Welcome Guest! To enable all features please Login or Register.

Notification

Icon
Error

BÀ TRIỆU
Hạt Cát
#1 Posted : Thursday, October 28, 2004 4:00:00 PM(UTC)
Hạt Cát

Rank: Advanced Member

Groups: Registered, Moderator
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 80
Points: 18

Was thanked: 1 time(s) in 1 post(s)
Tác giả hc
Gởi: Mon May 10, 2004 6:23 pm

BÀ TRIỆU

Lãng Nhân - Hương sắc quê mình

Sau thời Trưng Vương (năm 44) nhà Hán bị chia làm ba: Ngụy, Thục, Ngô. Nước ta gồm các quận Giao chỉ, Cửu chân, Nhật Nam (tức là miền Bắc và nửa trên miền Trung nước ta bây giờ) nhà Ngô đặt tên là Giao châu và năm 248 cử Lục Dận sang làm thứ sử.

Theo dấu thực dân cũ, Lục tiếp tục chính sách bóc lột và đàn áp khiến nhân dân phẩn uất trong đói khổ nhục nhã. Lòng phẫn uất nung nấu chí quật cường: quận Cửu Chân bùng lên khởi nghĩa, do cô Triệu Thị Trinh cầm đầu. Cô là một thiếu nữ mới ngoài hai mươi, quê ở huyện Nông cống, tỉnh Thanh hóa, mồ côi cha mẹ từ hồi ấu thơ, sống với người anh là Triệu Quốc Đạt, một thủ lĩnh ở huyện Quân an và Triệu sơn, vùng núi Nưa tỉnh Thanh.

Cô không những sức khỏe khác thường, còn giàu nghị lực và mưu lược, chí khí lại hiên ngang. Có người dạm hỏi, cô trả lời:

- Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông, đuổi quân Ngô ra khỏi cõi, cởi ách nô lệ cho đất nước, chứ đâu thèm bắt chước ai cúi đầu khom lưng làm thân tì thiếp hèn mọn...

Cô thường ngày vào rừng núi, tụ tập đinh tráng thao luyện bỉnh mã để chuẩn bị cuộc nổi dậy. Triệu Quốc Đạt lúc đầu còn e dè khuyên can; vợ Đạt lo ngại, ngầm đi tố cáo chí hướng của cô với bọn quan Tàu.

Cô bèn giết người chị dâu ấy. Bấy giờ Quốc Đạt mới một lòng cùng em đứng ra phất cờ dũng tiến.

Cô mặc giáp vàng, cưỡi voi dữ, xông ra trước đám quân Ngô như vào chỗ không người, nhân dân cảm phục tặng cô cái danh hiệu đẹp đẽ oai hùng "Nhụy kiều tướng quân". Ngay cả quân Ngô cũng khiếp đảm, tôn cô là "Lệ hải bà vương".

Chúng tôi gọi tiếng "cô" vì nàng là thiếu nữ chưa thành gia thất. Nhưng quân Tàu đã tôn là Bà, chúng tôi cũng theo mà kính là Bà Triệu. Vả lại, ít lâu sau khi khởi nghĩa Triệu Quốc Đạt bị quân gian đầu độc bỏ mình, Bà Triệu một mình đương dầu với giặc, đại công trong cuộc nổi dậy hoàn toàn trong tay Bà Vương.

Sáu tháng dòng dã, thắng nhiều trận lẫy lừng, nhân dân phấn khởi đến nỗi sứ nhà Ngô sang thăm Lục Dận phải thú nhận: "toàn cõi Giao Châu rúng động vì nghĩa binh”.

Sau Lục Dận phải dùng mưu "chia rẽ" đem tiền bạc mua chuộc thủ lĩnh địa phương, làm cho lòng quân ly tán, sức đối kháng yếu dần. Số quân ngày càng giảm sút, Bà vương cầm cự được dăm sáu tháng nữa phải rút lui. Rút đến xã Phú diên, huyện Mỹ hóa tỉnh Thanh, Bà quay gươm lại đâm cổ tự tử.

Về sau, vua Lý Nam đế cho lập miếu thờ tại xã Phú điền, huyện Hậu Lộc Thanh Hóa, tới nay miếu vẫn còn. Dân gian có câu:

“Ai về Hậu Lộc Phú Diền,
Nhớ đây Bà Triệu trận tiền giao phong"

và nêu hình bóng bà trong ca dao:

Con ơi, con ngủ cho lành
Để mẹ gánh nước rửa bành con voi
Mai con lên núi mà coi
Coi Bà tướng Triệu cưỡi voi diệt thù.

x x x

Đời sau có thơ ca ngợi:

Tướng lạ, tài cao, gái khác thường
Sau Hai Bà, lại có Bà Vương
Cửu chân trăm trận gan hơn sắt
Lục Dận mươi phen mắt đổ vàng
Toan lấy yếm khăn đùm vũ trụ
Quản gì son phán nhuốm tang thương
Những trang nhi nữ anh hùng ấy
Miếu vũ ngàn thu ngát khói hương.

(ST)
Hạt Cát
#2 Posted : Friday, October 29, 2004 5:13:41 AM(UTC)
Hạt Cát

Rank: Advanced Member

Groups: Registered, Moderator
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 80
Points: 18

Was thanked: 1 time(s) in 1 post(s)
Tác giả hc
Gởi: Fri May 14, 2004 6:53 pm

Bà Triệu

Ngày nay, ở Thanh Hóa vẫn còn lăng Bà Triệu với hội thờ vào ngày 21-2, tương truyền là ngày mất của người nữ anh hùng.

Bà Triệu, hay nàng Trinh (Triệu Trinh Nương, Triệu Thị Trinh) của truyền thuyết dân gian người miền núi Quân Yên, quận Cửu Chân. Quân Yên, trái núi đó vẫn giữ tên gọi ấy cho đến tận ngày nay, đứng sừng sững bên bờ sông Mã gần ngã ba Bông, thuộc địa phận hợp tác xã Định Công của tỉnh Thanh Hóa.

