Tác giả hc
Gởi: Tue Jun 15, 2004 7:58 pm
Tiêu đề: NHỮNG NÉT ĐẸP CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM
NHỮNG NÉT ĐẸP CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM XƯA
QUA CA DAO
Giáo sư Phạm thị Nhung
Theo huyền sử, khoảng năm ngàn năm trước đây, dân Lạc Việt, giống Bách Việt, tổ tiên chúng ta, đã khởi nghiệp tại vùng hồ Ðộng Ðình (thuộc lưu vực miền nam sông Dương Tử); rồi sau hàng ngàn năm tranh đấu quyết liệt đã vượt thoát được bao cuộc xâm lăng diệt chủng ghê gớm của Hoa tộc mà lui dần xuống phương nam, lập được một vương quốc trên đồng bằng sông Hồng, lấy tên nước là Văn Lang (có nghĩa là nước của những làng có văn hóa) do các vua Hùng, họ Hồng Bàng trị vì.
Tiếp nối các đời vua Hùng là triều đại nhà Thục, rồi nhà Triệu.
Từ năm 111 trước TL, nhà Đông Hán đem quân sang xâm chiếm nước ta. Trong lúc toàn dân đang tuyệt vọng và đau khổ dưới ách thống trị của người Trung Hoa thì ở huyện Mê Linh, hai chị em bà Trưng Trắc, Trưng Nhị nổi lên đánh đuổi đạo quân tham tàn của thái thú Tô Định, giành lại được độc lập, tự do cho nước nhà (năm 40 của thế kỷ thứ nhất).
Kể từ khi các vua Hùng lập quốc, từ khi lịch sử được ghi chép thành văn đến nay thì cuộc khởi nghĩa của hai vua Bà họ Trưng đã mở đầu cho những trang sử vàng son của dân tộc.
Chiến công hiển hách của Hai Bà đã hòa đồng cùng khí thiêng sông núi và tạo thành một truyền thống hào hùng bất khuất của con dân đất Việt. Sau đó, biết bao anh hùng hào kiệt như Lý Nam Đế, Phùng Hưng, Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Thái Tổ, Quang Trung, … đã nối chí Hai Bà, không nề gian khổ hiểm nguy, kiên quyết tranh đấu đánh đuổi ngoại xâm, bảo vệ đất đai và chủ quyền cho quốc gia dân tộc.
Riêng nữ giới cũng có lắm bậc anh thư cân quắc, noi gương Hai Bà lập được nhiều sự nghiệp vẻ vang về văn cũng như về võ.
Về võ, ta có một Lê Chân, một Bát Nàn, hai vị võ tướng kiệt liệt đã giúp Hai Bà đoạt được nhiều thành trì trong tay giặc Hán; một Bà Vương Triệu Thị Trinh muốn "đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển đông, quét sạch quân thù ra khỏi bờ cõi", đã làm cho quân Đông Ngô phải run sợ; một đô đốc Bùi Thị Xuân, vị nữ tướng lừng danh chiến đấu anh dũng của nhà Tây Sơn; một Cô Giang, một Cô Bắc từng gây nhiều trở ngại cho quân xâm lược Pháp … đã phản ảnh khí phách hào hùng và nêu cao truyền thống "giặc đến nhà, đàn bà phải đánh" của gái Việt.
Về văn, ta có một Đoàn Thị Điểm tài hoa, lịch duyệt; một Bà Huyện Thanh Quan cổ kính, trang đài; một Hồ Xuân Hương phóng túng, dí dỏm; một Ngọc Hân công chúa lâm li, não nuột v.v… đã vun bồi cho vườn hoa văn học nước nhà thêm bao hương sắc.
Nhưng ngoài những vị anh thư, kỳ nữ nổi bật đó, còn biết bao người phụ nữ Việt Nam khác chỉ sống âm thầm nơi xóm làng, an vui với bổn phận tề gia, nội trợ của người vợ đảm, mẹ hiền… Vậy muốn tìm hiểu trung thực hình ảnh và đời sống tâm tình của người phụ nữ Việt Nam nói chung này, chúng ta nên đi sâu vào nếp sống bình thường của họ, mà từ ngàn xưa đã được người bình dân truyền tụng qua ca dao, qua câu hát, tiếng hò.
Chúng ta đều biết, ca dao, dân ca chủ về trữ tình nên những bài nói về nữ giới có rất nhiều; tuy vậy,chúng chỉ là những câu ca ngắn ngủi, ý tứ rất tản mạn. Thế nên, sau khi thu thập tài liệu, chúng tôi đã cố gắng dựa theo tình ý của lời ca, câu hát, mà tạo dựng nên những cảnh ngộ, sắp xếp theo từng lớp lang, diễn tiến sao cho hợp tình hợp lý. Những mong, nhờ đó chúng ta sẽ dễ dàng phát hiện ra được những nét đẹp từ vật chất đến tinh thần của người phụ nữ Việt Nam xưa, qua hai giai đoạn quan trọng của cuộc đời:
- Khi còn con gái.
- Và khi đã lập gia đình.
A. KHI CÒN CON GÁI
1. Những nét đẹp về vật chất
a-Nhan sắc
Khi còn con gái, người thiếu nữ VN sống êm đềm dưới gối cha mẹ để chờ ngày xuất giá vu qui. Đây là thời kỳ thơ mộng nhất, nàng được cha mẹ yêu thương rất mực và dạy bảo, khuyên răn đủ điều về nữ công, nữ hạnh để trở thành một người thiếu nữ hoàn toàn :
Phận gái tứ đức vẹn tuyền
Công dung ngôn hạnh là tiên phàm trần!
