Welcome Guest! To enable all features please Login or Register.

Notification

Icon
Error

11 Pages«<891011>
Ái Ưu Du &gt; Văn &gt;&gt; Những Truyện Tình Dài . . .
Ái Ưu Du
#181 Posted : Friday, January 25, 2008 3:34:18 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

Hoài Hương Xưa

Phần Thứ Ba

Chương 29

XÓT XA







Trong mắt Vì Dân, đã nhìn thấy nỗi quằn quại, của người bị tước đoạt mọi quyền hạng, sạch trơn, vô nghĩa, trần trụi. Khỏi cần bộc lộ niềm đớn đau phiền hận, qua ngôn ngữ, cử chỉ. Mà, trải dài ra sự mệt mỏi, khinh mạn, cùng sức chịu đựng lì lợm. Như màn voan xám đục mây mù luôn vây kín, từ mọi phía trên đỉnh sương mù. Loan nói:
- Chị Vì Dân có biết không? Anh Hoàng bây giờ “đốn mạc” không thể nói. Ảnh “tệ lắm”. Không còn là một chàng trai phong sương anh tài, ưu tú, mà các cô gái đã si mê một thời đâu. Anh có đủ thứ tính hư nết xấu. Nào là gái giếc, thất tình, nên lăng nhăng hết bà nầy, lại đến bà kia. Ảnh hút xách thuốc phiện nữa. Nhưng mà... Em nghe anh Lâm nói là hôm nào đó, ảnh vào bệnh viện Mỹ, vì chứng loét bao tử. Bạn bè thương ảnh, đến thăm anh ấy, đã khuyên can nhiều. Ảnh hứa sẽ bỏ. Anh Lâm kể lại là:
- Một ngày đẹp trời, thằng Hoàng về nhà, bỗng thấy ba ruột của nó đứng trong góc phòng, vừa pha chế xái thuốc phiện, trộn lẫn với rượu Tây. Hai bàn tay ba ảnh run rẫy, đính đầy xái thuốc bầy nhầy nhựa nâu hôi kinh. Ông cụ vừa làm vừa sùi sụt khóc. Ba nói với ảnh:
- Chẳng thà phải pha rượu vào xái thuốc, để cho nhạt bớt mùi thuốc phiện, hầu hy vọng con sẽ từ từ bỏ hút. Có lẽ dễ dàng hơn chăng?! Thà con ghiền rượu, còn đỡ chết người, hơn là con ghiền thuốc phiện. Táng gia bại sản, mà chết lẹ nữa. Ơi con!
Loan nhìn Vì Dân, e dè tiếp:
- Ảnh chán đời hay chán sống, mới lậm vào con đường nghiện ngập kinh dị. Tụi em cũng hy vọng ảnh thương ông cụ, sớm tỉnh ngộ, lìa xa nơi chốn tự đào mồ cuốc mả chôn thây.
Loan mỉm cười, nhìn Hương:
- May mắn cho Hương biết bao! Nếu ngày ấy, Hương không cự tuyệt mối tình say đắm, vì thói “trăng hoa, bay bướm và gàn bướng” của Hoàng. Có lẽ nay Hương chỉ còn bộ xương cách trí biết đi. Ổng sẽ hành hạ Hương cho đến chết, vì những ngoan cố và cố tật bẩm sinh: Ổng không trai gái mèo mỡ, thì cũng rượu chè, cờ bạc, hút xách. Tóm lại, tứ đổ tường ổng đều không thua ai. Hương sẽ khổ sở, lãnh trọn đủ điều, vì "em yêu anh tha thiết" nha. Hahaha!
- Tuy nhiên, Loan nghe nguồn tin nầy, không hiểu có chính xác, và ảnh có thành tâm từ bỏ không. Anh Hoàng đã nói với anh trai của em là:
- Thấy ba tôi đau khổ như thế, tôi quyết định bỏ hút thuốc phiện.
- Úi cha ơi! Nó vật ảnh te tua, hành hạ Hoàng đau đớn tưởng tự tử được. Ảnh dặn dò bà vợ mua đủ thứ trái cây, nước uống, mua một lô sách, để một cái thau lớn trong phòng. Vợ ra khỏi phòng, Hoàng khóa trái cửa lại, quăng chìa khóa ra khỏi cửa. Ảnh dặn vợ:
- Dù bất cứ giá nào, cũng không được mở cửa.
Ảnh ở trong phòng có độc một cái quần xịp. Không có thứ gì khác. Sợ ảnh khi them quá sẽ tự tử chăng? Khi nào thấy yên tĩnh, thì bà vợ mới mở cửa ra xem chừng, coi ảnh còn thoi thóp không! Ngày thứ nhất êm êm. Nhưng chiều tối ngày thứ hai, cơn ghiền lên. Thế là Hoàng la hét, đập phá mấy cái tủ, bàn, giường nệm. Ảnh còn có sức đấm cửa, rung cửa rầm rầm. Vừa đấm đá vừa la the thé. Chửi bới, khóc lóc, gào lên, vật vã tru hú. Nghe rợn tóc gáy. Y như con thú hoang điên cuồng đi tìm mồi. Ảnh bần thần bò lê bò la, vặn mình vặn mẩy, đập đầu rầm rầm vào tủ. Chứ có dao kéo kềm búa gì trong phòng, mà không đập đầu, không đấm đá bằng tay, chân. Ảnh nói:
- "Khi thì tôi bị lạnh run lẩy bẩy, khi thì nóng như thiu đốt". Mấy ngày sau, sức lực không còn, ảnh nằm co quắp trên giường như con cuốn chiếu, rên hừ hự, tự dưng ảnh giật nẫy bật người xuống nền gạch, như cái lò xo bung. Khi thì ảnh co giật tưng tưng người từng cơn. Toàn thân đau nhức bãi hoãi, anh ngầy ngật rã rượi, mệt nhọc quá sức, giống có kiến bò, ong chích kiến đốt, dòi rúc lúc nhúc trong xương trong tủy, châm, chích, cắn, cào rần rần khắp cả người. Ảnh đau đâu ở trong thịt, trong xương tủy kinh khủng. Trong người cứ cồn cào, bồn chồn, bần thần mỏi mệt, tột độ ray rứt, cào xé.
Ngưng một lúc lấy hơi, cô nàng tiếp:
- Bọt mồm bọt mép sủi ra, nhớt dãi và nước mũi lòng thòng, cổ họng khô lông lốc. Hai môi nứt nẻ, quầng mắt hỏm sâu thâm đen, mí mắt co giật, tóc dính từng bệt mồ hôi, vầng trán nhăn nhúm. Hơi thở khi đứt quãng, hụt hơi, khi dập dồn co siết. Ảnh rên hừ hự, mắt trợn trừng, nghiến răng trèo trẹo, lâu lâu lại ảnh rống lên. Như con heo bị thọc huyết ở lò sát sinh.
Trong niềm trống vắng cô độc tột cùng, Hoàng nẫu ruột chán nãn, xiểng liểng, nhấp nhô tụt dần vào cơn mê sâu.
Cả nhà sợ kinh khủng, họ mất hồn mất vía, cùng nhau trốn xuống dưới tầng một hết. Hoàng luôn nôn oẹ oẹ oẹ ra mật xanh mật vàng. Mặc dù anh không hề ăn uống gì cả. Bao tử cọ xát vào nhau, bụng lép xẹp nhô lên hụp xuống, sôi ục ục ục. Anh quặn thắt cả ruột cồn cào, đầu choáng váng. Mâu thuẫn đủ thứ thèm muốn dày vò anh kinh khủng! "Nó" cốt đòi hỏi cái chuyện hút xách cho đã cơn ghiền!
Ý niệm về tình yêu tuyệt vời. Hạnh phúc lứa đôi. Gia đình giàu sang đầm ấm, đối với Hoàng giờ phút nầy, chỉ như con số 0 to tướng. Trong phòng thum thủm mùi hôi hám nồng nặc nước đái, mùi chua ói, mùi mồ hôi rịn xuống nệm ẩm, gớm hết biết. Suốt năm sáu ngày như thế.
- Ba má Hoàng thấy cảnh rùng rợn đó, chịu không nỗi, cha mẹ ảnh đã đem nhau đi Vũng Tàu lánh mặt, từ ngày thứ hai, để khỏi chứng kiến thêm nỗi đau lòng. Rồi, qua ngày thứ sáu, không còn sức lực, coi như hoàn toàn kiệt quệ, Hoàng rũ rượi nằm bẹp dí trong góc phòng, lâu lấc nấc lên từng cơn rung. Như cái xác khô không hồn. Lim dim, ngọ nguậy, phều phào.
- Bà vợ cùng bầy em thấy anh yên yên, họ rón rén mò mò lên lầu ba nghe ngóng. Im lặng. Phùng Vi mở khoá vào phòng xem động tĩnh thế nào. Thấy chồng nằm ẹp nhắm mắt, bà vợ yên tâm trở xuống lầu bế con. Trên nầy, chả hiểu do mãnh lực nào thôi thúc, Hoàng bò dậy rõ nhanh, anh chạy ra phòng ngoài, vơ bộ quần áo, xỏ vào. Anh nhảy ba chân bốn cẵng xuống lầu, định đi ra cửa.
Lúc đó, bà vợ anh đang bế con đi lui đi tới trong phòng khách. Đứa con gái thấy ba, nó ré lên khóc và đưa hai tay ra đòi anh bế. Hoàng nhớ thương con bé, anh khựng lại rồi đến bế con vào lòng. Thừa lúc đó Vi thò tay vào túi quần, móc lấy nắm tiền to, và xâu chìa khoá xe, Vi mang đi dấu chỗ khác.


_ * _


Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
Trân trọng,
Ái Ưu Du

Ái Ưu Du
#182 Posted : Monday, January 28, 2008 1:55:35 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0