Thôn Cẩm Trướng thuộc xã Định Công có truyền thuyết "Đá biết nói" như sau: Vùng núi này có con voi trắng một ngà rất dữ tợn hay về phá hoại mùa màng, mọi người đều sợ. Để trừ hại cho dân, Bà Triệu cùng chúng bạn đi vây bắt voi, lùa voi xuống đầm lầy (vùng sông Cầu Chầy ngày xưa còn lầy lội) rồi dũng cảm nhẩy lên cưỡi đầu voi và cuối cùng đã khuất phục được con voi hung dữ. Chú voi trắng này sau trở thành người bạn chiến đấu trung thành của Bà Triệu. Nghĩa quân Bà Triệu, những ngày đầu tụ nghĩa, đã đục núi Quân Yên, bí mật cho người ngồi trong hốc đá, đọc bài đồng dao:

Có bà Triệu tướng,
Vâng lệnh trời ta.
Trị voi một ngà,
Dựng cờ mở nước.
Lệnh truyền sau trước,
Theo gót Bà Vương.

Nhờ đó cả vùng đã đồn ầm lên rằng núi Quân Yên biết nói, báo hiệu cho dân chúng biết Bà Triệu là "thiên tướng giáng trần" giúp dân, cứu nước. Vì vậy hàng ngũ nghĩa quân thêm lớn, thanh thế thêm to. Họ kéo nhau xuống Phú Điền dựng căn cứ.

Trung tâm tụ nghĩa là vùng núi Tùng Sơn (Phú Điền). Đây là một thung lũng nhỏ nằm giữa hai dãy núi đá vôi thấp, dãy phía bắc (Châu Lộc) là đoạn núi chót ngăn cách hai tỉnh Thanh Hóa và Ninh Bình cũ, dãy núi phía nam (Tam Đa) là đoạn chót của dải núi chạy dọc sông Mã. Chân phía bắc núi Châu Lộc là sông Lèn, chân phía nam núi Tam Đa là sông Âu, xưa là một dòng sông lớn. Thung lũng mở rộng cửa về phía đồng bằng ven biển và bị chặn ngang về phía tây bởi dòng sông Lèn. Ở căn cứ này, ngược sông Lèn có thể liên lạc với miền quê Bà Triệu. Là địa điểm gần biển, lại là cửa ngõ từ đồng bằng miền bắc vào Thanh, đó là một vị trí quân sự hiểm yếu, thuận lợi cả công lẫn thủ.

Ở đây còn có núi Chung Chinh với 7 đồn lũy tương truyền là quân doanh của Bà Triệu, nơi đã từng diễn ra trên ba chục trận đánh với quân Ngô. Dưới chân núi Tùng, còn có cánh đồng Lăng Chúa (lăng Bà Triệu), đồng Vườn Hoa, đồng Xoắn ốc... tương truyền là tên cũ còn lại khi Bà Triệu đắp lũy xây thành. Ở đây còn lưu hành rộng rãi truyền thuyết về ba anh em nhà họ Lý đi tìm Bà Triệu, rước Bà từ quê ra đây dựng doanh trại, sửa soạn khởi nghĩa và tôn Bà làm chủ tướng.

Cảm phục chí khí hiên ngang cứu nước của người con gái hai chục tuổi đời, dân chúng Cửu Chân theo phục Bà rất đông. Các thành ấp của giặc Ngô đều bị triệt hạ, quan lại giặc từ thái thú đến huyện lệnh, huyện trưởng, kẻ bị giết, kẻ chạy trốn hết. Từ Cửu Chân, cuộc khởi nghĩa lan ra Giao Chỉ ở ngoài bắc. Thứ sử Giao Châu mất tích!

Một câu nói, tương truyền là lời Bà Triệu phát ra trên núi nghĩa, nghìn thu còn vang vọng mãi:

"Tôi chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp bằng sóng dữ, chém cá kình ở Biển Đông, đánh đuổi quân Ngô, giành lại giang san, cởi ách nô lệ chứ tôi không chịu khom lưng làm tì thiếp người ta!"

Rất nhiều câu chuyện về tình dân với khởi nghĩa Bà Triệu. Đây là một ông già mù miền núi đã đi khắp nơi, dùng tiếng đàn, giọng hát của mình để ngâm ngợi cổ vũ dân chúng đứng dậy cứu nước; kia một bà cụ hàng nước cố xin cho con gái được theo quân giết giặc, còn mình thì giúp cả chõng chuối với chum nước chè xanh cho nghĩa binh đang trẩy quân qua giải khát. Dọc sông Mã, vùng Cẩm Thạch có truyền thuyết và di tích về một bà nữ tướng cưỡi voi đánh giặc Ngô. Vùng Khang Nghệ có truyền thuyết nói rằng: thời xưa sông Mã có một nhánh chảy từ đầm Hàn về cửa Lạch Trường. Đó là nơi quân Ngô chiếm giữ, chiến thuyền san sát như lá tre. Một chàng trai đã ăn trộm ngựa chiến của quân giặc trốn về với Bà Triệu và trở thành dũng tướng của nghĩa quân. Trong một trận giao tranh trên sông nước, vì anh đi chân vòng kiềng nên đã vấp phải dây chằng mà tử trận. Giặc Ngô đang ăn mừng thắng lợi thì hai bờ sông chuyển động. Đất trời nổi cơn giận dữ, hắt rừng cây núi đá xuống lấp cạn dòng sông, chôn vùi cả mấy vạn xác thù...

Lại có câu chuyện đền Cô Thị ở xã Hà Ngọc (Hà Trung). Một cô gái rất thích quả thị, chờ đợi người yêu đi đánh giặc và khi chết biến thành cây thị. Cây thị này chỉ có một quả, không ai hái được, vì hễ ai thò tay bẻ thì cành thị lại tự dưng vút hẳn lên cao. Cành ấy đời đời ngả về phía đông nam theo hướng người yêu của cô đang ở trong quân dinh Bà Triệu. Một ngày thắng trận, chàng trai được phép Bà Triệu về thăm làng xóm thì cành cây mới chịu sà xuống và quả thị rơi vào ống tay áo của chàng....