Lại nhờ có nhan sắc, nàng được nhiều chàng thanh niên để ý săn đón, yêu thương :
Vì cam cho quít đèo bồng
Vì em nhan sắc cho lòng nhớ thương
Hay tiến xa hơn nữa :
Vào vườn hái quả cau non
Anh thấy em giòn muốn kết nhân duyên.
Mỗi người thiếu nữ đều có một cái duyên, một sự hấp dẫn riêng để làm say đắm lòng người khác phái. Nhưng tựu trung, nhan sắc của các nàng cũng không ngoài những điều đã được ca dao truyền tụng:
Có nàng đẹp nhờ mái tóc rậm dài bồng bềnh, và đôi chân mày cong vòng như viền trăng non:
Chân mày vòng nguyệt có duyên
Tóc mây gợn sóng đẹp duyên tơ hồng.
Hay có cặp lông mày thanh mướt như lá liễu và khuôn mắt thuôn dài như dáng lá rau răm :
Những người con mắt lá răm
Đôi mày lá liễu đáng trăm quan tiền.
Có nàng đẹp nhờ hai con mắt to tròn đen láy, trông hiền lành, ngây thơ như mắt chim bồ câu:
Cổ tay em trắng như thể gương tàu
Đôi mắt bồ câu làm cho phải khổ.
Hay sáng ngời, lấp lánh như ánh sao khuya :
Nhấp nhánh là nhấp nhánh ơi
Mắt người lấp lánh như sao trên trời
Nhớ người lắm lắm người ơi!
Có nàng lại đẹp nhờ hai má có hai lúm đồng tiền, mỗi khi nói nói, cười cười tạo nên một cái duyên hấp dẫn là thường :
Hai má có hai đồng tiền
Càng nom càng đẹp, càng nhìn càng ưa.
Hay vì có nước da trắng nõn, đôi gò má đỏ au, đôi môi hồng đào, khiến nét mặt trở nên tươi thắm vô ngần, nhiều cậu vừa thoáng thấy đã phải chú ý rồi đem lòng trộm dấu, thầm yêu:
Ai xui má đỏ ,môi hồng
Để anh nhác thấy đem lòng thương yêu.
và :
Nước trong ai chẳng rửa chân
Cái má trắng ngần ai chẳng muốn hôn.
Tuy nhiên nụ cười vẫn là vẻ đẹp quyến rũ nhất của người thiếu nữ, một nụ cười tươi gây nên bao nỗi nhớ, niềm thương :
Mình về mình nhớ ta chăng
Ta về ta nhớ hàm răng mình cười,
Trăm quan mua lấy miệng cười
Nghìn quan chẳng tiếc, tiếc người răng đen.
Sau hết phải kể tới vóc dáng. Người con gái đẹp là người có thân hình thon thả, thanh tú:
Người thanh tiếng nói cũng thanh
Chuông kêu khẽ đánh bên thành cũng kêu.
Người thanh tất nhiên không phải là người béo, cũng không phải là người gầy, vì người đẹp phải là người có da, có thịt, cổ tay phải tròn lẳn, mềm mại kia :
Cổ tay em trắng lại tròn
.............................…
Gối chăn gối chiếc không êm
Gối lụa không mềm bằng gối tay em.
Đã thế, người đẹp còn phải có eo thon, tạo nên sự cân đối và làm nổi bật được những đường nét yêu kiều cho vóc dáng :
Những người thắt đáy lưng ong
Vừa khéo chiều chồng, lại khéo nuôi con.
Tóm lại, người thiếu nữ VN xưa được kể là đẹp phải thuộc vào hạng những người có nước da trắng trẻo hồng hào, mái tóc rậm dài tha thướt, nét mặt tươi thắm hồn nhiên, dáng vóc thanh tú cân đối mềm mại. Người đẹp như thế thì đứng đâu mà chả đẹp :
Trúc xinh trúc mọc đầu đình
Em xinh em đứng một mình cũng xinh.
Trúc xinh trúc mọc bờ ao
Em xinh em đứng chỗ nào cũng xinh.
Ðã vậy, theo bản tính tự nhiên, người thiếu nữ VN xưa cũng biết cách làm tăng thêm vẻ đẹp sẵn có của mình. Nàng được bác mẹ dạy "cái răng cái tóc là gốc con người" nên hằng cố gắng trau chuốt.
Nàng còn biết "Đàn bà tốt tóc thì sang", mà muốn :
Tốt tóc thì cỏ mần trầu
Sạch ghét sạch gầu bồ kết với chanh.
Áp dụng những chất liệu đó, nàng đã tạo được cho mình một mái tóc rậm, dài tha thướt, làm cho bao chàng phải trầm trồ:
Anh đi khắp bốn phương trời
Chẳng đâu lịch sự bằng người ở đây.
Gặp em má đỏ hây hây
Răng đen nhưng nhức, tóc mây rườm rà.
Nàng cũng biết giắt hoa trên đầu để ướp hương cho tóc và làm cho suối tóc thêm vẻ mỹ miều:
Tóc em dài em cài bông hoa lý
Miệng em cười có ý anh thương.
Có nàng thả suối tóc buông lơi trước gió khiến lắm chàng trai phải xao xuyến, đê mê :
Tóc đến lưng vừa chừng em búi
Để chi dài bối rối dạ anh.
Còn đây là nụ cười, ai cũng biết nụ cười, khóe mắt la hai yếu tố tạo nên vẻ linh động, duyên dáng nhất trên khuôn mặt người đàn bà. Và nụ cười chính là lợi khí đầu tiên của người thiếu nữ để chinh phục tha nhân.Thế nên, ngay khi vừa mới dậy thì, người thiếu nữ đã sớm biết tạo cho mình một cái duyên bằng nụ cười :
Trăng rằm mười sáu trăng nghiêng
Thương ai chúm chím cười duyên một mình.
