Welcome Guest! To enable all features please Login or Register.

Notification

Icon
Error

Linh Bảo
Hạt Cát
#1 Posted : Wednesday, October 27, 2004 4:00:00 PM(UTC)
Hạt Cát

Rank: Advanced Member

Groups: Registered, Moderator
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 80
Points: 18

Was thanked: 1 time(s) in 1 post(s)
Linh Bảo




Linh Bảo tên thật Võ Thị Diệu Viên. Biệt danh: Lai Cẩm Hoa, Vũ Trung Thư. Sinh ngày 14 tháng 4, 1926 tại Huế.
Là chị ruột của nhà văn Minh Đức Hoài Trinh. Cha làm quan (chức vụ cuối cùng là Tổng Đốc Quảng Nam) mỗi hai năm phải đi đến một tỉnh mới, có nhiều tỉnh không có trường học, phải mướn cô giáo dạy riêng, cho cô giáo ở cùng nhà. Thông thạo Hoa Ngữ.
Đã sống một thời gian dài tại Nam Kinh, Thượng Hải, Quảng Châu, Hồng Kông, Anh, Pháp.
Nhân viên Lãnh Sự Quán Việt Nam tại Hồng Kông thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm (làm việc dưới quyền ông Lê Quang Nhã và sau đó làm dưới quyền ông Bùi Công Văn).
Dạy Việt ngữ trường Sinh Ngữ Quân Đội, Monterey, CA từ năm 1962 cho đến cuối năm 1976. Xuất ngoại sau 1945. Hiện bà cư ngụ tại Westminster, California, Hoa Kỳ. Tác phẩm xuất bản:


- Gió Bấc (1953, nhà xuất bản Đời Nay)

- Chiếc Áo Nhung Lam 1953

- Tàu Ngựa Cũ 1961 Giải thưởng Văn Chương Toàn Quốc 1962

- Những Đêm Mưa 1961

- Con Chồn Tinh Quái (1967, Ngày Mới)

- Những Cánh Diều (1971, Trí Đăng)

- Mây Tần (1981, Việt Nam Hải Ngoại)

(Nguồn :Thuvienvietnam )
PC
#2 Posted : Thursday, October 28, 2004 5:39:18 AM(UTC)
PC

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 5,668
Points: 25
Woman

Was thanked: 4 time(s) in 4 post(s)


Hai nhà văn Linh Bảo và Minh Đức Hòai Trinh


tienmacdoa
#3 Posted : Thursday, October 28, 2004 5:41:06 AM(UTC)
tienmacdoa

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 189
Points: 0

Tác giả vtmn
Gởi: Sun Jul 18, 2004 5:55 pm
Tiêu đề: Re: BÀ LINH BẢO

Áo Mới



Linh Bảo (1953)

Chiếc áo đầu tiên quý giá nhất trong gia đình tôi là một chiếc “Áo vua ban" . Hồi ấy, ba tôi làm việc tại Tòa Khâm Sứ Huế, mẹ tôi là một cô Tôn nữ nghèo, Tôn nữ là một người thuộc Hoàng tộc , địa vị xa lắc xa lơ. Nhưng cũng nhờ thế bà có đường giây bà con quen biết để tiện việc mách mối mua bán đồ cổ. Ngoài ra, bà còn chụp ảnh cho các Bà Hoàng, Bà Chúa, Bà Phi, Bà Tân trong Hoàng cung.
Mách mối là một công việc buôn bán rất nhàn. Bà chỉ việc diện bảnh, rẽ đường ngôi cho thẳng, bôi dầu dừa bóng loáng và thơm nức lên, chiếc quần lụa cũng được là ủi thẳng và xếp thành nếp hai bên, gọi là " xếp con " , năm con, bảy con gì đấy, càng nhiều " con" càng sang trọng quý phái. Ăn mặc tề chỉnh như thế xong, bà chỉ việc đến nhà các Mệnh phụ, Công nương, ngồi lê đôi mách một vài buổi. Thế là " Mệ" nào muốn bán cái gì, cụ nào muốn mua cái gì, mẹ tôi biết rõ cả. Bà chỉ việc vắt vẻo ngồi lên chiếc xe kéo nhà, đi thăm viếng xã giao vài lần, là kẻ mua người bán đều vui vẻ.
Nghề chụp ảnh mấy chục năm về trước còn là một nghệ thuật rất mới mẻ, nhất là đối với các Mệ, các bà Phi, bà Tân không thể ra phố mua bán tự do như người thường. Mẹ tôi được các bà hoan nghênh vô cùng. Phải, còn gì sung sướng hơn một bà Phi, suốt mấy năm trời chẳng hề trông thấy " mặt rồng " của ông chồng vua, bỗng dưng có được một tấm ảnh mình ngồi chễm chệ trên chiếc ghế bành chạm trỗ tinh vi, còn “Hoàng Đế " thì đứng bên cạnh, quàng tay qua lưng ghế, như ôm một cách âu yếm. Mẹ tôi ghép ảnh rất giỏi và tính giá cũng rất “phải chăng”. Nhưng, tiền có nghĩa lý gì đối với những Cung Phi suốt đời, từ lúc tiến cung cho đến già, đến chết vẫn còn là trinh nữ! Tấm ảnh an ủi họ làm thỏa mãn một phần nào lòng hâm mộ hư vinh đã được nuôi dưỡng từ lúc bé thơ.
Trong số khách hàng của mẹ tôi có một bà mẹ Vua. Vua còn bé đang đi học xa. Bà ở nhà, sống một cuộc đời vương giả. Suốt ngày bà chỉ biết đánh bạc với những người đến " bẩm chảu" tiếng riêng có nghĩa là nịnh bợ. Bà đoạt kỷ lục về nợ nần, chỉ vay mà không cần phải trả. Bà cho là mọi người ai cũng có bổn phận phải cung phụng bà, đưa tiền cho bà tiêu xài như “đưa con vô Nội” một thành ngữ có ý nghĩa sẽ không bao giờ gặp lại. Nhưng bà cũng không bao giờ quên an ủi họ, khéo léo nói úp mở cho họ biết, ngày " Hoàng Đế hồi loan " , bà sẽ đền ơn trả nghĩa. Không biết mẹ tôi có bị bà mê hoặc không, mà nếu có thì chúng tôi, những ranh con, cũng không được quyền can thiệp.
Tôi còn nhớ bốn chị em tôi có bốn chiếc kiềng vàng, một thứ nữ trang đa dụng, vừa đeo cổ cho đẹp, vừa để dành làm của, làm vốn , và nếu cần tiền có thể cầm bán tạm thời qua cơn túng ngặt. Bốn chiếc kiềng lịch sử ấy có một con đường đi bất di bất dịch. Từ nhà tôi đến nhà bà Bộ, một bà nhà giàu chuyên cầm vàng bạc. Chúng nó đi " lữ hành" như thế, ít nhất mỗi tháng vài lần. Mỗi khi mẹ tôi xoay được món tiền, chuộc về nằm trong tủ chưa được nóng chỗ, thì lại có lệnh " Ngài ban vay" . Và như thế, bốn chiếc kiềng bé bỏng của chúng tôi lại lên đường đến nhà bà Bộ tạm trú. Bốn chiếc kiềng vàng đi con đường vòng độc nhất, còn số tiền cầm đồ nhận được thì đi con đường độc đáo một chiều, và là một con đường cụt. Nó từ túi bà Bộ sang túi mẹ tôi, rồi nhảy sang túi “Ngài " để rồi bị thủ tiêu mất tang mất tích trong chiếu bạc, không còn một chút dấu vết gì để lại với đời.
Đã thế, thỉnh thoảng " Ngài " lại " ngự " đến " tệ xá" của chúng tôi ở Nam Giao, mặc dầu " tệ xá" quả thực là quá tệ. Nó chỉ là một gian nhà bé nhỏ nằm lọt vào một vùng đất trống, xưa kia là một bãi tha ma to lớn, cách xa thành phố đúng ba câysố.
Cha mẹ tôi sở dĩ chọn nơi xa xôi như thế để xây " biệt thự" , vì theo lời bác sĩ khuyên, ba tôi yếu phổi nên phải thở không khí có gió thông trong lành rất cần cho sức khỏe. Ấy thế mà trong " tệ xá" có rất nhiều đồ cổ quý giá. Những món ấy toàn là của các Công nương, Mệnh phụ gửi, nhờ cầm hay bán hộ. “ Giấy rách phải giữ lấy lề “ nên dù ngày mai không còn gạo để nấu cháo loãng, họ cũng vẫn giữ bí mật, không bao giờ dám ra mặt tự cầm bán đồ vật. Họ vẫn còn làm bộ điệu rất kênh kiệu quí phái cao sang, cả đến những khi cần đến hai xu để ăn quà sáng .
-Đưa đây cho Mệ hai xu, Mệ " chém" một củ khoai chơi nà!
Tuy cảnh túng của họ đã trầm trọng đến thế, mà bệnh " khẩu khí" vẫn không hề thuyên giảm , và các Mệ thấy cuộc sống vẫn không bớt phần hấp dẫn thú vị tí nào. “ Mệ” là tiếng xưng hô một bà cụ rất già, hay những người trong Hoàng tộc, không phân biệt già trẻ nam hay nữ.
Đường đến nhà tôi, hai bên trồng toàn thông xanh và phải lên hai cái dốc rất cao. Thỉnh thoảng, người ta lại thấy từ dưới dốc đằng xa có một chiếc xe kéo sơn son thếp vàng, một chú lính mặc áo đỏ, chân quần xà cạp vàng, đầu đội nón chóp, ì ạch kéo xe lên dốc. Sau xe có hai cô bé con độ mười bốn, mười lăm tuổi, mặc áo màu hỏa hoàng, đầu chít khăn đồng màu, tóc xõa ngang vai. Một cô tay cầm chiếc hộp trầu và cái ống nhổ bằng bạc, một cô tay cầm chiếc quạt lông, lẽo đẽo chạy theo sau xe. Thỉnh thoảng, cô bé cầm quạt cố chạy lên ngang hàng với chiếc xe, giơ chiếc quạt lông lên, phẩy nhẹ một cái vào trong xe, rồi lại trụt dần xuống đằng sau. Ấy thế mà bọn họ từ Cung cấm trong Thành Nội ra tận Nam Giao, ngót bốn năm cây số để đến " tệ xá " đấy.
Sau khi đến nơi, " Ngài " chễm chệ leo lên chiếc sập cẩn xa cừ đặt ngay chính giữa nhà, hai thể nữ đứng hầu hai bên, kẻ pha trà, người quạt hầu. Ngài lần lượt ngắm nghía, thưởng thức các đồ vật trong " tệ xá" , và cố nhiên khi " Ngài " rời gót ngọc, những món đồ cổ không ít cũng được theo " Ngài " ngự, lên chiếc xe nhà sơn son thếp vàng có hai thể nữ chạy theo hầu ấy.
Trước khi bước chân lên xe, thế nào " Ngài " cũng " ban truyền" :
-Chị Tham tính tất cả tiền những cái ché và độc bình này đi. Cả cái Táo lung Cây vàng Lá ngọc kia nữa, rồi ta sẽ trả tiền lại cho. Còn cái sập cẩn này, chị cho ta mượn, mai ta sai thị vệ ra chở.
Mẹ tôi chỉ biết " Dạ" mà nuốt lệ. Bởi vì mẹ tôi biết, đồ vật cũng như người, khi đã được " tiến cung" thì chỉ còn đợi chết! Mặc dầu được sủng ái, số phận của đồ vật còn đen tối hơn Cung phi Mỹ nữ không được sũng ái. Các cung nhân, khi về già còn được thải hồi nguyên quán, trái lại những món đồ cổ, càng già càng quí thêm, càng không mong gì được trả về với cố chủ.
Cứ mỗi khi như thế, ba tôi lại lẩm bẩm:
-" Thấy Vua" rõ thật là " thua vấy" !
Cuộc đời cứ thế trôi qua. Ba tôi ngày ngày đi làm . Mẹ tôi giới thiệu việc mua bán đồ cổ và ghép ảnh cho Qúy Bà cô đơn. Tiền kiếm được, dùng để nuôi chúng tôi một số rất nhỏ, còn phần lớn để nuôi " Ngài " .
Một hôm, chắc lương tâm " Ngài " thức dậy, hay là " Ngài " sợ nợ mẹ tôi nhiều quá, nếu kiếp này không trả bớt, đến kiếp sau sẽ thành ra " nợ thiên khối" vốn cộng thêm lời lãi chồng chất lên nhau thì nguy to, Ngài bèn long trọng " tuyên dương công trạng" một hồi, rồi “thân tặng" cho mẹ tôi một chiếc áo cũ của ông Vua con.
Đó là một chiếc áo the đen, bên trong lót một lớp hàng mỏng màu vàng. Chiếc áo còn thơm nức mùi xạ hương và long não ướp lâu ngày. Mẹ tôi đem chiếc áo ấy về, vênh vang như một kẻ " áo gấm về làng" . Sự sung sướng của mẹ tôi, được cái “ Áo Vua Ban” ấy, cũng giống như tâm trạng người cung phi trinh nữ, được tấm ảnh ghép ngồi chung với Đức Vua. Cả hai cùng muốn mang cái ảo ảnh hão huyền ra để thỏa mãn lòng tự ái, lừa mình, lừa người cho đỡ cơn ghiền!
Chiếc áo về phần chị cả tôi. Mỗi năm vài lần, trong những ngày kỵ giỗ, lễ Tết, cái “Áo Vua Ban" ấy được trân trọng " trình bày" trên thân hình bé nhỏ của chị tôi một vài giờ, rồi lại được trân trọng xếp vào rương chờ dịp khác.
Năm tháng qua, chị tôi mới đầu mặc chiếc áo còn rộng thùng thình, rồi chật dần, ngắn dần cho đến khi mặc không vừa nữa, phải cho chị Hai tôi thay thế. Từ chị Cả đến chị Hai, anh Ba, anh Tư, anh Năm, rồi đến chị Sáu, chiếc áo không phân biệt giới tính ấy, mỗi năm lại có dịp đem ra hóng gió một vài lần. Năm lại năm, chờ mãi rồi cũng có ngày đến lượt tôi được xỏ tay. Hôm Tết, mẹ tôi mang chiếc áo lịch sử quí giá ấy ra để mặc cho tôi và bảo:" Hoa ơi, cái áo này bây giờ về phần con”, thì nó đã mục nát và chỉ động đến là rã tan ra từng mãnh!
Thời gian chờ đợi dù lâu bao nhiêu rồi cũng phải đến, Đông Cung Hoàng Thái Tử ở Pháp học thành tài trở về nước để được tấn phong chính thức làm Vua. Và cũng từ lúc ấy, " Ngài Mẫu Hậu " ra lệnh không tiếp tất cả các chủ nợ. Bây giờ, " Ngài " đã thành ra một bậc cao sang nhất, không thể có chủ nợ, và lại càng không muốn gặp người nào đã từng quen biết " Ngài" những năm tháng hàn vi. Thật là chí lý, chí tình vậy! Còn gì khó chịu hơn một kẻ ở địa vị cao sang, mà ngày ngày phải trông thấy những chủ nợ ngày xưa, đám người mình từng nhờ vả năn nỉ kêu than túng thiếu, những kẻ đã phải cầm bán vay mượn cho mình tiêu xài. Đó là một dĩ vãng buồn, một sỉ nhục tinh thần, có thể làm mất bớt uy nghiêm nhiều lắm.
Tết năm ấy, tôi không được mặc chiếc áo đã bao nhiêu năm chờ đợi để đi mừng tuổi, nên tôi khóc mùi khóc mẫn cả buổi sáng. Tôi tưởng tôi khóc vì khi chiếc áo quí đến phần mình thì hóa ra một mớ dẻ vụn tả tơi rách nát; nhưng thật ra tôi đã khóc cho cái ảo ảnh " ân trả nghĩa đền" của mẹ tôi bị tan vỡ. Tôi khóc cho cái chết của chiếc áo, đổi bằng tất cả tài sản mẹ tôi dành dụm được. Tôi khóc cho nền móng tương lai của một đám trẻ thơ, đáng lẽ được dùng của cải ấy để bồi đắp cho thể chất và tinh thần.
Những năm sau đó, gia đình tôi ngày một khá hơn. Có lẽ vì không phải cung phụng cho ai khác ngoài gia đình, nên lần lần trong mâm cơm đã bắt đầu có nhiều món cá thịt ngon lành. Ba tôi cũng vui vẻ giảng giải cho chúng tôi biết về những thức ăn bổ dưỡng cần thiết cho sức khỏe, một đề tài trước kia õng cố tránh.
Một hôm,không hiểu tại sao, mẹ tôi bỗng nhiên " phát từ bi tâm" may cho chị Sáu, tôi, em Tám và em Chín, mỗi đứa một cái áo xa-tanh màu phấn hồng. Xấp hàng này, có người tặng cho mẹ tôi trong dịp ăn lễ đầy tháng em thứ mười một. Chúng tôi mừng rỡ trông đợi ngày trọng đại, ngày được mặc chiếc áo hồng lộng lẫy, sặc sỡ, bóng loáng, mát rời rợi và rộng thùng thình như áo tế ấy, thì bỗng dưng ông nội tôi chết. Tôi thấy cha me tôi khóc, anh chị tôi khóc, tôi cũng khóc. Nhưng thực ra, tôi không nhớ đã được thấy mặt ông nội tôi hồi nào. Tôi khóc là khóc cho bốn chiếc áo xa-tanh hồng tươi rực rỡ, chưa từng được diện qua một lần, vì phải để tang, đã bị mẹ tôi ngâm vào nước thuốc nhuộm răng. Chúng nó biến thành một màu kỳ lạ, không vàng, không lục, không xanh. Màu ấy, ba tôi gọi mĩa mai một cách văn chương là màu" dưa cải úa mùa thu" . Nếu bây giờ bảo tôi đặt tên lại, thì tôi sẽ gọi là một bức tranh lập thể may thành áo. Từng vệt, từng đám, ngang dọc chồng chất lên nhau, níu kéo nhau chằng chịt. Cái áo nhuộm như thế đấy, mà chúng tôi vẫn phải khen cho mẹ tôi bằng lòng. Bởi vì, đã có định luật rằng một khi " đấng sinh thành" đã quyết định thì con cái phải vui vẻ “Dạ,Vâng”, mới có hiếu. Phần các bậc trưởng thượng thấy các con vui cũng tưởng thiệt mà vui theo một cách dễ dàng.
Chúng tôi phải chịu đựng cái xấu xí của áo, và áo cũng phải cố chịu đựng sư tàn nhẫn vùi dập của bọn trẻ con. Chúng tôi mặc nó lúc nằm lăn đùa nghịch dưới đất, mặc suốt ngày đêm, vò nát nó, ném nó từ góc này sang góc khác. Đôi khi còn cắn nát chéo áo để xem cái mùi chua chua, có phải thật chỉ là thuốc nhuộm chua như mùi dưa cải úa, hay còn lẫn mùi gì khác nữa không.
Thật ra, số phận của những chiếc áo ấy cũng đáng thương như chúng tôi. Tâm hồn chúng tôi sớm đã bị nhuộm thành một màu " dưa cải úa mùa thu " , hay cũng chỉ là một bức tranh lập thể chồng chất những niềm đau khổ bé thơ, đã ai hơn gì ai đâu! Thế mà chúng tôi nỡ dằn vặt chúng nó cho đến khi rách nát, và cùng lúc ấy, tang ông nội tôi cũng vừa mãn.
Một bà bạn ở Saigon gởi tặng mẹ tôi một xấp hàng xa-tanh hồng khác. Mẹ tôi ngại màu sắc quá sặc sỡ lộng lẫy không hợp với người lớn tuổi, nên may cho bốn chúng tôi. Bốn chiếc " áo tế" vừa dài vừa rộng, may xong được cất kỹ, đợi " ngày lành tháng tốt " mới đem ra diện. Thỉnh thoảng, tôi lén mở rương vuốt ve cái áo một lúc. Tôi nâng nó lên, áp chất mịn màng mát rời rợi lên cằm, lên má. Tôi ướm nó vào người, hít cái mùi thơm long não ướp trừ sâu mọt và mùi xạ hương từ trong áo toát ra một cách say sưa. Nhưng cái " ngày lành tháng tốt" ấy không bao giờ đến, vì bỗng nhiên chú tôi mất. Kể ra thì đó chỉ là một cái tang nhỏ thôi, nhưng mẹ cũng bắt chúng tôi để tang. Và một lần nữa chúng tôi khóc cho chiếc áo đẹp lại phải nhuộm thành một màu lem luốc không tên!
Ba tôi lúc ấy đã bắt đầu rảo bước trên con đường trải toàn thẻ ngà. Ông chuyển đổi ngành công chức với Chánh Phủ Bảo Hộ sang ngạch Nam Triều, nôm na gọi là làm quan. Mẹ tôi không còn phải đi giới thiệu mua bán đồ cổ và cũng không cần chụp ảnh cho ai nữa.
Chúng tôi, mỗi người được sắm một con heo đất để dành tiền. Nhưng, những con heo ấy, hàng năm đều phải bị đập ra, vì mẹ tôi mở cuộc " lạc quyên" để may áo quần cho bọn con trai trước ngày tựu trường. Cảm thông những nỗi khó khăn của các anh khi cần thiết, chúng tôi lúc nào cũng vui lòng " quyên" . Mẹ tôi bảo đấy cũng là làm việc nghĩa, chẳng mất đi đâu mà thiệt, vì mai đây,khi các anh mặc ngắn, những chiếc áo ấy cũng sẽ đến phần chúng tôi.
Khi những chiếc áo xa-tanh nhuộm mực lem luốc thứ hai " quá cố " rồi, bọn con gái đã thành những cô gái dậy thì. Chúng tôi đã biết thẹn, nhưng khi ra đường vẫn cứ phải mặc những chiếc áo vải dù, vải ba-ga con trai đã bạc màu và rộng mênh mông như cả một trời đau khổ. Chúng tôi cố năn nỉ xin mẹ may một cái áo mới cho ra hồn. Mẹ tôi bảo:
Áo các anh mặc ngắn, thiếu gì! Còn tốt và bền lắm, may một lần cho cả bầy nhiều tiền lắm, chứ tưởng ít sao! Ngày xưa, suốt đời mẹ chỉ có một chiếc áo vải. Còn các con đã có bao nhiêu cái áo đẹp rồi, nhớ không? " Aó vua ban" này, áo xa-tanh nhuộm màu dưa cải này ...
Tôi nhắc:
-Dưa cải úa mùa Thu chứ!
-Ừ thì Thu Đông gì cũng được. Lại còn cái áo xa-tanh nhuộm màu mực này.
Tôi cải chính:
-Màu lem luốc chứ.
-Con Hoa thật nhiều chuyện! Mới may rồi, còn đòi gì nữa!
Em Tám nói:
-Dạ, mới may bốn năm về trước!
Mẹ tôi mắng:
-Chúng mày rắc rối lắm, không biết hà tiện hà tặn, sau hết phước đi! Phải nhớ, hồi xưa mẹ chỉ có một cái áo, nên mới có ngày nay!
Em Chín tiếp:
-Nhưng mà mẹ quên mẹ là con ông Huyện, và mồ côi, còn chúng con là con ông Tổng Đốc đương thời!
Mẹ tôi giận dữ quát lên:
-Ai dạy cho mày ăn nói giảm phước thế ?
-Mẹ không thương chúng con. Mẹ chỉ thương chị Hồng. Mẹ nhớ chị Hồng mất ăn mất ngủ. Mỗi khi chị Hồng tới xin tiền là mẹ đập con Heo của chúng con
Mẹ tôi vội vã:
-Thôi thôi, để tôi may, các cô không cần phải kể con cà con kê ...
Mẹ sợ chúng tôi phân bì với chị Hồng lắm. Mỗi tháng cô chị họ ấy đến thăm mẹ tôi một lần, và mỗi lần như thế là cả nhà náo loạn cả lên. Nội một việc hầu hạ phục dịch chị cũng đủ mệt phờ ra. Chị ăn tiêu rộng rãi, thưởng tiền cho người nhà rất hào phóng . Đối với chúng tôi, chị cũng" thết đãi" linh đình. Nghĩa là gọi cả một gánh bánh bèo hay bún bò vào nhà, thết mỗi người một tô. Chỉ có một cái " di hận" là[chị chuyên môn đập Heo của chúng tôi. Ba cho chúng tôi mỗi đứa một ống tiền đặc biệt, tiền thưởng nhiều ít tùy theo học giỏi, trả bài thuộc , những bài học ông soạn riêng để dạy mỗi ngày. Tiền ấy được bỏ vào con Heo bằng đất nung mục đích để dành làm của hồi môn. Nhưng từ khi chị Hồng phát giác ra câu chuyện ấy thì chị rủ mẹ cho chúng tôi hùn vào tiệm may của chị. Mỗi tháng, chị đến đập Heo của chúng tôi một lần. Mãi cho đến khi chị bán cửa tiệm đi lấy chồng, chúng tôi chẳng hề thấy chị thanh toán tiền nong hùn hạp gì cả, làm tôi cứ tưởng là cửa tiệm của chị ở nhằm hướng " tán tài" nên suốt bao nhiêu năm trời chỉ chuyên môn thua lỗ. Và cái bản tính không bao giờ thanh toán công nợ ấy, chị vẫn giữ mãi suốt đời.
Mẹ tôi quả nhiên giữ lời hứa, lấy một xấp hàng " xa xị" màu vàng nhạt để tận đáy rương ra, may áo cho chúng tôi. Bà gọi người lính ở trong dinh biết may cắt dặn:
-May cho thật dài rộng mát mẻ nghe không!
Vì chúng tôi đã lớn, đã biết sợ những chiếc áo rộng mênh mông, mặc vào như bơi đứng trong áo, nên nghe thế, phải dặn với:
-Ừ, may cho dài ...
Và đứng sau lưng mẹ, lấy tay ra hiệu cho người thợ may chật.
Đến lúc áo may xong, mặc thử, thật là dở cười dở khóc. Nó dài phết gót và chật như bó chả. Chật đến nổi tay không co lại được. Người tôi cứ cứng ra như khúc gỗ không cử động trong chiếc áo đó. Chỉ mấy tháng, chiếc áo mới đã phải vá cùi tay và tiếp thêm nách. Nhưng dù vá víu xấu xí đến đâu, tôi cũng mặc đi nhiều nơi, nó vẫn còn hơn chiếc áo vải ba-ga đen cũ bạc mầu của bọn con trai chuyền lại.
Tiếp theo chiếc áo đấu tranh mà có này là một chiếc áo " vải cạt" . Gặp thời buổi chiến tranh Pháp Đức, mọi vật dụng đều khan hiếm nên phải được phối cấp, hàng vải cũng thế. Chúng tôi được may một cái áo bằng thứ “ vải cạt" phối cấp hoa lá cành chằng chịt, màu xanh đỏ tím vàng loạn xà ngầu, sặc sỡ lòe loẹt, nhà quê một cách không thể tả được. Mặc vào trông như một tấm vải màn, hay cái ghế nằm sofa biết đi. Thế nhưng tôi vẫn phớt tỉnh. Coi như trên đời này không có ai nhìn thấy mình cả.
Nhưng cũng từ đấy về sau, mẹ tôi chẳng cần phải may áo mới cho chúng tôi nữa, vì chị Hồng thỉnh thoảng lại gởi về một ít quần áo cũ. Trong số y phục loạn xà ngầu ấy, có hai cái còn coi được. Chị Sáu chọn cái áo màu đỏ, tôi mặc vừa áo màu xanh. Hai chị em, mỗi khi đi phố, đi chợ, đều diện hai cái áo đẹp nhất của mình, mặc cho thiên hạ bạn bè “ khen ngợi”. Nào là màu sắc chửi nhau, nào là " người trong tranh " , nào là bất chấp thời tiết v.v... Chúng tôi giữ vững lập trường " mục trung vô nhân" không cần ai và cũng không cần biết đến cả Xuân, Hạ, Thu, Đông.
Kể từ ngày mẹ giao tiền chợ cho chị Sáu giữ để chị tập việc quán xuyến gia đình, chị không còn thắc mắc về vấn đề ăn diện làm dáng nữa. Chị tự sắm rất nhiều áo quần đẹp, nhưng cứ nói dối là của bạn bè, bà con ở xa gởi về cho, thành ra mẹ không la rầy được, mà chúng tôi cũng không thể phân bì được. Tôi cầu mong chị cao lớn thêm lên, hay béo ra một chút, để rơi rớt cho tôi vài cái. Nhưng rủi quá, người chị bé nhỏ, lùn thấp hơn tôi nhiều, và lòng dạ chị lại khá sắt đá, nên tôi không hề gạ gẫm gì được cả.
Tôi biết rõ tính mẹ tôi, khi có tiền chỉ thích giúp đỡ người khác, dù người ấy tiêu dùng một cách phí phạm, còn mình và con cái thì phải hết sức kham khổ. Bà luôn luôn nhắc câu:” Người ăn thì còn, con ăn thì hết”. Thành ra khi trong nhà món gì ngon lành là bà đem đi biếu xén tất cả các nơi bạn bè bà con quen biết . Có lẽ mẹ tôi muốn cái gì cũng còn vĩnh viễn nên gặp ai áo rách quần vá là bà lục tủ áo tìm cái nào người ấy mặc vừa là bà cho một cách sung sướng. Tôi tin là mẹ tôi trong cuộc sống sau khi ba tôi hưu trí, bà không cần phải dự lễ tiếp tân, hay thết đãi quan khách với ba tôi thì bà chẳng cần giữ lại một chiếc áo nào ra hồn.
Sau này, lúc đã bị ném ra ngoài đời tranh đấu cho cuộc sống của mình ,tôi vẫn giữ tính nết không ăn diện đã tập được như thuở còn sống với mẹ, mặc dầu lý do nhiều phước hay giảm phuớc tôi không hề quan tâm. Thời kỳ làm việc tại Hương Cảng tôi cố dành dụm tiền để mỗi cuối năm, mua gửi cho mẹ tôi mười cái áo gấm Thượng Hải. Tôi nghĩ rằng trong mười áo ấy, bà sẽ tha hồ cho, tặng, bán hay gì đi nữa, nhiều lắm là chín cái thôi. Ít nhất cũng phải để lại một cái cho mình. Và được như thế là tôi thỏa mãn rồi.
Ngày mẹ tôi bị bệnh trầm trọng, tôi phải xin nghỉ phép về săn sóc cũng không quên mang theo mười áo gấm nữa cho mẹ tôi. Thế nhưng lúc mẹ mất, tôi lục soát tủ áo để tìm đồ liệm theo, thì không thấy một chiếc áo nào may bằng thứ gấm Thượng Hải tôi đã gởi về biếu mẹ hàng chục năm. Một người bạn trẻ nói với tôi:
-Chị Hoa, cuộc đời chị thế là tàn rồi! Không còn hy vọng! Không còn tương lai! Không còn mơ gì được nữa hết!
Hừ, láo đến thế thì thôi! Hắn biết tôi thất bại về hôn nhân, tôi về nước vì Mẹ, mà về đến nơi chẳng bao lâu thì mẹ mất, đúng là một thất vọng lớn lao. Nhưng đâu đã đến nỗi không còn gì để mơ!
Sau khi chôn mẹ bên cạnh mộ cha xong, tôi trở lại Hương Cảng làm việc. Và từ bấy giờ, dù có thừa tiền để sắm nhiều quần áo đẹp, tôi cũng không còn thấy hứng thú gì nữa,không làm sao còn cái cảm giác say mê nồng nàn như ngày xưa, khi len lén mở rương vuốt ve chiếc áo xa-tanh hồng đầu tiên, thuở mười hai. Tôi còn nhớ, sau ngày ông nội tôi mất, ba tôi thường nhắc đi nhắc lại mãi :
-Khi con cái còn nhỏ dại, chúng nó chưa đủ hiểu biết nên hay oán trách cha mẹ cấm đoán điều này điều nọ. Lúc lớn lên, có gia đình, Sinh con rồi mới hiểu lòng cha mẹ”, lúc ấy muốn báo ân cho kẻ sinh dưỡng mình, thì cơ hội đã không còn nữa!
Ba tôi mỗi lần nói thế, bao giờ cũng không nén được hai giọt nước mắt rưng rưng. Còn tôi, sau này mỗi lúc đi phố, nhìn những hàng gấm màu sắc u nhã, dệt Long, Phụng hay chữ Phúc, chữ Thọ rất đẹp, tôi lại như người lên cơn say, cố mua cho bằng được. Nhưng sau khi mua rồi, mới ngẩn người ra, chợt nhớ mẹ mất rồi còn đâu, mua áo gấm để gởi cho ai!
tienmacdoa
#4 Posted : Thursday, October 28, 2004 5:42:29 AM(UTC)
tienmacdoa

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 189
Points: 0

Tác giả vtmn
Gởi: Tue Jul 20, 2004 2:46 pm
Tiêu đề: Re: BÀ LINH BẢO

Hậu Hắc Học

Chiều nay, một buổi chiều đặc biệt nóng bức khó chịu vô cùng. Tôi thấy buồn buồn chỉ muốn sinh sự với ai cho vui. Nhưng nhìn quanh không thấy một bóng ma, mà nếu có cũng không nạn nhân nào đáng chịu cái vạ vịt ấy. Tìm nguyên do, thì ra chỉ vì trời không mưa. Lỗi tại trời trách ai được! Tôi chỉ còn cách nằm lăn ra gạch bông lạnh, thấy cũng dễ chịu phần nào. Gạch mát, trời oi bức, gió hiu hiu, dễ ngủ lạ!
Trong lúc mơ màng, tôi thấy lòng lâng lâng, hồn phiêu phiêu. Hình như tâm tưởng muốn đi đâu là thấy mình ở ngay trong cảnh ấy.
Tôi thấy tôi bay lên không trung, viếng từng vì sao trên trời. Tôi đang bay lang thang, bỗng nhiên nghe ai gọi:
- Linh Bảo, Linh Bảo! Đi đâu phất phơ vậy?
Tôi quay lại nhìn, thấy một cụ già râu tóc bạc trắng, y phục theo lối cổ như người trong tranh Tàu, có vẻ tiên phong đạo cốt lắm. Tôi đang nghĩ ngợi, không biết đã quen cụ ở đâu và bao giờ, thì cụ tiếp:
- Ghé lại đây chơi đã. Đệ tử gặp sư phụ, còn phải đợi sư phụ mời chào đến mấy lần mới chịu dừng chân hay sao?
Tôi thấy ngài ngại, ngập ngừng hỏi:
- Thưa cụ, con có học gì với cụ hồi nào đấy ạ? Trí nhớ con kém quá, xin cụ tha lỗi.
Cụ vuốt râu cười:
- Ta là Lý Tống Ngô. Tác giả phát minh ra HẬU HẮC HỌC đây mà!
Tôi vội vàng vái chào, nói:
- Xin cụ tha lỗi. Con quả thực có đọc qua học thuyết của cụ, con rất bái phục nhưng vì chưa lãnh hội được hết những chỗ cao thâm, nên con không dám nhập môn bái sư.
Thấy tôi có vẻ định “rút lui có trật tự”, cụ cười:
- Thì hẵng ngồi chơi một lúc đã. Ta đến đây đánh cờ với Tây Vương Mẫu. Nay mai sẽ trở về động, để nghiên cứu thêm về các anh hùng hào kiệt cận kim. Bộ con tưởng dễ gặp được ta lắm sao?
Tôi rón rén đến gần, ngồi xuống một đám mây bên cạnh. Cụ gọi tiểu đồng đi lấy rượu Hoa Điêu mời tôi uống. Cụ hỏi:
- Sao? Từ hồi rời Trung Hoa đến giờ, chắc không có dịp uống rượu Hoa Điêu hâm nóng đấy nhỉ? Làm ăn có khá không?
- Dạ thưa cụ, cũng qua ngày nào hay ngày ấy
- Con dại lắm. Đã biết đến Hậu Hắc Học của ta, thì cứ gắng ngày đêm mài dũa, nghiên cứu. Lo gì không có ngày phát đạt.
- Bẩm cụ, con ngu quá, không lĩnh hội nổi. Có lẽ con không có tuệ căn.
- Ta biết hết. Con đọc đi đọc lại sách ta cả chục lần. Có nhiều chữ tự vị thiếu, không biết hỏi ai chạy lăng quăng như gà mắc đẻ, tội nghiệp quá, thôi để ta giảng sơ lại cho con hiểu .
Cụ tằng hắng lấy giọng nói:
- Con nghe cho rõ nhé. Hậu Hắc Học của ta phát minh hồi cuối đời nhà Thanh. Sau bao nhiêu năm nghiên cứu ta mới thấy rằng, thì ra Anh hùng Hào kiệt trong thiên hạ xưa nay sở dĩ làm được những chuyện kinh thiên động địa, là chỉ nhờ có hai điều kiện mà thôi: Aáy là MẶT DÀY và TIM ĐEN. Hậu là dày, Hắc là đen. Học là học thuyết. Vì thế nên ta mới gọi là HẬU HẮC HỌC.
- Dạ điểm này con hiểu.
- Kể những anh hùng trong truyện Tam Quốc, người thứ nhất là Tào Tháo. Sở trường của ông là tâm địa đen tối, nghĩa là độc ác. Tào Tháo giết nhà họ Lữ, giết Dương Tu, giết Đỗng Thừa, Phục Hoàn, giết Hoàng Hậu, Hoàng Tử mà không hề ghê tay. Đã thế, lại còn nói thẳng ra: “Chẳng thà ta phụ người, còn hơn để người phụ ta”. Tim đen như thế, thật đã đến tột độ. Tào Tháo xưng hùng được là lẽ cố nhiên.
-
Kế đến nên công nhận Lưu Bị. Sở trường của ông ta hoàn toàn nhờ ở cái bộ mặt dày. Ông ta theo Tào Tháo, theo Lữ Bố, theo Lưu Biểu, theo Tôn Quyền, theo Viên Thiệu. Trốn bên Đông, nấp bên Tây, chầu chực ăn ở nhà người ta hết năm này qua tháng nọ, vẫn không cho là nhục. Đã thế, Lưu Bị lại còn rất dễ khóc. Mỗi khi gặp việc gì khó giải quyết, ông ta bèn khóc một hồi là chuyển bại thành thắng. Vì thế, tục ngữ có câu: “ Giang sơn của Lưu Bị nhờ khóc mà ra”. Đó cũng là một vị anh hùng có nhiều bản lĩnh. Lưu Bị sánh với Tào Tháo, có thể gọi là “ Song tuyệt”. Vì thế, lúc hai người đối ẩm luận anh hùng, một người tim đen nhất và một người mặt dày nhất, Tào Tháo đã nói:” Anh hùng trong thiên hạ, chỉ có tôi với ông”.

Ngoài ra, còn có Tôn Quyền. Tôn Quyền với Lưu Bị là đồng minh, hơn nữa lại bà con, thế mà bỗng nhiên ông đánh phá Kinh Châu, giết Quan Vũ. Tâm địa độc gần bằng Táo Tháo, chỉ tiếc không độc đến nơi đến chốn. Xong rồi, ông lại xin hòa với Thục để biểu lộ cái mặt dày. Tôn Quyền với Tào Tháo sánh vai xưng hùng, có thể nói là chẳng ai hơn ai kém. Ôâng lại còn hàng Tào Tháo, xin được xưng thần, tuyệt giao với Ngụy, toàn là những việc làm rất “ mặt dày” cả. Tuy tim ông không đen bằng Tào Tháo, mặt không dày bằng Lưu Bị, nhưng lại kiêm toàn. Vì thế, ông được liệt vào hạng anh hùng hào kiệt cũng đáng lắm.
Về sau, Tào Tháo, Lưu Bị, Tôn Quyền đều chết cả, có họ Tư Mã nổi lên. Ta có thể nói là Tư Mã đã lĩnh hội được cái Hậu Hắc chân truyền của Tào Tháo và Lưu Bị. Ông ta có thể ức hiếp cô nhi quả phụ, độc như Tào Tháo, có thể chịu được cái nhục “ khăn yếm”, mặt còn dày hơn Lưu Bị nhiều.
Lúc ta mới đọc sử, đến đoạn Tư Mã Ý chịu nhục, nhận khăn yếm, đã phải vỗ bàn mà khen rằng:” Thiên hạ tất sẽ về tay họ Tư Mã”.
Ta lại có thể lấy Sở Hán ra dẫn chứng:
Hạng Vũ là bậc anh hùng vũ dũng bậc nhất đương thời, thế mà phải chịu chết ở Đông Thành cho thiên hạ chê cười. Hàn Tín phê bình sự thất bại của ông là “ Phụ nhân chi nhân, thất phu chi dũng”. “Phụ nhân chi nhân” tức là lòng nhân của đàn bà, không thể nhẫn tâm. Căn bệnh ở chỗ tim không đen. “ Thất phu chi dũng” là cái dũng của kẻ thất phu, không chịu được tức. Căn bệnh ở chỗ mặt không dày.
Lúc Hạng Vũ và Lưu Bang cùng ngồi một chiếu, Hạng Vũ đã rút kiếm ra khỏi vỏ, chỉ cần hoa một lát lên cổ Lưu Bang là xong, thế mà ông ta bồi hồi không nỡ, để Lưu Bang thoát khỏi.
Trận Cai Hạ bị bại, nếu ông quyết định qua sông Ô Giang thì chưa chắc thắng bại về ai. Ôâng lại nói :” Hơn tám ngàn con em ở Giang Đông theo ta sang sông về miền Tây, chẳng còn một ai trở về, gia đình họ sẽ thương khóc con em của họ mà nghĩ đến ta, ta còn mặt mũi nào trông thấy ai! Ví dụ họ chẳng oán trách ta chăng nữa, ta cũng thẹn với lương tâm”. Hạng Vũ bại là phải lắm. Đã nói “ không mặt mũi nào nhìn ai” lại còn biết “ thẹn với lương tâm”, thì còn làm ăn gì được nữa!
Trong lúc ấy thì Lưu Bang, cha bị quân địch bắt, dọa đem làm thịt, Lưu Bang thản nhiên trả lời :” Nếu có luộc thì xin dành cho một bát nước xúp”. Con bị binh Sở đuổi bắt, ông nỡ đẩy con xuống xe giao cho địch. Về sau còn giết Hàn Tín, giết Bành Việt. “ Chim hết bẻ cung, thỏ hết giết chó”. Tư cách như thế thì Hạng Vũ “ Phụ nhân chi nhân, thất phu chi dũng” làm sao địch nổi!
Ngoài ra, còn nhiều nhân vật có thể dẫn chứng. Như Hàn Tín mặt dày chịu được nhục “ bát cơm phiếu mẫu”, nhưng tim không đen nên bị thất bại. Phạm Tăng tim thật đen, nhưng mặt không dày, không chịu được tức, đến nỗi làm mất giang sơn của Hạng Vũ lại lụy cả đến cái thân già của mình.
Vì thế, con phải biết rằng: Trời sinh ra ta, cho ta cái bộ mặt, nhưng bề dày, may sao nó lại lộn vào bên trong. Trời cho chúng ta một trái tim nhỏ bé, nhưng cũng may làm sao, sắc đen của nó cũng ở bên trong. Bề ngoài tuy thật tầm thường, nhưng khảo sát cho tinh vi, thấy nó có thể dày đến vô hạn, đen đến vô cùng.
Muốn luyện thành một con người “ Hậu Hắc ” cũng không khó, miễn phải kiên nhẫn và phải qua ba thời kỳ.
Thời kỳ thứ nhất, là “ dày mà cứng, đen mà sáng”. Người “ Hậu” đã tinh thông, mặc dầu thiên hạ công kích đến thế nào đi nữa, cũng không hề động lòng. Lưu Bị là hạng này, cả đến Tào Tháo cũng đành phải chịu thua cái mặt dày của ông ta.
Người tinh thông “ Hắc” học, tim như một tấm “ lắc” đen bóng loáng, càng đen người ta càng đổ xô vào phục vụ. Tào Tháo là hạng người này. Ông đã nổi tiếng ác độc, thế mà danh lưu Trung nguyên đều một lòng quy phục. Đúng là tim càng đen thì chiêu bài càng sáng.
Đến thời kỳ thứ hai, tuy đã khá lắm rồi, nhưng vẫn chưa thành công vì còn để lộ hình tích. Cũng như Lưu Bị, Tào Tháo, mới nhìn qua, người ta xét đoán được ngay họ thuộc vào loại nào.
Thời kỳ thứ ba, là “ dày mà vô hình, đen mà vô sắc”. Người đã “dày vô tận, đen vô cùng” thì hậu thế vẫn có thể tưởng là không dày, không đen. Thế mới là đi đến tuyệt đích.
Nho-gia giảng Trung-dung, giảng đến “ vô thanh, vô xú ” mới hết. Phật giáo cũng phải đạt đến “ bồ đề vô thụ, minh kính vô đài ” mới chứng quả. Như thế, Hậu Hắc Học là một học thuyết bí truyền từ thiên cổ, cố nhiên phải đạt đến chỗ “ vô hình, vô sắc” mới hoàn toàn.
- Dạ, như thế là thành công sao?
- Chưa hết đâu con ạ. Còn phép cầu quan nữa!
- Xin cụ dạy nốt cho con hiểu.
- Nếu muốn làm quan mà không thuộc lòng “ Bí quyết cầu quan”; cũng như làm được quan rồi mà không biết phép “ Duy trì chức quan”, thì cũng vô ích.
Người cầu quan, trước hết phải biết rõ sáu chữ:
Rảnh Rang, Luồn cúi, Khoe khoang, Nịnh hót, Dọa nạt, Quà Biếu .

1 -Rảnh Rang. Rảnh rang có hai nghĩa. Một là chỉ sự vụ. Người muốn làm quan, không được bận rộn một việc gì hết. Không làm thợ, không đi buôn, không làm ruộng, không học hành mà cũng chẳng dạy ai học. Phải rảnh rang để nhất tâm nhất trí cầu quan.
Hai là chỉ thời gian. Người cầu quan phải nhẫn nại, không được nóng nảy hấp tấp. Hôm nay không xong, đợi ngày mai. Năm nay chưa được, chờ sang năm.
2-Luồn Cúi . Nghĩa là chui luồn. Cầu quan, phải luồn cúi, điều này ai cũng biết. Nhưng họ chỉ mới biết đến trình độ có cửa thì chui mà thôi. Theo ta, nếu phải đợi có cửa mới chui thì hỏng to. Phải làm sao cho có cửa thì chui , mà không cửa cũng phải vào lọt. Có cửa sẵn, ta mở rộng thêm. Không có cửa, ta phá tường đục vách, làm cửa mới.
3 -Khoe Khoang. Khoe khoang cùng đi chung với khoác lác. Khoe có hai lối: khoe trực tiếp bằng lời nói và khoe bằng giấy tờ. Khoe bằng lời cũng chia ra hai loại: khoe lúc bình thường và khoe trước mặt quan trên. Gián tiếp là khoe trên giấy tờ như báo chí, truyền đơn, tạp chí, biểu ngữ, v.v… ..
4- Nịnh Hót. Trên sân khấu cải lương, lúc Ngụy Công ra trò, những cử chỉ, dáng diệu, cách ăn nói của bọn này là gương mẫu.
5- Khủng Bố . Tức là dọa nạt. Chữ này nghĩa lý quá cao thâm. Cần phải nhấn mạnh: quan là một nghề rất đặc biệt, đâu có thể tùy tiện muốn cho ai cũng được. Vì thế, có người đã thực hành chữ “Nịnh Hót” chu đáo đến một trăm phần trăm mà vẫn không được làm quan. Đó là vì thiếu chữ “Khủng Bố”.
Làm người, ai cũng có nhược điểm và lỗi lầm. Khi tìm được nhược điểm của quan trên, ngắm thật đúng, khẽ điểm một huyệt là quan hoảng hốt sợ hãi, lập tức tìm cho ta một chức vụ ngay. Nhưng người cầu quan phải hết sức khéo léo khi dùng hai chữ “Nịnh Hót” và “ Khủng Bố” kết hợp lại . Nghĩa là, trong nịnh hót có ý ngầm dọa nạt.
Trong mắt mọi người, thấy mình nói chuyện với quan thầy, câu nào cũng toàn là nịnh hót, tâng bốc, kỳ thực bên trong toàn là móc trái, đá ngầm, chỉ một mình quan thầy hiểu. Quan nghe đến đâu, mồ hôi toát ra như tắm đến đấy. Người giỏi nịnh hót, nói gì, người bên ngoài nghe câu nào cũng thấy toàn là chỉ trích các bề trên, nhưng các “ bề trên” nghe thật vui lòng, nở nang từng khúc ruột. Nhưng điều cần biết là dọa phải có giơiù hạn, nếu đi lỡ trớn, để quan thầy thẹn quá, nổi xùng lên thì cũng hỏng bét cả.
6- Quà Biếu là dâng lễ vật. Lễ lớn là tặng biếu tiền bạc, vàng, kim cương, ngân phiếu. Lễ nhỏ là món ngon vật lạ, đồ cổ xưa, mời nhậu nhẹt v. v. . . Người được tặng có khi là quan trên, có khi là kẻ tuy không làm chức gì hết nhưng có cách giúp đỡ mình được.
Sáu chữ này, nếu theo thực đúng, thì sẽ đem đến kết quả cụ thể là, một hôm, quan trên bỗng chợt nhớ ra lẩm bẩm một mình:
- Ôâng Z muốn làm quan, đã xin từ lâu (Rảnh Rang). Mình với ông ta có đôi chút liên lạc (Luồn Cúi ) Ông ấy cũng là kẻ có tài (Khoe khoang). Ông ta đối với mình rất tốt (Nịnh Hót). Nhưng hắn cũng không phải tay vừa, nếu không cho hắn một việc làm, hắn sẽ làm bậy, có hại đến mình (Khủng Bố).
Nghĩ đến đây, nhìn thấy những lễ vật quà cáp chất đầy quanh mình (Quà Biếu), ông không còn biết phải làm gì hơn là ký giấy bổ “đương sự” đi làm quan.
- Dạ thế là thành công rồi, phải không cụ?
- Chưa con ạ. Được chức quan rồi, còn phải biết giữ chức ấy nữa chứ.
- Thưa cụ, cho con nghe nốt.
- Phép giữ chức quan cũng có sáu chữ:
- Trống Rỗng, Cung Kính, Hách Dịch, Hung Aùc, Điếc Đui. Hối lộ

1) Trống Rỗng. Trống rỗng trong giấy tờ, báo cáo, diễn văn, tất cả. Điểm này ta không cần nói rõ phải trống rỗng như thế nào, con chỉ cần chú ý xem các diễn văn,thông điệp, báo cáo của các cơ quan, hội đoàn, báo chí thì hiểu rõ. Nghĩa thứ hai, là làm việc không nhất định một hướng nào. Có khi biểu lộ thật cương quyết, độc đoán, nhưng bên trong vẫn có đường ngầm, để nếu cần có thể thối lui rất dễ dàng, nhất là không bị liên lụy bao giờ
.
2) Cung Kính nghĩa là nịnh hót. Nịnh có hai thứ, trực tiếp và gián tiếp. Trực tiếp là nịnh ngay quan trên. Gián tiếp là nịnh thân thích, bạn bè của quan. Từ vợ lớn , nàng hầu, nhân tình, con cháu và đến cả mèo, chó của quan nữa.


3) Hách Dịch trái nghĩa với chữ Cung Kính. Chữ này để đối với thuộc hạ hay dân chúng. Một là tỏ ra bằng giáng điệu oai nghiêm hách dịch. Hai là trong ngôn ngữ, tỏ ra ta đây tài giỏi hơn người. Chữ Cung Kính không nhất định đối với quan trên, vì có khi quan trên không trực tiếp nắm quyền sinh sát mình, thì không sợ. Cũng giống như thế, chữ Hách Dịch không nhất định đối với người dưới, vì nếu người dưới mà có quyền hay ảnh hưởng đến chức phận của mình, thì cũng phải đổi ra cái bộ mặt cung kính đối với họ. Như thế, nghĩa là phải tùy hoàn cảnh, sử dụng cho khéo léo.


4) Hung Ác. Ta chỉ cần đạt đến mục đích, mặc kẻ khác táng gia bại sản, bán vợ đợ con. Nhưng, điều cần chú ý nhất, là bao giờ cũng phải phủ lên trên bộ mặt tàn ác một lớp vỏ nhân nghĩa đạo đức mới được việc.


5) Điếc . “ Chúng cười mặc chúng, quan ta, ta cứ làm”. Trong chữ Điếc này, lại còn bao gồm cả chữ Đui . Vì có khi thiên hạ chửi bằng báo chí chứ không chỉ chửi bằng miệng. Trong trường hợp này, ta giả Đui nhắm mắt không thèm xem.
6) Hối Lộ tức là ăn tiền. Mười một chữ trước đều sắp đặt để dọn đường cho chữ này: đối chiếu với chữ Biếu Xén. Đã có dâng lên thì phải có thu vào. Nhưng cũng cần phải biết món nào nuốt được, món nào cần nhả thì phải nhả, để khỏi mắc nghẹn.
- Dạ con hiểu rồi ạ.
- Đó là đại cương. Ai muốn học, phải tự mình tìm hiểu, nghiên cứu thêm cho tinh thông.
Tôi hỏi:
- Dạ thế còn đường lối làm việc? Con xin cụ chỉ giáo nhân thể.
-
- Có hai cách làm việc. Một là “ PHÉP CẮT TÊN”. Hai là “PHÉP VÁ NỒI”.
-
- Tên nghe lạ quá.
-
- Đúng lắm con ạ. Để ta kể cho con nghe: ngày xưa có một người bị trúng một mũi tên. Hắn ta đến nhà một vị lương y ngoại khoa xin chữa trị . Oâng ta lấy dao cắt mũi tên bên ngoài, rồi tính tiền khám bệnh và chữa bệnh. Bệnh nhân ngạc nhiên hỏi:
- Ơ kìa, ông đã chữa lành đâu mà đòi tiền? Mũi tên vẫn còn ở trong người tôi.
Lương y trả lời:
- Tôi là thầy ngoại khoa. Tôi chỉ chữa bệnh ngoài da. Còn bên trong không chữa được, bây giờ anh hãy đi tìm một thầy nội khoa mà xin chữa
- .
Đó là chuyện xưa, còn ngày nay thì cũng nhan nhản cách làm
việc như thế. Ví dụ, Trong một công văn nọ được viết:” Theo như lời của ngài thì tên X quả thực có tội, chúng tôi sẽ thông báo cho nha hữu quyền điều tra để nghiêm trị”. “ Quả thực có tội” là “ cắt tên”. “ Nha hữu quyền” tức là thầy nội khoa. Hoặc là “ sẽ chuyển lên thượng cấp định liệu”. “ Thượng cấp” đây là “ thầy nội khoa”. Và ví dụ, nếu có người nhờ ta làm việc gì, ta nói: “ Tôi rất tán thành ý kiến của anh, nhưng còn phải thương lượng với ông Z”. “ Rất tán thành” là “ cắt tên”. “Ông Z” là thầy nội khoa.
Có những trường hợp bệnh nhân chỉ được cắt tên mà không được mách bảo tìm thầy nội khoa, và cũng có trường hợp chỉ bảo tìm thầy nội khoa, chứ tên cũng không thèm cắt. Chính trị càng cao thì càng biến hóa huyền bí vô cùng vô tận.
Cách thứ hai là HÀN NỒI. Có một người mời bác thợ hàn nồi đến nhà để hàn một cái nồi bị nứt. Bác thợ hàn vừa cạo nồi vừa bảo:
- Xin ông chủ cho tôi ít lửa để tôi nhen bếp hàn.
Trong khi chủ nhà quay lưng đi lấy lửa, bác thợ hàn khẽ đập nhẹ vào đáy nồi cho nứt nhiều thêm. Đợi chủ nhà đến nơi, bác nói:
- Ông chủ xem đây. Nồi của ông nứt dài thế này, nhưng vì bị bồ hóng bám đầy nên không trông thấy. Bây giờ tôi cạo sạch, mới lộ ra rõ ràng.
Chủ nhà kinh ngạc nói:
- Thật may quá, hôm nay may gặp được bác hàn giúp cho. Nếu để
ít lâu nữa, chắc là sẽ phải bỏ cái nồi, không còn dùng được nữa.
Nồi hàn xong, cả bác thợ hàn lẫn chủ nhà đều vui vẻ mãn nguyện chia tay.

Cổ kim, đông tây, hiện đại cũng như trong lịch sử, nhan nhản đầy những chuyện Cắt tên và Vá nồi như thế. Hành động của cá nhân cũng như biến chuyển của quốc gia, suy luận một lúc là thấy rõ ngay thuộc về loại nào. Cũng có khi bác thợ hàn lỡ tay, đập vỡ nồi của người ta, rồi vá không xong!
Trịnh Trang Công dung túng cho Công Thúc Đoạn làm thực nhiều điều bất nghĩa, rồi mới cứ binh chinh phạt. Đó là phép vá nồi. Trong lịch sử, nếu ta lưu tâm nhận xét một chút thì nhận thấy rõ ngay.
Hai phép mầu nhiệm trên đây là một công lệ để làm việc. Vô luận cổ kim, đông tây, xưa nay vẫn rất thành công.
Quản Trọng là một đại chính trị gia Trung Quốc. Ông làm việc, không bao giờ ra khỏi hai luật này. Rợ Địch đánh nước Vệ, Tề quốc án binh bất động. Đợi đến lúc Địch diệt được Vệ rồi, ông mới làm nghĩa cử, hưng binh vấn tội Địch để cứu Vệ. Đó là phép vá nồi. Quản Trọng không trách Sở tiếm Vương hiệu, chỉ trách Sở không triều cống. Đó là phép cắt tên. Bởi vì lúc bấy giờ thực lực của Sở hơn Tề gấp bội, Quản Trọng xui Tề Vương đem binh đánh Sở, có thể nói là đập vỡ nồi để hàn. Đến khi thấy thái độ phản kháng cứng rắn của Sở, bèn cắt tên, bỏ qua chuyện cho xong. Quản Trọng có thể đập thủng nồi, xong rồi vá lại, vì thế nên được gọi là kẻ anh tài trong thiên hạ.

