi xét lại các môn khác Cường đều giỏi như cũ. Như vậy thì việc học đàn đâu có trở ngại việc học. Nếu mọi sự học hỏi của Cường đều tiến triển đều, năm tới Cường sẽ vào đội tuyển quần vợt của trường và Cường sẽ đoạt đẳng cấp Hướng Đạo Phượng Hoàng trước khi tốt nghiệp trung học. Vậy việc tôi ép Cường trở lại Hướng Đạo cũng đâu có chiếm thì giờ và gây trở ngại cho việc chơi quần vợt của Cường như Cường lo ngại.

Sau hết tôi ngại cho chiều cao của thằng Lùn (sợ các cô chê). Lúc này Cường cũng chịu khó ăn, có lẽ vì thấy bạn bè "nhổ giò" hết nên chàng cũng bắt đầu lo. Chàng cho tôi biết Harvey, người bạn Phi lai Mỹ của chàng nhờ uống thuốc bổ mà khá nên tôi cũng mua cho chàng uống, và chàng bắt đầu ăn nhiều thật. Khi tôi viết những hàng chữ này thì Lùn cao hơn một tí. Lùn có vẻ khoái chí lắm và cứ hay dắt tôi lại kiếng để đo xem đã cao hơn tôi chưa. Có lẽ tôi phải chuẩn bị đặt cho Cường một cái tên đặc biệt khác?

22-5-1991

Phượng Các
#20 Posted : Thursday, March 31, 2005 10:44:16 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
NHỚ CON GÁI NUÔI

Mission Viejo, 11-11-1991.

Trang thương,
Thấm thoát mà con đã rời ba mẹ để đoàn tụ với ba má ruột của con được sáu năm. Hôm chủ nhật vừa qua khi đến nhà con ăn đầy tháng thằng cháu ngoại đầu lòng, mẹ thấy nhớ con nhiều. Cả khoảng thời gian con ở trong vòng tay ba mẹ như sống lại.

Khi con rời trại tị nạn Phi Luật Tân qua Mỹ với ba mẹ tại căn nhà ở Long Beach thì mỗi tối Cường còn "tu" một chai sữa. Tựu trường năm đó con vào lớp chín trường Los Alamitos. Con gái nuôi của ba mẹ được mười ba tuổi. Cái tuổi con gái còn thơ ngây nhưng con đã trải qua nhiều kinh nghiệm thương đau do hoàn cảnh gia đình, đất nước.
Mẹ còn nhớ mỗi đêm sau khi ba mẹ và ba chị em con đi cúng, rồi ngồi yên niệm Phật xong, con hay kể chuyện "bên nhà" cho mẹ nghe. Con hay lo lắng không ai đạp xe chở má Vân của con đi bán vải, không ai lo cho các em con ở Việt Nam còn nhỏ dại. Con kể chuyện nuôi vịt, nấu cơm, giữ em. Con kể có một lần trời giông bão, căn nhà lá của gia đình con bị gió cuốn đi. Bỗng chốc mấy chị em con ngồi giữa trời, sợ quá ôm nhau mà khóc.
Xúc động nhất là lần mẹ phỏng vấn con về chuyện má Vân và bốn chị em con lặn lội ra Hà Nội thăm ba con đang bị học tập trong trại cải tạo. Hai mẹ con, kẻ nói người nghe mà khóc sướt mướt. Lúc mẹ viết bài, mẹ cũng khóc, khi báo đăng, đọc lại mẹ cũng khóc.

Con biết không, đọc giả của báo Đuốc Từ Bi, tới giờ vẫn có người biên thơ nhắc bài đó với mẹ, họ nói bài đó rất thương tâm. Trước khi con qua Mỹ, mẹ cũng có nuôi một đứa con nuôi tên Mỹ Tiên. Mỹ Tiên cũng con đầu đàn, ba là sĩ quan không quân đã chết vì rớt máy bay lúc ra trận, mẹ phải bán bánh nuôi cả đàn con.