Hoài Hương Xưa

Phần Thứ Ba

Chương 30

TÌM VỀ CHÚT HOÀI HƯƠNG XƯA






Thế là, Hoàng bắt đầu có ý muốn trở lại cuộc sống tự do độc thân vùng vẫy như ngày xưa. Anh muốn trở về tự thuở còn là sinh viên đầy nhiệt huyết và thoải mái. Ngày ấy sao mà vui vẻ, an hoà và hồn nhiên đến thế!
Hoàng vẫn xót xa nhớ những ngày tháng xuân, hạ, thu, đông yêu Hương đậm sâu, trong sáng, hồn nhiên, an lành, ngọt ngào xiết đỗi. Anh nhớ những con thác cao chảy xối xả xuống dòng thung. Những cội thông vút cao, cây đan cây, cành đan cành sừng sững đứng thẳng tắp, reo vui trong gió rì rào.
Hoàng nhớ những buổi chiều mùa thu, trời vẫn vũ mây xám ảm đạm. Áng mây vàng phơn phớt tim tím lãng đãng bay bay dưới chân núi, rồi lã mình nằm trên đỉnh Lâm Viên. Từng bè mây bồng bềnh trôi, chờ đợi ánh sao hôm. Gió hiu hiu và mây lãng đãng cùng rủ nhau về qùy gối trên mấy mặt hồ im sóng. Có ngày trời đông vần vũ mây xám, cuộn mây nặng trĩu tà tà bay lướt thướt ngang đầu. Cơn mưa phùn lăn tăn li ti, nhỏ tí như bụi phấn, nhẹ tênh bồng bềnh, âm thầm đậu từng lớp mỏng tanh trên mái tóc lữ khách.
Năm nầy qua tháng khác tiếp tiếp, núi đồi Đà Lạt hùng vĩ điệp trùng cao ngất, ngút ngàn, mướt xanh. Thấp thoáng nhiều mái nhà mờ mờ trong hơi sương bàng bạc, nhạt nhòa, ẩn hiện những con đường mòn đất nâu vàng, uốn quanh co sau những lùm sim tím ẻo lả, đong đưa, mong manh. Thành phố núi điệp trùng, vòng vòng quanh quanh co co, nhấp nhô uốn lên uốn xuống chập chùng.
Hoàng thì thầm:
- Và, này em! Chính những giờ phút u hoài trầm lặng, chỉ có một mình anh, thì anh cảm thấy chua chát xót xa biết bao. Khi anh muộn phiền cô đơn, lạc loài, ray rứt, đau buồn nhất, thì anh chỉ biết mơ về em, nghĩ về em và anh rất nhớ em. Nhớ mối tình đầu tiên trong sáng, nên thơ và romantice khó quên trong đời anh vô vàn.
Thật thế, Hoàng nhớ và vẫn yêu Hương biết bao! Anh nhớ “mùi của Hoài Hương Xưa” đằm thắm xiết đỗi trìu mến. Tự trong đáy lòng anh, tự nơi sâu lắng nhất của tâm tư, tiềm thức anh đang trỗi dậy tiếng nói thì thầm, hân hoan vui thích rồi than van, và tuyệt vọng áo não. Con tim Hoàng đau xót muốn vỡ tan ra trăm ngàn mãnh. Dù anh biết chúng mình trót trao niềm đau chia ly, là đã vĩnh biệt nhau nghìn trùng rồi!
Thế mà từ ngày ấy đến nay, anh đâu có ngờ… Anh vẫn lặng lẽ tìm kiếm em, tìm mỗi dấu chân buồn tênh trên nẽo xưa. Anh bồi hồi cười một mình, khi đôi mắt vô tình có giọt lệ mọng ướt rung rinh trên mi anh. Như giọt mưa làm chao đảo lưng trời xám xa xôi ngày ấy. Vào một ngày nào đó, chúng ta đã dạo bước dưới mưa, hai anh em bị ướt hết áo quần. Anh và em cùng che chung một chiếc ô, âu yếm trao nhau nụ hôn say sưa nồng nàn. Mưa rơi lộp độp êm êm trên chiếc dù xanh. Nhưng chúng mình hân hoan vui cười, nói:
- Đó là do hai anh em mình gọi mưa đến. Xin những giọt nước sạch trong, long lanh, tạo thành những nốt nhạc ru tình, về ngủ quên trên bờ vai đôi ta mà.
- Do trời ưu ái ban tặng giọt ân tình cho mình há.
- Em có còn nhớ về ngày ấy không Hương hở?!
Nay thì, Hoàng đã mang chiếc dù đen to thô cứng, nặng trĩu ưu phiền trên vai, và trên tấm lưng mình còng xuống những cố gắng vĩ đại. Anh đi trên con đường Sài Gòn ngập đầy nước mưa ào ào trút xuống những vũng bùn. Làm ướt sũng đôi chân anh, ngập ngừng mỏi mệt. Anh đi trong hiện tại, mà mong tìm kiếm một hình ảnh quen thuộc trên lối mòn thuở xưa. Dù anh biết không thể nào!
Và, anh khóc thầm, tiếng nấc khô không một giọt lệ, không nức nở. Anh cảm thấy đau hơn lòng hồ khô cạn nước nức nẻ. Anh đã tự lừa dối, muốn ru lòng mình tịnh yên. Hầu như trọn đời, ngàn năm anh luôn đi tìm hạnh phúc mới, ở đâu đó. Rất có thể xa xăm, đến cuối một đời người, anh sẽ và vẫn không bao giờ gặp?
Hoàng lại nhớ thời còn du học bên Mỹ. Vui sao là quá vui à. Bây giờ còn gì nữa? Mất hết tất cả rồi! Tháng ngày lặng lẽ trôi qua. Anh gượng sống trong sự đau khổ tột cùng, từ trong gia đình nhỏ nầy. Hoàng ước mong sao sau nầy giông tố sẽ chóng qua, hai vợ chồng anh sẽ có dịp tìm hiểu nhau chí tình và thông cảm, thấu hiểu nhau hơn. Không biết được sẽ có mấy ngày vui?
Hay gia đình anh như chiếc thuyền nan lỏng lẽo, bồng bềnh lênh đênh trôi trên cơn cuồng sóng đầy giông bão? Vỡ tan lúc nào chẳng biết!? Định mệnh đã chơi xỏ Hoàng một vố khá đau, không biết bao giờ “nó” mới buông tha anh, trong cái khuôn đúc nhiều đau khổ, sóng gió và thử thách? Không gì đau hơn, khi anh nghĩ Phùng Vi muốn chiếm hữu anh trọn vẹn, từ thể xác đến tâm hồn. Vi không cho anh nhúc nhích cục cựa mảy may.
Vi ép anh vào con đường cùng, không lối thoát. Vi muốn khống chế anh trên mọi lĩnh vực. Không dành cho anh một khoảng trống tự do thoải mái nào. Vi không thấu hiểu anh rất cần chút riêng tư. Đôi khi Hoàng nghĩ bởi Vi có những hành động như thế, cũng có phần đúng cung cách của một người vợ yêu chồng thật. Tuy nhiên, Vi không khôn ngoan mềm mỏng tế nhị, khiến lòng anh có những phản kháng đi ngược lại yêu cầu của Vi. Hai vợ chồng sống trong một bi trường kịch, mà hai người không thấu hiểu nhau, chẳng thể thông cảm và chia sẻ lẫn nhau. Thật đau khổ kinh khủng cho cuộc sống chung nầy!
Mặc dù, có thể là cả hai người đều cố gắng dùng hết nỗ lực, đưa gia đình ngoi lên bậc thang hạnh phúc đơn sơ, tầm thường nhất, từ nụ cười thân thiện, trìu mến, ân cần, để bay tới một tuyệt đỉnh yêu thương chân thật, trang trọng hơn.
Một lần kia, sau khi đi làm về, vô tình anh gặp lại bọn Bảo, Điều, Trương Anh. Thế là Hoàng cùng chúng nó, rủ rê nhau vào động hút. Dạo trước, trước khi lấy vợ, anh chỉ đi hút chút chút cho vui, không ghiền. Nhưng sau nầy, khi đã có vợ, có con, Hoàng quá đau buồn, lại gặp bạn cũ “quá tốt” trì kéo rủ rê, nên Hoàng không thể kềm chế bản năng yếu hèn và nhu nhược. Muốn lẫn trốn hiện tại, không thích ràng buộc vì bổn phận, nên anh buông thả đời mình đi hút thuốc phiện mỗi ngày, nay anh đâm ra ghiền nặng rồi. Than ôi!
Mới có sáu bảy năm lạnh lùng trôi qua, mà cuộc sống gia đình nầy cuốn phăng đi tất cả, xô mỗi người về mỗi ngả tách bạch, chia lìa. Có chăng, chỉ mờ nhoà trong ấn tượng thu nhặt được, với bức biếm hoạ khổng lồ, lặng lẽ lướt qua dòng đời. Mà, bốn bàn tay run run, không thể vun xới hạnh phúc, không thể níu kéo dĩ vãng về bên khung cửa gia đình ấm áp hơn.
Còn Phùng Vi suy nghĩ về “đức ông chồng mình”, đây là cảm giác thực tế của con vợ bình dân nè:
- Tôi không rõ lắm nguyên nhân vì sao, do đâu, tại sao, chồng tôi dù đã có vợ con rồi. Ngày ấy và cả bây giờ tôi vẫn xinh đẹp, hiền thục đến thế. Mà Hoàng luôn thích đi ra ngoài lăng nhăng đàn đúm, truỵ lạc với những con đàn bà khác. Đồng thời anh ấy bê tha hút xách. Và sau nầy khi anh ấy bỏ được thuốc phiện, anh ta lại đâm ra rượu chè say sưa be bét, gái ghiết dữ dằn còn kinh dị hơn nữa?! Thì “tôi đây” có khinh khi, hỗn láo mắng chửi anh ấy là may mắn, chỉ là chuyện nhỏ rất bình thường.
Hai người đã sống với nhau, giữa giấc mộng gối chăn lủng củng lắm đau buồn, rồi trở thành gay cấn nhiều uất hận. Hôn nhân của Hoàng-Vi như một đồng bạc nằm sấp khuất lấp suốt mãi mươi năm, trên một góc sân xi măng loang lổ hoen ố. Mãi đến gần đây thì, Phùng Vi mới khám phá ra cái mùi hôi tanh nồng nặc quá khó chịu. Hôi kinh khủng! Bao trùm từ trong không khí gia đình nầy, mới ngột ngạt lan rộng, bay toả ra cùng khắp từ mọi xó xỉnh.
Hôn nhân! Tương tự như khi người ta chơi trò đánh đáo, ai cũng thấy bề mặt ngửa của đồng bạc (thì gia đình Hoàng Vi quả thực là giàu có sang trọng, đầy "hạnh phúc vợ chồng xứng đôi, vừa lứa. Con cái ngoan hiền").
Còn về mặt úp sấp của đồng bạc thì... Anh chồng quả là quá sức tưởng tượng như vậy.
- Như vậy đó... Thì sao?

_ * _

Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
Trân trọng,
Ái Ưu Du
Ái Ưu Du
#183 Posted : Wednesday, January 30, 2008 6:42:10 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

Hoài Hương Xưa

[b]Phần Thứ Ba

Chương 31


BÀNG HOÀNG






Buổi sáng 27-04-75 Nguyễn Thành Trung đánh bom sân bay Tân Sơn Nhất, Hoàng sợ mấy đứa nhỏ không có gì ăn, khi thành phố lâm nguy, nên anh mua ba thùng mì tôm, và ít thức ăn khô, đồ hộp, lạp xưởng, rủi có kẹt chợ, kẹt đường, thì các con có mà ăn. Anh chở sau xe honda về nhà mới mua ở Thủ Đức.
Chiều tối ngày 29-04-1975 Sài Gòn và các vùng lân cận ven đô rất lộn xộn, phức tạp, kinh dị như một cơn phong ba bão táp trong thành phố xô bồ hỗn loạn. Qua giấc chiêm bao, Hoàng cũng không thể tin được, chứ đừng nói đến sự thật phũ phàng, mà lắm đắng cay, chua chát đến thế.
Hoàng xách xe chạy ra đến Phương Long, thì bị những tốp người nhân dân tự vệ cầm súng carbine, có cả mấy ông thiếu tá, đại úy mặc quân phục ngăn chặn lại, cùng những sĩ quan khác. Họ nói đã có lệnh giới nghiêm, không cho ai ra vào thủ đô Sài Gòn.
Nhiều người dân toan đi, thì đám “lính kia” sấn tới kéo cù lát lên đạn, chĩa súng vào hăm bắn. Hoàng tiu nghĩu trở về làng Thương Phế Binh nằm chờ thời!
Lúc đó Hiển đã tìm ra chiếc AD-5 rộng, có cabin phía sau để vợ con của Hoàng, và một cô bé gái, con của Hiển, họ sẽ nằm ngồi thoải mái. Hiển rất cần Hoàng. Loại AD-5 có hai chỗ ngồi lái, Hiển sẽ là phi công chính. Hoàng sẽ là hoa tiêu phụ. Hiển gọi phone về nhà ba má Hoàng liên tu bất tận. Hai người không bắt được liên lạc.
Đồng thời trước đó vài ngày, Nguyễn Lý đã mang một cái bao đựng hơn mười cây vàng, đến ở chỗ 117, nơi sở làm việc của Hoàng, Lý nói:
- Làm sao anh ghi manifest cho gia đình vợ con mình đi với.
- Đem về đi. Nếu “moi” đi được, thì sẽ hú gia đình “toi”.
Thế là giờ phút kẹt cứng ở góc nầy, cả “hai ông tướng” kia, tiếp tục réo gọi Hoàng tới tấp. Chịu thôi. Mọi đường sá cửa nẽo đều bị niêm phong kín bưng. Buổi chiều đám “tàn quân” từ trường Thủ Đức kéo nhau đi về ngang làng Thủ Đức.
Ai ai cũng sợ nạn cướp bóc, nên họ lo kéo cửa lớn, khoá hai ba ổ khoá. Vì lính còn mang theo đầy đủ súng ống đạn dược lủng lẳng. Chỉ có đều là họ thay bỏ hết áo lính, chỉ mặc áo “mi dô”. Vẻ mặt họ đăm chiêu tư lự, đau xót buồn bã trống vắng vô cùng.
Thế là... đêm đó vợ chồng con cái anh trải chiếu, kéo nhau nằm xuống nền xi măng. Hoàng suy nghĩ:
- Nằm dưới đất cho vui, chứ cái nhà nầy, chỉ cần một viên pháo 105 ly rơi, là tan tành xí quách hết cả đám, chứ chả chơi!
Hoàng nghe súng và pháo kích nổ suốt đêm đến sáng. Anh không tài nào ngủ được. Vì hai phe miền Bắc và miền Nam Việt Nam đang tranh giành nhau cái cầu Rạch Chiếc.
Mặt trời đã lên cao quá đọt tre, nhưng ngoài đường vắng ngắt. Thẳng hoặc chỉ thấy vài ba tốp lính lèo tèo kéo về hướng Sài Gòn. Hoàng hé cửa, hỏi thăm một quân nhân, được anh ta trả lời:
- Bọn Mặt Trận giải phóng đã kéo đến ngã Tư Thủ Đức rồi. Chúng tôi là những người rút sau cùng, từ trường trừ bị Thủ Đức đi.
Thế là hết.
Hoàng nghe tiếng máy bay gào rú. Anh nhìn lên bầu trời chói chang ánh nắng. Một chiếc phi cơ AD-6 tuyệt vọng đảo lên đảo xuống, phi cơ ném bom xuống các xe tăng địch đang chạy trên xa lộ. Chỉ một thoáng là hết bom hết đạn. Phi cơ thẳng cánh bay về hướng Thái Lan. Một chiếc phi cơ lẽ loi thật vô cùng đơn độc, giữa bầu trời mù mù khói lửa! Phải chăng đó là Hiển đang tuyệt vọng tìm kiếm Hoàng?
Mãi đến ngày 2-5-1975, Hoàng mớicó thể mò về thành phố Sài Gòn. Thấy cả nhà ba má, các chị, các em còn đông đủ, anh cũng mừng. Chỉ có cô Út cùng chồng là ra đi cùng với phái bộ Dao, trong đêm 26-4-75.
Về sau nầy, bà vợ Hoàng không thể nào chịu đựng nỗi những cố tật quá xấu xa dị hợm của chồng, càng ngày càng kinh khủng, nên Vi đã ly dị Hoàng vào năm 1982. Và, vừa mới cầm tờ ly dị ngày hôm trước, thì ngay hôm sau bà vợ cũ, đã lấy anh chồng trai tơ trẻ hơn bà năm bảy tuổi. Nay họ đã có với nhau một đứa con trai. Bây giờ nó đã được mười bảy tuổi. Phùng Vi hành động như thế, cũng phải và tất nhiên đành phải như thế thôi!
Hương im lặng suốt từ đầu, sửng sốt, trợn mắt, há hốc miệng chăm chú nghe Loan, và Vì Dân kể về Hoàng. Chao ơi là đau kinh khủng! Hương chỉ biết ngậm ngùi xót xa, kèm theo những tiếng thở dài thườn thượt. Lặng lẽ suy tư.
Hương, Quỳnh, Loan, Vì Dân chia tay nhau. Hương cúi đầu bước đi, cắn mạnh môi, ngăn chặn mọi đảo lộn khác thường. Trong tim Hương bừng bừng cơn sốt tiếc thương, vang vọng trở về. Mỗi lần có người nào vô tình gợi nhớ đến người xưa, Hương thương mình, lẫn kính yêu chồng và thương các con lắm.
Thuở trước, ngày xa xưa ấy, khi Hoàng-Hương - hai người mới yêu nhau, trái tim Hương bừng bừng co siết nhiều giọt mật cuồng quay, say sưa trìu mến, dạt dào tình âu yếm. Tình yêu cuốn trôi mọi thứ đến tận tơ rung từng tế bào, làm phẳng phiu mọi buồn đau trong lòng nhau.
Nay bức biếm họa tình cảm, có hai chân ngang trái, có bước thấp bước cao đi vào căn nhà định mệnh. Quá khứ hay tương lai như hòn sạn khô, niêm kín giữa hai hàm răng nghiến chặt. Dẫu khát khao, quay quắt về cuộc tình xưa ôm nhiều kỷ niệm tái tê, khiến Hương đau đớn, chới với, hụt hẫng như bong bóng bay hút lên trời.
Cuộc sống đầy cạm bẫy phức tạp, không cho phép Hương tiếp tục dệt mộng trên bãi cát vàng. Để rồi, khi tỉnh lại bỗng, giật mình, lạnh toát cả người.

_ * _


Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
Trân trọng,
Ái Ưu Du

Ái Ưu Du
#184 Posted : Monday, February 4, 2008 12:02:58 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

Hoài Hương Xưa

Phần Thứ Ba

Chương 32

TUYÊN XƯNG TÌNH YÊU






Thời gian lặng lẽ trôi qua, cùng bao nhiêu biến đổi thăng trầm buồn đau trong cuộc sống chất chồng, trong mười mấy năm: Đau không cách gì tả xiết.
Thế mà giờ đây: “Chúng mình” còn gặp lại nhau. Vượt cả một đại dương mênh mông! Cả một quãng đời dài quá dài! Cả một cuộc đổi thay kinh hoàng về muôn mặt! Cả một sự chia xa nghìn trùng! Ấy thế mà... cuối cùng anh và em còn gặp lại nhau. Thú vị xiết bao. Ôi! Tuyệt vời làm sao!
Bao nhiêu thăng trầm ngày xưa, nếu có nhắc lại đôi điều kỷ niệm, để mà chờ đợi ngày mai huy hoàng, tươi đẹp hơn. Bây giờ đã “có anh, có em”, có tương lai cuộc đời của chúng mình trong happy ending!
Hoàng gò lưng trên ghế viết cho nàng lá thư e-mail đầu tiên, sau bao năm cách biệt:

Date: Mon, 15 Jun 1998 00:15:34 -0700 (PDT)
From: "Tony Dautry khanhson21@saigon.com Add to Address Book Add Mobile Alert
Subject: Thu dau tien mang so # 01 – Anh trao em TUYEN XUNG TINH YEU
To: "wit < tio1@yahoo.com > CC:

Buổi chiều 15–06–1998

Em Hương yêu dấu!