Đời Minh, Lý Vũ Thần vây khổn Lưu Khấu, sau lại thả ra. Đó là định dùng phép đập nồi. Chẳng ngờ, Lưu Khấu mạnh quá, trị không nổi, nên bị nước mất, vua chết.
- Bẩm cụ, thế có ai dám làm trái công lệ này không?
- Có chứ. Nhưng làm trái thì phải thất bại. Vì trong khi ai cũng chỉ theo phép cắt tên, và mình chỉ là thầy ngoại khoa, lại muốn nhổ cả đầu mũi tên ra, thì thất bại là lẽ cố nhiên. Chẳng hạn, Nhạc Phi muốn khôi phục Trung nguyên, rước Nhị Đế về. Nhưng khi ông vua đương kim có ý định chỉ nhổ đầu tên, thì Nhạc Phi bị hại ngay.
Đời Tấn, Vương Đạo làm thừa tướng, có giặc nổi loạn nhưng
ông không cho binh lính tiêu diệt loạn quân, mặc dầu trong khi ấy ông ta vẫn tỏ ra tận trung phò tá ngai vàng. Aáy là ông ta nuôi giặc để cho nhà Vua cảm thấy ngai vàng lung lay, cần phải có ông phò tá. Đó là giữ nguyên cả mũi tên không cắt, để chờ thầy nội khoa. Cổ kim, đông tây, ví dụ rất nhiều, ta không thể nào nói hết được. Nếu con chịu khó suy luận thì thấy ngay.
Thấy tôi cứ ngồi ngẩn ra không trả lời, cụ dịu dàng hỏi:
- Con còn điều gì thắc mắc nữa không?
Tôi ngập ngừng:

- Dạ có. Con nghĩ rằng, nếu theo như lời cụ dạy, thì chả hóa ra đời đen tối lắm sao? Và những kẻ nào thành công trên đời, vô tình hay hữu ý, cũng đều là môn đồ của cụ cả?
- Con nói thế, tỏ ra con chỉ biết một mà không biết hai, và “ Hậu Hắc Học” của ta, con cũng chưa đọc kỹ. Thôi, tiện đây ta cũng nói nốt cho con nghe

Thế giới lúc nào cũng tiến hóa. Hậu Hắc Học cũng phân ra
làm ba thời kỳ. Thời kỳ thượng cổ còn lộn xộn, không phân biệt “ đen” hay “ dày” gì cả, tất cả mọi người đều giản dị thật thà. Trong thời ấy, học thuyết của Khổng Mạnh đề xướng ra, rất thích hợp. Đó là thời kỳ thứ nhất.
Về sau, trí thức dân chúng càng ngày càng mở mang, trong đầu óc người ta, trăm mưu nghìn kế, biến hóa vô cùng. “ Hắc” như Tào Tháo, “ Hậu” như Luu Bị, bấy giờ mới xuất hiện ra. Lúc ấy, dù Khổng Tử có sống lại, cũng vô ích mà thôi. Đó là thời kỳ thứ hai.
Hiện tại đã đến thời kỳ thứ ba. Bọn người “ Hắc” như Tào Tháo, “ Hậu” như Lưu Bị, sinh ra càng ngày càng nhiều. Không những thế, nghệ thuật tinh vi của bọn họ, nếu Tào, Lưu trông thấy, cũng phải kinh hoảng. Cũng may là người thành công ít, kẻ thất bại nhiều. Và dù có thành công một thời, kết quả cũng vẫn đi đến thất bại.

Như thế là tại làm sao? Ta đã nói rồi. Vì đây là thời kỳ thứ ba, thời kỳ “ Hậu Hắc” toàn thịnh của Tào, Lưu nay đã trở thành quá khứ. Người muốn THỰC thành công bây giờ, ngoài mưu trí thông minh xuất chúng, còn phải kiêm cái đạo đức giống như ở thời kỳ thứ nhất vậy. Kỳ thực, cũng không phải là trở lại thời kỳ thứ nhất hẳn, nhưng là một cái vòng tròn tiến hóa. Nghĩa là phải có cái tâm của Khổng Mạnh để thực hành cái thuật của Tào, Lưu, mới thích hợp với thời đại.
Vật gì hiếm có là vật quí. Thời thượng cổ, dân trí còn chất phác, không ai “ Hậu” mà cũng chẳng có ai “ Hắc” . Bỗng nhiên sinh ra một người đủ cả “ Hậu” lẫn “ Hắc”, tất nhiên người ấy khống chế thiên hạ, giành phần thắng lợi về mình. Mọi người trông thấy thế, bèn bắt chước theo. Ai cũng thi nhau “ Hậu Hắc” không ai trị nổi ai.
Thế rồi bỗng dưng lại nổi lên một người, không rõ là “Hậu” hay “ Hắc”. Người này cố nhiên sẽ nổi bật hẳn lên về đức độ và tài năng, như thế cố nhiên sẽ phải được thiên hạ tín nhiệm, cảm phục, phần thắng lợi nắm chắc trong tay, không còn ai tranh được.
Ví dụ, cũng như trong thương trường, lúc ban đầu tất cả các gian hàng đều bán một thứ hàng tốt, giá rẻ cả, bỗng nhiên có một người bán lẫn hàng giả và xấu vào, người này bán đầu tiên, nên lừa thiên hạ được một số tiền rất lớn. Mọi người thấy thế đua nhau bắt chước, đến nỗi cả thị trường dần dần đều bán toàn hàng giả, xấu, làm cho khách hàng nghi ngờ, chán nản vô cùng. Thế rồi, bỗng có một nơi bán hàng tốt thật và giá rẻ thật. Khi thiên hạ phát giác sự thật thà của cửa tiệm này, tất cả mọi người đều đổ xô đến mua. Công ty này nhất định sẽ phát đạt và giàu to, vì đã được sự tín nhiệm của khách hàng.

Như thế là trong thương trường, cũng chia làm ba thời kỳ: thời kỳ thứ nhất là hàng tốt và đẹp mắt, thời kỳ thứ hai hàng chỉ đẹp mà không tốt, thời kỳ thứ ba, trở lại bên ngoài trông đẹp mà bên trong chất hàng cũng tốt nữa
.
Hậu Hắc Học của ta cũng biến hóa như thế. Môn đồ ta ai không có trí suy xét, không biết biến hóa theo thời kỳ, chỉ còn biết oán trách sinh không đúng thời chứ đừng oán trách ta giảng dạy không chu đáo. Con đã hiểu chưa?
Tôi thưa:
- Bẩm cụ, nhưng con là phận đàn bà con gái, có lĩnh hội được Chính truyền của cụ cũng chẳng ích lợi gì. Con không thích và cũng không thể làm “ anh hùng hào kiệt” như cụ dạy. Con chỉ ao ước quê hương được thanh bình, tâm hồn mọi người đều yên tỉnh và . . . .

Cụ có vẻ giận, cắt lời tôi:

- Thật ta tiếc công giảng dạy con. Nam nữ gì cũng giống nhau. Học thuyết của ta thiên biến vạn hóa, ai lĩnh hội được thì thành công tuyệt vời. Ta muốn giảng phép thành “Anh hùng Hào kiệt”, mà con chỉ nghĩ đến hai chữ bình an, rõ thật người đầu não thấp kém có khác! Thôi con về đi. Khi nào “ tĩnh ngộ” rồi, lên sao Bắc Đẫu tìm ta, ta sẽ giảng Hậu Hắc Kinh cho mà nghe.
-
Cụ bảo tôi nhắm mắt lại. Cụ thổi một hơi nhè nhẹ bên mang tai làm tôi thấy lạnh toát cả người. Giật mình tỉnh dậy, thì ra một giấc mơ dài.
Đêm đã sang canh .
Linh Bảo _ Saigon 1958

(Trích trong tuyển tập Mây Tần)
tienmacdoa
#5 Posted : Thursday, October 28, 2004 5:43:45 AM(UTC)
tienmacdoa

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 189
Points: 0

Tác giả vtmn
Gởi: Tue Jul 20, 2004 2:48 pm
Tiêu đề: Re: BÀ LINH BẢO

"Tiền" Định

Tâm nhìn qua cánh màn mỏng, thấy chiếc xe màu sữa đã dừng lại trước sân. Lành chậm rãi bước xuống. Ông mở cửa cho con chó Đức to lớn nhảy ra rồi khóa xe bỏ chià khóa vào túi áo, ông còn cẩn thận vỗ vỗ tuí xem có thực chìa khóa đã nằm trong túi chưa. Đó là một thói quen an toàn, dù xe đậu trong sân hay ngoài ngõ, dù trong xe không có gì ngoài cái mền rách của con chó. Ông không vào nhà vội. Cũng như tất cả những lần khác, trước khi vào nhà quen, ông quần con chó trong sân một lúc cho nó đỡ cuồng chân, như thế lúc vào nhà nó sẽ chịu nằm yên hàng giờ không kêu ca than van làm mọi người sốt ruột.
Tên con chó là Gretchen, nhưng Tâm gọi nó là Sến cho tiện. Lúc mới quen Lành, Tâm không cho con Sến đến nhà. Về sau, nhận thấy Sến đối với Lành là một nửa sinh mệnh, suốt ngày đêm như hình với bóng, không rời nhau một bước, Tâm đành phải chịu thua. Lại cũng là một chuyện “ đầu ngoài sân, sau lần vô bếp”. Lúc thấy Lành cứ băn khoăn thắc mắc vì con chó phải ở nhà một mình cô đơn, Tâm bằng lòng cho đem nó theo, nhưng giao hẹn phải để nằm ngoài cửa. Thế rồi khi đã đến được cửa, nó cứ cào, rít, kêu gào làm ai cũng khó chịu nên phải cho nó vào. Sến được vào nhà nằm dưới chân ông Lành, chủ và chó cùng cảm thấy sung sướng thoải mái. Tâm không mấy thích, nhất là từ đó, mỗi khi quét nhà lại phải hốt thêm một mớ lông chó vung vãi khắp nơi, mùi chó nồng nặc phải mở quạt mở cửa hàng giờ mới bớt hôi, và lúc đi chợ, bao giờ Tâm cũng nhớ mua thêm món bánh xương đặc biệt cho “bạn tốt nhất của loài người” gặm.
Lành bước lên thềm, con Sến chạy nhanh vào trước. Lành nắm tay Tâm đang đứng chờ trước cửa và hai người cùng bước vào nhà ngồi xuống chiếc ghế dài. Con Sến hình như chạy chưa đủ, còn cuồng chân, nên rít lên và gầm gừ mãi. Ông Lành phải vuốt ve dỗ dành bằng giọng rất ngọt ngào như nói với trẻ thơ:
- Con ngoan. Con cưng của ba ngoan nhé. Nằm yên chứ. Con của ba xưa nay vẫn ngoan lắm cơ mà!
Tâm có vẻ hơi ngượng:
- Em bận quá, chưa đi chợ nên không có bánh xương cho nó.
- Không sao. Nó ghen với em đấy mà!
Tâm không thích nghe tiếng “ ghen “, cũng như không thích nghe Lành diễn tả hay giải thích tâm trạng và cảm tình của con Sến, nào là nó buồn, nó giận, nó tủi thân, nó nhớ v.v. . . Tuy khó chịu nhưng Tâm vẫn không nói gì.
Con chó được vuốt ve một lúc, cơn cuồng dịu xuống. Nó tìm được chỗ gác mõm ở giữa hai bàn chân ông Lành, nằm dài yên lặng kiên nhẫn đợi. Bây giờ ông Lành mới quay sang nhìn Tâm hỏi:
- À, tối hôm qua em đi học thế nào? Bỏ lớp 3 hôm em có mất gì không? Có theo kịp không?
- Mất mấy bài thực tập. Nhưng tối qua cả lớp không phải làm gì cả. Thầy phát tạp chí cho sinh viên tập liếc.
Ông Lành ngạc nhiên:
- Sao lại tập liếc?
- “ Liếc” là chữ của em. Chữ của thầy là “ đọc”.
- Em tập liếc như thế nào?
- Thầy bảo mở trang sách ra, xếp một tờ giấy chận bên dưới lại, chỉ chừa đúng một giòng, tập trung nhìn chữ chính giữa, còn hai mắt liếc hai chữ đầu và cuối. Thầy bắt liếc một cái phải nhìn thấy hết cả giòng. Mắt chỉ được nhìn từ trên xuống, tờ giấy chận kéo xuống từ từ. Nếu tập được giỏi thì một phút có thể đọc 2400 chữ. Lý do là khi ta nhìn một người, ta trông thấy toàn thể, mà không phải chỉ nhìn một bộ phận nào thì “ nhìn” một trang sách cũng thế.
- Em có tập được không?
- Xưa nay em xem truyện vẫn thích đọc thong thả,nghiền ngẫm từng chữ, đọc rất chậm, nên thua xa các bạn. Em nói với thầy là em có thể “ nhìn” hay “ liếc” cả trang sách nhưng không hiểu, không nhớ gì hết.
- Thầy bảo sao?
- Thầy kéo ghế ngồi ngay trước mặt em để kèm riêng em.
- Thầy như thế nào?
Tâm làm bộ suy nghĩ để kéo dài thời giờ:
- Ờ, ờ . . . cao lớn . . . đẹp trai . . . thông mình . . . đứng đắn . . . nói chuyện có duyên . . .
- Thôi chết rồi!
- Đừng nghĩ bậy anh. Nghi oan cho thiên hạ, mang tội.
- Thôi, không nghi nữa, nhưng vẫn không tin thiện chí của thầy.
Ông Lành kéo nhẹ đầu Tâm dựa vào vai ông. Những phút giây như thế vẫn là đẹp nhất. Hai tâm hồn cảm thấy rất gần nhau, cùng chia sẻ tình cảm thực thuần túy. Nếu những cái hôn nồng nàn nảy lửa rất cần cho tình yêu – cũng như cơm cho đời sống – thì những phút vai kề vai, tâm linh giao cảm cũng cần như nước uống, không thể có thứ nọ mà thiếu thứ kia.
Tâm gục đầu lên vai Lành, không nói gì. Cái im lặng không làm cho người ta chán nản. Cái im lặng đặc biệt. Im lặng là một, nếu lên tiếng nói, sẽ thành hai người khác biệt. Tâm muốn tận hưởng cảm giác êm dịu nhẹ nhàng, lòng không vướng bận một chút tạp niệm nào của cuộc đời, muốn kéo dài phút giây “ im lặng là một” ấy càng lâu càng tốt.
Lành bỗng rút trong túi áo ra một cái phong bì, mân mê hồi lâu, rồi bảo:
- Em ạ, anh và mẹ muốn nhờ em một việc . . .
Tâm vẫn còn lâng lâng như ở trên mây hỏi:
- Việc gì hở anh ?
Trong trí Tâm chợt nghĩ đến cái áo Kimono gấm vàng thêu rồng kim tuyến, Tâm biếu mẹ Lành trong dịp sinh nhật, tuần trước. Bà còn muốn có một cái Obi để mặc đi dự buổi tiệc hóa trang của phụ nữ quốc tế. Tâm đã mua xa tanh vàng, may một cái Obi có thể tự mình đeo không cần người giúp. Tâm đoán hay là bà cần một đôi dép Nhật nữa cho đủ bộ chăng?
Lành vẫn im lặng. Tâm hỏi tiếp:
- Mẹ muốn gì hở anh?
Lành ngần ngừ một lúc, nói giọng quả quyết:
- Mẹ muốn vay em mấy nghìn để mua chiếc xe hơi khác. Tuần này mẹ và các bà trong nhóm cần xe đi truyền giáo vài tháng ở nhiều Tiểu bang . Phải đi đường trường xuyên bang , mà xe mẹ cũ quá rồi .
Tâm chợt tỉnh người . Cảm giác lâng lâng biến mất.. Nàng không biết trả lời thế nào.
Ông Lành mở phong bì, đưa cho Tâm một tờ giấy đánh máy đã có chữ ký . Tờ giấy viết rằng :
“ Bà Hào vay của cô Tâm 5 nghìn, để mua một chiếc xe hơi, nếu sau 2 năm mà bà không trả tiền, thì chiếc xe sẽ thuộc về cô Tâm. Trong trường hợp nếu có thưa kiện, bà Hào sẽ chịu tất cả tiền án phí”.
Tâm im lặng, ông Lành cũng im lặng. Phút im lặng nặng nề ngượng nghịu, khác hẳn với phút im lặng ”hai là một“ cách đây không lâu. Chỉ có một phút thời gian mà tình cảm thay đổi tưởng chừng như từ thế kỷ xa xưa nào. ..
- Tại sao anh lại hỏi vay em? Mẹ vẫn hay khoe với em là bà có nhiều tiền lắm cơ mà! Còn tiền anh đâu, sao không đưa cho mẹ mượn?
- Mẹ có nhiều tiền, nhưng kẹt cả vào các cổ phần, cổ phiếu. Anh cũng thế!
- Tại sao anh không vay nhà băng?
- Vay cũng được, nhưng mất công làm giấy tờ, chờ đợi lôi thôi lắm. Với lại nhà băng cho vay mua xe, phải trả tiền lãi gấp bốn lần vay em. Mẹ sẽ trả em tiền lãi như em để vào quỹ tiết kiệm vậy. Em không mất gì cả.
- Vấn đề không phải ở đó. Nếu mẹ cần xe gấp, sao anh không đưa xe anh cho mẹ dùng đỡ? Mẹ chỉ đi có vài tháng thôi mà!
- Nhưng bà già lái đường trường suốt mấy tháng biết chuyện gì sẽ xảy ra? Lúc các bà ấy về, anh chỉ còn cái xe nát .
- Thế anh muốn em lãnh cái xe nát?
Hai người im lặng. Phút im lặng rõ ràng không phải là “phút giao cảm thần tiên của hai linh hồn”, không phải “im lặng là một” mà “im lặng là muôn nghìn”, rạn nứt đổ vỡ nghe như đang ào ào diễn tiến.
Tâm lên tiếng trước:
- Tại sao anh lại đưa em vào chỗ khó xử như thế này?
- Anh không thấy có gì khó khăn đối với em cả. Em có tiền bỏ quỹ tiết kiệm để . . . tương lai dưỡng già. Cho anh mượn cũng thế.
- Em sẽ mất lòng mẹ và anh . . .
- Nhưng nếu em cho mượn . . .
- Thì cũng sẽ mất lòng như thường. Kinh nghiệm của người xưa là bạn bè , bà con, thân cận không nên dính dáng đến tiền bạc, nếu không, sẽ mất cả tiền lẫn bạn. Hay là may mắn lắm cũng mất một. Nếu họ không trả thì mình giận họ, nếu họ trả thì họ giận mình. Anh thấy, có ai thương Ngân Hàng đâu? Người đời rất cần Ngân Hàng ï nhưng lú c nào cũng chửi nát nước!

-Em không tin anh à?
- Phải tùy theo hoàn cảnh. Nếu em giàu thì không thành vấn đề. Nhưng, thử tưởng tượng, em phải suốt ngày đứng lớp trên giày cao gót, nói khản cả cổ mà lương đâu có bao nhiêu, mấy chục năm kéo cày mới dành dụm được ít nhiều để phòng khi bất trắc. Không có chút vốn sẵn trong tay phòng thân, rồi nếu mai đây . . . . Anh có nhiều khả năng giúp mẹ hơn em.

- Em không hiểu anh.
- Đúng thế. Bây giờ em bắt đầu không hiểu. Anh là người sinh trưởng ở đây, có nghề nghiệp, có địa vị, có cơ sở, sản nghiệp, có bà con bạn bè, có thừa tín nhiệm để vay mượn Ngân Hàng dễ dàng. Còn em, tứ cố vô thân, nếu có chuyện gì xảy ra cho em . . .
- Thế anh đây làm gì?
- Em không có thói quen ỷ lại . . .để rồi phải chiều lụy hoàn cảnh . Không nên và cũng không thể nhờ cậy trông chờ vào người khác .
Tâm ngừng lại một lúc, đưa đề nghị đầy thiện chí:
- Xe em cũng cũ quá rồi, chạy muốn hết nổi. Mấy tuần nay, máy xe rên rỉ đủ các thứ tiếng, em sợ nó nổ tung ra lúc nào không biết. Hay là em mua xe mới cho mẹ mượn đi chuyến nầy thôi, xong rồi về trả lại cho em

-Thì trong giấy này mẹ có nói, sau hai năm, nếu không trả lại được tiền thì xe sẽ thuộc về em.
Tâm thấy mình như bị ép buộc. Có một cái gì bất công mà Tâm không giải thích được. Tâm có thể hy sinh nhưng phải có lý do chính đáng, và tự mình quyết định chứ không thích bị dồn ép. Tâm chỉ lờ mờ thấy rằng một bà già 65 tuổi vay tiền mua xe hơi, hứa sẽ trả trong hai năm, nếu không bà Hào không trả nợ thì mất xe.
Trong hai năm ấy, nếu Tâm đau ốm hay có việc khẩn cấp cần tiền, nàng sẽ bị túng rối. Hơn nữa, hai năm sau, một nhóm Lão bà cao hứng đi chu du khắp nước Mỹ để tuyên truyền cho đạo BAHAI, một thứ tôn giáo ít người biết đến, không có nhà thờ, mỗi tuần họ hội họp ở nhà một tín hữu, và chủ nhân sẽ tập giảng về đạo giáo ấy. Với một chương trình ra đi không bảo trợ, lang thang tùy hứng, tùy cơ ứng biến như thế, lúc các cụ trở về, Tâm may ra thấy được chiếc xe nát không biết để làm gì . . .Và cũng có thể các cụ sẽ trở về bằng xe đò. . .
Tâm se sẽ lắc đầu.
Lành thản nhiên lấy lại tờ giấy trong tay Tâm cho vào phong bì bỏ túi. Hai người nhìn nhau, nhưng chắc chắn là không thấy đẹp như trước nữa.
“ Tình nhân nhãn lý xuất Tây Thi”. Trong mắt người yêu, em là nàng Tây Thi. Nhưng cô Tây Thi giờ đây không chịu đưa tiền cho chàng xài, nên trong mắt chàng em đã biến thành nàng Đông Thi xấu xí nhất đời.
Lành nhìn đồng hồ:
- 7 giờ anh phải đưa thằng nhỏ đến nhà bạn nó. Khi nào rảnh, anh sẽ gọi điện thoại cho em biết. Độ rày anh bận lắm, chắc sẽ ít gặp em.
Lành đứng lên cầm tay Tâm. Tâm để một tay khác đè lên như mọi lần, nhưng lần này hai tâm hồn cùng cảm thấy xa vời. Mới có mấy phút trôi qua mà đôi bạn như đứng ở đầu sông và cuối sông, nhìn nhau ngượng ngùng tưởng trong đời chưa bao giờ tương tư nhau cả.
- Em không tin anh yêu em sao?
- Tiếng ấy em nghe đã nhiều lần, nhưng chỉ như gió thoảng qua rồi thôi. Chưa ai làm gì cho cuộc đời em đổi khác hay khá hơn cả. Chưa ai làm gì cho em, mà em thì cứ mãi mãi bị ép vào cái thế phải chịu thua non canh bạc đời thôi.
Ông Lành đứng lên, con Sến cũng đứng dậy vẫy đuôi đi theo.
Ông Lành thẫn thờ:
- Đời anh nhiều lúc cũng bi quan lắm . . .
- Tâm cười gượng:
- Nhưng không bi quan đến thảm hại như em, phải không? Em hay tin người, nên thường bị những người thân nhất, đáng tin cậy nhất cho đi tàu bay giấy rơi đến thất điên bát đảo hoài, không hiểu tại sao còn sống đến bây giờ!
Ông Lành lẳng lặng bước xuống thềm, cẩn thận mở cửa xe cho con chó lên trước, xong ngồi vào tay lái, nhìn Tâm hơi mỉm cười.
Tâm thầm oán Lành đã không mở cho nàng một lối thoát. Tại sao ông không nói:”Nếu có thể được, thì em cho mượn, không được cũng chẳng sao, em đừng ngại gì cả”. Ông đã dồn Tâm vào thế bí với câu trả lời bắt buộc Được hay Không. Tờ giấy vay viết ký tên sẵn, vạch một con đường bắt Tâm chỉ việc móc túi đưa tiền ra. Mà Tâm thì chúa ghét bị gài bẫy, bị đẩy vào một con đường hẹp, rồi bị lùa vào chuồng như một con bò trong đàn bò.
Đưa Lành ra xe, Tâm ngượng ngùng đến nỗi không còn mở miệng nói được câu” Em rất tiếc đã không giúp được anh”. Tâm không nói, thực ra vì nàng biết Lành không cần nghe câu ấy. Bây giờ chỉ có Vàng Ngọc thứ thiệt nguyên chất 24 ca- ra, ngoài ra không còn một “ lời vàng ngọc” nào có thể cứu vãn được tình thế. Vậy thì còn “rất tiếc” làm quái gì!
Theo thói quen, Tâm không bao giờ tìm bắt, hay theo đuổi. Tâm chỉ giữ gìn cái gì mình có, và khi bị mất, nàng cũng không cố vớt vát, chỉ ngẩn ngơ nhìn nó tan biến, hòa lẫn vào hư vô. Mọi việc đến tự nhiên và đi không vướng víu. Tâm không mời mọc khẩn cầu, chỉ lặng nghe tâm hồn hơi xót xa. Tâm nhớ đến câu Lành nói:
- Em có thể mất tiền, nhưng mà em cũng có thể được một người chồng.
Tâm thấy phản cảm ngay với câu nói ấy. Nếu phải bỏ tiền ra để mua tình yêu hay tình bạn, thì còn quí gì nữa!. Cảm giác khó chịu càng tăng khi thấy câu nói có ẩn ý đe dọa: “ Đưa tiền cho tôi tiêu thì tôi cưới cô, không đưa thì thôi!”
Tâm cười thầm mấy Cụ đàn ông thường tự cho mình là ngon lành ghê gớm . Cứ tưởng mình “ chấm” cô nào là được cô ấy. Sự thực cũng còn tùy cô ấy có “ chấm” mình không đã. Trong thời gian tìm hiểu, cô gái có thể chấp nhận chàng là bồ, chưa chắc đã gật đầu khi chàng xin cưới. Làm như “tôi muốn là được, còn cô chỉ có việc sung sướng nhận lời đi thôi”. Các cụ trai già lúc nào cũng đánh giá mình cao tít mù, mà thực ra các cụ có bao giờ hỏi xem bồ nghĩ gì về mình, cho mình mấy điểm đâu! Mà nếu có hỏi thì cô bạn vì lịch sự , sợ mất lòng cũng sẽ trả lời nước đôi. Mãi cho đến lúc tan rã rồi, các cụ cũng vẫn còn u mê không hề biết cái hào hoa phong nhã của mình ở dưới mức trung bình xa lắc xa lơ!.
Chiếc xe màu sữa đã lặng lẽ đến và lặng lẽ đi, không có gì khác thường. Bảy giờ chiều, nhưng trời mùa đông, nắng tắt rất sớm. Tất cả mọi nhà hàng xóm đều đã lên đèn, nhưng Tâm chỉ muốn nhà mình chìm lặng vào bóng tối. Nàng nằm lên giường, mắt mở to nhìn trần nhà, ngạc nhiên: sự đổ vỡ có thể đến nhanh như vậy sao? Nó đã đến trong một lúc bất ngờ nhất và vô duyên nhất.
Lành đã từng nói với Tâm rằng đời ông chưa gặp được người nào hợp ý như Tâm. Cả cái thế giới cỏ rác này, ông đã đi quá nửa đời người mới gặp được một đóa hoa dại còn hương thơm, ông quyết sẽ không để mất. Nhưng không biết cái được gọi là “ hương thơm” ấy, có phải là khả năng làm ra tiền không? Và khi không thu hoạch được “ hương thơm”, thì hương không thơm nữa?
Tâm với tay lên đầu giường lấy cuốn lịch Lành mang đến cho Tâm hôm nào. Trong ấy, ông ghi ngày hai người gặp nhau lần đầu và những ngày cùng đi dự những buổi hội họp. Còn ba lần hẹn nữa sắp đến là ngày Ma Quỷ, một buổi pic nic vào dịp Lễ Tạ Ơn và đêm Giáng Sinh. Lúc đưa cuốn lịch, Lành dặn đùa Tâm:
- Đây là ngày hẹn quan trọng em phải nhớ. Chúng mình có muốn đứt cũng phải đợi cho qua những ngày ấy đã nhé!
Bao nhiêu cuộc vui chờ đợi còn những hai tháng nữa mới đến. Quyết định tưởng như sắt đá lắm, lại hóa ra mong manh vô cùng.
Đối với Tâm, Lành không phải là thần tượng. Nhưng Tâm cũng không quá khắt khe. Kinh nghiệm cho biết rằng thần tượng chỉ để đứng xa mà ngắm, chứ đến gần thì sẽ thấy cái nguyên chất đất sét ngay. Lành lớn hơn nàng 14 tuổi, tính điềm đạm vững vàng, không đẹp trai nhưng cân đối, chỉ có cái trán hơisói. Để bào chữa, Tâm liệt nó vào hạng trán thông minh. Cả hai cùng đã qua tuổi trẻ huy hoàng nhưng vẫn còn mơ mộng, còn cảm thấy vui lâng lâng khi nắm tay nhau đi thơ thẩn trên đồi cát mênh mang. Cả hai cùng muốn tìm hiểu, hy vọng có ngày trên đuòng đời sẽ không còn là kẻ độc hành.
Tình thân của “đôi trẻ” được tất cả tán thành. Bà mẹ Lành vui vì thấy con vui. Thằng con trai Lành, mới 12 tuổi đã sớm mất mẹ nên rất khôn ngoan, có hôm nó khuyên cha:
- Ba thường nói người đàn ông nào trên đời cũng phải có ít nhất một con chó trung thành và một người đàn bà lý tưởng. Ba đã có con chó trung thành rồi, bây giờ ba phải cố giữ cô Tâm đừng làm mất để ba có bạn và con có mẹ..
Con chó tán thành, vì thỉnh thoảng nó được hưởng những chiếc bánh xương ngon lành. Con mèo cũng tán thành vì có thêm một người để nhảy vào lòng ngồi rù rù ngủ gà ngủ gật.
Còn ông Lành là vai chính, cố nhiên phải bằng lòng lắm.
Tương lai có vẻ êm đềm, tình cảm như thang thuốc thần, hàn gắn những vết thương trong quá khứ của cả hai.
Thỉnh thoảng Tâm theo gia đình ông Lành đi nghe giảng đạo Ba Hai . Lành nhè nhẹ kéo Tâm vào đời sống của mình. Hai người cùng muốn chia sẻ ngày tháng với nhau nhiều hơn. Cuộc đời đã đi quá nửa, trọn mái tóc đã xuống màu, những ngày còn lại có nhiều đâu!
Thấy đau nhói ở bụng, Tâm vội dậy lấy hai viên thuốc uống. Bệnh dạ dày của nàng chỉ phát đau khi nàng bị buồn lo , có gì kích thích mạnh, hay bị cảm xúc nội tâm. Đứng trước tủ thuốc, nhìn vào gương, Tâm bỗng dưng thấy mình hơi lạ. Mới có mấy giờ mà thời gian như đã vụt qua gấp bội, đủ để lại những vết hằn suy tư.
Tâm còn nhớ thuở bé, lúc lên mười, nàng không tưởng tượng được là có lúc mình sẽ mười sáu. Và tuổâi hai mươi cho là tuổi ba mươi sẽ không đến bao giờ. Để rồi một hôm nào đó nhìn vào gương, thấy mình xứng đáng được ngồi chiếu trên lúc nào không hay.
Thấy tất cả cơ thể mệt mỏi rã rời và dạ dày đau nhói lên, ý tưởng lười biếng đến trước nhất, Tâm định bụng ngày mai sẽ khai bệnh cáo ốm. Có lần nàng đã xuýt bị ngất đi trong sở, các bạn phải vực vào phòng nghỉ. Tâm không đi làm mọi người sẽ tin nàng bệnh thật. Tâm nhớ lời ông Lành thường nói:
- Nếu em là vợ anh, thì em sẽ thôi việc ở nhà tỉnh dưỡng, dạy con, và anh muốn em đi học những món không cần thiết mà em hằng ao ước.
Tâm có thể tĩnh dưỡng khi có “Ai đó” dù làm hậu thuẫn tinh thần, nhưng bây giờ linh cảm cho biết là hậu thuẫn không còn nữa, Tâm phải sẵn sàng trở lại cách sống ta với ta như từ thuở nào.
Mỗi sáng, 6 giờ thức dậy lúc trời còn tối mù mịt, bao giờ Tâm cũng tự chống lại ý tưởng giá được nằm thêm vài phút nữa thì thú vị biết bao. Nhưng sáng nào cũng thế, cái ý nghĩ ấy bị chìm đắm trong bóng tối và giá rét. Cuối cùng, Tâm lấy hết can đảm, mắt nhắm mắt mở vùng dậy để tiếp nhận một ngày mới, một ngày có thể dễ chịu, mà cũng có thể đầy những chuyện trái ý không đâu.
Tâm nhìn vào gương, lẩm bẩm:
- Nếu nghỉ việc ngày mai, có lẽ mình sẽ nằm lì,sẽ lười biếng không muốn làm gì cả, như thế, sự tĩnh dưỡng chỉ có hại thêm. Phải gắng đi làm để lướt qua bệnh tật , hóa giải mệt mỏi.
Tâm thấy đoạn đường trước mặt đầy sương mù, còn Tâm là một chiếc xe hơi cũ kỹ không đèn, phải cố gắng bảo toàn cho khỏi sa xuống vực thẳm mà cũng không được lạng quạng đâm vào xe kẻ khác. Mới sáng hôm nay, hình ảnh “ ai đó” như ánh lửa thấp thoáng. Tia sáng tuy mơ hồ yếu ớt, nhưng cũng vui vui . Aùnh lửa ấy bây giờ tự nó tàn lụi và tắt ngấm rồi. Tâm thấy cần phải đánh thức dậy cái tinh thần hài hước vẫn được dùng làm áo giáp rất hữu hiệu xưa nay..
Tâm uống hai viên thuốc xong trở lại giường nằm, liên tưởng đến nhân vật AQ trong một truyện của Lỗ Tấn. Để bảo vệ lòng tự ái khi bị tổn thương, AQ lúc nào cũng tìm ra được lý do để giải thích hoàn cảnh và lấy phần thắng tâm linh về mình. Khi AQ bị người làng đánh đập tàn nhẫn, hắn nói: Tao coi chúng mày như con cháu đánh đùa cha mẹ ông bà. Khi người ta mắng chưỉ AQ: Mày là thằng ngu dốt nhất, bần tiện nhất, khốn nạn nhất . AQ vui vẻ nhận tất cả những cái “nhất” ấy . Dù sao hắn cũng “Nhất” kia mà! Hơn tất cả mọi người rồi, còn phiền gì nữa!. Khi AQ bị trói tay, giải đi quanh phố để ra pháp trường chịu tử hình . Hắn ta kiêu hãnh nghĩ đời đã mấy ai được quân lính đeo súng tiền hô hậu ủng, còn hắn đứng trên xe mui trần diễu qua thành phố cho thiên hạ chiêm ngưỡng…. Hoàng Đế cũng oai vệ đến thế là cùng !.
Hơn lúc nào hết, trong giờ phút này, Tâm cảm thấy rất cần cái áo giáp ấy, phải tìm ngay một ý tưởng rất là AQ để giữ vững nụ cười trên môi. Nghĩ mãi không ra, chợt nhìn quanh phòng, thấy trên tấm thảm nhung mầu lá mạ rất đẹp từng đám lông chó vàng trắng lẫn lộn, vương vãi khắp nơi, Tâm vui mừng mỉm “ nụ cười AQ” tự bảo:
- Thôi, thế từ nay càng đỡ phải quét lông chó!
Rồi như để đánh thêm một tuyệt chiêu cuối cùng, Tâm lẩm bẩm một mình:
- Thằng cha thế mà ngu thật! Nếu biết cách làm cho mình tự nguyện thì bây giờ có lẽ mình đã trắng tay không còn một đồng xu ten. Và rồi hắn sẽ lờ mình.. . . Và rồi nếu mai mốt mình có mất việc, có đau ốm, có phải đứng đường ăn xin . . . thì gắng chịu. May quá! May quá!!!

Linh Bảo – 1965 (Trích trong Tuyển tập Mây Tần)
tienmacdoa
#6 Posted : Thursday, October 28, 2004 5:44:55 AM(UTC)
tienmacdoa

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 189
Points: 0

Tác giả vtmn
Gởi: Wed Jul 21, 2004 3:33 pm
Tiêu đề: Re: BÀ LINH BẢO

Cây Chuối Buồn



(Trích trong tuyển tập Mây Tần)

Ông Hải thức dậy lúc 9 giờ sáng, ngày nào đúng giờ ấy, nắng cũng như mưa. Đáng lẽ ông còn ngủ nữa, nhưng tiếng hát của ai ở phòng tắm bên cạnh, lẫn tiếng nước chảy rào rào, làm mất yên tĩnh buổi sáng, mất giấc ngủ nướng của ông. Ông Hải rất ghét mấy anh chàng lúc nào khác không hát, chỉ đợi vào buồng tắm mới hát, ý hẳn hát dở quá, không dám để ai nghe, phải đợi có tiếng nước chảy át đi, “ ca sĩ” mới dám mở miệng.
Ngủ không được nữa, ông dậy thay áo để đi ăn sáng. Bắt đầu cuộc sống “Một ngày như mọi ngày” như lời ca sĩ diễn tả.
Ông Hải đã sống ở đây gần ba muơi năm nay, từ ngày cái phố Tàu của Cựu Kim Sơn còn thưa thớt vắng vẻ, cho đến bây giờ nhà cửa sát vách nhau, chen lấn chồng chất lên nhau, cả đến không khí cũng có vẻ khan hiếm. Một đám đông ngồi gần nhau tưởng như mình hít vào cái hơi của anh chàng bên cạnh vừa thở ra. Thế nhưng ông không muốn dời đi đâu hết. Thành phố này bây giờ là quê hương làng xóm, căn phòng trọ là nhà của ông, những người bán rau quả, các tiệm đồ chơi, đồ ăn, các chủ phòng trà, khách sạn, ông đều quen mặt biết tiếng hết. Trừ một ít du khách qua lại, những người sống lẩn quẩn ở Phố Tàu nhiều năm như ông có thể gọi tên nhau thân mật như bà con.
Cùng một lứa với ông, có những ông già bạn thân khác. Những A Wòng, A Lỵ, A Txần, A Yuun, mỗi ngày gặp mặt nhau nói chuyện gẫu. Nơi hội họp của các ông là phòng đợi của bất cứ khách sạn Tàu nào. Những khách sạn này phần nhiều mở cửa suốt ngày đêm. Ở phòng đợi ngay từng dưới, ngoài vài thứ báo hằng ngày, còn có cả Ti vi cho mọi người xem. Các ông cứ đến ngồi đấy đọc báo, hết ngày này qua ngày khác, hết tháng này qua tháng khác. Sau khi nghiến đến tả tơi báo của một khách sạn rồi, để thay đổi cảnh vật, các ông kéo nhau đến một nơi mới mở xem có gì lạ không. Lắm lúc chán báo các ông ngồi xem tướng tất cả những ai qua lại trên đường. Có người vội vàng, có người chậm rãi, có người đầy vẻ lo âu, có người vui vẻ thỏa mãn trào ra trên khóe mắt, nụ cười . . . Các ông xem tướng giầu sang, tướng vất vả rồi đánh cuộc với nhau, đếm xem có bao nhiêu bộ mặt quen . . .
Các vũ nữ thoát y, các nữ chiêu đãi đồng phục bikini, các diễn viên “ một mảnh”, “nửa mảnh” của thành phố Tàu ban đêm, dưới ánh mặt trời, các cô nương này cũng qua lại trên đường phố , cũng đi chợ mua rau mua cá về nấu cơm cho gia đình, trông họ lương thiện và quen thuộc như những bà vợ hiền.
Các ông ngồi đếm hết người lạ đến người quen không hề chán. Những hôm trời mưa, các ông chơi trò đánh cuộc xem ngoài cửa sổ có bao nhiêu giọt mưa rơi thẳng và bao nhiêu giọt rơi vương vào cửa kính.
Các ông cần cái phố Tàu này để làm quê hương, cũng như phố Tàu cần có các ông để làm cảnh vậy. Ông tưởng tượng giá phố Tàu không có các hàng hoa quả rau cải bày lan ra trên vĩa hè như các đường phố bên Tàu, cũng như không có những ông già rảnh việc như các ông, mũ ni che kín tai kẻo sợ gió, hai tay ủ vào nhau, bàn tay này thọc vào tay áo kia, đi thơ thẩn hết phố này sang phố khác, ngồi đọc báo hết phòng này đến phòng khác, đi uống trà hết tiệm trà này đến tiệm trà khác. Tất cả đều rất quan trọng, nếu thiếu bất cứ một thứ thì còn gì là phố Tàu nữa!
Ngày xưa, đã có một dạo, ông luôn luôn mơ ước ngày về nước, nhưng bây giờ . . . hết rồi. Ông cúi nhận số phận, ngao ngán đến nỗi không còn muốn thở nữa! Lắm lúc ông Hải cũng thấy nhớ quê hương một cách lạ lùng. Những lúc ấy, ông vội vàng mặc áo khoác, chống gậy đi tìm mấy ông bạn già, để khỏi chìm đắm trong nhớ nhung.
Quê ông Hải ở một làng nhỏ thuộc tỉnh Hàng Châu, nơi nổi tiếng gấm vóc, tơ lụa đẹp nhất nước Tàu, nơi có phong cảnh tuyệt vời như tranh vẽ, nơi có cái hồ to hai bờ trồng toàn liễu rũ, trong hồ hàng trăm du thuyền, bên hồ người dạo cảnh đông như hội, mộ thi sĩ Tô Đông Pha nằm ngay bên cạnh, tăng thêm giá trị lịch sử. Hồ là nơi gặp gỡ của giai nhân tài tử, nơi thề hẹn của những đôi tình nhân, nơi giải trí của cả gia đình, nơi thu hút du khách từ nghìn dặm xa xôi . . . Một nơi như thế, mà ông phải rời bỏ từ gần ba mươi năm nay rồi !
Người Tàu rất chịu khó đi làm ăn xa và giúp đỡ lẫn nhau. Nếu công việc khá hơn, thì dù có phải đến một nơi non cao nước độc, khỉ ho cò gáy, họ cũng không từ chối. Nếu thấy người bản xứ chất phác luơng thiện, buôn bán có lời, là họ chịu khó đem bà con bạn bè đến lập nghiệp ngay.
Ba mươi năm trước, ông theo một số bạn bè đến Cựu Kim Sơn mở tiệm ăn. Ông ra đi với giấc mộng sẽ trở về với một túi vàng cho vợ con sung sướng. Nhưng ông không ngờ là có những giấc mơ chỉ để mà mơ thôi.
Ở Mỹ được vài năm, Trung Hoa đổi chủ. Đối với ông, nước Tàu vẫn còn đó là được, chính thể nào, ông không cần biết. Ông tưởng cứ lo làm việc để dành tiền, thì một ngày kia, nếu ông không về, vợ con ông sang Mỹ cũng vui. Ông đã bảo vợ ông nhiều lần nhưng bà không chịu đi, nhất định xin ông để bà ở lại lo tậu ruộng đất, sửa sang nhà cửa, xây lăng đắp mã thay cho ông. Ông muốn dưỡng già và chết ở quê hương nên tin bà, tháng tháng làm được bao nhiêu đều nộp cho bà hết. Những số tiền này, ông nhờ một ngân hàng trung gian tại Hongkong chuyển. Thỉnh thoảng họ đưa tin giúp ông. Ông muốn về nước, nhưng vợ ông cũng không chịu, một hai bắt ông ở Mỹ, cứ cố kiếm thực nhiều tiền gửi về đều đều mà thôi.
Ông sống sung sướng với giấc mơ hồi hương đoàn tụ gia đình vợ con, cho đến khi một người bạn thân từ lục địa trốn ra được HongKong cho biết sự thực: vợ ông đã thành một cán bộ xã, và với số tiền ông gửi về hàng tháng suốt bao nhiêu năm, bà tậu được một ông chồng cán bộ huyện từ lâu.
Ông nghe chuyện, rầu rĩ bỏ hẳn ý định hồi hương. Giấc mộng mua nhà, mở tiệm ở Hongkong để vợ chồng tái hợp lập nghiệp dưỡng già, thế là tiêu tan theo mây theo khói.
Giờ đây, ông đã thành một ông già lẩm cẩm. Nhà hàng đã cho ông nghỉ để thuê những người giúp việc khác, trẻ trung nhanh nhẹn hơn. Có như thế, không khí trong nhà bếp mới hoạt động. Các cô nữ chiêu đãi mặc áo trắng ra vào tấp nập, gọi tên món ăn, treo mảnh giấy lên cái đinh trước mặt người bếp chính. Anh bếp phụ cất tiếng nhắc lại thực đơn. Tiếng hô tiếng đáp vang lên, thỉnh thoảng lẫn đôi tiếng cười, mắt liếc. Đó là cách giữ các anh bếp chính, vốn là nguồn sống của tiệm, và để giữ các cô nữ chiêu đãi viên, cũng là nguồn sống quan trọng hơn. Rồi thỉnh thoảng lại thấy một cặp nữ chiêu đãi và bếp chính từ giã chủ nhân để thành chủ nhân của một tiệm nhỏ ở một thành phố hẻo lánh khác.
Ông cũng đã từng mơ ước như thế, nhưng bây giờ già rồi, mộng tàn trước khi thành hình. Ông ở trong một khách sạn nhỏ, chuyên cho thuê dài hạn ngay tại trung tâm thành phố Tàu này. Căn phòng ông đã thuê từ ngày xửa ngày xưa, nên giá tiền không lên nhiều, so với các nơi khác đã tăng hàng chục lần theo với giá sinh hoạt. Phòng ông không lớn, chỉ vừa để một cái giường, Ông đóng một mảnh ván mỏng ngăn đôi gian phòng, bên kia có một bàn ăn nhỏ, lò điện để nấu nướng và một cái tủ thấp đựng chén bát, đồ làm bếp. Muốn dùng phòng tắm hay rửa tay, phải ra ngoài hành lang, có phòng chung cho tất cả mọi người cùng một từng lầu.
Những khách trọ khác phần nhiều có việc làm quanh quẩn ngay trong thành phố. Suốt ngày đi vắng, họ chỉ cần một chỗ đặt lưng từ đêm khuya đến sáng, nên không thuê nơi có phòng tắm riêng đối với họ không cần thiết.
Đồ đạc của ông Hải rất giản dị. Ông không có gì ngoài hai cái va li, vài bộ quần áo cũ, vài món đồ dùng nhà bếp. Vì thế, gian phòng tuy nhỏ mà đối với ông vẫn rất rộng và tạm gọi là đủ tiện nghi. Ông thích nhất xuống đến đường là phố, đi thêm vài trăm bước có thể gọi là chợ . Tất cả các hàng thực phẩm, quà bánh, hoa quả gì cũng có, mọi thứ bày la liệt, tràn cả ra ngoài hè phố, giống hệt một thành phố Tàu ở Tàu. Mỗi ngày, ông mua vài hào rau, vài hào thịt, thế là đủ lương thực tươi ngon trong một ngày. Nếu lười nấu, ông mua đồ ăn chín như thịt xa xíu, gà vịt quay, hay bất cứ món gì đã xào nấu sẵn, ăn tạm qua loa cho xong bữa.
Mỗi ngày ông dậy lúc 9 giờ sáng cùng tiếng hát . Nhưng có một hôm không phải là “ Một ngày như mọi ngày” . . . . . .
Hôm ấy trở trời, mưa lâm dâm và âm u, không có nắng đẹp như những ngày trước. Ông thấy người ê ẩm, đau nhức từng lóng tay lóng chân, đang ngần ngại không biết nên ở nhà nằm lì trong chăn hay dậy đi đọc báo với mấy ông bạn già, thì bà Thu gõ cửa. Thu đến tìm ông với một bức thư của một bà bạn cũ, quen với chị dâu Thu. Sợi giây liên lạc tuy có hơi lỏng lẻo nhưng khi người ta đến một xứ lạ, muốn tìm một chỗ đặt chân, sợi giây lắm khi còn vô lý và mong manh hơn nữa.
Sau khi đọc xong thư giới thiệu Thu mang đến. Ông Hải thấy khỏe hẳn lại. Ông nhanh nhẹn mặc áo tơi, đội mũ, chống gậy dẫn Thu đến khách sạn Bách Lạc.
Ông được biết Thu vừa mới góa chồng, nàng vốn ở một tiểu bang khác, bây giờ dắt đứa con trai độc nhất xuống miền Nam tìm nắng ấm và tìm việc làm.
Ông vừa đi bộ vừa cắt nghĩa cho Thu tình hình và cuộc sống ở phố Tàu. Lần đầu tiên ông cảm thấy mình quan trọng đối với một người, nhất là một người đàn bà trẻ và đẹp. Hơn nữa, người ấy đang cô đơn ở một thành phố xa lạ, với đứa con lên năm. Nàng cần chỗ ở, cần việc làm, cần sự giúp đỡ của rất nhiều người. Thế mà nàng chỉ biết có một mình ông, chỉ có thể hy vọng nhờ cậy được vào ông thôi. Ông thấy hãnh diện như một người hùng sắp xắn tay áo lên che chở giai nhân
Ông tưởng tượng ông sẽ giúp Thu tìm khách sạn ở tạm, rồi tìm nhà, tìm việc. Thu sẽ giữ cho Thu không bị ai lừa dối làm khổ nàng ở cái thành phố xa lạ đầy cạm bẫy và quyến rũ này.
Ông đưa Thu đến khách sạn Bách Lạc vì đó là một khách sạn gần nơi ông ở nhất và cũng là nơi ông thích ngày ngày đến đọc báo chùa nhất. Ông nói cho Thu biết khách sạn tuy cũ nhưng to lắm, giá tiền lại rẻ. Ngoài ra, có một điều đặc biệt, là phần nhiều du học sinh Đông Nam Á đều trọ ở đây khi họ phải chờ máy bay để đến nơi được huấn luyện hay về nước.
Trong khi ngày ngày Thu đọc báo tìm nhà, đi xem nhà và tìm việc, ông tự nguyện trông con cho Thu. Thấy Thu và con phải đi ăn tiệm tốn nhiều, ông đề nghị Thu mua đồ ăn đem về nhà ông nấu, như thế vừa rẻ vừa ngon hơn. Ông Hải nói đúng: cơm nhà nấu ngon thực. Ngày xưa ông Hải đã từng làm đầu bếp nên biết xào nấu rất khéo. Ông không cho Thu làm gì hết, bảo nàng cứ ngồi nghỉ, để ông nấu một mình, vì ông thích được trổ tài như thế.
Một hôm, bé Tân vào phòng ông phá phách một lúc, chạy ra bảo mẹ:
• Bác Hải thế mà hư mẹ ạ.
• Sao thế con?
• Con thấy bao nhiêu là báo “ người ta không có áo quần “ trong phòng của bác.
Thu mắng con:
• Lần sau không được tò mò lục đồ của người khác, nghe không.
Thằng bé còn không chịu, phụng phịu:
• Tại sao con lượm báo có hình đó chơi thì không được, người khác thì được?
Thu phải dỗ dành con:
• Con lớn lên mới xem báo ấy được. Ai lại mùa đông mà không mặc quần áo, lạnh chết. Con có nhớ cái hình ba treo trong phòng ngủ ngày xưa không. Cô đó không mặc áo, me sợ cô ấy lạnh bị cảm, nên phải quàng thêm một cái khăn voan bên ngoài.
Bé Tân nghe có lý nên thôi không cãi nữa, tìm trò chơi khác.
Trong khi Thu ngồi chờ cơm, nàng nhận thấy có một sự thay đổi trong phòng.
Mấy hôm trước, nhà cửa trông bẩn thỉu, bây giờ được quét dọn sạch sẽ. Nồi xoong được đánh bóng sáng loáng hẳn lên. Cả cái bàn ăn xiêu vẹo, cũ kỹ, long chân, hôm qua còn nham nhở mốc meo, bây giờ được trải một tấm khăn ny lông mới. Thu mỉm cười nhìn ông già đang lụm cụm nấu ăn. Nét mặt răn rúm đau khổ già nua, cách đây ba hôm, nàng còn thấy những nét bơ vơ lạc lõng trong ánh mắt, thì giờ đây, hình như có một niềm tin vui tỏa ra.
Trong góc phòng, một cây chuối con trồng trong chậu cảnh. Cây chuối của xóm làng Trung Hoa là một thứ cây mọc tràn đồng, một trong những loại không cần săn sóc và có thể mọc ở bất cứ bờ bụi nào. Nhưng ở đây, cây chuối được cưng chiều, được nằm trong chậu sứ, được nâng niu như cành vàng lá ngọc. Cây chuối của ông Hải gầy gầy, lá nhỏ mong manh, trông thanh cảnh như một cô gái cấm cung. Ngày ngày, ông Hải tưới cho cây chuối một chén nước, mỗi tháng, ông cho bột chất bổ của cây vào nước một lần.
Những hôm trời âm u, nắng không xuyên qua cửa sổ vào phòng được, ông bưng cả chậu lên sân thượng sưởi, đến tối phải nhớ đem vào kẻo sợ sương lạnh ban đêm làm hại loại cây nhiệt đới. Cây chuối tuy bé nhỏ nhưng trông già dặn như một cây lớn. Nó cũng có những bẹ khô xơ xác, như tà áo nâu tơi bời bao quanh những bẹ tươi non. Trong góc phòng, cây chuối chiếm một chỗ to rộng nhất, vì nó tượng trưng cho một bầu trời quê hương của ông. Cây chuối này, mấy hôm trước, lá đục mờ vì bụi, hôm nay, lá cũng được lau chùi sacïh sẽ, bóng hẳn lên và trong sáng một màu lục như cẩm thạch.
Trong chốc lát, Thu thấy tội nghiệp ông già. Những hôm trời mưa, không đi xem nhà được, Thu ngồi yên lặng nghe ông kể chuyện . Hình như ai cũng có một chuyện đời bất công, uất ức để kể, miễn có người chịu nghe và có không khí thuận tiện để tâm tình. Bên chén trà nóng trong phòng trọï, ông già kể và nhỏ từng giọt nước mắt vào chén trà thơm mà không biết.
Chiều hôm sau, trong lúc Thu và ông Hải đang xem báo tìm nhà,tìm việc ở phòng khách của khách sạn, thì có một nhóm sĩ quan đi vào. Trông thấy Thu, họ dừng lại chào hỏi rất niềm nở. Thu vui vẻ nói chuyện với họ, và hình như quên ông vẫn còn đang chăm chú xem báo trong một góc phòng.
Tối hôm ấy, Thu và con đi ăn cơm nhà hàng với các bạn mới của nàng. Ông biết bọn họ là sĩ quan ở Đài Loan mới sang, đang đợi máy bay để đi các khu huấn luyện. Ngồi một mình với các món xào nấu ở nhà, ông thấy nuốt không xuống. Cuộc đời niên thiếu của ông chỉ biết làm việc. Cuộc đời già nua ông đã quen sống với chua chát cô đơn. Trong mấy ngày gần đây, bỗng dưng xáo trộn hẳn lên. Căn phòng lạnh lẽo hiện ra bóng dáng của một người đàn bà đi ra đi vào. Bên bàn ăn nổi lên tiếng cười đùa, câu hỏi ngây thơ của trẻ con. Tất cả những thứ này đem hạnh phúc cho đời ông, và cũng những thứ này, thiếu nó, sóng gió nổi lên trong lòng ông.
Mấy người sĩ quan trẻ tuổi kia, mới quen Thu đã đưa mẹ con nàng đi đâu mất. Ông thấy lo sợ cho Thu. Không biết cái bọn đàn ông tinh ranh quỉ quyệt kia quyến rũ nàng đến chốn nào, nàng có bị dỗ dành, có bị lợi dụng không? Ông muốn nói cho Thu biết đàn ông là giống đáng sợ lắm. Họ nhìn đàn bà với cặp mắt ngưỡng mộ bên ngoài, với ý nghĩ chiếm đoạt bên trong, cùng một lúc sắp sẵn chương trình xa chạy cao bay . . . . Ông cảm thấy cần phải giúp đỡ bảo vệ Thu như một đứa con gái của ông. Ừ, con gái của ông cũng trạc tuổi Thu, nếu nó lưu lạc sang đây, nó cũng có thể ở trong một khách sạn, và cũng có thể bị những chàng trai mặt mày sáng sủa nhưng tâm hồn âm u quyến rủ. Ai sẽ bảo bọc, che chở cho con gái ông?
Ông Hải nghẹn ngào trước bát cơm còn nguyên, bỏ đũa, mặc áo khoác xuống phố tìm . Biết bọn Thu đi ăn, ông chỉ quanh quẩn mấy tiệm lớn có tiếng. Ông Hải đảo qua hai ba nhà hàng, nơi nào ông cũng bước vào nhìn khắp các phòng, nhưng không thấy Thu đâu cả. Đến tiệm trước kia Thu vẫn thích ăn cũng không thấy ông đâm lo. Mắt ông dáo dác nhìn quanh, chân này đá lẫn chân kia, cứ thế ông đi suốt mấy con đường bán thực phẩm và đồ chơi, quần áo. Lúc đi qua một tiệm rượu, ông chợt trông thấy bé Tân đứng chơi ngoài cửa. Mừng quá, ông chạy vội đến hỏi:
• Me đâu ?
• Me trong kia, đang mua đồ.
• Tối nay cháu ăn có no không, có ngon không?
• No, ngon lắm. Bác đi đâu đấy ?
Ông Hải lúng túng:
• Bác đi dạo một lúc trước khi đi ngủ.
Ông Hải đã định gặp Thu sẽ mắng Thu một trận. Sẽ nói cho Thu biết những cái nguy hiểm ở thị thành. Ai lại mới quen mấy người này, mà đã dám đi ăn, đi chơi phố la cà như vậy. Ông có nhiều điều cần phải khuyên bảo Thu lắm, thế nhưng bây giờ trông thấy Thu đứng trong tiệm, ông không dám vào gặp Thu, và ông cũng không nghĩ đến chuyện dạy bảo gì cả.
Ông tự hỏi ông là ai ? Ông là gì của Thu mà được dạy bảo và mắng nàng ?
Nếu ông là một đồng hương, thì những người kia cũng là đồng hương của Thu như ông vậy. Họ có thể trò chuyện hay mời Thu đi chơi, đi ăn. Thu muốn đi đâu hay làm gì, ông không có quyền cấm đoán can thiệp vào việc riêng của nàng.
Ông Hải đứng lui vào một góc, giả vờ xem các món hàng, để nhìn vào bên trong. Thu cầm hai chai rượu Mai Quế Lộ, đang cười cười nói nói với các bạn mới.
Ông Hải kinh ngạc đến cực điểm:
• Thu uống rượu ? Thu mà cũng uống rượu ? Thế này thì hỏng! Mấy hôm nay, mỗi bữa ăn, ông đều uống một cốc nhỏ để khai vị, hay nói cho đúng hơn, ông muốn tận hưởng hoàn toàn cái hạnh phúc đến bất ngờ với ông: cái hình ảnh mà suốt đời ông không bao giờ dám ngờ sẽ xảy ra – cái hình ảnh của một người đàn bà và một đứa trẻ con ở trong nhà. Vì thế, ông tự khao một cốc rượu nhỏ trước mỗi bữa cơm. Ông đã mời ép Thu nhiều lần, nhưng bao giờ nàng cũng từ chối. Giờ đây chính Thu mua rượu. Thu sẽ uống với ai? Bọn thanh niên chăng? Ông thấy uất hờn dâng lên tận cổ, không biết những thằng ranh con kia, đứa nào đã xui giục Thu mua rượu, để rồi đêm nay sẽ chuốc cho nàng say ?
Ông theo bọn Thu về đến khách sạn, thấy Thu lấy chìa khóa ở bàn người thư ký, rồi bế con lên gác. Các sĩ quan mang xách hộ nàng những gói lớn, gói con. Họ theo nàng vào đến tận phòng. Ông Hải thấy chân tay bủn rủn, ông ngồi xệp xuống cầu thang, giả vờ mở một tờ báo ra đọc để chờ xem bọn kia bao giờ mới về.
Ông nhìn vào tờ báo mà không trông thấy chữ. Tiếng cười, tiếng nói vọng ra như những mũi kim đâm nhói vào tim ông. Bỗng dưng ông Hải thấy giận dỗi. Ông đang sống yên tĩnh với cái làng xóm Phố Tàu của ông. Nguồn sống của ông là tiền già, cộng với chút vốn còn sót lại, ông giao cho một nguời bạn thân buôn bán chia lời. Mỗi tháng, người ấy đưa cho ông một số tiền nhỏ, đủ ăn tiêu và trả tiền phòng. Ông đã tưởng đời thế là hết sóng gió rồi. Không ngờ, chỉ trong mấy ngày, một người đàn bà xa lạ và một đứa bé con đã làm sống dậy tất cả ham muốn và dục vọng ông chôn chặt từ lâu. Oâng thấy ông có quyền được sống như mọi người, có quyền được sung sướng như mọi người. . .
Những cô nương, thái thái Trung Hoa ở đây, ai cũng sang trọng quá, kiêu kỳ quá. Ông nhìn họ như nhìn những nàng tiên hay những bà công chúa ở một thế giới khác. Một cô gái, dù không phải là dòng dõi thượng lưu, cũng vẫn kiêu kỳ. Dù chỉ là một cô hầu bàn, cô cũng có giấc mơ của một bà công chúa. Trong giấc mơ ấy, chàng Hoàng Tử đẹp trai là anh đầu bếp chính, nấu ăn khéo, khỏe mạnh, để một ngày kia cô cũng sẽ trở thành bà chủ tiệm như ai. Nếu là một cô thư ký, thì giấc mơ của cô cũng cao hơn các đồng sự bạn trai của cô nữa. Thứ “ đại trượng phu” như ông, chỉ được coi ngang hàng với rơm rác.
Đời ông Hải chưa từng được nói chuyện lâu với một nguời đàn bà nào bao giờ. Dù lạ dù quen chẳng có ai rảnh rang để liên lạc với một ông già nghèo nàn, lẩm cẩm, ốm yếu như ông. Thế mà người đàn bà này đã ngồi nghe ông kể chuyện hàng giờ, hết giờ này sang giờ khác. Nàng không kiếm cớ bỏ đi lảng, không ngáp vặt, không nhìn trời nhìn đất, không lo ra. Người này nghe bằng tai, bằng mắt, bằng óc và cả bằng tim nữa.
Nhớ đến lúc ông đem từng bức thư của vợ ra đọc. Ông quá cảm động tim đập mạnh từng hồi. Thu im lặng và lắng nghe ông, như uống những lời tâm sự. Ông tưởng Trời Phật sai người đàn bà này xuống làm cho cuộc đời ông sáng lại, để đền bù những nỗi bất công ông đã phải chịu trong mấy chục năm trường.
Thế mà . . . nghĩ đến mất Thu, đêm ấy ông Hải ngủ một giấc ngủ chập chờn hốt hoảng và đầy ước mơ lẫn với lo sợ.
Sáng hôm sau, khi ông Hải dậy thì đã mười giờ. Ông vội vàng thay quần áo đi tìm Thu. Đến trước khách sạn, ông thấy Thu đang đứng chờ tắc xi với một đống hành lý ngổn ngang. Trông thấy ông, Thu chạy vội đến gần, mừng rỡ:
• Kìa bác đã đến. Cháu tưởng bác còn ngủ, không muốn làm phiền bác. Định để giấy lại cho bác hay, rồi hôm khác sẽ trở lại thăm bác.
Ông Hải run rẩy hỏi:
• Các người định dọn đi đâu đấy?
• Cháu thuê được một từng lầu ở dưới phố rồi. Hôm nay cháu phải đi sớm, kẻo chốc nữa quá giờ, khách sạn sẽ tính thêm một ngày tiền phòng.
• Bà có cần tôi giúp gì không ?
Thu chỉ các sĩ quan:
• Thôi, không dám phiền bác. Có các bạn cháu đây nhân tiện sắp đi trình diện, mạnh tay, mỗi người giúp cháu mang vài món được rồi.
Ông Hải ngước mắt nhìn bọn con trai. Bọn họ trông khỏe mạnh thực. Người nào cũng cao lớn khôi ngô, mặc quân phục chỉ vàng, chỉ bạc lủng lẳng đầy người.
Thu đưa cho ông một cái gói bảo:
• Cháu không biết mua gì biếu bác, có thứ này chắc bác thích.
Ông Hải đỡ lấy cái gói, không nói gì. Mắt ông nhìn quanh, đầy vẻ hờn oán và kinh ngạc, vì mọi việc xảy ra mau chóng ngoài sức tưởng tượng của ông.
Thu chia đồ đạc ra hai phần, các sĩ quan cùng đi ngồi hai xe. Trông họ mang xách gọn gàng và nói tiếng Anh nhanh như gió, ông Hải thấy tủi thân. Ông không được như họ, thì còn mong gì giúp Thu, dù chỉ xin đi theo để dọn đồ.
Một lần nữa, ông cảm thấy đời thực vô nghĩa. Sống vật vờ không gia đình, không tình yêu, không bà con họ hàng, không thạo tiếng nói bản xứ. Có quê hương nhưng sẽ không bao giờ được về. Ông chỉ còn cách thu nhỏ mình lại, như một vật để làm cảnh cho phòng đọc sách của các khách sạn cũ kỹ, bám chặt lấy cái thành phố Tàu trên đất Mỹ này.
Thu đã lên xe, mọi người cùng đưa tay vẫy chào ông. Ông vẫy chào lại, mắt mờ đi. Chân ông run run, đầu gối mỏi như muốn gẫy gập. Ông ngồi bệt xuống vỉa hè, mở cái gói của Thu tặng ra xem. Bên trong có hai chai rượu Mai Quế Lộ, một cái áo len dày, một tá bít tất và một cái khăn quàng. Ông cầm chai rượu dằn mạnh xuống đất, giận dữ:
• Hừ, người ta trả công cho tôi như thế này sao?
Món quà đáng giá, đền công ông giúp đỡ, được rồi. Nhưng còn trái tim của ông, tấm lòng của ông, thì giá nào mà đền cho được!
Ngồi thẫn thờ một lúc, ông nhặt gói quà, ôm chặt vào lòng một cách âu yếm, đi về phía chợ. Ông định mua đồ nhắm, về nhà uống một bữa cho thực say.
Không làm khác được, ông muốn tự làm khổ mình để trả thù, mà cũng không biết bằng cách nào, trả thù gì và trả thù ai.
Về đến nhà, ông ngồi vội xuống bàn, lấy hai cái cốc đổ đầy hai cốc rượu, ông uống một cốc, còn một cốc tưới vào gốc cây chuối, thì thầm:
• Tao chỉ có mày thôi. Uống với tao một cốc cho vui.
Uống hết, ông lại rót ra hai cốc rượu khác, nhấm nháp dần dần, và cũng đổ từ từ vào gốc cây chuối.
• Mày biết không ? Ai cũng bỏ tao cả. Tao không còn gì ở trên đời này nữa, trừ mày ra. Mày đừng đi đâu hết nghe không? Uống đi! Uống thêm vài cốc nữa với tao mới là bạn tốt chớ.
Cứ thế, từng cốc, từng cốc, ông vừa nhấm nháp vừa đổ cho cây chuối.
Khi ông Hải tỉnh dậy, thấy gian phòng mờ mờ tối. Ông không biết rõ là ngày hay đêm, mà cũng không muốn biết. Ông Hải thấy mình nằm vắt trên bàn, chung quanh, chai cốc ngổn ngang, dưới chân ông, cây chuối cũng bị ngã nghiêng. Cây chuối bây giờ không còn màu lục non xanh tươi nữa, lá nó xàu và thân cây mềm hẳn đi.
Ông Hải dựng cây chuối dậy, vỗ về:
• Chết chưa, mày uống nhiều rượu quá! Mày say đấy à? Tại sao mày héo thế này? Mày buồn phải không? Ừ phải, mày buồn cho tao cũng được, nhưng nhớ đừng có chết nghe không! Mày buồn thôi, chứ đừng bỏ tao mà chết!
Những tiếng cuối cùng, ông vừa nói lầm thầm, vừa nhổ cây chuối, bước vào phòng trong nằm vật xuống giường ngủ lại. Cây chuối, ông đặt nằm gối lên cánh tay ông, khe khẽ bảo:
• Đừng buồn nghe không! Thôi đừng buồn nữa, tao sẽ săn sóc mầy . . Đừng buồn nữa . . . nghe cưng… . . .
Tiếng ông lẫn với tiếng ú ớ, rồi im hẳn.