Cũng như con, đêm nào Mỹ Tiên cũng kể chuyện Việt Nam. Chuyện người ta nghèo phải đi xin gạo, chuyện cộng sản ác, trẻ con đói, bơ vơ nên trở thành trộm cướp bất lương. Mỹ Tiên sống với ba mẹ năm đầu khi gia đình mới từ trại tị nạn bên Nhật qua Mỹ định cư. Sau thời gian khó khăn, Mỹ Tiên trở về sống với mẹ và các em ở Long Beach. Con và Mỹ Tiên tuy có khổ, nhưng còn may mắn là được đi học nên qua Mỹ không gặp khó khăn về vấn đề học vấn. Riêng Thanh Hằng và Thanh Vân, cháu của ba mới qua học rất vất vả. Hồi ở Việt Nam vì không có hộ khẩu, nên hai chị em phải nghỉ học nhiều năm, qua đây lại phải vào học lớp 7, lớp 8. Hằng, Vân theo bà nội và các cô qua đoàn tụ với ba vào tháng 9,1989.

Hình ông ngoại chụp hôm đi rước bà nội trông còn khỏe mạnh tươi cười vậy mà tháng 12 năm đó ông ngoại mất. Sau đó một tháng, gia đình dượng Sang, cô Út cùng Phượng, Hoàng, bé Phương cũng qua.
Dạo đó con theo chồng ở xa nên không về thăm mẹ thường. Ông ngoại mất, bà ngoại buồn, ốm và đau nhiều nên mẹ xuống tinh thần lắm. Hai em con là con trai, chỉ lo đi học rồi lại chơi banh. Phải chi có con ở gần để an ủi mẹ...


Mission Viejo, 25-11-1992.

Trang thương,
Sau nhiều năm sống gần mẹ, có bao giờ con thấy mẹ to tiếng trong nhà không? Vậy mà người mẹ "dịu hiền" của tụi con lúc sau này có dạo "phát khùng". Có những lúc Thịnh làm mẹ giận mẹ la. Có khi mẹ đập ly, đập dĩa lúc rửa chén cho hạ cơn nóng.

Có thể mẹ nóng nảy, hoặc yếu đuối. Nhưng sao đến nỗi như vậy? Có lẽ phải nói như vầy thì đúng hơn: Mình có những bản tính ẩn tàng mà khi có hoàn cảnh nó mới bùng vỡ ra.

Mẹ đọc lại nhật ký hồi nhỏ và cảm thấy xấu hổ. Mẹ thích đi tu, mẹ thích cứu đời. Nếu được ở cảnh chùa tĩnh mịch, được tu hành theo đúng giới răn, chắc mẹ sẽ tưởng mẹ là người hoàn toàn thoát tục. Không ngờ mẹ thích đi tu mà lại "quên" nên đi lấy chồng, có con rồi trôi nổi đến tận xứ Mỹ này. Ôi chao vật đổi sao dời! Thử nhìn lại lúc còn thơ ngây ngồi viết nhật ký với bao ước mơ, mẹ đâu có ngờ đã trải qua bao nhiêu bài học vui, buồn trong đời sống?

Trang thương,
Con cố gắng hưởng hạnh phúc của một đứa con còn đủ cha mẹ và làm tròn bồn phận của mình. Mẹ biết, dĩ nhiên có những điều khó khăn, dị biệt giữa hai thế hệ trẻ và già, nhưng con cố hành xử sao cho thật tốt đẹp, để sau này khỏi hối tiếc.

Nếu ông ngoại chưa mất, có lẽ mẹ chưa nếm được sự đau khổ tột cùng của một đứa con mất cha. Lúc ông ngoại đau ở nhà thương mỗi ngày một trầm trọng, thần kinh của mẹ căng thẳng, mẹ có cảm tưởng nó có thể đứt bất cứ lúc nào. Ông ngoại mất rồi, mẹ cảm thấy như cạn sức đề kháng, người cứ rũ riệt, đi đứng chênh vênh như còn có một chân. Lúc đó mẹ mới biết sự hiện diện của ông ngoại có tầm quan trọng đến mức nào trong đời sống của mẹ.