Khi em đọc lá thư nầy, ấy là lúc em cùng chiếc phi cơ 747 vỗ cánh bay về vùng “thiên đàng cũ”, bỏ lại sau lưng em khung trời thân thương vô vàn nhung nhớ! Em có biết không? Lúc đó, anh đang ngồi rũ rượi, thừ người ra trên sofa trong phòng khách. Thể xác anh rã rời vì nhớ. Trí óc anh điên loạn vì xót xa, đau đớn.
Mới lúc nào đây, anh còn có em trong vòng tay yêu thương. Còn nghe hơi thơ nồng say ngọt ngào. Còn vương vấn môi hôn ngọt lịm. Hai chúng mình còn nghe bài tình ca lên ngôi. Để rồi -giờ đây– Như chợt tỉnh cơn mê - Chỉ còn lại một mình anh: Đau buốt. Đơn côi. Vắng lặng!
Nhưng thôi em ơi! Anh tự an ủi: Thiên đường tình yêu ở trần gian không thể vĩnh cửu. Thời gian vừa qua, chỉ là những giờ phút vay mượn. Là sự an ủi đền bù, sau bao năm ly biệt. Anh mãn nguyện lắm rồi. Cứ như là một phép lạ đã xảy ra trong đời anh. Em đến! mang lại sự sống mới nơi anh. Em mang lại một khung cảnh tuyệt vời, cùng những giây phút hụt hơi. Anh nghĩ giá mà anh có từ giã cuộc sống trong vòng tay em êm ái. Anh chẳng ân hận. Ngược lại, đó là diễm phúc nhất đời mình. Em à.
Bây giờ em đang trôi bồng bềnh trên mây, trong khung trời tự do. Còn anh đang là là trong luyến tiếc vô bờ ngậm ngùi dâng sóng. Anh tiếc quá! Giá mà thời gian đọng lại, ngưng hẳn lại. Tất cả trở thành vĩnh cửu, để câu chuyện tình 38 năm qua của chúng mình, mãi mãi đi vào lịch sử. Em nhỉ!
Nhưng thôi! Đừng buồn thương mà chi. Em cứ đi, và em cứ về. Em cứ vun đắp cho tương lai, cho những gì mình mơ ước – Và, anh sẽ chờ đợi. Như anh đã từng chờ em dưới những cơn mưa phùn mùa đông ngày xưa. Anh sẽ chờ. Chờ mãi đến lúc bạc đầu răng long. Cho dù hẹn nhau đến kiếp sau. Anh vẫn chờ. Cứ tin anh đi em.
Những ngày gần đây, đã làm dậy sóng cuộc đời anh vốn lặng yên như mặt nước hồ thu. Đâu rồi những lúc bâng khuâng lo lắng chờ em ở bến xe mới ở Đà Lạt? Sợ lạc nhau, chắc hẳn anh sẽ chết cóng mất. Đâu rồi những lúc vui đùa bên sóng biển Nha Trang mênh mông? Mặt biển xanh thẳm vắng lạnh, chỉ có hai người chung một trái tim yêu đắm say quá chừng! Đâu rồi những lúc chúng mình chậm bước sánh vai dìu nhau đi trên phố vắng về khuya ở Huế? Đâu rồi vài lần anh chưa kịp đến điểm hẹn, khiến em phụng phịu ngóng trông, giận hờn anh, bờ mi em có hai ngấn lệ mọng nước rưng rưng? Trên chuyến xe trở về Sài Gòn, anh bỗng chợt buồn kinh khủng! Một nỗi buồn vô cớ, anh buồn kỳ lạ! Anh nghĩ:
- Biết đến bao giờ giấc mơ sẽ trở lại? Nhưng anh tin ở em. Tin định mệnh sẽ đưa hai đường song song trở về tụ điểm-> Năm 2000 ->- 2005 – 2010 - 2015 ? Thì em lại quay về! Chừng đó, chúng mình sẽ tay ôm lưng còng, tay vòng qua cổ, dắt dìu nhau, chống gậy chu du khắp đất nước Việt Nam thân yêu. Chúng ta sẽ cùng đưa nhau về đoạn cuối cuộc đời, nơi cùng đích cuộc sống yêu thương - sẽ–có anh–có em–có nhau. Và còn nhau mãi mãi.
Em ơi! Anh là người thực tế, không hy vọng hão huyền. Nhưng tại sao anh lại tin chắc như đinh đóng cột rằng: Anh linh cảm sẽ có một ngày anh lom khom chống gậy, run rẫy mà mừng rỡ, nôn nóng ra phi trường Tân Sơn Nhất đón Hương của Hoàng. Cho tròn với lời hứa hẹn của 38 năm về trước.
Hẳn em còn nhớ lần đầu yêu nhau, khi chúng mình đi thăm mộ cô Thảo, người đã chết vì tình yêu, bên cạnh Hồ Than Thở không em? Anh chỉ cho em thấy tấm bia mộ ấy đã ghi hai câu thơ:
”Dù cho non sông thay đổi mãi...
Ngàn năm em vẫn sống trong anh…”
Chính thế! Hình ảnh em đã ngự trị trong tim anh suốt 38 năm nay. Và sẽ vĩnh viễn... không bao giờ tàn phai. Trong cơn đau buồn của những cơn khủng hoảng trầm trọng ngày xưa– Ngày nay- Ngày mai; Trong biến đổi thăng trầm cuộc sống sau 30-4 –Và, do niềm tin bất diệt của cuộc tái ngộ bất ngờ, không định kỳ -Anh chỉ vẫn có em –còn em–mãi mãi– Ngoài ra, anh không hề yêu ai, không còn ai hết. Bởi em chinh là tình yêu duy nhất và vĩnh cửu của anh.
Xin em hãy tin tưởng anh. Hãy nhìn thẳng vào mắt anh, đừng để thoáng nghi ngờ, làm hoen ố góc trang tình sử quá đẹp của chúng mình. Nhé em. Vì như em đã biết một điều rất quan trọng: Trước em, anh chưa có ai. Sau em, anh chẳng còn ai. Hương yêu dấu ơi!
Em đã đem lại hạnh phúc tưởng chừng đã chết hẳn trong anh. Em đã gợi lại sự sống trong anh về mọi phương diện: Em đã mang lại sinh khí cho đời anh. Từ tâm hồn đến thể chất.
Vậy thì, từ đây anh đã có mục tiêu để sống. Sống để chờ. Chờ đợi và hy vọng. Hy vọng có một ngày toại nguyện. Anh sẽ tự nguyện cùng em tay trong tay. Trong tình thương chan chứa của các con của em, của anh. Nhất là trong tình yêu tuyệt vời của chúng mình. Nhờ Thiên Chúa giúp sức cho hai chúng ta có đủ kiên nhẫn, có sức chịu đựng giông tố mạnh mẽ, hầu vượt qua thời gian, về mọi thử thách ngang trái, sống trong không gian xa xăm muôn trùng. Cả hai sẽ quay về bến, bến vĩnh cửu an toàn cuối đời nghe em!
Từ đây, để nhớ em, anh nguyện sẽ sốt sắng đi lễ ngày chủ nhật, và cầu nguyện. Hẳn là em rõ hơn ai hết, các con gái của anh yêu thương em nhiều, hầu như là xem em như mẹ ruột của các con vậy. Không phải là bây giờ các con mới yêu thương em, như hồi các con còn bé tí đã yêu thương em, mỗi khi em ghé tạt về thăm gia đình anh đâu. Điều ấy khiến anh càng vui mừng hãnh diện về em. Chỉ có em mới xứng đáng để anh và các con anh yêu thương em. Chính em là người rất quan trọng, cần thiết trong ngôi vị làm mẹ của các con trong gia đình anh lắm. Em hiểu mà.
Thư nầy mong em cất thật kỹ, vì anh nghĩ đây là bức thư TUYÊN XƯNG TÌNH YÊU – Là LỜI CAM KẾT của Anh đối với Em. Trong đó, anh gửi gắm cả tâm hồn và trí óc ở tuổi xế chiều - để làm thành đoá hoa, sắc hương tinh tuyền thơm mùi hoài hương xưa – Cho dù hoa nở muộn: Trân trọng trao về em Hương yêu dấu của anh Hoàng.
Muốn viết rất nhiều, nhưng càng nghĩ anh càng ức nghẹn. Chào em nhé. Chúc em an mạnh,vui vẻ. Thư bất tận ngôn. Chỉ vì “Em Hoài Hương xưa là tất cả của riêng anh Lữ Phượng Hoàng”.


_ * _

Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
Trân trọng,
Ái Ưu Du

Ái Ưu Du
#185 Posted : Wednesday, February 6, 2008 1:45:21 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

AUD xin mạn phép tạm ngưng truyện dài: HOÀI HƯƠNG XƯA.
Nhân ngày Tết Nguyên Đán Mậu Tý, 2008. Xin mời qúy độc giả xem:

(Năm Mậu Tý 2008 nhớ về năm Mậu Thân 1968)


Thành Phố Thơ Mộng bị XÂM LĂNG






Từng chòm thông cao vút mọc thẳng, xòe táng lá xanh mướt, um tùm, trông cao lớn, phơi phới, an hòa, tươi tốt mát mẽ lạ thường. Tiết trời quang đãng ấm dịu vừa xua tan đêm trừ tịch trong thành phố Đà Lạt lắm mộng nhiều mơ.
Tự lúc nào không biết, gió xuân về mát rượi, cùng nỗi an thư ngọt ngào lâng lâng, xao xuyến ngất ngây vô vàn đọng lại ngàn giọt sương long lanh, rưng rưng, trên đài hoa anh đào chúm chím, e ấp buổi giao mùa. Muôn ngàn chim én xôn xao tưng bừng ríu rít chao lượng từng đàn đông nghẹt trên mái ngói lầu cao.
Theo phong tục cổ truyền Việt Nam, dù bận rộn, đa đoan với muôn vàn công việc chất chồng. Dù cách trở xa xôi đến đâu, ba ngày Tết người ta vẫn cố gắng tìm cách quay về mái nhà xưa, gặp gỡ người thân, tay bắt mặt mừng, hân hoan chúc tụng nhau, chuyện trò thân mật. Vui hưởng Tết Nguyên Đán quan trọng, đầm ấm, cúng giỗ, thờ kính tổ tiên.
Ngày xưa ở cung điện hoàng gia vua chúa nước ta, từ nhất phẩm đến cửu phẩm sắp hàng thứ tự trước điện rồng làm lễ bái tạ Trời. Đất. Các lễ trong triều thần quan trọng là: Nguyên Đán. Phất thức. Tịch điền rước thần nông. Tế xuân. Du xuân hưởng: Xuân, hạ thu, đông. Cúng tam sinh: Trâu (hoặc, bò, dê). Mâm xôi cổ bàn gà vịt heo, bánh trái.
Ngoài ra còn có Lễ tế cờ: Có ba bài vị gồm một viên tướng đi đầu cờ. Sáu vị tướng cờ đi giữa. Năm vị thần cờ đi hai bên. Toàn dân đón xuân linh đình. Dân gian được phép chơi bài Chòi. Tam cúc. Cờ tướng. Xóc dĩa. Bài tây là xì lát, đánh xì tố. Xóc bầu cua. Nay thì nghi thức nghinh xuân ấy được đơn giản rất nhiều.
Ngày mồng một Tết, tức là ngày 30, tháng Giêng, năm 1968 Mậu Thân. Gia đình tôi đi chúc tết ông bà Cương, bà con thân nhân bên nội ở trong Hà Đông. Xế trưa vợ chồng tôi cùng chạy xe lên trên Couvent thăm hai gia đình anh chị Thái, Thiệu. Rồi chúng tôi về khu nhà Bò, (Đào Duy Từ) thăm anh chị bên ngoại. Qua nhà thờ con gà, chúng tôi lại ra phố thăm hỏi anh em, bạn bè xóm làng thân thương vui vẻ. Pháo nổ đùng đùng đùng thật rộn rã tưng bừng. Người người hớn hở tay bắt mặt mừng, muôn câu chúc tụng hân hoan ấm nồng luyến thương hoài nhớ. Cho nên, ngày Tết, là ngày hưởng lộc đầu năm, là ngày linh thiêng, ai ai cũng mong quay về với gia đình, vui hưởng những niềm vui mừng trọng đại của cả dân tộc. Cận khuya chúng tôi mới về nhà.
Bỗng nhiên, trong tận cùng im vắng, đêm trường đầu xuân mát rượi, lẫn ngọt ngào hương vị ngày Tết, chúng tôi nghe từ nơi xa xa đạn réo vù vù trong không trung. Súng lớn súng nhỏ, đại bác đồng loạt nhả đạn, làm rung chuyển mặt đất, tung tóe dữ dội.
Khu đồi Domain yên tĩnh phía bên kia vực thẳm, dội lại tiếng gầm thét dị kỳ. Tiếng kêu xì xì, xẹt xẹt… ùm… ùm… pằng… pằng…, tạch tạch…, cắt bụp, cắt bụp… đạn rạch đêm tối vút vút bay. Những đóm mắt sáng đục hỏa châu, lơ lửng trên không trung nở vàng bầu trời. Quả sáng tụt nhanh xuống mặt đất, tắt đột ngột, trả lại bóng đêm u tối, như khi nó chưa nở rực ra trên bầu trời khuya quạnh vắng.
Ban đầu Lâm ngỡ mình nằm mơ, ngoài kia đốt pháo Tết, nhưng sau khi thấy trái sáng rợp trời, súng đạn rạch không khí, đạn bay chíu chíu xịt...xịt. Lại có cả thứ súng “cắt, bụp, xè”, nên anh tỉnh hẳn người.
Lâm gọi mẹ, vợ con dậy ngay. Rất nhanh, anh kéo nệm xuống gầm giường, lò mò trong bóng tối giây lát, rồi anh kêu vợ bế hai con chui vào. Chúng tôi nằm sát bên vách, đắp mền, giăng mùng cẩn thận, mà vẫn cảm thấy lạnh run cầm cập. Tôi run sợ, lạnh toát cả người, bủn rủn tay chân, gần như nghẹt thở. Thật ghê hồn.
Trong màn đêm đầy sương mù dày đặc, bị xé rách bởi lằn đạn tóe lửa. Mặt đất phả ra làn hơi nhút nhát e dè, lởn vởn bên mấy bụi cây. Súng nổ dập dồn, hung hăng tống vào ngọn đồi thưa, nơi có mấy công xưởng, ty Hiến Binh hồi xưa, không lúc nào ngơi nghỉ.
Lâm ra dấu cho tôi bò theo anh, mò mẫm ra phòng khách tối đen, anh nhẹ vén bức màn voan nhìn ra đường quan sát. Đường phố im lìm vắng lạnh. Nhà nhà, cửa đóng then cài cẩn thận. Tuy vậy anh thấy nhiều tấm màn bên những ngôi nhà ấy khẽ lay động. Khi chiến cuộc bước vào con đường sống an cư, hòa ái của người dân xứ lạnh nầy, họ ít qua kinh nghiệm chiến tranh.
Bỗng chốc bầu trời lặng như tờ, im ắng rùng rợn còn bao trùm cả sự đe dọa chết chóc. Sương mù và bóng tối không đồng ý với bình yên. Nó sẽ bốc đồng lên và phản bội con người lúc nào. Chẳng rõ. Bây giờ không còn dòng suối mát, ao hồ thác nước thơ mộng, đầy quyến rũ mang vẻ duyên dáng nên thơ, danh lam thắng cảnh xứ hoa đào. Biết đâu sẽ diễn ra mê cung ám khí chiến tranh chằn chịt, đạn bom theo khói lửa bay về thành phố nổi danh quyến rũ nên thơ. Đan bom sẽ xoắn tít hình trôn ốc ghim vào lòng đất, khiến địa hình xấu xí, nhăn nhó biến dạng lởm chởm hẳn đi. Nhìn thấy nó, mà mất cả hồn cả vía, chứ thơ mộng duyên dáng, gợi cảm cái nỗi gì.
Tôi mãi nhìn đường phố vắng lạnh, thì Lâm vội bụm miệng vợ, anh kéo tay vợ nép sát vào góc tường. Cạnh bên hông nhà, về hướng Khu số Bốn và Domain đi xuống, có khoảng tám chín tên đội nón cối, mặc đồ đen, đồ xanh rêu, cháo lòng, rộng thùng thình, lụng thụng, lưng đeo đạn, thân dắt cành lá, họ cúi đầu lom khom, gần như chạy nhanh về phía đồn c ông an.
Tiếng kêu lách tách do súng đạn cặp bên hông va đập vào nhau, nghe rung rợn ớn lạnh kinh khủng! Họ mò đi đêm thành thạo, hình như họ thích hợp, quen thuộc với bóng tối, hay do ý tất thắng chiếm đoạt, muốn vượt qua tất cả trở ngại, hầu đạt đến khát vọng điên cuồng?
Hỏa châu rơi liên tục, như những đôi mắt hung thần, soi rõ cảnh vật. Giây lát sau, đạn nhỏ súng lớn, đồng loạt bay vèo vèo pằng… pằng… pằng… Đùng … Đùng… Đùng… Oằng… Ùm… vút vút bay tới tấp trên đầu người dân. Rơi rào rào, nổ lốp đốp, loảng xoảng, ào ạt rớt xuống mái tôn nhiều nhà lân cận, nghe sắt và lạnh.
Căn nhà gỗ của bác Thao bị sập một bên, càng khiến cư dân trong khu xóm la to, kêu rống, hét tướng lên! Họ la lớn, réo gọi nhau, kêu khóc ồn ào, huyên náo bội phần. Bảy căn nhà vách ván đơn sơ ở xóm nầy đứng chênh vênh, lẻ loi, cô độc trong địa bàn giao tranh, bất lợi từ mọi phía, không tấc sắt tự vệ. Biết lấy gì chống đỡ! Họ phơi bộ mặt cơ hàn, giơ cái bụng lép xẹp ra trước lằn đạn mũi tên thế nầy!
Chưa việc gì mà! Phải! Phải! Nhưng lạy Chúa! Sao tôi run lẩy bẩy sợ tột cùng, miệng lưỡi co cứng, cổ họng đắng chát khô khốc, không thốt được một âm. Vài phút trước đó, trong xóm kêu gọi nhau, chui xuống gầm giường, gầm bàn trốn đạn inh ỏi. Tiếng kêu rú khóc la, xen lẫn tiếng súng bắn, mìn nổ thật gần, nghe rợn xương sống, đinh tai nhức óc.
Trốn tránh thế nào được! Xóm nhà nầy cao chênh chếch, như một cù lao đứng giữa hai lằn đạn thì... có mà chạy lên đằng trời. Ôi lạy Chúa! Trẻ con bên hàng xóm, cứ khóc thét toáng lên từng hồi. Như có người nào ngắt nhéo chúng, hay cắt tay chặt chân chúng nó vậy.
Còn đàn ông con trai thì im thin thít. Bây giờ có tiếng của đàn ông, càng làm người khác lo sợ gấp ngàn lần. Người ta lo sợ sự giao tranh súng đạn ngoài kia. Có khác nào tự tố cáo "lạy ông tui ở bụi nầy". Việt cọng sẽ chĩa súng vào ngực bắt đàn ông thanh niên đi, làm bia đỡ đạn. Hay bị giết sớm. Thì khốn.
Thành phố Cao Nguyên Lâm Viên Đà Lạt truyền cảm xiết bao bị xâm lăng, thành phố mang danh thơ mộng hiền hoà thực sự đi vào binh đao, và bùng lên ngọn lửa chiến tranh hung tàn rồi!