Và lạ chưa, vừa nhìn qua nụ cười, người ta đã đoán ngay nàng là gái chưa chồng :
Răng đen nhưng nhức hạt dưa
Miệng cười tủm tỉm như chưa có chồng.
Vì ý thức được rằng, người chung quanh sẽ đánh giá sự giáo dục gia đình, và đoán biết được tình ý của mình qua nụ cười nên nàng rất giữ ý tứ. Người con gái có ý tứ không được cười toét miệng hoặc cười thành tiếng, mà chỉ cười nụ, chúm chím đầu môi như nụ hoa ngâu nhỏ xíu, khum khum hàm tiếu :
Nụ cười như thể hoa ngâu
Cái khăn đội đầu như thể hoa sen.
Nụ cười có ý tứ ấy, chẳng những dễ dàng gây được thiện cảm với các chàng trai ngay trong buổi đầu gặp gỡ ,mà còn có khả năng lưu lại tình quyến luyến lâu dài trong ký ức của họ :
Nhớ khi khăn mở trầu trao
Miệng thì cười nụ biết bao nhiêu tình.
Nếu không chúm chím thì đôi môi cũng chỉ được hé mở, đủ lộ hai hàm răng đen nhánh, tạo cho người con gái một vẻ đẹp tươi tắn, rực rỡ :
Ngó lên lỗ miệng em cười
Như búp hoa nở, như mặt trời mới lên.
Nụ cười tươi với hàm răng đen nhánh ấy đã gây được bao nhiêu thi hứng trong ca dao. Biết bao chàng trai đã vì chúng, sau cuộc vui ra về còn ôm mãi mối tương tư :
Mình về mình nhớ ta chăng
Ta về ta nhớ hàm răng mình cười.
Răng đen ai khéo nhuộm cho cô mình
Để duyên cô mình đẹp
Cho cái tình chúng anh yêu.
Nàng còn biết làm đỏm thêm bằng miếng trầu cho đỏ cặp môi, bằng hớp rượu cho hồng đôi má :
Có trầu cho miếng đỏ môi
Có rượu cho chén thêm tươi má hồng.
Và cuối cùng là con mắt, người đông phương chúng ta không cần phải đọc sách Tây phương mới biết "con mắt là cửa sổ của linh hồn". Chẳng thế, các cụ ta xưa đã biết nhìn vào mắt nhau để đoán biết tình ý. Sau giây phút thăm dò "Mắt anh anh liếc, mắt nàng nàng đưa", khi đã chịu ai rồi thì từ đấy người con trai mới bắt đầu mơ mộng, thôi thì thương ai từ cái tóc thương đi:
Một thương tóc bỏ đuôi gà
Hai thương ăn nói mặn mà có duyên
Ba thương má lúm đồng tiền
Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém thua
Năm thương cổ yếm đeo bùa
Sáu thương nón thượng quai tua dịu dàng
Bẩy thương nết ở khôn ngoan
Tám thương ăn nói lại càng thêm xinh.
Chàng thương hơn nữa vì nàng còn sống độc thân, chàng mới được phép ước ao, hy vọng. Nhưng còn một điểm tối hậu, quyết định cả số mệnh cuộc tình của chàng.?... Thì đây, chàng đã bắt được tín hiệu "con mắt có tình", ngầm cho phép tiến tới của nàng. Ôi ! thương biết mấy "con mắt có tình với ai" kia:
Chín thương cô ở một mình
Mười thương con mắt có tình với ai.
Ngay cả trường hợp có nàng chưa hề biết tình ý của đối phương, nhưng trong cuộc gặp gỡ, một khi nàng đã chịu ai rồi, đã nhắm ai rồi thì liền biết lợi dụng đôi mắt đẹp của mình để tấn công. Đôi mắt nhấp nháy, lóng lánh, đong đưa chiếu vào mắt ai như mời gọi, hứa hẹn...khiến đối phương như bị ma lực hớp hồn, khó lòng mà tránh khỏi cạm bẫy của tình trường:
Hoa thơm hoa ở trên cây
Con mắt em lúng liếng
Dạ anh say lừ đừ.
b- Y trang
Bên cạnh sắc đẹp về thể chất, y trang cũng giúp nàng thêm phần lộng lẫy. Trong bộ y phục của người phụ nữ VN xưa, cái yếm che ngực lại được để ý hơn cả. Nó được để lộ ra sau lớp áo cánh xẻ nách, có cổ thìa mổ trễ xuống gần lũng ngực và tấm áo dài không gài nút. Cả hai đều màu nhã, do đó, nàng thường cố tình chọn màu yếm cho thật nổi:
Khi thì yếm trắng tinh :
Hỡi cô yếm trắng lòa lòa
Yếm nhiễu, yếm vóc hay là trúc bâu
Hay là lụa bạch bên Tầu
Người cắt cũng khéo, người khâu cũng tài.
Khi thì yếm đào :
Hỡi cô yếm đào lấy chú tôi chăng?
Khi lại yếm thắm. Và bao giờ nàng cũng thắt thêm chiếc thắt lưng khác với màu yếm, nhưng thường là màu xanh hoa lý cho tăng phần diêm dúa :
Hỡi cô yếm thắm, bao xanh
Có về Gia Định với anh thì về.
Ngày xưa, người đàn bà bước chân ra khỏi cửa là phải mặc áo dài.Các nàng mặc áo dài tứ thân (áo phía sau nối suốt dọc sống kể là hai thân, áo phía trước có hai vạt rời dài bằng nhau, không có nút gài mà buộc chéo trước bụng rồi thả thõng xuống ), Nhiều nàng vì phải gánh gồng buôn bán, vai áo chóng rách; để khỏi phải bỏ phí cả áo, người xưa nghĩ cách tiết kiệm, chỉ thay nửa thân áo trên bằng loại vải có màu xẫm hoặc lạt hơn, gọi là áo vá vai hay vá quàng :
Thương em thuở áo mới may
Bây giờ áo rách hai vai vá quàng.