Sau đám tang, mẹ càng cảm thấy yếu đuối hơn. Mỗi lần bà ngoại đau thì mẹ đau theo. Gia đình như gặp phải một trận "sóng thần". Ba đồng ý cho mẹ "nhập thất" hai lần và việc này giúp mẹ lấy lại phần nào sự quân bình. Gọi là "nhập thất" cho vui chứ mẹ không làm đúng luật gì cả. Mẹ không "nhập thất" ở chùa vì sợ làm phiền các ni sư. Nếu để người khác phải lo chợ búa, cơm nước dùm mình thì tâm mẹ chắc lại bất an, vì vậy nên mẹ nhập thất ở ... nhà.

Nhập thất ở nhà thật thoải mái, vì không làm trở ngại cho bổn phận của mẹ đối với gia đình. Buổi sáng ba đi làm sớm, Thịnh, Cường, Hằng, Vân đi học. Sau khi cúng lạy xong, mẹ dọn dẹp nhà cửa, nấu cơm để sẵn. Mẹ không nghe điện thoại, ba có cần gì thì nhắn vào máy, bà nội qua nhà cô Út chơi một tuần. Có những lúc nắng ấm, mẹ đi bộ xuống đồi phía sau nhà, ngồi nhìn trời mây, cây cỏ, trong lòng thấy nhẹ nhàng lắng dịu. Khi các em về, mẹ vào phòng. Đó là căn phòng ngủ của con ngày xưa, bây giờ thành phòng đọc sách, có đặt bàn thờ Phật và ông bà.

Con biết không? Lúc nhập thất mỗi khi mẹ cần gì mẹ viết giấy. Chỉ có Hằng và Vân là làm đúng lời mẹ dặn còn Thịnh, Cường hay gọi mẹ ơi, mẹ à hoài. Mấy ngày đầu Thịnh gọi mãi không được còn tông cửa vào tìm mẹ nữa. Có hôm muốn xin đi chơi banh, Thịnh mở cửa nói: "Mẹ à, viết giấy mất công quá. Mẹ cho con đi chơi banh nhe. Mẹ chỉ cần gật đầu là được rồi." Hễ hôm nào Thịnh, Cường làm ồn hay cãi nhau mét mẹ um xùm thì mẹ viết giấy "mét ba". Mỗi chiều đi làm về ba đều hỏi: "Bữa nay có đứa nào làm phiền mẹ không?" Hễ ngày nào có "thơ" của mẹ là ba gọi hai cậu lại rầy.

Mặc dù buồi chiều và tối hơi ồn nhưng mẹ được nửa ngày yên tĩnh thật tuyệt vời. Mẹ hay đọc Bát Nhã Tâm Kinh khi ngồi nơi bàn viết cạnh cửa sổ. Mẹ thích nhìn cây cau và hàng dương trước nhà mình trong khi tai nghe chim hót líu lo. Buổi sáng nắng rực rỡ chiếu vào nơi mẹ ngồi, mẹ cảm thấy toàn thân ấm áp, sáng trong, quên đi bao nỗi lo lắng, phiền muộn. Mỗi thời cúng sáng chiều, sau khi đọc bài nguyện Cửu Huyền Thất Tổ và Tây Phương Ngũ Nguyện, mẹ đọc kinh Phổ Môn hay kinh Địa Tạng. Tâm hồn mẹ hướng nhiều về ông ngoại. Kỳ giỗ thứ nhì khi nhập thất, mẹ đọc thêm kinh Sám Hối. Nói là nhập thất để cầu nguyện cho ông ngoại nhưng người hưởng lợi sau các tuần lễ này chính là mẹ.


Mission Viejo, 12-12-1991.

Trang thương,
Các em Thịnh, Cường thường hỏi mẹ: "Sao mẹ nói Việt Nam bây giờ nghèo khổ mà mẹ cứ muốn con về. Bộ mẹ muốn con khổ sao?" Mẹ nói với hai em: "Việt Nam nghèo khổ vì chiến tranh, nhưng là đất nước của mình, mình phải về xây dựng lại."