Giọng hát của ca sĩ trong phòng tắm mỗi 9 giờ sáng nhự đồng hồ báo thức lại văng vẳng vang lên. Nhưng không biết giọng ai đó có còn ma lực hấp dẫn dục ông Hải thức dậy để tiếp tục cuộc sống ” Một ngày nhự mọi ngày “ nữa không.

Linh Bảo - 1962
tienmacdoa
#7 Posted : Thursday, October 28, 2004 5:45:57 AM(UTC)
tienmacdoa

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 189
Points: 0

Tác giả vtmn
Gởi: Sat Jul 24, 2004 2:45 pm
Tiêu đề: Re: BÀ LINH BẢO

Ảo Tưởng


Trích trong tuyển tập Mây Tần
Linh Bảo - 1971

Trong đời một người, ai cũng có hàng chục hàng trăm lần kêu lên : "Trời ơi! Tôi bận quá! Tôi bận lắm!" hay "Tôi bận kinh khủng!". Mai cũng thế. Suốt quãng đời quá khứ, Mai đã vô cùng bận rộn.

Khi mới sinh ra, Mai bận khóc: khóc để đòi bú, đòi ăn, đòi mẹ ấp ủ, khóc vì ngã đau hay để vòi. Khi còn bé Mai bận chơi rồi bận học. Tuổi dậy thì, Mai bận mơ mộng và bận xây mộng viễn du. Khi lập gia đình, Mai bận việc nhà, bận chồng, bận con và bận đi làm để lãnh số lươnng hàng tháng. Rồi cứ thế, cuộc sống tiếp tục bận rộn vì tranh đấu không ngừng.

Hôm nay bỗng nhiên Mai thấy tất cả mọi việc đều hoàn tất. Hay nói một cách khác, mọi việc như …. hết rồi! Những ngày bận rộn của Mai đã qua và có lẽ vĩnh viễn không bao giờ trở lại nữa. Hôm nay là ngày sinh nhật của Liên, con gái Mai, được 18 tuổi.

Đáng lẽ Mai phải bận rộn lắm mới phải. Mai tính toán, xếp đặt chương trình từ lâu về cái ngày đáng bận rộn hôm nay. Mai phải mua quà, làm bánh sinh nhật, tổ chức tiệc trà, viết thư mời, quét dọn nhà cửa, mua ly cốc, mua đồ ăn thức uống cho bạn bè của Mai và Liên đến dự tiệc. Nhưng trái lại, Mai đã không bận gì cả. Không có bánh, không có tiệc, không có bạn. Cả tòa nhà bỗng nhiên im lặng một cách lạ lùng và trống rỗng đến phát sợ. Cái im lặng trống rỗng mông mênh ấy làm Mai cảm thấy những ngày bận rộn của Mai thật đã chấm dứt từ đây.

Liên được 18 tuổi hôm nay. Nó có một bạn trai và hai đứa rủ nhau đi xa để ăn mừng sinh nhật của nó. Liên đã nói với Mai một cách không có vẻ gì quan trọng là có lẽ chúng nó sẽ đính hôn nhân thể.

Sinh nhật 18 tuổi là một ngày trọng đại đối với pháp luật ở đây. Đứa con 18 tuổi được ở riêng, được uống rượu, được đi lính, được bỏ phiếu và được kết hôn khỏi cần sự đồng ý của cha mẹ. Nó được làm nhiều thứ, không ai có quyền can thiệp, dù những việc ấy trước đây chúng nó cũng đã làm, nhưng sau 18 tuổi thì trên pháp lý danh chánh ngôn thuận.

Liên sẽ mang nhẫn đính hôn, nghĩa là nó sắp lấy chồng. Đúng là một ngày quan trọng nhất trong đời hai mẹ con Mai. Mai ước ao chúng nó làm tiệc ở nhà, để Mai cũng được dự vào một phần quan trọng, nhưng chúng nó thích đi ăn mừng ở một nơi riêng biệt theo kiểu mới, kiểu hippy.

Căn phòng chỉ sáng mờ mờ vừa đủ trông thấy. Mai không bật đèn. Nàng nằm trong phòng của Liên, nghĩ đến con và hồi tưởng lại thuở ấu thơ của mình.

Ngày xưa...Mai cũng đã rất bận rộn, giống như Liên bây giờ. Lần đầu tiên, Mai bỗng thấy bắt được cái cảm giác của mẹ nàng lúc xưa, khi cả gia đình còn sống chung, sống trong thời mới cũ giao nhau.

Ngày xưa...Mai cũng đã làm khổ mẹ. Mai đã bị lôi cuốn vào làn sóng đổi thay của đất nước ở cái tuổi 18, cũng như tất cả thanh niên nam nữ cùng trang lứa. Cái lửa bừng bừng nhiệt huyết đòi "xếp bút nghiên". Sáu anh chị em lần lượt rời gia đình, lăn vào xã hội trước tuổi chín muồi. Mai làm gương trước hết, và kết quả là chỉ đem lại cho cha mẹ những sự bực mình, lo lắng khổ sở, nhưng đàn chim sổ lồng kia có bao giờ biết đến đâu! Chúng nó chỉ lo bay cao, bay xa, bay không ngừng, bay không biết mệt và cũng không quay đầu nhìn lại, sợ trông thấy những giòng nước mắt của mẹ già làm cho sắt thép cũng phải mềm.

Mẹ Mai có cách tự an ủi rất hiệu nghiệm: "Con cái là nợ của cha mẹ từ tiền kiếp. Chúng nó chỉ đến để đòi nợ. Cha mẹ có bổn phận nuôi dưỡng, thương yêu, dìu dắt, tha thứ, giúp đỡ tận tụy, rồi...quên đi. Còn thứ con có nợ cha mẹ mới biết phụng dưỡng báo hiếu, làm cho cha mẹ vẻ vang. Mình vô phước nợ nhiều, thì đành trả vậy, không trả kiếp này, kiếp sau nó còn đòi nữa...mệt lắm!" Bà nói và khôi hài với chính mình, nhưng sự thật không giấu được niềm thất vọng.

Ngày xưa...ngày xưa với ngày nay chỉ cách nhau 20 năm mà đã có biết bao nhiêu là khác biệt. Những việc ngày xưa cho là quan trọng suốt một đời người, thì ngày nay chỉ là một việc "có lẽ" và "nhân thể".

Công bình mà nói, Liên cũng chỉ là một nạn nhân của thế hệ. Thế hệ mới, thế hệ đả phá gia đình, thế hệ của phong trào hippy đang lên đến cao độ. Liên lớn lên trong cái phong trào của thế hệ ấy, làm sao chống cự nổi.

Tuần trước, Mai có khách ăn cơm. Một ông bạn đề nghị mọi người cho biết, nếu trong đời mình có dịp được làm lại, thì mình sẽ làm lại cái gì. Mọi người đều nói lên một vài chuyện vui vui, vô thưởng vô phạt. Khi đến lượt Liên, nó xụ mặt lại bảo:

- Tôi ao ước được...đừng ra đời!

Câu nói như một tiếng sét rơi vào giữa bàn tiệc. Mai lặng hẳn người đi. Mai ngượng với khách và khách ngượng hộ cho Mai. Thằng bạn trai của Liên trưởng thành hơn, tuy không nói gì nhưng cũng tái mặt như tất cả mọi người. Mấy phút nặng nề đến ngạt thở trôi qua. Một bà bạn của Mai gượng cười lên tiếng trước:

- Vừa rồi cháu Liên đã trả lời hay lắm. Cháu chưa thực sự ra ngoài đời để sinh sống, tranh đấu, làm gì đã hiểu đời, đã ưu tư, làm gì đã có lỗi lầm để ao ước được làm lại. "Đời là bể khổ", Phật dạy thế. Thực ra, tôi cũng không thích sống ở cuộc đời đầy vật lộn tranh đấu, mệt óc mệt thân này. Liên thông minh lắm mới biết...sợ đời từ khi chưa biết đời như thế nào!

Một ông bạn khác tiếp theo:

- Chính tôi lắm lúc cũng muốn bỏ hết, lên núi tu tiên cho rảnh.

Chỉ vì cái vụ ... "về nhà thấy vợ công phu chưa đền" nên...không nỡ tu, mới khổ thế này.
Mọi người lại vui vẻ cười đùa, nhưng niềm đau trong lòng Mai lên đến cùng cực. Đời Liên đã có gì sai lầm để Liên chán ghét đến thế? Ai cũng có thể phàn nàn nếu gặp lúc rủi ro khổ sở, nhưng Liên đã ra đời đâu! Liên không khuyết điểm một phương diện nào để có thể phàn nàn được.

Mai chợt thấy lạnh người. Tình cảm bỗng nhiên xoay ra một lối khác. Mai không còn u uất vì đứa con ăn nói mất dạy trước mặt khách làm nàng xấu hổ nữa. Mai chỉ xấu hổ vì, hơn một lần, chính Mai cũng đã nói câu ấy, không hề biết đến cảm nghĩ của người nghe: "Tôi ao ước giá đừng ra đời!" Bây giờ Mai hiểu thấm thía rồi. Cố nhiên Mai được cha mẹ tha lỗi, không phải một lần mà cả trăm lần, cũng như Mai đã tha lỗi cho Liên không hề biết chán.

Hôm nay, ngày Liên 18 tuổi, ngày quan trọng của tuổi thành nhân. Còn quan trọng hơn nữa là nó sẽ làm lễ đính hôn. Thế mà, Mai là mẹ, lại không được dự để chia vui. Giờ này, Liên đang ở xa Mai đến hàng trăm dặm. Liên với bạn trai của nó đang ăn mừng với nhau và với các bạn riêng.

Đây là cuộc sống mới, cuộc sống của cao triều hippy mà Mai cũng như bao nhiêu cha mẹ khác cắn răng chịu đựng, thả buông thả lỏng cho khỏi đứt, chờ khi phong trào chìm lặng, đứa con lạc hướng – hy vọng còn sống – sẽ tìm lại đường về.

Thỉnh thoảng Liên cũng ở nhà, khi ốm, khi đói, khi cần ngủ hay giận thầy, giận bạn. Những lúc ấy, Mai thấy Liên có bộ mặt lầm lì dài thườn thượt. Nó muốn được chiều ý tất cả mà không muốn trả giá bằng một bộ mặt tươi cười.

Càng về tối càng lạnh hơn. Mai không đốt lò sưởi cũng không vặn đèn. Mai muốn hòa lẫn, tan biến vào bóng đêm để trốn tránh hiện tại. Đã lâu không còn ao ước, giờ đây Mai ao ước được trở về quê viếng mộ cha mẹ. Không biết mộ có còn sạch sẽ, hay cỏ dại mọc đầy. Mộ là nhà của người chết. Cha mẹ Mai ngày xưa rất nghiêm khắc trong việc sạch sẽ ngăn nắp. Mai muốn chính tay mình – ít ra cũng được một lần – nhổ cỏ mộ cha mẹ. Đi xa quá sớm, Mai đã mất tất cả cơ hội được thương yêu khi cha mẹ còn sống, bây giờ Mai mới thấy là đã phí phạm một thứ quí gía nhất trên đời.

Lúc cơn buồn lên đến tột độ, Mai cố vùng vẫy để thoát ra khỏi mơ mộng đắm chìm. Mai đứng dậy bước ra khỏi phòng con, không quên khép chặt cửa lại. Khi Liên đi vắng, Mai mở cửa phòng này để nắng gió vào cho thoáng. Khi cửa phòng này đóng chặt thì đó là dấu hiệu Liên có nhà.

Mai đến bàn thờ, đốt một điếu thuốc và một cây hương. Sự thờ cúng tối thiểu của Mai chỉ là tượng trưng, để bày tỏ lòng tưởng nhớ. Sự thật, tất cả đều vô nghĩa. Người chết đã chết, đã thuộc về dĩ vãng ... Người sống đã đi xa...Hiện tại chỉ còn một mình Mai lững thững xuống núi.

Bây giờ là lúc Mai không bận với đời nữa, có đủ thì giờ dành cho gia đình, nhưng nhìn lại, bên mình Mai chỉ còn là khói hương, khói thuốc và cánh cửa phòng con đóng chặt, cho Mai cái ảo tưởng là tất cả những người thân còn lẩn khuất đâu đây.
Phượng Các
#8 Posted : Friday, December 17, 2004 3:02:08 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
Gió Bấc
Linh Bảo

Chương 1. Gia Đình

Từ thuở bé, cứ mỗi lần gió Bấc thổi là Trang lại thấy lo lắng, sợ hãi có cảm tưởng sắp bị đem ra hành tội. Hơi gió lạnh từ từ thấm dần vào cơ thể, Trang thấy như có cái gì chặn đè ở ngực, làm hơi thở nàng ấm ức, nghẹn ngào. Từ trong phổi Trang một âm thanh nhè nhẹ phát ra, có khi chỉ ty tỷ như một điệu đàn êm dịụ, nhưng lúc gió Bấc thổi mạnh, hay ban ngày làm việc nhọc mệt thì “ điệu đàn” trở nên thống thiết vô cùng.

Trong lúc mọi người đang yên nghỉ và có lẽ đang chìm đắm trong những giấc mơ tuyệt vời thì Trang quay cuồng khổ sở vì ngẹt thở. Như người hấp hối cố níu lấy sự sống, Trang ngồi ưỡn ngực lên, lấy hết sức hít vào, và lịm dần khi thở ra. Trang mệt lả, nhưng vẫn gắng thở, vì nếu chỉ ngừng lại một làn hơi, không tiếp sức nữa, Trang chắc chắn hồn mình sẽ lâng lâng nhẹ bước ra đi .....

Sau mỗi cơn bệnh, Trang nằm mềm người trong chăn, không ngủ cũng không thức, chân tay mỏi rã rời, tâm thần trí óc mê mê, Và cứ như thế từng mùa đông trôi qua....

Cái gì là sung sướng, cái gì là hạnh phúc, cái gì là những phút nô đùa thần tiên của tuổi trẻ thơ ngây, Trang đã bị chứng bệnh ác nghiệt ấy cướp đi tất cả. Nếu lỡ vui chúng vui bạn, Trang cũng chạy nhảy nô đùa, hay cười to nói lớn thì đêm ấy Trang phải trả giá bằng cực hình: ngồi dán lưng vào tường thở dốc, nhìn người ngủ say sưa...

Bảo rằng Trang đã thức suốt cả mấy mùa đông thì quá đáng, thực ra những đêm đông Trang đã thức nhiều hơn ngủ.

Không phải cố ý thức để nghe gió nghe mưa, nghe tiếng trùng tiếng dế, tiếng lá rơi xào xạc hay tiếng bước chân của người bộ hành cô đơn trên đường. Đối với Trang trong đêm đông những âm thanh ấy không hề gợi hứng , vì nàng còn phải lắng nghe và chống cự với niềm đau của chính mình.

Trang thấy buồn cười người em gái tập tễnh muốn làm thi sĩ, trong một đêm đông đã viết mấy câu thơ với cái ý rất thơ:

Anh ước mơ gì em biết không?
Bằng lòng thức suốt mấy mùa đông
Để cùng em sống thêm vài phút
Chỉ một mình em sưởi ấm lòng.

Trang nghĩ thầm nếu chỉ đựơc sống với “ em” thêm vài phút cũng đủ làm cho thi sĩ bằng lòng đánh đổi tất cả những giấc ngủ say sưa suốt mấy mùa đông thì cũng đến bái phục. Với Trang thì trái lại, tưởng như dám đánh đổi mấy mùa hè, để được ngủ rất ngon say trong một đêm đông có gió Bấc thổi.

Nhưng sự thực vẫn sờ sờ không chịu nhường bước. Trang chỉ còn cách nghiền ngẫm chịu đựng, và đôi khi trách Ai đó đã bất công! Gia đình Trang mọi người khỏe mạnh cả. Tại sao bắt Trang trúng độc đắc cuộc xổ số rủi ro bệnh suyễn.

Trang không nhớ ba, me Trang có hiểu gì về con hay không. Trang chỉ nhớ rằng chưa bao giờ được uống một thứ thuốc gì để chữa cái bệnh đêm đêm ngạt thở ấy.

Có một lần Trang nghe mẹ nói chuyện với bà bạn. Bà Tâm - người mà chị em Trang vẫn gọi đùa là cuốn Tự vị sống ,vì không có chuyện gì bà không biết, từ Thiên văn Địa lý, bà Tống Mỹ Linh đi giày da cá vàng bên Tàu, cho đến ông Ngũ đại , Tam đại nhà ai có mấy cô vợ lẽ, hay hôm nay bà Thượng tỉnh nhà phát tiền chợ mấy đồng – bà vỗ đánh đét một cái vào đùi bảo:

- Bệnh suyễn ấy à! Ha, ha, ông nội tôi biết rõ lắm! Này, kiêng thịt gà, tôm, cua, măng, đu đủ đấy nhé? Thảm! nó mà phát lên thì phải ngồi ôm ngực thở như xe bò kéo gỗ lên dốc, thực là sống dở chết dở! Chỉ có thuốc Tiên chứ người trần chả có thuốc gì chữa khỏi được. Ai vướng phải thì coi như mắc nợ thiên khối phải trả cả một đời! Tôi nghe nói cháu Trang cũng có bệnh ấy, vậy bà chị có định xin cầu thuốc đâu cho cháu không?

Mẹ Trang thản nhiên đáp:

- Ờ, cháu có làm sao đâu! Nó không sốt, không bỏ cơm, ngày ngày vẫn dậy đi ra đi vào , vẫn chơi như thường đấy chứ ! Lớn lên rồi tự khắc nó sẽ khỏi. Tôi nuôi con như nuôi heo, cứ ngày cho ăn hai bữa, còn thì nhờ Trời nhờ Phật!

Trang nghĩ thầm:

- À, thế ra chưa bệnh liệt giường, liệt chiếu thì vẫn chưa cần đến thuốc!

Mẹ Trang chỉ “ nhờ Trời nhờ Phật” mặc Trang với ngọn gió Bấc, đêm đêm hành hạ nàng, đêm đêm bắt nàng thao thức.

Căn bệnh của Trang không cho nàng một giấc ngủ say sưa để may ra được mộng đẹp, mà đến một ước mơ giữa biên giới thức ngủ cũng không thành!

Cứ sau mỗi cơn bệnh, Trang thấy trong người có một cảm giác mới mẻ lạ lùng , trí óc nàng trong sạch đến nỗi gần như quên hết tất cả những việc gì đã xảy ra chung quanh. Sự thay đổi nghe hơi khó tin. Trang đã học rất cần mẫn và trải đủ những thương ghét mừng giận trong mùa hè gió hạ, nhưng nàng thấy gần như quên hết những thứ ấy khi ngọn gió Bấc đầu tiên thổi báo mùa đông tới.

Và cứ thế từng đêm này qua đêm khác….Từng mùa đông này sang mùa đông khác đến rồi đi.....

Năm tháng qua......Từ một đứa bé lọ lem bị bỏ quên trong bầy con gái không cầu mà được, ngày ngày trong cái áo cánh dài quá gối của các anh chị thải ra, tay cầm chiếc quạt gắp để tự đuổi ruồi, bò lên bò xuống những bậc thềm giữa nhà bếp với nhà ngang, Trang cùng với mấy chị em “không cầu” cũng lớn lần lên thành những cô bé xinh xinh.

Bao nhiêu tuổi đời không cần biết, Trang đã quen sống nhẫn nhục, cô đơn trong gia đình đông đúc của Trang, cái đại gia đình rất hòa thuận, êm ái quanh năm chẳng bao giờ có tiếng cãi mắng nhau, mà thực ra mỗi người là một tâm hồn bí mật, một tư tưởng riêng biệt và một giấc mộng khác hẳn nhau. Thực là một phép mầu vì không ai cố tránh xung đột, không ai lựa ý chiều chuộng thân ái nhau, tất cả đều sống tự nhiên mà vẫn vẽ được một bức tranh hòa thuận lý tưởng.

Lắm lúc Trang thấy thương Ba vì ông cũng chỉ là một nạn nhân của đại gia đình. Địa vị một người con trưởng, ông phải chấp nhận nền nếp của ông bà cha mẹ để lại, phải trang trải thu xếp những sự khó khăn cho tất cả bà con.

Gia tài của ông được hưởng là cổ tục và thủ tục. Một năm vài lần, có những người bà con gần, xa ở nhà quê ra nhắc nhở:

- Dạ bẩm cụ, nhà thờ lớn dột ở nóc bên tả ạ.

- Bẩm cụ chái hậu cần phải tu bổ lại mới qua được mùa đông năm nay.

- Bẩm cụ.. Bẩm cụ...

- Bẩm cụ ngôi mộ cụ Cố bị bọn trẻ con chăn bò vào bẻ trộm cây, phá nát mấy chỗ.

- Bẩm cụ...

- Bẩm cụ ngày 28 giỗ cụ Cố, tháng tư giỗ cụ.. tháng bảy giỗ cụ...

- Bẩm cụ...

Tháng nào cũng có một vài ông bác họ, chú xa đến thăm, rụt rè gãi đầu gãi tai xin giúp đỡ.

Cái gia tài Ba Trang được hưởng của ông nội Trang là những món nợ lớn nợ con ông cụ vay lúc sinh thời. Cứ đến đầu tháng là có một vài bà ăn mặc diêm dúa, miệng cười toe toét đến thăm:

- Bẩm cụ hôm nay đầu tháng, cho tôi xin ......ï!

Lễ phép chi lạ! Rõ ràng là đòi nợ lại nói xin.

Và các cô hầu non vợ lẽ của ông nội Trang cũng lần lượt tìm đến, tay dắt vài đứa trẻ màTrang phải gọi bằng chị

- Thưa anh chị, bây giờ tôi xin gửi các em lại cho anh chị, để tôi còn tìm cách làm ăn...

Và cái gánh nặng đại gia đình của Ba Trang càng trĩu thêm lúc hai người chú ruột của Trang bỗng nhiên lần lượt ra về với Phật Trời, để lại các bà vợ trẻ với mỗi bà một đàn con.

- Thưa anh chị bây giờ trăm sự đều nhờ anh chị cả. Chúng em xin về quê.

Và cứ thế các bà lần lượt “ làm lại cuộc đời” sau khi đã gởi con lại cho ông anh cả. Trang càng cảm thấy thương cha hơn khi hiểu rõ cả một trời bất như ý, ông chỉ có thể giải bày vào những vần thơ Đường luật nói bóng gió xa xôi cái tình đời mà có lẽ ai cũng là nạn nhân..Mặc dầu còn quá nhỏ, nghe hoài Trang cũng nhớ vài câu như bài thơ : Nằm đêm không ngủ biết đêm dài….mà hai câu cuối cùng tha thiết tâm sự:

Gánh nặng đường xa lo có xiết?
Mà lo không xiết bỏ cho ai ?

Ông không bài bạc để hầu các cụ lớn, đánh cầu thua .... Ông không luồn cúi nịnh hót, và cũng không cho Mẹ Trang lễ mễ vào cửa sau gãi tai to nhỏ với các cụ lớn bà:

- Tết năm nay chúng tôi có chút lễ mọn……

- Trong làng quan trường người ta làm thế để thăng quan tiến chức, thì Ba Trang ở trong nhóm số ít người, chỉ biết cố gắng làm việc, nhưng càng cố gắng, càng chậm thăng quan tiến chức. Nguồn giải trí độc nhất của ông là sách và thuốc lá. Lúc rỗi, ông không thể rời cuốn sách trên tay, và điếu thuốc lá ở môi nối tiếp nhau không ngừng.

Mẹ Trang lắm lúc phải bực mình vì khói thuốc cũng như món tiền thuốc. Để tiết kiệm, muốn ông bỏ thuốc, bà bèn mua kẹo mời ông nhai cho khỏi buồn miệng nhớ thuốc. Để khỏi phụ lòng người mua kẹo, Ba Trang bèn ăn kẹo trước khi hút thuốc cho ngọt giọng, và sau khi hút xong lại ăn kẹo cho đỡ ráo cổ.

Kể ra Ba Trang nghiện thuốc lá cũng là lỗi tại ông. Bụng làm dạ chịu, trách ai được. Ông được tiếng “văn hay chữ tốt” nên rất nhiều “chàng” và “nàng” nhờ viết thơ tình, họ trả công mỗi lần bằng một bịch thuốc lá hiệu Melia.Vì thế nên ông mới đâm nghiện quá sớm.

Hồi còn trẻ ông cũng là một tay nghịch có hạn. Vụ cô Sương Nguyệt Anh là một. Ông biết dưới chân núi Ngự Bình có cái quán bán nước chè tươi và một vài thứ quà bánh lặt vặt. Chủ quán là một bàcụ già nua lụm khụm tên Sương Nguyệt Anh. Cái tên thuở con gái, bây giờ không ai biết. Thấy vậy thầy ký trẻ đầy sáng kiến bèn phao tin đồn với tất cả các bạn rằng dưới chân núi Ngự Bình có cái quán của hai mẹ con một cô gái rất đẹp. Tên cô là Sương Nguyệt Anh. Ai đến hỏi cô bà cụ cũng tự nhận mình là Sương nguyệt Anh, cố ý không cho các chàng trai gặp.Ông còn cố vấn cho các cậu mê gái biết là cứ kiên nhẫn giả vờ ăn món này món kia, thế nào cô Sương Nguyệt Anh cũng phải ra bưng nước dọn hàng tiếp khách giúp mẹ. Suốt mấy tháng trời thịnh vượng, bà cụ kiếm được món tiền đủ mua cái hòm để yên tâm đợi ngày “ra đồng”.

Có một lần nghe Trang ca tụng cảnh “ hòa bình” thần tiên lý tưởng trong gia đình mình, Ba Trang bảo:

- Con có biết tại sao không? Khi mẹ đang “ lên cơn” thì Ba không trả lời, không nói gì cả. Cứ im như một pho tượng đất, coi như ngồi nghe máy hát ca Cải lương, thế thì chiến tranh dù có muốn bùng nổ cũng không có lý do. Đừng tranh nhau to tiếng, thì khỏi lỡ lời nói những gì làm mình phải mất công xin lỗi về sau. Các con nhớ lấy, sau này có khi cần dùng.

Trang tin lời Ba, nhưng nàng cũng phải tin cả lời Mẹ khi nghe bà phân trần :

- Ba thực vô tâm vô tình, Mẹ phải nhịn nhục Ba cả trăm chuyện, nếu không có Mẹ tu hành làm phúc, làm đức thì Trời Phật đâu có phù hộ cho nhà ta được bình yên như thế này.

Trang còn nhớ một lần nể Me quá nên Ba Trang nhận lời ăn chay ngày mồng một. Hôm sau, trước khi đi làm ông gọi Dung, chị Trang bảo:

- Dung, hôm nay con tự đi chợ mua cái gì làm cơm mặn cho ngon ngon nhé!

Me Trang nghe tức lắm, chỉ sợ hết phước, nhưng vẫn không dám nói gì, vì chịu ăn chay một ngày như thế là chồng đã nể mình lắm rồi.

Trang lại còn nhớ mãi cái nét mặt nhăn nhó của em Tuấn, nhai miếng rau má đắng quá là đắng mà vẫn nói ngon cho Me bằng lòng. Cho Me bằng lòng, cho Me bằng lòng, lúc nào cũng chỉ cốt cho Me bằng lòng!

Còn mẹ Trang cả ngày chỉ lo thu va thu vén bớt sự tiêu pha, ăn mặc; và tặn tiện cả tình thương của các con để chia bớt cho bọn em và cháu mồ côi đầy nhà. Những giờ phút rảnh rang bà chỉ đi các chùa đền. Tu bổ chùa nầy miễu nọ, cúng ăn cúng mặc cho các thầy tu, bà vãi, đó là sở thích duy nhất.

“ Người ăn thì còn, con ăn thì hết”. Me Trang lúc nào cũng tâm tâm niệm niệm câu thần chú ấy, làm cho chị em Trang lắm lúc phải đùa khi thấy mâm cơm sơ sài mà các em vẫn đặt tên là “Thực đơn tu tiên”, còn các món tiền thì cứ nhảy sang mâm cơm người khác một cách thoải mái.

Hôm qua mụ Thủ từ giữ chùa đầu làng đến với một vài thứ rau quả trong vườn, thủ thỉ:

- Bẩm cụ hôm nay vườn nhà con mới ra được mấy trái khế chua và rau dưa con xin đem ra dâng cụ xơi... lộc đầu mùa.

Mụ ra về với mấy chục lon gạo. Không nói me cũng biết người ta cần gì.

Hôm nay ông sư chùa A đến, hai mắt lim dim, tay chắp trước ngực:

- Bẩm cụ mai nhà chùa có lễ Xá tội vong nhân, và nhân thể cúng Sao, xin cụ ít đèn dầu để chúng tôi khấn cho hai cụ và cả nhà luôn thể.

Ông thầy ra về không thất vọng.

Lại còn các dì các cậu bên ngoại, những phần tử của đại gia đình may mắn có một người bà con khá giả. Họ nhất định xúm vào chia sẻ, nếu không sợ nó phí đi!

- Chị ơi, nhà em thật là một thằng đểu, hôm qua đánh thua hết sạch cả tiền, lại còn cầm ráo cả vòng vàng quần áo của mẹ con em để gỡ cũng thua luôn.

- Em lạy chị, chị không cứu thì mẹ con em chết mất!

Mẹ Trang mở tủ.

- Dì ơi, nói ra thì xấu hổ quá chừng! Dì nghĩ xem... môi hở răng lạnh... dì giúp đỡ cho mãi rồi, không lẽ bây giờ lại ngồi nhìn hay sao?

Cái tủ kiên nhẫn lại từ từ mở ra.

- Cô Hai, cô phải biết đời xưa mới nói trọng nam khinh nữ, chứ đời bây giờ nam nữ gì cũng bình quyền giống nhau. Tổ Tiên Ông Bà là Ông Bà chung. Trong các anh chị em, chỉ có một mình cô lấy được chồng khá giả hơn cả, cô phải liệu làm sao cho mát mặt Ông Bà. Hiện đất đã có rồi, việc cất nhà thờ, xây lăng cô phải gánh vác...

Thế là số tiền dành để học hành, may sắm của chị em Trang lại có việc cần khác đáng tiêu hơn.

Nhà Trang không ngày nào vắng mặt đội ngũ cô bác chú dì, và cả những người không bà con họ hàng cũng đến để thực hành cái câu “ Một người làm quan, cả họ được nhờ”. Hay là “ Một người lấy chồng quan, cả họ được nhờ”.

Có người như bác “ Chè Xôi Chuối” chẳng hạn, quanh năm chỉ đi tuần các nhà bà con từ làng ra tỉnh là đủ no nê. Bọn Trang đặt cho ông bác họ cái tên ấy thực đúng, vì nhà ai có kỵ giỗ, nghĩa là có chè, xôi, chuối là thấy bóng ông cắp ô đến. Ông thuộc vanh vách nhà ai, ngày nào có giỗ to hay giỗ nhỏ, giỗ ông nội, ông cố, ông tứ đại, ngũ đại, thập đại gì từ 18 đời vua Hùng Vương xa xưa. Nếu con cháu có nghĩ rằng các cụ chết mấy trăm năm rồi chắc đã đi đầu thai ráo cả, không cúng riêng nữa, có nhà thờ của cả họ lo việc phụng sự tổ tiên, thì ông đến nhắc:

- Anh nói mới vô lý chứ! Không có ông bà thì làm sao có mình! Dù không cỗ to bàn lớn, thì cũng phải gọi là có chai rượu, đĩa xôi để vọng nhớ đến công ơn của các cụ chứ! Với lại cúng ra thì còn cỗ để chúng mình làm mấy chén cho vui, cho đậm tình quyến thuộc.

Tuổi trẻ của chị em Trang sống trong cảnh thăm viếng không ngừng, làm cho các cô cũng phải bận rộn chào hỏi, mà cũng rất lạc lõng với đám đông , nên chỉ còn biết chơi với nhau.

Tân, anh Trang ngoài giờ học và làm thí nghiệm trong phòng riêng hay chơi nhạc, những lúc rảnh chỉ thích đạp xe theo một tà áo mầu nào đó mà anh gọi là vận động giải trí siêu đẳng. Trong phòng Tân giăng đầy những dây điện ngang dọc, các đồ thí nghiệm nho nhỏ và Tân thường nói với các cô em:

- Rồi các em sẽ thấy, anh tán người đẹp trong điện thoại mà thành công cho các em xem!

Tuấn, em trai út Trang, những lúc đi học về, giải trí bằng cách xáo trộn các đồ vật. Cái tủ bát chén, cốc, đĩa, cái bàn phấn của mẹ, tủ sách của ba, các đồ lặt vặt, Tuấn cứ dời cái này vào chỗ của cái khác, và khi nào mẹ cần không thấy , cả nhà lại phải tìm cuống cả lên.

Người chị hơn Trang hai tuổi gần như là một tai nạn cho tất cả bọn em về sau này, Trang điểm vào trông cũng khá xinh, nhưng hình như lúc Dung ra đời, được ban phát tính nết, Ai đó ngủ gà ngù gật nên trao cho Dung “ lòng thương em” quá ít.

Mỗi lúc Dung ngồi bên cạnh Ba Mẹ, Trang và các em biết ngay sắp có một cơn lôi đình xảy ra mà nạn nhân chưa biết là ai!

- Ba này, con Trang nó mới nhác làm sao! Con làm việc túi bụi ở dưới bếp mà nó chẳng giúp con chút nào cả. Ai lại cả ngày cứ thu thu cuốn tiểu thuyết trong tay, thiệt là dễ ghét!

- Còn con Huệ, con Hoài nữa, lúc nào cũng chúi đầu làm bài, hừ, làm bài để thi đỗ Ông Trạng cho làng nhờ à?

Thủ thỉ một lúc rồi Dung nhập đề:

- Me ạ, cái thứ áo nhung mới về rẻ quá đi mất, có 50 đồng một áo thôi! Sớm mai này bà Giang bảo con nếu mặc áo ấy thì nổi ghê lắm, có lẽ sẽ đẹp nhất tỉnh!

Và Dung kết luận:

- Ba này, trong tỉnh các ông các bà ai cũng khen phục Ba Me. Họ bảo từ xưa đến nay chưa có ai giỏi như Ba, thực là người biết Chiêu hiền đãi sĩ, đứng đắn công bình, không hề cờ bạc chơi bời gì cả, thực là... thực là... và Me, một người mẹ kiểu mẫu, sau nầy nếu ai lấy được con thì thực là đại phúc.

Đại phúc với ai không biết chứ với các em Dung thì “thực là” đại họa. Với cái tài ngoại giao tấn công rất có phương pháp của Dung, vào đề, nhập đề và kết luận, bao giờ kết quả cũng như ý Dung muốn. Để khen tài tán tỉnh thêu dệt của Dung, các em nàng vẫn thì thầm:

- Sau này nếu chị Dung không đi làm ngoại giao thì phí cả một “ thiên tài”! Chị đã tán thì rắn trong lỗ cũng phải bò ra!

- Ừ, bò ra rồi, nhưng nếu chị Dung bảo nó bò vô thì nó cũng riu ríu bò vô lại mới giỏi chứ.

Thực tình Dung đối với các em bao giờ cũng rất ngọt ngào!

- Thôi, cho em đi chơi đi, trẻ con chúi đầu vào bếp làm gì, khói hỏng mắt! Có gì đâu mà đòi làm giúp. Có mấy chục chiếc bánh chỉ một chốc là xong ngay, đi chơi đi!

Bao giờ cũng thế, Dung muốn vơ tất cả công việc bánh mứt làm lấy một mình, để rồi đến trước mặt mẹ kể công, lau mồ hôi trán kêu mệt, kêu nhọc. Nhất là những lúc làm món gì đặc biệt. Dung đuổi tất cả, từ cô nàng hầu, chị họ, các em, cho đến những người ở gái. Nhưng dù Dung đuổi, mọi người cũng không đi. Họ đứng vây quanh Dung nhất định đòi xem tài bánh mứt của nàng.

Đã thế Dung cũng có cách dấu nghề. Nàng mở ra năm sáu gói bột để trước mặt, nào bột mì, bột gạo, bột sắn, bột hoàng tinh, bột năng, bột nếp v.v... Hai bàn tay ngắn ngủn nhưng trắng và thuôn của Dung nhảy múa giữa các đám bột, gói này một nắm, gói kia nửa nắm, gói nọ một phần, Dung trộn lẫn cả với nhau. Nhìn đám bột cùng màu trắng và để lẫn lộn, Trang nghĩ thầm có lẽ chính Dung cũng không biết gói nào là bột gì, và kết quả sẽ ra sao nữa!

Mỗi lúc Dung bốc một nắm bột , mọi người lại nhao nhao lên hỏi:

- Bột gì thế hở chị? Bột gì thế hở chị?

Trang bật cười bảo:

- Các người muốn học cái bánh “ tả pín lù” làm chi, này nhé một hộp bơ, một hộp sữa, một cân đường, bột nổi, trứng gà. Có ngần ấy thứ thì không cần gì quí lạ cả, cứ nhồi với một nắm đất sét cũng phải ngon, thêm tí va ni, một nắm gì đó và mồ hôi nữa thì tuyệt. Hoài cũng tán thêm:

- Dạ, vừa ngon vừa ngọt vừa béo lại vừa bùi!

Trang vội kéo em lên nhà trên để tránh cái nguýt dài và sự trừng phạt sẽ đến.

Về cái đức tính diện của Dung thì không ai bằng. Tất cả những cái gì tốt, mới đều về phần Dung, còn các em thì cứ lần lượt lãnh đồ thừa.

- Em thì phải nhường cho chị chứ! Các em chỉ ở nhà và đi học, mặc áo vải là được rồi. Áo cũ của chị còn chưa đủ mặc sao?

Một lần có người biếu Me hai cái xắc bằng xa tanh trắng, thêu cườm nổi rất đẹp, Dung muốn giành cả, nhưng Me lấy lại một cái để cho Trang. Kể từ đó Dung nhìn Trang như một đối thủ đáng sợ.

Sau một bữa cơm chiều Dung đưa cho mẹ xem một xấp hàng kim tuyến thêu rất đẹp, kèm theo tấm danh thiếp có những giòng chữ viết:

Em Dung thân mến

Nhân dịp chị về lại Sài gòn không có gì quí mua biếu em, chỉ có xấp hàng kim tuyến này mong em nhận để làm kỷ niệm.

Ngọc Mỹ

Me Trang khen mãi:

- Người Saigòn thực là rộng rãi hào phóng làm sao! Ra đây ở chơi có mấy hôm, về cũng không quên quà cáp. Cái áo này con mặc sang hơn áo nhung nữa đây, đẹp quá! Thôi con đưa thợ may nào giỏi cắt cho khéo nhé!

Trong lúc ấy các em Dung đứng sau bức màn, không thể nhịn ,cười oà cả lên. Hoài bảo:

- Những giòng chữ trong danh thiếp, em viết hộ cho đấy, vì Ba nhận được nét chữ của chị Dung.

Huê cũng bảo:

- Còn cái áo kim tuyến mua ở hiệu Thuận Mỹ mới đến được mấy hôm nay.

Hoài nháy mắt nhìn Trang cười:

- Bao giờ thì đến lượt chị giữ tiền chợ ?

Cái gương nhẫn nhục để rồi phản đối ngầm phải nhường cho Huệ. Ai nhờ làm gì, Me sai làm gì Huệ đều vui lòng làm cả, nhưng làm xong rồi mới phàn nàn than thở riêng:

- Trời ơi nhiều việc quá! Sao tôi khổ thế này hở Trời!?

Còn Hoài, cô em gái nhỏ nhất trốn tất cả các công việc, đi học về nàng chỉ thơ thẩn ngoài vườn chơi một mình, hay cắm cúi làm những bài thơ nho nhỏ:

Hôm nay thầy em ho
Em cảm thấy lo lo
Về nhà nói với chị
Bảo cô mua thịt bò

Chị bảo mặc xác mi
Nói với tau làm chi
Thầy ho thì mặc kệ
Ho chứ chết chóc gì.
.................

Hay để chế nhạo Dung lúc chờ một người bạn đến chơi, Hoài viết:

Chó kêu cũng đủ lòng tươi
Nhìn ra cánh cửa mỉm cười say sưa...

Để dung hòa , Trang không bao giờ từ chối công việc gì rơi đến tay, nhưng cũng không bao giờ nàng chịu làm một mình. Trang chia đều công việc cho mỗi người và tự mình làm một ít. Lắm khi Trang còn là cái mộc hứng đòn. Có lần Trang đang ngồi ở nhà trên bỗng nghe tiếng hỏi nhau ở bếp đưa lên:

- Ai làm vỡ cái bát kiểu cúng nước hở?

Có tiếng nói:

- Chị Trang chứ còn ai!

Trang chạy vội xuống bếp, tay chống cạnh sườn, quắc mắt lên hỏi:

- Ai nói gì tôi đấy? Ai bảo tôi đánh vỡ cái gì đấy?

Người ở gái bảo:

- Thưa chị cái bát kiểu hình Bát Tiên để cúng trà ở bàn Phật vỡ , chị Hải nói chị ………. đấy ạ!

Trang ngẩn người ra:

- Ừ, ừ, ờ, ờ, à phải!

Bọn ở gái, người nàng hầu, người chị họ mồ côi, lúc nào cũng gán cho Trang những cái lỗi nhỏ nhặt, vì họ biết Trang sẽ không từ chối. Đến lúc mẹ mắng , nàng cứ lỳ ra một chốc là xong.
Phượng Các
#9 Posted : Friday, December 17, 2004 3:03:18 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
Chương 2. Đảo Chính, Đảo Chính, Lại Đảo Chính

Trong tất cả những chuyện bất ngờ xảy ra cho một kiếp người, thì ngày 9, tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chánh Pháp ở Đông Dương phải là một bất ngờ kinh thiên động địa. Người ta như nằm mơ vì chỉ qua một đêm mà ngọn cờ Pháp bị hạ, cờ Nhật phấp phới bay. Đầu đường xó chợ đâu đâu cũng nghe hai tiếng Độc lập. Người ta mừng rỡ, ca hát, nhảy múa và cũng ngẩn ngơ không biết có nên tin hay không.

Giấc mơ của toàn dân gần một thế kỷ bị trị, đâu có thể chỉ ngủ một đêm như mọi đêm, mà sáng hôm sau thức dậy bỗng dưng nước nhà Độc Lập.!



Nhiều người tin nồng nhiệt, nhiều nguời nghi ngờ, Họ có kinh nghiệm rằng khi một cái gông cùm cũ được tháo ra thì cái gông cùm mới lại nặng nề thắt chặt hơn. Pháp thực dân ăn bánh mì phó mát. Nhưng Nhật dưới chiêu bài Đại Đông Á lại ăn cơm gạo, nên dân chúng phải chia sẻ hột lúa cắn hai cho ông chủ mới.

Nhật đảo chính thành công. Ba Trang bắt buộc phải từ chức cùng với toàn thể Nội các của Chánh phủ cũ, để cho một chính thể mới thân Nhật lên cầm quyền.

Gia đình Trang thu xếp về quê. Mọi người cứ yên trí sẽ dọn đến Hương Trang, ngôi nhà trải bao nhiêu năm , ba me đã đem hết của cải công sức ra sửa sang xây dựng, mong khi về hưu thì được ở dưỡng già tại đấy.

Ngày xưa rất xưa nó chỉ là một cái nhà gỗ xiêu vẹo trong một khu vườn quá rộng lớn xa thành phố, vì đó là một cái nghĩa địa bỏ hoang lâu đời. Sau mấy chục năm chính thân me trông coi thợ đắp từng viên gạch, lợp từng miếng ngói, xây cất tu bổ sửa sang. Ngày nay nó là một tòa nhà hai từng, mặt tiền giăng ra hai bên như cánh tay xòe. Trên không nhìn xuống thấy hình dạng giống một chiếc máy bay. Trước mặt nhà có hồ nước rất to, gần choán hết cái sân trải sạn. Trước hồ có hai cây Sanh và cây Bồ Đề gốc quấn chặt lấy nhau, cùng lớn lên, tỏa bóng im cả sân trước.

Tòa nhà lại ở trên ba cái dốc cao ngất, trong một vùng ngoại ô có vị trí hành quân quan trọng. Trong hoàn cảnh như thế thì dù ngôi nhà có cất đúng phép Phong Thủy, chủ nhà cũng không có hy vọng được ở lâu.

Quân Nhật đưa giấy “trưng dụng” ngôi nhà làm Tổng Hành Dinh. Trưng dụng nghĩa là mượn không cần trả tiền thuê, và cũng không được từ chối.

Thế là từ đấy số phận của ngôi nhà Hương Trang được làm Tổng Hành Dinh suốt đời , sau mỗi lần đổi mầu cờ.

Gia đình Trang cũng như mọi gia đình tổ ấm bị trưng dụng khác, cuốn gói về quê. Căn nhà thờ Ông Bà tổ tiên mấy chục đời yên tĩnh với khói hương, bỗng dưng bị đám con cháu, ào ào dọn đến làm náo loạn cả lên, suốt ngày chắc là các cụ điếc tai nhức óc...