Áo vá quàng vì thêm màu sắc trông lại có duyên, nhiều nàng bắt chước, trở thành thời trang :
Có chồng bớt áo thay vai
Bớt màu trang điểm kẻo trai nó lầm.
Nàng là gái hàng phố nên mặc áo năm thân, còn gọi là áo năm tà. Nàng thường mặc để đi chơi hay khi phải tiếp khách (vạt trước và vạt sau đều nối dọc ở giữa thành mỗi vạt kể là hai thân, lại thêm một vạt con để cài khuy) :
Vải nâu may áo, kìa áo năm tà
Ai may cho cô mình mặc
Xem hội cái đêm hôm rằm, rằm tháng giêng.
Nàng còn biết vấn khéo vành khăn, cố tình để lộ đuôi tóc dài như đuôi gà, vắt vẻo trên đầu, lại phất phơ, đong đưa theo bước đi, trông rất gợi cảm. Lối bỏ tóc đuôi gà này cũng đã tạo nên cái mốt một thời; "Một thương tóc bỏ đuôi gà " là vậy.
Trời lạnh, trên đầu nàng chít khăn, khăn chít khum khum, ôm lấy khuôn mặt trẻ trung mơn mởn, khác nào như cánh hoa sen :
Miệng cười như thể hoa ngâu
Cái khăn đội đầu như thể hoa sen.
Ra đường, nàng đội thêm chiếc nón xứ Nghệ, có nơi còn gọi là nón ba tầm hay nón thượng quai thao, để làm duyên hơn là để che mưa nắng; chẳng thế mà khi đi xem hội ban đêm nàng cũng đội :
Chẻ tre đan nón - Kìa nón ba tầm
Anh cho em đội xem hội cái đêm hôm rằm, là rằm tháng giêng.
Đây là một thứ nón mặt tròn, đường kính chừng 80cm, có bờ cao chừng 5 hay 6cm, quai nón có tua thao dài, buông thõng xuống hai bên :
Cái nón ba tầm, quai thao mỏ vịt bịt bạc là nón ba tầm
Để cho em đội qua rằm tháng giêng.
Nếu đi nhanh, hai tua thao sẽ quất vào mặt, nên khi đội nón này, nàng bắt buộc phải từ tốn chậm bước, tạo nên vẻ yểu điệu, dịu dàng. Khi gặp chàng trai nào có vẻ theo sát tán tỉnh, nàng ngượng quá, vội nghiêng vành nón là các chàng phải khốn đốn mới nhìn được mặt người đẹp, mà cũng chỉ nhìn thoáng được thôi. Như thế, nón quai thao đã vô tình tạo thêm vẻ duyên dáng cho phụ nữ, khiến nhiều chàng đã phải chặc lưỡi :
Ai làm cái nón có thao
Để cho anh thấy cô nào cũng xinh !
Tóm lại,quan niệm về dung nhan người đẹp xưa qua những câu ca dao như vừa trình bầy, chúng ta thấy không khác ngày nay bao nhiêu.Tuy nhiên,thời đại này, người ta thich răng trắng và chuộng những nàng có vóc dáng cao lớn hơn. Ðặc biệt về y trang, quả đã có nhiều đổi thay. Nhưng tựu trung, thời nào người phụ nữ cũng thích điểm trang và có ý ăn mặc diêm dúa đôi chút cho tôn thêm cái nhan sắc của mình.
2. Những vẻ đẹp về tinh thần
a- Nết na
Ngoài vẻ đẹp vật chất, người thiếu nữ xưa còn đẹp trong ngôn ngữ, cử chỉ, nết ăn ở... Ðiểm này phần lớn nhờ sự giáo dục mà có.
Với giọng nói thanh tao nhỏ nhẹ, nàng dễ gây cảm tình với người xung quanh :
Chim khôn kêu tiếng rảnh rang
Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe.
Hơn nữa, lời nói mặn mà đôn hậu mới thực sự thấm sâu vào tình cảm của đối phương, khiến lời nói qua rồi mà âm hưởng vẫn còn dư vang mãi :
Điểu đậu vườn thị, thỏ lụy vườn trâm
Thương ai tiếng nói trăm năm vẫn còn.
Trong bài "Mười thương", nếu chúng ta để ý, chúng ta sẽ nhận thấy có hai lần nhắc đến giá trị lời ăn, cách nói của người đẹp :
Hai thương ăn nói mặn mà có duyên
Tám thương ăn nói lại càng thêm xinh.
Và trong bất cứ trường hợp nào, người thiếu nữ cũng tỏ ra lễ độ ôn hòa, khiến dù bị từ chối, đối phương cũng khó lòng mà giận :
Thưa rằng bác mẹ tôi răn
Làm thân con gái chớ ăn trầu người.
b- Lòng hiếu hạnh đối với cha mẹ
Nàng không những là người thiếu nữ nết na thùy mị khi tiếp xúc với mọi người xung quanh, mà nhất là đối với gia đình, nàng là người con rất mực hiếu thảo :
Mẹ cha trượng quá ngọc vàng
Đền bồi sao xiết muôn vàn công ơn.
Và
Ơn cha nặng lắm ai ơi
Nghĩa mẹ bằng trời chín tháng cưu mang.
Cho nên lúc nào nàng cũng cố gắng giữ đạo làm con, luôn luôn kính yêu và vâng lời cha mẹ :
Mẹ cha là biển là trời
Nói sao hay vậy, đâu dám cãi lời mẹ cha.