Từ ngày Cường vào Liên Hiệp Quốc Mẫu (Model United Nation) ở trường, nó biết nhiều về tình hình thế giới, trong đó có tin tức về Việt Nam và trại tị nạn. Mẹ thấy cũng mừng. Mẹ không ép các em con điều gì, ngay cả tôn giáo. Mẹ quan niệm, điều gì chính chúng nó tự tìm hiểu và ưa thích mới đúng và có ích cho đời sống của chúng nó. Bổn phận mẹ là chỉ gieo hạt giống tốt vào tâm hồn các em con và hướng dẫn chúng, rồi chúng tự phát triển lấy.
Mẹ thường khuyên các em đừng nên phung phí tiền bạc hay thức ăn. Mẹ lấy thí dụ những nơi nghèo, đói khổ, trong đó có Việt Nam và các trại tị nạn để giảng dạy. Tuy nhiên mẹ nghĩ không thể nào các em con có thể hiểu tường tận bằng mắt thấy tai nghe.

Trang thân,
Hơn lúc nào hết, mẹ tự hứa cũng như lúc ở Nam Vang, mẹ sẽ trở về Việt Nam sau khi đất nước thanh bình, không còn chế độ cộng sản. Mẹ mong rằng tiện nghi vật chất thiếu thốn và đời sống khổ cực tại xứ mình không làm mẹ đổi ý. Mẹ sẽ bắt chước ông bà ngoại đem các em con về xứ sở, quê hương. Nhờ sự quyết định của ông bà ngoại trước kia mà mẹ không biến thành người mất gốc. Nhờ sự trở về đó mà mẹ biết yêu quê hương và gắn bó với hai chữ Việt Nam.

Thịnh và Cường có thể không biết Việt Nam như mẹ ngày xưa xa xứ lúc mười mấy tuổi. Chúng nó hoàn toàn lớn lên tại Mỹ nhưng nếu thương mẹ, sớm muộn chúng cũng sẽ theo mẹ về quê hương. Mẹ mong rằng ước vọng của mẹ sẽ thành đạt. Có một hôm, sau cơn động đất lớn ở San Francisco, Cường nói với mẹ: "Mẹ à, con không sợ gì cả, even earthquake (dù động đất), nhưng con sợ mất ba mẹ."

Mẹ biết mỗi thời mỗi khác, nhất là trước kia mẹ và các cậu, dì ở xứ Cao Miên, đời sống không khác Việt Nam cho lắm. Việt Nam ngày xưa cũng không nghèo đói, tan hoang như bây giờ, cho nên khi về nước, mẹ và cậu dì dễ dàng hội nhập hơn. Còn xứ Mỹ so với Việt Nam thì sự cách biệt quá lớn về đủ mọi phương diện. Mẹ sợ rằng các em sẽ khó hội nhập.
Mẹ quan niệm việc gì dù khó mà mình cố gắng, cuối cùng sẽ đạt được kết quả. Nếu các em không về Việt Nam luôn, nó sẽ về chơi, rồi dần dần sẽ quen và ít nhất nó còn biết đến xứ sở quê hương, còn hơn cứ tưởng là Mỹ rồi hãnh diện về cái quốc tịch Mỹ của nó.

Mẹ nghĩ nếu muốn con của mẹ làm điều gì, ít nhất mẹ cũng phải làm điều đó trước. Mẹ không thể lo thụ hưởng, rồi biểu con mẹ hãy hy sinh, yêu nước, yêu quê hương. Trang, con nghĩ mẹ nói có đúng không?

Con thương, có một điều mẹ hết sức muốn chia xẻ cùng con. Qua các kinh nghiệm trong cuộc sống mà mẹ đã trải qua, mẹ nghiệm thấy rằng "điều khiến cho con người hạnh phúc nhất là chấp nhận và sống giản dị như một người bình thường. Điều khiến cho con người luôn luôn khổ là muốn mình như thế này hoặc như thế kia, và sau hết là đừng nên che dấu những khuyết điểm mà chỉ phơi bày những ưu điểm của mình". Vì làm như thế sẽ đào sâu mặc cảm và biến mình thành con người giả tạo. Và con người giả tạo ấy dĩ nhiên luôn luôn có sự sợ hãi sẽ bị người ta lột mặt nạ. Khi con người muốn che dấu thì càng chống đỡ. Và khi càng chống đỡ thì càng tạo nên những rối rắm đau khổ cho chính mình và những người sống chung quanh.


Mission Viejo, 13-12-1991.