Đứng trước nguy cơ tan rã của chính quyền đô hộ ở Châu Giao, triều Ngô phải cử viên danh tướng Lục Dận (cháu họ viên danh tướng Lục Tốn) làm thứ sử Giao Châu, An Nam hiệu úy, đem khoảng 8.000 quân sang Giao Châu đàn áp nhân dân khởi nghĩa. Kết hợp dùng binh lực uy hiếp, dùng mưu mô dụ dỗ, dùng của cải mua chuộc, Lục Dận đã khiến được ba nghìn hộ ở Cao Lương (Hợp Phố) dưới quyền thủ lĩnh Hoàng Ngô đầu hàng. Sau đó, Lục Dận thận trọng tiến binh vào Giao Chỉ và Cửu Chân, khi phát quân đàn áp, khi dừng quân dùng của cải, tiền bạc mua chuộc các thủ lĩnh địa phương. Rút cục, hàng trăm thủ lĩnh nghĩa quân và hơn năm vạn dân đã phải chịu thua quân Ngô.

Truyền thuyết dân gian kể rằng: Bà Triệu đã chiến đấu chống giặc Ngô, trên ba mươi trận thắng lợi. Giặc gọi tên bà là Ngụy Kiều tướng quân (Vị tướng nữ yêu kiều), là Lệ Hải bà vương (Vua bà vùng biển mĩ lệ). Quân Ngô sợ bà, thường có câu:

Hoành qua đương hổ dị,
Đối diện Bà Vương nan.
(Múa ngang ngọn dáo chống hùm dễ ,
Đối mặt Vua Bà thì thực khó).

Cũng theo truyền thuyết dân gian, về sau có kẻ phản bội, mách với Lục Dận rằng Bà là nữ tướng "ái khiết úy ô" (yêu cái trong sạch, ghét cái nhơ bẩn). Quân Ngô liền trần truồng tiến đánh Bà. Bà hổ thẹn, giao binh cho 3 tướng họ Lý, lên núi Tùng tự vẫn.

Trên núi Tùng hiện có mộ Bà Triệu và dưới chân núi Tùng là đền thờ chính của Bà Triệu. Hội đền hằng năm ngày trước vào ngày 21 tháng hai âm lịch.

Khởi nghĩa Bà Triệu thất bại, nhưng hình ảnh người con gái kiên trinh bất khuất, người nữ anh hùng dân tộc siêu việt quyết nối chí Bà Trưng "giành lại giang san, cởi ách nô lệ" muôn thuở không mờ trong tâm trí phụ nữ và dân tộc Việt Nam.

Tùng Sơn nắng quyện mây trời,
Dấu chân Bà Triệu rạng ngời sử xanh.
(thơ ca dân gian)

Giáo sư Trần Quốc Vượng
Phượng Các
#3 Posted : Saturday, July 9, 2005 2:25:53 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
Phượng Các
#4 Posted : Saturday, July 9, 2005 2:26:43 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
Phượng Các
#5 Posted : Friday, September 16, 2005 11:34:15 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
TRIỆU THỊ TRINH,
NGƯỜI NỮ ANH HÙNG KHỞI NGHĨA

1
Trần Xuân An

Bối cảnh lịch sử và hành trạng anh hùng
Trong lịch sử nước ta, có một người nữ anh hùng, chính Tự Đức lúc châu phê vào Cương mục (1), đã từng so sánh với Trưng Trắc – Trưng Nhị: “Con gái nước ta, nhiều người hùng dũng khác thường. Bà Triệu Ẩu cũng là người sánh vai được với Hai Bà Trưng” (2).

Cuộc khởi nghĩa, kháng chiến, giành lại độc lập, tự do cho Đất nước, nhân dân do Hai Bà Trưng tổ chức, lãnh đạo, thành lập vương triều nối lại quốc thống nước Văn Lang của vua Hùng, tiếc thay, chỉ ngắn ngủi trong 3 năm. Sau đó, suốt cả trăm năm, đế chế nhà Đông Hán (Hậu Hán, 25 – 219) ngày càng siết chặt gông xiềng nô lệ trên toàn cõi Giao Chỉ bộ (từ năm 203, Hán – Hiến đế đổi lại địa danh là Giao Châu). Bấy giờ, vua quan triều đại Đông Hán khá vững mạnh trong sự chuyên chế ở Trung Hoa, do đó, chúng có đủ điều kiện để củng cố ách đô hộ của chúng ở nước ta. Sử sách không ghi nhận thêm một cuộc khởi nghĩa nào trên toàn cõi Giao Chỉ bộ. Điều đó, khiến chúng ta thấy rõ sự kìm kẹp, khống chế bằng các đội quân binh viễn chinh và bằng cách đưa bọn lưu dân các loại từ Trung Hoa sang là hết sức thâm độc. Nhân dân ta không khởi nghĩa nổi trong sự kìm kẹp, khống chế xảo quyệt đó, chứ không phải chỉ biết cúi đầu trong tủi nhục.

Mãi cho đến năm Đinh sửu [137] (Hán, năm Vĩnh Hoà thứ 2), ở huyện Tượng Lâm xa xôi thuộc quận Nhật Nam (Quảng Nam, Thừa Thiên, Quảng Trị, Quảng Bình), mới bùng lên được cuộc khởi nghĩa do Khu Liên (người Chăm) lãnh đạo. Một đất nước Lâm Ấp (về sau tự đặt quốc hiệu là Hoàn Vương, Cham-pa [Chiêm Thành]) bắt đầu hình thành từ đó, ngay trong vùng đất cực nam lãnh thổ Giao Chỉ bộ (*).

Kế đó, năm Giáp thân (144), nhân dân quận Nhật Nam lại khởi nghĩa (3).

Năm Canh tí (160), Chu Đạt khởi nghĩa ở quận Cửu Chân, rồi vào cố thủ tại Nhật Nam (3).

Năm Mậu ngọ (178), Lương Long khởi nghĩa ở quận Giao Chỉ (3).

Ngoài ra, tại ba quận Nhật Nam, Cửu Chân, Giao Chỉ, suốt bảy mươi năm tiếp theo, hẳn những cuộc khởi nghĩa do chính nhân dân xướng xuất đã bị bọn viễn chinh, lưu dân Trung Hoa phát hiện, dập tắt ngay từ tia lửa đầu tiên, bóp chết ngay trong trứng nước. Hầu như đó là quy luật, nhân dân các thuộc địa cổ đại thuộc đế chế bành trướng Hán tộc tại Trung Hoa chỉ có thể nổi dậy, đánh đuổi bọn thứ sử, thái thú được trong một quãng thời gian nào đó, hoặc chỉ có thể kháng chiến thành công, trong những điều kiện suy bại, xâu xé nhau ngay trong nội bộ chính quốc Trung Hoa.