Nàng liên tưởng đến một ngày mai phải từ giã cha mẹ đi lấy chồng, ở nhà biết ai sớm hôm đỡ đần hai thân :
Xiết bao bú mớm phù trì
Đến khi con lớn con đi lấy chồng
Có con đỡ gánh, đỡ gồng
Con đi lấy chồng vai gánh, tay mang.
Nói chi tới nông nỗi phải lấy chồng xa :
Mẹ mong gả thiếp về vườn
Thiếp lo một nỗi đường trường xa xôi.
Trong cảnh ấy, điều lo lắng nhất của nàng là khi cha mẹ già yếu bệnh hoạn, lấy ai thay nàng chăm lo, săn sóc :
Chim đa đa đậu nhánh đa đa
Chồng gần không lấy mà lấy chồng xa
Mai sau cha yếu mẹ già
Bát cơm ai đỡ, chén trà ai dâng ?
Thế nên bây giờ còn sống dưới gối cha mẹ, nàng hết lòng phụng dưỡng. Nàng lo lắng từng miếng ăn thức uống :
Ba tiền một khứa cá buôi
Cũng mua cho đặng mà nuôi mẹ già.
Cả những công việc nhỏ nhặt nàng cũng cố ý làm vui lòng hai thân:
Cau non khéo bổ cũng dầy
Trầu têm cánh phượng để thầy ăn đêm.
Đôi khi nhà quá nghèo, không đủ ăn, nàng thường nhường cơm cho mẹ :
Đói lòng ăn đọt chà là
Để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng.
c-Tình cảm đối với đàn em
Ðối với đàn em, nàng là một người chị hiền hòa, đầy lòng thương yêu đùm bọc. Nàng thay cha mẹ chăm sóc dạy dỗ các em:
Nàng ru em khi còn thơ dại:
Em tôi khát sữa bú tay
Ai cho bú thép ngày rày mang ơn.
Khi em đã đôi chút lớn khôn, đặc biệt là em trai, qua lời ru em hằng ngày, nàng đã biết sớm gieo rắc vào tâm hồn thơ ngây non nớt ấy lời giáo huấn đầu tiên về ý niệm "làm trai cho đáng nên trai" :
Bồng bống bông
Lớn lên em phải ra công học hành
Sớm khuya cửa Khổng sân Trình
Dốc lòng nấu sử, sôi kinh cho rồi.
Học là học đạo làm người
Làm người phải giữ lẽ trời dám sai.
Chớ đừng nay lại ngày mai
Chớ đừng di dịch, chớ sai lòng vàng.
Và khi gặp cảnh gia đình côi cút, bần bách, nàng còn đảm đang gánh vác công việc nặng nhọc như nuôi tằm, trồng dâu hay đi chợ bán buôn để lấy tiền nuôi mẹ, nuôi em :
Chàng buông vạt áo em ra
Để em đi chợ kẻo mà chợ trưa
Chợ trưa rau nó héo đi
Lấy chi nuôi mẹ, lấy gì nuôi em.
Đối với người Á Châu nói chung, người VN ta nói riêng, cô nào có đầy đủ cả công dung ngôn hạnh như thế thì ai ai cũng quí chuộng, yêu vì :
Thân em như tấm lụa điều
Đã đông nơi chuộng lại nhiều nơi thương.
Tuy nhiên, nếu phải đem so sánh giữa nhan sắc và đức hạnh , chúng ta nhận thấy ngay:
- Nhan sắc quả có sức hấp dẫn, dễ gây được ngay thiện cảm của tha nhân, nhất là tình yêu si mê của càc chàng trai mới lớn. Nhưng đức hạnh mới thực sự gìn giữ cho tình yêu ấy được bền vững, và mới bảo đảm được hạnh phúc gia đình trong mai hậu. Vì thế ,các cụ ta vẫn thường dạy "cái nết đánh chết cái đẹp", và :
Tốt gỗ hơn tốt nước sơn
Xấu người đẹp nết, còn hơn đẹp người.
d-Tình yêu nam nữ
Ca dao chủ về tình cảm, mà trong đời sống tâm tình của con người thì còn gì đẹp và thơ mộng hơn tình yêu nam nữ ? Vì thế những bài nói về tình yêu đã chiếm một số lượng rất lớn trong kho tàng ca dao rất phong phú của dân tộc ta.
Có thể nói, tình yêu đã hiện hữu từ khi có sự hiện hữu của loài người trong trời đất bao la và miên trường này.
Và ca dao đã phản ảnh tâm hồn lãng mạn và tình cảm yêu đương dào dạt, sâu đậm của những người tình đầu tiên, cũng là những người tình muôn thuở của dân tộc.
Những câu ca dao ấy tưởng chừng mộc mạc đơn sơ ,nhưng có biết đâu đã vô tình chứa đựng cả một triết lý về tình yêu bất tuyệt của loài người :
Đố ai biết lúa mấy cây
Biết sông mấy khúc, biết mây mấy từng?
Đố ai quét sạch lá rừng
Để ta khuyên gió, gió đừng rung cây.
Tình yêu dằng dặc như sông nước, cao rộng như mây trời, mênh mông như đồng lúa và hằng hà sa số như lá rừng rơi, thử hỏi giáo lý nào, quyền lực nào có thể hủy diệt được ? Đó chính là lý do dù sống dưới chế độ phụ quyền phong kiến, chịu ảnh hưởng nền giáo dục khe khắt của Nho giáo, người tình nữ trong ca dao VN vẫn không thôi mơ mộng. Và tình yêu của các nàng tuy có e ấp nhưng vẫn không giấu được vẻ nồng nàn tha thiết.
Quả thế, người phụ nữ VN với bản tính đa cảm và lãng mạn nên trong những ngày còn con gái thơ mộng đó, bảo sao nàng không hằng mơ ước tới cảnh sống nên thơ :
Sáng trăng trải chiếu hai hàng
Bên anh đọc sách bên nàng quay tơ.