_ * _
Ái Ưu Du
#186 Posted : Thursday, February 7, 2008 1:24:04 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0



LÁNH NẠN

(Năm Mậu Tý 2008, nhớ về năm Mậu Thân 1968).





Ánh nắng rực rỡ bừng lên. Lớp sương mù dày đặc đọng lại trên các cành hoa anh đào, chạy suốt con suối cạn mọc đầy lùm dã qùy to lá, vàng hoa, nhụy nâu, hoa nở dọc theo bờ đất lỡ cuối vườn nhà, gần khu Domain de Marie. Nước rỉ rả chảy xuống hố, rồi uốn lượn quanh co trong nhiều đám sậy nhấp nhô.
Một ngày mới lại bắt đầu trong cuộc sống bất trắc âu lo. Phiền muộn, hãi hùng, âm thầm mà đau. Đầy băng giá, mang mùi vị tởm lợm, chết chóc và chiến chinh. Cái chết đe dọa từng giờ trên đầu mỗi người, ở trong thành phố Đà Lạt nổi tiếng hiền hòa thơ mộng xinh đẹp đang bị vây hãm.
Súng đạn khiêu khích từng ngày, từng đêm, từng giờ, tệ mạt hơn là người dân phải chịu đựng những cơn xoáy lốc, bốc lửa rít lạnh tê người khôn nguôi. Không vì trận gió từ đỉnh đồi Lâm Viên nơi phương Bắc thổi về. Mà vì nhiều loạt súng đùng đùng đùng… Pằng pằng pằng… Tạch tạch tạch… Cắt bụp cắt bụp… Xè xè… vang lên tứ phía. Liên tục luôn mãi nhức nhối tai, tim đập thình thịch không ngừng.
Mỗi ngày, khoảng ba giờ chiều, bà con cô bác từ các đường: Hoàng Diệu, Trần Bình Trọng, Mai Hắc Đế, Yết Kiêu, Số Bốn, số Sáu, Hai Bà Trưng, vân vân… lại ùn ùn chạy lên, xin bà dòng cho tạm trú dưới từng hầm của nhà thờ Domain De Marie. Họ mong tìm đến với nhau, cho vơi lo sợ và hận thù. Họ mong xích lại gần nhau tìm chút hơi ấm qua đêm, từ khi chiến tranh về trên dòng đời cuồng điên giàu tội lỗi, hận thù.
Sáng sáng họ lại lục tục kéo nhau về nhà. Căn nhà đêm trước bỏ hoang, mở toan cửa ngõ, chẳng cần cửa đóng then cài làm chi! Có súng đạn giữ gìn hộ rồi. Họ chả lo gì mất của cải chớ! Thời buổi nầy, lo giữ gìn bản thân chưa xong, chả an toàn, hơi sức đâu ai mà thèm đi giữ gìn của chìm của nổi, và hôi của người khác không nữa biết.
Xiết bao kinh hoàng lo lắng, và bồn chồn sợ hãi, vì nhà ba mẹ tôi ở tại một Villa trên đường Pasteur, đối diện với Tiểu Khu Đà Lạt. Nhà bị đốt cháy chỉ còn trơ nền gạch đen, và mấy hàng cột trơ trẽn.
Cả tiệm Hồng Châu, dãy nhà xây ở đường Phan Bội Châu, rải rác quanh thành phố. Ty Cảnh Sát, các công sở cháy rụi, sau tiếng súng cắt, bụp, xè… thì mọi thứ bị đốt tan tành. Phố xá hỗn độn, khói lửa hừng hực bốc cao, khét lẹt bao ngày chưa dập tắt, kể từ khi cơn binh biến hùng hổ đến vỗ mãi một âm buồn.
Về nhà nhìn trước ngó sau, dáo dác như kẻ trộm, tôi nấu vội nồi cơm thật lớn, cho cả nhà ăn đôi ba ngày. Ngó trước nhìn sau, tôi thấp thỏm tất tả chạy ra chợ, bòn mót đủ thứ đồ uống thức ăn. Chợ lầu Đà Lạt leo heo mươi hàng rau đậu héo uá, dập nát. Nhưng tôi mua cho có chất rau tươi, ăn qua loa chén cơm, với lọ mắm tương chao cà ghém, rau luộc cầm hơi. Tôi giành giật ở ngoài chợ mua nhặt từng chục trứng vịt, vài bó rau, dăm ba ký gạo. Thịt, cá, thì mắc như vàng! Các tay đầu tư cất dấu thực phẩm thật kỹ, cửa đóng then cài kín mít.
Thỉnh thoảng có vài tiệm buôn lớn he hé cửa ra, họ “bố thí” nhỏ giọt từng ký gạo cho đồng bào. Tôi rớ vào phỏng tay với giá tiền cao cắt cổ kinh khủng. Đại lý gạo Sơn Hà lớn nhất thành phố, tuyệt nhiên không thấy xuất đầu lộ diện, không có một hột gạo nào thoát ra khỏi khe cửa.
Có bao giờ người dân phố núi nghĩ ra, nơi thành phố thơ mộng quyến rũ nầy, lại có bộ mặt chiến tranh khuấy nhiễu, do giông tố lạnh tanh "khát máu người" gây ra, hầu tích trữ thực phẩm khô, trong mùa xuân dồi dào nhựa sống chứ!
Bất kể lúc nào, hễ nghe tiếng súng dồn dập, xa xa, về hướng Cam Ly. Khu Số 6. Khu Số 4. Dòng Chúa Cứu Thế. Ngả lên Lạc Dương. Là bà con trong xóm tôi tê tái hoảng hốt ơi ới gọi nhau, sẵn sàng tay ôm tay xách, cổ đìu lưng cõng con cháu, chạy nhanh lên ngôi nhà thờ kiên cố trên đỉnh đồi. Chúng tôi cần sự xích lại tương thân tương trợ ấm áp, cần sự lân mẫn tự nhiên của người đau đồng cảnh ngộ.
Mấy ngày đầu trong cuộc chiến, người ta mang theo vào tầng hầm trú nào bánh chưng, bánh tét. Xôi, thịt, cơm gà cá gỏi. Đủ loại mứt, trái cây, hạt dưa, vân vân... Hương vị ba ngày Tết chưa kịp ăn. Nhà nhà đều có dư thừa thức ăn ê hề không thiếu món gì! Sau đó thực phẩm ứ đọng, thiu thối, hư hại sạch. Mọi người hồi hộp lo sợ, ngao ngán không nuốt trôi, nhịn đói mà khóc, không thể ăn, nên đồ ăn hư thối hết. Họ đem ra vứt sau sườn đồi cạnh khu trường học, tha hồ cho lũ chuột cống và ruồi bọ tranh nhau lúc nhúc loi nhoi giành ăn.
Mỗi gia đình "xí phần" một góc, vừa đủ trải vuông chiếu ngả lưng sơ sài. Trên manh chiếu nương thân, họ dùng làm chỗ ngồi, để ngã lưng nằm, và ăn cơm. Cũng tại trên vuông chiếu nầy, người ta chồng chất đủ thứ lặt vặt cần thiết đã vội vàng mang theo.
Khoảng hai ba giờ chiều, người người lục tục kéo nhau đi, đến các nơi kiên cố và đông đúc, mong xích lại gần nhau, tìm chút an tựa. Giống ngày hôm trước, sáng sáng tản mác mỗi người về mỗi nhà. Họ gồm đủ mọi thành phần trong xã hội, đủ khuôn mặt già trẻ lớn bé, xấu đẹp, ốm mập, đen trắng. Đặc biệt giữa đa số khuôn mặt bình dân thảng thốt ưu phiền, lo sợ, thì có bảy tám thanh niên thiếu nữ náo nhiệt, xinh tươi ở đâu tập họp lại. Trước đó quần áo các cô cậu coi hợp thời trang, họ ung dung lượn quanh hầm, vui vẻ cười nói huyên thuyên, móng tay móng chân các cô đỏ chót.
Vài ngày sau tôi dòm họ xộc xệch, túi vải đựng đầy gia tài, lịu địu máng trên vai, tô thêm đất bùn lem luốc. Họ mệt mỏi cố vơ vét tất cả gia tài, nhét trong xách da căng cứng, bung hết dây kéo ra. Họ luôn mang kè kè bên hông. Họ tán loạn kinh hồn, sự kinh tởm kéo dài quá lâu, vượt tầm mức chịu đựng. Họ hãi hùng kêu tên nhau, i ỉ khóc cho đến lúc nước mắt cạn khô, ráo hoảnh, ngơ ngáo bất động thì thôi.
Sự đông đúc đầy dị hợm tẻ ngắt, trong căn phòng chen chúc chật cứng, ngột ngạt như lò hồ quang, thiếu ánh sáng, thiếu không khí, thiếu mọi tiện nghi. Cảnh di tản có đủ thứ chuyện vui buồn. Tin tức nóng bỏng nhất được truyền khẩu trong ngày, trong tuần lan từ đầu nầy đến đầu kia, nhanh như chớp.
Riết rồi ngày ngày chung đụng nhau, người ta biết mặt, biết tên nhau, biết biết, quen quen, thân thân hỏi hỏi, nói nói, ồn ào như vỡ chợ. Dù nét mặt mọi người mỏi mệt bần thần đầy ngao ngán buồn thiu. Họ không khóc được, vì sự kinh sợ đã kéo dài khá lâu, vượt quá tầm mức chịu đựng của con người. Người ta mất ăn từng ngày, mất ngủ từng đêm, từng đêm âu lo tột độ.
Không gian và thời gian im lặng tẻ ngắt đầy ghê rợn suốt buổi, trong căn phòng chứa khoảng hơn ba ngàn người. Họ chen chúc, ngột ngạt, nơi thiếu không khí, thiếu ánh sáng. Đôi lúc trên đầu loé lên tia lửa rạch không khí, bay vù vù trong không gian. Lằn đạn xẹt qua. Hai ba chiếc phi cơ không nhìn thấy rõ, bay vút trong bầu trời, qua khung kính trên vòm mái cao.
Giây lát sau đó là tiếng rền rú uồm uồm uồm… ghê rợn. Hàng loạt đại bác trút xuống đỉnh đồi, vào khe suối xa xa…

_ * _
Ái Ưu Du
#187 Posted : Saturday, February 9, 2008 12:58:32 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0