Và thời cơ đã đến. Ngoại thích, hoạn quan tại kinh đô Lạc Dương (Trung Hoa) đã làm đế chế Đông Hán suy vi. Đỗng Trác khuynh đảo triều Hán, Tào Tháo lại mở rộng thế lực, Lưu Bị khởi xướng cuộc phù Hán, Tôn Kiền (anh của Tôn Quyền) cũng gầy dựng thế lực. Từ năm 213, tình thế Tam Quốc (Nguỵ, Thục, Ngô) đã khởi đầu cho đến khoảng 67 năm về sau.

Lúc này, Giao Châu (bộ Giao Chỉ cũ) lại thuộc lãnh thổ do Tôn Quyền (nhà Ngô, Trung Hoa) chiếm cứ.

Ở Giao Châu, vào năm Mậu thìn (248), tại vùng núi Quan Yên, Hậu Lộc (của tỉnh Thanh), thuộc quận Cửu Chân (Thanh Hoá – Nghệ – Tĩnh), anh em Triệu Quốc Đạt – Triệu Thị Trinh đã tổ chức và lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa. Trong hai anh em, người con gái ở tuổi hai mươi ba Triệu Thị Trinh lại càng tỏ rõ tài năng chiến tướng hơn cả anh ruột mình.

Tuy chỉ mới 23 tuổi, chưa từng lấy chồng, từ chối mọi lời cầu hôn để rảnh tay kháng chiến, Triệu Thị Trinh (tiểu tự là Triệu Ẩu) vẫn được tôn xưng là Lệ Hải bà vương.

2

Tư liệu gốc,

và một số chi tiết không đẹp

quanh tiểu sử người nữ anh hùng Triệu Thị Trinh

Toàn thư (4) viết về Bà Triệu (rất tiếc là các sử gia bấy giờ chưa xử lí tốt tư liệu gốc [thư tịch cổ] của Trung Hoa): “Mậu thìn, [248], (Hán, Diên Hi năm thứ 11; Ngô, Vĩnh An năm thứ 1 [đúng ra, Xích Ô thứ 11, đời Ngô vương Tôn Quyền – cước chú của dịch giả]). Người Cửu Chân lại đánh hãm thành ấp, châu quận rồi [rối – ct. (**)] động. Ngô vương cho Hành Dương đốc quân đô uý Lục Dận (có sách chép là Lục Thương) làm thứ sử kiêm hiệu uý. Dận đến nơi, lấy ân đức tín nghĩa hiểu dụ, dân ra hàng phục đến hơn 3 vạn nhà, trong châu lại yên. Sau, người con gái ở quận Cửu Chân là Triệu Ẩu tập họp dân chúng đánh chiếm các quận huyện (Ẩu vú dài ba thước, vắt ra sau lưng, thường ngồi trên đầu voi, đánh nhau với giặc [Tàu – ct.]). Dận dẹp yên được. (Sách Giao Chỉ chí chép: Trong núi ở quận Cửu Chân có người con gái họ họ Triệu, vú dài ba thước, không lấy chồng, họp đảng cướp bóc các quận, huyện, thường mặc áo ngắn màu vàng, chân đi giày mũi cong, ngồi đầu voi mà chiến đấu, sau chết làm thần)” (5).

Mặc dù các sử gia Toàn thư đã xử lí tư liệu Trung Hoa đạt đến mức độ xác định được địch – ta, nhưng lại để nguyên những chi tiết biếm hoạ về người nữ anh hùng Triệu Thị Trinh!

Cương mục chép: “[Cương: – ct.] Năm Mậu thìn (248). (Ngô, năm Xích Ô thứ 11; Hán, năm Diên Hi thứ 11; Ngụy, năm Chính Thuỷ thứ 9). Bà Triệu Ẩu, người quận Cửu Chân, họp dân chúng đánh phá các quận huyện. Thứ sử Lục Dận đi đánh, dẹp yên. [Mục: – ct.] Người quận Cửu Chân lại đánh phá thành ấp. Các châu quận đâu đấy đều náo động, chúa nhà Ngô cho đốc quân đô uý châu Hành Dương là Lục Dận làm thứ sử kiêm chức hiệu uý. Lục Dận đến nơi, dùng ấn tín hiểu dụ, hơn ba vạn nhà ra đầu hàng; đất Giao Châu lại yên. Bấy giờ người con gái quận Cửu Chân là Triệu Ẩu tụ họp dân chúng, giành cướp các quận huyện; Lục Dận đi đánh, dẹp yên” (6).

Ở mục lời chua, Cương mục ghi: “Đến khi giặc Man Di quận Cửu Chân đánh và hạ được các thành ấp, Giao Châu náo động, chúa nước Ngô dùng Lục Dận làm thứ sử Giao Châu” (6); “Bà Triệu Ẩu: Theo sách Thái Bình hoàn vũ kí của Nhạc Sử nhà Tống, trong miền núi quận Cửu Chân có người con gái họ Triệu, vú dài ba thước, không lấy chồng, tụ họp đồ đảng đánh cướp các quận huyện, thường mặc áo vải mộc màu vàng, đi guốc, cưỡi đầu voi, xông ra trận đánh. Sau khi chết, thành thần. Nay có đền thờ ở xã Phú Điền, huyện Mỹ Hoá, tỉnh Thanh Hoá” (6).

Các sử gia Cương mục đã khảo đính, chép lại “một cách lạnh lùng” như thế, nhưng kèm theo đó là lời phê bằng son đỏ của vua Tự Đức: “Con gái nước ta, nhiều người hùng dũng khác thường. Bà Triệu Ẩu cũng là người sánh vai được với Hai Bà Trưng. Xem như vậy thì Bắc sử chép chuyện thành Phu nhân, quân nương tử, há có phải chỉ Trung Quốc là có đàn bà nổi danh tiếng đâu? Nhưng nói là vú dài ba thước thì cũng là quái gở, đáng cười! (2) & (6)”.