Đôi khi chợt thức giấc giữa canh khuya, nàng thao thức nghĩ đến tương lai, làm thân con gái không tự quyết được cuộc đời của mình, mà "gái chính chuyên chỉ lấy một chồng", trong nhờ, đục chịu, bảo sao nàng không âu lo, thắc mắc :
Lênh đênh một chiếc thuyền tình
Mười hai bến nước biết gửi mình về đâu?
Hoặc :
Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?
Tuy vậy, tình cảm của nàng lúc này không sôi nổi bồng bột mà luôn luôn đắn đo cân nhắc. Nàng nhớ lời cha mẹ thường dặn dò về việc chọn bạn trăm năm :
Dặn con con có nghe cho
Chọn người quân tử, đói no cũng đành.
Nhưng người quân tử, mẫu người chồng lý tưởng của nàng như thế nào ?
Sống trong xã hội trọng văn học như xã hội ta, "người ấy" trước hết phải là văn nhân trí thức :
Ước gì cho Bắc hợp Đông
Cho chim loan phượng, ngô đồng sánh đôi.
Ước gì cho quế sánh hồi
Ước gì ta sánh được người văn nhân.
Lấy được người chồng khôn ngoan học giỏi, tương lai nàng hẳn có phận nhờ :
Phận gái lấy được chồng khôn
Xem bằng cá vượt vũ môn hóa rồng.
Nhưng sống ở đời vàng thau lẫn lộn, mà người lý tưởng lại quá hiếm hoi :
Một vũng nước trong dăm bảy dòng nước đục
Một trăm người tục không được một chục người thanh.
Một mình em đứng giữa mạn thuyền
Biết lấy ai mà trao duyên gởi phận cho đẹp lòng thế gian.
Và ngay chính nàng, ai biết được giá trị tài đức của nàng mà tìm đến, nên chi nàng chỉ còn biết mong mỏi chờ trông :
Còn đang chọn đá thử vàng
Ngọc lành ai quẩy ra đường bán rao.
Quan quan hai chữ thư cưu
Mong người quân tử hảo cầu kết duyên.
Nếu không lấy được người văn nhân quân tử thì nàng cũng mong ước được kết nghĩa vợ chồng với đấng anh hùng trượng phu :
Lộc còn ẩn bóng cây tùng
Thuyền quyên đợi khách anh hùng sánh vai.
Người khách anh hùng ấy hẳn phải tìm trong đám tướng sĩ :
Trai khôn kén vợ chợ đông
Gái khôn tìm chồng giữa chốn ba quân.
Hiện giờ trong đám thanh niên trai trẻ, các bậc anh hùng quân tử chưa lộ được chân tướng, thôi thì tốt nhất hãy chọn những người con nhà dòng dõi danh giá hay cha mẹ là người hiền đức, vì :
Mạch trong nước chảy ra trong
Thế nào đi nữa con dòng cũng hơn.
Và
Cây xanh thì lá cũng xanh
Cha mẹ hiền lành để đức cho con.
Dầu gì thì nàng cũng mong lấy được người xứng đôi vừa lứa với mình :
Đào tơ sen ngó xanh xanh
Ngọc lành phải giá, gái lành phải duyên.
Cho hay tiên lại gặp tiên
Phượng hoàng há dễ đứng bên đàn gà.
Có lấy được chồng xứng đáng mới bõ công trang điểm bấy lâu :
Lấy chồng cho đáng tấm chồng
Bõ công trang điểm má hồng răng đen.
Ngay cả những cô gái sống trong gia đình nghèo hèn, tầm thường cũng ước ao lấy được người chồng có dăm ba chữ trong bụng, hơn là người giầu có vô học:
Chẳng tham vựa lúa anh đầy
Tham dăm ba chữ cho tày thế gian.
Thế rồi một ngày kia, cơ duyên đưa đến, nàng đã gặp người trong mộng của mình:
- Có thể do cùng làm việc với nhau :
Vụ năm cho đến vụ mười
Trong làng kẻ gái người trai đua nghề.
- Có thể do bạn bè giới thiệu :
Ấy ai dắt mối tơ mành
Cho thuyền quen bến, cho anh quen nàng.
- Có thể gặp nhau nơi hội hè đình đám :
Trèo lên quan dốc
Ngồi gốc cây đa
Ai xui cho đôi mình gặp
Xem hội cái đêm hôm rằm, rằm tháng giêng.
- Cũng có thể do sự tình cờ mà hội ngộ :
Mưa từ trong núi mưa ra
Mưa khắp thiên hạ mưa qua chùa Thầy.
Đôi ta bắt gặp nhau đây
Như con bò gầy gặp bãi cỏ hoang.
Hai bên, chàng cũng như nàng đang thời mơ hoa, đang khao khát tìm kiếm người tình trong mộng, nay bắt gặp nhau "đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu", tiếng sét ái tình tự nhiên phải đến, làm sao tránh khỏi :
Thiên duyên kỳ ngộ gặp chàng
Khác nào như thể phượng hoàng gặp nhau.
Sau đó, người con trai đã kiếm cớ mời trầu để làm thân :
Gặp nhau ăn một miếng trầu
Gọi là chút nghĩa về sau mà chào.
Và rồi:
Vôi nồng trầu thắm ai ơi
Gá duyên chồng vợ ở đời trăm năm.
Nhưng sống trong xã hội theo nho giáo phong kiến xưa, sự tự do luyến ái, tự do hôn nhân không được chấp nhận, lại thêm bản tính của người con gái nhút nhát e thẹn nên dù trong lòng yêu ai:
Từ khi gặp mặt giữa đàng
Thiếp quyết yêu chàng, cha mẹ nào hay.