Thời thế biến chuyển chỉ mới ở giai đoạn đầu. Các lớp học tiếng Nhật mọc lên như nấm mối sau cơn mưa giông; khắp nơi bắt đầu nghe tiếng ơi ới gọi nhau bằng Anatà chưa được nhuyễn, những thiếu nữ tập chải mái tóc bồng tròn cao cao như kiểu tóc của các cô gái Phù Tang cũng chưa thành thạo lắm.

Giai đoạn bánh vẽ Độc Lập tưởng như còn tiếp tục dài dài thì bỗng nhiên Thế Giới Đại chiến kết thúc.. Nhật trong hàng ngũ thua trận, chuẩn bị xếp giáo qui hàng, cuốn gói về đảo. Cuộc tình duyên Việt Nhật dưới chiêu bài Đại Đông Á mới ngắn ngủi làm sao!

Tháng 8, 1945 Việt Minh cướp chính quyền tại Hanội rồi như vết dầu loang…. Một lần nữa giải đất bé nhỏ thân yêu lại đổi màu cờ. Khắp nước toàn dân rợn người bừng tỉnh sau một cơn ác mộng.

Từ đây đi đâu cũng nghe bài hát :
Xếp bút nghiên lên đường tranh đấu
Xếp bút nghiên coi thường công danh
Như phù vân
Sơn hà xao xuyến
Tiến ta tiến.....

Trước kia những cô gái ra đường chân bước nhanh, mắt nhìn xuống đất, và mặt đỏ bừng khi thấy có người lạ nhìn mình, bây giờ không còn e thẹn nữa. Những thanh niên nam nữ chỉ biết có gia đình và trường học bị lùa ra khỏi nhà một cách đột ngột. Ai tuổi từ 15 trở lên, đúng vào cái tuổi “ tiến ta tiến” đều bị cuốn vào trong làn sóng “Xếp bút nghiên…” Các đoàn thể có cái tên “Cứu quốc” mọc lên khắp nơi, từ thành thị đến thôn quê cho tất cả mọi giới, mọi lứa tuổi.

Nhóm họp, khai hội, thảo luận, công tác v. v... suốt ngày và có khi đến 11, 12 giờ đêm. Các bậc cha mẹ xưa nay vẫn sợ con gái mình “ nhẹ dạ” bây giờ chỉ còn cách thở dài, nấu sẵn chè cháo, ngồi chờ con về mở cửa.

Ba Trang vẫn còn nghiện thuốc lá, nhưng đã đổi thuốc nội hóa, mỗi ngày ngồi tự tay vấn điếu thuốc Cẩm lệ ông ngâm nga bài thơ tả cảnh thế giới đại đồng:

Hỏi ông, ông mắc ra đình
Hỏi bà, bà mắc biểu tình đến mai
Hỏi cô, cô mắc Một…Hai…
Hỏi cậu, cậu mắc hát bài Thanh niên
Cả nhà sung sướng như tiên....

Như một lớp sóng bể khi đã lên cao đến bực chót rồi thì phải hạ. Bọt sóng ngọn triều đã nâng lên, khi rơi xuống vỡ nát tan tành.

Đại gia đình Trang, cũng như mọi gia đình khắp nước, bắn tung ra bốn phương trời những đứa con, cháu ở lứa tuổi 16 trở lên, xưa nay vẫn được bảo bọc trong tổ ấm, vẫn còn ngây thơ như một bầy chim non.

Bọn anh chị em Trang ban đầu cũng tản cư như ai, nhưng dần dần tản lạc mỗi người một nơi. Trang đi vào miền Nam cùng với cô em họ buôn bán rất thành thạo nói rằng để tìm ánh nắng ấm, thực ra nàng muốn nhân cơ hội thực hành giấc mộng du học vẫn ôm ấp bấy lâu.

Vào Saigon cô em mở một hiệu may nhỏ trong một căn gác xép, chuyên nhận vá sửa quần áo. Mối hàng khá nhiều, nhưng chỉ một thời gian ngắn có tin quân Anh Pháp Giải giới quân Nhật sắp đến.

Công việc có thành công “dễ như ăn ớt” không, may ra người chỉ huy biết.

Có loạn xà ngầu, nhân dịp cướp của, phá nhà không chỉ có Trời biết.

Không biết người nhưng biết mình, thân phận hai chị em không đủ cứng để có thể “đứng đầu gió “, ai dám bảo đảm hai người sẽ được bình yên trong thành phố với mấy đoàn quân Viễn Chinh.?

“Chính quyền nhà“ đã chìm dần vào bóng tối, chỉ huy bí mật, cai trị âm thầm. Các cơ quan đã dọn vào rừng sâu gần xong, chỉ còn một chút bề mặt chờ ra đi giây phút cuối.

Tạm gọi là biết mình biết người, hai chị em quyết định cuốn gói, dẹp tiệm may, lên đường về quê. Số tiền bán mấy chiếc máy may cộng với tất cả dụng cụ trang bị cửa tiệm, chia nhau mỗi người một nửa.
Phượng Các
#10 Posted : Friday, December 17, 2004 3:04:25 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
Chương 3. Khám Chí Hòa


Trang bị bắt trên đường trở về. Khi xe lửa chưa ra khỏi Saigon Công an lên khám xét vé, hành lý và người để tìm “Việt gian”. Đây là thời kỳ tranh tối tranh sáng, Chưa đến giờ phút cuối, quân Giải Giới chưa đến, Chánh quyền vẫn còn ở trong tay nhóm người vẫn chỉ huy các cơ quan hành chánh trong thành phố. Các Cơ quan Cảnh sát, Công An vẫn còn có súng để thi hành nhiệm vụ giữ gìn an ninh, bắt bớ nếu cần tiền.

Người ta bắt Trang trong lúc cái phong trào “ mò tôm” “ săn nai” đang thịnh hành. Một mạng người trong thời loạn có nghĩa gì đâu! Chỉ một mũi dao phập vào tim, ném một cái xuống sông cho “ mò tôm” là xong! Họ bắt Trang vì trong tay nàng có một số tiền lớn, một số sách học ngoại ngữ và xét lý lịch Trang lại là con quan!

Trời hỡi! Trang tự mắng thầm mình tại sao lại ở trong cái giai cấp không may ấy! Mà ngót mười chín năm trời làm con quan, Trang đã được hưởng những gì, và đã làm ra tội gì?

Trang ngơ ngác nhìn người thanh niên đang ngồi sau bàn viết thẩm vấn, đôi mắt mở to nhìn nàng chầm chập và cố lên giọng quát:

- Tại sao chị có lắm tiền thế, đáng giá những 3 lượng vàng. Chị làm Việt gian phải không? Không nói à? Tôi chỉ muốn dộng cho chị một đạp! Anh Ba giam đầu chị này vào trong khám!

Trang đứng dậy vẫn còn ngơ ngác, đi theo người lính có đeo súng và lựu đạn, bước qua mấy lần cửa sắt, cho đến khi vào một cái phòng tối om, đã có độ hai mươi người đang ngồi khoanh tay ở đấy. Nghe tiếng xích khóa sắt rộn ràng sau lưng, Trang biết mình bị cắt đứt với cuộc sống bên ngoài, ánh sáng và tự do.

A ! Khám Chí Hòa là đây!

Cũng còn may! Cô em không đi cùng, vì phải đợi thu được tiền cái máy may bán chịu, khất tuần sau mới trả nên không bị bắt chung.

Trong phòng giam, Trang ngồi yên lặng, mặc hai giòng nước mắt chẩy dài xuống má. Những ngày xưa lại từ từ hiện ra trước mắt Trang, những ngày sống bên cạnh người cha Trang không hiểu lắm , ông rất nghiêm, mà đôi lúc cũng khá khôi hài mỉa mai, người mẹ có một tình thương bao la đủ chia đều cho cả lũ con cháu của mấy giòng cha mẹ khác nhau.

Sau giờ làm việc công, Ba Trang còn phải bận rộn thu xếp việc đại gia đình, nên ông giao hết việc nhà cho Me Trang là người có một quan niệm riêng về cuộc sống và cách sống. Trang không bao giờ quên được cái cảnh vẫn diễn đi diễn lại mãi mỗi lần cuối tháng:

- Mới tiền học đã lại tiền học à? Học cho lắm được cái tích sự gì kia chứ, cứ “ ngu si hưởng thái bình” có phải hơn không? Khối người có học hành gì đâu mà cũng được làm ông này bà nọ, cũng lên xe xuống ngựa như ai...

Những buổi chiều thấy chị em Trang rỗi việc, mẹ Trang bèn ra sân nhổ cỏ, thế là các cô trông thấy sợ hãi chạy cả ra sân làm theo, mặc dầu đó là phận sự của người làm vườn, và trong lúc ấy thì những người ở gái đứng bên gốc cây hay xó bếp nào đó, nỉ non tình tự với các chú lính hầu trong dinh.

Me Trang càng ngày càng ghét sự mê học của chị em Trang:

- Bộ trứng muốn khôn hơn mén à? Con gái học lắm vô ích, nhiều chữ có nấu chữ mà ăn được đâu, con gái cho học nhiều chỉ tổ cứng đầu cứng cổ, viết thư cho trai chứ được ích gì.

Lúc ấy trong trí Trang tinh nghịch, nghĩ thầm:

- Viết thư cho trai cũng chẳng xấu, nếu đến thư cho trai cũng không viết được, phải nhờ người viết hộ mới xấu chứ.

Đã nhiều lần chú Trang, khi chưa mất, phải can thiệp:

- Chị ạ, trẻ con nhất là con gái chỉ được một thời kỳ ở với cha mẹ là sung sướng mà thôi. Hãy cho chúng nó được hưởng thụ một chút. Đến lúc ra đời biết đâu chẳng gặp cảnh ngộ không may. Lúc ấy cũng còn cái an ủi là đã trải qua được một thời kỳ hạnh phúc lúc còn ở với cha mẹ.

Me Trang trả lời không kém hùng hồn:

- Theo tôi thì tôi có một cách dạy riêng, tôi cho chúng nó chịu trước tất cả các sự cực khổ, khó nhọc, cái khó gì cũng phải biết, cái khổ gì cũng phải chịu. Đấy chú xem cả cái vườn hoa đằng trước, vườn rau đằng sau, toàn là chúng nó tự làm đất vun xới cả. Có thế sau này nó gặp phải cảnh khổ, mẹ chồng hành hạ, em chồng cay nghiệt, nó cũng đã quen rồi mà không cho là khổ nữa.

Ngừng một chốc để lấy hơi, Me Trang lại tiếp:

- Con tôi, tôi phải dạy cho chúng nó vâng lời như trâu, bảo đi đường tắc là phải đi đường tắc, bảo đi đường rì là phải đi đường rì.

Trang biết “tắc” và “ rì” là tiếng người cày ruộng chỉ huy con trâu quẹo trái hay quẹo phải. Trang tinh nghịch nghĩ thầm, mẹ không nói cho biết phía nào là tắc, phía nào la rì , lỡ mình quẹo lầm thì sao ?

Lâu dần, Trang cảm thấy hình như mình cũng tuân lệnh “tắc rì” như ý Me muốn , nhưng không biết trong đầu óc trâu thật có suy nghĩ gì không, và có biết phản đối ngầm như Trang không? Trang cũng không biết là mẹ nói đúng hay chú nói đúng, chỉ biết ngẫm nghĩ tại sao Trang lại phải ra đời không cầu ? Và tại sao lại ỡ giữa cả một bầy con gái “không cầu” ?

Trong khi xót xa cho mình như thế, Trang lại còn phải xót xa giùm cho những ông anh họ hay bà con, và phải lấy dầu xoa giúp những vết roi thâm tím; vì cứ mấy tuần một lần, các ông ấy lại bị bố đánh một trận về tội trốn học đi chơi. Thật là mỉa mai, còn chị em Trang muốn học bài hay xem sách thì phải đợi đến đêm khuya, những đêm mùa hạ nóng dịu dàng và tiếng còi xe lửa vang lại như tiếng nhạc lên đường. Hay những đêm đông mưa dầm rả rích, Trang ngồi dựa lưng vào tường thở hổn hển nhọc mệt tay cầm cuốn sách đọc mười hiểu một. Trí óc nàng cũng không nghĩ ra được điều gì mới lạ, nhưng cảm thấy hình như mình không sống trong hiện tại.

Sự thực tình thương con của me Trang cũng rất nồng nàn, nhưng tình thương ấy chỉ biểu lộ ra với những đứa ở xa. Những lúc ăn, lúc ngủ, không lúc nào me Trang không nhắc :

- Giờ này nó ở đâu? Làm gì? Có khỏe mạnh không? Có túng thiếu không?

Muốn được me thương đã nhiều lần Trang nghĩ đến chết, hay là đi thực xa, đi biệt tích để cũng được thương được nhớ như thế.

Có nhiều đêm, chị em Trang thức khuya nói chuyện, những câu chuyện vô đề và hình như không bao giờ dứt, Dung tả hình dáng những anh chàng ngấp nghé muốn “ xin bàn tay” nàng:

- Ông Tú béo lùn, lại đen nữa, thực giống hệt một con vịt bầu, mình đã lùn ông ta lại mới đứng ngang vai thôi, nếu mình lấy ông đẻ con ra thì cho ăn hết cơm hết gạo, đo đi đo lại cả ngày chỉ được một thước là cùng!

Còn cái thằng bé Ngọc, hắn viết cho chị một bức thư giấy màu tim tím mở đầu là “ Je soussigné…..” (tôi ký tên dưới đây) như đơn xin việc làm!

Hoài cắm cúi viết một lúc ngẩng lên bảo Dung:

- Chị Dung, bài thơ này chị phải tặng em hai bát phở mới được. Thực là một áng văn tuyệt tác để trả lời cái đơn je soussigné...

Như ông có đói lắm tôi mời
Đúng sáu giờ mai lại ngõ tôi
Thằng nhỏ tôi sai chờ ở đấy
Một nồi cơm nguội để ông xơi...

Huệ đang vẽ những hình ba góc, vuông tròn trên bàn, ngẫm nghĩ mãi hỏi:

- Tại sao me lúc nào cũng chăm chăm đòi cưới vợ lẽ cho ba nhỉ?

- Nó là một biểu tượng tỏ ra mình không ghen chứ gì

Hoài ngớ ngẫn:

- Thế sao đàn ông không làm thế để tỏ ra họ cũng không ghen nhỉ?

Huệ lại tiếp:

- Ừ, tại sao người ta cứ phải ghen ? Nghe mãi những câu chuyện đánh ghen phát chán. Khi người chồng thích gì thì bổn phận và tình yêu làm cho người vợ phải chiều chứ. Chồng thích vợ lẽ sao lại cấm đoán, bắt bớ thế là làm khổ chồng, là ghét chồng chứ đâu có yêu chồng.

Trang nhìn em cười:

- Thế còn Huệ ngày sau chắc là chịu chiều chồng kiểu đó ghê lắm.

- A, a, cái ấy không chắc, đó là nói chơi cho vui vậy thôi. Ai tin thì phải có nhiều lúa giống để đổ ra mà ăn. Kìa Hoài viết gì thế?

Hoài thản nhiên:

- Em đang tính hộ sổ chi tiêu cho thầy.

Dung nguýt dài:

- Sổ chi tiêu của thầy thì đã có cô tính, việc gì đến Hoài, rõ khéo.

- Em biết rồi, không phải việc của em, nhưng đàn bà ích kỷ lắm. Nếu để cô tính thì tiền phấn son nước hoa của cô còn thừa, còn tiền cine, rượu và cô đầu của thầy không có? Em tính xong đánh máy tử tế mai đưa cho thầy, để thầy phát cáu chơi.

- À này chuối bao nhiêu tiền một nải nhỉ?

- Lại làm đến bài toán chuối phải không? 5 hào chớ mấy.

- Thế mà nải chuối chúng mình ăn lúc chiều me phải trả đến 20 đồng đấy nhé

- Ở bên Nam Mỹ châu gửi sang bằng máy bay có bảo đảm phải không?

- À, thôi phải rồi, lại chuối của mụ Lé mang đến và tán me:”Bẩm cụ tối hôm qua con nằm mơ thấy cụ bà bay, chà bay cao quá, chắc sau này thế nào cụ cũng thành Phật thành Tiên chứ không phải tầm thường”

- Thế là móc được túi me 20 đồng phải không?

Trang thở dài:

- Quê ta thật lắm nhân tài.

Câu chuyện cứ nhảy từ chỗ này sang chỗ khác cho đến lúc mọi người đi ngủ cả, Trang vẫn không ngủ được. Trang lúc nào cũng hình như băn khoăn thắc mắc một cái gì, ước ao một cái gì mà chính nàng cũng không tự biết. Trang thấy cuộc sống bấp bênh làm sao ấy. Ngày mai có thể có một sự gì lạ, hay một tai nạn gì xảy ra. Ngày mai có lẽ sẽ không giống như hôm nay. Trang không tin tưởng, nhưng sự thực thì ngày nào cũng giống ngày nào.

Ba Trang vẫn mê sách báo, thuốc lá và trầm ngâm khó hiểu, nhưng câu chuyện cuả ông đôi khi không kém hài hước.

Một hôm đang ăn cơm, bỗng nhiên me Trang bảo:

- Ông cụ Phú thế mà biết quý vợ đáo để, hôm qua ông ấy nói với bà vợ trước mặt tôi:” Nếu có ai đúc một con người vàng, to bằng người thực đổi mình tôi cũng không đổi”.

Ba Trang bật cười bảo:

- Thế sao mình không hỏi:” Nhưng nếu là một con người bằng xương thịt thực, chứ không phải bằng vàng, trẻ hơn cụ bà những 25 tuổi, và chỉ béo bằng nửa cụ bà thôi, thì cụ nghĩ sao?

Chị em Trang đều cười để ủng hộ ba, còn me thì có vẻ tức bực lắm nhưng cũng phải gượng cười theo cho đúng nguyên tắc “Bắt không được, tha làm phước” Hay” Một sự nhịn chín sự lành.” Mẹ luôn luôn muốn làm gương cho các con.

Ngày lại ngày, me Trang vẫn tần tiện trong nhà để tiêu vào những việc khác như cúng các chùa, sư, vãi, giúp đỡ các bà con, trả tiền xe cho những họ hàng từ nhà quê ra mang một nắm rau, hay mấy quả cà đến thăm, và vẫn cố hết sức làm cho các con mình được nếm đủ các thứ khổ để cho nó quen đi, sau này nếu có khổ cũng không cho là khổ nữa.

Dung và các em không hay tranh giành nhỏ nhặt như các chị em gái xấp xỉ ngang nhau thường có, tạo ra một bức tranh gia đình hòa thuận, không cố ý nhưng cũng khá đẹp.

Trang vẫn cứ ao ước những cái không được phép trong gia đình và lắm khi cũng không tự biết mình thực thích cái gì. Trang vẫn ốm, vẫn trằn trọc, vẫn thu thu cuốn sách trong tay. Nhìn những giòng chữ nhẩy múa quay lộn, mà tâm trí phiêu lưu.

Đấy cuộc đời con quan, nhung gấm của Trang là như thế đấy. Giờ phút này Trang thấy tất cả mọi thứ đối với nàng đều không có nghĩa lý gì. Cả đến cái cảnh Khám Chí Hòa, trong căn phòng nhỏ hẹp, mấy chục nạn nhân đàn bà nằm dồn lên một chiếc bệ thực dài xây bằng xi-măng lạnh lẽo bên cạnh cầu tiêu, Trang cũng không cho là khổ sở hay khó chịu nữa.

Đêm khuya, ngọn đèn dầu bé nhỏ để trên cầu tiêu tỏa ra một ánh sáng mờ mờ lập lòe, Trang lại thấy tức thở, lại thấy như cái gì chặn đè ở ngực. Trang bứt rứt khó chịu lại phải ngồi dựa lưng vào tường.

Các phòng giam bên cạnh vẫn còn người thức, đưa sang những giọng ca khe khẽ, não nùng của đủ các xứ, vọng cổ, sa mạc, ca Huế.

Sáng ngày không có lược chải đầu, tóc Trang rối bù xổ xuống tận vai. Trang đứng tựa vào cửa song sắt nhìn ra ngoài. Các phòng giam đối diện có tiếng:

- Kìa, con sư tử của vườn bách thú cũng đã được dời vào đây.

Trang chắc lúc ấy trông nàng cũng giống hệt một con sư tử bị giam.

Lúc đến giờ ăn cơm , mọi người được ra khỏi phòng đi vòng vòng trong sân mấy phút, Trang đang rửa bát bỗng nghe tiếng:

- Ô kìa chị Trang, sao chị lại vào đây?

Thấy Trang có vẻ ngẩn ngơ, người ấy tiếp:

- Tôi là Khanh bạn của Tân, tôi vẫn thường đến chơi đằng nhà luôn đấy mà, chị còn nhớ bông Thược Dược giấy Tết năm ngoái không?

Trang đã nhớ ra, nàng cũng hỏi lại:

- Thế còn anh tại sao anh cũng vào đây?

- Tôi vì đeo chuỗi hạt đạo, tôi đoán thế.

- Còn tôi thì chưa đoán ra.

Trang trông hình dáng người bạn trai bẩn thỉu tiều tụy, thực không hề giống chàng thanh niên anh tuấn đến chơi với anh nàng tý nào. Trang bỗng buồn cười nhớ đến Tết năm ngoái, hoa Thược Dược trắng ở nhà nàng nở chậm, chị em Trang bèn làm hoa giấy cột vào cây nhựa bằng len vàng. Và cái anh chàng ngớ ngẩn này đã vớ lấy một bông ngửi và khen mãi là thơm quá.

- Kìa chị Trang, ai cho phép chị vào đây để đọat chức hoa khôi khám vàng của người yêu tôi hở chị?

Lại gặp người quen.

- Chị Trang.

Một thanh niên đứng tuổi, râu mép rất đạo mạo miệng ngậm một cái vú cao su giả của trẻ con chơi chạy đến. Trang nhận ra là ông Yên, một thầy bói sáng.

- Kìa Giáo Sư Yên. Ông.. thèm sữa đấy à ? Ông định vào đây sinh cơ lập nghiệp phải không?

- Không ạ, tôi có thèm sữa đâu. Tôi mua cái vú giả này về cho con chơi chẳng may bị bắt giữa đường, tôi ngậm cho đỡ buồn, đỡ nhớ. Tôi bói dùm cho cô một quẻ nhé, không lấy tiền đâu.

Trang cười:

- Thôi xin cảm ơn Giáo sư, ông hãy tự bói lấy một quẻ bổn mạng đi đã, nhưng sao ông lại vào đây nghỉ mát thế.

- Tôi có giấy chứng nhận của “ Thanh niên ái quốc đoàn”.

Và ông thở dài:

- Nào tôi có biết là mình không được phép ái quốc đâu.

Tối đến, một bà già đạo mạo nằm bên cạnh Trang tự giới thiệu:

- Tôi là người của đảng Đệ tam quốc tế, Cố vấn chính trị tham gia quân sự, kiêm đoàn trưởng Phụ nữ Tiền Phong. ở tỉnh Bàrịa.

Trang hỏi ngơ ngẩn:

- Thưa bà thế bà vào.... chơi đây ạ?

- Không, đoàn phụ nữ của chúng tôi không có gạo ăn, tôi bèn cho đi “vay” ở các sở, đồn điền cao su, các nhà giàu. Đến lúc các đồng chí thanh tra ngoài Bắc vào họ bảo tôi tham ô nên...

- À ra thế, thế thì bà chính trị giỏi lắm nhỉ, nhân tiện ở đây rảnh rỗi thế này, xin bà giảng một ít cho chúng em mở mắt ra nhé.

- Được các chị cứ hỏi đi, hỏi đâu tôi trả lời đến đấy!

Trang ngần ngại một lúc bảo:

- Thế bà giảng Tam dân chủ nghĩa của Tôn Dật Tiên cho chúng em nghe trước đã, rồi dần dần sẽ giảng các thứ khác sau.

Bà tằng hắng:

- À, tam dân à, tam dân.. tam là ba, dân là dân. Tam dân là dân có ba thứ: một là quan, hai là nhà giầu, ba là dân thường.

Thấy bà nói không cười, Trang choáng cả người.

- Thưa bà thế Tam dân không phải Dân tộc, Dân quyền, Dân sanh sao?

- À, à, cái ấy thì tôi không để ý đến.

Một cô gái trẻ tuổi nằm ở cuối giường, bị bắt về tội lấy chồng Nhật, ngồi nhổm dậy bảo:

- Bây giờ tôi mới biết đấy, mới nghe nói cứ tưởng Tam dân là dân da đen như Chà Và, Ấn Độ bán vải, dân da trắng như tây lính Lê dương , dân da vàng là người mình, Tầu, và Nhật, kia đấy.

Tối hôm sau, Trang không dám hỏi thêm nữa, vì sợ bà dạy đến bài Ngũ quyền là quyền lấy vợ lẽ, quyền đẻ con nhiều, quyền đi đánh bạc v. v... Bà hẹn nghỉ một hôm, tối hôm sau bà sẽ giảng thuyết Tam Nhân chủ nghĩa của bà nghĩ ra: thế nào là Thằng người, Cái người và Con người. Nhưng sáng hôm sau, một chiếc xe hơi đến chở bà và một số người nữa đi đâu không biết. Trang cũng không tiếc vì nàng đoán Tam nhân của bà có lẽ là giống đực, giống cái và giống tự nhiên như trong văn pháp tiếng ngoại quốc chứ gì.

Ở trong tù được 6 hôm, Trang đã quen với chiếc giường xi-măng lạnh lẽo, quen với mùi cầu tiêu, quen với món cá mắm thối và cơm lẫn sạn. Trang đang dự định một cuộc sống dài hạn trong cái hoàn cảnh này thì đến hôm thứ bẩy, bình nước lã không thấy đưa vào nữa. Thì ra Ủy ban, Chánh phủ và tất cả các nhân viên giữ khám Chí Hòa đã rời nhà tù, tản cư vào rừng sâu từ đêm khuya, bỏ rơi hơn một ngàn tù cũ phạm đủ các thứ tội, lẫn tù mới không biết tội gì. Trọn một nhà tù để lại làm quà tặng cho quân Anh Ấn đang tiến vào thành phố giải giới quân Nhật..

Thế rồi trong phút chốc tiếng xe thiết giáp ầm ầm vang dội ở bên ngoài. Một số ít tù nhân lâu năm vẫn được ra vào xách nước nấu cơm, dùng vồ đánh vào khóa sắt từng phòng, rồi lại dùng song sắt xoi thủng một lỗ tường thành của nhà tù.. Từng người từng người chui ra...Đầu ra trước có người kéo, chân ra sau có người đẩy qua cái lỗ phá ở vách tường hơi chật.

Ánh sáng đây ! Không khí đây! Tự do đây!

Ra khỏi tường thành, mạnh ai nấy chạy, tản mác nhanh như biến. Kẻ qua sông, lên tỉnh, vào thành phố, người về quê. Trang theo một bọn bạn gái tù chạy thẳng vào rừng, lối sang Thủ Đức. Trang sung sướng nhìn ánh nắng tuơi, nhìn rừng cây xanh, nhìn từng chiếc lá cây ngọn cỏ, lòng đầy hân hoan cho đến khi thấy bụng đói thì mới nhớ ra rằng mình chỉ là một tên tù vượt ngục. Nhà ở tận miền Trung xa xôi đã bị cắt đứt đường giao thông. Tiền Ủy Ban hay Chính phủ giữ hộ cho, nhưng lúc bỏ rơi Trang lại, nhà nước không nghĩ đến chuyện trả lại. Tự do giờ đây Trang đã có nhưng chỉ là một thứ tự do chết đói mà thôi.

Một cô bạn gái trong tù về tội không tham gia hội Phụ nữ Cứu Quốc, đưa Trang về ở tạm nhà cô, mỗi đêm Trang phải xay một thau gạo thành bột để làm hai rổ bánh, một rổ bánh bò cho cô, và một rổ bánh đúc cho Trang. Ngày ngày trong bộ quần áo gái quê, hai cô mang hai rổ bánh lần mò vào các rừng có chợ, có bộ đội đóng, hay có các cơ quan mới tản cư đến để bán, nhân tiện dò hỏi theo vết chân của “chính phủ” để đòi tiền lại.
Phượng Các
#11 Posted : Friday, December 17, 2004 3:05:30 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
Chương 4. Cá Chậu Chim Lồng


Đến hôm thứ sáu thì Trang tìm được cái Cơ quan đã bắt nàng.

Bọn họ ngao ngán không biết tính sao, lần này không bắt Trang nữa, nhưng rất khó xử vì thấy rằng kẻ tù nhân vô tội đã thoát ra, còn tìm trở lại đòi công lý thì biết làm sao đây? Thả Trang họ không muốn vì sợ Trang về thành phố chỉ điểm tung tích cho quân địch. Tiền bạc của Trang họ không trả lại vì chắc đã chia nhau hết cả rồi. Trong khi lấy cớ đợi lệnh của “cấp trên” Họ “mời” Trang theo cái cơ quan bắt người ấy như hình với bóng, dời đi đâu cũng đem Trang theo. Trang không phải là tù nhân, mà cũng không phải là nhân viên. Trang làm việc như chiến sĩ, mà không được coi như chiến sĩ. Trang là công dân vô tội mà không được tự do. Một thứ nô lệ kiểu mới? Không có giây xích ở cổ nhưng tên nô lệ được hứa một ngày kia sẽ được về miền Trung, tiếp tục chuyến đi về quê không thành.

Suốt mấy tháng trời màn trời chiếu đất theo Cơ Quan nay đây mai đó, trốn chui trốn nhũi vì quân Pháp đang lùng riết. Hai công tác quan trọng nhất của tất cả mọi người là Chạy và Gạo. Chạy vắt giò lên cổ khi nghe tin Pháp sắp bố ráp, rồi khi đến một vùng an toàn hơn thì lo kiếm gạo nấu cơm.

Trong cái cảnh sống quản thúc vô lý, Trang tưởng như mình không bao giờ quên được những nắm cơm khô nhạt, ăn vội vàng rồi cúi đầu vào vũng nước bên đường uống lấy uống để. Vũng nước đọng bẩn thỉu đầy những nòng nọc và bọ muỗi, nhưng sau bao nhiêu ngày lạc lõng đói rét trong rừng, người bác sĩ cùng đi cũng uống, nên mọi nguời đều tranh nhau uống.

Có những đêm tối mù mịt cả đoàn người phải lần mò đi trên cầu xe lửa, chỉ sẩy chân một bước là rơi ngay xuống lòng sông, những đêm người được gọi là liên lạc đã đưa bọn họ đi lưu lạc từ rừng này sang rừng khác, cho đến khi chính người ấy cũng ngẩn người ra không biết đấy là chốn nào. Nếu được nghỉ một chốc, bọn con gái đi theo đoàn liền ngồi bệt ngay xuống đất, xoa bóp những bàn chân trắng trẻo mềm mại đã bị đỏ chủng cả lên, chỉ động vào một tí là đau nghiến như kim châm, nhưng vẫn phải chạy không kịp thở, khi nghe tiếng súng bắn gấp bên tai.

Này quận Tân Uyên, thôn Tân Nhuận, mặt trận Lạc An, sở Ông Đội, thác Trị An...

Lúc nào Trang cũng được đi ngay hàng đầu, sau bước chân của người liên lạc dẫn đường. Bọn họ đã có kinh nghiệm về sức khỏe bốc đồng của Trang, nếu họ để Trang đi vào đoạn giữa, Trang sẽ cắt đứt mất với đoạn đầu, và nếu để nàng đi cuối cùng thì có lẽ cọp sẽ tha mất lúc nào không biết. Có khi Trang dâng lên một cơn suyễn hơi thở hổn hển, phổi đau như xe,ù lưng mỏi gần như cúi gập xuống, chỉ muốn ngả lăn ra bên đường.

Một đêm người Trang như say, cứ theo đà bước những bước chân liều lĩnh như mọi người không hề nghĩ ngợi , bỗng nhiên có tiếng gọi giật:

- Chị Trang!

Trang giật mình hốt hoảng:

- Gì thế anh? Phục kích phải không?

Tuấn, một chính trị viên lém lỉnh, lắc đầu cười chỉ tay lên trời:

- Trăng mờ!

Trang tuy tức giận Tuấn đã làm nàng giật mình vì cái hồn thơ lai láng không phải lúc, nhưng nàng cũng phải nhận cảnh rừng lúc ấy đẹp lạ lùng. Ánh trăng mờ mờ xanh xanh rất dịu dàng, và bóng lau trắng xóa runh rinh từng đám từng đám, dồn dập như những luồng sóng... nhưng đoàn người vẫn cứ im lìm đi ra khỏi rừng.

Tuấn lại đùa:

- Thấy trăng mờ mà nghĩ đến người mơ phải không?

- Không, tôi đang nuốt nước bọt đây.

- Lại nhớ đến sâm banh, bơ, sữa, phó mát?

- Không tôi đang nghĩ đến hôm qua, lúc đi ngang chợ ở rừng cao su trông thấy một người đàn bà mua cho đứa con gái bé một hào xôi đậu, tôi thấy ao ước giá có mẹ tôi , hay ít nhất cũng có một hào bên mình thì sung sướng biết bao nhiêu.

- Nhưng tôi nghe nói chị có một món tiền kếch sù cũng đáng được đào mỏ lắm cơ mà.

Trang bật cười:

- Thế thì thất vọng to rồi, số tiền ấy Ủy ban tỉnh đã giữ hộ cho tôi rất cẩn thận. Cất kỹ đến nỗi không làm sao tìm thấy lại được Ai muốn đào mỏ tôi chỉ sợ toi công gẫy cả cuốc thiệt đến vốn nhà thôi.

- À thế thì tiền của chị đã được cất vào một nơi gọi là “vô thiên vô địa” rồi !

- Ở đâu vậy anh?

Tuấn cười sằng sặc:

-Sao chị ngây thơ quá vậy? Vô thiên vô địa là ăn vào bụng hết rồi , tiêu mất rồi. Nhưng chị lấy đâu ra lắm tiền thế? Ăn cắp của nhà phải không?

- Nhà tôi làm gì có lắm tiền cho tôi ăn cắp chứ.

- Thế thì làm gián điệp cho Anh, Mỹ?

Trang tỏ vẻ khinh bỉ:

- Tôi không tin là tôi giỏi đến thế.

- Nhưng sự thực là chị đã có một số tiền làm cho chúng tôi thèm rõ dãi.Trời ơi, đáng giá những 3 lượng vàng.

- Có nghĩa lý gì đâu. Một chiếc kiềng với hai đôi xuyến là có thể quá 3 lượng rồi. Con gái nhà ai chẳng có.

- Tôi đoán chị cần tiền nên bán ra phải không? Dù sao tôi cũng khen chị đã giữ của được khá lâu. Chung quanh nhiều kẻ cắp quá mà không phải ai cũng là bà già cả.

- Tôi xuýt bị mất cắp mấy lần. Thoát được không phải vì khôn mà vì may. Nhưng cũng có lẽ nếu được mất đi lại hay hơn. Của đi thay người mà !

- Trông chị yếu xìu như con gà mắc mưa thế kia chắc không phải là một vụ đánh lộn để cướp giật.

- Không. Tinh vi hơn nhiều. Tôi có cô em họ rất giỏi buôn bán. Hôm ấy cô em muốn dùng ghe vì số hàng cồng kềnh.

- Chị mà tập buôn bán tôi không biết coi tướng cũng thấy điềm “ Bán lúa giống” mà ăn.Tôi không đọc được hai chữ buôn bán trên mặt chị. Ai định lừa chị ra sao? Không phải là cô em họ chứ?

- Không. Chuyến ghe bầu đi Huế Đà Nẳng ấy chỉ có độ mười người đàn bà. Ai cũng nói là xe lửa bây giờ quân Nhật chiếm hết các toa tốt. Những toa hạng tư họ cũng lấy gần hết để chuyển thương binh không biết từ đâu về. Kinh khủng quá, nếu gặp họ trên xe lửa lắm khi cũng hay bị trêu ghẹo bất ngờ.

- Nhưng ai muốn lừa chị như thế nào?

- Tôi cũng không chắc là có chuyện lừa đảo. Trên thuyền mấy bà già trầu kia cứ ngồi nói chuyện cướp giật. Nhất là chuyện cướp thuyền buôn. Họ nói bọn cướp chuyên môn tìm thuyền chở đàn bà con gái, lột hết nữ trang tiền bạc, rồi còn gì gì nữa nhiều lắm. Rất cuộc họ rủ chúng tôi gói tất cả kiềng vòng nữ trang lại, bỏ vào trong lu nước chung với họ. Nếu không may gặp cướp thì chúng chỉ soát người chứ không ngờ là nữ trang vàng bạc dấu trong lu.

- Cô em họ tôi có vẻ tin lắm cứ nhìn tôi gật gật như tán thành muốn làm theo. Tôi cứ phớt tỉnh. Không phải vì khôn ngoan gì cả. Chỉ không biết tại sao trong óc tôi không ghi nhận được thảm cảnh ấy. Sáng hôm sau thuyền đến bến bình an. Các bà vớt gói vàng bạc dấu trong lu nước ra chia nhau. Hai chị em tôi chỉ mỉm cười vì chiếc kiềng vàng một lượng của mỗi đứa vẫn còn nằm yên dưới áo cổ cao không ướt.

- Tôi thấy hai cô chì quá cở. Đêm khuya thân gái dặm trường, bộ cô em có bản lĩnh, hở ? Nếu họ đánh tráo đưa cho cô một chiếc kiềng vàng giả thì sao? Hai cô giỏi quá !

- Trang cười:

- Nói thực “ Điếc không sợ súng” hay là gặp May thì đúng hơn.

- Thế cô em bây giờ ở dâu?

- Tản lạc khi tôi bị bắt. Có thể cũng đang ở trong một nhà tù nào đó.

- Chắc cô có dự định gì khác hơn làm giầu’

- Trang bâng khuâng:

- Có lẽ. Tôi muốn đi thực xa, đi học một cái gì chính tôi cũng chưa biết. Thế còn anh? Tại sao anh lại dám nói chuyện với tôi?. Anh được lệnh dò xét thêm bí mật phải không?

- Quả thực có lệnh ấy. Nhưng tôi cũng thấy vui khi thi hành nhiệm vụ. Tôi phải phụ trách đi theo đoàn người này để chuyển giao cho Ủy ban ở vùng Phan Thiết, nhưng tôi tình nguyện đi để khỏi tham gia một công tác khác. Cha mẹ tôi không thuộc thành phần ba đời bần cố nông , giờ này chắc đang “được” ....hỏi thăm sức khỏe.

- Trang nghĩ thầm; Giọt nước mắt của cán bộ. Của quí. Anh này chắc chưa nhiều tuổi đảng, mà mới là một thanh niên theo tiếng gọi “Xếp bút nghiên”…

Cả đoàn người cứ đi lang thang như thế cho đến khi đến một làng cạnh bờ biển Mũi Né, và được chuyển giao cho một nhóm người khác chỉ huy. Nghỉ ngơi được mấy hôm, một buổi sáng lúc Trang còn đang ngủ, bỗng giật mình nghe tiếng súng nổ quanh vùng. Trang vội dậy theo mọi người vừa đi, vừa chạy, vừa té nhào để xuống bến ngay cổng sau trụ sở, nơi đã có nhiều ghe neo sẵn. Từng người, từng người lần lượt len lén lội xuống nước, tay lần theo sợi giây buộc sẵn để trèo lên một chiếc ghe lớn cắm neo cách bờ không xa, định cứ thế chèo trốn ra khơi. Nằm nép xuống gầm ghe, Trang lắng nghe tiếng súng nổ, nhiều viên đạn xuyên qua mui ghe, có lẽ quân Pháp đã vây chặt và đã trông thấy ghe nàng chèo nhanh có vẻ khả nghi.

Mọi người bắt đầu bàn tán tìm cách đổi ghe. Họ ngừng chèo, một người nấp sau mui ghe nhảy xuống nước mang theo một đầu giây thừng, lặn sang ghe bên cạnh cách nhau hơi xa, buộc đầu giây vào với ghe bên kia. Họ tranh nhau xuống trước, thân mình cố chìm sâu, tay lần theo sợi giây thừng. Không tranh dành nên Trang là người cuối cùng, lần được sang đầu giây bên kia thì thắt giây đã bị cắt. Trang đành phải nổi lên mặt nước và ngay trước mặt nàng, một chiếc ghe có những mũi súng đen đang chờ đón.

Tất cả đều bị giải lên bờ. Bộ áo quần mỏng ướt sũng dán sát vào người làm Trang thấy ngượng nghịu. Một Sĩ quan Pháp vào lục soát ngôi nhà cạnh đấy lấy một chiếc chăn dầy quấn vào người Trang lùa Trang xếp hàng theo với đám người bị bắt.

Trang lặng yên ngồi bệt xuống đất, đầu cúi gầm như mọi người. Thì ra quân Pháp có mật báo một nhóm người Bắc tiến đã đến trụ sở của du kích địa phương, và trong đó có cả một bà “bạn thân” của Đại Tướng Nguyễn. Bà được hộ tống ra Bắc, vì lý do chính trị hay gia đình, chỉ có cán bộ cao cấp biết thôi.

Quân Pháp đã có kế hoạch hành quân rõ ràng, họ bao vây cả làng đánh cá và đến ngay trụ sở của Ưy Ban để bốc luôn một đám mấy trăm người.

Tất cả đều ngồi bệt xuống đất hai tay để lên đầu trên một bãi cỏ rộng. Trong số vàng thau lẫn lộn ấy có cán bộ, có quân du kích, có lính Nhật, có dân chài lưới đánh cá trong làng và có cả những tù nhân vô tội bị giải đi nơi khác. Nhiều người lính Pháp rảo vòng quanh canh chừng, một đám khác đứng lại chỉ trỏ bàn tán có lẽ họ đang nhận xét bên ngoài để chia thành phần. Giữa đám phụ nữ chài lưới khỏe mạnh, cao đen, Trang bé nhỏ da trắng tóc dài thực không giống ai. Những đôi mắt xanh non, xanh thẳm chiếu vào nàng không ít.

Phơi nắng từ sáng đến trưa, đợi lúc bọn lính Pháp tản mát đi ăn, một người thông dịch viên Việt Nam vờ đến đưa cho Trang một cốc nước, hỏi khẽ:

- Cô có quen ai làm việc dưới tỉnh Phan Thiết không?

- Tôi quen với ông Phùng hồi xưa. Ông ấy từng làm việc dưới quyền ba tôi.

Tối hôm qua tình cờ Trang nằm ngủ ở phòng bên cạnh, nghe được nhà chủ cũng là Trưởng ban gì đó khai hội. Họ kết án Ông Phùng là Việt Gian vì ông đã chịu ra làm việc với quân Pháp, và họ định ám sát ông. Trang nghe lõm bõm tên ông với chức vụ nên mới biết được.

- Ông Phùng bây giờ làm to lắm, vậy lúc họ hỏi cô cứ đòi gặp ông ấy. Họ cho phép, tôi sẽ đi mời ông ấy ngay, đừng để bị giam một ngày nào cả. Nếu ông ta chịu bảo lãnh nhận ra, thì mọi sự sẽ bình yên.

Không biết có phải nhờ mẹ tu nhân tích đức, xưa mẹ ở hiền nên nay con mới gặp lành. Trang cảm ơn Trời Phật, cảm ơn mẹ, và cảm ơn người thông ngôn Việt Hoa không quen biết, đã gánh chịu tiếng Việt Gian để tìm dịp giúp những người vô tội.

Không biết chị Hạnh, Người yêu của Đại Tướng Nam Bộ có được cái may mắn như Trang không. Suốt thời gian băng rừng vượt suối, Trang không ngờ là mình tháp tùng đoàn người hộ tống một nhân vật đặc biệt. Và mục đích của chuyến đi có lẽ cốt để đưa chị Hạnh về quê. Vì Trang cũng xin về quê nên được tháp tùng. Những “bí mật quân sự “ này cố nhiên không đến phần Trang hiểu nổi.

- Suốt cuộc hành trình, Chị Hạnh cũng ăn mặc mặc đơn sơ, không phấn son như mọi người. Chỉ khác là khi cắm trại nơi chị ngủ được vệ sĩ Nhật canh gác. Chị có một cô thông ngôn vì vệ sĩ của chị toàn là lính Nhật. Đó là những Samurai của xứ Phù Tang không chấp nhận sự đầu hàng của Nhật Hoàng nên đào ngũ vào rừng với một số súng ống đạn dược đem theo tặng quân kháng chiến.

Quả nhiên cái thành phần không giống ai hơi ít ỏi nên Trang được thẩm vấn trước. Sau khi biết được lý do tại sao Trang lại ở trong cái ổ của du kích, quân Pháp gọi điện thoại ngay cho ông Phùng chủ tỉnh và ông Công Sứ cũng từng làm việc chung một tỉnh với ba Trang. Họ là những viên chức thời Pháp thuộc, đã kè kè ngay sau lưng quân Giải Giớí Anh. Xong thủ tục giải giới là quân Anh giao ngay bản đồ và súng ống cho quân Pháp dàn dựng lại, người cai trị cũ, bổn cũ soạn lại không mất công gì cả.

Hình như cuộc điện đàm đã thành công, nhóm thẩm vấn được lệnh phải đối đãi với Trang theo phép lịch sự của người văn minh.

Tối hôm ấy Trang ăn bữa cơm tù Tây một mình trong một căn phòng của ai không biết, chắc bị bắt buộc phải nhường cho Trang dùng tạm. Trang nhớ đến tối qua lúc cả bọn lâu la đang vây quanh mâm cơm tù ở trụ sở của Ủy Ban, chỉ có mắm tép với cơm nguội, thì chị Hạnh ngồi một mình một cỗ với món thịt chó Ủy Ban đặc biệt chiêu đãi khách quí. Trang chưa bao giờ trông thấy ai ăn thịt chó, hay thịt chó hình dáng ra sao. Trang tò mò cứ đứng nhìn chầm chập. Chắc chị Hạnh tưởngTrang thèm nên hỏi:

- Thịt luộc chấm nước mắm gừng. Không kho nấu gì cả. Ăn không?

- Trang lắc đầu:

- Cám ơn nhưng không biết ăn thịt chó.

- Ngon lắm. Đây có nước dưa, muốn chan cơm không?

- Trang lại lắc đầu cám ơn. Quả thực Trang sợ vì thuờng nghe mẹ nói ai ăn thịt chó lúc chết xuống Âm phủ, đi ngang qua cầu sẽ bị chó sủa rớt xuống cầu cho rắn rết thuồng luồng ăn thịt. Trang không dám cãi mẹ, nhưng chưa từng ăn nên từ chối lòng tốt của chị.

Không biết giờ này chị Hạnh ở đâu. Có được đối đãi một cách văn minh không?

Trang được thả ra ở tạm nhà Ông Bà Phùng ít lâu bèn trở lại Saigon tìm chị dâu bà con. Nhờ chị liên lạc Trang nhận được tin cho biết gia đình cũng lãnh đủ những bắt bớ hạch hỏi của mỗi “chánh quyền” như ai.

Khi tất cả các con đã thành chiến sĩ “một ra đi” cả rồi thì Chánh quyền lại một lần nữa sang tay. Ba Me Trang và em trai còn nhỏ sau khi tản cư đã hết đường đều bị bắt. Lúc Dung viết thư Ba Me đã được quân Pháp thả, chỉ còn anh Tân phải ở lại với chiếc áo có số, vì tội anh to hơn hết. Anh biết làm lựu đạn, biết chế thuốc súng và sửa các thứ máy móc khí giới cho quân kháng chiến. Các chị em gái Trang tản mác mỗi người một chiến khu. Một phần theo tiếng gọi” xếp bút nghiên. ... “ nhưng có lẽ phần để đổi sự an toàn cho hai thân già thì nhiều hơn. Mẹ đầu tóc đã bạc phơ vì thế sự thăng trầm, nay mới biết đem tình thương chia đều cho các con một cách bộc lộ hơn, thì các con không còn được hưởng vì đã tản lạc hết mất rồi.

Trang lại còn được nghe một bài thơ của ba Trang làm tả thương nhớ con. Trang nghe thơ cảm động đến ứa nước mắt:

Ngao ngán cho con đã lạc đường
Giận thì khi đánh , quạnh thì thương...

Bài thơ còn dài và còn nhiều giòng lạ lùng. Ba Trang cũng biết thương con sao? Con người nghiêm khắc, tuy nhiều lúc cũng biết khôi hài, nhưng không bao giờ để ý đến sự giáo dục của con cái! Thực là một sự không ngờ! Trang hy vọng đấy không phải chỉ là tứ thơ bất chợt của một hồn thơ, cho nên khi những giọt nước mắt cảm động đã lau ráo, Trang thấy hương vị ngọt ngào thương yêu còn vương vấn dù nhẹ như tơ.

Nhớ lại những ngày xưa, Trang lại thấy một nỗi thắc mắc vô cớ. Sự kết hợp của ba và me là do tình yêu, một tình yêu cuồng nhiệt say đắm đến nỗi cả hai bất chấp trăm nghìn khó khăn của đại gia đình cản trở để được có nhau. Nhưng khi người ta cần khẩn cấp những đứa con trai để bảo đảm cho cuộc hôn nhân chắp nối cả hai phía ấy được an toàn, thì sự có mặt của một đàn con gái 4 đứa từ từ nối tiếp nhau ra đời là một ân sũng Trời ban mà lòng người không muốn. Cho đến khi đứa em trai út ra đời. Tổng kết 2 trai, địa vị của me mới được củng cố.

Trang lại nhớ đến những sự trái ngược của cha mẹ, me với cái chủ thuyết “Người ăn thì còn, con ăn thì hết“ Cố làm sao cho các con chịu đủ các thứ khổ sở để có thể ra lăn lóc chịu đựng với đời. Có lẽ vì những khổ nhục bà đã chịu nên không muốn các con cũng sẽ trải qua chăng?

Ba Trang thì trái lại, chủ trương “ Muốn thương người, phải thương mình trước ” Ba Trang làm cho mình được dễ chịu tất cả mọi phương diện trước, thừa ra sẽ đến các con. Mà sự thực một người đã tự yêu mình có bao giờ thấy thừa đâu. Ở thế hệ của ông, sao lục y theo bản chính của các thế hệ trước, con cái ít khi được nghe một lời âu yếm, một cử chỉ săn sóc một nỗi lo lắng cho tương lai. Ngoài giờ làm việc, nào tiếp đãi bạn bè, nào những lễ nghi Quan Hôn Tang Tế, nào giờ ăn, nào giờ ngủ, nào giờ đi chơi giải trí. Còn có giờ nào đâu là giờ cho các con. Mà các con đối với ông lại là những đứa con gái không chờ đợi, không muốn có nhưng đã hiện diện lỡ rồi, thì đó là bổn phận của người mẹ phải săn sóc kiểu “nhờ Trời” mà thôi.

Ba Trang, con người vừa có năng lực làm việc phi thường vừa tài hoa , con người biết làm thơ Đường luật, biết đàn biết vẽ, hơn nữa lại có một khuôn mặt đẹp trai và cái tài nói chuyện có duyên, với ngần ấy điều kiện, ba Trang tuy đã có vợ với mấy đàn con, ông cũng thừa phong độ làm rung động những trái tim già, tim trẻ.

Trang nhớ hồi bé, ba còn là một công chức nhỏ, một lần me Trang đi chợ về, chị Dung bèn chạy ra ngõ mách:

- Me, có cô Ngọc Vân đến chơi. Me dặn con có khách đến phải pha nước nhưng cửa đóng con không vào được.

- Thôi con chơi ngoài sân vậy, để me lại ra chợ mua thêm rau nhé, me quên.

Me Trang lại xách giỏ ra đi. Trang nhìn mắt me long lanh ướt mà không hiểu gì hết. Một giờ sau me mới về, và tối hôm ấy tôm cá đều ươn hết, nhưng ba Trang vẫn không nói gì, me cũng không nói gì, hình như không có chuyện gì khác thường xảy ra cả.

Còn một lần Trang thấy vẫn còn nhớ rõ rệt như mới hôm qua. Lúc ba Trang đã làm Tỉnh trưởng một tỉnh miền thượng du, cái tỉnh nhỏ đầu tiên của cuộc đời làm quan, một hôm có một bà bạn của me từ Saigon tới thăm. Trang tò mò nấp sau lưng mẹ để nhìn bà khách Saigon ăn mặc thực đẹp ấy.

- Tôi đến thăm anh chị mục đích chỉ cốt xin anh chị một đứa con...

Trang vội chạy đi loan báo cho tất cả các anh chị em biết cái tin động trời ghê gớm ấy, và người nào cũng lắc đầu:

- Không, em không đi theo cái bà Saigon ấy đâu.

- Em cũng không, em ở nhà cơ.

Đêm hôm ấy, Trang đang ngủ bỗng giật mình thức dậy, ngạc nhiên thấy me nằm cạnh ôm chặt lấy mình, me hôn Trang nhưng sao mặt me lại ướt? Trang úp mặt vào lòng mẹ ngủ lại, với cái kiêu hãnh được ngủ với mẹ, vì thường me vẫn ngủ với ba cơ mà.

Lúc bà bạn Saigon của me về rồi, chị em Trang vừa sung sướng vừa ngạc nhiên vì bà ấy không bắt ai đi theo làm con cả. Mãi về sau Trang mới hiểu bà ấy đến xin một đứa con là con chưa đẻ để bà tự đẻ lấy. Và Trang mới hiểu tại sao hôm ấy mắt me Trang lại ướt. Trang hiểu được sự thực của người cha lạnh lùng, Trang hiểu được bề trái của người me, lúc nào cũng tự khoe là rộng rãi, chiều chồng, không ghen... và đó chỉ là một trong trăm ngàn câu chuyện vẫn thường xảy ra, nhưng vì người ta khéo léo quá, nhã nhặn quá, lịch sự quá nên mọi sự đều lướt qua êm đẹp.

Nhiều đêm Trang thấy không chịu nổi những cơn hen ngạt thở, Trang cắn chặt chiếc khăn tay vào miệng chặn những tiếng nức nở để mặc nước mắt chảy, cho đến khi mệt đến ngủ thiếp đi.

Trong khu vực chiếm đóng, đêm đêm nghe tiếng chân giầy đinh của toán quân Viễn chinh đi rầm rập ngoài đường, hay khi nghe tiếng đấm cửa ầm ỹ ở một nhà nào trong phố, Trang thấy tim đập mạnh hồi hộp một cách lạ lùng. Cuộc sống thực là bấp bênh, một người nào giận ghét một câu nói lỡ lời, cầm một số tiền trong tay, có một điểm nào xuất sắc. Tất cả đều có thể là cớ để bị bắt bị giết. Trong thời loạn một mạng người chỉ như một giọt máu rơi, có nghĩa gì đâu! Trang đâm ra liều lĩnh và giấc mộng viễn du ngày xưa như đang chuẩn bị thành hình.
Phượng Các
#12 Posted : Friday, December 17, 2004 3:06:31 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
Chương 5. Viễn Du


Trang bán tất cả nhưng gì đáng giá còn lại, sửa soạn sẵn sàng và một buổi sáng khi trời còn mờ sương và nước còn mờ khói, Trang từ giã ông Bà chủ tiệm may đã cho Trang việc làm tạm thời, anh chị và bạn bè xuống tàu đi Hương-cảng.

Nói thì nghe dễ như người Huế ăn ớt, nhưng sự thực đi được đến bước đó Trang phải chống chỏi với các áp lực từ nhiều phía, để rồi cảm thấy như con bò bị lùa vào một con đường độc đạo đưa đến lò thịt, không còn ngã nào để chạy quanh.

Đó là thời kỳ tranh tối tranh sáng, ai cũng là Chánh phủ mà ai cũng là địch. Ai cũng có quyền bắt người khác tuân lệnh. Các đảng phái thanh toán lẫn nhau, trong khi địch thực sự lại tự xưng là bạn. Thời kỳ mà ai ở lứa tuổi 18 trở lên đều phải “Xếp bút nghiên...” không bỏ nhà lên chiến khu thì bị đóng dấu Việt gian.

Trái lại trong con mắt quân chiếm đóng, thanh niên nam nữ không ở thành phố lo học, lại sống chui rúc ở bưng biền là quân kháng chiến, là du kích là địch.

Hai bên cứ nã súng vào nhau, bắt bớ nhau , cả bí mật lẫn công khai, nhưng trong âm thầm, những bàn tay trao đổi thuốc men,súng ống, tiền bạc cũng xảy ra thường xuyên.

Phần Trang dù có muốn lẫn vào đám đông dù có chịu làm ngu si cũng không dễ gì được sống yên mà hưởng thái bình.. Lý lịch nàng đã có trong hồ sơ của cả hai bên. Tin từ chiến khu do liên lạc viên đưa tới nói anh Quốc Vệ Quận trưởng tìm chị, nhắn phải lên khu ngay lập tức

Người ân nhân cứu mệnh báo tin ông Phó Công Sứ, một người “Pháp mới” nghĩa là không phải Pháp thời Thực dân, trẻ tuổi, đẹp trai, nhất định đòi cưới Trang chánh thức để đem về Pháp. Ông này từng đến thăm Trang với lễ phép tối đa, lúc Trang vừa được Pháp thả ra, còn tá túc ở nhà ân nhân. Ông bà Phùng rất kẹt. Một bên là xếp mới, một bên là con của Xếp cũ. Chỉ còn cách tổ chức cho Trang ra khỏi nước là rảnh nợ.