Trang ơi, con có biết không? Con nít hàng xóm của mình càng ngày tụ tập càng đông, nhất là ban đêm. Hôm nọ hai phe con gái, một bên là bồ của Mark, một bên là vợ chưa cưới của nó gây gổ ấu đả nhau, hàng xóm phải gọi cảnh sát.
Mary than với mẹ là có yêu cầu cảnh sát bắt Mark nhưng cảnh sát nói nó chưa đủ mười tám tuổi, họ không làm gì được hết. Mary mong nó đủ tuổi để đuổi nó đi, vì bây giờ nó không đi học, cũng không chịu tìm việc. Khi Mary đi làm, ở nhà Mark kéo bạn trai, bạn gái về bày biện, ăn uống, không dọn dẹp. Mary mệt mỏi và chán nản quá sức. Hôm trước ông chồng dắt đứa con lớn và đứa út qua tiểu bang khác làm việc, định xa Mary một thời gian xem hai người có còn muốn ở với nhau nữa không? Ba cha con đều không thích ở tiểu bang đó nên trở về. Hiện ông ta tạm thất nghiệp và phải bồi hoàn cho hãng số tiền mà họ đã trả cho việc dọn nhà và mướn chỗ ở tạm cho ông mấy tháng. Hôm qua mẹ thấy thằng con út của Mary bây giờ học lớp sáu trốn học, ở nhà chơi với Mark rồi. Hôm nọ mẹ nghe Thịnh nói nó còn bỏ nhà đi vì ghét ba nó. Thịnh, Cường cứ đòi ba mẹ dọn nhà vì sợ nguy hiểm. Ba mẹ cũng chiều tụi nó và thật sự cũng "ngán", vì Thịnh nói "Mark đã vào băng đảng rồi".

Thịnh muốn dời đi nơi khác nhưng cũng ở vùng Mission Viejo vì hai đứa quen trường, quen bạn. Ba mẹ lại không muốn vì nhà khu an toàn có cổng rào ở đây rất mắc. Ba mẹ định dời qua Aliso Viejo, khu mới thành lập nằm giữa Laguna Hills và Laguna Beach. Nơi này giá nhà hạ hơn nhưng lại bị tiền thuế nhà rất cao, một năm khoảng năm sáu ngàn. Ba mẹ kêu hai hãng địa ốc đến định giá nhà mình thì mới hay giá nhà dạo này xuống kinh khủng.

Bây giờ mặc dù nhà mới xây cất xuống giá, lãi xuất thấp, nhà ở cạnh hàng xóm có trẻ con tụ tập, mà ba mẹ vẫn quyết định không dọn đi nữa. Ba mẹ không muốn tạo cho gia đình một hoàn cảnh khó khăn thiếu trước hụt sau, trong lúc kinh tế suy thoái. Ba mẹ phải chọn lựa và quyết định ở lại nhà này vì Thịnh sắp lên đại học, còn Cường sắp lái xe. Chỉ hai đứa con thôi mà mẹ thấy tốn kém ghê. Một mình Thịnh mà tốn rất nhiều, mỗi tháng nào là tiền xe, xăng nhớt, bảo hiểm, tiền ăn kiêng, tiền hội bóng chuyền, tiền giày, quần áo, nhất là Thịnh cứ to ra hoài. Chưa kể tiền phát để ăn trưa và đi chơi cuối tuần .

Con biết không? Hôm nọ mẹ thấy Thịnh lo tập Arobic, rồi theo cậu Nam đi Family Fitness Center tập thể dục, tập tạ, mẹ cũng mừng. Ai ngờ mẹ thấy Thịnh lại to ra hơn, mẹ hỏi. Thịnh cười nói: "Con tập, con mệt, đói bụng nên ăn nhiều quá trời". Hôm trước Thịnh ăn kiêng theo chương trình Jenny Craig xuống được mười mấy pounds. Bây giờ, sau sáu tháng lại lên cân như cũ nên mẹ phải dắt Thịnh đến đó mua thức ăn. Mỗi lần nấu, nướng, mẹ phải để khuất mắt Thịnh, không thôi Thịnh thèm. Hôm nọ Thịnh "nếm thử" nguyên một cục thịt kho nước dừa.