Nàng vẫn phải giữ mình trong lễ giáo, chờ đợi cha mẹ quyết định cuộc hôn phối của mình :
Phụ mẫu sở sanh
Để phụ mẫu định.
Trong việc vợ chồng
Chờ lệnh mẹ cha.
Thế nên, nàng chỉ biết chiều chiều trong những lúc thư nhàn, âm thầm nhớ ai, cùng ôn lại những kỷ niệm trong ngày tao ngộ :
Chiều chiều lại nhớ chiều chiều
Nhớ người quân tử khăn điều vắt vai.
Trong khi làm việc, chợt nhớ đến chàng thì nàng không khỏi ngừng thoi mơ mộng :
Đêm khuya dệt cửi tơ vàng
Chợt nhớ đến chàng, cửi lại dừng thoi.
Và không thể không thầm ước mơ :
Anh còn son, em cũng còn son
Ước gì ta được làm con một nhà.
Rồi một ngày đẹp trời nào đó, chàng đã tìm đến làm quen với gia đình. Ôi làm sao nói xiết được nỗi vui mừng của nàng lúc ấy. Nhưng trước mặt người thân nàng không dám lên tiếng mà chỉ dám ngó sơ một chút mà thôi :
Ngó anh không dám ngó lâu
Ngó qua một chút đỡ sầu mà thôi.
Và cũng vì sợ cha mẹ đoán biết tinh ý đôi bên nên chàng và nàng thỉnh thoảng mới dám liếc nhau :
Yêu nhau con mắt liếc qua
Sợ chúng bạn biết, sợ cha mẹ ngờ.
Nhưng trong thoáng giây phút mà bốn con mắt gặp gỡ nhau đó, họ đủ gửi cho nhau bao nhiêu tình ý.
Và đứng trước mặt ai kia, nàng không khỏi lúng túng, giơ tay làm một cử chỉ bâng quơ :
Đưa tay mà ngắt cọng ngò
Thương anh đứt ruột giả đò ngó lơ.
Chính cử chỉ vô tình ấy lại cực tả được cái hữu tình trong lòng nàng. Vâng, nó đã biểu lộ sự xúc động, sự xốn xang đang tràn dâng trong lòng nàng lúc đó.
Từ đấy chàng chăm chỉ qua lại thăm viếng gia đình nàng, và dần dần chiếm được cảm tình của cha mẹ nàng:
Nắng mưa thì giếng năng đầy
Anh năng đi lại mẹ thầy năng thương.
Nàng nhận thấy, cha mẹ nàng không những có cảm tình với chàng ,mà còn lộ ý sẽ tán thành cuộc nhân duyên của đôi bên; từ đó nàng mới dám mạnh bạo tiến xa hơn trong cuộc tình.
Lúc chưa chọn được người yêu thì nàng băn khoăn, lo lắng; khi chọn được rồi thì tình yêu của nàng rất mực lãng mạn, tha thiết. Nàng những ước mong được gặp ai luôn :
Ước gì sông hẹp một gang
Bắc cầu giải yếm cho chàng sang chơi.
Hình ảnh của người yêu đã chi phối tất cả tâm hồn nàng. Quả tình yêu như có phép mầu làm thăng hoa cuộc sống, nhan sắc của nàng bỗng đẹp rộ lên, đôi mắt thêm long lanh, nét mặt thêm rạng rỡ, má thêm đỏ, tóc thêm mướt :
Vì chưng ăn miếng trầu anh,
Cho nên má đỏ, tóc xanh đến giờ…
Từ khi có tình yêu, cuộc sống của nàng trở nên rộn rã khác thường. Không gian cũng tràn ngập yêu thương, mọi vật vô tri hiện diện chung quanh nàng đều trở thành có ý nghĩa; chúng như có linh hồn, chia sẻ với nàng từng phút giây hạnh phúc :
Chén tình là chén say sưa
Nón tình em đội nắng mưa trên đầu
Lược tình em chải trên đầu
Gương tình soi mặt lầu lầu sáng trong.
Nàng mong sớm có ngày chàng và nàng sẽ cùng nhau trong cuộc sống thân cận lứa đôi :
Ước sao ăn ở một nhà
Ra vào đụng chạm kẻo mà nhớ thương.
Trí tưởng tượng của nàng còn vẽ phóng ra một cuộc sống vợ chồng tràn ngập hạnh phúc. Trong đó, cuộc sống của nàng gắn bó thiết tha với cuộc sống của chàng :
Cái quạt mười tám cái nan
Ở giữa phết giấy hai nan hai đầu
Quạt này anh để che đầu
Đêm đêm đi ngủ chung nhau quạt này.
Ước gì chung mẹ chung thày
Để em giữ cái quạt này làm thân
Rồi ra chung gối chung chăn
Chung quần chung áo chung khăn đội đầu.
Nằm thì chung cái giường tàu
Dậy thì chung cả hộp trầu ống vôi
Ăn cơm chung cả một nồi
Gội đầu chung cả dầu hồi nước hoa
Chải đầu chung cái lược ngà
Soi gương chung cả cành hoa giắt đầu.
Trong những ngày tháng yêu đương thơ mộng đó, khi được dịp gần gũi bên người tình, nàng săn sóc chàng một cách rất tình tứ :
Thương anh tha thiết, thiết tha
Áo em hai vạt trải ra anh ngồi.
Và nàng đã âu yếm mời chàng những miếng trầu tình nghĩa. Nàng đã giải thích cho người bạn tình hay, nàng đã têm những miếng trầu đó thật đặc biệt, dành riêng cho chàng, trong đó gói ghém biết bao nhiêu tình ý mặn nồng.
Đối với nàng, miếng trầu lúc này không chỉ là một vật chất đơn thuần mà là một biểu hiện của tình yêu. Nói khác đi, nó chính là tình yêu của nàng đã hóa thân:
Trầu này trầu tính trầu tình
Trầu nhân trầu nghĩa trầu mình, trầu ta.