Trang bắt liên lạc được với một nhóm người Hoa hồi hương bằng tàu thủy về Hongkong. Đây là nhượng địa của người Anh xén của tỉnh Quảng Đông, nên chấp nhận người Quảng Đông có quyền đổ bộ lên địa phận quê hương của họ.

Ngoài số tiền lương dành dụm, được anh chị và bạn bè giúp thêm, đóng đủ số tiền cho người tổ chức, Trang được lãnh một cái tên Tàu ghi vào danh sách nhóm tị nạn hồi hương.

Trang cũng như cả đám người chạy loạn, không ai biết trước được đi tàu kiểu tị nạn nghĩa là không có hạng. Cần quái gì hạng! Nhất Nhì hay Ba cũng chỉ là danh xưng. Cả đám trải chiếu nằm trên boong tàu, chứ không phải trong phòng, trong hầm hay trong khoang, mà nằm ngay dưới ánh mặt trời, dưới ánh trăng sao và cả gió bão. Trang cứ ngồi run cầm cập làm mấy bà già thương hại cho mượn chiếc mền bông quấn chặt lấy người. Đến bữa mỗi người được chia một vắt cơm ăn với dưa cải mặn.

Sau mấy ngày phơi sương phơi nắng rồi cũng đến bến bờ. Cuộc đổ bộ thực gọn gàng nhanh chóng. Mọi người đi từng toán, chỉ một người của ban tổ chức trình giấy tờ xong là lên bờ.

Cái mền cứu khổ cứu nạn được trân trọng trả lại cho ngưới hảo tâm. Từ Saigon nóng nực bước lên tàu, Trang không hề biết trước để chuẩn bị cái rét như muốn cả người đông lại thành băng.

Vài trang nhật ký
Ngày... tháng....năm....

“Trời Hong Kong mùa Tết gió rét như cắt, nhất là ở những con đường ngay cạnh biển. Hai bên hiên phố, các hàng bán hoa quả và hàng Tết bày lan tràn ra đến lề đường, như giục giã người ta sắm Tết, nhắc nhở Tết đây rồi, làm tôi thấy nhớ nhà, nhớ mẹ lạ lùng.

Tôi được các bạn mới giới thiệu vào ở trọ trong một gia đình Tàu. Nhà không rộng, nên họ dọn cho tôi một cái giường vải trong một góc phòng, giăng một tấm màn ngang qua giuờng, và trong chớp mắt, góc phòng bé nhỏ biến thành cái thế giới riêng biệt của tôi.

Ở Hongkong, một tấc đất là một tấc vàng, nhà cửa hiếm quí, nên tùy hoàn cảnh, người ta có thể thuê một tòa lâu đài, một cái nhà, một căn phòng, hay chỉ một chiếc giường cũng thuận tiện, chỉ cần ngã lưng vài giờ ban đêm.

Bên kia tấm màn biên giới là giường của hai thằng bé độ sáu bảy tuổi, con nuôi của bà chủ nhà. Hai thằng bé mù thực khỏe mạnh và kháu khỉnh. Chúng nó sinh ra toàn vẹn cho đến khi quân Nhật đánh chiếm Hương Cảng. Không biết lửa đạn vung vãi thế nào mà chúng biến thành ra mồ côi và tàn tật.

Trong nhà còn đôi ba cặp nữa, mỗi đôi ở một căn phòng nhỏ, ngăn lại bằng ván ép. Biên giới là tấm ván mỏng,không cản được tiếng nói thì thào âu yếm lúc đêm khuya, cũng như lời cãi vã, dù người ta có xuống giọng thấp đến mấy đi nữa. Nhưng nhờ có cái biên giới tượng trưng nên ai cũng thấy yên tâm như được che chở, và khi bóng tối bao trùm thì bên kia biên giới là hư vô...

Thì ra biên giới thật co dãn. Biên giới có thể là Vạn Lý Trường Thành, là biệt thự này cách biệt thự kia hàng trăm thước, là cái hàng rào thưa, mãnh ván ép, và cũng có thể chỉ là một tấm màn mỏng manh.

Sau biên giới vải, tôi nằm im lìm vờ ngủ, lắng nghe những sống động ưu tư trong lòng, và đồng thời cũng lắng nghe cái Tết đang lan tràn.

Người ta có cả tháng để chuẩn bị, thế mà đến phút cuối cùng vẫn còn kẻ mua người bán rối rít. Ai cũng lo áo quần mới cho gia đình, quà bánh cho khách đến chúc Tết, phong bao cho trẻ con. Đồ ăn thì cố nhiên là phải đặc biệt, những món ăn riêng cho ngày Tết. Đêm đã khuya mà ngoài đường vẫn còn cả một rừng người tấp nập đi mua sắm hay đi nhìn thiên hạ mua sắm! Họ đi vào ánh đèn ngũ sắc như trăm nghìn con thiêu thân, như chính họ cũng là một loại thiêu thân.

Giờ này nơi quê hương, gia đình của tôi đang ở lao tù nào? Các bạn của tôi, chắc hẳn từng đoàn, từng nhóm, đang “ xếp bút nghiên”.., đang “ một ra đi là không trở về......”

Còn tôi mơ màng nghĩ đến ngày mai vào Quảng Châu để gặp các anh em sinh viên cách mệnh đang học ở đấy. Mấy hôm trước, anh Hùng sau khi đọc bản tự thuật “ Hoa Sen trên biển” của tôi, đã bảo anh Vĩ, người liên lạc :” Anh đưa cô ấy đi Quảng Châu ngay. Càng sớm càng tốt. Đừng để mất!” Anh Vĩ tin là thế nào tôi cũng sẽ được ở lại học với các anh ấy.” (Nhật ký ngừng)

° ° °

Tình hình sinh viên Việt Nam ở Tàu lúc bấy giờ là tự túc. Chánh Phủ Tưởng Giới Thạch có chương trình cấp Học bỗng gọi là “ Nam Dương Tưởng Học Kim” cho mỗi nước Á Châu 8 người. Sinh viên các nước khác đều được Chánh phủ của họ gửi đến. Riêng Việt Nam đang ở trong thời kỳ không ai biết ai là ai, làm gì có Chánh phủ mà gửi sinh viên du học!

Nhóm anh em này không có phương tiện để đưa người Đông du, Tây du, Bắc du gì cả, nhưng nếu ai tự thoát ra được thì họ có đường giây biết ngay, lập tức bắt liên lạc tìm cách giúp đỡ tìm trường hay tìm việc, và cố nhiên nhận xét để kéo vào nhóm.

Trang lại xếp khăn gói từ giã gia đình Tàu đã cho thuê chiếc giường vải trong những tháng ngày bơ vơ đầu tiên, Trang đi xe lửa vào Quảng Châu, gặp tất cả rồi cùng lên đường đi Nam Kinh. Anh Hùng người Anh Cả của nhóm cần phải lên Nam Kinh để liên lạc trực tiếp với Bộ giáo dục, điều đình xin đặc ân cho bọn sinh viên tạm gọi là.... cái gì cũng “không “ này. Cứ cho vào học, không có Chánh phủ, giấy tờ trách nhiệm anh Hùng nhân danh đảng trưởng lãnh hết.

Ai bảo” Phúc bất trùng lai”? Phúc của Trang đă trùng lai đến mấy lần. Trang đã xuất ngoại thành công. Bước đầu tiên xứ lạ còn thuê được nơi ở tạm trong một gia đình lương thiện. Trang đã được hoan nghênh vào nhóm anh em du học sinh..... Mai đây Trang cũng sẽ được sống cuộc đời có thầy có bạn.... Trang muốn cảm ơn mẹ một lần nữa, Mẹ ở hiền nên Trang đã gặp lành hoài hoài.
Phượng Các
#13 Posted : Friday, December 17, 2004 3:07:42 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
Chương 6. Bắc Tiến



Vài trang nhật ký
Ngày... tháng... năm...

“Căn nhà chúng tôi thuê được ở ngoại ô Nam Kinh nhỏ bằng một cái phòng. Mà thực sự nó cũng chỉ có thế. Nó vỏn vẹn là một cái phòng vuông vắn, một cửa ra vào và một cửa sổ. Nhà không có lò sưởi, đã thế, vách ván lại hở, cửa gài thô sơ, gió lọt vào lạnh thấu xương.

Bên cạnh nhà là hồ Huyền Vũ, Cái tên thực đẹp. Người Tàu có tài đặt tên đẹp cho tất cả những gì cần đến tên. Hồ này là để cho tất cả xóm giải quyết vấn đề nước non. Họ dùng nước hồ để nấu nướng, giặt quần áo, rửa rau, vo gạo, tưới mấy luống rau cải chung quanh hồ, chung quanh nhà, ban ngày cho tất cả mọi người, và thêm tắm ban đêm cho chúng tôi.

Những nhà Tàu,nếu không phải là thứ xây cất tối tân thì không bao giờ có phòng tắm. Nhưng họ có cách tắm ngay trong phòng ngủ, nếu cần. Mỗi gia đình đều có một cái thùng gỗ. Họ ngồi trong thùng, pha một chậu nước ấm để bên cạnh, rồi từ từ dội từng gáo nước lên người. Tôi học được cách tắm này trong thời kỳ ở trọ với gia đình Tàu.

Bọn chúng tôi, cũng như tất cả các anh em khác đã nhất quyết “ ra đi không vương thê nhi..” không lẽõ lại đi vương cái thùng tắm kè kè bên hông, thành ra khi muốn tắm, phải cắn răng chạy ra hồ, tắm xong, cắn răng chạy một mạch về nhà. Hàng xóm trông thấy phục lăn, cứ tưởng bọn này võ nghệ siêu quần, nội công thần sầu quỉ khốc, chả biết rét là gì.

Mỗi ngày, ăn điểm tâm xong, chúng tôi cuốc bộ ra thư viện học, Anh Hùng thì lo

chầu chực ở Bộ Giáo Dục về việc giấy tờ cho chúng tôi chính thức vào Đại Học.

Ngày còn ở nhà, tôi chỉ biết ăn mà không biết nấu, “tiểu thư” mà lại! Bây giờ là người nữ độc nhất và đầu tiên của cả bọn, nên phải học nấu cơm với các anh. Đồ ăn thì thực giản dị. Ai cũng học thuộc lòng câu “ thánh kinh :” Muốn cao lương mỹ vị thì về nhà mà ăn”, nên không ai chê tôi nấu ngon nấu dở bao giờ cả. Vì tiền Tầu thụt giá theo với tình hình quân sự, nên khi có tiền, chúng tôi phải tích trữ rau ăn. không có rau gì để dành được lâu bằng hành tây, nên trong bữa cơm bao giờ cũng có hành. Tôi cũng gắng tập đổi món: hành xào, hành luộc, hành nấu canh, nấu xúp, dưa hành..

Được phép nghỉ học một buổi, chúng tôi đi xem thiên hạ sắm sửa. Chúng tôi cũng hòa mình vào với làn sóng người đang đi mua bán như điên, để chung hưởng cái cảm giác say sưa. Xem thiên hạ tiêu tiền xong, chúng tôi về nhà ăn bữa cơm thịnh soạn có thêm một món mới: hành tây trộn dầu dấm.

Bữa cơm thịnh soạn vì lúc về đi ngang qua hồ có một con cá to thực to đang nhẩy chơi, không biết chàng cá có định vây với tiểu thư cá nào không mà hết sức tung mình thực cao thực xa. Cá ta nhẩy tuốt lên bờ. Thực suốt đời cá không bao giờ ngờ mình lại được hoan nghênh nhiệt liệt như thế.

Chiều đến, ông Lữ, một giáo sư đại học, bạn của anh Hùng và cũng là một Mạnh Thường Quân của anh em sinh viên cách mệnh đến thăm. Ôøng bà ở thực xa nhưng cũng chịu khó đi xe ba bánh đến, tặng cho chúng tôi một bao gạo và một số lương khô. Chúng tôi nhất định làm cơm thết ông bà. Các anh chịu khó tỉa rau muống ngâm nước cho nó cuốn cong, trông thực đẹp, để trộn dầu dấm làm món xà lách.

Chỉ tiếc, ông bà Lữ cũng như tất cả những người Tàu cẩn thận khác, không dám ăn rau sống. Phần nhiềù những món rau đều phải xào nấu, và phải có gừng nhiệt để hóa giải tính hàn của rau. Với người Tàu, rau quả gì cũng có một tính chất: lạnh, nóng, mát, độc, lành v.v..Rau sống thuộc hàn, lạnh, rau muống cũng thuộc hàn, đã hai lần hàn,lại ăn vào mùa đông thì eo ôi, hậu quả không biết thế nào mà lường được!

Sau này tôi mới biết là phụ nữ Tàu phần nhiều rất thạo tính chất của các món ăn hàn nhiệt, để chỉ huy sự “hàn, nhiệt” của các đấng trượng phu. Khi nào thấy các ông “ hàn” với mình quá, các bà chẳng cần phải điểm phấn tô son gì cả, chỉ cần nấu mấy món “nhiệt” là các ông thay đổi thái độ ngay. Và trái lại, nếu các ông “ nhiệt “ quá, thì trong bữa cơm lại thấy có những món canh, món hầm đặc biệt. Trên nguyên tắc thì các ông vẫn là chủ động, nhưng chính các bà mới là người chỉ huy, giật giây lúc nào thì các ông được phép “ chủ động” lúc ấy. Thực là tế nhị và hòa bình biết bao! Nếu nghiên cứu kỹ lại thì chắc Hồ Ly Tinh ngày xưa trong truyện Liêu Trai,có lẽ cũng chỉ là những cô nương biết xử dụng các món ăn hàn nhiệt.

Cơm xong, anh Thành, một sĩ quan Việt Nam trong quân đội Trung Hoa. Mang đến cho chúng tôi một gói mứt gừng, mứt sen, trà Tàu, hạt dưa. Chúng tôi vớt vát lại, mời khách tráng miệng mứt gừng, món nhiệt để cứu vãn cái hàn của bữa cơm rau quá hàn và quá đạm bạc” (Nhật ký ngưng)

Gian nhà con của bọn Trang ở ngay bên cạnh hồ Huyền Vũ. Gian nhà mặc dầu trơ vơ chỉ có một cái phòng vuông vắn, và mặc dầu không có nhà bếp, phòng tắm gì cả, nhưng bọn Trang chỉ là một đám học sinh tất cả đều “Không” đang xin học bổng và đang sống bằng sự trợ cấp của vài người muốn dìu đắt họ, tốn tiền ít chừng nào hay chừng ấy. Có được một nơi ngã lưng đã là may mắn lắm rồi.Trong hoàn cảnh đó, Trang phải dẹp cái “ tiểu thư” lại, hòa mình theo các bạn, mỗi đêm đợi đến 11 giờ, hàng xóm ngủ cả rồi mới dám xách khăn và bộ áo quần tắm đặc biệt ra hồ để tắm.

Chung quanh nhà chỉ vài chục thước, là có một hồ nước trong xanh bên bờ đầy liễu rủ. Cái hồ nước đa dụng, đa năng. Tưởng tượng nếu không có những cái hồ cứu mệnh ấy thì cả xóm nghèo này làm sao mà sống.

Lúc mới dọn đến nhà chỉ có một chiếc giường lớn cho ba người bạn trai, Trang phải nằm trên chiếc bàn học vuông vắn, dưới kê thêm hai chiếc va ly để duỗi chân. Sáng dậy, Hùng nhân danh anh Cả hỏi thăm:

- Thế nào, nàng tiên ngủ trên bàn, có nằm mơ thấy gì không?

Tiến, người nhỏ tuổi nhất đám bảo:

- Không khéo cô ấy nằm mơ thấy cái quả sơn son thếp vàng chiều hôm qua đấy.

Rồi một chuỗi pháo cười mở đầu cho một ngày nắng hè tươi đẹp,

Trang lại tự cười cái ngớ ngẩn của mình. Chiều hôm qua lúc nhìn thấy các cô gái Tầu xinh xinh trong xóm, xách những cái thùng gỗ con sơn son thếp vàng và chiếc chổi tre rửa hùng hục, đánh quèn quẹt cái thùng gỗ bên các hồ nước trong xanh, dưới rặng liễu rủ, Trang hỏi:

- Họ làm gì thế nhỉ?

- Tôi đố cô biết cái thùng kia người ta dùng để làm gì?

- Bên ta thường có những cái quả gỗ sơn son thếp vàng dùng để đựng bánh lúc đám cưới.

Lưu cười:

- Ở đây thì lại khác, đấy là những chiếc thùng vệ sinh lưu động họ để ngay trong phòng ngủ hay nhà bếp và mỗi ngày đi đổ. Ở Tàu chỉ những nhà kiến trúc theo lối mới của các nhà giàu mới có phòng vệ sinh , còn ngoài ra toàn dùng những cái “quả đựng bánh” của cô như thế cả.

- Nhưng đổ vào đâu? Eo ơi!

- Không nhìn thấy những cái hồ nhỏ như bể cạn nuôi cá kia sao? Họ đổ vào đấy, quậy thêm nước để làm phân tưới rau.

A Øra thế ! Thì ra họ đổ vào cái “phòng đọc báo” của cả xóm.

Trang và các bạn bắt đầu học chữ nho và tiếng Tàu. Riêng Trang, còn phải học thêm toán. Anh Vũ, người kỹ sư dạy kèm Trang nhiều lúc phải phát cáu lên:

- Trời, trong đời tôi đã dạy toán cho bao nhiêu học trò, nhưng mãi đến bây giờ mới gặp được người dốt nhất.

Thực thế, Trang rất ghét toán, và sẵn lòng quên ngay sau khi làm bài xong. Trang chỉ thích ra bờ hồ ngồi học với một cái cần câu dưới gốc cây liễu.

Mỗi chiều, bọn Trang đi xem những phong cảnh gần của thành Kim Lăng. Mỗi ngày Chủ nhật đi thăm một cảnh xa hơn. Nhưng tất cả dù xa hay gần cũng đều đi bộ và được gọi là “ xe nhà”. Ngôi mộ Tôn Trung Sơn và cái cảnh hùng vĩ của hòn núi Chung Sơn, Trang không thấy đủ hứng thú thưởng thức nữa, vì hai chân nàng đã mỏi rã rời. Hôm ấy gặp ngày lễ kỷ niệm nên chính phủ mở cửa đài kỹ niệm nhà đại cách mạng Trung Hoa cho dân chúng vào xem.

- Thế nào, cô có còn đủ gân để đi xem Vũ hoa đài không? Coi bộ gần xỉu!

Nếu không có một thời gian huấn luyện về môn đi bộ lúc xưa, những ngày băng rừng vượt suối, chắc Trang không thể nào theo kịp được bạn trong các cuộc đi chơi Yến Tử Cơ hay phong cảnh khác.

Trên đường những người ngồi trên xe nhà hay xe hàng đều quay lại nhìn bọn Trang và vẫy tay tỏ ý hoan nghênh hay thương hại, và bọn Trang cũng vẫy tay chào theo. Lúc đến nơi đứng trên núi cao nhìn xuống chân núi, gió thổi ráo cả những giọt mồ hôi lăn tăn trên mặt, gió thổi khô cả lưng áo ướt đẫm, Trang khoan khoái tận hưởng cái đẹp của Yến-tử-cơ. Ngoài xa những cánh buồm đen hình như cánh dơi nổi bật lên nền trời xanh nhạt của nước hòa lẫn với trời, dưới chân núi đá sóng trắng đánh vào dồn dập. Trên núi là những đường mòn uốn khúc quanh co, những công trình xây cất đình tạ, những sự xếp đặt tô điểm thêm cho cái cảnh vừa hùng vĩ vừa nên thơ. Và đến lúc ngồi vào một tiệm ăn bên đường, trước bát mì khói lên nghi ngút là thứ mì kinh tế chỉ nấu với nước dùng chứ không có thịt tôm gì cả, Trang cũng thấy dễ chịu vô cùng.

° ° °

Một buổi chiều thứ bẩy, Hùng bảo Trang:

- Chắc cô đã xem qua nhiều Đường thi chứ?

- Có xem một ít.

- Còn nhớ bài thơ tả bến Tần-hoài của Đỗ Mục không? Rồi không đợi Trang trả lời, anh ngâm:

Yên lung hàn thủy nguyệt lung sa
Dạ bạc Tần Hoài cận tửu gia
Thương nữ bất tri vong quốc hận
Cách giang do xướng Hậu đình hoa.

Nếu hôm nay cô học xong sớm, chịu khó nghĩ ra được bài toán này, chúng ta sẽ đi bến Tần Hoài.....tưởng tượng.

Nghĩ đến bến Tần Hoài, Trang tưởng tượng phải là một cảnh đẹp ghê gớm lắm mới có thể làm cho nhà thơ sáng tác ra những vần như thế kia, Trang học rất chăm chỉ. Lúc sắp ra đi, Trang hỏi Vũ:

- Túi của anh hôm nay có nặng không? Bến Tần Hoài bên cạnh có tửu gia đấy nhé.

Bọn Trang ra đi từ lúc đôi giày da Trang đã cố công đánh rất bóng đã thành ra một đôi giày bụi, và hai ống chân Trang mặc váy đen ngắn theo kiểu học sinh, cũng phủ đầy bụi mờ, Vũ nhìn Trang thách thức:

- Cô Trang, cô thử tả cái cảnh giòng sông con kia đi. Dám không?

Trang nhìn theo tay Vũ, thấy hiện ra trước mặt một cảnh tượng rất nhộn nhịp, trả lời:

- Các anh lắng tai nghe nhé: Một giòng nước cạn, đậu đầy những ghe thuyền, mặt nước đục ngầu trên nổi lềnh bềnh các thứ rác phân bẩn thỉu, hai bên bờ ngồi đầy những đàn bà con gái, người nào cũng xắn cao quần áo, tay cầm một cái dùi như cái dùi cui của các bác cảnh sát ở Hà Nội, vỗ bồm bộp vào áo quần đang giặt, còn áo quần thì chỉ có một mầu không tên. Họ nói chuyện với nhau ầm ỹ, và bên trên một chiếc cầu bắc ngang qua giòng nước “ sông” ấy. Chiếc cầu nhỏ hẹp đầy người qua lại, họ tranh nhau, đẩy nhau và la hét không ngừng. Nhưng bến Tần Hoài bao giờ mới đến?

- Thì cô vừa tả đó, chả phải bến Tần Hoài là gì !

- Nói đùa chứ Tân Hoài hay Tần Hoài cũng chẳng khác gì mấy. Cứ đặt một cái tên đẹp, làm vài bài thơ ca tụng là sẽ nổi tiếng ngay.

- Trang còn ấm ức:

- Nhưng anh hứa bến Tần Hoài cơ mà!

- Cả bọn lại cười chế nhạo :

- Cho Trang một bài học cho hết ngây thơ đi. Dễ gì mà lết được đến Bến Tần Hoài. Phải tập thưởng thức cái hư hư thực thực mới sống lâu được.

Trang còn đang ngẩn ngơ “ thưởng thức” thì bị một đám người sau lưng xô đẩy qua cầu. Bên kia sông là một xóm nhỏ làm ăn có vẻ phồn thịnh, các cửa tiệm bán toàn hàng thổ sản, và các thứ hàng tạp hóa. Lúc đi qua hàng gạo nếp, Tiến bảo:

- Dù sao chúng ta thế là cũng đã thưởng thức được cái đẹp của bến “Tìm Hoài không thấy” bằng mắt rồi. Bến Tìm Hoài đã không có tửu gia thì thôi, chúng ta cũng nên có gì an ủi cái dạ dày cho nó thực tế một chút.

Vũ vào tiệm mua một cân nếp, Trang dặn:

- Anh nào cầm phải cẩn thận đấy nhé. Cái gói này còn quý hơn cả bến Tần Hoài kia đấy. Thực là vừa ít tiền, vừa ngon, vừa nhiều lại vừa chắc bụng.

Những ngày êm đềm qua đi, tiếp đến là những ngày sóng gió vì nguồn kinh tế bấp bênh của nước Tàu, Trong tay nắm một mớ giấy bạc, hôm nay còn đáng giá một tạ gạo, sáng mai có khi chỉ còn là một đấu bắp ngô. Giá thực phẩm và giá trị của đồng bạc cứ theo với các trận đánh nhau thắng hay bại mà lên xuống. Có tin đồn Bắc kinh sắp mất. Cộng quân đang sắp sửa vây Nam-kinh đến nơi. Giá gạo tăng lên vùn vụt. Bạc giấy chỉ giá trị như một mảnh giấy thường nhỏ bằng hình dáng của nó.

Bọn Trang chỉ còn cách là khi có một số tiền đến tay là mua ngay gạo và thức ăn, những thứ rẻ tiền nhất và có thể để được lâu. Vì thế dưới gầm giường vải của Trang đổ đầy hành tây và củ cải.

Bữa cơm nào cũng hành tây, canh hành tây, xào hành tây, hành tây trộn dấm. Còn củ cải Trang cắt từng miếng nhỏ phơi khô và ngâm vào xì dầu, ớt thành một món mặn ăn với cháo cũng nuốt trôi dễ dàng.

Mỗi buổi sáng, Trang nấu một nồi bắp ngô và một nồi cháo. Cả bọn ăn bắp ngô cho chắc bụng, kéo bộ đến thư viện ngồi học. Chiều về nồi cháo đã đặc lại thành cơm nhão chỉ việc hâm nóng lên ăn với củ cải mặn là xong bữa.

Mớ bắp ngô, Trang đã ngâm trước từ đêm, sáng lại nấu rất lâu, nhưng hạt bắp vẫn cứng không nở mấy, và không có mùi vị gì, Trang bảo Lưu:

- Tôi tiếc nếu ngày xưa học làm món ngô bung Việt Nam , thì bây giờ đâu đến nỗi phải ăn món ngô luộc nhạt nhẽo, vô vị như thế này.

Tiến cũng bảo:

- Tôi cũng tiếc không học làm mắm tép với me tôi, nếu không thì vò mắm tép của chúng ta có lẽ cũng bớt đau khổ.

Lưu nhăn mặt:

- May mà tôi không biểu diễn món gì ra, nếu không chắc chúng mình không còn đủ can đảm để ăn cơm nhà nữa. Ăn mắm tép của anh Tiến tôi cứ tưởng như là rơm khô trộn với muối ấy. Mà có lẽ là rơm khô thực đấy. Để chốc nữa tôi phải xem lại cái nệm rơm của anh Tiến có bị mất miếng nào không.

Ánh dương nhạt dần sức nóng cho đến lúc ngọn gió cuối thu đã quét sạch tất cả các lá cây, lúc ngọn gió bấc đầu tiên thổi qua, người Trang mỏi rã rời và kéo lại điệu đàn réo rắt đau khổ hơn xưa.

Mỗi buổi sáng sương xuống dầy đặc, đóng lại trắng xóa trên những vườn cải cuối cùng của mùa, khi những vũng nước đã đông lại thành băng, bị chân người dẫm lên trông như những tấm kính vỡ rải rác đầy cả trên đường thì Trang thấy tấm chăn bông 6 cân đè lên ngực vẫn còn nhẹ quá, và tấm nệm rơm một tấc dứơí lưng vẫn còn mỏng quá.

Lưu thấy Trang đêm đêm mặc hết tất cả quần áo dầy vào rồi mới buộc thắt chặt cổ chân lại thực cẩn thận, nói :

- Rét rồi đấy, cô Trang. Tấm chăn của cô có đủ ấm, đủ nặng không, ngoài sân có một đống gạch đấy, nếu cô cần thì xếp nốt lên người cho đủ ấm nhé.

Trang không trả lời, cũng không cười được vì đã bắt đầu thấy ngạt thở, thấy bứt rứt khó chịu. Trang tung chăn ngồi dậy, lại dựa lưng vào tường... Trang ngồi lắng nghe tiếng rên rỉ phát ra từ trong phổi, lẫn với tiếng gió rít trong đêm, tiếng cốc chai rạn vỡ vì khí lạnh xuống dưới không độ, và lắng nghe tiếng máy thu thanh ở nhà láng giềng đưa sang một điệu hát buồn man mác. “ Em quyết chờ anh lại về”. Cố nhiên bằng tiếng Tàu. Động đến tình cảm thì hình như nước nào cũng có những bài tình ca du dương.

Trang lại nhớ đến những đêm đông ở quê nhà, bây giờ đã xa cách đến bao nhiêu nghìn cây số núi sông, không biết những người thân sơ, quen biết có đủ ngu si để hưởng thái bình không, Thánh hiền xưa đã dạy thế mà.Ngu si hưởng thái bình. Thời buổi loạn ly, chí lý vậy thay.

Tình hình Nam-kinh ngày càng nguy cấp, bọn Trang đành phải sửa soạn về hậu phương. Mỗi ngày Tiến lại xách một ít đồ đạc đi gửi cho nhà hàng đồ cũ, tất cả những cái gì nặng, ít dùng hay có hai cái, đều bị loại cả. Sự bán đồ về Nam của bọn Trang láng giềng không ai biết, họ chỉ biết bọn Trang bán đồ, thành ra có một sự hiểu lầm đầy tình người. Một hôm cả xóm bỗng nhiên lần lượt đến thăm Trang, người nào trong tay cũng có một gói quà, kẻ mớ rau, người chai dầu ăn hay chén muối, làm Trang phát thẹn và cũng rất cảm động.

Tối hôm ấy Hùng mãi đến khuya mới về, anh bước vào phòng mặt tái xanh, ngồi thừ ở bàn một lúc bảo:

- Đời tôi lần này là lần đầu tiên đi xe quịt.

- ?

- Xe về đến đầu đường, tôi móc túi, 4 túi áo tơi, 4 túi quần, 4 túi áo tây, 3 túi áo cánh. Móc đến cái túi thứ 15 mới biết là nắm bạc đã bị tay anh chị nào lúc chen lên xe “ chiếu cố” mất rồi. Và người đánh xe ngựa thấy tôi móc lắm túi thế cũng quá hiểu lý do không chờ được nên đi luôn.
Phượng Các
#14 Posted : Friday, December 17, 2004 3:10:29 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
Chương 7: Nam... Lùi

Vài trang nhật ký
Ngày... tháng... năm...

“Trong một ngày rét mướt nhất của mùa Đông ở Nam Kinh. Các anh em Việt Nam trong Quân Đội đến báo động, bảo chúng tôi liệu cuốn gói ngay đi. Chánh phủ cụ Tưởng sắp rời Nam Kinh đến nơi. Anh được lệnh đem một đoàn xe về Nam, sáng mai sẽ lên đường. Anh cho chúng tôi tháp tùng miễn phí.

Khỏi cần bàn cãi gì cả, chúng tôi sửa soạn xếp hành lý ngay. Cả bọn đã chuẩn bị bán đồ đạc từ lâu, nên khi quyết định đi là có thể đi liền. Tiền bán bớt hành lý đủ cho các anh, người thì đi xe lửa suốt, trực tiếp về Quảng Châu, người có gia đình trợ cấp thì nghĩ xa xôi hơn, bay thẳng qua Đài Loan trước khi chính phủ chạy, như thế, chạy một mạch, đỡ vất vả tốn kém đến hai lần. Đấy là anh Toàn, người giầu nhất, có bà con tiếp tế từ Pháp sang đều đều.

Tôi và anh Hùng, Vũ nhẹ túi nhất, nên theo anh Thành leo lên chiếc xe nhà binh. Ngoài tài xế, chỉ vợ con họ là được ngồi trong xe, còn tất cả những kẻ tháp tùng đều phải ngồi trên đống thùng xăng, phụ tùng để sau xe không mui, tha hồ mà làm quen với nắng mưa sương tuyết trên con đường Nam tiến, ờ nói cho đúng hơn, là Nam lùi.

Đoàn xe lên đường lúc còn sớm tinh mơ. Đã là nhà binh, lại chạy loạn, nên gia đình quân nhân, hình như ai cũng vui lòng tập họp đúng giờ, không hề nghe một lời phàn nàn, thở than. Trong không khí hốt hoảng vội vàng, các bà vợ tháp tùng theo xe chồng vẫn ăn diện như Tết. Điểm đặc biệt, là tay bà nào cũng ôm kè kè một cái bọc ma họ gọi là “ xám pao” (bọc quần áo). Cái bọc của quí này, tôi chắc là dù có chết đến nơi họ cũng không thả ra

Có tin Cộng-quân đã lẫn quất đâu đây, nên dân chúng mạnh ai nấy chạy. Họ ôm quần áo, heo gà, gồng gánh con cái, chạy ngược chạy xuôi. Họ nội chạy sang họ ngoại, họ nhà trai chạy sang họ nhà gái, nhưng chạy đi đâu cũng thấy có người chạy ngược lại về phía mình vừa mới bỏ đi, gây thành cái cảnh kiến trong miệng chén, và cái chén đang ở trên một lò lửa đỏ hồng.

Đoàn xe vượt quaTô Châu nhanh như chớp. Không ai nghĩ đến hoài tiếc, không thể đi chậm lại để thưởng thức một danh thắng, mà chỉ nghĩ đến vùng an toàn trước mặt.

Chúng tôi ngồi trên đống thùng xăng cao ngất ngưởng lộ thiên, nên phải lấychăn khoác thêm lên người để chống lại khí lạnh của sương mù. Nếu là thời bình, có thì giờ đi ngao du sơn thủy, thì thú vị biết bao.

Nhiều tuần lễ trước khi anh Thành đến “ bốc” chúng tôi đi, cả bọn đã biết là sẽ phải về Nam, anh Hùng đã phác họa chương trình đi bộ theo dân ti nạn. Chúng tôi đã sửa soạn hành lý chỉ vừa đủ trong ba lô, các vật dụng khác, chỉ giữ lại cái gì sức mình có thể mang nổi trên lưng. Anh đã chuẩn bị tinh thần cho tôi khá đầy đủ về cái chương trình “ Nam lùi” bằng chân, nếu cần, để tôi đỡ kinh sợ và chán ngán.

Anh tưởng tượng ra nhiều cảnh thú vị mà chúng tôi sẽ gặp. Ví dụ như một cái quán trọ bên đường trong lúc chúng tôi đã gần kiệt sức... những cây cam , quít, mơ dại trong rừng..khi chúng tôi bị lac, vừa đói vừa khát. Thật là một bọn điếc không sợ súng.

Tuy không được ngồi trong xe có nệm êm, có cửa kính đóng lại ấm áp, mà phải ngồi trên mui xe phơi nắng gió, nhưng khỏi mang xách, khỏi phải lết chân lên đèo, lê ba lô xuống đèo, tôi vẫn cho là một sự may mắn tuyệt diệu.

Suốt quãng đường dài, tôi tưởng như mình đang đi vào một bức tranh vẽ. Những bức tranh thủy mạc thần kỳ với những núi non trùng trùng điệp điệp. Mây trắng như tơ bao quanh chân núi, hoa vàng nở đầy trong rừng... Tôi nghĩ đến những truyện kiếm hiệp, tả cảnh “ tầm sư học đạo”. Nếu người đồ đệ chí thành phải leo lên những ngọn núi ấy để tầm sư, thì... eo ơi! Sư có tầm tôi thì tầm, chứ bố bảo tôi cũng không có sức mà tầm sư.

Cảnh thực đẹp, mà tôi không có lòng nào để thưởng thức khi thấy đám quân nhân xô gạt những bàn tay gầy guộc của dân chúng chạy theo hai bên bờ xe, kêu khóc, năn nỉ, níu kéo, xin lên xe quá giang một đoạn đường.

Đến Thượng Hải, anh Thành được lệnh đóng trong một tòa nhà lầu vĩ đại đang xây cất dở dang. Chủ nhà chắc biết thân biết phận nên đã bỏ chạy, lánh nạn đi đâu không biết. Mỗi đám vài ba người, chiếm một căn phòng còn vôi gạch ngỗn ngang ở tạm. Đoàn xe tất cả 90 chiếc, phải sửa chữa, lĩnh đồ phụ tùng, xăng nhớt, nhận huấn lệnh v.v.. nên chắc còn phải chờ nhiều ngày mói xong, chúng tôi bắt đầu học vài câu tiếng Thượng Hải thông dụng để mua bán, hỏi đưỡng khi bị lạc.



Không khí ở Thượng Hải như có chất điên. Mọi người cuồng say vì Tết lẫn với loạn. Cái không khí loạn cũng như cái Tết bao trùm khắp nơi, không phải chỉ trước mặt hay sau lưng, không còn biết chạy đi đâu để mà tránh nó. Tết qua rồi, mà ai cũng còn hăng say ăn Tết, vì họ ăn Tết với cái ý niệm có thể là ngày mai ăn Tết với ông bà Tổ Tiên

Chúng tôi góp tiền ăn với quân đội, nên đến bữa chỉ đi lĩnh, một tô cơm, một chén rau xào dầu, một phần cơm chúng tôi chia nhau hai người ăn. Đói no thiếu đủ không thành vấn đề, khỏi phải tự nấu có ăn là may lắm rồi. Cơm Tết có thêm một miếng thịt mỡ, ngoài món rau xào cố hữu. Tôi nhường vì tôi không thích ăn thịt mỡ.

Từ lúc bắt đầu cuộc “ Nam lùi”, tôi ngạc nhiên thấy Hùng không buồn rầu thất vọng, trái lại, hình như anh vui vẻ khác thường, săn sóc tôi một cách rất chu đáo. Vũ cũng tránh những câu nói có thể làm mất tinh thần.

Suốt một năm trời nhìn Hùng đóng vai thầy, vai anh, vai cha, giờ đây anh mới để lộ con người tình cảm. Cái tình cảm anh cố vùng vẫy chống cự, che giấu. Lúc nào cũng làm cái mặt ta đây đảng trưởng nghiêm nghị, cứng rắn, không bỏ qua một cơ hội nào là không huấn luyện đàn em, nhất là tôi, anh còn bắt khoan bắt nhặt, thử thách nhiều hơn tất cả các anh em khác.

Tối đến, anh trèo lên nóc nhà, lấy giây câu điện ở cột đèn ngoài đường vào phòng. Thế là trong khi cả tòa nhà thắp đèn dầu leo lét, chúng tôi có đèn điện, lại có cả cái lò điện nhỏ dùng để sưởi và nấu nước trà nóng, còn phong lưu hơn tất cả các bạn đồng hành.

Trong ánh sáng, lò sưởi ấm, cạnh chén trà nóng, anh tạm gác bỏ vai trò đảng trưởng, hiền hòa ngồi chép cho tôi bài thơ Trường Hận Ca của Bạch Cư Dị:

Hán Hoàng trọng sắc tư khuynh quốc
Ngự vũ đa niên cầu bất đắc...

Trong khi chờ đợi đoàn xe tiếp tục lên đường, chúng tôi ngày ngày đi xem phố và các Tô giới. Người trong thành phố đông như kiến, thực đúng như kiến, không ngoa chút nào. Tôi có cảm tưởng nếu có ai ngã xuống đất, thì chỉ trong chớp mắt sẽ bị dẫm nát ngay, mà không ai biết là mình đã dẫm lên cái gì. Họ đi ngược đi xuôi, mua đồ, ngắm phố, ăn cắp vặt, móc túi, giật ví... đủ các mục đích.

Chỉ lơ đãng một giây phút là có thể bị cái làn sóng người ấy đánh giạt đi mất tăm mất tích trong chớp mắt. Hùng sợ tôi bị lạc, nắm chặt tay tôi để kéo đi cùng một hướng.

Và bắt đầu từ đấy cho đến khi về đến nhà, suốt cuộc nhàn du, đi bộ cả một ngày trời, anh không hề thả tay tôi ra nữa”.(Nhật ký ngừng)

° ° °

Ngày ngày ngồi trong phòng nhìn qua cửa sổ, trông theo dáng các cô gái Thượng Hải, đi giầy bông, che ô có vẽ những hoa lá mầu dịu dịu đi dưới đám mưa bông tuyết phơi phới, Trang lại nhớ đến những ngày nắng ráo, những buổi đi chơi Mạc Sầu Hồ, Huyền Vũ Hồ, Yến Tử Cơ, Vũ Hoa Đài ở Nam Kinh. Nhưng sự thực của hiện tại chỉ là những cơn ho xé phổi, suốt đêm không thể nằm được vì ngạt thở, người Trang cứ lịm dần đi. Trang lại ngồi dựa lưng vào tường...

Một hôm Trang gần chết ngất vì ngạt, Vũ phải cuốn tất cả chăn đệm của mình cho Trang ngồi dựa lưng để cố giữ lấy hơi thở. Rét đến thau nước trong phòng cũng đóng lại thành băng. Hùng ngồi ngủ gật bên cạnh lò điện để sưởi. Và lúc giật mình tỉnh dậy không hề dám than tiếc bộ quần áo rét độc nhất đã bị cháy xém mất một bên ống...

Lắm hôm tuy thực mệt nhọc cũng không thể nín cười được với những lời khôi hài của Nguyễn, anh ở phòng trên và rất thích trốn vợ đến chơi với bọn Trang, và lúc đến không bao giờ quên mang theo trà và kẹo đậu phụng. Anh thường bảo Trang:

- Cô chóng khỏi đi rồi tôi kể lịch sử đời tôi cho cô nghe, thực là một thiên tiểu thuyết, phiêu lưu mạo hiểm và cả du ký nữa. Này nhé, sang Tầu, bắn chết một người, nên bị tù 8 năm ở Quảng Châu, ra tù đi lính mướn và làm qua bao nhiêu nghề mạo hiểm khác nữa, vào đội lính xe tăng được quân đội Mỹ đưa sang huấn luyện ở Diến Điện. Có vợ khắp các xứ, đi khắp nước Tàu. Về Việt Nam tước khí giới quân Nhật xong lại sang Tàu. Chỉ huy một Lữ đoàn. Bây giờ bị cái cô vợ trẻ này nũng nịu quá thành ra nhụt cả chí khí anh hùng.

- Thế năm nay anh bao nhiêu tuổi?

- Vợ tôi vẫn tưởng tôi mới 30, nhưng sự thực thì...... xin cô cũng làm ơn tưởng như thế cho.

Thấy cuốn truyện Kiều để trên bàn, anh vớ lấy đọc và bảo:

- Tôi đố ai biết cô Kiều hơn cô Vân bao nhiêu tuổi?

Không ai trả lời anh tiếp:

- Bao nhiêu tên đất trong này tôi đều đi qua cả. Cô Kiều mới lưu lạc có 15 năm mà đã than rằng hết xuân, vậy như tôi đây lưu lạc những hơn 25 năm thì còn gì là xuân nữa hở trời.

Nhưng anh bỗng nín bặt trong khi mọi người cười, vì nghe tiếng bà vợ trẻ đang nheo nhéo gọi ở cầu thang:

- Yuan a, Yuan a!

Anh vừa chạy vưà nói:

- Nếu tôi là Từ Hải chắc cũng không thể nào làm khác được!

Bọn Trang dự định về Quảng Châu thành ra ai cũng cố làm cho số hành lý càng ngày càng nhẹ. Một hôm Vũ đi phố về hớn hở bảo Trang và Lưu:

- Hôm nay ngoài cơm nhà binh ra, chúng ta có một bữa tiệc thịnh soạn đây!

Trang nhìn tay Vũ thấy một gói mì và rau cải:

- Giầu thế cơ à! Có mấy cuốn sách nát mà đổi được lắm thế này?

Vũ rút trong túi ra một nắm giấy bạc, ném lên bàn:

- Đã hết đâu, còn đây nữa! Thực là bất ngờ, lúc tôi đang cầm mấy cuốn sách nhìn vào các hàng sách cũ không biết nên vào hàng nào thì bỗng nhiên có người vỗ vai hỏi:

- Mấy cuốn sách ông có bán không, bán bao nhiêu?

- “ Bao nhiêu cũng được!”

- “ Bao nhiêu thì cứ nói đi mà.”

- “Cần quái gì, bao nhiêu cũng được”

Hai người cứ dùng dằng mãi cho đến khi đi hết quãng đường ấy, người kia bèn rút ra một nắm giấy bạc nhét vào túi tôi, tôi không xem bao nhiêu tiền và người kia cầm lấy mấy cuốn sách ấy cũng không xem là sách gì nữa, ai đi đường nấy!

- Dễ chịu quá nhỉ!

- Có lẽ họ tưởng mình là một thư sinh nghèo túng đi bán sách, và họ cũng đã từng có cái kinh nghiệm dìm giá của các hàng sách nên có ý mua giúp, và có lẽ họ mua mà cũng không dùng đến.

Có nhiều hôm đi chơi phố, bỗng nhiên thấy một người ăn mặc rất lành lẽ, áo quần giầy mũ đều bằng bông rất đủ ấm, tay nắm một mớ giấy bạc chìa ra trước mặt Trang, miệng cuời cười lẩm bẩm nói gì không rõ. Anh Nguyên bảo:

- Ăn mày đấy! Họ cầm một nắm giấy bạc để tỏ ra rằng đã nhiều nguời cho họ rồi, vậy mình cũng phải cho thêm vào đi! Trang bảo:

- Nhưng sự thực thì lão ấy còn giàu hơn chúng mình cơ mà!

Lại còn khắp các ngả đường chỗ nào cũng có ăn mày ngồi, có người đắp chăn nằm ngáy khò khò, bên cạnh một tấm giấy viết rõ tình cảnh khổ sở và một cái thau đựng đầy bạc. Ai đi ngang cứ việc ném tiền vào đấy, và người xin tiền ngủ đẫy giấc, thức dậy thấy sẵn tiền chỉ việc bỏ vào túi là xong.

Trang cũng có dịp đi chơi các công viên, phần nhiều đều phải mua vé vào cửa, và bên trong nếu có vườn động vật hay thực vật thì phải mua thêm vé nữa mới được vào xem. Trong vườn động vật chỉ có một ít ngỗng vịt, nai, các thứ chim thường thấy và khỉ mà thôi. Ra về Trang có cái cảm giác như mình bị lừa vậy, nhưng những người xem khác thì có vẻ thỏa mãn lắm. Có lẽ tại họ quen sống trong thành phố cửa nhà san sát, ngoài đường thì người đi lại như ngày hội.

Được xem một cảnh có cây có trời, thở một chút không khí trong sạch, hay bước một bước mà chân không phải vướng người trước và người sau. Được như thế họ đãø mãn nguyện lắm rồi.

Một buổi sáng mùa Xuân trời còn rét, đoàn Quân Xa rời Thượng Hải tiếp tục cuộc hành trình trở về phương Nam, vào ngày kỷ niệm 72 liệt siõ Hoàng Hoa Cương. Cờ thanh thiên bạch nhật treo đầy các cửa nhà, đường phố, người đi lại đông nghẹt. Đoàn xe chầm chậm len vào giữa đám người và cờ. Bọn Trang đưa khăn tay ra vẫy, một vài người vẫy lại, có lẽ họ muốn an ủi những kẻ ngồi trên quân xa là kẻ ra đi không hẹn ngày về.

Ra khỏi tỉnh Giang Tô đến Triết Giang với những cánh đồng cải hoa vàng bát ngát, doàn xe ngừng lại ở Hàng Châu.

Bọn người phiêu lưu này đã đi từ Thanh Đảo về, nên dầu mệt mỏi, họ tìm cắm trại trong khu vườn rộng bên cạnh hồ. Gió Tây hồ hiu hắt thổi uốn cong những cành liễu tha thướt rủ. Gió làm lộng cánh màn trắng nuốt của những chiếc du thuyền.

Người đẹp Hàng Châu đi dạo dưới rặng liễu rủ bên hồ, những người đang bơi thuyền trên hồ, và từng đoàn đàn bà già trẻ đeo bọc hương, chống gậy leo núi đi lễ chùa, vẽ một bức tranh đặc sắc của Trung Quốc.

Đêm thứ nhứt sau khi bơi thuyền đã mệt rồi, Trang đang nằm mơ màng trong chăn, bỗng nghe có tiến ồn ào ở chiếc xe bên cạnh của người Liên trưởng.

- Sao lại làm thế, thả nó ra!

Tiếng người Ban trưởng.

- Chúng tôi trót giết mất rồi!

Ôïng Liên trưởng phàn nàn:

- Phiền nhỉ, thôi thế thì các người chia nhau vậy!

- Ông cũng uống với chúng tôi một cốc rượu nhé?

Ôïng Liên trưởng dẫy nẩy lên:

- Không, không, đời tôi chưa từng bao giờ!

- Ồ, việc quái gì, chưa từng thì bây giờ hãy thử xem sao.

Mấy phút sau nghe tiếng chó kêu ăng ẳng rất thảm thiết. Không

ngủ được, Trang trở dậy đi vòng ra vườn sau “ điều tra”. Thì ra lúc chiều cửa vườn mở có một con chó béo tốt ở đâu chạy vào, bọn lính đóng cửa vườn lại để nhốt chó và trình với ông Liên trưởng. Khi thấy ông ta bảo thả ra, họ bèn nói dối là đã giết rồi để không thể nào làm khác được.

Không muốn bỏ phí một cái cơ hội du lịch Hàng Châu danh thắng, mỗi ngày bọn Trang đi xem cảnh đẹp, hay đi viếng các đền chùa cổ tích nổi tiếng. Một hôm đi xem miễu mộ cha con Nhạc phi, một công thần nhà Tống. Bỗng nhiên trời đổ mưa, bọn Trang bèn đi mãi về phía sau đền, nơi thờ mẹ Nhạc phi, trông thấy rất nhiều người cầu xăm, anh Hùng cũng rút một thẻ và tìm ra được bốn câu thơ có ý nghĩa rằng nên an cư lạc nghiệp và phải biết “ tri túc” anh xem xong gật gù cười bảo:

- Chà, Thánh Mẩu linh thật, ngót một năm nay mình chuyên làm nghề thất nghiệp, lười đã quen thân, bây giờ Thánh Mẫu lại khuyên rằng nên an cư giữ cái nghề “ thất nghiệp” chứ đừng nên tìm việc gì, thực là dễ chịu quá!

Và lúc trở về nơi cắm trại trần xe bằng vải có một lỗ thủng. Trận mưa tai hại vừa qua, như một vòi nước máy, tưới vào cái xách đựng luơng thực. Anh nhặt những hộp bánh ướt, nhão như bùn vứt qua cửa xe gật gù:

- Thánh Mẫu mới thiêng làm sao! Bà ta bảo mình nên tri túc, nghĩa là ngày hai bữa cơm lính đủ rồi, còn mua những cái quái này làm gì!

Không những cảnh đẹp Hàng Châu được bọn Trang thưởng thức, cả những món ăn danh tiếng của Hàng Châu như món măng nổi tiếng, cũng được học hỏi, lấy cớ rằng phải biết để cho rộng kiến văn.

Sau khi được tin những quãng đường bị Cộng quân cắt đứt đã lấy lại được, đoàn xe lại lên đường, từ giã Hàng Châu với đầy luyến tiếc. Lúc đoàn xe chầm chậm vượt qua sông Tiền Đường, Vũ anh bạn rất nghệ sĩ lại bảo:

-Kìa đúng chỗ kia là nơi cô Kiều nhẩy xuống tự tử đấy!

Anh nói bằng giọng chắc chắn và không cười, như chính mình đã được trông thấy cô Kiều nhẩy xuống sông vậy. Qua khỏi cầu từ lâu mà anh vẫn còn lim dim đôi mắt, mơ màng tưởng chừng như chính mình là Kim Trọng lúc đứng bên bờ sông mơ bóng giáng nàng Kiều.

Đoàn xe lại bắt đầu len vào những trái núi hiểm trở trong đám sương mù buổi sáng dầy đặc. Hai bên đường hoa đào nở đỏ rực rỡ, rơi đầy xuống những giòng suối giòng sông, hoa mơ trắng xóa nở đầy trên sườn núi. Nhìn giòng nước chảy cuộn hoa trôi theo, Trang lại nhớ đến truyện cổ tích” Lưu Nguyễn nhập Thiên Thai”. Năm xưa, từ một thuở rất xa xưa, có hai người họ Lưu và họ Nguyễn rủ nhau vào núi hái thuốc. Họ men theo giòng sông có những cánh đào trôi, họ bơi thuyền ngược giòng nước tìm đến nguồn đào và gặp người Tiên ở động Thiên Thai...

Hôm nay bọn người phiêu lưu cũng đi theo dấu hoa đào. Nhưng không phải tìm đến Đào nguyên. Họ chạy như chớp về phương Nam nơi chưa có đạn lửa.

Những đêm lên đèo trời mưa tầm tả, trên con đường nguy hiểm, đèn xe yếu, cầu lại gẫy hay bị phá, nên thường họ phải dừng lại chớ không dám đi liều. Trên con đường độc đạo, hai bên là sườn núi, đoàn xe đậu liền nhau im lìm. Trang vẫn ốm nằm trong xe, vừa đói vừa rét, đợi nghe những tiếng súng đánh nhau và sẵn sàng để bị bắt như mọi người nếu đoàn xe bị bao vây. Nhưng Trang được may mắn không nhìn thấy những mũi súng chĩa ngay vào chiếc xe mình.

Đoàn xe đi hết Triết Giang và vào địa phận Phúc kiến. Nơiø hàng chục rặng núi liên tiếp nhau, đường không lúc nào bằng phẳng, hết lên đèo lại xuống đèo, xuống rồi lại lên. Những chiếc cầu mục nát vắt vẻo trên sườn núi rung lên kêu răng rắc dưới sức nặng của chiếc xe nhà binh như muốn đổ. Những lúc đó trong mắt Trang những chiếc cầu cũ nát xấu xí ấy mới thực là quí giá đẹp đẽ đáng yêu nhất trên đời! Vì mỗi khi gặp góc cầu nào bị phá, một nửa ngày giờ của mọi người đều tiêu phí cả vào công việc sửa chữa. Cứ mỗi khi qua khỏi một chiếc cầu, họ lại thở dài khoan khoái và sung sướng như vừa thoát khỏi một tai nạn...

Trên con đường thiên lý dài dằng dặc, đoàn xe vẫn ngày đi đêm nghỉ không ngừng. Cuộc sống chung đụng với đám quân và dân Tàu làm cho tầm mắt Trang mở rộng ra một chút. Mỗi chiều đoàn xe dừng lại ở một thôn trang vắng vẻ, bọn lính và sĩ quan lại chia nhau đi lùng khắp xóm làng để tìm chỗ tắm rửa, ngủ nhờ, nấu cơm và mua gà vịt, trứng v. v..

Trang còn nhớ đêm hôm ấy cả bọn đều ngủ ngồi trên xe trong một khu rừng vì chiếc cầu ở đàng trước đã bị phá. Đoàn xe hơn 90 chiếc phải từ từ lội sông. Tính ra ngày mai mới đến lượt xe Trang vì mỗi chiếc qua sông mất đúng 15 phút. Mọi người đang mơ mơ nửa thức nửa ngủ, bỗng nghe soạt một tiếng ở trong bụi cây bên đường. Người ban trưởng giật nẩy người lên hốt hoảng gọi vợ:

- A Hoà, xám pao! (bọc áo)

Và hai vợ chồng nhanh như chớp, vồ lấy cái bọc con lúc nào kè kè cắp

theo bên mình, nhảy choàng xuống đất và chui vào gầm xe. Khi biết rằng đấy chỉ là mấy con vật trong rừng, vì đoàn xe đến gần không ngủ được, nên kéo nhau đi nơi khác, ông ta bảo Trang:

- Cô đừng tưởng! hừ, hừ bọn thổ phỉ ghê gớm lắm! Cô nên học cách chúng tôi, chọn lấy mấy bộ quần áo cần nhất đeo sẵn trong mình, nếu nhỡ bị chúng bắt thì có cái để thay.

Trang rất buồn ngủ. Tuy lần này muốn lơ mơ lại một chút thôi cũng không được, vì trên chiếc xe đậu trước Trang bọn chó con và gà con bị nhốt lại kêu ầm ỹ.

Trang nhận thấy khi đến một địa phận nào, Đoàn quân cũng lãnh được phần lương thực nhiều hơn số người. Trang không hề thấy có sự điều tra hay khám xét nào nên nàng đoán rằng cái gì cũng phải có lý do. Số xe độ 90 chiếc thì họ lãnh đủ dầu xăng, lốp xe và các phụ tùng khác cho hơn 100 chiếc. Đến một thành phố nào, mấy đêm đầu Trang cũng không ngủ được vì về đêm các quan mới cho lính lăn các thùng dầu xăng ầm ỹ cả lên. Thì ra họ gửi bớt đi, đổi lấy vàng để mang theo cho nhẹ! Không những “ gửi” số dầu thừa, họ còn gửi cả một nửa số cần dùng, khi xe hết xăng nằm lỳ ở bên đường trong một khu rừng hay ngọn đèo nào đấy, họ phái một chiếc xe con đi báo tin cho địa phương gần nhất đến cứu.

Còn một cách làm tiền nữa là nhặt nhạnh những hành khách chạy loạn trên đường. Cứ một chỉ vàng hay 6 đồng bạc trắng “ tài thầu “ là có thể đi một quãng độ 50 cây số. Trang không biết họ chia nhau ra sao chỉ thấy vợ chồng người ban trưởng phụ trách lái chiếc xe có Trang ngồi có vẻ hậm hực lắm.

Tuy thế đêm đến thỉnh thoảng cũng được nghe một vài tiếng tiêu vọng lại não nùng. Trang không biết đây là Xuân nữ thán hay Vọng mỹ nhân, Quá Quan hay Tô Vũ mục dương và người thổi là ai, chỉ cảm thấy trong đám quân nhân cũng còn có một vài hồn thơ. Các bạn Trang thường cười bảo đấy là tiếng tiêu sầu của người chiến sĩ gửi đến để hòa với tiếng “ violin” của Trang đêm đêm vẫn kéo không ngừng. Trên suốt khoảng đường dài nàng vẫn còn ốm về đêm và bệnh của Trang đã được thay bằng một danh từ mới :” Tiếng đàn violin”.