Thật ra, Tự Đức khi so sánh Bà vương Triệu Thị Trinh với hai nhân vật nữ trong sử Trung Hoa, đó là mẹ của Chu Tự, tên là Hàn thị, và Bình Dương công chúa, con gái của Đường Cao tổ, vợ của Sài Thiệu, chỉ là sự so sánh hơi khập khiễng, làm giảm oai phong và tài năng của Triệu Thị Trinh. Hàn thị (truyện thành Phu nhân) chỉ là người đàn bà có đôi mắt chiến thuật, tài cầm quân, trong phạm vi một thành luỹ. Bình Dương công chúa (truyện Nương tử quân) chỉ là người chiêu tập và chỉ huy một cánh quân ngang với cánh quân của chồng; và cả hai cánh quân này cũng đều phụ thuộc những cánh quân của Đường Cao Tổ (7). Trong khi đó, mặc dù Triệu Thị Trinh chưa thắng lợi đến mức độ đuổi sạch quân Trung Hoa khỏi cả nước (toàn cõi Giao Châu) và lập thành một triều đại độc lập, tự chủ như Hai Bà Trưng, nhưng cũng là người tổ chức và lãnh đạo toàn cuộc khởi nghĩa, đến mức làm lu mờ cả vai trò của người anh ruột là Triệu Quốc Đạt. Tất nhiên so sánh nào cũng khập khiễng, bởi tầm vóc lịch sử của Hai Bà Trưng là quá vĩ đại – hai người phụ nữ vĩ đại nhất trong lịch sử thế giới.

Về chi tiết “vú dài ba thước”, Tự Đức cũng đã chỉ ra là “quái gở”, và kẻ nói ra điều đó cũng rất “đáng cười”! Tôi nghĩ đó là chi tiết biếm hoạ của đối phương (các sử gia Trung Hoa thuộc loại giặc Tàu). Tôi cũng nghĩ rằng, hoặc giả, “vú dài ba thước, vắt ra sau lưng”, chính đôi vú của cô gái anh hùng chưa chồng ấy (nếu tính theo mét Tây [metre], chính xác là dài đến 1m 2), không gì khác hơn là đôi ruột tượng (9) dùng để chứa gạo trên đường hành quân. Mặc dù là Lệ Hải bà vương, Nhụy Kiều tướng quân, “thường mặc áo ngắn màu vàng, chân đi giày mũi cong, ngồi đầu voi mà chiến đấu”, Triệu Thị Trinh vẫn làm gương cho quân binh, nghĩa sĩ bằng cách khoác hai khúc ruột tượng gạo. Đó không thể là dị tật, bởi nữ vương Triệu Thị Trinh mặc “áo ngắn màu vàng”. Tuy nhiên, điều quan trọng không phải là dị tật hay không dị tật, mà chính là tài năng, ý chí và tâm huyết vì Đất nước, vì nhân dân, cùng nhân dân đánh giặc, cứu nước.

Nhiều người cũng đã phê phán sách sử Tàu khi gọi bà là Triệu Ẩu. Chính học giả Đào Duy Anh, người đã biên soạn Từ điển Hán – Việt (8), ông đã viết trong cuốn Lịch sử Việt Nam: “(Sử cũ Trung Quốc gọi là Triệu ẩu, tức là mụ Triệu, là có ý khinh bỉ)” (10). Thực ra, theo cước chú của các dịch giả Tổ Biên dịch Viện Sử học (Hoa Bằng, Phạm Trọng Điềm, Trần Văn Giáp), chữ “Ẩu” có hai nghĩa, “a) tiếng gọi chung các bà già, có ý tôn kính, thí dụ: [các] bà mẹ [của các] đại thần nhà Hán được tôn gọi là Vạn Thạch Ẩu; b) nghĩa cũng như Ẩu chiếu, là bảo vệ nhi đồng” (11). Ngoài ra, cũng ở cước chú này, các dịch giả cho biết: “Theo Thanh Hoá kỉ thắng (t. 65) của Vương Duy Trinh, bà Triệu tức là Lệ Hải Bà vương, họ Triệu, huý Trinh, tiểu tự là Nữ Ẩu, là em gái Triệu Quốc Đạt” (11). Vả lại, dù sao đi nữa, tên tiểu tự, ai cũng biết là thường không đẹp (theo tục kiêng cữ) (12).

Ngoài ra, có một chi tiết không hề có trong Toàn thư cũng như trong Cương mục, gây khá nhiều nỗi gờn gợn khi nghiên cứu về nữ anh hùng Triệu Thị Trinh. Trần Trọng Kim, trong Việt Nam sử lược, viết: “Sử ta chép rằng bà Triệu là người ở huyện Nông Cống bấy giờ. Thuở nhỏ cha mẹ mất cả, ở với anh là Triệu Quốc Đạt, đến độ 20 tuổi gặp phải người chị dâu ác nghiệt, bà ấy giết đi rồi vào ở trong núi” (13). May thay, Trần Trọng Kim còn chép tiếp liền vào chi tiết ấy: “Bà ấy là một người có sức mạnh, lại có chí khí và lắm mưu lược. Khi vào ở trong núi, chiêu mộ hơn 1.000 tráng sĩ để làm thủ hạ. Anh thấy thế mới can bà, thì bà bảo rằng: ‘Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp đường sóng dữ, chém cá tràng kình ở bể đông, quét sạch bờ cõi, để cứu dân ra khỏi nơi đắm đuối, chứ không thèm bắt chước người đời cúi đầu cong lưng để làm tì thiếp người ta’ ” (13). Đó là ba chi tiết của một sự kiện.

Nếu đoạn sử chỉ dừng lại ở câu: “đến độ 20 tuổi gặp phải người chị dâu ác nghiệt, bà ấy giết đi rồi vào ở trong núi”, hẳn người đọc không thể không nghĩ đến một vụ án hình sự xã hội phạm chứ không phải chính trị. Phải chăng người con gái anh hùng Triệu Thị Trinh gặp phải một người chị dâu toan ép bà làm tì thiếp cho một tên quan Hán tướng Tàu háo sắc nào đó, và không những thế, người chị dâu ấy là nguy cơ nội gián cho cuộc khởi nghĩa. Triệu Thị Trinh dứt khoát không thể là một người can án, một tội phạm hình sự xã hội! Phải dứt khoát điều đó. Cách viết sử thiếu minh xác, dễ khiến hậu thế hiểu lầm một cách tai hại như thế thật cần phải tự cảnh giác và cảnh giác!