ÁC NHÂN

(Năm Mậu Tý 2008, nhớ về năm Mậu Thân 1968)




Sau một vài tuần, cư dân trong thành phố của tôi đi đi về về lánh nạn, (người dân ở vùng nào, thì tạm lánh ở những cao ốc an toàn nhất của vùng đó).
Bảy gia đình chúng tôi cư ngụ gần dòng tu Domain de Marie có biệt hiệu là: “Dòng Bà Xơ Xanh”, thì mấy ông mồ côi con nuôi (của các Bà Mẹ Dòng), không cho “cánh đàn ông ở ngoài Đời” (là từ của các bà mẹ dòng, muốn ám chỉ: Những người ấy không phải là người con nuôi, con mồ côi “thuộc quyền cai trị” của các bà). Mấy ông mồ côi không cho mấy ông “ở ngoài đời”, vào ngủ nhờ dưới tầng hầm nữa.
Mấy “ông tướng mồ côi” nầy, được các bà mẹ dòng Domain đi nhặt nhạnh ở đâu đó trong thành phố, hay vài nơi Tỉnh, Thành, khác. Rồi các bà dòng bác ái ấy, ra tay làm phúc gây đức, tha họ về nhà dòng. Các bà cưu mang nuôi nấng, ấp ủ họ, cho “đàn con côi cút” ăn học tử tế. “Các con nuôi” của họ lớn lên thành nhân, thành tài. Các bà mẹ dòng lại đứng ra dựng vợ gã chồng “hợp tác cho” con mồ côi có cái tổ ấm. Các bà dòng cho họ làm một dãy nhà gỗ, nhà xây ở tít dưới khu đất rộng, trong khuôn viên dòng. Các bà mong họ sống ấm no thoải mái, sanh con đẻ cháu ở đó cho tới già, tới chết. Các mẹ dòng lại bưng họ đi chôn trong một góc tư điền tư thổ xa xa của Dòng Domain nầy.
Mặc dù “mấy ông tướng mồ côi” dư biết bảy gia trưởng “ở ngoài đời” nầy, là những cư dân đàng hoàng, có công ăn việc làm cố định, có nhà cửa, đồng thời là hàng xóm lân bang với khu đất dòng Domain. Ngày ngày mấy “ông tướng mồ côi” thường lui tới ra vào nhà của mấy ông “láng giềng bạn dân”. Đôi bên la cà ăn nhậu lai rai, có khi chưa say, không đã, không xỉn, thì họ chả chịu bò lết về nhà.
Bên ngoài súng đạn vẫn bay vèo vèo. Bọn mồ côi ấy khoá chặt cửa nẽo, họ đứng bên trong cửa hầm, (“vô tư” nhìn ra nhóm đàn ông ở bên ngoài cửa), họ bình thản và tàn nhẫn.
Lâm giận run, anh chửi họ một trận. Anh nổi cộc dùng tay không đấm rõ mạnh vào cửa kính, khiến nó bể nát ra. Mảnh kính ghim vào tay Lâm, máu tươi chảy ròng ròng. Tôi thấy mà xanh mặt, ớn lạnh và run lẩy bẩy.
Lâm xỉ tay vào bên trong cửa kính vừa bể, hét to:
- Không cho chúng tao vào. Hãy mở cửa cho vợ con chúng tao ra ngay.
Bác Hải chống hai tay lên sườn:
- Ông không sợ lũ hèn nhát chúng mày. Nhớ nhá!
Báu rung mạnh cánh cửa bể:
- Bà dòng cho mọi người vào đó tạm nương náu. Chứ của riêng bố tổ ông bà, tổ cha chúng mày ấy hử. Mà không cho các ông vào. Hử?
- Chúng mày là loài liu điu, nở ra dòng liu điu, cứ tưởng mình là chó sói, thị oai ở rừng ha.
- Có ngon, thì mở cửa ra đây. Sẽ biết tay ta.
May mà mấy cha nội mồ côi ác nhân đó, đứng ở bên trong nhà hầm. Chứ nếu đám mồ côi ở ngoài tầng hầm, thì thể nào cũng bị “các ông ngoài đời”, "nện" một trận nên thân.
Kẹt lại bên trong không ra được, mẹ con tôi thấy cảnh tượng "máu chảy ruột mềm", tôi đã chửi vu vơ nhoi trời đất. Tôi bắt họ mở cửa lớn, cho mấy gia đình chúng tôi ở chung dưới xóm đi ra. Nhưng tên giữ chìa khóa mấy cửa lớn, đã lủi trốn đi đâu lúc nào.
Đêm đó, bác Hải và Lâm nằm co quắp dưới chân bàn thờ bên trong hang đá Đức Mẹ, không mền chiếu. Trời Đà Lạt lạnh vào khoảng 10/o C. Hai người cứng đơ như bị ướp đá. Muỗi tha hồ hút máu đông. Họ không còn cảm giác, gần như chết cóng. Lâm giơ tay vuốt bầy muỗi ra khỏi khuôn mặt sưng vù, dày cộm.
Thỉnh thoảng hoả châu đỏ rực bầu trời suốt từ chập tối đến rạng sáng. Cứ mươi lăm phút thì súng lớn từ hướng Võ Bị câu đi đâu đó vút vút ầm ầm ầm. Súng nhỏ gần gần trong địa bàn thành phố lại nổ rang lên từng hồi pằng pằng pằng… Tạch tạch tạch… đùng đùng đùng. Ầm! Oành! Bầu trời rực sáng màu đỏ tía, rồi bỗng tối đen như đêm ba mươi. Khói bay toả trên tít tầng mây xám, không trung quyện lẫn màu khói, và sương mù mịt mùng. Mùi hôi theo gió lùa về khét lẹt chua chua thum thủm. Hôi chịu không nỗi. Hai anh em thức trắng đêm cầu nguyện, mong cho trời mau sáng. Họ nhìn chiến trường bốc lửa từ phía Khu Số 4. Khu Số 6. Họ lo sợ kinh khủng! Kinh khủng!
Sau đêm đó, Lâm đến nhà bác Chiểu, ở đường Phan đình Phùng ngủ nhờ. Khi nào không có phiên trực ở Ty, anh ghé về nhà thăm chừng mẹ con tôi vài giờ là đi. Nơi chốn nầy, khá hẻo lánh anh thấy sợ.
Suốt thời gian chiến cuộc, thỉnh thoảng mẹ chồng, tôi, và hai con trai nhỏ vẫn làm “mặt mo” lì lợm, mò lên ngủ nhờ dưới tầng hầm của nhà thờ Domain. Khi thì cả bốn người bồng bế nhau lên ngủ nhờ trong dãy hành lang của Dân Y Viện Đà Lạt. Vào bệnh viện, đã ngửi thấy mùi nồng nồng, hôi hôi, tanh tanh, mùi thuốc sát trùng thật khó chịu, hầu như ai nấy muốn nôn ọe. Nhưng chúng tôi phải ráng chịu đựng.
Đêm đêm súng đạn vang rền, tôi vẫn chứng kiến quá nhiều cảnh đau đớn, rên siết, chết chóc, của người già có, trẻ có, đang mang bệnh tật. Kể cả thương binh, tử sĩ trào máu tươi. Cảnh nào cũng đau đớn khổ sở, đắng cay như nhau. Thôi mặc! Thà ngủ gần người bệnh, ngủ gần nhà xác, còn hơn ngủ chung với người dẫy đùng đùng chờ chết.
Tôi quá sức thương bé Tuấn, ngày ngày tôi bế con còn đỏ hỏn đi ngủ ngoài hành lang lạnh lẽo lắm. Sáng sáng tôi lại bế con về nhà, giữa nắng mưa sương gió khuya chiều lạnh buốt xương sống.
Mẹ chồng, tôi và hai con trai nằm đất ẩm ướt lạnh lẽo luôn luôn. Các con bị ho, sỗ mũi, nóng lạnh. Nhất là bé Tuấn ọc sữa thường xuyên. Mặc dù tôi đã mặc cho bé Dzũng và bé Tuấn hai áo lót, áo cánh, hai áo ấm, quần nỉ dày, mũ len, bít tất, mền bông ủ kín cả người. Nhưng các con bé bỏng của mẹ dày gió dạn sương, không thể ấm hơn. Vì hiên ngoài lồng lộng gió và sương muối dày đặc. Tôi quá đổi buồn phiền, thương các con, đau khổ, lo lắng vô cùng.
Ở thời buổi chiến tranh không bao giờ nhân ái biết nghỉ mệt, làm sao bây giờ? Không sáng nào khi trở về nhà, mà tôi khỏi thấy đầu đạn mới, vỏ mìn cày xới trong vườn hoa, trước sân nhà, trong phòng ngủ, phòng ăn. Có hôm đầu đạn ghim vào vách ván, thân cột nhà. Tất cả cửa kính bể nát, tha hồ cho gió lạnh lộng hành, rít vù vù, lật tung hết mọi trật tự trong gia đình. Không ai có thì giờ, nghĩ đến chuyện dọn dẹp nhà cửa khang trang tươm tất hơn. Mấy cái phuy chứa đầy nước uống hôm trước, hôm sau trở về nhà tôi thấy đạn xuyên qua, nước chảy cạn xuống đáy thùng. Sáu bóng đèn điện trong nhà cứ vài hôm bị đạn "xơi tái" đi. Riết rồi trong nhà tôi, và ngoài ngỏ tối thui, không còn một bóng đèn nào. Có nhiều hôm đạn ghim vào nệm, vào gối. Dễ sợ chưa!
Bé Tuấn vừa biết lật, vào một buổi tối nằm ngủ nhờ ở góc hiên ngoài bệnh viện. Mẹ chồng, tôi và bé Dzũng vui mừng cười sảng khoái la thật to lên, vỗ tay reo vui hoan hỉ. Khiến mấy cô y tá trực bệnh viện, không hiểu chuyện gì, họ lo sợ mở cửa dáo dác nhìn quanh. Mẹ con bà cháu im bặt, chúng tôi sợ họ bực mình đuổi đi, không cho chúng tôi tá túc, thì biết trông cậy nương nhờ vào đâu!
Đó là niềm vui mừng trong veo, có tiếng cười hồn nhiên duy nhất, kể từ hôm chạy giặc! Tôi vui mừng hết sức. Tôi cầu mong cho các con hay ăn chóng lớn, gia đình an mạnh một phần. Phần lớn nữa là mong quê hương sớm yên ổn, để chúng tôi và mọi người trở về ngủ dưới căn nhà bé nhỏ đơn sơ, khỏi cảnh ăn đậu ở nhờ, nơi đầu đường, xó xỉnh bẩn thỉu và buồn da diết thế nầy.
Trước muôn vàn chinh chiến điêu linh tang tóc, khổ sở đã vỡ bung ra trên mọi miền đất nước thân yêu, không một ai vô tình trong cơn quặn đau thắt ruột lịch sử dân tộc Việt Nam. Trước cảnh huynh đệ tương tàn, nồi da xáo thịt, là nỗi nhục nhã ê chề, đớn đau gớm ghiết, tủi hổ tột cùng. Triệu triệu người từng chứng kiến qua nhiều góc cạnh cuộc đời khác nhau, nơi bề trái lịch sử: Tham tàn, cuồng loạn, vụng về núp bóng dưới lớp mây đen u tối nghịt trời, tỏa trên vòm trần kính.

_ * _
Ái Ưu Du
#188 Posted : Monday, February 11, 2008 1:09:08 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0




DƯỚI TẦNG HẦM

(Năm Mậu Tý 2008, nhớ về năm Mậu Thân 1968).