Đến Giang Tây và từ giã Giang Tây với những trận mưa thình lình, đoàn xe bắt đầu vào địa phận Quảng Đông...

Đến Khúc Giang, đoàn xe ngừng lại để chữa một số xe hỏng và kiểm điểm những tổn thất của cuộc hành trình. Trong mấy tháng trời họ đã tiêu phí mất một tháng ở Thượng hải, một tháng du ngoạn Tây hồ ở Hàng Châu, những ngày “ nghỉ mát” không ngờ. Còn lại một tháng đã vượt được gần hai nghìn cây số. Và trong đoàn xe vài chiếc đỗ bên ruộng, vài chiếc rơi xuống cầu, vài chiếc lúc lên đèo vì máy hãm không tốt nên thụt lùi, và lùi mãi xuống những chiếc hố sâu bên sườn đèo, vài chiếc bị phục kích bắn hỏng, một vài người chết, hay bị thương. Ngạc nhiên vì trong số những xe và những kẻ bị nạn không có mình, bọn Trang thở dài nhẹ nhàng như tỉnh một cơn ác mộng. Cám ơn Trời. Cám ơn mẹ.

Đến đây đường xe lửa đã thông, bọn Trang từ giã người Liên trưởng và các bạn đồng hành đổi sang xe hỏa về Quảng Châu. Và Trang đã được mục kích một cảnh tượng chạy loạn bất hủ trên chuyến xe hôm ấy.

Người soát vé hỏi một đám hành khách :

- Đi đâu?

- Chạy loạn.

- Chạy về đâu?

- Quảng Châu

- Vé đâu?

- Không có.

- Ô hay, không mua cả vé thì nửa vậy, nếu không thì.. (người soát vé ngửa tay ra) chút ít vậy, chứ sao lại... vô lý thế!

- Một xu cũng không có!

Người soát vé phát cáu:

- Các người đã không có vé thì đi xe chậm chứ sao lại đi xe nhanh hở.

Người bị hỏi vé cũng hơi cáu:

- Các ông này mới lạ chứ! Người ta đã không có tiền nếu đi xe chậm ở những mấy hôm trên tầu thì lấy gì mà ăn hở.

Người soát vé sợ hãi muốn lẫn sang toa khác nhưng người hành khách còn mắng theo:

- Người ta chạy loạn từ Bắc kinh về đây hết sạch cả tiền, chính phủ đã không giúp thì thôi lại còn bắt mua vé!

Người soát vé cũng trả lời có vẻ thẫn thờ:

- Nhưng nào tôi có phải là chính phủ đâu!

Trang theo sát cánh đoàn dân chạy loạn để đuợc xem nốt tấn kịch lúc tầu đến Quảng Châu.

- Vé đâu? Nộp vé lại rồi hãy ra cửa!

Người hiến binh gác cửa đứng cạnh người thu vé vừa hỏi vừa chận đám người đang ồ ạt chen nhau ra trước.

- Không có vé!

- Không có vé thì đừng ra.

Một thiếu nữ có lẽ là em gái của người hành khách chạy loạn lúc trên tầu bước dấn lên cười nhạt bảo:

- Này, tôi bảo cho mà biết người ta đi từ Khúc Giang về đây ngót 300 cây số còn chả sao nữa là! Bây giờ chỉ còn ra cửa rõ khéo lôi thôi!

Cô ta đẩy người hiến binh lẫn cả người soát vé sang bên cạnh để lấy lối đi và hơn nữa còn chạy ra chạy vào mấy lần để khuân nốt đám hành lý còn sót lại bên trong ga dưới đôi mắt ngạc nhiên tròn xoe của người hiến binh. Gái thời loạn!

Phượng Các
#15 Posted : Friday, December 17, 2004 3:11:32 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
Chương 8. Trường Trung Sơn


Ðến Quảng Châu, bọn Trang vào một khách sạn gần bến xe. Tắm rửa ăn uống xong, Trang ngủ một giấc cho đến sáng hôm sau, lúc giật mình thức dậy thấy trong phòng chỉ có một mình nằm trên 4 chiếc ghế kê liền nhau với đống hành lý ngổn ngang. Trang lại ngủ cho đến lúc những tiếng ồn ào đánh thức dậy. Hùng, Vũ, Lưu đã trở về thêm ba sinh viên Việt Nam nữa, Vũ nói:

Trước hết chúng ta hãy đưa cô Trang đi ăn vì cô ấy bị làm “valy” ở đây đã quá bữa rồi! Cơm nhé! Khổ chủ là anh Nguyên biệt hiệu “Cẩu y sinh”.

Trang nhìn Nguyên thấy mặt anh đỏ lên, tuy nước da Nguyên ngăm ngăm đen nhưng cũng không dấu được.

Nguyên ấp úng cải chính:

- “Cẩu y sinh” là thầy thuốc chuyên chữa bệnh chó chớ không phải chó làm thầy thuốc đâu.

Trang cười:

- Cũng không sao, nhưng thôi, anh cho tôi ăn “Woành thánh mìn” nhé! Ba tháng ăn nửa phần cơm lính tôi đã thấy đủ lắm rồi.

Lúc ngồi ở tiệm ăn, Trang hỏi Nguyên:

- Trước anh đã học qua thú y phải không?

Nguyên lại đỏ mặt, Lưu đỡ lời :

- Không, trước anh ấy đã học hai năm trường thuốc ở Hà Nội, nhưng bây giờ học ở Văn Học Viện khoa ngữ ngôn. Lạ một cái là từ ngày anh ấy đổi môn học thì ngay đến thuốc đau đầu của anh ấy đưa cũng không hiệu nghiệm nữa! Nhưng hễ chó nhà ai bị ốm thì anh ấy cho uống gì cũng khỏi, vì thế nên chúng tôi đồng lòng...

Nguyên cướp lời:

- Còn đây tôi xin giới thiệu anh Ðoan, người có bộ mặt đẹp trai nhất trong đám thanh niên ở đây, nhưng lúc anh vừa mới sang Tàu là cạo ngay đầu trọc, và ở trường thì vì thể diện của người Việt Nam nên dù rét như cắt cũng cởi áo nhẩy ùm xuống ao lội hàng giờ để.... tắm mát.

Trang kinh ngạc:

- Thể diện cho người Việt Nam?

Ðến lượt Ðoan đỏ mặt cắt nghĩa:

- Có gì đâu, hồi mới sang Tàu, tôi chưa biết tiếng nào cả, một hôm vào hiệu cắt tóc. Tôi không biết nói sao nên chỉ ra hiệu bảo họ cắt thật ngắn, thật ngắn. Họ hỏi tôi:

- Thay coóng thầu? (cạo trọc ?)

Tôi không hiểu nên chỉ gật gật ậm ừ, thế là chỉ mấy lát “toong đơ” tôi biến ngay thành hòa thượng! Về đến nhà lũ trẻ con bạn tôi cứ chạy theo chế nhạo mãi “Nị coóng thầu! Ngộ coóng thầu”.

- Thế còn thể diện cho người Việt Nam?

- Chỉ tại mấy thằng bạn hỏi tôi: “Có phải người Việt Nam chúng mày sạch sẽ lắm phải không? Ngày nào cũng tắm một lần dù nóng hay rét.” Tôi ừ thành ra trót khoe phải giữ lời ,đành cố làm cho đúng vậy.

Hùng chỉ Lưu bảo:

- Còn anh Lưu nầy là một họa sĩ rất đa tình, mới sang Tàu chưa bao lâu mà đã đòi để cho con gái Tàu cưới!

Lưu phân trần:

- Hồi ấy tôi còn ở biên giới có biết gì đâu. Có con bé học trò mê tôi quá, tôi cũng thích nó, lại mới lõm bõm được mất câu tiếng Tàu. Một hôm nó đến chỗ tôi ở nằng nặc hỏi tôi có yêu nó không, tôi cũng đáp liều: “Ừ, ngộ dách tình ca nị! ngộ dách tình ca nị” (tôi nhất định lấy cô!) Ai có biết đâu chữ “ca” nghĩa là “giá” dùng để nói con gái về nhà chồng. Bây giờ biết ra thì tim tôi đã nguội rồi, chả còn muốn “ca” ai, hay ai “ca” nữa!

- Anh ấy lại còn một cái ý tưởng rất mới nữa, là cho thổ phỉ với binh sĩ giống nhau!

Lưu cãi:

- Phải nói về tiếng thì tôi đã nhầm thổ phỉ với binh sĩ thực, nhưng nếu nói sự thực thì có khác gì đâu! Khi hai quân đánh nhau, binh sĩ chạy sang bên kia đầu hàng thì chả hóa ra thổ phỉ là gì. Và trái lại thổ phỉ muốn thành binh sĩ cũng không khó!

Ðoan chỉ một nguời bé nhỏ, khuôn mặt xương xương và có một đôi mắt rất tinh nhanh bảo:

- Còn đây là anh Lâm, anh ấy ba phần tư Việt Nam, tự coi mình như người Việt Nam, nhưng lại là dân Tàu. Anh ấy là người đã dịch bộ Việt Nam Văn Hóa Sử Cương ra chữ Tàu để hù các ông giáo dạy Lịch sử. Sự thực thì năm nào thi anh ấy cũng chỉ trượt môn Lịch sử.

Lâm tươi cười:

- Ấy, tôi định thi vào môn Lịch sử, nhưng đến lúc thi cứ nhìn vào đầu bài thì bao nhiêu mồ hôi cái mồ hôi con đã toát ra như tắm rồi! Có lẽ tại tôi có ý xấu, định đến năm thi ra sẽ làm luận văn nói về lịch sử Việt Nam, cái giống “Con Rồng, Cháu Tiên” của các anh các chị, để cho quí vị giáo sư chả biết đâu mà tra cứu cho nên Trời phạt đấy.

- Còn đây là cô Trang, các anh đừng thấy cô ấy bé thế mà coi thường, bé hạt tiêu đấy. Ai lại dám xuống tàu không có passport, không mua vé, không có áo ấm, không trả tiền ăn, không quen ai ở Hongkong trước. Thế mà cũng đến được đây. Và còn một sự lạ nữa là cô ấy kéo “violin” tuyệt lắm, từ bé đến giờ, mùa đông đêm nào cũng kéo thế mà vẫn chưa đến được Suối Vàng!

Ðoan hỏi Trang:

- Cô sang đây ghé Hongkong trước, thế có gặp Cựu Hoàng không? Một nhân vật nổi tiếng nhất của nước ta mà!

- Có, riêng tôi thì không có lý do gì để gặp, nhưng vì Người cần gặp ba tôi để hỏi thăm tin tức nước nhà nên gặp cả tôi.

- Thế Người có hỏi gì cô không?

- Có, Ngài hỏi tôi có biết làm bánh bèo không? Tôi nói không đủ đồ dùng để làm.

- Thế thì cô dại! Sao không trả lời ở Hương Cảng làm gì có bèo!

Lâm gật gù:

- Người Huế đi lâu nhớ bánh bèo là phải lắm. Không nhớ mới đáng đánh đòn.

- Nhưng tại sao Ông cụ không trói cô lại, bỏ lên máy bay đem về Việt Nam gả chồng, hay đánh cho một trận về cái tội “đi lạc đường....?”

Trang cười :

- Tôi cũng không hiểu, Chắc ba tôi nghĩ là tôi “hết thuốc chữa” nên cho phép tôi làm gì thì làm, miễn khuất mắt đỡ phiền. Bài thơ “Giận thì khi đánh quạnh thì thương” ông cụ làm cho tôi mà. Chắc cụ nghĩ thôi chẳng thà ở xa để “quạnh thì thương” còn hơn ở gần mà phải “giận thì khi đánh”. Chắc là phải đánh hoài mỏi tay ông già ! Nhưng dù sao trước khi về, Ông cũng đã rũ sạch túi còn 100 đô la Hongkong cho tôi, cho cả cái va li hành lý quà cáp định đem về nhà. Nhờ thế tôi mới có 8o để mua vé máy bay đi Nam Kinh với anh em, và có đồ để bán dần mua hành tây....

- Ông Cụ sính thơ thế có bao giờ tặng thơ cho người đẹp không?

Trang cười to:

- Ðó là “nghề của chàng”. Bao nhiêu bạn gái của mẹ tôi đều giúp ông gợi hứng hết. Bài thơ ông tặng một nữ danh ca thượng thặng đã sồn sồn có câu:

« Gặp nhau chi lúc chợ gần tan »

Tình tứ quá làm trái tim giai nhân nhảy tùm lum đan tư mất mấy tháng.

Lưu bỗng nhiên hỏi :

- Ông Cụ đến chắc không cần thông dịch viên. Có con gái hướng dẫn, thiếu chữ thì múa tay phải không?

- Tôi chỉ mới học vớ vẩn vài câu thôi, nhưng cũng phải chế biến. Ví dụ như ba tôi muốn mua thuốc nhộm tóc, tôi không biết nói sao bèn hỏi người bán hàng: Có thuốc làm cho tóc trắng thành đen không? Họ hiểu tôi muốn gì. Thế rồi cũng xong. Ba tôi muốn nhuộm tóc, chắc ông còn định làm khổ mẹ tôi dài dài.

Lâm bỗng cất giọng nghiêm trang hỏi:

- Nếu chúng ta có nhiều tiền, thì nên giữ cách nào, hay là làm mất tiêu cách nào nhanh nhất ? Ai có kinh nghiệm nói đi cho anh em học hỏi.

Vũ chỉ Trang cười:

- Cứ học lối cô Trang, gửi tất cả cho “Nha hữu quyền” cam đoan sẽ mất tăm mất tích trong chớp mắt !

Nguyên tiếp:

- Còn cách của tôi thì cho vào túi sau quần tây!

Ðoan cắt nghĩa:

- Anh “Cẩu y sinh” của chúng ta kỳ nghỉ hè vừa qua, ra làm việc ở hai nhà thương. Sáng một nơi, chiều một nơi. Ba tháng trời để dành được bao nhiêu cho tất cả vào túi quần sau, đi nghênh ngang ở phố thế nào không biết, lúc về đến trường chỉ còn cái túi không.

Lâm thêm:

- Còn cách của tôi thì đổi lấy tiền của chính phủ. Tôi để dành được một số tiền đô la Hương Cảng, suốt mấy năm trời dành dụm kia đấy. Vừa rồi chính phủ ra bạc mới, khuyên nhân dân nên tín dụng, ai có tiền ngoại quốc phải đổi ra bạc này. Tôi nghĩ tôi cũng là một phần tử.. yêu nước thành ra... chỉ trong mấy hôm... đã biến thành một mớ giấy lộn!

Và anh thở dài:

- Thôi, dù sao tôi cũng là người...yêu nuớc.

Ăn uống xong cả bọn kéo nhau đi thăm ông Vương. Trước kia ông là một nhà cách mệnh nhưng nay chỉ chuyên dạy Anh văn và nuôi chim Bồ câu bán để cung phụng hai bà vợ Tàu. Ông người cao lớn, để râu mép, trông như một nhà đại tư bản và rất trẻ, trái ngược với hai bà vợ cùng già và gầy gò. Ông sốt sắng hỏi bọn Trang:

- Các anh các chị mới sang đây đem theo nhiều hành lý không?

Lưu trả lời:

- Vừa đủ dùng thôi ạ!

- Ấy chết, sao lại thế ? Phải đem nhiều vào chứ! Ðem được càng nhiều càng tốt.

Trang ngạc nhiên hỏi:

- Thưa ông đem nhiều để làm gì ? Mang xách nặng phiền lắm!

Ông nói chậm rãi:

- Cô không biết! Ðể khi nào hết tiền bán dần mà ăn chứ!

Bọn Trang chỉ nhìn nhau mỉm cười thông cảm.

Từ giã ông Vương, cả bọn kéo đến thăm cụ Nguyễn, người đã có cái lịch sử cách mệnh hơn 40 năm, nhưng nay chỉ là một ông cụ già nghèo nàn, hai mắt gần như mù, sống với một bà vợ Tàu trẻ, và một đàn con lớn có, bé có.

Cụ cất giọng sang sảng:

- Các anh làm thế nào chạy hộ tôi 10 đồng, nếu không thì 8 hay là 6, 4 cùng lắm thì hai đồng cũng được!

Lúc Trang hỏi thăm đàn con cụ trả lời:

- Ấy các cháu nó đi đánh du kích cả.

Trang ngạc nhiên hỏi:

- Thưa cụ đánh du kích ở đâu? Nhưng các anh chị ấy còn bé lắm cơ mà!

Cụ cười:

- Không, đây là tiếng riêng của chúng tôi. Hôm nào nhà có gạo thổi cơm ăn thì gọi là “lục chiến” nấu được cháo là “thủy chiến”, không có gì là “không chiến”. Còn nếu “không chiến” lâu quá thì chạy sang các nhà hàng xóm quen biết ăn ké, đấy là “đánh du kích”.

Lúc từ giã căn phòng tối tăm bé nhỏ chỉ vừa đủ để một cái giường 2 từng,

còn thừa một khoảng nhỏ làm chỗ để chân, thấy Trang có vẻ ngậm ngùi, Hùng bảo:

- Khi xưa cụ cũng đã có một thời kỳ oanh liệt, tiếc vì cụ chỉ có lòng mà không có tài, đã thế lại có nhiều quân sư quạt mo quá! Giá mà cụ cứ nghe lời một người thôi thì cũng không đến nỗi nào, nhưng cụ lại nghe theo tất cả, làm theo tất cả thành ra cái gì cũng không thành! Hôm nay cụ nghe lời “quân sư” ủng hộ nhóm này, ngày mai cụ lại nghe lời quân sư khác mà đả đảo họ, mời phóng viên họp báo tuyên bố ầm ỹ cả lên, nhưng ngày kia cụ lại nghe lời một quân sư khác nữa mà viết thư xin lỗi!

° ° °

Trang đã có tất cả giấy tờ của bộ Giáo dục chấp nhận vào danh sách lưu học sinh và được lĩnh món tiền “Nam Dương Tưởng Học Kim” vào Chính Trị Hệ ở trường đại học Trung Sơn. Sau khi làm xong đủ các thể lệ nhập học, Trang được nhận một căn phòng cho 4 người trong tòa Nữ sinh túc xá tĩnh mịch.

Nắng nóng trả lại cho Trang một ít sức khỏe, chỉ một ít thôi cũng đủ làm cho Trang hớn hở. Trang lại cảm thấy yêu đời yêu mọi người và yêu cả đến khói thuốc lá mà Trang vốn không chịu nổi.

Chiều chiều, các bạn lại đến tìm Trang đi tản bộ, cả bọn thường hay trèo lên đồi , ngồi lên tảng đá cao ngất để hứng lấy ngọn gió trong sạch, và đây cũng là nơi có thể nhìn khắp khuôn viên trường. Mỗi học viện là một tòa lâu đài hùng vĩ xây trên một ngọn đồi và mỗi viện cách nhau độ 15 phút rảo bước. Trang nhìn khắp các nơi nhưng mắt nàng như sáng hơn và đầy âu yếm khi nhìn đến nơi Trang sẽ học, Tòa Pháp Học Viện vĩ đại sừng sững trên một ngọn đồi cao nhất với 100 bực thang nghiêng nghiêng bên sườn đồi.

Sau bao nhiêu gian lao và kiên nhẫn Trang mới có được cái kết quả nầy, Trang thấy mừng như điên. Và hơn nữa tự hiểu mình, trong lúc thân thể được khỏe mạnh, Trang như cố tận hưởng những giờ phút thần tiên ấy. Vì Trang không biết rằng mai đây nguồn vui của nàng có cùng chết theo với những chiếc lá bắt đầu vàng trong rừng cây quanh đồi không.

Những buổi chiều trèo lên đỉnh Trà Sơn, ngọn núi cao nhất cạnh trường, Trang nhìn quanh khắp các nơi, kìa là ánh đèn của thành phố Quảng Châu với khách sạn Aùi Quân 13 tầng cao ngất ngưởng. Những ánh đèn điện xa xa cách những hơn mười cây số lấp lánh. Bọn Trang thường gọi đấy là bầy cá vàng đang bơi lội trong không gian, và mỗi khi có các bạn đến chơi, bọn Trang không bao giờ quên đưa lên tận đỉnh Trà Sơn xem cá vàng để tặng các bạn không quen trèo núi một món quà kỷ niệm của trường Trung Sơn đại học.

Trong buổi đầu tiên học tiếng Tàu, bọn Trang ai cũng có nhầm lẫn buồn cười như câu chuyện “lụ hán” của anh Ðoan mà mỗi khi nhắc lại, anh vẫn còn đỏ mặt. Các nam học sinh Tàu vẫn có thói quen thân mật gọi nhau bằng “lụ” gì đó như “Lụ Txan” lão Trần, “Lụ Woong” lão Vương v.. v.. Một hôm anh Ðoan thấy các bạn chỉ một người đi ngang qua mà bảo nhau là “Lụ Hán” nhưng ông ta không nghe. Cho đến khi một bạn cùng phòng cắt nghĩa, anh mới toát mồ hôi lúc hiểu ra người mà anh định bắt chước gọi là “cái lão già kia” chính là một trong những ông giáo của mình.

Cái khó khăn của sinh viên Việt Nam là sinh viên Tàu trước khi vào Ðại Học đã có hơn 10 năm khổ luyện, và nói tiếng mẹ đẻ ngay từ khi mới học nói. Còn sinh viên Việt Nam lạc loài vào đến đất nước này phần nhiều cái vốn chữ Tàu cũng như tiếng Tàu rất khiêm nhượng. Thế mà cùng một lúc phải nhồi sọ hai thứ tiếng nói, tiếng bản xứ Quảng Ðông và tiếng Bắc Kinh được gọi là Quốc ngữ để nghe giảng bài trong lớp.

Lại còn cái thứ chữ không đánh vần mà phải nhận mặt từng chữ, như nhận mặt từng người. Ðối với Trang, nếu một nhóm người không ngồi chung với nhau mà gặp lẻ loi, Trang không nhớ ông ấy là ai mà trông hơi quen quen. Với chữ cũng thế nếu chúng không đi chung với nhau một nhóm mà gặp lẻ loi, Trang cũng thấy quen quen ngờ ngợ, không biết đã từng được giới thiệu ở đâu, hồi nào...



Buổi đầu học chữ Tàu của Trang cũng như tất cả các anh em khác lúc ở Namkinh là chia nhau chép cuốn tự điển Hán Việt Ðào Duy Anh. Mỗi người xé ra một phần, tự chép vào tập vở của mình, chuyền tay nhau chép cho kỳ hết. Năm ngàn chữ duyệt binh qua trong đầu nhanh như chớp cũng để lại một vài dấu vết, làm cho sau này khi đọc sách cũng thấy nó ngờ ngợ, quen quen, hình như đã từng gặp gỡ... và thế cũng đủ dấu vết để tìm manh mối kiếm chữ ấy ở đâu. Ðó là phần nghĩa và cách đọc ra tiếng Hán Việt.

Phần học tiếng Tàu mới thực là một kỳ công. Những ngày ăn cháo ra ngồi thư viện học cho ấm ở Nam Kinh, Trang làm nát hết bộ sách căn bản về văn pháp, tập đọc ra tiếng như trẻ con học, và phải đúng giọng chứ không được đọc trong trí như cách học của người lớn.

Cuốn sách đầu tiên Trang phải đọc để thực tập những gì đã học là cuốn Tam dân Chủ Nghĩa của Tôn Dật Tiên. Hùng chọn cuốn ấy để thực tập vì nó là kim văn chứ không phải cổ văn, dễ đọc, dễ hiểu và dùng toàn chữ chính trị. Ðó là những chữ cả bọn phải biết.

Cổ văn là thứ tối kỵ đối với Trang, nên các anh phải cố gắng nhồi thêm một ít vốn liếng, mong vướng trong đầu Trang được chút nào cũng đỡ vất vả về sau.

Lần đầu tiên sửa soạn món cổ văn, Trang dở một bài ra đọc và hỏi Nguyên:

- Khổng tử tại Trần Chương là gì nhỉ?

- Cô thử dịch xem.

- Khổng tử là đức Khổng tử, tại là ở nơi, Trần Chương là... là..

Anh Lâm cười tinh nghịch:

- Trần Chương là ông Trần Chương ấy mà! Khổng tử tại Trần Chương là nói chuyện Ðức Khổng tử đến chơi nhà Ông Trần Chương chứ gì nữa!

Thế là cả bọn cười ồ lên và sau khi biết rằng Khổng tử tại Trần Chương là Chương nói về Khổng Tử tại nước Trần, tiếng cười của Trang to hơn tất cả.

Những buổi tối rỗi việc, bọn Trang đến túc xá của các giáo sư tìm anh Vương, anh thết ăn mì hay phở. Tất cả cùng xúm vào nấu bằng bếp điện, món nước dùng chỉ có một ít tôm khô và rau cải trắng cũng đạm bạc như số luơng giáo sư của anh, nhưng nếu canh nhạt thì cho thêm muối, và nếu ít thì đã có nước. Ăn xong trèo lên gác thượng ngắm trăng. Bọn Trang có tất cả các thứ chuyện để nói! Chuyện nước, chuyện nhà, chuyện trường, chuyện học, chuyện quá khứ, tương lai, chuyện vui, buồn và cả đến chuyện những mối tình đầu vớ vẩn.

Trang được biết anh Ðoàn lúc còn ở Hà Nội, cứ mỗi khi trời mưa là khoác áo mưa đi xe đạp qua nhà “nàng”, chỉ cốt để mỉm cười chào nàng một cái, và được nàng mỉm cười chào trả lại.

Trang biết anh Nguyễn đã từng nằm lặng người trong chăn, nửa đêm lắng nghe những lời bàn bạc của cha mẹ, định đi hỏi người yêu của mình cho... ông anh.

Trang biết anh Vương đã từng sống qua một cuộc tình duyên rất thơ mộng với một thiếu nữ Việt Nam trên đất Cao Miên, nhưng đến lúc cần anh lại ra đi, lòng nhẹ lâng lâng...

Trang biết anh Lâm...

Trang biết...

Và Trang, nàng cũng phải kể ra năm xưa lúc Trang mới bắt đầu biết làm dáng, có một người đã nhìn Trang với một đôi mắt đắm đuối say sưa, và Trang cũng hơi hơi nhìn lại đáp lễ. Nhưng chỉ có thế thôi, không hơn không kém. Vì mấy tháng sau, người ấy đã thành ra nguời của hải ngoại, của bốn phương, Trang thì ở quê nhà mỉm cười cầm cuốn sách đưa cao lên mặt vờ đọc...

Bọn Trang kể lại hồn nhiên và vui vẻ như kể chuyện cổ tích, một câu chuyện của người khác đã xa và xưa lắm rồi!

Thỉnh thoảng có một vài người Việt Nam ở các nơi đi qua thế nào cũng tìm đến trường chơi. Một hôm có một bậc đàn anh trong làng hải ngoại đến. Các anh em bèn đi gọi Trang đến Cư xá Giáo sư của anh Hùng, vì anh cũng là một Giáo sư nên được một phòng. Còn sinh viên phải chịu 4 người một phòng. Cả bọn họp nhau để bàn định nấu cơm mời khách. Trang nhớ có lần nghe Vũ kể chuyện có một người Việt Nam đã từng than thở với anh:

- Từ ngày tôi ra hải ngoại chưa từng được ăn bữa nào thực no cả!

Và hơn nữa:

- Mỗi lúc tôi vào tiệm ăn, bất cứ là cơm hay mì, cứ nhìn hai chồng đĩa bát không, cao ngất ngưởng trên bàn, ngượng với những người chung quanh nên đành phải thôi, chứ thực ra nào đã no đâu!

Không hiểu tại sao lúc nghe tin ông Hảo đến chơi, Trang nhớ ngay đến câu chuyện ấy và nghĩ thầm: “Khônglẽ tất cả anh em lại không thể mời ông ta ăn được một bữa thực no hay sao?” Vì thế Trang nấu ngay hai nồi cơm to tướng. Lúc ngồi vào bàn ăn, ông Hảo tươi cười bảo:

- Trời lắm thức ăn thế này cơ à? Tôi chỉ hai bát thôi. Thế này thì tôi không ăn cơm nữa, để dành bụng ăn đồ ăn vậy.

Trang bảo:

Ông cứ tự nhiên, có đủ cơm đấy ạ!

Ông Hảo nhìn theo tay Trang chỉ, kinh ngạc:

- Cô nấu cơm cho bao nhiêu người ăn hở? Hay là cô nấu luôn cả ba bữa vào một lần?

- Không, chỉ có ngần này người và ăn bữa nay thôi!

- Thế cô ăn mấy bát? Các anh ấy ăn mấy bát?

- Tôi ăn hai, các anh ấy mỗi người ba.

Ông trợn tròn mắt:

- Còn bao nhiêu về phần tôi cả! Cô định cho tôi trúng thực hay sao thế?

Bỗng ông ôm bụng cười sằng sặc:

- Thôi chết tôi rồi! Có lẽ cô nhầm tôi với ông Mai, cái con người từ ngày sang Tàu chưa từng được ăn no bao giờ!

Trang cũng cười theo với mọi người và rất ngượng, khi thấy còn nguyên một nồi cơm không ai động đến.

Mấy hôm sau lại có ông Tạ đến chơi, ông là một nhà cách mệnh vào bậc đàn anh, nhưng ông chỉ chuyên môn đi phò người khác. Lúc xưa ông đã phò một cái hội Ðồng Minh nổi lên đình đám một thời. Bây giờ ông đang phò một “cửa hiệu” Liên Minh mới mở. Bọn Trang chơi với ông chỉ vì cảm tình riêng chứ đối với sự bán rẻ tên mình cho treo vào bản tên họ của các “phổ ky” trong “cửa hiệu” thì nhất định không chịu.

Lúc Trang cầm một thìa muối đầy định cho vào nồi thịt kho, bỗng chợt nhớ đến sự nhầm lẫn hồi trước nên hỏi nhỏ Nguyễn:

- Ông ấy ăn mặn hay ăn nhạt nhỉ?

Nguyễn nhìn thìa muối ở tay Trang hốt hoảng:

- Chết chưa, ông này là ông Tạ chứ có phải ông Tăng đâu! ông Tăng mới là người “từ ngày sang Tàu chưa được ăn bữa nào đủ mặn chứ!”. Cô cứ nhầm người này với người kia thì nguy to!

Suốt bữa cơm, ông Tạ chỉ nói chuyện thơ, làm thơ, thi thơ, ngâm thơ. Nhắc đến Nam Kinh ông ngậm ngùi:

Cái kỷ niệm sâu xa nhất của tôi ở Nam Kinh là một hôm anh em mời đi uống rượu thưởng tuyết. Lúc ra về đêm đã khuya, tuyết vẫn còn rơi phơi phới, và trên mặt đất tuyết cũng dày đến hơn tấc. Tôi đang đi bỗng thấy trước mặt một giai nhân, giầy cao gót ghi lại trên tuyết những vết xinh xinh, tôi liền đi theo, vừa đi vừa ngâm nga :

"Người xưa đạp tuyết tầm Mai.
Ta nay đạp tuyết tầm ai đêm trường..."

Cho đến lúc đuổi kịp được giai nhân, mặt nhìn tận mặt thì mới rõ “giai nhân” đã ngoại lục tuần rồi! Quái, không hiểu tại sao “nàng” có cái bộ đằng sau đẹp thế! Sau đêm hôm ấy vì rượu, vì lạnh, tôi bị ốm một trận suýt chết, chỉ lãi được một bài thơ!

Buổi chiều ông mời cả bọn đi chơi Xá Hồ ăn phở.

Ði bộ suốt một tiếng đồng hồ mới đến cái vùng có món bánh phở nổi tiếng ấy. Bọn Trang dạo qua lại mãi hai dãy phố, sau cùng bước vào một tiệm ăn cũng khá to. Vừa bước lên lầu, Trang thấy giữa đám bàn ghế trống trải, bốn cô hầu bàn đang ngồi ngủ gật. Các cô thấy khách vào vùng dậy tỉnh táo hẳn lên. Cả bốn cô rối rít nào kéo ghế, nào đưa khăn tay, đưa thực đơn.

Lâm mỉm cười bảo nhỏ Trang:

- Tiệm vắng thế này chốc nữa nó “giã” cho nặng lắm đấy nhé! Cái mặt bốn cô bé này tôi còn nhớ rõ lắm.

Ông Tạ nhìn vào thực đơn gọi năm sáu món, nhưng món nào cũng không có cả. Ông đành phải đứng dậy chạy xuống bếp xem có món gì không để gọi.

Văn chỉ vào Nguyễn nói:

- Cô đừng thấy anh Nguyễn gầy thế mà coi thường, anh ấy quán quân môn chạy nhanh đấy nhé!

Nguyễn ngồi cạnh đỏ mặt nói:

Nhưng hôm nay “khổ chủ” là ông Tạ thì tôi không phải trổ tài nữa.

- Câu chuyện ra sao?

- Hôm ấy nhằm ngày Tiết Thanh Minh, tất cả mọi người đều lên núi thăm mộ, tảo mộ. Còn chúng tôi thì làm gì có mộ ở đây mà thăm! Chúng tôi cũng đi là chỉ cốt để xem các cô khóc sụt sịt đấy thôi. Lúc xuống núi ai cũng ghé vào hàng quán ăn uống. Thường thường chúng tôi cũng từng ăn nên biết gia, ai ngờ hôm ấy Thanh Minh, chúng nó đông khách tăng lên gấp 3 mà không nói trước. Lúc ăn xong nhìn đến cái giấy tính tiền thì...chao ôi !... Thế là anh Nguyễn phải chạy như bay về trường để... đem thêm quân cứu viện. Còn chúng tôi thì ngồi làm “va ly” ở đây.

Văn tức tối :

- Mà mấy con bé có vẻ hiểu hay sao ấy, nó cứ sán cái mặt phấn gớm ghiếc của nó vào tận mặt mình hỏi:

- “Còn ăn gì nữa không? Còn ăn gì nữa không?” mới dễ ghét chứ!

Ông Tạ đã gọi lên hai đĩa phở xào, hai chai Mai quế lộ, và hai đĩa cá mực khô xào. Ông hỏi:

- Tất cả nhà bếp của chúng nó chỉ còn có cá mực khô, thôi chúng ta “nhắm” tạm để nói chuyện thời sự vậy.

Ông nếm thử một tí rượu, nhăn mặt bảo Trang:

- Tệ thế thì thôi! Cô Trang, cô có thể uống một chai, không say đâu! Rượu giả!

Lâm gắp một miếng cá mực nhai bỗng hét lên:

- Trời, đế giầy phải không?

Sau khi nghiên cứu xong, ông Tạ chậm rãi nói:

- Không phải cá mực, chỉ là con bạch tuột đấy mà!

Vũ cũng gật gù:

- Ðúng là cao su xào!

Ông Tạ hầm hầm kêu tính tiền, và mặt ông tái hẳn đi khi thấy mảnh giấy viết rõ ràng 40 đồng, tuy tất cả chỉ đáng độ 15 đồng thôi. Ôâng phát cáu:

- Thì ra chúng nó bắt mình chịu cái thiệt hại cả tuần lễ vắng khách.

Một hôm, Tiến, đã bỏ học vào quân đội , bỗng nhiên từ Ðài Loan trở về.

Không bíêt Tiến nghỉ phép hay co ùnhiệm vu ïgì, nhưng anh em cũng họp trên gác thượng ngắm trăng, để nghe Tiến ba hoa kể chuyện dế mèn phiêu lưu :

- Gớm! gió ở Ðài Loan khiếp quá! Hai bên đường phải trồng toàn cột sắt để khi gió to người ta ôm dần từng cây cột mà đi, hay níu chặt lấy đợi bớt gió. Có lần một tiều phu đốn củi bị gió thổi bay bổng lên, may lão ta vớ được một cây đại thọ, và cứ ôm chặt lấy. Mãi ba ngày đêm mới xuống được, thành ra thằng con trai bẩy tuổi của lão ta ngày ngày phải mang cơm lên núi cho bố ăn.

Trang cười hỏi:

- Thế sao thằng con trai bẩy tuổi không bị gió thổi bay?

Cả bọn bật cười ồ cả lên làm Tiến đâm thẹn và bối rối:

- Ừ nhỉ,... nhưng mà.. Chuyện để thử trí thông minh của quí vị đó.

Trang nhớ lại hôm cùng đi một chuyến bay với Tiến lên Nam Kinh, hôm ấy trời xấu phải chờ hơn mấy tiếng đồng hồ để đợi tin tức khí hậu ở Nam Kinh gởi về. Tiến đứng nói chuyện bô bô với các anh em đi đưa, cái con người tuổi nhỏ hiếu thắng ấy lúc nào cũng muốn biểu diễn.

Trang đứng cạnh chậm rãi bảo:

- Anh Tiến thực là một “thiên tài”, tiếc rằng chưa gặp phải chỗ dùng!

Mắt Tiến sáng hẳn lên:

- Ồ, cô cũng biết đấy à! Tôi làm gì mới thích hợp cô nhỉ?

- Bán dầu trên xe lửa!

Bị mọi người cười, Tiến đâm ra ác cảm với Trang từ đấy. Thế rồi tiếp đến những ngày sống chung ở Nam Kinh, Tiến và Trang vẫn hay cãi nhau về những chuyện nhỏ nhặt. Tiến tự coi mình như một người đàn ông, nghĩa là không cần phải trông nom bếp núc, quét nhà, Trang thì tự coi mình cũng là một học sinh như các bạn, nghĩa là bắt buộc phải ở chung để học. Mọi người phải chia đều công việc ra làm chứ không thể bắt Trang làm hết “việc nhà” một mình. Trang chia phần:

- Tôi nấu ăn, rửa bát, các anh phải quét nhà, nấu cơm.

Tiến hằn học:

- Sao cô khôn thế? Cái ăn thì... chỉ phải... hừ, hừ, cô làm như cỗ bàn gì ấy! Mỗi ngày mấy chục đĩa?

- Thế thôi, tôi nấu cơm, quét nhà, các anh nấu ăn, rửa bát.

Tiến càu nhàu:

- Thế cô lại còn muốn khôn nữa! Làm cái ăn thì phải xếp sách lại dọn bàn, rửa bát thì phải dẹp bàn bày sách ra, lại còn phải ra ao, tôi chả dại!

Lại còn đến lúc trở rét, Tiến phải ra chợ mua rau, anh hậm hực:

- Ngày xưa, lúc ở Hà Nội, me tôi bảo đi chợ mua hành, tôi vặt cả lá vứt đi, bỏ củ vào túi kẻo ngượng, mà sự thực me tôi chỉ cốt dùng lá chứ không dùng củ. Bây giờ thì tôi đã hóa ra một anh bếp thực thụ rồi”! Mẹ ơi !!!

Vũ can thiệp:

- Nhưng anh thử nhìn xem, nếu để cô Trang ra chợ chắc cô ấy sẽ chết cóng mất! Cô ấy có... quần áo rét đâu!

Câu hỏi của Tiến bỗng gọi Trang trở lại với thực tế.

- Cô Trang, cô đã giải thoát được cái bọn nồi soong chắc thích lắm nhỉ?

- Thích chứ, cố nhiên.

Sau một thời gian xa cách, Tiến hình như đã hết ác cảm đối với Trang.

Anh Lang, người tự xưng có một cái quá khứ rất hư hỏng trước khi ra hải ngoại bỗng nhiên nói:

- Giá bây giờ được nghe một bài “Sa Mạc” hay “Mong anh khóa” gì thì thích quá nhỉ! Nói chuyện với các anh chán lắm! Toàn là một bọn trẻ con chưa từng biết cái cảm giác “dư một cánh tay” là gì, buồn chết!

Lâm bảo:

Nhưng ở đây có một “phái yếu”, tốt hơn hết là có biết cũng không nên nói

Vũ cãi:

- Ðừng nói thế, cô Trang cô ấy giận cho đấy, chúng tôi đã coi cô như một nguơì bạn trai từ lâu. Tất cả cứ tự nhiên.

Trang lại nhớ đến những ngày đầu tiên ở Nam Kinh và những cử chỉ bắt nạt của Vũ. Một hôm cơm dọn xong, Trang gọi các bạn:

- Nào, mời các anh lại xơi cơm!

Vũ đang ngồi xem sách quay lại nhìn cau mặt:

- “Xơi” cơm thì phải xới ra bát, chứ để cả nồi thế mà cũng gọi à!

Vũ nói bằng một giọng cáu thật sự chứ không phải nói đùa làm Trang ngạc nhiên mở to mắt ra nhìn.

Vũ ngồi vào bàn tự xới cơm ăn có vẻ rất khó chịu. Trang vẫn cứ đăm đăm nhìn mãi, nàng nghĩ thầm: “Ơ hay cái con nguời tự xưng mình là một nhà cách mệnh, cái con người muốn làm lãnh tụ, cái con người đã tự bảo rằng đã hy sinh tất cả tiền tài, gia đình, hạnh phúc ở quê hương để sống những ngày lênh đênh hải ngoại, cái con người muốn dìu dắt một đám học sinh để đào tạo nhân tài cho đất nước, cho ngày mai, cái con người ấy cũng có thể đài các... rởm được đến thế hay sao! Tại sao lại bắt Trang phải xới cơm ra bát? Trang có phải là vợ, con hay người ở đâu mà phải hầu hạ chu đáo đến thế?”

Một lần nhà chỉ còn có một miếng bí ngô, Trang xắt ra nấu canh và chỉ nêm có một chút muối.

Vũ nhăn mặt bảo:

- “Bí ngô nấu tỏi, bí đao nấu hành” chứ nấu cho ai ăn mà chả có mùi vị gì cả, nhạt nhẽo, lỏng bỏng!

Hôm ấy Trang tức giận đến ứa nước mắt, mỉa mai:

- Phải, nhưng đào đâu ra hành, tỏi, thịt, cá và các thứ mỹ vị khác bây giờ. Với lại mục đích của tôi ở đây có phải là để làm bếp thật ngon cho các anh “xơi” đâu.

Từ đấy Vũ đổi hẳn thái độ đối với Trang không còn có vẻ bắt nạt nữa. Mà cũng không như những ngày đầu thỉnh thoảng lại nói:

- Ðàn bà sinh ra là để làm nô lệ cho đàn ông

Trang mỉa mai nghĩ thầm:

“Hừ, Lai tỉnh, lai tỉnh, bớ hồn ! Ðừng có ở trên mây mãi có ngày chết đuối lỗ chân trâu. Thế mà cũng đòi làm cách mệnh”

Nhưng sau này tất cả những ý tưởng ấy đều biến đi đâu mất tiêu , Vũ thấy Trang ngót một năm trời vẫn không hề hớp hồn ai hay bị ai hớp hồn. Ðã qua những thử thách ấy rồi, tất cả đều coi Trang như một người bạn trai thực.

Trang bỗng giật mình vì Tiến lại hỏi:

- Cô Trang, ăn cơm ở trong trường ngon hơn cơm ngày nào ở Nam Kinh, Thượng Hải đấy nhỉ.

Trang cười:

- Cố nhiên, ít nhất là khỏe hơn vì khỏi phải nấu, và chỉ phải rửa có một bát riêng của mình mà thôi.

Lưu gật gù:

- Cũng nên coi cô Trang như một người bạn trai , vì cô ấy sợ nhà bếp và soong chảo ghê lắm.

- Giải thoát được ngày nào hay ngày ấy.

Những sự nhẫn nhục ở Nam Kinh nhắc Trang lại nhớ đến những sự nhẫn nhục hồi còn “kháng chiến” trong rừng. Trang ở đậu nhà một người trong xóm, một hôm con bà chủ nhà ốm, bà nhờ Trang giữ giúp coi chừng nó cho bà ra đồng, và nhân thể rảnh tay may mấy bộ áo Bà ba. Trang không biết may áo Bà ba đúng kiểu, nhưng chủ nhà năn nỉ xin cứ may , đẹp xấu không cần, hư không bắt đền, miễn sao con có áo mặc. Trang cũng liều đặt cái áo cũ rách nát lên vải mới, chừa thêm đường may cứ thế mà cắt rồi may cũng thành áo.

Ðến hôm sau Trang ra trụ sở bị Minh, một cậu bé con chỉ đáng tuổi em út Trang, nhưng lại là nhân viên cao cấp trong cơ quan ấy, mắng như tát nước vào mặt:

- Sao cô nghỉ ở nhà mà không xin phép hở? Trông con cho chị Ðức! May áo cho con chị Ðức! Hừ, con chị Ðức là nhân dân hay sao mà cô phải phục vụ nó tận tụy thế ?

Trang không trả lời, chỉ yên lặng nhìn Minh và nhìn mọi nguời. Mắt Trang mở rất to để nhìn, không buồn, không giận, cũng không biểu lộ một tình cảm gì, chỉ nhìn đăm đăm không chớp. Có lẽ lúc ấy, Minh cho Trang là một con quái vật, trong khi Trang cũng cho Minh là một con quái vật!

Thực ra sự nhẫn nhục Trang đã tập được từ lúc còn ở trong gia đình, tập được trong sự phải chịu thiệt thòi về đủ mọi phương diện, nên Trang thấy không khó khăn gì cả. Chỉ có cái cảm tưởng hình như tất cả máu đều sôi trào lên trong tim. Nhưng nén xuống, thở nhẹ nhàng vài hơi chỉ một chốc là bình tĩnh như thường.

Trên gác thượng, trong ánh trăng, mọi người vẫn vui vẻ cười đùa nhưng Trang thấy lúc này ai cũng xa lạ, hình như Trang không quen ai hay chưa từng quen bao giờ cả.

Trong nhật ký Trang, mỗi một đoạn đời khác nhau, dù êm đềm đến thế nào cũng để lại một vài dấu vết thắc mắc.

Trang muốn quên tất cả, làm lại tất cả. Và Trang cũng thấy cần nhuộm tâm hồn mình, cuộc sống mình cho thích hợp với hoàn cảnh. Trang tự bảo thầm : “Mình sẽ không bao giờ nghĩ đến, nhớ đến nữa! Phải quên, quên tất cả những cái gì không đáng nhớ!”
Phượng Các
#16 Posted : Friday, December 17, 2004 3:12:32 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
Chương 9. Quảng Châu Thất Thủ


Tháng ngày bình thản trôi qua, nhẹ nhàng êm đềm cho đến lúc muôn nghìn chiếc lá trên các đồi cây chung quanh trường bắt đầu đổi mầu.

Mùa Thu đến, người Trang yếu dần trong những ngày nguy cấp của thành phố Quảng Châu. Quân Chánh Phủ đã có kế hoạch rút về Ðài Loan từ hồi nào không biết. Dân chúng ai giầu thì đã chạy rồi. Ai không chạy được đành nhắm mắt chờ số mệnh an bài. Mọi người chỉ biết các cơ quan hành chánh đều đóng cửa không còn nơi nào làm việc nữa.

Tất cả đám sinh viên ngoại quốc sửa soạn về nước hay đi xứ khác. Bọn Trang cũng tan tác, ai có đường thì tự lo lấy thân. Một số chạy gần như Hongkong, Macao. Xa hơn là Ðài Loan hay sang Pháp. Hùng có chương trình đi Thái Lan rồi vào Chiến khu Trình Minh Thế.

Suốt ngày đêm, từng đoàn quân xa chở đầy đồ vật cuống cuồng chạy trên các ngả đường. Vì trường rất gần sân bay, nên toàn thể sinh viên phải tạm tản cư ra thành phố để tránh những vụ đụng độ đánh chiếm sân bay.

Suốt ngày Trang lên trên gác thượng nhìn quanh các tòa nhà gần đấy. Ðâu đâu cũng thấy dân “anh chị” ra vào tấp nập, họ đi khuân các đồ vật còn sót lại của các quan Quốc dân đảng đã chạy bằng máy bay rồi không đem theo được. Khắp nơi tiếng đàn bà con trẻ gọi nhau the thé, tiếng guốc lóc cóc hòa lẫn với tiếng đồ vật kéo lê trên đường nhựa thành một bản nhạc hoạt động như để trả thù sự yên tĩnh lúc thanh bình!

Những người mạnh vào các tòa nhà bỏ không khênh ra bàn ghế giường đệm, kẻ yếu thì tay xách nách mang những vật nhẹ hơn như nồi son chén đĩa, cả đến những mảnh gỗ vụn, hay chổi cùn, giẻ rách họ cũng không từ.

Các đường phố lớn rất náo nhiệt và hỗn loạn. Thực khó lòng phân biệt được ai không phải là kẻ cắp. Trang đã bị một anh chàng mặc quần áo tây rất sang giật mất chiếc kính đặc biệt vì một bên cận thị, một bên viễn thị. Một cô gái xách ví đầm da cá từ đằng xa ưỡn ẹo đi đến, thoáng đụng vào người Trang một cái. Lúc Trang sờ lên túi áo trên xem lại thì chao ôi! Mấy đồng bạc đã không cánh mà bay !

Cái bài học đau đớn nhất cho Trang là cụ già đạo mạo, mặc chiếc áo dài Tầu bằng thứ nỉ đắt tiền đã giật mất chiếc ví nhỏ của Trang. Trong ví ngoài tiền bạc ra còn có căn cước, chìa khóa và một cái ấn ngọc. Trong những lúc ấy, Trang như một đứa trẻ khôn nhà dại chợ chỉ đứng ngẩn ra nhìn! Không ai có thể làm gì được vì trong chớp mắt, làn sóng người chung quanh mình đã bị một làn sóng người khác ào đến, không còn nhận biết được ai là ai. Từ đấy về sau mỗi khi ra phố Trang chỉ đem theo mấy hào đủ đi xe, còn cẩn thận cho tay vào túi quần nắm chặt lấy “cả gia tài”, không để ý đến cái dáng điệu rất du côn của mình. Khắp nơi các sòng bạc mở ra đầy dẫy như ngày Tết, làm cản trở mọi sự chen lấn , nhưng lại là Thiên đường của anh chị em làng móc túi , và làm hỗn loạn thêm cái cảnh hỗn loạn.

Mọi người ai cũng bận rộn tìm đủ mọi cách để phát tài trong cái cơ hội hiếm có nghìn năm một thuở ấy, cho đến một buổi sáng kia, lúc Trang còn lơ mơ ngủ bỗng giật mình thức dậy vì nghe tiếng nhạc, tiếng vó ngựa, và tiếng bước chân rầm rập. Trang trèo lên gác thượng nhìn phía sau, cánh đồng rộng mênh mông. Cộng quân đang từ từ kéo qua. Thì ra thành phố Quảng Châu đã mất từ nửa đêm, sau khi đám tàn quân của Quốc dân đảng rút xong, không hề có trận đánh nào. Khắp nơi cờ đỏ với chùm sao vàng bay phấp phới thay lá cờ Thanh thiên Bạch Nhật dưới ánh nắng nhạt giao mùa. Ðó là ngày 15 tháng 10 năm 1949.

Trang theo các bạn sinh viên khác dọn lại vào trường và không khỏi đau đớn khi trông thấy cảnh tang thương sau một thời gian ngắn xa cách.

Tất cả cửa khu túc xá đều bị phá tan nát. Bên trong các phòng, bàn ghế và giường đều biến đi đâu mất chỉ còn lại những mảnh vụn đổ vỡ, bụi trần và giấy rách.

Bên ngoài, trước kia là những đồi thông xanh mướt, bây giờ không còn cảnh gió thông vi vu reo rắc bụi phấn vàng nữa! Khắp đồi trống trải thiếu vắng bóng mát, cả một vùng núi trơ ra toàn gốc cây sù sì vì những lát búa đẵn. Tất cả thư viện sách nghiên cứu quý giá cũng không còn! Ðấy là kết quả cuộc tấn công của dân quê ở các làng lân cận. Họ lấy tất cả đồ vật có giá trị hay không để làm củi đốt.

° ° °

Khi lá cờ đã thay đổi thì mọi vật đều không được giữ nền nếp cũ nữa. Cả đến lòng người!

Trường đổi hiệu trưởng, đổi giáo sư, đổi khóa trình. Các bạn trai đầu để bù, giầy không dám đánh bóng, áo giặt không là. Những mái tóc uốn quăn theo kiểu Âu Mỹ của bạn gái bị lát kéo vô tình cắt ngắn biến thành lối tóc thợ thuyền, và những chiếc áo dài tha thướt do tay thợ khéo ở Hương Cảng cắt hay những chiếc váy mầu sắc rất trẻ trung được xếp xuống tận đáy rương, thay vào bằng chiếc quần vải xanh theo lối công nhân trong xưởng máy. Ánh thái dương tắt rồi, mọi người đang lần mò tìm một lối đi thích hợp với thời đại dưới ánh sao!

Ðối với sinh viên ngoại quốc còn sót lại cũng có những sự thay đổi đáng lo ngại. Họ cũng được xem như những học sinh Tầu, nghĩa là cố nhiên không còn được món học bổng của chính phủ Quốc Dân Ðảng trợ cấp nữa. Họ “được” trả tiền học, tiền ăn, tiền điện, nước cũng như học trò Tầu vậy. Chỉ phải 3 tháng một lần làm người ngoại quốc, ra Công An Cục đóng thuế cư trú, trình diện, làm bản khai lý lịch. Không hiểu tại sao lại phải khai đi khai lại hoài. Thì ra người ta tin rằng viết mãi sẽ có lúc nhầm, sẽ có lúc khai thêm một vài chi tiết mới chưa khai thác. Biết đâu.. đi đêm lâu ngày gặp ma !

Nhìn vào bọc hành lý đã đơn sơ đến không thể ít hơn được nữa, Trang thấy hơi ngậm ngùi. Bao nhiêu tiền thuốc và chuyến đi lên miền Bắc đã lấy gần hết những gì đáng giá của Trang, cả đến cái nhẫn nhỏ của một người bạn gái tặng trước khi xuống tầu.

Trong khi Trang tưởng rằng mình đang ngồi dưới đất, không còn nơi nào thấp hơn thì được thư của chị Nguyễn. Chị kể chuyện anh mất tích, chị là vợ sĩ quan Quốc dân Ðảng, nên đang ỏ trong hoàn cảnh “chết còn hơn”. Chị kêu cứu vì tưởng bọn Trang ỏ trong trường chắc còn đường sống. Móc túi anh em chung góp lại chỉ đủ cước phí tiền gửi cho chị Nguyễn cái áo bông ấm nhất, độc nhất, màu ánh lửa mà Trang yêu quí nhất. Trang hy sinh cái áo đẹp không tiếc vì quá đẹp giữ cũng không được dùng. Chị nhận được áo nếu không để mặc cho ấm, thì bán đi cũng no được vài bữa.

Không những một mình bọn Trang mà một số đông bạn học đều lâm vào cảnh khó khăn. Vì chiến tranh phá sản, hoặc đứt mất liên lạc với gia đình. Họ tổ chức bán báo, giặt áo quần, bán đồ cũ, trồng rau, nuôi gà v.v... Còn Trang, Trang sẽ làm gì đây? Trong lúc Trang thử nhấc chiếc va li nhẹ nhàng dự định chưa biết sẽ về đâu thì được tin, nhờ các bạn ủng hộ, Trang xin được một việc làm đêm trong cơ quan Cứu tế của đạo Tin Lành trong trường. Số lương nhỏ nhặt 25 đồng Hongkong giá của 100 cân gạo xấu chỉ đủ trả số tiền cơm, tiền phòng mỗi tháng cho trường. Nhưng trong số 40 phần việc và hơn 400 học sinh cùng nghèo như nhau, được nhận làm còn khó hơn là thi vào trường.

Thế là đêm đêm xong giờ làm việc, trên con đường tối mù mịt, gió lạnh buốt như cắt hai má, Trang cố bước thực nhanh cho chóng về túc xá. Và trong giấc ngủ thỉnh thoảng Trang lại giật mình vì mơ đến tiếng thét rùng rợn của người lính Giải phóng quân canh đêm:

- Ai?

- Học sinh Trung Ðại.

Lúc tỉnh dậy thì trời đã gần sáng, các bạn học bắt đầu thức dậy ầm ỹ gọi nhau đi nhẩy điệu “Nữu dương ca”. Một điệu múa giản dị mà mọi người đều hát theo nhịp trống: Xang xang xịch xang xịch.

Trong tiếng trống giục rộn ràng và tiếng hát tưng bừng của các bạn đang ưỡn ẹo nhẩy múa ngoài sân cỏ, Trang vẫn còn lơ mơ muốn ngủ mãi mãi vì đã uống viên thuốc của Ái Phương, một cô bạn gái Thượng Hải học ban Hóa học tặng. Lúc biết Trang cũng là bạn đồng bệnh. Ái Phương tặng nàng mấy viên thuốc suyễn có tính chất như thuốc ngủ, nếu cảm thấy hơi thở nặng nhọc, biết là sắp lên cơn, chỉ uống một viên. độ 20 phút sau là khỏi. Nhưng lúc thuốc thấm rồi thì ngủ rất say mê, ngủ lướt qua cơn bệnh cho đến lúc thuốc nhạt mới có thể tỉnh lại được.

Lần đầu tiên trong đời Trang được biết có một thứ gọi là thuốc suyễn. Một thứ thuốc rẻ tiền và giản dị, ai cũng có thể mua , không cần giấy bác sĩ. Dù không trị dứt hẳn, nhưng hạ được cơn suyễn cũng đáng được gọi là cứu tinh.