Trang thân, mấy hôm nay mẹ đang đọc các bản tin và tài liệu để giúp đài truyền hình Little Sàigòn thực hiện các chương trình phỏng vấn về các sinh hoạt và việc tổ chức chợ Tết Nhâm Thân của Tổng Hội Sinh Viên Miền Nam California, và Ngày Đi Bộ cho Quyền Tị Nạn tại công viên Mile Square. Ngày đi bộ gây quỹ này do bảy đoàn thể thanh niên sinh viên tổ chức. Đó là: Hội Học Sinh Việt Nam tại Trung Học, Tổng Hội Sinh Viên Miền Nam California, Giới Trẻ Công Giáo, Project Ngọc, Gia Đình Phật Tử, các Trung Tâm Việt Ngữ tại Orange County và Liên Đoàn Hướng Đạo Việt Nam.
Sở dĩ mẹ thích đài này vì mẹ xem chương trình của họ thực hiện về ngày Quốc Hận 30-4. Nguyên một tuần, mỗi ngày họ đưa ra một chủ đề. Đầu tiên là Cuộc Chiến Việt Nam 1946-1975, sau đó đến chủ đề Sài Gòn Vĩnh Biệt, rồi Trên Mảnh Đất Tạm Dung, Thuyền Nhân và Trại Tị Nạn Đông Nam Á, và sau cùng là chủ đề Mơ Ngày Trở Về.

Mẹ xem và đã khóc, nhất là thấy các thuyền nhân sau khi chào quốc kỳ đã dùng dao tự sát, để chống cưỡng bách hồi hương. Máu đổ, tiếng la hét của trẻ con, người lớn nghe thật kinh hồn. Không hiểu sao dân tộc Việt Nam mình quá khổ.
Mấy tuần trước mẹ buồn ghê lắm vì mẹ đi phỏng vấn để viết về băng đảng Việt Nam. Ông điều tra viên của quận cảnh sát Westminster cho mẹ biết là chỉ riêng miền Nam California có bảy băng đảng con gái Việt Nam, không kể các băng đảng con trai. Có đảng lên đến 50 em và có nhiều em học mới tiểu học mà phần nhiều cha mẹ không hề hay biết. Mẹ thật sững sờ, xúc động. Giới trẻ ở Việt Nam đã bị băng hoại, thất học, trộm cướp, hút sách, nghèo đói lang thang, còn giới trẻ hải ngoại cơm no áo ấm, được đi học và có mọi phương tiện vật chất mà cũng băng hoại hay sao? Mẹ hỏi các băng con gái đã trộm cướp như các băng con trai chưa? Ông ta bảo hiện tại, chúng chỉ mới kình chống nhau, nhưng trong tương lai rồi "sẽ".

Con biết không? Trên vách của căn phòng ổng, đầy những hình ảnh các băng đảng Việt Nam. Trai có, gái có, họ đứng chụp hình, tay làm dấu hiệu riêng. Mấy đứa con trai với những vết xâm trên mình. Chúng chụp những động tác cầm súng núp sau cửa hay đang nằm rình dưới đất, như những phim trinh thám Tàu. Mặt mày tụi nó còn ngây thơ quá mà bị ảnh hưởng phim ảnh, tivi và hoàn cảnh xã hội nên mới trở nên như thế thật là tiếc. Nếu chúng được hướng dẫn trong một môi trường lành mạnh thì có ích cho gia đình, cộng đồng và quốc gia biết bao nhiêu Mẹ tự hứa với mình là chỉ sẽ làm truyền hình khi nước nhà độc lập thái bình không còn cộng sản. Hôm nay mẹ lại tự mình đánh vỡ lời hứa đó. Mẹ không hiểu có phải mẹ đang ở tình trạng của một người tuy yếu đuối, nhưng vì thấy những người trẻ đang cố gắng đẩy một chiếc xe, nên cũng muốn bước vào góp sức.

Users browsing this topic
Guest (15)
2 Pages12>
Forum Jump  
You cannot post new topics in this forum.
You cannot reply to topics in this forum.
You cannot delete your posts in this forum.
You cannot edit your posts in this forum.
You cannot create polls in this forum.
You cannot vote in polls in this forum.