Dãi mây hồng như dãi lụa mềm mại, lơ lửng, bồng bềnh uốn éo ở lưng chừng chóp đỉnh núi Lâm Viên, rồi quấn quanh mặt hồ Hải Thượng Lãng Ông quang rạng ánh dương vàng tươi rói. Mùi hương hoa ngâu xinh xinh, hoa bưởi trắng muốt thoang thoảng từ dưới dãy nhà các mẹ dòng bay về thơm lựng.
Hầu như trong phút giây nào đó, khi nghe tiếng đàn piano thánh thót ngân vang, dìu dặt từ trên góc nhà thờ, êm ả và trầm bổng lùa trong gió sớm, quyện lẫn cùng hương hoa mùa xuân ùa về, đã khiến tâm trí tôi trở lại thuở mộng mơ ngày trước. Nơi ấy có những hàng hoa anh đào mong manh nở rộ buổi xuân sang. Có những cây mimosa hoa vàng óng ả yểu điệu rung rinh trên kẻ lá mốc lam. Có những con đường quanh co uốn lên uốn xuống. Một mình tôi quạnh quẽ đi dưới đồi thông ướt sũng, sau cơn mưa lướt thướt vừa gội sạch bụi rừng. Đồi thông ngút ngàn xanh mướt chen cánh thông ba lá, cây đan cây cành đan cành rung rinh, toả phấn thông vàng lả lướt bay bay. Những chú bướm đủ màu xinh xinh nhàn hạ, nhởn nhơ chập chờn lượn quanh mé vườn. Thuở ấy tôi cảm thấy lòng mình dâng lên nỗi dịu cảm ngất ngây vô bờ.
Thế mà hôm nay, khi trời đổ mưa tầm tã trái mùa suốt cả buổi chiều, hạt mưa xiên xiên to tròn nặng hạt rơi lộp độp trên mái ngói mãi hoài không dứt. Nên ngoài dãy hành lang của khu bệnh viện Đà Lạt, người người tới tấp tha bùn sình, bê bết đất đỏ bẩn thỉu vào các thềm nhà thương, gió lồng lộng thổi vun vút theo dọc hiên nhà, và nền xi măng ướt nhẹp nước mưa bì bỏm, lủng bủng, tanh tanh.
Chúng tôi đành phải “làm mặt mo” xách chiếu mền lết bết, xin đi ngủ nhờ trong tầng hầm của nhà dòng Domain. Vừa chân ướt chân ráo lọt vào trong khu tầng hầm, tôi đứng thẫn thờ nhìn quanh. Chưa thấy có chỗ nào còn trống, thì ba cánh cửa lớn kiên cố dẫn vào hội trường sau lưng tôi, bị ai đó đóng ập lại và lo khóa chặt. Người giữ chìa khóa đã lủi vào trốn núp trong nhà dòng. Ông ta nhát hơn cáy!
Quá khứ rồi sẽ giống như cánh cửa sắt nầy đóng chặt lại sau lưng tôi. Rồi cũng giống như thau nước hứng mưa dột dưới góc nhà tôi vừa bị sập. Tôi đã cong cong lưng bưng thau nước đầy sóng sánh bóng mình trong thau, nhanh nhẹn bước ra hiên nhà, tôi hắt mạnh nước vào màn mưa đục ngầu, cho nó hoà tan trong mưa, mất hút. Như hắt cả hiện tại và tương lai về với quá khứ.
Từ dưới mặt đất của tầng hầm khu Domain ngó lên hàng cửa kính, cao khoảng chừng bốn mét, tường đá phẳng lì không thể với tay lên hàng cửa sổ nhỏ, ở tít trên cao. Dù mấy tay đàn ông cao lớn kia, đã chồng chất ba cái bàn, họ hy vọng trèo lên đó, là có thể dáo dác nhìn ngó lung tung ra bên ngoài.
Người ta vô cùng hối hận, vì không tìm nơi thuận tiện, hay tự đào hầm đào hố ở nhà riêng, cho an toàn. Hay trốn núp tại tư gia nhà ai có hầm hào kiên cố. Hơn là dồn cục một chỗ đông như kiến, chui vào cái hầm khổng lồ, kinh khủng nầy. Đời có lắm chuyện tôi không hiểu. Không thể hiểu nỗi.
Người đạo Thiên Chúa lâm râm đọc kinh cầu nguyện, đọc kinh sám hối, đấm ngực ăn năn tội thống thiết. Tin Lành úp mặt trên hai bàn tay, run rẩy đọc kinh thánh. Người Phật Giáo niệm Phật, cầu khẩn Đức Phật Thích Mô Ni Ca rất chân thành. Cao Đài, Hòa Hảo, bi thiết gọi tên Trời Phật, gọi tên các giáo chủ. Trong nguy cơ bị hũy diệt tập thể, lành ít dữ nhiều, người ta không phân biệt giàu nghèo, đảng phái, tôn giáo. Vì tôn giáo nào cũng khuyên con người hướng thiện, luôn làm lành lánh dữ, chia sẻ, dùm bọc, bác ái, yêu thương, có nề nếp gia phong, tôn trọng tự do và nhân phẩm.
Giờ phút thập tử nhất sinh gần kề cửa tử thần, họ đã tự động mở rộng vòng tay chia sẻ, tìm đến với nhau, mong vơi hận sầu, thân thiết ôm chặt nhau, tựa vào nhau, miệng họ khẩn cầu xin bình an rót xuống mọi nơi. Họ nồng nhiệt kêu xin ơn Trên hãy ra tay cứu giúp, đức độ tha mạng sống.
Mười hai giờ trưa, trên trời trực thăng luôn bay lượn ì ầm, tụ điểm giao chiến là nhà thờ Domain de Marie. Không thể tưởng tượng nỗi, khi lựu đạn ì ì ầm ầm nổ, súng lớn, súng nhỏ rào rạo bay, ép lồng ngực như vỡ tan ra từng mãnh. Đạn vun vút vèo vèo, bay xuống, bay lên, bay qua, bay lại: Đùng đùng đùng… Pằng pằng pằng… Róc róc róc… Ùm ùm ùm… Oằng ùm… bay tới tấp trên đỉnh đầu người dân, đang ẩn nấp dưới hầm ngôi giáo đường kiên cố nầy.
Tàn quân “Vi ci” nép bên hông trên nhà thờ, đang tìm đường trốn chạy về khu Số Bốn. Những tay ấy chĩa súng lên trời, bắn những chiếc phi cơ trực thăng, bắn lép tép cắt… cắt… bụp… bụp… xè xè! Từng phát súng nhát gừng nổ vu vơ. Trực thăng lượn qua lượn lại vòng vòng quanh nhà thờ Domain chĩa hằn súng xuống đất, lại có từng tràng rocket róc róc róc… xíu xíu… xít xịt… toé lửa vùn vụt bay xuống hông nhà thờ. Vô cùng kinh khủng!
Ba cánh cửa lớn kiên cố vào hội trường tầng hầm Domaim bị khóa chặt suốt ngày đêm. Người giữ khóa đã vào trốn núp trong dòng, các bà dòng không muốn chứa thêm người lạ, các bà sợ "bọn lạ" trà trộn vào, ẩn nấp, hoạt động bí mật chăng? Tất cả cửa sổ nhà thờ, có những bức ảnh kính màu thủy tinh tuyệt đẹp đều vỡ toan, rơi loảng xoảng khắp mọi nơi xuống khu tầng hầm.
Thế là tiếng la khóc gào thét, kêu cứu, rên rú, đồng loạt nhốn nháo hỗn độn bừng nổi lên. Người ta hét tướng lên to vô cùng. Già trẻ, lớn bé đều rú to, kêu khóc inh ỏi, không chừa một ai. Người ta dồn chặt cứng vào nhau chật như nêm, họ đùn lại ở một góc cuối tường hầm nhà đá. Họ dày xéo lên nhau, dẫm đạp lên nhau, bất kể người khác tắt thở, chết ngạt. Mặc xác! Người đứng ở bên ngoài cố dằng kéo người đứng ở giữa ra, để chui tọt vào giữa đám đông ẩn nấp riêng bản thân. Mặc kệ. Cần an toàn thôi.
Cả vài ba ngàn người dồn cục trong góc kẹt vách, họ đè nhau bẹp dí thành một đống cục chồng chất lên nhau lại một chỗ. Nơi xó xỉnh đầy bóng tối nầy, họ không muốn súng đạn nhìn thấy. Người ta không còn liêm sĩ, chả cư xử nhã nhặn làm gì. Ngược lại, bản năng tự phát cần bảo vệ sinh tồn, có tỏ ra thô lỗ, đối xử với nhau tàn nhẫn, hỗn loạn đến bàng hoàng cũng đành. Miễn sao ta tự tìm kẽ sống, không chút ân hận. Miễn sao súng đạn bom mìn và Việt-cọng trên kia đừng nhìn thấy mình. Là đủ.
Ai ai cũng sợ súng đạn hơn cả mọi thứ trên đời! Lạy Trời xin tha thứ. Ấy thế mà súng đạn vô tình cứ bắn càng lúc càng rát bỏng, tai ù ù, điếc đặc. Đạn cay, đạn ói, đạn khói, đạn mữa, khói thuốc súng, lựu đạn hoả mù theo các khung cửa sổ bể tới tấp bay vào. Tôi thật giận Luật, hôm ấy anh tự dưng lại đấm bể khung cửa kính kia làm gì, mà bây giờ mùi khét cuốn theo chiều gió, bay vào càng hôi kinh khủng vậy!
Máu cục đông cứng trên các miếng kính bể, cạnh đống đồ đạc ngổn ngang. Từng dòng máu tươi của ai đó trây trét bừa bãi, do những bàn chân ai đó trong tầng hầm vừa đạp lên mãnh kính vỡ, họ lê lết tha đi khắp mọi xó, máu tươi loang ra, loang ra... Người ta lớn giọng la hét, tru hú, rú rên, khóc hụ hụ hụ từng cơn. Nghe rùng mình dựng đứng tóc gáy.
Không có người kinh nghiệm trong chiến tranh để hướng dẫn, vã lại giờ nầy không ai chịu nghe ai chỉ huy cả. Mạnh ai nấy bon chen hầu mong sống còn với đời. Đoàn người tị nạn hỗn độn hết biết (như bầy gà vịt nhốn nháo, bay lung tung, kêu quang quác, khi con sói đến cửa chuồng). Nước mắt nước mũi ai ai cũng chảy tùm lum tà la. Họ ói mửa nôn ọe, hỉ mũi sột sột lên đầu lên cổ nhau. Thật kinh khủng và kinh tởm vô cùng.
Cánh cửa chính của khu từng hầm dày cui, bị ai đó gài mìn ở phía bên ngoài, đã nổ tung. Toà nhà thờ đồ sộ rung rinh, tiếng rền rền âm âm nghe rất hãi hùng, mái ngói nhô lên hụp xuống rêm rêm, gầm gừ rớt xuống loảng xoảng. Gạch đá vôi vữa rơi rào rào, dường như ngôi nhà đồ sộ tự đào hố, để chôn tập thể dân lành di trú xuống đáy mồ. Thế nhưng sao tôi không thấy cánh cửa sắt trong lớp thứ hai chắc chắn nầy bung ra?
Cảnh ồn ào huyên náo, càng sôi sục, cồn cào náo loạn gấp ngàn lần trước. Kinh khủng! Kinh khủng trầm trọng! Người ta lại dày xéo lên nhau, dẫm đạp lên nhau, lôi kéo, giành giựt chỗ trốn, nên họ húc bừa vào nhau. Họ xô nhau chạy qua bên góc tường trái của cánh cửa chớp kín mít. Rồi bỗng dưng họ lại ùn ùn kéo nhau chạy qua bên phải. Bất kể đàn bà trẻ con ốm yếu, chết ngạt dưới chân. Bất kể tiếng la khóc, gào thét vang lên chát chúa. Tôi nghe thật hãi hùng rùng rợn, như nghe con dê, con heo, con bò, con trâu, con cừu bị chọc tiết, đang trợn mắt le lưỡi rống rú man dại trong khu lò mổ ở ba toa.
Có một người đàn ông trung niên sĩ khí, mặc áo sọc xanh, quần tây đen, dáng vóc khỏe mạnh, dù qua nhiều đêm âu lo thức trắng, và mái tóc nhuốm bạc. Ông ta thấy cảnh xô xát cuồng nộ, thật đáng xấu hổ kia, nên ông ta bèn nhảy lên mấy cái bàn gỗ chất đầy ghế dựa. Ông ta cầm trên tay một cái vồ, đánh rất mạnh vào chiếc trống trường học. Mọi người trợn mắt im bặt nhìn nhau. Họ lo sợ rợn tóc gáy, sửng sốt ngó quanh. Không biết chuyện gì xảy ra. Ở đâu? Ông ta kêu gọi mọi người cố giữ trật tự, im lặng ngồi xuống tại chỗ, không ồn ào chen lấn. Ông giải thích sự lâm nguy:
- Khi dồn nén xô đẩy, dẫm đạp lên nhau, ồn ào, không nghe được động tĩnh bên ngoài kia, thì chẳng khác nào: "Lạy ông tui ở bụi nầy", sẽ tạo cơ hội thuận tiện, cho Việt-cộng, đã đứng trên sân nhà thờ, họ sẽ phá một cánh cửa nữa, là tràn vào đây. Họ sẽ lấy dân làm bình phong đỡ đạn. Thì chết hết cả đám. Việt-cộng đang đứng rải rác trên sân nhà thờ. Tui đã thấy có người chết cháy đen thùi lùi ở trển.
Nghe thế, mọi người nhốn nháo, xì xào, dáo dác, tiếng ồn ào đồng loạt rộ to lên. Bỗng im bặt như ngọn đèn dầu phụt tắt trước gió. Mặt mày ai nấy xanh lè, tay chân run rẩy, họ cố bám bíu nhau lết nhè nhẹ đến gần chỗ khuất kín hơn, và im thin thít. Khi đó, tôi nghe bên dãy nhà của các mẹ dòng có những đọc đoạn kinh lạy cha và kính mừng, rồi nhiều tiếng hát nhạc thánh ca cầu xin bình an vang lên.
Gia đình tôi, và mấy gia đình bạn biết khôn hơn, chúng tôi không chen lấn đến chỗ đông người (mấy mẹ con chúng tôi hôm nay xui rủi sao, lại chui vào ẩn núp trong hầm nầy, không đi qua trú nhờ trong hành lang khu bệnh viện, như mấy ngày trước hỉ!? Thế mới đau khổ). Chúng tôi ngồi bệt dưới gầm bàn, nơi người đàn ông đang nhảy lên đánh trống, tiếng trống dù làm chúng tôi điếc tai nhức óc và choáng váng. Nhưng chúng tôi tránh được cảnh tượng xô đẩy vùi dập nhau, vô cùng dã man và ác ôn đó.


_ * _
Ái Ưu Du
#189 Posted : Thursday, February 14, 2008 4:44:43 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0




TAN HOANG

(Năm Mậu Tý 2008, nhớ về năm Mậu Thân 1968)