Trầu này têm tối hôm qua
Dấu cha, dấu mẹ đem ra cho chàng.
Suốt thời gian này, nàng và người yêu đã có với nhau khá nhiều kỷ niệm nên thơ. Trong đó, mỗi cảnh sắc thiên nhiên họ đã cùng nhìn ngắm; mọi nơi chốn họ đã cùng đi qua… không những là chứng nhân cho cuộc tình này, mà còn là đơn vị để so sánh thực tại tình yêu của họ :
Nước sông Tô vừa trong, vừa mát
Em ghé thuyền vào đỗ sát thuyền anh.
Dừng chèo muốn ngỏ tâm tình
Sông bao nhiêu nước thương mình bấy nhiêu.
Tình yêu của nàng và chàng đã chan hòa trong không gian, đã tràn ngập trên cây cỏ... Dưới con mắt yêu đương của nàng, giữa không gian và tình người không còn biên giới nữa; nàng không còn nhận biết, tình yêu của nàng bát ngát mênh mông như đồng lúa, hay đồng lúa mênh mông bát ngát như tình yêu của nàng :
Đứng bên ni đồng, ngó bên tê đồng thấy mênh mông bát ngát
Đứng bên tê đồng, ngó bên ni đồng thấy bát ngát mênh mông.
Rồi tới một ngày nào đó chàng phải rời xa, phải trở về cố hương. Vì quá quyến luyến ai, nàng thường viện cớ này cớ nọ, năn nỉ chàng nán lại :
Gió vàng hiu hắt đêm thanh
Đường xa, dặm vắng xin anh đừng về.
Nếu không thể đặng đừng, nàng tha thiết xin chàng :
Chàng về để áo lại đây
Phòng khi em nhớ cầm tay đỡ buồn.
Nàng quá bịn rịn nên chi đã ba phen lên ngựa, chàng vẫn chưa thể dứt áo mà đi :
Ba phen lên ngựa ra về
Cầm cương níu lại xin đề câu thơ.
Câu thơ ba bốn câu thơ
Câu đợi, câu chờ, câu nhớ, câu mong.
Trong giây phút từ ly ấy,nàng không quên dặn dò khích lệ chàng, hãy vững lòng tin ở tương lai tốt đẹp mà cố gắng thuyết phục cha mẹ chấp nhận cuộc hôn nhân này :
Anh về em nắm cổ tay
Em dặn câu này anh chớ có quên
Non sông đã nặng lời nguyền
Đừng non tay lái cho thuyền lật ngang
Muốn sang, khảm cố mà sang.
Riêng nàng xin hứa, sẽ một lòng gìn vàng, giữ ngọc đợi người :
Duyên đôi ta thề nguyền từ trước
Biết bao giờ ta được cùng nhau.
Tương tư mắc phải mối sầu
Em đây vẫn giữ lấy mầu đợi anh.
Không chỉ riêng nàng, cả chàng cũng nguyện giữ mình trong sạch, chờ ngày thành hôn :
Mẫu đơn nở cạnh nhà thờ
Đôi ta trinh tiết đợi chờ lấy nhau.
Lời cuối cho chàng là nỗi băn khoăn không biết bao giờ chàng trở lại :
Nhạn về bể bắc nhạn ơi
Bao thuở nhạn hồi để én đợi trông ?
Và giờ đây chàng đã thực sự lên đường. Nàng đã tiễn đưa ai bằng hai hàng nước mắt :
Đưa nhau một bước lên đường
Cỏ xanh hai dãy mấy hàng châu sa.
Và nàng còn đứng nhìn với theo mãi cho tới khi bóng chàng khuất hẳn, chỉ còn đây một mình nàng nhỏ bẻ, cô đơn trước không gian bao la, sông nước mênh mông, rừng cây thăm thẳm :
Anh đi em một ngó chừng
Ngó sông sông rộng, ngó rừng rừng sâu.
Và từ đó,nỗi nhớ, niềm thương không lúc nào nguôi ngoai :
Một thương, hai nhớ, ba sầu
Cơm ăn chẳng được, ăn trầu cầm hơi.
Thương chàng lắm lắm chàng ơi
Biết đâu thanh vắng mà ngồi thở than.
Tâm sự riêng của nàng không thể bày tỏ cùng ai, có chăng là ngọn đèn dầu trong đêm khuya khoắt. Thương thay ! ngọn đèn cũng đã tắt lụi để mình nàng cô đơn, vò võ, gậm nhấm mối sầu xa cách :
Đêm khuya thắp chút dầu dư
Tim lan cháy lụn, sầu tư một mình.
Tin tức của ai một ngày một vắng, nhưng nàng đã quyết tâm đợi chờ :
Sông sâu cá lội mất tăm
Chín tháng cũng đợi một năm cũng chờ.
Và rồi :
Dầu xa, dầu cách mấy năm
Nhưng em cũng phải chí tâm đợi chàng.
Và :
Một chờ, hai đợi, ba trông
Bốn thương, năm nhớ, bảy tám chín mong, mười tìm.
Vâng, đúng thế :
Thương nhau nên phải đi tìm
Nhớ nhau một lúc như chim lạc đàn.
Nàng là phận gái, đâu dám phiêu lưu, nên những ao ước :
Ước gì có cánh như chim
Bay cao, liệng thấp đi tìm người thương.
Và ngày ngày chỉ biết nhìn về hướng chàng đi để mong thấy bóng ai về. Nhưng than ôi:
Núi cao chi lắm núi ơi
Núi che mặt trời, chẳng thấy người thương.
Nhiều lúc quá tủi thân, nàng tìm một xó vắng ngồi khóc, để mặc cho...