Những chi tiết sau đây đã phủ chính chi tiết ngỡ như thuộc loại hình sự xã hội phạm rờn rợn ấy:

“Năm Mậu thìn (248), vì quan lại nhà Ngô tàn ác, dân gian khổ sở, Triệu Quốc Đạt mới khởi binh đánh quận Cửu Chân. Bà đem quân đánh giúp anh, quân sĩ của Triệu Quốc Đạt thấy bà làm tướng có can đảm, bèn tôn lên làm chủ” (13).

“Về sau, vua Nam đế nhà Tiền Lý khen là người trung dũng, sai lập miếu thờ, phong là: ‘Bật chính anh liệt hùng tài trinh nhất phu nhân’ ” (13) .

Ca dao lịch sử vẫn mãi hát về Bà Triệu, ngay cả lúc người mẹ ru êm giấc ngủ trẻ thơ, để còn rảnh tay làm tạp vụ cho quân binh, tướng sĩ kháng chiến, cho người cha có cau trầu mang theo khi ra trận:

“Ru con, con ngủ cho lành
Cho mẹ gánh nước rửa bành ông voi
Ai coi lên núi mà coi
Coi Bà Triệu tướng cưỡi voi đánh cồng
Túi gấm cho lẫn túi hồng
Têm trầu cánh kiếm cho chồng ra quân” (14).
Chúng ta đều thấy, chính Toàn thư và Cương mục của ta khẳng định tài năng, công đức của Triệu Thị Trinh; thư tịch cổ của phía đối phương (giặc Tàu) mặc dù có những chi tiết biếm hoạ, bôi nhọ tục tĩu, cũng đã trực tiếp hay gián tiếp thừa nhận Bà Triệu: Đó là một nữ anh hùng lịch sử dân tộc Việt Nam, người đã trở thành thần thánh, hình tượng tín ngưỡng, phụng thờ, mãi mãi sáng ngời sự tích trong tâm trí nhân dân Giao Châu thuở đó, Việt Nam bây giờ.

Nghiên cứu về người con gái Việt Nam anh hùng Triệu Thị Trinh, chúng ta có thêm một thu hoạch phụ: nâng cao kinh nghiệm sử dụng các loại tư liệu, kể cả tư liệu dân gian; phải luôn luôn tỉnh táo, sáng suốt khi sử dụng tư liệu của đối phương (ngoại xâm) và của đối lập (nội nghịch, hoặc khác chính kiến).

TP. HCM., viết xong lúc 17 giờ 31 phút,
Ngày 07. 07. HB4 (20. 05 G. thân HB4).
TXA.
Cước chú của bài Triệu Thị Trinh, người nữ anh hùng…:

(1) Khâm định Việt sử thông giám cương mục (1884) (gọi tắt là Cương mục), tiền biên và chính biên, bản dịch (2 tập), tập 1, Nxb. Giáo Dục, 1998.

(2) Cương mục, sđd., tập 1, tr. 143 (Tb. [tiền biên], q. [quyển] III, [tờ] 9).

(*) Xin xem thêm cuộc khởi nghĩa, bước đầu lập quốc của Khu Liên và nhân dân huyện Tượng Lâm (thuộc quận Nhật Nam, bộ Giao Chỉ) ở các bài viết sau. Tuy nhiên, ở đây, tôi xin được nhấn mạnh: huyện Tượng Lâm là một huyện trong phạm vi quận Nhật Nam (bấy giờ, một quận thống nhiếp dăm ba huyện), mà Nhật Nam là một quận trong chín quận thuộc bộ Giao Chỉ (về sau được gọi là Giao Châu), vì vậy, cuộc khởi nghĩa của nhân dân huyện Tượng Lâm, do Khu Liên (người Chăm) lãnh đạo, được sự hưởng ứng của hai quận Cửu Chân, Giao Chỉ, và bước đầu thành lập vương quốc Lâm Ấp là hai sự kiện gắn bó hữu cơ, đồng thời diễn ra trong nội bộ của xứ Giao Châu. Nói gọn hơn, cuộc khởi nghĩa Khu Liên ấy và vương quốc Lâm Ấp sơ khai ấy là sự kiện của lịch sử Việt Nam cổ đại, mặc dù về sau Lâm Ấp (Chiêm Thành) tự tách ra thành một vương quốc riêng.

(3) Cương mục, sđd., tập 1, tr. 125 – 126 (Tb., q. II, 22 – 24).

Như chúng ta đã biết, quận Giao Chỉ là một trong chín quận thuộc bộ Giao Chỉ.

(4) Đại Việt sử kí toàn thư (gọi tắt là Toàn thư), bản in nội các quan bản (1697), bản dịch (3 tập), tập 1, Nxb. Văn hoá – Thông tin, 2003.

(**) Đối chiếu với Đại Việt sử kí toàn thư (gọi tắt là Toàn thư), bản in nội các quan bản (1697), bản dịch (3 tập) và 1 tập nguyên văn chữ Hán, tập 1, Nxb. KHXH., 1998, tr. 167: rối động.

(5) Toàn thư, sđd., tập 1, tr. 234 (NK., q. IV, tờ 3b – 4a). Cước chú của dịch giả Tổ Biên dịch Viện Sử học (Hoa Bằng, Phạm Trọng Điềm, Trần Văn Giáp). TXA. in đậm (iđ.) & chua thêm (ct.).

(6) Cương mục, sđd., tập 1, tr. 142 – 143 (Tb., III, 8 – 9). TXA. iđ & ct. Một trong những nguyên tắc viết sử theo thể cương mục là mỗi tiểu mục đều có phần cương (đề, tiêu đề) và phần mục (thuyết, chi tiết cụ thể). Ở cước chú này, tôi (TXA.) ghi rõ như vậy, nếu không sẽ thấy đoạn trích dẫn trên khá lủng củng vì lặp lại.

(7) Cương mục, sđd., tập 1, tr. 142 – 143 (Tb., III, 8 – 9): Cước chú của dịch giả Tổ Biên dịch Viện Sử học (Hoa Bằng, Phạm Trọng Điềm, Trần Văn Giáp).

(9) Ruột tượng: danh từ chỉ một loại túi được khâu bằng vải, hình ống, đường kính khoảng 10cm, dài khoảng 80cm – 100cm , được cột túm một đầu hoặc cả hai đầu bằng dây rút (như gối kê đầu), dùng để dựng gạo. Khi đi đường xa, người ta vắt lên vai; có thể vắt chéo hai cái ruột tượng gạo như thế trên hai vai.