Trời se lạnh giữa lưng trời gom từng phiến mây bạc, ùn ùn bay bay dưới nắng vàng tươi rói, phơi phới hào phóng toả mùi hương hoa ngâu, hoa lý, hoa bưởi thơm thơm. Gió lộng vỗ vào hàng hiên bên giại nứa, phối hợp cùng bầy chim én ríu rít vút vút bay lên bay xuống. Nắng và gió lùa thi nhau đẩy khói lửa vào cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn.
Cho đến lúc chết, vẫn còn tranh chấp nhau kịch liệt những con đường nhấp nhô uốn khúc lượn sóng vòng vòng quanh co. Thèm những nấm mồ tiên tổ, những đồng bằng ruộng dâu đất đai phì nhiêu, cả những luống hoa muôn màu giàu đẹp, bao đồi thông ngút ngàn xanh um bóng mát. Cả mấy thi hài lõa lồ lắc lẽo, rửa nát tanh hôi chương sình, không trọn vẹn hình dáng ai, rơi rải rác bên vệ đường thành phố cao nguyên Lâm Viên, chưa có người kịp nhặt đi chôn.
Đứng trên một góc tầng lầu, nhà của ba má tôi đã bị sập gần hết nửa, trong nhà vắng tanh. Ba má và anh chị tôi đi đâu hết rồi? Có an toàn không?! Tôi lấp ló thụt thò, dáo dác len lén nhìn sang phía bên kia đại lộ Pasteur, đối diện nhà ba má tôi là cổng tiểu khu, chỉ cách một con đường, gần xịt. Việt Cọng đã dùng bangalore phá một góc rào. Một chiếc xe thiết giáp bị trúng ba quả B40, bốc cháy ngay trên đường Pasteur, sát cuối hông vườn nhà ba má tôi. Việt Cọng lẻn vào khu nhà xây gần Viện Pasteur, bắn vào tiểu khu. Nhưng không thiệt hại mấy. Kho Quân Tiếp Vụ bốc cháy sáng rực cả một góc trại. Khẩu đại liên 30 quạt vài tràng một hồi rát bỏng bâng quơ.
Tôi thấy có bốn thân thể cháy đen, mà có chín cánh tay, ba bàn chân, và những núm ruột người trắng hếu, dài lòng thòng còn vắt lắc lẻo, đung đưa trên hàng rào gạch kiêm hàng rào B 40 rung rinh nơi Tiểu-khu Đà Lạt. Ruồi bọ lúc nhúc bu đông đen, rồi vụt ù ù bay lên, khi có vài người rảo bước vội vã đi qua. Úi trời ơi! Mùi thúi thì thật hôi ơi là hôi kinh khủng.
Khiến hai phía nội thù xớn rớn chao đảo, giao động mạnh, điên cuồng dày vò nhau, và đau đớn cào xé lồng ngực cho con tim tôi nhô lên hụp xuống hơn. Những anh lính trong doanh trại Tiểu-khu vội vã chạy lui chạy tới, lăng xăng, bồn chồn làm cái gì đó, xem có vẻ cấp bách, cần thiết vội vàng lắm.
Có con chó hoang ốm tong ốm teo, nhô cao bộ xương sườn. Nó rón rén lủi đi kiếm ăn, con chó rụt rè ngơ ngác nhìn quanh. Rồi nó vội cụp đuôi vô háng, cúi đầu cắm cổ chạy đến bên mấy xác chết. Nó liếm liếm khúc đùi đen thui, và hếch mỏ lên... Trời ơi! Khúc ruột trắng hếu vắt vẻo trên hàng gạch đong đưa, khúc ruột dài ngoẵng chui thật nhanh vào hai hàm răng chó nhe ra. Tôi sợ dựng tóc gáy muốn xỉu! Tôi hãi hùng, kinh hãi tột cùng, hai đầu gối run rẩy va đập vào nhau lộp cộp, như người mắc bệnh parkinson, luôn tiết ra chất dopamine, khiến bại hoại tứ chi. Tôi run bần bật, ói ra mật xanh, mật vàng và toàn thân muốn rệu xuống.
Bỗng dưng tôi sực nhớ tới chuyện rùng rợn ở Tây Tạng, nơi thủ phủ Lhasa đến một vùng hẽo lánh kia, có tục lệ rất kinh dị khủng khiếp. Họ thường làm nghi thức rùng rợn kia từ lúc rạng đông: Họ lấy dao lóc thịt người chết ra từng miếng nhỏ, rồi cho kênh kênh ăn. Lại có nơi lóc thịt người chết vất cho cá ăn. Họ vạt một phần trên sọ, chẻ sọ người chết ra, để dùng sọ người làm chén ăn. Họ nghĩ hoả tang tốn than củi và tăng oxide carbone (CO) thì uổng. Thủy tang hại nguồn nước môi sinh.
Tôi lo lắng bò bò trên hành lang nhà nầy, và tụt xuống những bậc cấp, tất tả chạy rõ nhanh về nhà mình, vừa chạy vừa thở hồng hộc. Từ nhà ba má, tôi lo chạy bán sống bán chết vòng ra phố. Hai chiếc xe jeep ở khu Hòa Bình, bị Việt Cọng núp đâu đó bắn mấy quả B40, khiến hai xe bốc cháy. Tất nhiên là có anh em bên phe mình chết thảm rồi. Tiệm Hồng Châu cháy rụi, và mấy nhà lân cận ở khu Hoà Bình, đường Phan Bội Châu cháy khét, khói lửa còn toả ra mịt mù. Phố xá tan hoang, vắng như một thành phố chết. Mấy người Thượng thường hay bán hoa lan ở trên phố, đang khóc hụ hụ, họ nói:
- Khu Du Sinh trên cuối đường Huyền Trân Công Chúa, đã bị lửa cháy rụi hết, khiến nhà cửa tui tiêu tan. Mất hết! Kể cả gà chó ngựa và con người.
Tôi chạy riết về hướng Cẩm Đô, leo lên dốc Nhà Thương, chạy tắt về nhà. Tôi nằm vật ra giường, thở hồng hộc, mắt mở trừng trừng nhìn lên trần nhà. Thì ra, non vài giờ sau là cả đỉnh núi Lâm Viên tuyệt diệu xứ hoa đào thơ mộng, cũng không được chú ý bằng mỏm đồi khu Số 4. “Khu Số Bốn”! Đại danh ngữ ấy, mới thoảng nghe qua, đầy nồng ấm ngọt ngào mật thắm tình quê, dịu dàng êm ả thân thiết, chất phác, mộc mạc gần gũi như tính ngữ danh xưng. Thân thương làm sao! Nồng thắm trìu mến dường bao!
Ấy thế mà, suốt bao ngày qua chiến tranh tàn ác đang bám riết lấy nó. “Kẻ lạ” nhanh như sóc, len lỏi vào mọi ngóc ngách, mọi ngỏ nhà. Họ vụng trộm đào hầm hố, len lén trèo qua những hàng rào, lủi sâu vào vườn tượt. Họ leo trèo lên cây quả, thập thò rình mò dáo dác, rù rì to nhỏ, nhìn trước ngó sau, lấm la lấm lét như kẻ cướp cạn.
Trong khu Số 4 đó, đa số dân lành còn bị kẹt lại, vô tình làm bình phong, làm mấu chốt đỡ đạn từ hai phía. Chiến tranh không tốt đẹp gì. Chưa thể phân định đâu đúng đâu sai, đâu là điều hay lẽ phải, đã vô tình loang ra cuộn sóng thần, cào từng dòng máu chảy ruột mềm.
Chiến sự không tốt đẹp gì. Phía Việt Nam Cộng Hòa chưa thể ra tay! Nếu đề phòng trước, không bị bất ngờ, và có đầy đủ đạn dược, vị tất họ chẳng nhường cho ai tất đất. Chứ lẽ nào chính phủ Việt Nam Cộng Hoà lại để cho “người lạ” tự do ra vào tranh phần lãnh thổ của riêng ta, để thao túng. Họ ngang nhiên vi phạm quy ước hiệp định “The 1954 Geneva Cease-fire Agreements” đã ấn định, là chia đôi đất nước Việt Nam ra làm hai phần: miền Bắc – miền Nam tách bạch riêng rẽ. Lấy cầu Hiền Lương, vĩ tuyến 17, và con sông Gianh làm chuẩn mực. Chia lìa quê hương - Ngăn cách đôi bờ xót xa, tủi nhục. Thì, Không ai có quyền xâm phạm lãnh thổ của ai.
Ấy vậy mà, làm động mồ động mả, động cả thánh thần muốn yên nghỉ giấc nghìn thu trên bàn thờ, cũng bị dựng đứng dậy! Động những ngôi cổ mộ tôn kính từ lăng Nguyễn Hữu Hào xa xưa, tít trên triền núi Cam Ly Thượn chạy dài xuống nghĩa trang khu Số Bốn. Nhất là hương hoa đèn nến nghi ngút đang toả ra trên các chùa chiền, am tự, nhà thờ, đình đám hội hè, nhà nhà cư dân yên ấm vui vẻ trong ba ngày Tết linh thiêng ấy, cũng bị thảng thốt bốc cháy rụi tàn.
Cứ thế bên thủ bên nằm, hoặc quân đội Việt Nam Cộng Hoà tiến lên từng bước, từng bước… tiến vào cửa ngỏ chiến cuộc. Dân thị thành Đà Lạt bị cô lập mọi mặt, mọi ngã đường. Lính ngao ngán mỏi mòn chờ đợi lệnh tổng tấn công… Từng đường máu cộm phồng co giật bên mang tai. Lính Bộ-Binh, Biệt Động Quân nằm ép bụng sát đất, xã láng cuộc đời trên những thăng trầm đen đỏ số phận, xây dựng tình yêu trên hoang tàn quê hương đổ nát. Mặc bao mưu toan đen đỏ trong cơn lốc chính trị lịch sử dùng dằng đẩy đưa, đầy cay đắng nầy.
Cả bầu trời Đà lạt muốn thu gọn lại trong chiếc máy xay sinh tố kêu rít rít ù ù quay lông lốc, diếc cả tai. Dù lính có kế hoạch quy mô, có sách lược điều quân, và nguyên tắc phối hợp hành quân chung, từ lăng kính thuần tuý quân sự. Nhưng bắt buộc quân nhân phải uể oải nằm ù lì trên đất cỏ, chờ lệnh trên.
Suốt ngày đêm, loa phóng thanh trên phi cơ chĩa xuống đất, kêu gọi người dân còn mắc kẹt giữa hai lằn đạn, hãy cố gắng di tản ra khỏi mục tiêu quầng thảo. Trực thăng bay lượn chậm chạp, từ trong lòng phi cơ tung thả vô số truyền đơn xuống đất, che mờ cả một góc trời miền núi. Quân đoàn II gửi một Tiểu Ðoàn Biệt Ðộng Quân. Tiểu Ðoàn của Trung Ðoàn 53 Bộ Binh tăng cường cho thị xã Ðà Lạt, để tiêu diệt tàn quân nấp trong Khu Số 4.
Bầu trời bao la quá trống trải, trực thăng bay lừ đừ như con chuồn chuồn ốm, dễ làm mục tiêu cho các họng súng cối dưới đất, nghe đâu ở nơi xa xa, dựng đứng từ dưới đất chĩa thẳng lên trời, bắn từng phát đùng đùng đùng… (nghe về hướng khu Số 6 hay Tùng Lâm thì phải). Thỉnh thoảng có nhiều tiếng súng rời rạc. Và Ùm… ùm… Ầm ầm… cắt… bụp… xè… rào rạo. Thật chói tai dễ sợ.
Thế mà đằng góc trời nầy, mấy chú chuồn chuồn sắt cứ điềm nhiên, tỉnh bơ lượn qua lượn lại trên đầu chúng tôi. Dường như họ coi đó là chuyện nhỏ, khi cơn binh lửa bừng bừng thổi về! Chả có gì quan trọng. Vì, phi vụ của họ là để ủy lạo đồng bào, chỉ dẫn cách di tản, dùng truyền đơn từ trong lòng phi cơ vừa rải xuống đất, như tấm giấy phép có hiệu lực, để mọi người dân còn mắc kẹt trong khu vực Số 4, Số 6 bị tạm chiếm, dân có thể ra an toàn khỏi vùng phong tỏa. Đồng thời loa trên trực thăng vẫn kêu gọi hàng binh ra đầu thú, thì sẽ được chính phủ Việt Nam Cộng Hoà khoan hồng ưu đãi. Quân đội Việt Nam Cộng Hoà biết cách điều quân trong khu đông dân cư. Họ luôn khuyên "Vi ci":
- Hãy buông tha người dân vô tội đi. Hỡi các ông ác ôn.
Đối phương chiếm nhiều căn nhà chắc chắn, dùng làm nơi đặt "cơ quan liên lạc" chỉ huy. Có nhiều thanh niên bình tĩnh khôn ngoan, kiên cường trốn đi khỏi vùng số 4, số 6. May thì thoát ra, đã hổn hển kể lại:
- Việt-cộng đông lắm. Chúng tôi cố tìm mọi cách thoát thân. Nếu không may, thì bị ai đó… bắn “cái đùng”. Họ tự động tổ chức nhân sự bị kẹt lại, thành từng tổ tam tam. Họ vừa xoa, vừa tuyên truyền, vừa đánh, kích động tâm lý trong lòng “kẻ bại”!? Dân đen khuân vát đất đá, đào hầm hố trú ẩn, rất cực khổ. Họ phải chặt cây, đào hầm hào kiên cố, hầu trốn bom đạn chiến tranh, mà bị nhịn ăn. Vã lại ở trong vùng tạm chiếm nầy, làm gì có họp hành chợ búa đâu, mà có thể mua lương thực ăn uống hỉ! May mà trong vườn của chúng tôi còn rau, củ, nên ăn rau cải cố sống còn, cầm cự qua ngày.


_ * _
Ái Ưu Du
#190 Posted : Friday, February 15, 2008 8:35:13 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0



CƠN BINH BIẾN

(Năm Mậu Tý 2008, nhớ về năm Mậu Thân 1968)