Suốt mấy đêm liền gió Bấc thổi mạnh, Trang kiêu hãnh kéo tấm chăn bông lên ngực ngủ một giấc mơ ước. Nhưng sáng hôm sau, Trang không thể nào dậy được, và lại ngủ cho đến bữa cơm chiều mà người vẫn còn thấy bâng khuâng. Liều thuốc công hiệu đã cho Trang một giấc ngủ thần tiên, nhưng lại chiếm quá thời gian giới hạn.

Vậy Trang phải làm sao đây? Ðêm đêm thức với hơi thở khó khăn khổ sở, và sáng ngày đi học trèo lên một trăm bậc thang đến Pháp học viện nhọc mệt lờ đờ, hay uống thuốc để đêm đêm ngủ một giấc say sưa nhưng không thể dậy?

Sau bao nhiêu hôm thí nghiệm Trang giảm lượng thuốc để bớt ngủ. Tuy trải qua những ngày nhọc mệt vì tám giờ học liền, hay những đêm phải lăn mình vào nhà in làm việc thêm giờ, hay những hôm mưa dầm gió bấc, Trang không lên cơn dữ dội nhưng vẫn thao thức, và như thế càng có thì giờ để nghiền ngẫm thêm bài học “nhân sinh quan” mới để sống còn!

Ðêm đêm Trang ngồi dựa lưng vào tường, tấm chăn bông gói kín cả chân và ngực. Sau buổi làm việc mệt nhọc ở nhà in, Trang chỉ muốn được yên tĩnh nghỉ ngơi một lúc. Nhưng liếc thấy ba chiếc giường của ba người bạn ở cùng phòng còn để trống, Trang biết chắc chắn rằng đêm nay cũng như những đêm khác, Trang còn phải thức dậy ít nhất là ba lần để mở cửa.

- Trang, Trang, mở hộ cửa!

Ðấy là tiếng của Thụy Lan, một bạn học cùng Hệ nhưng lớp trên, đi khai hội về.

- Trang, Trang, mở cửa tí nào!

Văn Sinh, cô bé học ban Xã hội, cũng đi nhóm họp đã về. Cô bé có một trái tim nóng dẫy lên, nên bất cứ công việc gì cũng có cô tham dự. Cô bé làm đến nỗi không có thì giờ chép bài vở hay xem sách nữa. Thực là đúng tác phong của một đảng viên tương lai !!!

- Trang, Trang, mở cửa cho tôi với!

Tiếng của Hoa Vân, học Kinh tế, đi chơi với nhân tình về. Cô gái Thượng Hải đa tình này lấy cớ rằng mình không hiểu tiếng Quảng Ðông, để trốn tất cả các cuộc nhóm họp. Cô chỉ thích có 2 thứ: ăn tiêu và đi chơi với nhân tình.

Lệ của túc xá 10 giờ tắt điện, 11 giờ đóng cửa, nếu quá 12 giờ thì người gác cửa không phải dậy mở. Ai về trễ phải gọi bạn mở hộ, và Trang chốc chốc lại phải tung chăn ngồi dậy, chân tay mỏi rã rời, hai mắt nhắm nghiền, quờ quạng trong đêm tối lần mò ra cửa.

Cửa đã mở đến lần thứ ba, Trang tưởng là sẽ được yên thân. Nhưng chỉ một chốc Trang lại giật mình vì có tiếng gọi:

- Trang, Trang mở cửa giúp tôi tí nào!

Ðấy là Chính Ðoan, học ngoại văn ở Văn học viện. Cô bé Triều Châu này yên anh chàng Sinh viên Triều Tiên đến mờ cả mắt, chắc lại dắt nhau đi chơi về.

Trang không dám hở môi phàn nàn một lời, vì nếu nàng hơi tỏ ý nhọc mệt, sẽ bị các bạn phê bình là :”không đủ tinh thần phục vụ” và chỉ có thế là mọi người sẽ xa lánh Trang như một người có bệnh truyền nhiễm ngay.

Ngày lễ Phụ nữ, Trang cũng phải theo các bạn đi công tác về thôn quê phỏng vấn tình hình phụ nữ. Tiểu tổ của Trang có độ mười người, đi ba làng gần trường.

Bọn Trang vào một nhà to nhất gần ngay cổng làng. Nhà vắng vẻ không có người và cũng không có đồ đạc gì. Ði mãi ra sau bếp mới thấy một bà cụ già. Bà cụ đang ngồi trên một miếng gỗ nhỏ dưới đất, hai bàn tay nhăn nheo run rẩy, bốc từng nắm lá su xanh đã xắt nhỏ, trộn lẫn với muối, nén vào một cái vò to để bên cạnh. Người tổ trưởng hỏi:

- Chào cụ, cụ ở nhà có một mình thôi à?

Bà cụ nheo mắt nhìn lên:

- Phải

- Bà cụ, giải phóng rồi cụ có được sung sướng hơn trước kia không hở cụ?

Bà cụ trả lời rất lãnh đạm:

- Hừ, cố nhiên là phải hơn chứ!

Một bạn khác hỏi:

- Bà muối dưa chua hay dưa mặn mà cho nhiều muối quá thế?

- Muối mặn, trước kia thì muối chua để kho với thịt, bây giờ thì phải muối mặn mới nuốt được trôi cơm chứ!

Người tổ trưởng lại hỏi;

- Mùa màng năm nay có khá hơn không hở cụ? Giải phóng rồi có tốt không?

- Không biết, phải làm nhiều hơn nhưng có tốt cũng chả vào được túi tôi!

- Cụ được mấy con tất cả?

- Năm, nhưng đi lính, ở tù, chết cả. Chỉ còn con dâu, đang làm ngoài ruộng.

- Hôm nay là “Phụ nữ Tiết” cụ có biết không?

- Hừ, bây giờ tôi chỉ muốn biết lúc tôi chết có thể có được một cái hòm không, thế thôi!

Người tổ trưởng ra hiệu cho cả bọn chào bà cụ để sang nhà khác “phỏng vấn”.

Lúc về Trang mừng thầm vì thấy báo cáo kết quả của cuộc phỏng vấn không phải là phần việc của nàng!

Ở lớp Trang cũng như sinh viên cả trường ngày ngày khai hội để thách nhau mua vé “công trái”. Một loại phiếu cho Chánh phủ vay. Trả hay không, cần phải đợi “hạ hồi phân giải”. Chỉ biết bây giờ đó là một cách quyên tiền không bị mang tiếng bóc lột, và cũng không ai lọt sổ.

- Tôi năm vé, khiêu chiến với anh Mai.

- Tôi mười vé, khiêu chiến với anh Kỳ.

- Anh Tú 75 vé, đoạt hồng kỳ!

Sơn hỏi Trang:

- Chị mua mấy vé?

- Một.

- Tôi biết chị không có nhiều tiền, nhưng không có thì phải bán áo đi chứ! Chúng tôi một phần lớn đều phải bán quần áo cả đấy! Cố mua thêm vài vé nữa nhé!

Trang dơ cánh tay đầy gân xanh lên, bíu lấy một nắm da bảo:

- Tôi chỉ còn cái “áo da” này là đáng giá. Có ai lột được thì cứ việc lột!

Sơn còn cố nói:

- Ở bên lớp Xã hội họ tổ chức ăn khoai một tuần lễ, để lấy số tiền ăn ấy mua chung đấy!

Trang cười :

- Nhưng Ban Xã hội bên ấy toàn là con nhà giầu cả, họ vờ thế đấy thôi. Ðến phòng ăn, ăn khoai xong rồi về nhà có “cà ri cáy” bánh mì bơ, trứng. Còn tôi nếu đến phòng ăn, ăn khoai rồi về túc xá đói bụng thì đến vỏ khoai cũng không có mà ăn !

Thỉnh thoảng Trang lại viết một vài bức thư về nhà, và cho các bạn từ Nam chí Bắc. Nhưng tất cả những thư ấy đều như những viên sỏi ném xuống nước, mặc dầu người ta ném ngang, ném dọc, ném ngược, ném xuôi, viên sỏi rơi xuống nước là chìm đến đáy không bao giờ trở lại.

Những người bạn đã cùng sống những ngày sương tuyết ở phương Bắc với Trang đã tản mát tất cả. Hương Cảng, Ðài loan, Thái Lan.. thỉnh thoảng viết thư cho Trang những câu như: “Hôm nay gió Bắc đã thổi, Trang thế nào? Tiếc rằng tôi không còn được nghe “điệu đàn xưa” nữa ! ” hay là: “Tôi ở một khách sạn gần bờ bể, đêm nằm nghe sóng, nghe gió (gió Bấc) nhớ đến Trang , chắc là mùa đông này “tiếng đàn” lại du dương réo rắt lắm đây ”.

Những bức thư đằm thắm hay khôi hài làm Trang vừa buồn vừa ngao ngán. Thỉnh thoảng Trang cũng được đọc những bức thư từ nước nhà gởi sang với những dòng âu yếm như... “Dù sao. Ba me cũng cố gắng hết sức dành dụm ít tiền gủi sang cho con ăn học. Con cứ yên tâm đừng lo lắng gì cả. Ba tuy già nhưng còn có thể làm việc, còn đủ sức lo cho con. Mùa đông này nếu con chưa có quần áo rét thì cứ may đi, ba me sẽ lập tức kiếm cách gởi tiền sang v.v... ” Bức thư âu yếm kèm theo những đơn thuốc bổ tim bổ phổi!

Trang đọc lặng người đi vì cảm động. Nhưng đấy chỉ là thư của anh Nguyễn, học Ngữ ngôn ở Văn học Viện!

Ðám học sinh ngoại quốc đều chạy cả.

Bây giờ chỉ còn có Trang, Nguyễn và mấy người Triều Tiên khôn ngoan, lúc nào cũng phân trần:

- Chúng tôi tuy là chính phủ Nam Hàn phái đến, nhưng tâm hồn chúng tôi vẫn gửi ở Bắc Hàn từ lâu!

Và hơn nữa họ rất chịu khó học thuộc lòng mấy đoạn sách “tiến bộ”, hễ có dịp là “trả bài” một thôi không ngừng “Mao chủ tịch nói rằng... “ “Lê Nin nói rằng.. ” “Sít ta Lin nói rằng... ” v.v...

Trong khi họ phân trần rằng đang bán dần áo quần để ăn, thì ít lâu họ lại trốn về Hương Cảng một lần, để lãnh tiền ở tòa lãnh sự Nam Hàn.

Nhưng dù khéo léo đến đâu cũng không thoát khỏi sự nghi ngờ. Cả bọn đều bị kiểm soát rất nghiêm khắc về tất cả moị phương diện. Mỗi người phải khai một bản lai lịch như một cuốn tự truyện từ lúc mới lọt lòng, không được bỏ sót một năm tháng nào, và điều quan trọng nhất là hiện thời lấy tiền ở đâu mà tiêu.

Không khí đâu đâu cũng đượm một mầu tang tóc, mầu máu và những đôi bạn thân nhất cũng bắt đầu nghi kỵ và dò xét lẫn nhau!

Ðối với các học sinh ốm yếu hay có một chứng bịnh gì như Trang, thì những bữa cơm ăn ở Thiện đoàn không hôm nào là không phải chan nước sôi vào làm canh, vì món rau cải xào với dầu và muối cố hữu không thể nào nuốt trôi được. Tuy thế, chẳng ai dám mua một chiếc trứng gà ăn thêm, và lúc đi ngang qua chợ, nhìn vào đám hoa quả, thèm rõ dải mà vẫn phải làm bộ thản nhiên. Muốn mua một trái chuối cũng phải nhìn trước nhìn sau chỉ sợ bạn học trông thấy thì sẽ phải trả lời câu hỏi:

- “Anh tiền đâu mà lắm thế ?”

Mỗi người mắt luôn luôn để ý đến người bên cạnh để phê bình và báo cáo với tiểu tổ , và tự mình cũng phải cố gắng làm thế nào để tránh khỏi bị chụp mũ :

“Cá nhân anh hùng chủ nghĩa” , “Tự do tản mạn”, “Lạc hậu” , “Không đủ tinh thần phục vụ”

Nhưng nguy hiểm nhất là bị phê bình “Tư tưởng có vấn đề”

Có vấn đề nghĩa là phản động, mà phản động là không được sống!

Ðám học trò đáng thương ăn cực, ở bẩn, giờ học nhiều, và ngoài ra còn phải “công tác”, phải “hoạt động”, đầu óc ai cũng như quay lộn cả lên. Mỗi người từ mờ sáng đã phải thức dậy bắt tay làm việc. Trưa chỉ có mấy phút nghỉ vội vàng cố nuốt trôi bát cơm và dĩa rau nguội lạnh, và tối chỉ có độ vài giờ nghỉ ngơi. Mọi tâm hồn lúc nào cũng hình như khẩn cấp bàng hoàng, đi đâu cũng chỉ nghe khai hội, khai hội và khai hội. Hết hội lớn đến hội bé, hết họp tiểu tổ lớn đến tiểu tổ con, lúc nào cũng bận rộn không ngừng. Bây giờ không ai còn tìm đâu ra thì giờ để múa nhẩy bài Nữu Dương Ca của thuở ban đầu.

Vì tất cả các duyên cớ đó bệnh lao phổi lan truyền rất nhanh chóng, lúc đầu chỉ mới 40 người, đã tăng lên đến hơn 100 sinh viên bị chứng bịnh nguy hiểm này. Và người bệnh vẫn ăn ở chung với các bạn như thường, vẫn khạc nhổ bậy một cách rất tự nhiên.

Riêng Trang, lo sợ hơn ai hết vội vã đi chiếu phổi; lúc kể lể với người bác sĩ già cái bệnh “tiếng đàn đêm đông” của mình, ông ta chỉ gật gù mỉm cười: - “Dìn dường pách chúc !” ( Dinh dưỡng bất túc =không đủ chất bổ!). V à lúc Trang đến được phòng lĩnh thuốc mới ngẩn người ra vì cái đơn ông ta cho Trang là 100 viên Vitamin(!)

Người ta những lúc thất bại hay đổ lỗi cho số mệnh, giờ đây Trang đổ lỗi cho ai ? Trang phải làm sao để xử trí với những sự đe dọa về chính trị và kinh tế dồn dập đến với Trang không ngừng? Khóa học năm nay trường bắt Trang phải trả số tiền nợ từ năm ngoái, nghĩa là từ ngày Trang nhập học chứ không phải từ khi trường đổi chủ, mà số tiền to tát này Trang đào đâu ra ? Lại còn cái bản lý lịch khai rằng Bố là một Giáo sư nghèo ở nhà quê , tội nói láo cũng khá nặng. Tại sao phải khai dối, có mục đích gì? Có âm mưu gì?

Những bát cơm Trang ăn trong đời học sinh thật không dễ. Nào những đêm lăn mình vào đống mực như con Lọ Lem trong nhà in. Nào những buổi sáng tinh mơ phải dậy đi xem nấu sữa đậu nành cho các bạn học uống, trước giờ vào lớp. Nào những lúc bài vở chất đầy mà phải đi gõ cửa từng phòng các bạn học để đòi những sách mượn đã quá kỳ hẹn cho thư viện. Bát cơm của Trang ăn mới đắt làm sao! DuØ thức ăn không phải là cao luơng mỹ vị, nhưng đắt vì ngoài mồ hôi nước mắt , còn một niềm tin vô giá.

Các bác sĩ đều khuyên Trang không nên quá lao tâm hay lao lực.

- Tôi tưởng rằng cô không nên ham chiếc áo quan cô sẽ được mặc lúc đỗ xong về nước!

Trang mỉm cười cảm thấy lành lạnh xương sống. Trang hiểu câu nói ỡm ờ của người thầy thuốc, chiếc áo quan đây là cái hòm đen hay là quan tài vậy.

Cố gắng bám víu lấy trường, không phải tính năm, nhưng tính tháng, sau khi đã cân nhắc kỹ lưỡng: Tính mệnh và cái mũ vuông Ðại học tốt nghiệp. Trang ngậm ngùi cảm thấy sắp phải từ giã trường, từ giã bạn, từ giã các đồi thông yêu mến, với tất cả những kỷ niệm vui buồn những kỷ niệm đầy chua cay lẫn với ngọt ngào.

Vài trang nhật ký
Ngày... tháng... năm

“Thôi thế là tan vỡ giấc mộng du học tôi đã nuôi suốt 19 năm sống nhẫn nhục trong một gia đình phong kiến! Tôi đã trả giá rất cao để được bước vào cổng trường và đã bước vào, mặc dầu với hai bàn tay trắng nhưng kèm theo còn có một trái tim nóng sôi, và một nguồn tin tưởng không cùng. Bây giờ tôi phải bước ra, cũng với hai bàn tay trắng, nhưng tim thì đã lạnh, và nguồn tin tưởng mãnh liệt không còn.

Sáng hôm nay bên ngoài trời còn mờ mờ, sương mù dày đặc, nhưng tôi đứng trong bếp, bên cạnh nồi sữa đậu nành to lửa nên không lạnh lắm.

Tết sắp đến nơi mà không có vẻ gì là Tết. Dân chúng đã kiệt lực vì những cuộc lạc quyên gần như hàng tuần của chính phủ, của đảng, của hội, của đoàn.... Sinh viên cũng kiệt lực, xác xơ như dân chúng. Họ quyên đến cả áo quần và đồ đạc, bất cứ cái gì còn có thể dùng được, nghĩa là bán được. Sinh viên mở một phòng bán đồ cũ. Sinh viên cho, sinh viên bán, sinh viên mua. Ðảng, Ðoàn và Chính Phủ nhận kết quả. Sinh viên nào thi đua cho nhiều nhất sẽ được đề cao, tuyên dương cho những người khác bắt chước. Nếu sinh viên nghèo quá, không có gì để cho ngay tức khắc, thì có thể “cho chịu”, nghĩa là cứ hứa trước rồi tìm cách nộp sau!

Xa xa, pháo nổ lẻ loi. Còn ai có tiền đâu mà mua pháo. Mà dù có cũng không dám mua vì để lộ ra mình có tiền, thì đó là cách chết nhanh nhất.

Sáng mùng một Tết, tôi đang điểm tâm cốc sữa đậu nành phần của tôi thì anh Nguyễn tìm đến bảo nhỏ:

- Có lẽ chị cũng nên đi thôi. Công tác chúng ta được làm này là của tổ chức sinh viên đạo Cơ Ðốc. Nhóm này thuộc thành phần tôn giáo, bị coi là phản động. Từ nay sẽ bị ngưng tất cả các hoạt động cứu tế xã hội. Tháng sau, sẽ không còn sữa đậu nành. Và hai lát thịt lợn mỗi tuần để thêm chất bổ cũng sẽ không còn nữa. Việc làm của chị, của tôi, cũng như của 38 sinh viên khác sẽ mất. Tôi tin là tôi, nếu cần, cũng còn làm được cái việc ăn no vác nặng, nhưng chị thì nên đi khi cả người còn nguyên vẹn...

Tôi ngần ngại:

- Ði đâu bây giờ? Làm sao mà đi ?

- Tôi bán cây guitare rồi. Thừa tiền chị đi tàu thủy đến Macao. Rồi từ đấy, tùy cơ ứng biến. Nếu cần thì đi Hương Cảng. Hùng ở Thái Lan về chiến khu Trình Minh Thế và đã bị.... đạn lạc.

- Chuyện này tôi cũng biết rồi, nhưng sao không đi thẳng Hương Cảng, có phải đỡ tốn hơn không?

- Ðường Hương Cảng bây giờ kiểm soát chặt hơn trước nhiều. Cứ đi Macao rồi Hương Cảng mới thoát. « Cùng tắc biến, biến tắc thông » mà, còn nhớ không?

Ðó là câu nói của Hùng, anh nhắc đi nhắc lại mãi câu nói ấy, mỗi khi chúng tôi

gặp sự khó khăn. Hùng lại còn hay nhắc đến ví dụ « con tàu chật » nữa. Anh bảo:

- Bất cứ tàu chật đến đâu, cứ gắng leo lên. Ðặt được một chân rồi sẽ đặt được cả hai chân, tàu lắc lư một lúc, là ta sẽ có chỗ ngồi, có khi cả chỗ nằm nữa.

Hùng cho là muốn đến một nơi nào, miễn là hãy đặt được chân đến, rồi đâu sẽ có đó, thế nào cũng có cách sống và phát triển công việc.

Ðúng hay sai, tôi không biết, nhưng những giáo điều của Hùng đã làm cho chúng tôi thành gan lì, không hề biết sợ nguy hiểm trước mặt. Cái kiểu « điếc không sợ súng », đôi khi cũng được việc, vì không có cách gì khác hơn.

Tôi vẫn còn ngần ngại:

- Thế còn anh? Tôi chạy, để anh ở lại ăn đòn một mình à?

- Ðừng lo! Tôi sẽ có cách. Tụi sinh viên trong lớp tôi là lớp Ngữ Ngôn Hệ, chúng nó không có tinh thần sát phạt đấu tranh như lớp Chính Trị Hệ củachị.

- Nhưng anh bán mất cây đàn. Sao anh nỡ...

Anh Nguyễn cười ngạo nghễ:

- Ối chào, khi nào có tiền, tậu cây khác. Rồi mai đây, khối thằng chết đói đến nơi, chúng nó sẽ bán đổ bán tháo, thiếu gì!

Tôi tiếc cây Hạ Uy Cầm mà anh rất yêu quí, với cây đàn ấy, tôi đã có công dạy

anh hai bài đầu tiên. Bài Forget me not, và Adieu Hawai. Hai bài học vỡ lòng ông anh đã học ở ngoài rồi về nhà lén dạy cho các em gái. Ba me tôi không khuyến khích con gái học nhạc vì sợ sẽ khổ. Kinh nghiệm các cụ thấy rằng những ai đàn hay càng réo rắt du dương đời càng khổ. Nhưng cũng không biết có phải vì họ khổ tâm nên tiếng đàn mới réo rắt du dương. Thôi cứ cấm tiệt trước cho chắc ăn.

Tôi dạy lại cho anh những gì tôi biết và mỗi bài anh tặng cho tôi một thang thuốc suyễn, cái thuở mà anh còn được gia đình ở Hà Nội thỉnh thoảng nhờ “các chú” chuyển qua đường Hongkong một ít tiền.

Thực ra, chúng tôi cũng nhận thấy là mỗi tuần Công An bắt chúng tôi khai đi khai lại các giấy tờ nhiều hơn trước. Tôi cũng được tin là chúng tôi sắp “được” đem ra cho các bạn đồng học “mổ xẻ xây dựng”. Ðó là tiếng mới, đúng nghĩa cuả nó là xỉ vả đấu tố. Ði là vừa.

- Nếu đi thì nên đi ngay. Ðợi vài hôm nữa, ba con đồng chí chằng tinh ở cùng phòng trở về, chúng nó kiểm soát tôi ngày đêm thì khó thoát.

Ngay hôm sau , tôi ra bến tàu đi Macao. Ði với muôn nghìn bấp bênh trước mặt, nhưng cũng không bằng những nguy hiểm tôi để lại sau lưng cho anh Nguyễn gánh lấy một mình. Anh sẽ phải giải thích sự mất tích của tôi với các “đồng chí cán bộ Công An”. Mặc dầu đã có đơn tạm xin đình học đúng theo thủ tục ”

(Nhật ký ngưng)
Phượng Các
#17 Posted : Friday, December 17, 2004 3:13:37 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
Chương 10. Hương Cảng Muôn Màu


Trang đến Áo Môn tìm được nhà một người bạn gái nữ tu. Lạy Chúa! Trang định rằng trước khi chết sẽ xưng tất cả các tội lỗi một thể, và Trang tin rằng Chúa sẽ tha cái tội nói dối cho Trang.

Tuy Trang chưa rửa tội bao giờ nhưng đã từng theo cácbạn đến nhà thờ nên lễ nghi và không khí không làm Trang bỡ ngỡ.

Trang “ngoan đạo” làm bà sơ Cả St. Bernard cũng phải thương, mỗi lúc gặp Trang bà lại rủ rỉ khuyên dỗ:

- Ði tu đi em! Cuộc đời vật chất phồn hoa có gì đáng cho em lưu luyến! Em! con chiên của Chúa, em ngoan đạo, em còn độc thân, hơn nữa em không có gia đình thân thích ở đây. Tôi chắc rằng em sẽ sáng suốt chọn lấy con đường Chúa đã chỉ cho em. Em xem, kìa, viện tu mới u tĩnh làm sao! nơi đây có đàn., có sách, có giờ cầu kinh cho linh hồn mình đuợc cảm thông với Chúa. Em nghĩ kỹ đi. Lòng tôi, viện tu của chúng tôi, bao giờ cũng mở rộng cửa để đón em vào⮠

Ngày ngày nghe mãi những lời ngọt ngào của vị nữ tu đạo đức trinh trắng dẫn dụ, lắm lúc Trang cũng thấy xiêu xiêu. Thế nhưng những buổi chiều ngồi bên bờ biển nhìn các tầu đi lại, Trang thấy quả tình Chúa chưa thực ý kêu gọi.

Trang lại trở về Hương Cảng lúc bắt đầu thấy ngạt thở, và may mắn gặp lại một số các bạn quen biết từ trước lúc còn ở nội địa. Ðược các bạn giúp tìm một căn phòng sạch sẽ gần đường xe công cộng ngày ngày đọc báo tìm việc làm. Một căn phòng nhỏ, một việc làm, tinh thần hinh như đã có chỗ ký thác.

Ðôi lúc buồn rỗi Trang tự hỏi xem mình là ai, và có cái thân phận thế nào, thì câu trả lời không lấy gì làm hấp dẫn lắm. Trong quá khứ, thời xuân còn xanh, Trang không đi theo con đường lễ giáo đã vạch sẵn của đại gia đình. Trang đã bị xô đẩy ra khỏi cuộc sống yên tĩnh, thanh nhàn, phải tự chèo chống với ngược sóng, ngược gió.

Tính nết đã khó trị , lại thêm một chứng bệnh nan y. Cái tuổi của Trang bây giờ tuy cảnh già chưa đến nhưng khi không còn là mười sáu hay hai mươi thì những mầm non, nhựa sống cũng trốn đâu mất tiêu tìm hoài không thấy.

Sau khi đã tự hình dung mình một cách rõ ràng và thành thực như thế, Trang thấy buồn cười, vì có mấy bạn trai trẻ cứ theo Trang đòi xin bàn tay mà cái bàn tay của Trang nào có đẹp đẽ gì đâu! Nó không nuột nà, trắng mềm, thuôn thuôn, có những móng tay hình hạnh nhân tô mầu, lại biết thêu thùa bánh mứt. Bàn tay của Trang nó xương xương, đầy những gân xanh, đầu ngón tay lại cắt tiệt cả móng! Thế mà cũng có người muốn xin được nắm lấy và hứa sẽ nâng niu trân quí suốt đời! Khả nghi quá! Trang thương hại đem giọng đàn chị ra khuyên:

- Hạnh phúc không thể bền vững được với một người mà trong hành lý , thuốc dự trữ quan trọng hơn quần áo rét, và đơn thuốc để nghiên cứu chiếm nhiều chỗ của nhật ký. Cái tổ uyên ương mà người đang ao ước không thể xây dựng được trong một gian phòng bệnh!

Người nghe thất vọng ra về, người nói thấy hiệu lực lời mình khuyên càng thất vọng hơn! À ra thế Trang lại hiểu thêm một chút bề sâu.

Trang đã thử từ mũi tiêm đau nghiến, cho đến những chén thuốc đen đặc, đắng có, cay có, nóng có nhưng tất cả đều vô hiệu.

Nhớ đến lời người thầy thuốc đã đỗ thứ nhì trong cuộc thi Trung y của Tầu đã lắc đầu thành thực bảo Trang:

- Bệnh suyễn không có thuốc chữa tuyệt căn. Ai bảo chữa khỏi là họ nói khoác để lấy tiền đấy thôi!

Thế là Trang hết hy vọng được làm một người “bình thường”.

Trở v ề với căn phòng nhỏ dưới chân ngọn núi đá, và đêm đêm lại ngồi dựa lưng vào cửa sổ.. ngắm trăng. Dù trăng xanh hay trăng vàng, trăng béo hay trăng gầy, trăng ở trời Nam hay đất Bắc cũng đều là bạn thân của Trang cả. Có đêm ánh đèn ở nhà bên cạnh chiếu qua song cửa sổ cũng hệt như ánh trăng, thành ra trăng đến với Trang suốt cả tháng cũng như cơn bệnh cũng đến với Trang ngay ở giữa mùa hè.

Còn gì uất ức hơn những hôm trời nắng rất đẹp, Trang ngồi dựa lưng vào tường nhìn qua cửa sổ. Từng đám học sinh đi qua dưới mắt Trang. Họ cười nói vui vẻ, dáng đi mạnh dạn và tin tưởng, không có một nét lo lắng gì trên những gương mặt trong sáng ngây thơ trong bộ đồng phục của nhà trường, Trang phân biệt được đám này là trường Thánh Marie, đám kia là trường Thánh Thérèse, đám nọ là trường Ðại học của chính phủ, dù là trường nào hay Thánh nào họ cũng đang đi đến một mục đích chung: bước những bước chắc chắn trên con đường học vấn.

Trang lại nhớ đến quãng đời học sinh vừa qua, đồng tiền nàng đã làm ra một cách khổ cực trong khi cơn bệnh đang lên, đem đổi lấy những bát cơm nguội lạnh , nhạt nhẽo để đi học. Nhìn theo đám học sinh khỏe mạnh đi diễn qua trước mặt, Trang gật gù tự bảo: “ Có lẽ kiếp trước mình vụng tu”. Nghĩ theo phương pháp của mẹ, cái gì không thể cắt nghiã được thì đổ cho kiếp trước là yên tâm.

Ðôi khi một vài những người bạn tốt mang đến cho Trang một ít lương thực, hay thay nhau đến canh lúc Trang ngủ, những hôm nàng ốm thực nặng. Có khi Trang cố gượng lần bước đến một tiệm ăn gần nhất, trong khi ngồi đợi bát cháo nóng có những người đàn ông đàn bà trông dáng rất khỏe mạnh đến trước mặt Trang chìa ra một tấm giấy con xin tiền. Trang nghĩ thầm:

- Thực buồn cười, các người còn khỏe mạnh hơn tôi nhiều ! Các người dù sao cũng không yếu , không bệnh, đằng sau ngọn núi đá kia, người ta đang đập vụn ra đấy. Công việc còn lâu và cần nhiều nhân công, khỏe mạnh như các người. Ra đấy người ta sẽ hoan nghênh lắm !

° ° °

Ðược ít lâu Bình, trong nhóm bạn Hongkong của Trang mang đến đưa cho nàng một mảnh báo cắt ở mục cần người làm. Người ta cần một thiếu nữ biết tiếng Quảng Ðông , Quan thoại và tiếng Anh để giúp việc trong phòng trồng răng, giờ gặp mặt từ 9 giờ ngày mai.

Sáng hôm sau đúng 9 giờ, Trang đến nơi thấy gần hai mươi thiếu nữ trẻ đẹp đã ngồi chờ ở đấy. Nhìn họ lại nhìn mình, Trang tuy đã uốn quăn kiểu tóc thợ thuyền rồi, và cũng giầy cao gót, bít tất " ni lông", mặt cũng bôi xanh, vẽ đỏ như họ, nhưng sao Trang thấy hình như mình không chung một thế giới !

Và lúc nghe cuộc nói chuyện với từng người bằng tiếng Anh ở phòng bên cạnh đưa sang, Trang coi đây chỉ là một dịp thực tập để luyện cho nhịp tim điều hòa, những lúc đi xin việc mai sau mà thôi.

Sau khi ra về, Trang chỉ nghĩ cách làm thế nào để có thể dè sẻn tiêu món tiền trong túi lâu thêm được một thời gian nữa, để đợi một việc làm khác. Sáng hôm sau thực là một sự không ngờ, Trang được thư gọi đến để qua một cuộc thử nghiệm thứ hai bằng tiếng Quảng Ðông.

Trang ngạc nhiên không hiểu tại sao mình được chọn trong khi bao nhiêu cô khác rất xinh đẹp bản xứ và nói tiếng Anh ngon lành như tiếng mẹ đẻ lại rơi. Mãi sau Trang mới biết đấy chỉ là một cuộc bỏ thầu giá hạ. Các cô đòi lương từ 250 HK. đến 300 HK., trong lúc Trang nghĩ đến sự tìm việc khó khăn ở Hương Cảng, sự cần thiết gấp bức và cái năng lực làm việc của nàng, chỉ đòi 150đ.

Sau khi gặp mặt chủ nhân thực, một người không biết tiếng Anh, không biết tiếng Quan thoại ông ta chỉ trả 140 đ. Và an ủi Trang sau này nếu làm việc giỏi sẽ được tăng thêm.

Sáng hôm sau Trang cũng khoác chiếc áo trắng, đi bít tất trắng và giầy trắng như một nữ khán hộ chính tông, bước vào phòng chữa răng bắt đầu nhận công việc. Lúc này Trang mới choáng cả người lên, vì không những Trang phải làm tất cả công việc phụ, lại làm cả thông ngôn tiếng Anh và Quốc ngữ Tầu. Xưa nay Trang học theo chương trình ở trường là chỉ đọc một loại sách , đầy từ ngữ chính trị, và từ lúc “giải phóng” cũng từ ngữ ấy nhưng với một đường hướng khác,văn chương thì chỉ được học những bài văn tả những chiến sĩ Nga Sô, hay sự can đảm hy sinh cũng của người xứ ấy mà thôi.

Bây giờ đứng bên cạnh người lính thủy Mỹ đang há hốc mồm ra. Trang phải cắt nghĩa cho họ biết phải làm thế nào với bộ răng của họ. Ðêm ấy trở về Trang phải thức mãi đến khuya để tìm trong tự điển những chữ răng siết, răng sâu, răng sưng, răng thối, những hàm răng giả với tất cả các kế hoạch để chữa một bộ răng xấu thành đẹp.

Dần dần quen đi, Trang thấy công việc đối với nàng không có gì là khó. Cái bà mẹ vợ ông chủ ho lao vào thời kỳ thứ ba , người chỉ còn như một bộ xương, hết đi lên lại đi xuống, sau nhà ngang, nhà bếp, Trang cũng không thấy ngứa mắt. Những lúc Trang rảnh, bà chủ lại gọi vào nhà trong nhờ dạy kèm ba đứa con gái bé đã học ba năm mà vẫn không lên lớp được, Trang cũng không lấy làm phiền. Trang chỉ thấy khó chịu khi mỗi sáng bước vào phòng làm việc trông thấy cái cằm đã cạo nhẵn râu xanh xanh của ông chủ, cái đầu chải bóng loáng, và cái nụ cười là lạ của ông.

Một hôm nhân dịp bà chủ đi vắng, ông hỏi Trang, giọng bí mật:

- Cô Trang, cô ở đường Thái Tử phải không?

- Vâng

- Nhà số mấy?

- Không có số.

- Này, gần lối ấy có mấy con đường hẻm bán nhiều thịt chó lắm đấy! Tối nay tôi mời cô đi ăn nhé?

- Cám ơn ông, tôi không biết ăn thịt chó!

- Thử xem, ngon lắm!

Trang vẫn lắc đầu:

- Cám ơn ông, tôi không ăn.

- Tối nay tôi đợi cô 9 giờ ở bến xe nhé. Ðúng hẹn đấy!

Ông nói xong, vội vàng đi vào nhà trong vì nghe tiếng bà đã về đến cầu thang.

Tối hôm ấy trời mưa bụi nhè nhẹ, Trang nằm đắp chăn kín đến ngực nhìn qua cửa sổ. Nàng tắt hết đèn để nhìn ra đêm tối cho rõ hơn. Trang tưởng tượng giờ này ông chủ đang đứng co ro ở bến xe, chốc chốc lại nhìn đồng hồ, nhưng Trang đã quyết định rồi.

Sáng hôm sau Trang bị mất việc, vì cớ ít khách hàng, không thuê người làm thêm nữa. Nhưng sự thực ra sao chỉ có mình Trang và ông chủ hiểu. Trang nghĩ thầm: Thịt chó tuy mình chưa ăn bao giờ, và có lẽ cũng có thể ăn được! Nhưng ăn thịt chó với ông chủ thì nhất định không, dù có phải chết đói !

Nhưng rồi Trang lại nghĩ : Nhưng nếu mình không chịu ăn thịt chó với ông chủ chắc không bao giờ có được một việc làm lâu dài cả ! Làm thế nào?

Mấy hôm sau Bình lại tìm cho Trang một rao vặt khác, cũng là một Nha Sĩ cần phụ tá..

Ông chủ mới đã từng là một du học sinh, ông treo cái biển " Pháp quốc Bác sĩ Nha y" to tướng ngoài cửa, nhưng cách tiếp khách của ông hình như chỉ muốn đuổi khách hơn là đãi khách. Ðể tả hình dáng ông, Trang nghĩ thầm:" Thực giống hệt một con khỉ già! " ông nói tiếng ngoại quốc khá, tiếp người ngoại quốc rất chu đáo. Nhưng nếu là khách hàng người Tầu thì ông lại làm cao một cách đáng ghét. Ông nói tiếng Tầu bằng giọng nhà quê, nên trừ người cùng làng với ông ra, ai mới nghe không thể nào hiểu được. Mỗi khi ông nói xong một câu, nhờ nghe quen Trang hiểu được nên phải nhắc lại một lần nữa, khách hàng mới biết ông định nói gì.

Trong khi người bệnh không hiểu được Nha Sĩ , những người ở trong nhà cũng không hiểu được bà chủ định sai gì, bảo gì. Thỉnh thoảng Trang lại phải thông ngôn hộ:

- Tối hôm nay bà chủ muốn ăn cháo.

- Hôm nay mua hai hào đậu phụ rán, một hào hến xào với dưa chua, một hào giá luộc lên lấy nước làm canh, còn giá vớt ra xào lại thành ra được ba đĩa, đủ ăn rồi đấy!

Trang lấy làm lạ không hiểu tại sao ông bà chủ lại hà tiện đến thế!

Mỗi tháng ông thu vào vài nghìn mà ăn tiêu rất dè sẻn. Lương của Trang ông cũng chưa từng trả đủ một lần bao giờ: thế nào cũng hẹn rày, hẹn mai và trả làm hai ba lần thành ra tiền phòng, tiền ăn của Trang cũng phải trả làm hai , ba lần.

Trang làm việc nhẫn nại, bình tĩnh nhìn ngày tháng trôi qua tự nhiên, nhẹ nhàng như nước chảy dưới cầu. Nhớ đến gia đình, Trang bâng khuâng nghĩ thầm : "Nếu ba biết mình bỏ học thế này chắc ông sẽ nghĩ:" Ðáng kiếp, nó làm nó phải chịu chứ! Ai bảo muốn đi cho xa!"

Và những lời me Trang thường hay than thở lại văng vẳng bên tai Trang:

- " Ba chúng con vô tình lắm. Lần me đẻ con Dung đau sót nhau gần chết, gọi ba vào để trối. Ba còn đang vặn máy hát nghe chơi, mãi đến một giờ sau mới vào. Thấy me trối sắp chết, giá như người khác thì lo chạy thuốc men thế nào, còn ba thì con có biết sao không? Ông chỉ nói:

- " Thôi em cứ yên tâm mà chết đi, anh hứa sẽ xây lăng đắp mả cho em tử tế. Hai bên con đường đi vào mộ, anh cho trồng các thứ hoa Bạch Mai, Bích Ðào. Ở ngoài nhìn vào sẽ đẹp lắm em ạ!" Sau bà nội phải đưa mẹ về làng thuốc thang mãi mới khỏi.

Cùng lúc những lời phàn nàn về me, Trang vẫn còn nhớ rất rõ ràng:

- " Me các con thực là tào lao. Ðầu mùa Ðông có 4 cái áo len mới, đến giữa mùa đã không còn cái nào nữa rồi ! Hễ ai đến khóc lóc năn nỉ vài câu là bao nhiêu tiền bạc áo quần gì cũng trút hết. Và me đã đưa tiền cho ai vay mượn gì thì vốn lời đều biệt tích, cho đến tờ giấy vay để làm... kỷ niệm, cũng không cần bảo họ viết nữa! Sau này các con dù có sắp chết đói chăng nữa mẹ cũng không được giúp đỡ đâu! Tiền me đã cho người ta vay hết cả rồi, và me tin rằng nếu kiếp này họ đã không trả thì sẽ phải trả.. kiếp sau. Thế là me vui rồi. Còn nếu cho các con tiêu thì kiếp này đã hết sạch, mà kiếp sau cũng không còn.

Ba, me ,kiếp này,kiếp trước,kiếp sau... tại cứ phải vấn vương ?

Nhớ đến những diễn biến đã trải qua như những trang sách lật quá nhanh , Trang ngơ ngẩn nhìn quanh gian phòng vắng lạnh. Tất cả đều có thật,và cũng đều đã thành dĩ vãng xa vời , bên mình chỉ ngọn gió Bấc và " tiếng đàn violon" là vẫn còn lưu luyến. Ðó là sự thật quan trọng cần phải chấp nhận. Ngoài ra, gia đình, chí hướng, tiền bạc, danh vọng, tình yêu, giờ đây tất cả đều vô nghĩa.

Những mối tình hờ đã thoáng qua, Trang không thấy một hình ảnh gì sâu đậm hết. Một đôi mắt nhìn say đắm đúng lúc, hay là một lời nói âu yếm phải giờ, chỉ có thế thôi ! Và Trang cảm thấy bẽ bàng như một đứa bé con nằm mơ thấy được người ta đưa cho một dĩa bánh ngon lành. Ðứa bé vì thẹn, vì sợ người ta đánh lừa mình hay vì cớ gì không biết còn chưa dám ăn vội, thì bỗng giật mình tỉnh dậy. Bên mình nào có bánh kẹo gì đâu! Những cảm tưởng Trang đối với tình yêu cũng thế, không khác gì đứa bé con lúc đã tỉnh mộng rồi !

Lòng tự ái không cho phép Trang được mơ tưởng hay phàn nàn. Trang chấp nhận hiện tại. “Cùng tắc biến, biến tắc thông” mà ! Ðến lúc cần phải “ra đi” thì hai thế giới chỉ cách nhau một làn hơi thở có khó gì đâu!

Nghĩ thế Trang như vừa thoát khỏi lưới nhện mê hồn trận của chính mình giăng ra , Trang thấy thoải mái nhẹ nhàng, tự cho là mình đã “biến tắc thông” phần tâm linh.

Bên ngoài trời vẫn mưa và đã bắt đầu trở rét. Thấy ngực hơi tức thở và ngày mai lại là chủ nhật, Trang yên tâm lấy một viên thuốc uống.

Tấm chăn len mỏng không đủ ấm, Trang kéo luôn cả chiếc áo tơi đắp lên người, và chỉ một lúc sau Trang cảm thấy hình như mình đã lâng lâng đi vào một cảnh giới khác.

Lúc tỉnh dậy, Trang ngạc nhiên thấy Bình ngồi ở bàn viết, đang nhìn nàng với một đôi mắt đầy lo lắng trìu mến.

- Tôi đến đây từ lâu. Bà chủ nhà mở cửa cho tôi vào. Tôi thấy ve thuốc Benedryl còn để ở bàn. Không biết là cô đã uống hết mấy viên, và còn ngủ đến bao giờ, nhưng đã đến đây rồi tôi không thể ra về ngay được, đành ngồi nhìn cô ngủ vậy. Cô có đói hay không? Uống một cốc sữa nhé?

Trang im lặng không trả lời.

- Hôm nay tôi định mời cô đi bơi thuyền kia đấy! Cô không phải chèo, chỉ ngồi yên ngắm cảnh, tôi chèo một mình. Nhưng cô mệt thì thôi vậy!

Trang vẫn im lặng:

- Thế nào, cô có cần gặp ai bây giờ không. Tôi ngồi đây có điều gì bất tiện không. Cô đừng buồn thế, bệnh của cô không có gì khó cả, cô chỉ gắng tẩm bổ và tỉnh dưỡng ít lâu sẽ khỏi.

Bình rút trong túi ra một lọ thuốc:

- Tối hôm qua tôi tìm mấy người bạn hỏi được thứ thuốc này, không khỏi hẳn được nhưng có thể làm cho bệnh không nặng thêm. Nó chỉ là một thứ thuốc bổ và ngừa mà thôi.

- Hôm nay chủ nhật, sao anh không đi chơi?

Bình cười rất thực thà:

- Tôi đến đây chả phải đi chơi là gì ? Với lại mỗi lúc ra cửa chân tôi hình như chỉ muốn đưa đến đây rồi thôi không còn muốn đi đâu nữa !

Giọng Bình trở nên cảm động:

- Cố gắng uống thuốc nhé, đừng để phụ lòng tôi.

Và Bình bỗng nắm chặt tay Trang:

- Trang, Trang cho phép tôi.. được săn sóc Trang.. suốt đời nhé?

Trang không trả lời, mắt Trang hình như mờ đi, và nàng không chống cự khi thấy Bình để tay nàng lên môi.

Linh Bảo
Hương Cảng 1952
Phượng Các
#18 Posted : Thursday, March 17, 2005 8:44:23 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
mèo mù
#19 Posted : Sunday, August 23, 2009 1:44:38 AM(UTC)
mèo mù

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 489
Points: 0

Con Ngựa Chết
Linh Bảo


Lớp vẽ lạnh ngắt. Gió từng cơn theo khe hở cửa sổ lùa vào phòng, và mỗi lần có người mới đến mở cửa bước vào, lại đem theo nguyên cả một cơn gió thật buốt. Hằng ngồi trước tờ giấy vẽ to để ngay ngắn trước mặt. Cả lớp và thầy giáo cũng sốt ruột chờ đợi . Theo thường lệ, 8 giờ lớp bắt đầu, 8 giờ 30 đã qua rồi, cô người mẫu vẫn chưa đến. Đám sinh viên trẻ tuổi vốn thích hoạt động có vẻ bắt đầu cuồng tay cuồng chân. Nhiều người ngáp vặt rồi cả thầy lẫn trò xoay ra vẽ lẫn nhau.

Hằng ngồi nhìn ông thầy vẽ một sinh viên có bộ mặt rất xương xẩu. Mấy ông “vẽ sĩ” này bao giờ cũng thích vẽ những gì quá đáng – mà họ gọi là có “cá tính” –nhưng Hằng cho là vì “có cá tính” nên vẽ dễ giống hơn.

Một luồng gió tạt mạnh vào theo cánh cửa mở to. Một bóng người hớt hãi chạy vào theo luồng gió. À, cô mẫu đã đến. Mỗi lần vẽ một cô mẫu khác nhau, nhưng không ngờ cô mẫu này lại ôm theo một đứa bé tí hon, hình như mới đẻ vài tuần. Cả lớp cùng ngẫng lên, đờ người nhìn. Thầy cũng ngại ngùng, không nỡ trách cô mẫu tại sao đến muộn.

Cô gái lếch thếch mang xách đủ các thứ bao, giỏ, cái thì đựng chăn mền trải cho cô ngồi, cái thì đựng khăn, tã, nước, thuốc… . Như biết lỗi, cô đặt đứa bé xuống bàn và vội vàng cởi áo quần. Cả bọn cùng lặng người, kinh hãi vì chưa bao giờ thấy một cô mẫu xấu xí đến thế. Cô không phải là người da đen, nhưng da cô đen đậm. Hai vú cương sữa như hai quả dưa lòng thòng xuống gần rốn. Cái bụng mới đẻ xong chưa co lại, nên da mỡ lùng nhùng từng đống chảy dài trên bộ đùi khẳng khiu.

Cô vừa định leo lên bàn ngồi cho sinh viên vẽ thì bé khóc thét, cô dừng lại thay tã cho nó. Vừa thay xong, định đặt xuống, lại một hồi khóc thét nữa, lần này, nó bĩnh ra đầy tã, chảy tràn ra cả bên ngoài. Cô phải cởi hết áo quần và tã của nó để thay lại lần nữa. Không còn tã sạch, cô cuống qúit không biết lau cho thằng bé bằng gì. Một sinh viên đứng gần tiện tay lấy mấy tờ giấy bản thấm nước đưa cho cô. Thằng bé bị lột trần, nằm tênh hênh trên bàn, lại khóc the thé. Cô mẫu ôm nó lên vai dỗ.

Hằng từ góc phòng thấy chướng mắt, kêu lên:
- Mặc áo vào cho thằng bé!
Cả bọn quay lại nhìn Hằng. Có lẽ họ cho là Hằng khó tính, nỡ mắng cô mẫu, người mẹ chưa có kinh nghiệm. Hằng tiếp:
-Đừng để nó lạnh, rồi bị cảm. Đợi dỗ cho nín mới mặt áo vào thì nó chết rét mất!

Mấy chục đôi mắt như mũi súng chĩa vào Hằng, cùng hạ xuống.
Cô mẫu nghe lời, đặt thằng bé nằm, lục lạo tất cả các giỏ, các bao tìm áo nhưng không có. Cô lấy tấm khăn bông bọc nó lại.
Ông thầy đề nghị:
- Hay là cô bồng nó cho bú để vẽ. Các anh các chị nghĩ sao?
- Đồng ý.
- Thế thì tuyệt!

Cô mẫu ôm thằng bé leo lên bàn. Hai ngọn đèn và một cái lò sưởi nhỏ chiếu vào người cô nóng rực nên cô không còn run rẩy nữa. Thằng bé nằm trong lòng mẹ ấm áp đã nín khóc bú một cách ngon lành thoải mái.

Ông thầy lại hỏi sinh viên:
- Thường lệ thì giờ đầu mỗi 5 phút thay đổi một dáng điệu, nhưng với tình hình này, cho ngay cô ta 20 phút một dáng điệu, được không?

Tất cả sinh viên nhìn thầy gật đầu. Đồng hồ được vặn 20 phút.
Cả bọn bắt đầu mỗi người tìm một góc vừa ý để vẽ. Người vẽ than, người dùng chì màu, người vẽ nước, vẽ sơn, đủ loại.
Hai mươi phút sau, cô mẫu được nghỉ 5 phút. Cô xuống bàn, mặc áo khoác ôm con lân la đi từng góc, nhìn các bức họa.

Hằng hỏi cô:
- Em bé được mấy tuần?
- Hai
- Cha nó đâu ? Sao không giữ hộ ?
- Không có. À, có nhưng mà cũng như không.

Hằng ngẩn người. À ra thế. Người mẹ mới sinh con được hai tuần, phải mang nó đi theo trong giờ làm việc , trần truồng cho người ta vẽ 4 tiếng đồng hồ để lấy tiền nuôi con. Thì ra ở đâu cũng giống nhau.

- Tệ đến thế hả?
- Ờ ờ. Thực ra thì . . . tôi không xứng với anh ấy. Anh ấy quá đẹp, quá giầu, quá cao sang. . .

Hằng nghĩ thầm:
- Bổn cũ soạn lại!
- Tôi là sinh viên ca vũ nhạc. Anh ấy là giáo sư vũ.
- Hiện giờ cô sống thế nào?
- Tôi với ba người nữa ở chung một phòng miễn phí. Tôi quét dọn cho chủ nhà, còn thì giờ đi học, và làm mẫu cho các trường lấy tiền ăn. Hôm nay tôi dại quá, chưa có kinh nghiệm với thằng bé, nên không đem theo đủ áo, tã, khăn .

-Cô định nuôi con một mình sao?
- Nó là tất cả. Tôi sẽ hy sinh cho nó.
- Lại bổn cũ soạn lại nữa. Cũ đến rách nát, thế mà hàng ngày, hàng giờ, vẫn được tái diễn khắp nơi trên thế giới.

Chuông đồng hồ reo báo hiệu đến giờ làm việc, cô mẫu lại ôm con lên bàn ngồi với một dáng điệu khác. Thằng bé được bú no, lại được bế ẳm nên vẫn ngủ say. Hằng thấy cô mẫu với tâm tình của một người mẹ, mắt long lanh sáng ngời nhìn con. Thằng bé đang ngậm ngón tay mềm nhỏ, được ấp ủ bao bọc trong lòng mẹ.

Trước đây mười tháng, nó có biết những gì đã xảy ra trong đời nguời đàn bà này không? Sau cái “ một phút huy hoàng” ấy, cái “ chợt tối” đến thật là mênh mang, thật là rùng rợn. Chín tháng, người mẹ phải! phấn đấu với quyết định: nên phá? nên để? nên nuôi? nên cho? Rồi từ nay, đêm đêm ôm con ngồi trần truồng dưới hai ngọn đèn thay đổi dáng điệu từng lúc cho người ta vẽ.

Bất giác, Hằng cảm phục người đàn bà nửa giờ trước đây Hằng thấy xấu xí đối với một cô gái làm người mẫu. Lúc nãy Hằng chỉ nhìn thấy đôi vú căng sữa quá đáng, cái bụng nhăn nheo lùng nhùng, nét mặt răn rúm, ốm o, đôi mắt thâm quầng vì thức đêm săn sóc con hay vì lo lắng. Bây giờ, Hằng thấy mình bất lực, không làm sao vẽ được hào quang của cái can đảm vô biên và sự hy sinh tuyệt vời của người đàn bà này trước những khó khăn cô đã vượt qua, đang gặp phải và sẽ còn kéo dài không biết bao nhiêu năm tháng nữa!

Hằng thẫn thờ ngồi nhìn cô người mẫu. So với cô, Hằng không thấm vào đâu.
Hằng là người ngồi trong bóng tối với cục phấn vẽ. Hằng đâu có phải ngồi dưới hai ngọn đèn sáng rực ôm con . . . Nỗi cô đơn của Hằng được ấp ủ bằng nệm êm chăn ấm và không phải lo đến ngày mai.

Mới sáng hôm nay, Hằng còn u uất khi được sợi giây chuyền hạt trai của chồng từ bên Nhật gửi về: món quà gọi là kỷ niệm ngày cưới. Khi mỗi người một nơi, khi trên danh nghĩa là vợ chồng, mà không sống chung cũng chẳng còn yêu thương, chẳng coi nhau là quan trọng nữa, thì quà kỷ niệm ngày cưới có nghĩa như một mũi dao ngoáy sâu vào vết thương, mỗi năm một lần , thật mĩa mai.

Hằng sờ vào chuỗi hạt trai ở cổ, hết nhìn cô mẫu lại nhìn đứa bé. Có những lúc Hằng không thể làm việc hay suy nghĩ một cách minh mẫn, cũng không biết là mình đang vui hay buồn. Đó thường là lúc Hằng nghĩ đến Vĩnh.

Sự kết hợp giữa Hằng và Vĩnh đến thật tự nhiên. Hai người đi gần hết đường đời, không phải hy sinh một sở thích hay thói quen gì mà vẫn hợp nhau, thì gặp nhau có thể coi như trúng số độc đắc. Ba năm đầu tiên, Vình luôn luôn bảo là mình vẫn còn ở trong thời kỳ trăng mật. Lúc ngủ, Vĩnh nắm chặt tay Hằng vì sợ Hằng như nàng tiên trong thần thoại, đợi Vĩnh ngủ say để biến mất.

Cuộc sống thật êm đềm cho đến khi Duyên, một cô bạn gái thân nhất của Hằng, từ Anh sang chơi và ở lại mười ngày. Duyên hỏi Hằng:
-Hằng có hạnh phúc không?
Hằng trả lời đầy tin tưởng:
-Có chứ !
Duyên không tin. Xưa nay, khi phê bình đàn ông, Duyên thường cho họ toàn là một loại ở trong thùng rác được lôi ra lau chùi sạch sẽ, đánh bóng rồi để lên bàn thờ cho đẹp mắt.

Hoàng Tử trong mộng nào cũng sẵn sàng phản bội người yêu duy nhất nếu có cơ hội. Duyên hỏi vặn:
-Tất cả mọi phương diện?
Hằng gật đầu quả quyết:
-Cố nhiên.

Hằng tin chồng, tin bạn, nên khi thấy Vĩnh nghỉ việc ở nhà để ngày ngày đưa Duyên đi chơi, Hằng mừng thầm. Hằng không xin nghỉ được vì nàng là công chức nhỏ, còn Vĩnh Giám Đốc một cơ quan nghiên cứu môi sinh, Vĩnh chỉ việc tự ký giấy cho mình nghỉ.

Thế rồi, tối hôm ấy và tất cả những hôm sau, nửa đêm thức giấc, Hằng không thấy Vĩnh bên cạnh. Hằng nằm thao thức chờ đợi cho đến lúc Vĩnh trở về, ngưới mát rượi, thơm tho. Vĩnh nằm quay lưng lại với Hằng để tránh phải trả lời câu hỏi nếu có. Và cũng bắt đầu từ hôm ấý, Vĩnh ngủ không còn nắm tay Hằng nữa. Có lẽ bây giờ nàng tiên được cầu nguyện cho biến đi, biến mất tăm mất tích càng hay.

Hằng nhớ lại cảm giác nửa đêm thức giấc lần đầu tiên vòng tay qua nửa giường trống không có Vĩnh, cơn nghẹn ngào còn cay nồng lên cổ như mới hôm qua. Hằng nằm không dám trở mình sợ gây tiếng động. Cách phòng tắm, bên kia là phòng dành cho khách, mà bây giờ Duyên đang làm “phòng khách “ để tiếp Vĩnh.