(8) Đào Duy Anh, Từ điển Hán – Việt, tập hạ & tập thượng, Nxb. KHXH. tái bản, 2001.

(10) Đào Duy Anh, Lịch sử Việt Nam, Nxb. Văn hoá – Thông tin tái bản, 2002, tr. 133.

(11) Cương mục, sđd., tập 1, tr. 142 – 143 (Tb., III, 8 – 9): Cước chú. Theo đó, tôi nghĩ rằng còn tuỳ văn cảnh, tuỳ địa phương, như chữ mụ, trong tiếng Việt ở vùng bắc Trung bộ, lại có nghĩa tôn kính, chẳng hạn gọi các bà già ngang tuổi, ngang vai vế với mệ ngoại, mệ nội (bà ngoại, bà nội) là mụ (mụ bà cô, hoặc mụ nội, tức là chị em ruột của ông nội), hoặc chùa Linh Mụ, Thiên Mụ (bà già linh thiêng, bà già từ Trời xuống thế), hoặc đèo Mụ Giạ (có sách ghi là Mộ Dạ Question)…

(12) Vùng Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hoá thường gọi trẻ em gái là Hĩm. Thơ Tố Hữu, bài Mẹ Tơm, viết về một bà mẹ kháng chiến chống Pháp, có nhắc đến cô cháu gái của bà: “Hĩm đấy ư em, mấy tuổi rồi? Hai mươi? Ừ nhỉ, tháng năm trôi…”. Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hoá chính là nơi bà Triệu đã hi sinh (hay tự tử tiết?) lúc mới 23 tuổi (Xem: Quỳnh Cư, Đỗ Đức Hùng, Các triều đại Việt Nam, Nxb. Thanh Niên, bản in lần 2, 1995, tr. 35).

(13) Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Nxb. Tân Việt, 1964, tr. 52 – 53. TXA. iđ. & ct. Người viết bài này đã khảo chứng tư liệu, thấy rằng Trần Trọng Kim đã lấy các tình tiết này trong một cuốn sách cổ của nước ta (không phải là sử đúng nghĩa, hầu hết chỉ là những tư liệu điền dã); xin xem: Lý Tế Xuyên (Chư Cát thị bổ sung), Việt điện u linh tập, Trịnh Đình Rư dịch, Đinh Gia Khánh hiệu đính và bổ sung, Nxb. Văn Học tái bản, tr. 119 – 120… Phần “Lệ hải bà vương kí” (sđd., tr. 119 – 125) viết về Triệu Thị Trinh không phải do Lý Tế Xuyên sưu tầm, biên tập mà do Chư Cát thị bổ sung, hiệu đính về sau (tân đính hiệu bình).

(14) Vũ Ngọc Phan, Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam, Nxb. KHXH., in lần thứ 8, 1978, tr. 33. Vũ Ngọc Phan chú thích: cánh kiếm, có bản chép là cánh quế. Tôi biết ở Huế, Quảng Trị, người ta hay nói đến hình ảnh têm trầu cánh phượng. Ngoài ra, ở câu 2: ông voi, ít ai gọi là con voi.

http://www.giaodiem.com/...II05/905_txa_hisIIb.htm
Phượng Các
#6 Posted : Thursday, October 20, 2011 2:22:00 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
Nữ giới tổ chức Ðại Lễ Bà Triệu
Wednesday, October 19, 2011 2:28:06 PM





Nguyên Huy/Người Việt



WESTMINSTER (NV) - Chiều tối hôm Chủ Nhật, 16 tháng 10, tại nhà hàng Emerald Bay, nữ giới VN đã tưng bừng tổ chức Ðại Lễ Bà Triệu với sự tham dự của trên ba trăm quan khách, đồng hương và thân hữu.

Các chị em thuộc tổ chức Hội Bà Triệu và Thái Cực Quyền đã đại diện nữ giới từ hơn 15 năm nay để tổ chức Ðại Lễ Bà Triệu hàng năm. Mới đầu, chỉ có Hội Bà Triệu và chị em trong hội Thái Cực Quyền đứng ra tổ chức. Nhưng chỉ sau một vài lần, các hội ái hữu của các trường nữ như Trưng Vương, Gia Long, Ðồng Khánh, Lê Văn Duyệt đã nhất loạt đến cùng với Hội Bà Triệu để góp thêm một tay gìn giữ truyền thống của các anh thư trong lịch sử VN. Có năm còn có cả các cựu nữ sinh Regina Pacis Saigon, Bùi Thị Xuân Ðà Lạt, Ðoàn Thị Ðiểm Cần Thơ... tham gia. Các chị cũng muốn rao truyền cho các thế hệ sau hiểu thấu được truyền thống anh hùng đó của dân tộc.

Cô Lệ Giang, hội trưởng Hội Bà Triệu và Thái Cực Quyền trong dịp này đã rất vui mừng bày tỏ lòng tri ơn đến các chị em của các hội đã cùng góp tay tổ chức đại lễ này. Hội trưởng Trưng Vương, Mộng Tâm, cũng là hội trưởng Liên Trường, phát biểu: “Là người VN ai cũng biết đến các anh thư Trưng, Triệu trong lịch sử dân tộc. Ðó là những nữ anh hùng được người Việt đời đời ngưỡng mộ. Chúng ta không chỉ duy trì ngày lễ để nhớ công ơn mà phải phát huy tinh thần của các bậc anh thư đó trong hàng ngũ con cháu chúng ta.”

Hội trưởng Gia Long, Quế Hương, cũng góp lời: “Anh thư Triệu Trinh Nương là niềm hãnh diện muôn đời của dân tộc chúng ta. Ðó là tinh thần chống ngoại xâm của dân tộc VN, bất kể trong hoàn cảnh thế nào. Tinh thần ấy đã khiến cho dải đất nhỏ bé VN được tồn tại đến ngày nay và chắc chắn sẽ tồn tại mãi mãi.”

Nữ Giáo Sư Phạm Thị Huê của đại học Orange Coast College, một nhà giáo hết lòng gìn giữ tiếng Việt và truyền thống văn hóa VN cũng lên bày tỏ cảm nghĩ của mình. Bà nói: “Tinh thần chống ngoại xâm của một cô gái Việt chỉ mới 23 tuổi, nay đã được nhiều trường học Mỹ ghi vào môn lịch sử. Ngày nay chúng ta hàng năm tổ chức đại lễ tưởng niệm Bà Triệu, chúng ta phải sống sao cho có tình có nghĩa với nhau. Quyết tâm noi gương Bà, quyết chống lại bọn cộng sản VN bán nước cầu vinh đã để cho giặc phương Bắc thực hiện cái mộng bành trướng muôn đời của Hán tộc.”

Mở đầu buổi lễ là cuộc rước chân dung Bà Triệu từ ngoài vào lễ đường, do thế hệ trẻ cùng các thành viên của Hội Bà Triệu, Thái Cực Quyền và của các cựu nữ sinh Trưng Vương, Gia Long, Ðồng Khánh, trong những đồng phục của trường mình. Ðóng vai Triệu Trinh Nương là nữ sinh viên Alice Nguyễn của đại học UCI trịnh trọng rước bức chân dung Bà Triệu vào đặt trên lễ đài. Toán rước với những đồng phục vàng rực rỡ, sau khi phụ đặt tấm chân dung, đã chia thành hai hàng trước lễ đài để đón ban tế lễ lên, tiến hành những nghi thức dâng hương tưởng niệm.

Trong lúc ban tế đốt trầm hương thì Lệ Giang nhắc đến công đức của vị anh thư Triệu Trinh Nương và biết bao vị nữ lưu đã hy sinh quyết giành độc lập cho dân cho nước. Những tấm gương hy sinh ấy đã làm cho tinh thần chống ngoại xâm của dân tộc VN lúc nào và thời nào cũng bền vững trong tâm trí người Việt.

Sau phần dâng hương, cô Xuân Trang, một thành viên của hội Bà Triệu đã xướng đọc bài văn tế nhắc đến công đức của vị nữ anh hùng này. Tiếp đó, cô Xuân Lan, một thành viên khác của Hội Bà Triệu đọc tiểu sử Triệu Trinh Nương. Sử sách VN ghi rằng: “Sử xưa, nhất là sử Trung Hoa thường chép là Triệu Ẩu, là bực anh thư vào khoảng tiền bán thế kỷ thứ III đã dấy binh chống lại quân Ðông Ngô đang xâm chiếm nước ta. Thuở nhỏ vì cha mẹ mất sớm nên ở với người anh là Triệu Quốc Ðạt, một thanh niên yêu nước đang mộ binh chống quân Ðông Ngô. Triệu Thị Trinh xin theo, nhưng người anh can ngăn không cho, lại tìm nơi xứng đáng để tác thành cho em. Nhưng Triệu Thị Trinh đã khẳng khái nói rằng: ‘Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá Tràng Kình ở biển Ðông, quét sạch bờ cõi để cứu dân ra khỏi nơi đắm đuối, chứ không thèm bắt chước người đời mà cúi đầu, khom lưng làm tì thiếp cho người ta.”

Sử cũng ghi khi Triệu Quốc Ðạt khởi binh đánh quận Cửu Chân, bà chiêu mộ được hơn một ngàn nghĩa dũng, cất quân đi giúp anh. Quân sĩ của Triệu Quốc Ðạt thấy bà cầm binh giỏi, có tài thao lược, quyền biến, đã nhất tề tôn xưng bà lên làm chủ tướng. Chấp nhận nguyện vọng ba quân, bà xưng là Nhị Kiều Tướng Quân. Bà cất quân tiến đánh quận Cửu Chân. Quân bà đánh đâu thắng đó, khiến quân Tầu phải bỏ chạy. Sử của Trung Hoa trước tinh thần chống ngoại xâm của bà, đã ghi bà như một dị nhân để chống đỡ cho sự thua kém của quân Ðông Ngô. Khi ra trận bà mặc áo bào vàng, cưỡi voi lớn màu vàng, thúc quân vũ bão nên quan quân Ðông Ngô thấy dị tướng của bà đã sợ hãi mà bỏ chạy và gọi bà là Lệ Hải Bà Vương.

Nhưng sáu tháng sau, vì thế cô, sức yếu trước sự tăng viện của quân Ðông Ngô Lục Dận, bà phải rút quân và tự sát tại xã Bồ Ðiền, Thanh Hóa ngày nay.

Công trình tổ chức đại lễ hàng năm để nhớ đến công đức Bà Triệu của Hội Bà Triệu và Thái Cực Quyền từ hơn 15 năm nay đã làm sống lại lịch sử giữ nước của dân tộc VN nơi hải ngoại. Các tổ chức bạn trong cộng đồng người Việt ở Nam California hỗ trợ nên cũng đến tham dự khá đông, như các hội đồng hương Tây Sơn, Long Xuyên, Quảng Ngãi, Bạc Liêu và các cộng đồng Pomona, San Diego, CLB Hùng Sử Việt và Chùa Ðiều Ngự.

Ðặc biệt là các bạn trẻ cũng đã biết đến dòng lịch sử đáng kiêu hãnh của dân tộc VN. Em Alice Nguyễn, cô gái đóng vai Bà Triệu năm nay là một sinh viên của UCI, ngành sinh học, sắp ra trường đã nói với chúng tôi: “Ðược tham dự những năm trước, cháu vô cùng thích thú khi được biết người VN ta có những vị nữ anh hùng như Hai Bà Trưng, bà Triệu. Vì thế, năm nay khi được các cô trong hội Bà Triệu mời cháu đóng vai Bà Triệu, cháu thấy kiêu hãnh quá. Nếu như bây giờ lại có Bà Triệu mộ quân để đánh quân Trung Quốc đang xâm lấn VN thì tuổi trẻ chúng cháu sẽ ghi tên nhiều lắm.”

––––
nguoiviet online

Phượng Các
#7 Posted : Tuesday, July 8, 2014 7:47:32 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)


hình sưu tầm
Phượng Các
#8 Posted : Sunday, April 26, 2015 8:22:00 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
Users browsing this topic
Guest
Forum Jump  
You cannot post new topics in this forum.
You cannot reply to topics in this forum.
You cannot delete your posts in this forum.
You cannot edit your posts in this forum.
You cannot create polls in this forum.
You cannot vote in polls in this forum.