Nếu Hằng dậy bật đèn thì sự thể sẽ ra sao? Nhất định phải có đổ vỡ không nhiều thì ít, mà Hằng không muốn có một mất mát nào, cả trong tình bạn lẫn tình gia đình, dù tối thiểu.

Hằng tưởng tượng đến cái bẽ bàng lúc ba người phải nhìn mặt nhau dưới ánh đèn chói sáng. Vĩnh đã là thần tượng của Hằng. Duyên cũng là thần tượng phái nữ của Hằng từ thuỡ nào. Lại còn chính Hằng cũng là thần tượng của mình nữa. Người cảm thấy xấu hổ nhục nhã nhất, là người bị lừa dối ngay trước mặt, ngay trong nhà của mình, là Hằng. Hằng không chấp nhận sự đỗ vỡ này.

Hằng quyết định rằng nếu không có mặt trận sẽ không có chiến tranh. Cứ coi như không, thì mọi sự dù Có cũng sẽ thành Không.

Suốt mười ngày gượng cười để tránh khóc, rồi cũng qua đi. Nhưng từ đấy, Vĩnh không còn là người đàn ông đáng kính, đáng yêu mà Hẵng vẫn trìu mến từ ba năm qua nữa. Lần cãi nhau đầu tiên đã xảy ra ngay sau hôm Duyên trở về Âu Châu.

Vĩnh đòi trang hoàng lại căn phòng khách để Duyên về ở chung. Vình dùng tiếng Pháp “ ménage a trois” (sống tay ba) để cho lời yêu cầu đỡ sống sượng, chướng tai, trái luật. Khi thấy Hằng trố mắt nhìn mình như nhìn một con quái vật rồi trả lời “ không được” một cách không đùa , Vĩnh giận và bắt đầu lãnh đạm với Hằng để trả thù.

Hằng hy vọng thời gian qua người ta sẽ quên, vui cũng như buồn và những mối tình ngoài lề như những bông hoa dại bên đường, cứ để đấy mà nhìn thì còn lâu bền, hái về hoa sẽ tàn héo ngay lập tức. Mỗi cuộc tình vụng trộm, cũng như một đóa hoa đã được hái: sinh mệnh đếm từng ngày.

Sau khi hết ngân quỹ nghiên cứu, Trường Đại Học UC siết chặt vòng tay, sở của Vĩnh đóng cửa. Vĩnh ở nhà ít lâu rồi thu xếp đi du lịch để dối già. Ấn Độ là một quốc gia đầy bí ẩn mà Vĩnh vẫn ao ước được thăm viếng ngao du trước khi chết. Vĩnh cho là nếu bây giờ rảnh mà do dự, chắc chắn sẽ không bao giờ có cơ hội khác.

Hằng lặng lẽ để Vĩnh đi, vì sau trận cãi nhau lần thứ nhất, hai người không nhắc lại nữa, nhưng cả hai cùng đóng cửa tâm hồm, mỗi người lui vào cái pháo đài tâm tư của riêng mình.

Hằng vẫn chủ trương không bao giờ giữ kẻ muốn đi. Giữ để ngày đêm hầu hạ cơm nước, giặt giũ, thuốc men, săn sóc trong khi họ chỉ mơ ước người khác thì phí công.

Cũng như ôm một người không thương yêu mình thì không khác ôm một xác chết chưa chon, hay bộ xương khô .

Và trong mắt Vĩnh bây giờ, Hằng cũng không phải là người đàn bà duy nhất và hoàn toàn nhất mà anh đã yêu từ ba năm nay nữa. Bây giờ, Hằng đầy những khuyết điểm. Bởi vì Vĩnh đã gặp “người trong mộng”.

Lần đầu tiên được nếm mùi ngoại tình, một trái cấm đầy huơng vị, đầy quyến rũ làm cho cổ kim Đông Tây, biết bao anh hùng hào kiệt táng gia bại sản . . . Danh nhân tài tử còn ngã ngựa lổng chổng lăn chiêng huống chi Vĩnh chỉ là một thứ …. theo lý thuyết của Duyên “ ở trong thùng rác …. . .”

Có lẽ Duyên muốn chứng minh lý thuyết "thùng rác " của mình . . .

Vĩnh ở Ấn Độ sống bằng lương hưu, tuy không nhiều, nhưng đô- la đổi ra tiền bản xứ của một nước đói kém quanh năm thì chả cần nhiều cũng có khối những bộ áo “ shari” chạy theo không biết mệt.

Hằng ở nhà vẫn tiếp tục đi dạy học đóng góp lương hưu , chuẩn bị cho ngày về vườn của mình. Dù hãy còn lờ mờ, Hằng đã cảm thấy từ đây, cuộc sống cuối đời, cũng như từ đầu đời nàng phải gồng gánh lấy một mình.

Đi được ít lâu, Vĩnh viết một thư dài, yêu cầu Hằng bảo trợ cho “một người con gái Ấn Độ đáng thương…. . .” Qua sự mô tả của Vĩnh, Hằng được biết cô ấy sinh trong gia đình mười lăm anh em, đã được giáo hội Tin Lành nuôi trong nhà mồ côi và huấn luyện nghề khán hộ. Vĩnh quen cô ấy lúc bị tai nạn xe hơi, được đưa vào nhà thương, nơi cô ấy làm.

Mina – cô khán hộ mới 32 tuổi –lúc ấy đã sống chung bốn năm với một thanh niên Mỹ làm Peace Corps. Cô ta đòi cưới mãi, nhưng hắn nhất định không chịu, hắn chỉ coi việc sống chung như một cách giải buồn lúc xa quê hương thôi.

Gặp Vĩnh, cô khóc lóc than thở tâm sự ngắn dài. . . và Vĩnh đã nổi máu anh hùng rơm “an ủi” cô Ấn Độ thực chu đáo. Vĩnh hứa đem cô ta về Mỹ, giúp cô tìm việc làm có nhiều tiền hơn để nuôi cha mẹ và đàn em của cô.

Thư sau, Vĩnh cho biết thêm nhiều chi tiết: “ Mina hiện giờ đang sống với anh. Anh và Mina đã yêu nhau và không thể xa nhau được nữa !”

Hằng ngẩn ngơ như bị sét đánh ngang tai, không trả lời được!

Thư kế tiếp, Vĩnh cho biết là vì Hằng không chịu bảo trợ, hết hy vọng đi Mỹ, nên “ Mina đã nổi giận, trở về với người yêu của cô, vì nếu không đi Mỹ mà phải ở đấy, thì cố nhiên thằng kia trẻ hơn ưu tiên”. Và Vĩnh cũng nổi giận về Mỹ lại, với lời thề là sẽ “giựt Mina ra khỏi tay thằng mất dạy kia, bằng tất cả mọi giá”, dù giá đó là tan nát gia đình mình.

Sau một năm ở Ấn Độ, Vĩnh đem về nhà một trái tim mỡ đọng, đôi chân tê dại từ ngón lên đến tận đầu gối, còn lại thêm bịnh già. Suốt mấy tháng trời tĩnh dưỡng ở nhà,Vĩnh luôn luôn tìm cách ép buộc Hằng làm giấy bảo trợ cho Mina. Theo luật, Vĩnh không thể làm giấy ấy một mình và cũng không dám giả mạo chữ ký của Hằng.

Một lần quyết liệt nhất, Vĩnh hỏi:
- Em biết chuyện anh với Mina, tại sao em không đòi ly dị? Đã thế, em cũng không chịu bảo trợ. . . Con bé hứa sẽ sống chung với chúng ta. Ấn Độ cũng có tục đa thê, nó sẽ săn sóc, hầu hạ em ...miễn phí!

Hằng cười nhạt:
-Em không cần miễn phí. Khi nào làm việc gì mà định tâm lợi dụng người ta trước thì phần thiệt bao giờ cũng sẽ về mình. Em không ham có nô lệ không công. Em còn đủ sức tự rót nước uống mà!

- Sao em không đòi ly dị?
- Em không đòi, nhưng nếu anh yêu cầu thì em cũng bằng lòng. Tại sao anh không yêu cầu?

Vĩnh không trả lời vì Vĩnh biết tại sao. Vĩnh muốn cả hai. Vợ có công ăn việc làm, quán xuyến tất cả mọi công việc. Bỏ Hằng để cưới Mina. Vĩnh phải tìm việc làm, phải lảnh nuôi 15 đứa em mồ côi của Mina, và có thể sẽ phải nuôi cả một bộ lạc đang chết đói dần dần của nàng nữa. Vĩnh chỉ muốn tất cả mọi tiện lợi đều thuộc quyền Vĩnh xử dụng và hưởng thụ. Vợ còn là cơ sở còn, lăng nhăng ở ngoài bị trấn lột hết, mình trần thân trụi không có chỗ mà về xin trú chân. . .

Thấy Vĩnh im, Hằng bảo:
- Để em kể cho anh nghe một chuyện cổ tích.

”Ngày xưa có một tên tù bị kết án tử hình. Tên ấy cầu xin vua gia hạn chết một tháng. Hắn cam đoan trong một tháng hắn sẽ làm cho con ngựa nhà vua biết nói. Vua bằng lòng, thả hắn ra và giao con ngựa quý cho hắn dạy nói.

Mọi người nghe tin đều lo lắng cho hắn :
"Sao mi dại thế ! Làm gì có cách dạy ngựa nói được tiếng người mà mi dám nhận liều!"
Tên tử tù cười trả lời:
- Đằng nào cũng chết. Nhưng trong một tháng trời, biết bao nhiêu là chuyện có thể xảy ra. Vua có thể chết, tôi có thể chết, và con ngựa cũng có thể biết nói hay là chết. Biết đâu đấy! “

- Trong trường hợp của chúng ta, cứ để mọi sự như thế, biết đâu em sẽ không yêu anh nữa, biết đâu anh sẽ không yêu Mina nữa, và cũng biết đâu, người yêu của Mina, người mà anh gọi là “cái thằng mất dạy" ấy đổi ý, vui lòng cưới cô ta và đem cô ta về Mỹ, đúng theo ý nguyện của cô ta. Phải ...biết đâu!

Thấy Hằng nhất định không chịu, Vĩnh nhờ một bà bạn bảo trợ. Bà Mỹ già giàu lòng từ thiện, khi nghe Vĩnh ca bài con cá thê lương quá, động lòng trắc ẩn, nhận bảo trợ cho " người con gái bất hạnh" sang Mỹ tìm cuộc sống mới.

Hằng đọc được tất cả thư từ liên lạc của Vĩnh qua bản sao Vĩnh không cần cất giấu, cố ý cho Hằng biết Vĩnh muốn là được, không cần Hằng giúp. Vĩnh thất vọng thấy Hằng không gây gỗ hay giận hờn. Còn Hằng tự biết mình, khi nàng không thèm nói nữa là sự việc coi như đã được an bài . . . trong thùng rác cả rồi.

Nhìn ảnh Mina, Hằng ngạc nhiên và xấu hổ vì không ngờ mình lại có thể là tình địch của một người nhan sắc ở dưới tiêu chuẩn một cách thảm hại đến thế. Thì ra trong con mắt của đàn ông, cái đẹp khó lường thực.

Mina đến, Vĩnh thuê nhà, tìm việc làm trong một nhà dưỡng lão cho cô ở San Jose, cách xa Hằng 70 dặm an toàn. Kể cũng khổ thân cho ông già, vì từ đấy phải lái xe bao nhiêu là dặm đường để đi ”bác sĩ” và đi ...”thư viện.”

Mina bắt Vĩnh đến xếp đặt nhà cửa cho nàng hàng tuần. Mỗi lần đi, Vĩnh lại viết một danh sách bao nhiêu là bác sĩ, nha sĩ và thư viện, để sẵn trên bàn cho Hằng biết .

Hằng không nhìn đến, cũng không cần hỏi han, vì theo Hằng, người ta còn nói dối là còn nể mặt. Nếu Vĩnh nói công khai: " Này, tôi đến nhà Mina ở lại ba hôm" chứ không phải " đi . . . thư viện ba hôm" thì sao?

Một tối sau khi đi làm về, Hằng thấy nhà vắng vẻ, xe của Vĩnh không có ở sân. Mai là thứ bảy, chắc hẳn Vĩnh đã đi ...thư viện. Hằng thở dài, bỏ cơm, thay áo định đi ngủ sớm. Hằng đang còn nằm đọc báo, bỗng có tiếng xe ngừng trước nhà. Một lúc sau, Vĩnh vào.

Vĩnh vừa soạn đồ trong va li ra vừa nhìn Hằng như chờ đợi một câu hỏi. Hằng dửng dưng nhìn Vĩnh không nói gì. Từ lâu, cuộc sống chung không còn tình nghĩa, không còn liên hệ – cả linh hồn và thể xác – Hằng không cần moi móc những chuyện có thể làm phiền lòng mình.

Nếu có những người đàn ông có thể nói dối và phục vụ một lúc mấy người đàn bà, thì người ấy không phải là Vĩnh. Ngày thường Vĩnh vẫn mừng vì thấy Hằng không tra vấn gì, nhưng hôm ấy Vĩnh như trông mong, chờ đợi Hằng hỏi.

Đợi mãi không được, Vĩnh phải lên tiếng:
- Em có muốn biết tin tức của Mina không?
Hằng dửng dưng:
- Em không muốn biết, mà cũng không cần biết.
- Nhưng tin này chắc sẽ làm em vui...

Hằng vẫn không hỏi. Vĩnh ngập ngừng một lúc rồi nói tiếp, giọng thê thảm:
- Con ngựa đã chết rồi!

Hằng hơi ngước lên nhìn Vĩnh như hỏi bằng mắt. Vĩnh lại nói tiếp một mạch:
- Người yêu của Mina thấy anh đem được Mina qua Mỹ, chạm tự ái nên bằng lòng cưới. Hắn sắp về đến nơi. Mina nhất quyết chờ hắn, và trong khi chờ, cô ta muốn.... trong sạch!

Hằng không nhịn được, phá lên cười. Vĩnh giận dữ:
- Anh biết em thích chí lắm. Em thích vì thấy anh đau khổ. Anh bị chạm tự ái, em cũng không cần.

- Thế còn tự ái của em thì ai cần? Hôm nọ anh giận em không bảo trợ cho cô ta, em có xin anh đừng chạm tự ái của em, anh trả lời:" Dù cô có chết lăn quay ra đấy tôi cũng bất cần!" Ai cho em bao nhiêu cân lượng thì em đáp lễ bấy nhiêu để . . . tạ lòng tri kỷ mà!

Hằng lại phá lên cười. Vĩnh nghiêm mặt:
- Không có gì đáng cười cả! Anh đau khổ mà em cười được, thật vô lương tâm!
- Thế một năm nay anh làm cho em sung sướng đấy à? Không cười sao được?

Chuyện cũ như trái đất! Hai thằng đàn ông tranh nhau một con mái. " Cô gái ngây thơ" bị lợi dụng. Chàng động lòng nghĩa hiệp ra tay cứu vớt, nhưng cũng lợi dụng nàng như ai, hay lại còn hơn ai.

Người lợi dụng thứ nhất thấy con mồi của mình bị lợi dụng –phải cắn răng làm " của riêng " cho ông già gần đất xa trời – bèn lại động lòng nghĩa hiệp, đánh ông già một chưởng chí mạng: chịu cưới cô nàng.

Bây giờ giá ông già có nổi máu du đãng, muốn giựt cô gái lại cũng không được nữa. Đặt lên cân, đằng nào anh cũng thua rồi. Thằng kia vừa trẻ vừa có tương lai, lại vừa là người Mina yêu từ lâu. Trẻ hơn anh 30 tuổi mà cô ta nhắm mắt ngủ với anh, ấy là để trả giá việc anh đem cô ta sang Mỹ đấy thôi.

Bây giờ cô ta đã được chọn lựa ! Nhưng thôi... buồn làm gì, anh còn cả một danh sách các cô nữ khán hộ ở viện mồ côi bên ấy. Cô nào cũng trẻ, cũng nghèo xác xơ, cũng có một đàn em nheo nhóc và một bộ lạc gần chết đói, anh tha hồ mà... thỏa chí anh hùng, ra tay cứu vớt.

Vĩnh không nói gì, lẳng lặng đi nằm.

Một tháng sau, Vĩnh lại đi Ấn Độ, nói là để " tiếp tục công việc nghiên cứu khoa học dở dang" . Vĩnh hứa một năm sẽ về, Hằng giao hẹn:
- Nhà không phải là một khách sạn để về chơi ít hôm, thăm bạn bè, xem thắng cảnh rồi lại đi. Nhà cũng không phải là một bệnh viện để về dưỡng bệnh, lành rồi lại đi.

Người ta đi xa nhà là vì có lý do bắt buộc. Đi để làm việc nước, việc nhà, đi để đem lại danh dự hay nguồn sống cho gia đình. Còn anh, chỉ đi tìm thú vui cho riêng anh, vậy bao giờ chán hãy về, mà về rồi là không đi đâu nữa!

Vĩnh nhận điều kiện. Ở Ấn Độ chán,Vĩnh đi Nhật, và cho Hằng biết con gái Nhật cũng rất thích “trao đổi văn hóa” bất cần tuổi tác. Ngoài tiền lương hưu trí , Vĩnh dạy thêm Anh văn cấp Đại học. Thế lá đô la rủng rĩnh, Những cô gái Kimono liêu trai chạy quanh Vĩnh rộn rịp như đèn kéo quân. Vinh đã tìm được đất lành cho chim đậu !

Mỗi năm Vĩnh gởi cho Hằng một món quà kỷ niệm ngày cưới. Bao nhiêu năm qua, mái tóc đen mướt đã đổi sang trắng xóa, Hằng sống tịch mịch một mình, cố làm ra vẻ bình thản bên ngoài, nhưng đầy ẩn ức nội tâm. Để giữ thăng bằng, Hằng tham gia hết công tác từ thiện này đến công tác xã hội khác, mong tìm một lẽ sống để khỏi thấy mình như một cái xác ướp.

Nhưng ngoài giờ làm việc, Hằng vẫn còn nhiều phút giây đối diện với mình, với tất cả những kỷ niệm của quá khứ. Từ cái bàn cũ, cái nệm ghế sờn, bức tranh thêu bị vỡ kính, tất cả đều giữ lại một mớ kỷ niệm vui buồn.

Ngoài giờ làm việc, Hằng lại lao mình vào các lớp học, từ lớp chính thức của các trường toàn sinh viên trẻ, lớp ban ngày, thêm lớp ban đêm và cả đến những lớp riêng cho cao niên Hằng cũng không chê. Những ông già bà lão đi học như điên này có lẽ không nhiều thì ít cũng đang khắc khoải với cuộc đời, với những con ngựa sống, ngựa chết...

Chuông báo 20 phút reo lên. Cô mẫu được nghỉ bước xuống đi lại cho dãn gân cốt. Sinh viên ào ào đứng dậy, vặn tay duỗi chân, tìm nước uống. Cô mẫu lại lân la đi xem tranh. Lúc cô đến gần, Hằng rút trong túi ra mấy tấm giấy 20 mỹ kim, nhét vào tay thằng bé nói:
- Hai tuần nữa nó đầy tháng. Phong tục nước tôi, con đầy tháng thì bạn bè tặng quà. Cô mua hộ tôi mấy cái khăn bông cho nó.
Cô gái sung sướng ra mặt. Sự sung sướng bộc lộ và dễ dàng, làm Hằng ao ước. Là một người mẹ, cô có lẽ sống để bám víu vào cuộc đời, để ấp ủ, thương yêu, hy vọng, xây dựng tương lai. Cô có niềm tin, nhiệt tình cũng như tuổi trẻ.

Hằng bỗng bàng hoàng ngây ngất như người say chợt tỉnh. Mọi lần, những lúc theo các lớp Cao niên đi vẽ ngoại cảnh, Hằng vẫn khó chịu khi thấy những ông cu, bà cụ lẩy bẩy run rẩy đẩy xe chất đầy dụng cụ vẽ leo lên đồi cao hay lết mấy chục bậc đá xuống bãi bể.

Nhiều cụ bà to béo, khệ nệ, mắt không còn nhìn thấy rõ, phải dùng viễn kính để nhìn cảnh,xong lại dùng kính hiển vi để xem mình đã vẽ gì. Nhiều cụ ông tai nghễnh ngãng, đã bị thu bằng lái xe vì thiếu an toàn, con cháu phải chở thả xuống địa điểm vẽ, rồi đến giờ lại đón.

Ngày thường, Hằng vẫn nghĩ tại sao các cụ không ở nhà, ngồi phơi nắng trên ghế xích đu, để con mèo rù rù trên chân làm bạn cho khỏe thân. Bây giờ Hằng mới hiểu. Chính các cụ cũng còn nguồn sống bừng bừng trong người, không muốn thấy tuổi già trôi qua một cách vô dụng, ngày ngày khoanh tay ngồi chờ giờ ăn và cũng chờ luôn tử thần đến rước không biết lúc nào. Già rồi, các cụ bắt đầu học tất cả những môn gì mà ngày xa xưa, lúc còn trẻ, không có thì giờ hay điều kiện để thực hiện.

Hằng bỏ đôi kính đen xuống. Từ lúc vào lớp nàng vẫn giữ kính để che đôi mắt sung mọng. Đã lâu không khóc, dạo này Hằng lại có nhiều dịp xúc động chảy nước mắt, rồi những uất ức riêng tư cũng mượn cớ lan tràn. Hồi chiều, Hằng đã khóc vì những tin tức dồn dập từ các đảo, các trại tị nạn đưa về, nói đến những thảm cảnh của hàng trăm, hàng ngàn phụ nữ ViệtNam bị vùi dập trên biển Đông.

Những tiếng kêu cứu thê thảm phải hiểu giữa hai dòng trong thư từ quê nhà gửi sang... những tin nhận từ các trại tù được bạn lén lút chuyển ra nước ngoài... Tất cả, như những lưỡi gươm tàn bạo chém xuống tâm tư vốn đang khắc khoải của Hằng, làm giờ đây khơi dậy nguồn sinh lực đang còn muốn say ngủ.

Cặp kính đen bỏ xuống rồi, Hằng nhìn đời với đôi mắt khác, tâm hồn tràn ngập một hứng khởi vừa khơi nguồn.
Mới sáng hôm nay, Hằng còn đầy mặc cảm khi nhìn món quà kỷ niệm ngày cưới, coi nó như một mỉa mai của tình duyên, làm Hằng dở khóc dở cười cho cuộc đời mình, Hằng đã làm tất cả để trốn chạy cái mỉa mai ấy, để quên đi vết thương kia, nhưng tất cả đều vô ích. Vết thương tấy sốt như chỉ được đắp nước đá cho bớt nóng, nhưng nguồn gốc căn bệnh vẫn còn thì dù ướp đá đến đông lạnh cũng vô ích.

Giờ đây, những thảm cảnh của một quê hương nghiêng ngửa, của cả một dân tộc truân chuyên, cùng với hào quang của cô người mẫu và ý chí sống của những bàn tay già run rẩy kia, như liều thuốc chữa lành vết thương kinh niên của Hằng. Bây giờ Hằng thấy mình có thể có hạnh phúc, dù chỉ với cái bóng ngã dài khi bách bộ một mình trên bãi biển.

Từ đây, mỗi năm Hằng sẵn sàng đón nhận món quà kỷ niệm ngày cưới, không còn uất ức buồn tủi. Như thế còn hơn là một ngày tháng muời nào đó trong tương lai, thay vì món quà, Hằng phải nhận một hộp tro với một giấy báo tin chia buồn của ai đó từ Nhật gởi đến.
Nếu Hằng là tên tử tù kia, thì con ngựa của nhà Vua đã không chết. Nó biết nói.

Linh Bảo
Monterey 1981
(Trích trong tuyển tập Mây Tần )
mèo mù
#20 Posted : Sunday, August 23, 2009 1:59:31 AM(UTC)
mèo mù

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 489
Points: 0

CON CHUỘT
Linh Bảo

Trich trong Tuyển tập Mây Tần


Nếu câu “chuột sa chĩnh gạo” là để tả sự sung sướng giàu sang bất ngờ của loài người, thì có khi lại đúng vào hoàn cảnh của bé chuột.

Không hiểu nhằm giờ Hoàng đạo may mắn nào đó, một con chuột Nhắt tí hon đã lọt được vào nhà bà Bình. Hôm ấy trời nóng, mấy người khách đàn ông hút thuốc lá thả khói mênh mông đầy nhà. Lúc khách ra về bà Bình phải mở cửa lớn một lúc lâu, để gió vào lọc không khí trong nhà cho hết mùi khói thuốc.
Những lúc khác, nếu cần thoáng, bà chỉ mở cửa sổ. Các cửa này đều có lưới, chỉ gió ra vào được, ngoài ra, một con phù du cũng không lọt.

Hôm ấy, Nhắt đang lang thang tìm nơi định cư sau mấy ngày lưu lạc từ vườn này sang vườn khác. Vườn nào cũng có hoa có cỏ. Hoa thơm ngát đến mê ly, và cỏ xanh mơn mởn, cắt đều như một tấm thảm. Phong cảnh đẹp đến như thế, chỉ phải cái tội là thùng rác nhà nào cũng chắc chắn, và có nắp đậy kín đến nỗi mùi thơm quen thuộc của rác cũng không bay ra được.

Đấy là ngoài vườn, còn trong nhà thì cửa lớn lúc nào cũng đóng chặt, tường cứng như đá, cửa sổ có màn lưới bao kỷ. Cũng có lần nó vào được một vài nhà, nhưng nhà nào cũng giống nhau, cứ sạch bóng cả lên.

Trong bếp, những gì ăn được, người ta đều bỏ vào hộp đậy kín. Thức ăn thừa cho vào tủ lạnh, cặn bã xay vụn theo nước chảy ra cống. Như thế thì còn sống làm sao được. . . Bây giờ Nhắt mới biết, thì ra ở đời không có gì tuyệt đối cả. Nhà như thế, vườn như thế, ai cũng khen là đẹp, là sang trọng, nhưng trong con mắt của Nhắt thì thực đúng là thế giới của đói và chết.

Đã có lần Nhắt thấy oán giận mà không biết oán giận ai. Cả gia đình nó, mới cách đây không lâu, còn đang sống yên lành trong một gian nhà gỗ cũ kỷ, nhưng rất ấm no đầy đủ. Căn nhà èo ọp gần sập, mái thủng, vách long lở, cột lung lay, nền đổ nát. Căn nhà, ai trông thấy cũng e sợ xa lánh. Thế nhưng nơi ấy ấy chính là Thiên đường của gia đình Nhắt. Gỗ mềm dễ gặm, đồ đạc vật liệu càng cũ càng thơm. Nhưng phải có cái mũi của chuột mới biết thưởng thức mùi mốc meo nó tuyệt diệu làm sao!

Ngoài ra, bọn trẻ con lúc ăn, hay ném đổ vung vãi ra đất, nào bánh, nào trứng, nào phó mát... đủ cả, gần như chúng ăn thức gì, gia đình Nhắt ăn thức ấy. Người và chuột chung hưởng lợi ích, giống như dân anh chị sống trong thế giới xô bồ hỗn tạp. Càng vô trật tự càng là đất dụng võ lý-tưởng.

Chúng tha hồ leo trèo phá phách, đạp đổ bằng thích. Có ai nhìn thấy một vết bẩn lẫn vào trăm ngàn vết bẩn đã có sẵn đâu! Nếu sống trong cái nhà được dọn dẹp sạch sẽ, có ngăn nắp thứ tự, thì phải biết! Một vết bẩn nhẹ cũng nổi bật lên ngay, đâu có thể tự do hạnh phúc trong bừa bãi như thế này!
Nhưng ở đời, lắm khi may mắn không dừng chân lâu lâu hay mãi mãi như người ta tưởng. Một hôm, Nhắt nghe lén được câu chuyện của chủ nhân bàn tán với nhau. Họ định bán đất này cho một cho một công ty địa ốc, chủ nhà sẽ có đủ tiền để mua một căn nhà nhỏ khác, xa hơn, nhưng mới hơn, và tính mệnh cũng sẽ được an toàn hơn.

Từ ngày não ngày nào, cả nhà Nhắt tự coi mình như một thành phần của gia đình này, nên cứ thản nhiên vui đùa, cứ tưởng là ta với chủ nhân sẽ sống chết, vui buồn, sướng khổ có nhau, trên đường đời cùng đi chung cho đến nơi sơn cùng thủy tận... Theo lý luận mà nói, thì với tính nết của bọn trẻ con, dù họ dọn nhà mới cũng phải có thầy có tớ, cũng phải có kẻ nhặt nhạnh hạt cơm, miếng bánh rơi vãi chứ !

Thế nhưng, không ngờ, đây là lần đầu tiên Nhắt học đến chữ “ngờ”. Một sáng thức dậy, gia đình Nhắt thấy gian nhà bỗng dưng rộng mênh mông: người ta đã dọn đồ đạc đi đâu mất hết!

Một chiếc xe ủi đất đến, và cứ thế húc bừa vào nhà. Chỉ vài giờ sau, cái Thiên đường của Nhắt chỉ còn là một đống gỗ mục đổ nát. Nhắt và cả làng chuột nấp dưới đống gỗ, chửi rủa bọn trẻ con tệ bạc, ra đi không đem gia đình Nhắt đi, không báo cho Nhắt biết, mà cũng không một lời từ giã.

Nhưng nào phải chỉ có thế thôi đâu! Hôm sau, một bọn người khác đến dọn đống gỗ, họ xốc xáo khắp mọi nơi, rồi đổ nền, dựng nhà mới.
Trong lúc hoảng hốt, gia đình Nhắt chạy tán loạn cả lên, và Nhắt bỗng dưng thành một con chuột bơ vơ cô độc nhất trên đời.

Sau bao nhiêu ngày thất thểu lang thang, Nhắt tưởng đã đến bước đường cùng. Trong lúc gần như tuyệt vọng, thấy nhà bà Bình mở cửa, nó len lén chạy tọt ngay vào.
Trong nhà không có một ai, chắc chủ nhân đang làm việc ngoài vườn. Nhắt lợi dụng cơ hội hiếm có, quan sát khắp nơi. Phòng khách rộng rãi sạch sẽ, hai phòng ngủ hơi bừa bãi nhưng không có gì lạ. Trong phòng khăn tắm, áo sạch, áo dơ , báo hàng ngày, giày dép vương vãi là sự thường. Phòng tắm có mùi thuốc sát trùng, không thích hợp cho bộ phổi tinh khiết. Nhắt vào thẳng nhà bếp, nấp dưới một cái lò ga rất lớn để dò động tĩnh.

Ngước mắt nhìn lên, nó thấy nhà bếp nhiều tủ đựng đồ quá. Chủ nhân chắc là người có tính rộng rãi hào phóng, hay nói một cách khác, bừa bãi cẩu thả cũng được, vì bà chủ không đóng chặt các cửa tủ như tất cả các nhà khác. Cũng có thể là nhà này có trẻ con, chúng không bao giờ nhớ đóng cửa tủ hay ngăn kéo sau khi lấy đồ xong.

Nhắt thử đi du lịch thám hiểm một vài nơi. Từng thứ nhứt để đồ hộp, nhiều loại rau đậu, hoa quả khác nhau. Từng thứ hai cũng đồ hộp, toàn xúp đủ thứ. Từng thứ ba: chén bát. Một tủ khác đựng nhiều loại giấy: giấy khăn ăn, khăn tay, giấy vệ sinh, khăn lau bàn, khăn lau bát. Một tủ khác đựng toàn đồ đạc thuốc men để tẩy độc, lau chùi nhà cửa, các thứ phấn, thuốc bột, thuốc nước, chai lọ, bao hộp chồng chất ngổn ngang. Những chai lọ này tuy đậy kín, cũng bốc ra một thứ mùi hôi nặng khó tả. Ngửi thêm một lúc nữa sợ chết ngạt, Nhắt chạy vội ra ngoài.

Trong chốc lát, Nhắt thấy thất vọng tràn trề. Thì ra người ta ai cũng giống nhau cả. Cánh cửa tủ mở rộng, Nhắt tưởng đó là dấu hiệu của sự bao dung, hào phóng, rộng lượng, nhưng thực ra không phải. Họ có mất mát gì đâu! Chỉ có mùi thuốc sát trùng bay ra, còn mùi thực phẩm thì vẫn giữ nguyên vẹn ở trong hộp.

Nhắt lê cái bụng xẹp lép, thong thả tìm đến căn phòng xép. Phòng này để rửa bát, và cũng có một cái tủ lớn. Từng cao nhất không có gì ăn được. Trong lúc Nhắt đang hếch mắt lên nhìn một cách đau khổ tuyệt vọng, bỗng nghe thấy tiếng động. Nhắt nhanh nhẹn nhảy biến ngay vào cái tủ thấp, cũng mở cửa sẵn. Và thế là cuộc đời “chuột sa chĩnh gạo” của Nhắt bắt đầu từ đây.

Trong tủ hơi tối, nhưng vốn rất tinh mắt. Nhắt thấy vô số là chai không, lọ không, xoong, nồi, chảo, mới cũ lớn nhỏ . Tất cả đều sạch sẽ, khô ráo, sắp đặt gọn gàng. Trong góc tủ có một cái thùng giấy. Nhắt tò mò nhảy vào và nhận ra ngay bên trong nằm chình ình... Trời đất ơi!... một bao gạo to tổ bố.

Ban đầu Nhắt ngơ ngác không tin, tưởng là mình nằm mơ. Nhưng sự thực sờ sờ ra đấy: miệng bao gạo mở rộng như quyến rũ, như mời chào, như khuyến khích. Trời! Mùi gạo sau bao nhiêu ngày lang thang đói rét mới thơm ngon hấp dẫn làm sao! Thế là ngày hạnh phúc nhất đời của Nhắt bắt đầu. Gạo Nhật bản nhập cảng, toàn chọn những hạt mập tròn, béo bùi tuyệt vời! Ngoài bao viết rõ ràng: ”Gạo số một, ngon nhất, 25 cân Anh”. Nó ngơ ngẩn tự nhìn mình, rồi nhìn bao gạo. Cái núi gạo này thì có mà ăn đến suốt đời cũng không hết!

Sau một tuần lễ, Nhắt tự coi như đã định cư ở đây. Ngày ngày, Nhắt leo lên núi gạo, nhấm nháp vài hột, suy ngẫm chuyện đời. Nhắt nhận ra rằng Trời quả thực chẳng đóng cửa ai bao giờ. Trong lúc gần đến bước đường cùng, thế nào cũng tìm được lối thoát. Đôi khi nhớ cha mẹ và đàn em, giờ đây đang lang thang đói rét không biết ở nơi nào, nó muốn tìm đem về để cùng hưởng cái sung sướng hạnh phúc “chuột sa chỉnh gạo” nghìn năm một thuở.

Nhưng nó cũng biết, nếu ra khỏi nhà này, có thể là không bao giờ còn trở vào lại được nữa! Cơ hội tốt, có khi không đến hai lần trong một đời người. Anh nào nắm được hạnh phúc mà còn nghĩ quanh nghĩ quẩn bỏ rơi mất là dại. Nhắt không bao giờ dám tin rằng bà Bình có thể để cửa mở toang cho nó ra, rồi lại vào một lần nữa, cũng như nó không dám tin rằng gia đình nó còn sống đến ngày nay ở trong cái thế giới sạch sẽ thơm tho, nhà cao cửa rộng, mà đầy những thuốc sát trùng như thế này.

Nó tự kết luận là nếu còn sống, thì gia đình hẳn cũng đã tấp vào một nơi nào yên thân được, nếu không thì đã chết rồi! Đằng nào bỏ đi tìm cũng vô ích, nhà cửa san sát như thế, biết anh em ở cái xó tối hang hốc nào? Nó đành tự an ủi là ai cũng phải nhận cái số phận Trời dành riêng cho mình...

Bây giờ Nhắt biết giờ giấc của nhà này lắm rồi. Bà Bình độc thân, làm nữ khán hộ cho một bệnh viện tư. Mỗi ngày, bà đi từ 8 giờ sáng cho đến 5 giờ chiều mới về. Suốt cả thời gian ấy, Nhắt là chúa tể tất cả giang sơn này. Nhắt chạy tung tăng, chơi đùa hết phòng khách, phòng ngủ, đến phòng tắm, nhảy lên nhảy xuống hết tủ này đến ngăn kéo khác một cách vô tư. Nó tha về tủ nó một ít giấy, thỉnh thoảng buồn miệng cắn nát chơi, và dành ra một ít để làm tổ nằm cho êm.

Chơi đùa suốt ngày, đói ăn khát uống cho đến 5 giờ chiều, khi Nhắt nghe tiếng chìa khóa lách cách mở cửa, thì nó biết giờ nghỉ ngơi đã đến.
Nhắt chui ngay vào tổ. Đây là “giang sơn gấm vóc” của nó được làm bằng khăn tay giấy, thứ mềm dịu nhất màu vàng nhạt, bà Bình vẫn thường dùng. Nhắt nằm yên, lắng nghe tiếng chân đi vào.

Trước hết, bà bỏ đôi giầy cao gót, đi chân không, thở phào ra một cách nhẹ nhõm thảnh thơi. Xong rồi, bà mở sưởi lên, đứng trước lò sưởi thay quần áo. Thay xong bà vào bếp sửa soạn cơm chiều. Có khi bà nấu cơm, có khi ăn mì, phở hay bánh, rau quả, không nhất định. Dù sao, bà ở trong phòng bếp không lâu. Cả nấu và ăn chỉ mất độ một tiếng đồng hồ mà thôi.

Bao gạo vơi dần, nhưng khi nào thực hết thì lại có bao mới, Nhắt không phải lo lắng gì cả. Mỗi ngày, Nhắt nằm trong tổ lắng tai nghe tiếng bà Bình xả nước rửa rau như một điệu nhạc du dương. Nó cảm thấy cuộc sống thực là đầy đủ. Có lương thực, có tổ ấm, giá có một bạn đồng loại để chia xẻ cảnh phong lưu sung túc này thì thực không còn gì hơn!

Có một điều Nhắt không dám nghĩ đến, là không biết bà Bình có bằng lòng cho Nhắt ở trong nhà của bà không. Bọn trẻ con ngày xưa chấp nhận gia đình Nhắt một cách công khai, nhưng bà Bình thì chưa chắc.

Không biết rõ ý chủ nhân ra sao, Nhắt định cố giấu sự có mặt của mình. Nhưng cây kim ở trong túi lâu ngày cũng phải lòi ra! Dù mắt bà Bình hơi kém, bà cũng trông thấy những vết đen nho nhỏ trong bao gạo. Những chấm đen này chứng tỏ có một con vật gì đã ăn vụng gạo và để sự tiêu hóa lại. Phản ứng trước nhất của bà Bình là thắt chặt miệng bao. Hôm sau, bà không thấy có vết đen trong bao lẫn với gạo nữa, nhưng cái bao bị rách một lỗ nhỏ, và bây giờ, những chấm đen kia ở ngoài bao gạo.

Như thế nghĩa là con vật đã cắn thủng bao, thò mõm vào ăn gạo rồi để vật tiêu hóa ở ngoài. Trông thấy thế bà Bình nghĩ ngay đến Chuột, vì chỉ chuột mới hay lén sống chung với người và có bộ răng sắc bén cắn thủng được bao thôi.
Ngày thứ bảy tuần ấy không phải đi làm, bà Bình lấy hết đồ vật trong tủ ra, dùng xà phòng và thuốc sát trùng lau khắp tủ, sắp lại mọi thứ vào và đóng chặt cửa lại. Cứ thế, bà Bình thanh toán từng tủ một. Khi tất cả đều sạch sẽ, và cửa đã đóng chặt rồi, bà soạn đến cái tủ cuối cùng, nơi đã là ”Thế giới thần tiên” của Nhắt. Những ngày hạnh phúc nhất trên đời bây giờ mới thấy ngắn ngủi làm sao!

Bà Bình xách bao gạo, cho vào một cái hộp lớn khác có nắp và đậy kín lại. Bà moi ra một đống giấy nát, cái tổ ấm “giang sơn gấm vóc ” của Nhắt, bị vứt vào xọt rác không tiếc thương. Bà cẩn thận lau chùi kỹ hơn vì nơi đây đã là “Tổng hành dinh” của “địch”, Nhắt cố thu gọn mình vào góc tủ, nhưng mùi thuốc sát trùng nồng nặc làm Nhắt không chịu nổi phải nhảy vọt ra, rồi nhanh như cắt biến ngay vào dưới cái lò ga.

Bây giờ bà Bình được yên trí ít nhất con Chuột tai hại đã ra ngoài, từ nay, mỗi lần mở tủ lấy đồ, bà chỉ cần nhớ đóng chặt cửa lại để nó không có lối vào rồi sau sẽ liệu.
Quét dọn xong, bà Bình mệt lả. Ngày thường, bà chỉ quen làm những việc nhẹ nhàng, nếu cần quét dọn, bà làm dần dần, nhưng hôm nay khác hẳn, phải cúi xuống và quì gối, với tay, dọn ra xếp vào hàng nửa ngày, bà thấy sống lưng đau mỏi tê cứng.

Tuy thân thể mệt nhọc, nhưng trí óc bà làm việc rất mạnh. Ngả lưng trên giường, bà nghĩ đến cách bắt chuột. Lối bắt chuột cổ điển nhất, là dùng mèo . Nhưng phải là một con mèo thiện chiến nghĩa là loại mèo biết và chịu bắt chuột, chứ không phải thứ mèo để vuốt ve bồng bế, làm cảnh. Kiếm cho được một chàng Mèo “ chiến sĩ” không phải dễ mà mục đích chỉ để bắt một con chuột tí hon độc nhất, thì cũng giống như “Ăn một bát cháo chạy 300 quãng đồng”. Không đáng công tí nào.

Mượn thì chung quanh đám bạn bè, hàng xóm, không ai nuôi mèo cả. Bà có thể mua một con biết bắt chuột, nhưng sau khi “ đại công cáo thành” rồi, bà sẽ dùng con mèo kia để làm gì? Nó sẽ cào rách nệm ghế, leo lên nóc tủ nhảy vờn, đồ chơi để trên ấy sẽ rơi vỡ. Hơn nữa, ngày hai bữa, bà sẽ phải lo nghĩ đến thức ăn cho mèo, phải săn sóc hầu hạ như hầu một đứa bé con, lại còn phải đem đi thú y tiêm ngừa bệnh tật. Bất cứ giờ nào, mèo cào cửa muốn ra ngoài, là bà phải dậy mở cửa, rồi cứ thế mà mở cửa, đóng cửa, đêm cũng như ngày...

Nếu là một con mèo dậy thì, đến thời kỳ cảm thấy cô đơn, nó sẽ leo lên mái nhà, máng xối mà gào, thì cả hai dãy hàng xóm phải thức dậy hết. Ai không thích cũng phải nghe bản nhạc “Ô mê lý mê ly...” của các ca sĩ nhạc sĩ mèo lúc nửa đêm.

Bà cũng sẽ mất rất nhiều tự do vì phải nghĩ đến bữa cơm, có kẻ đang chờ đợi ở nhà không dám về muộn, dù cho bận đến bao nhiêu cũng vội vã về như nhà có con mọn. Lý do mạnh hơn nữa, là bà không chịu được lông mèo. Mỗi lần rùng mình, mèo sẽ tung ra vô khối bụi, bọ chét và lông rụng. Bà ngửi phải, lập tức hắt hơi không ngừng.

Giải pháp Mèo, nhất định là không xong rồi. Phải đánh bẫy. Mua bẫy chuột thì quá dễ, đâu cũng có bán. Đủ các thứ bẫy lớn nhỏ và có ngay lập tức. Nhưng bà Bình là người khó tính, bà không muốn con Chuột chết bất đắc kỳ tử trong nhà bà một cách ghê gớm. Nghĩ đến cái vòng sắt bật lên nghiến nát nó, máu đỏ loang ra... Không được, bà phải cho nó chết toàn thây và vẫn xinh đẹp trong con mắt của loài chuột. Chính bà phải tự sáng chế ra cái bẫy nếu bà mở cửa mà nó không chịu trốn đi.

Trước hết, bà nghĩ đến một cái hộp có cửa sập lại theo lối cổ điển. Bà còn tưởng tượng thêm vài cái bẫy hình dáng khác nhau nữa, nhưng tất cả đều không ổn. Những vật liệu, dụng cụ để làm, bà không có, mà dù có, bà cũng không biết làm thế nào cho thành hình.
Đêm ngủ chập chờn vì mệt mỏi, suy nghĩ, trong giấc mơ, hình ảnh những cái bẫy không thành vẫn kế tiếp nhảy múa, thay đổi, ẩn hiện lẫn lộn.

Sáng hôm sau, bà Bình khóa chặt các tủ trước khi đi làm, yên trí là thùng gạo của bà không bị phá phách. Nhưng chỉ vắng nhà được nửa buổi, bà bỗng bị một ám ảnh khác. Ngày thường, con chuột có gạo ăn, bây giờ không có gạo nữa, nó sẽ ăn gì? Cái tủ bị đóng kín nó sẽ ở đâu? Mất tổ rồi, nó chạy khắp nhà, nhất là có thể vào trong phòng ngủ của bà. Phòng ấy có nhiều xó kẹt, nhiều quần áo giăng mắc, nó sẽ nhấm gặm quần áo, giày vớ, hay cắn mấy bộ sách quí bà vẫn để quanh quẩn ở đầu giường.

Nếu như thế, thì sự tai hại còn to gấp trăm lần để nó ăn gạo trong nhà bếp. Bà nghĩ lại, thấy tất cả đồ vật gì của bà cũng có thể làm món nhấm gặm chơi cho con chuột cả, bất cứ món gì cũng ngon lành với bộ răng chuột sắc như dao. Càng nghĩ bà càng mong đợi đến giờ xong việc. Bà chỉ muốn chạy vội về nhà lấy ngay ít cơm nguội để vào góc tủ.

Trong khi chờ đợi hoàn thành kế hoạch bẫy chuột, ngày ngày bà Bình để một nắm gạo cho chuột, như một phần ăn. Sau khi đi làm về, bà vào ngay bếp xem hôm ấy chuột có ăn không, có đủ gạo không, còn thừa hay ăn hết.
Suốt cả một tuần lễ ngày đêm suy nghĩ, vừa cho ăn vừa tìm cách đánh bẫy như thế, chuột và người hình như đã bắt đầu quen chương trình mới và giờ giấc của nhau.

Con chuột bắt đầu ăn những hạt gạo của bà một cách đầy tín nhiệm, và bà Bình một hôm ngủ dậy với hình ảnh cái bẫy chuột trong đầu. Không biết tác phẩm này đã thành hình khi bà mơ hay tỉnh, nhưng đối với bà, nó gần như toàn thiện, nghĩa là dễ làm, không cần đến vật liệu khó khăn gì hết, và con Chuột sẽ được mồ yên mã đẹp như ai vậy..

Đã có ý niệm về cái bẫy rồi, bà Bình nghĩ đến mồi. Bà không biết làm mồi gì cho hấp dẫn: thịt nướng, cá mực nướng, cơm hay tôm..., có lẽ chuột Mỹ phải cho mồi bằng phó mát cũng nên!

Nghĩ đến mồi và cái bẫy, bà Bình chợt nhớ đến một truyện ngắn ngoại quốc, bà đọc từ lâu nên quên mất tên. Chuyện tả một lão già rất nghèo khổ, chuyên nghề làm bẫy chuột. Ngày ngày, lão đi từ làng này sang làng khác, vừa đi vừa rao bán bẫy. Cái nghề đạm bạc này, không được lời lãi bao nhiêu, nên thỉnh thoảng lão phải ăn cắp vặt thêm để sống.

Một hôm, mãi đi lang thang trên đồng vắng, bụng đói miệng khát, lão bỗng chợt nãy ra ý nghĩ rằng cái thế giới mà tất cả mọi người đang sống này, chẳng qua cũng như một cái bẫy chuột rất lớn mà thôi. Tình, Tiền, Nhan sắc, Danh vọng, Bằng cấp v.v... tất cả đều giống như miếng thịt nướng thơm phức trong bẫy, để nhử những con mồi háu ăn. Và một khi ai đó bị mắc bẫy rồi, thì than ôi, tiêu tan cuộc đời!

Ý tưởng so sánh này làm lão thú vị lắm, cố tìm tòi moi móc trong trí óc, nghĩ đến người này người kia trong đám bạn bè, quen biết, xem ai đã bị mắc bẫy rồi mà không ngờ, ai biết thân mình bị mắc bẫy, an phận đợi giờ chết, ai đang vùng vẫy cuống cuồng tìm lối thoát, ai chưa biết, còn đang gặm nhấm mồi một cách say sưa, và những ai còn ngây thơ, mắt la mày lét nhìn mồi thèm thuồng chạy quanh tìm lối chui vào bẫy...

Lão thấy mình cao quí hơn những người khác, vì lão tự coi mình là kẻ đứng từ xa, từ trên cao nhìn xuống đám người mà lão xem như một bầy chuột đang chạy quanh miếng mồi. Lão cứ cười người ta và độc diễn niềm vui như thế cho đến một hôm, lão vào ngủ trọ nhà một nông phu.

Chủ nhà cho lão ăn uống tắm rửa tiếp đãi như một quí khách. Trong lúc ngồi nói chuyện gẫu trước khi đi ngủ, nông phu còn tin cậy sung sướng đem mấy đồng tiền vàng ra khoe. Đó là tất cả gia tài suốt đời dành dụm được để dưỡng già . Sáng hôm sau, lão dậy sớm chào và cảm ơn chủ nhà, rồi giả vờ lên đường nhưng kỳ thực lão nấp vào một chỗ, chờ cho nông phu ra đồng, lén trở vào nhà ăn cắp mấy đồng tiền vàng.

Lão không dám đi trên đường cái, sợ bị đuổi theo, phải băng qua rừng. Lão đi từ sáng đến chiều, vào sâu trong vùng núi non bí hiểm lạ lùng. Lão cố tìm phương hướng, cố lướt qua mệt mỏi đói rét, gắng gượng gần như nửa bò nửa lết, đến đêm thì phong cảnh càng đi càng như quen thuộc.

Thì ra lão đã bị lạc, vòng quanh mãi trong rừng, và bây giờ lại trở về chỗ cũ. Rừng thật là âm u ghê rợn, tiếng chân thú dữ như lẩn quất bên mình. Đeo một xâu bẫy chuột nặng trên lưng bây giờ lão thấy mình không cười ai được nữa, vì bản thân lão cũng đã thành một con chuột mắc bẫy, mà miếng mồi là mấy đồng tiền vàng...

Bà Bình bỗng cười thầm nghĩ trên đời đã có lắm anh tham mồi mắc bẫy lắm rồi, và cũng sẽ còn lắm anh nữa, tiếp tục chết vì mồi. Chỉ cần tìm được miếng mồi đúng với khẩu vị là anh nào cũng chết cả! Con chuột này, dù quắt quéo tinh khôn đến đâu, tìm được đúng mồi thì nó cũng chết như ai vậy!

Con chuột của bà, nhất định là không thích vàng, phó mát cũng chưa chắc đúng khẩu vị, nhưng gạo thì có lẽ được. Nó không hề ăn thức gì khác của bà, nó sẽ thích món ăn quen thuộc.
Bà Bình lấy một cái thau, đổ nước vào độ nửa thau. Bà lấy giấy báo bao miệng thau lại, cột giây chằng thật chặt. Ngay chính giữa, bà cắt một lỗ tròn nhỏ, trên miệng lấp một miếng giấy bóng, thứ thật nhẹ và mỏng, trên tấm giấy bóng, bà để vài hạt gạo.

Sắp đặt xong xuôi, bà đặt thau nước vào chỗ của bao gạo hàng ngày. Mỗi chiều đi làm về bà nhìn vào tủ xem nhúm gạo có còn nguyên không. Hai ngày đầu, gạo mất nhưng miếng giấy bóng vẫn còn nằm yên bất động. Ngày thứ ba, cả giấy lẫn gạo đều lọt qua cái lỗ con, nhưng chuột thoát nạn. Bà Bình đã tưởng con Nhắt bị một vố xuýt chết thế, chắc không còn dám léo hánh đến gần cái thau nữa. Bà không tin mình sẽ thành công, nhưng cũng cắt mảnh giấy bóng khác che cái lỗ con, và lại để một ít gạo lên.

Chiều hôm ấy đi làm về, bà Bình thấy cả giấy lẫn gạo và con chuột đều ở trong thau nước. Con chuột bé tí chỉ bằng ngón tay, mặt mũi trông ngây thơ lương thiện quá, làm bà Bình đâm ra hối hận đã giết nó. Giá bà bắt được nó, chắc bà đem thả ra cánh đồng xa, cho nó tìm đường sống. Nhưng khốn nỗi, con chuột bé nhỏ khôn lanh quá, chỉ chạy quanh quẩn trong các xó kẹt, không chịu để bị bắt, cũng không chịu chạy ra khỏi nhà, tuy cửa đã mở sẵn cho nó.

Bà Bình bùi ngùi vớt con chuột ra, đem chôn dưới gốc cây hồng, trên mả nó, bà chọn những viên đá cuội sạch sẽ, làm thành một nấm mộ xinh xinh.
Giải quyết xong vấn đề con chuột, bà Bình quét dọn nhà lại một lần nữa. Nhưng lần này, địch thủ bị hạ rồi, bà thấy buồn buồn, không còn hăng hái như lần đầu.

Căn nhà hình như vắng lạnh hơn, bà hình như cô đơn hơn. Có lẽ niềm cô đơn thì không hơn không kém, nhưng trước kia, vì bà không nghĩ đến nên không nhận thấy. Bây giờ con chuột chết rồi, mới vỡ lẽ ra giữa bà và nó đã có một mối cảm tình quấn quít nhau từ hồi nào bà không hay. Có lẽ từ khi bà bắt đầu ngày ngày để gạo cho nó ăn, lo lắng cho nó, không biết nó ăn có đủ no không, có nghịch ngợm phá phách gì không. Tuy sự lo lắng này phát xuất từ chỗ sợ nó đói, cắn quần áo hay sách vở, nhưng lần lần thành một thói quen săn sóc, lo cho nó như lo cho một con vật được chăn nuôi, trong tiềm thức bà, tình thương đến lúc nào bà không biết.

Bà nhớ nó và đâm ra hồi tưởng lại những lúc nó còn sống, bà đi vắng thì nó giữ nhà, làm cho căn nhà có sinh khí, bà về, nó biết thân sống bất hợp pháp, trả lại giang sơn cho bà. Nó sống khiêm nhường và chịu an phận. Mấy hạt gạo nhỏ bé, một mảnh khăn giấy, đấy là tất cả mơ ước. Nó chưa hề phá hại một cái gì khác của bà cả. Thế mà bà nỡ xem nó như thù địch. Bây giờ, kẻ thù chết rồi, bà chẳng sung sướng gì hơn, trái lại chỉ thấy tâm hồn trống rỗng.

Nghĩ kỷ thì sự thiệt hại khi kẻ thù còn sống không bằng lúc nó đã chết. Bây giờ, ai trông nhà cho bà khi bà đi vắng? Bà vào bếp nấu cơm, ai bầu bạn? Bà cao hứng ngâm nga, có ai nghe? Lắm lúc bà nói chuyện với nó, chuyện trong sở, chuyện bà thấy trên đường về, điều bà nghĩ, kể cả những giấc mộng lành, mộng dữ. Bà không biết nó đang ở trong xó kẹt nào, nhưng bà biết là nó lẩn quất đâu đó trong nhà, nhất định đang vểnh tai lên nghe chuyện bà nói...

Bà càng nghĩ càng hối, càng tự giận mình. Ngó lui lại dĩ vãng, bà thấy đầy mình nhầm lẫn, nhầm lẫn này chồng chất lên nhầm lẫn khác, không còn phân biệt được đâu vào đâu nữa. Ngay cả trong khi tranh luận với các bạn thân, bà cũng luôn luôn nhầm lẫn dù thắng cuộc. Bà thắng vì lý luận sắc bén hơn, khôn ngoan hơn, cũng có khi vì già miệng hơn, nhưng sau cuộc thắng vẻ vang, bà mất một người bạn. Tính lại thì thắng lợi không đem lại một niềm vui gì hết. Bà Bình thấy ghét trí thông minh vặt của mình trong việc phát minh ra cái bẫy chuột tuyệt diệu.

Nằm gác tay lên trán suy nghĩ, bà Bình thấy chỉ có hai cách: một là cứ lơ mơ chìm đắm trong cô đơn, trong nhớ tiếc buồn thương, hai là dọn nhà đi nơi khác, quên tất cả để bắt đầu bận rộn lao mình vào những nhầm lẫn mới. Hai con đường, bà nhất định phải chọn một.

Tuần lễ sau, người ta thấy trước nhà có để biển “NHÀ CHO THUÊ”.

Thế là trong đời lại có một con chuột nữa rơi vào bẫy...

Linh Bảo
Monterey 1969

GHI CHÚ: Truyện này, khi xuất bản lần đầu trong Tuyển tập Những Cánh Diều năm 1971 có đề “tặng một chính khách lưu vong”, nhưng nhà xuất bản đã tự ý bỏ đi để khỏi bị khó khăn với Sở Kiểm Duyệt. Lý do: ”Sợ đụng chạm về chính trị”.
Users browsing this topic
Guest (8)
Forum Jump  
You cannot post new topics in this forum.
You cannot reply to topics in this forum.
You cannot delete your posts in this forum.
You cannot edit your posts in this forum.
You cannot create polls in this forum.
You cannot vote in polls in this forum.