Mấy con kiến dương, con cánh cam từ đâu bay vù vào tầng hầm đã bị bể những ô kính, chúng liệng đi liệng lại vài vòng, rồi đâm sầm vào vách tường đá, nghe cái "cộp". Chúng cố tìm chỗ thoát ra ngoài đêm tối, nên bò đi bò lại trên vuông cửa bể, lớp vỏ cứng bóng láng, ánh lên màu xanh biếc, lẫn màu cánh cam lóng lánh xoè ra, phủ hai cánh bên trong mỏng te, có nhiều sợi gân nổi trên lớp vỏ mềm mại khép dần, rất duyên dáng hài hòa.
Ngày ấy, tôi ưa ngồi dựa lưng vào cây thông chạc hai, chạc ba, rình bắt cho bằng được con cánh cam, và bụm nó ở trong hai bàn tay, khum khum mà nương nhẹ, nâng niu. Tôi đung đưa đôi chân trên thân cây thông lùn, thân cây thông tách chẽ ra làm đôi. Tôi nhìn lên bầu trời xanh lồng lộng gió, nhìn chiếc máy bay lượn trên cao. Bàn tay tôi lướt nhanh, đan áo thật đều, thoăng thoắt. Tôi hy vọng hão huyền, vui vẻ hát nho nhỏ những bài tình ca.
Nay có nhiều phi cơ không nhìn thấy rõ, vụt bay trên bầu trời, qua khung kính bể dưới vòm mái cao. Thì, câu chuyện hứng khởi về các kỳ công, thành tích của chiến binh giàu kinh nghiệm chiến trường, thường là đề tài bàn thảo đầy hấp dẫn, hứng thú, nuôi dưỡng trong lòng người dân đen niềm sung sướng, hứng khởi và kiêu hãnh khác thường, khi chúng tôi đang ăn không ngồi rỗi ở dưới tầng hầm nầy.
Mỗi ngày chúng tôi bồng bế con, cùng nhau đi ngang qua tiểu đoàn lính trấn thủ thị xã. Tôi ngẩng nhìn các chiến sĩ trang bị khẩu M 16, chiến xa M 48, trọng pháo cơ động. Họ nằm lăn lóc bên nhau trên các nẽo đường, dưới ngọn đồi chiếm đóng, trên cành cây còn ngái ngủ. Người choàng áo ca pốt ngồi sưởi lửa, hong đôi bàn tay sạm nắng trên bếp than hồng, từ những trái thông khô xẹt tia lửa ly ti nổ tí tách. Cành lá thông tươi chất thêm vào lửa, tỏa ra mùi nhựa thông thơm hăng hắc, nhưng thật dễ chịu. Họ hong lửa xua tan bớt gió rét. Giá lạnh ban mai, làm tê cóng người lính phong sương dãi dầu mưa nắng.
Bản tính chiến sĩ, đa số thích phóng khoáng, tự do, hăng hái, nhiệt thành. Thời gian lạnh lùng nghiệt ngã trôi qua, họ không tính bằng gian lao cay cực, khó nhọc, hạnh phúc hay hoài bão, ước vọng. Dù mùa hạ tới, thu đi, đông về, xuân đến... Thời gian lạnh lùng trôi qua, đời chiến sĩ phong sương, dãi dầu nắng gió khuya chiều, không gian bàng quang chả nương nhẹ đôi tay phũ phàng, cay nghiệt, và buốt giá. Niềm nhớ thương da diết mỗi lúc một hao gầy, trong đớn đau thầm lặng. Khóe mắt lính choáng đọng huyết lệ bi ai trong cảnh tương tàn quyết liệt. Chiến sĩ ấy chấp nhận chết ngoài sa trường vì quê hương, vì dân tộc, thì có sá gì cái lạnh rét run run ngoài da. Nhưng chiến sĩ ấy đã chết lịm trong lòng vì cảnh huyết nhục tương tàn. Thật là vô nghĩa.
Lần đầu tiên, vấp phải sức kháng cự không tương xứng với đối phương, các chiến binh không dám ra tay càn quét cộng quân. Bởi vì, nơi vùng sẽ giao tranh tại khu Số 6 và khu Số 4 nầy, còn kẹt lại khá nhiều người dân vô tội trong tầm tay chiến tranh kềm tỏa. Khiến anh chiến sĩ có chiếc nón sắt rộng, thỉnh thoảng úp xuống tận mũi, che cả cằm đến nồng ngộp nghẹt thở, hơi mỏi mệt, ngỡ ngàng, và bồn chồn sao ấy.
Lính nằm ngửa trên đám cỏ bồng, chờ đợi quyết định của chính phủ, anh bực tức, vát súng đi lui đi tới đứng ngồi không yên. Người lính chiến biết nghe đạn xoáy rít bên mang tai ù ù, mà không có mũ sắt đội đầu thì đời đi đong. Anh biết bổn phận làm trai, phải trả nợ núi sông. Họ gồm đủ mọi thành phần phong tục khác nhau, đã sống trên miền đất quê hương khác nhau, với hoàn cảnh gia phong, và ước muốn còn khác xa nhau hơn. Họ lũ lượt kéo nhau lên đây, quyết giữ gìn thành phố nhỏ nên thơ, và quê hương Việt Nam, khỏi cảnh chiến tranh huyết thống xâm lược nghịch lý hung tàn.
Khi vấn đề chiến tranh thật sự phức tạp, làm điên đầu các vị nguyên thủ quốc gia. Người khôn ngoan, (của người khôn ngoan nhất), bình tĩnh sáng suốt, có lập trường dứt khoát, kiên định, giành lại từng tất đất, từng thành phố. Tất nhiên họ nhanh chóng đánh đuổi “bè lũ khát máu” đi khuất dạng (mỉa mai thay người dân da vàng mũi tẹt, đầu đen máu đỏ, sống từ Ải Nam Quan đến mũi Cà Mau). Nay từ phương Bắc họ lại chuyên mò mẫm, xâm phạm qua vĩ tuyến 17, để xâm lăng phần đất của miền Nam Việt Nam. Gây nên cảnh chiến tranh tàn khốc, chém giết. Nồi da xáo thịt quá kinh hoàng thế nầy ư!
Dân chúng nhìn chiến cuộc xảy ra rất gần, với vẻ tò mò nhút nhát, hiếu kỳ không chịu nỗi. Phải! Bên muôn nấm mồ tàn rụi hương nhan, là sự gặp gỡ giữa trùng trùng lớp lớp khuôn mặt lạ xa, hiện diện trong cuộc chiến phức tạp, thật quá cay đắng nầy. Lính Cọng-hoà miền Nam Việt Nam cần mang đến cho ta niềm tin yêu. Hy vọng bừng sáng, nụ cười rộng mở, ước mong an bình, thư thái, từng ngày, từng giờ, lẫn trong chung cuộc sớm kết thúc. Dù chắc chắc không hứa hẹn an thư dễ chịu chút nào.
Hai giờ chiều, lính Bộ Binh Việt Nam Công Hoà mặc quân phục màu xanh, chân đi giày botte de saut, đầu đội nón sắt, lưng đeo đầy đạn, ngực móc hai quả lựu đạn. Họ mang súng máy lên đạn trên nòng, lăm le chĩa mũi súng về đằng trước, ngón trỏ đặt trong nòng. Quân đội nhanh chóng tràn lên khu đồi Domain, chia ra bọc hết khuôn viên nhà thờ.
Sau cùng họ vào hầm trú đang chứa lương dân. Họ đi một vòng lục soát mọi cửa nẽo, ngỏ ngách, xó xỉnh. Rồi lính giàn thành hai hàng ngang, cấp tốc cứu nguy những người bị thương, chết nghẹt, hoặc đã chết. Họ làm việc gọn gàng và nhanh thoăng thoắt.
Tất cả dân chúng ở trong căn hầm nầy đều im phăng phắc. Chả bù cho lúc nãy căn hầm ồn ào muốn đinh tai nhức óc. Vị sĩ quan chỉ huy dõng dạc kêu từng gia đình ở trong hầm, hãy xếp thành hàng dọc, từ từ từng tốp một, bước chầm chậm từng người ra ở ngoài khu chỗ trống, tại trong tầng hầm.
Khi vị sĩ quan đã đếm tất cả đầu người trong hầm xong, ông ta bảo cánh đàn ông thanh niên, thiếu nữ, tuần tự đi qua bên góc trái căn hầm. Từng người một riu ríu trình báo giấy tờ tuỳ thân. Ông già bà lão lụm khụm và trẻ con thì đứng qua bên phía phải, theo hướng chỉ của lính tùy viên.
Lính yêu cầu những đàn ông trai tráng nam nữ và đàn bà không có con thơ bận rộn, ở trong hầm của nhà thờ, sau khi trình diện, thì làm ơn vui lòng giơ hai tay đan lại, để trên đầu, hay ôm ra sau cổ. Tiếp theo từng người một đi ra khỏi tầng hầm của khu nhà thờ Domain.
Đồng bào đi giữa hai hàng quân lính đông đúc, nghiêm trang đứng bồng súng gát ở ngoài sân. Mọi người tay xách tay mang. Tay bế tay bồng. Họ lục tục ríu rít và trật tự kéo nhau ra cửa. Họ chạy xuống ngồi bên cạnh hang đá Đức Mẹ. Hoặc họ bò từ từ xuống chân nhà thờ, lủi nhanh về hướng Cẩm Đô. Hay họ chạy qua lối bệnh viện Đà Lạt.
Ái Ưu Du
#191 Posted : Saturday, February 16, 2008 3:53:46 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0



TUỘT DỐC


(Năm Mậu Tý 2008, nhớ về năm Mậu Thân 1968)




Giữa khoảng trống của muôn ngàn quả đạn gầm thét, gào rú trên đỉnh đầu mọi người. Những giọt nắng vàng anh lấp lánh trên mình chú én ríu rít lảnh lót đem lại mùa xuân mới. Én làm tổ dưới tán lá vòm cây nơi góc dòng Domain duyên dáng. Én cùng nhau bay lên bay xuống vun vút, rù rì vui vẻ, chuyện trò thân mật huyên thuyên những âm quen. Chúng líu lo trao đổi câu chuyện ưu ái, đầy tình âu yếm yêu thương trong đại gia đình xiết đỗi bảo vệ luyến lưu đùm bọc. Khúc trường ca lả lướt bất hủ, lảnh lót đủ mọi giọng điệu hân hoan.
Chim én chào đón bình minh run rẩy, bàng hoàng thao thức suốt canh thâu. Chào đón ngày đầu xuân tha thiết, quyến rũ, dịu ngọt an hòa đã đến. Yên vui. Hạnh phúc tuyệt đỉnh tự do tung bay trong bầu trời rộng thênh thang, mà loài én vẫn hằng trân quý.
Khi những kẻ xâm lăng thành phố thơ mộng, đặt chân vào miền đất hiền hòa nầy, bên ngoài súng đạn bay luôn bay vèo vèo, ầm ầm, đùng đùng trên đầu nhân thế. Xế trưa, vùng đồi núi Domain bị súng đạn đến thăm. Con người gây ra chiến tranh thật phi nhân, phi đạo đức.
Một tay bế con trai Tuấn vừa ba tháng tuổi, khuỷu tay tôi lại kẹp chặt cánh tay bé Dzũng, lôi con xềnh xệch ba mẹ con chạy ra ngoài sân nhanh đến thế! Không biết làm cách nào, mà tôi kéo thêm hai giỏ xách đồ dùng, giỏ thức ăn nặng trĩu to tướng? Tôi kẹp chặt cánh tay bé Dzũng, lôi con tuột dốc đồi xềnh xệch theo mình!? Hai tay tôi quắp hai đứa con nhỏ vào lòng, và cả "gánh” thức ăn, đồ dùng nữa. Quả thật tôi tài tình.
Từ trên dốc đồi cỏ Domain cao gần như thẳng đứng, tôi ngồi thụp xuống, hai chân chuồi thẳng về trước, lăn như khúc cây tròn. Trước khi tuột dốc, đầu tôi trùm khăn, tôi mặc hết ba bộ đồ, với áo len lông xù, áo manto, nên ai cũng có thể nghĩ là tôi mập ú tét. Toàn thân tôi toát mồ hôi hột giữa nắng xế oi ả, vì tôi lạnh già vì sợ run. Chân tôi mang bít tất, chiếc giày thấp run lẩy bẩy trong cổ chân. Còn chiếc kia bay mất lúc nào không rõ. Năm chiếc quần mỏng vướng móc vào thép gai, đã rách toạt ra tự bao giờ.
Khi cùng những người khác ngồi yên ổn dưới hang đá, lúc đó tôi cảm thấy đau nhức rần rần ở hai mông. Rờ tay vào, tôi mới biết là mông tôi bị chảy máu khá nhiều. Một bàn chân rơi mất chiếc giày, tôi đã đạp lên xác chết ở trên sân nhà thờ. Chiếc tất trắng nõn dính đầy máu tươi. Ui trời ơi! Tôi sợ mất hồn, mất vía.
Tôi đã thấy hai xác người trợn mắt phơi thây lúc nãy mà. Có một ông co quắp. Một ông nằm ngửa tênh hênh trên vũng máu. Chiếc áo màu cải úa chỗ thâm đỏ, chỗ tím bầm. Khô đọng. Ruồi bu đen nghịt trên thân. Cạnh đấy có hai cây khiêng bằng tầm dông, luồng qua lớp võng vải bố, loại bố của bao gạo. Họ dùng mấy thứ nầy làm đòn tải thương, Có lẽ vừa đến đây họ bị chết. Bà nội (của các con tôi), mặt mày hốc hác, bà đờ đẫn, mắt đã lạc thần. Bà muốn chết đứng, tay chân bà lắc lư đung đưa run rẩy như cầy sấy. Tay bà ôm bình thủy đựng đầy nước sôi, bà chạy theo đoàn người sơ tán. Bà sợ việt cộng kinh khủng. Sợ quá chừng! Bà đã bỏ quê hương tận ngoài miền Bắc, bỏ làng xóm thân thương, bà vất hết của cải, bà chạy bán sống thừa chết từ Bắc vào Nam. Bà trốn tránh họ bao năm nay. Bà sống hiu hiu mong an vui nhàn hạ đôi chút cho qua kiếp già. “Tân niên vạn phúc bình an đến. Xuân nhật vinh hoa, phú quý lai”, cho khỏi bỏ những ngày lao đao lận đận nơi quê xưa. Bà tưởng thoát nạn, tưởng đã yên ổn tấm thân còm. Bà sẽ hạnh phúc nhờ “phước thâm tự hải, lộc cao như sơn”, do ông cha cố tổ của bà ưu ái để lại.
Nào ngờ... giờ đây họ đùng đùng xách súng đến bên đít, đuổi bà vắt giò lên cổ mà chạy có cờ! Bà ngồi thụp xuống đất, giống như em bé lên sáu tuổi chơi trò cầu tuột. Bà xoạt hai chân lướt phom phom trên đồi cỏ. Bà bị té nhào hai ba vòng, đầu bù tóc rối xổ ra dài lết thết trên đất cỏ. Tôi sợ thắt họng, tưởng bà sẽ bị u đầu bể trán chảy máu, hay ít ra cũng gãy cần cổ, lặt lìa lặt lọi tay chân.
Ấy thế mà bà tỉnh bơ không việc gì. Bà chỉ hốt hoảng dáo dác nhìn quanh, đau khổ lo sợ tột cùng, không sao chịu thấu nỗi. “Sông sâu có thể bắc cầu. Lòng người nham hiểm, biết đâu mà mò”. Vì, “Thà rằng chả biết cho xong. Biết ra, như xúc, như đong lấy sầu”. Bà than như thế! Tôi phải kính phục bà mẹ chồng vô biên, vì bà thuộc về lớp người từ thế kỷ thứ 19, nhất là ở nơi vùng quê Hưng Hiền tận ngoài Yên Mô miền Bắc, mà thuở ấy bà đã được bố mẹ cho bà đi học chữ quốc ngữ. Bà viết chữ thông thạo, đọc chữ làu làu. Bà nói những câu văn hoa tinh tế. Nhất là bà hát những câu ca đồng dao, quan họ trữ tình luyền nhớ quê hương, thì hay hết biết.
Chiếc bình thủy vỏ mây mà bà đang ôm trên ngực, bị bể tan, nước sôi chảy ra, hơi nóng bốc lên từ đám cỏ hoa vàng không tên, tàn úa héo dần. Ấy vậy, thật may mắn bà không bị phỏng nước sôi.
Xin cám ơn Trời, sau khi bà cháu mẹ con chúng tôi an toàn tuột dốc Domain De Marie nầy.

_ * _
Ái Ưu Du
#192 Posted : Saturday, February 23, 2008 1:24:03 PM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0



KHU SỐ 4 - ĐÀ LẠT

(Năm Mậu Tý 2008, nhớ về năm Mậu Thân 1968)




Cành cây dại không tên cọ xát vào nhau kêu kẽo kẹt, vang trong gió chiều, lùa theo tiếng thông reo vi vu. Ngoài mấy chiếc lá vàng khô xào xạc, cuốn theo gió hững lờ bay bay, thì thành phố Đà Lạt bây giờ lại thật im lặng. Nắng hanh vàng yếu ớt lọt qua đám mây ngà, chiếu lên lớp lá thông ẩm lạnh, gom lại thành từng đống, loang lổ, mờ nhạt, nhảy nhót trên mặt đất lởm chởm, nhăn nhúm như tổ ong.
Lâm bế bé Hai, anh cho con đứng trên lan can nhà, anh gọi tôi ơi ới:
- Tí Nị! Em đến đây xem. Nhanh lên.
Anh đưa tôi cái ống nhòm. Cả bầu trời chiến đấu đang thu gọn trong hai ống Field-glass xinh xinh. Tuy trông ở mắt thường thì quá xa, nhưng nhìn vô ống ngắm thì tôi thấy rõ mồn một. Vài xác chết trần truồng không hiểu là ai, sình to, chương phình lên. Bầy chó hoang ốm tong ốm teo nhô cả bộ xương sườn, chúng vồ vập, cào cào, bới bới đống bầy nhầy máu thâm.
Tôi đã chứng kiến con chó hoang nhai một khúc ruột người chết thúi, hôm ở bên hàng rào Tiểu khu, nên tôi lại xanh mặt cảm thấy sợ hãi bầy chó, và buồn nôn kỳ lạ. Một người khác bị hất lên cao, thịt xé ra từng mảnh nhỏ, rồi rơi phịch xuống đất, nửa thân dưới của ông ta nằm bất động trên luống cải hoa vàng, cổ chân trái cột dính cuộn băng vệ sinh phụ nữ, còn thấm đỏ máu tươi loang lổ từng đám.
Tít sau góc vườn nhà ai, có ba em bé lăng quăng chạy lui chạy tới, tìm kiếm cái gì đó. Chúng chụm đầu vào nhau rất lâu. Ôi Trời ơi là… tôi sợ thay cho các em. Ấy thế mà các em không hề biết lửa đạn chiến tranh là gì. Các em đang chia nhau một cái gì đó, hình như là củ khoai lang, hay miếng bánh mì, để ăn ngấu nghiến. Một lúc khá lâu, có một người đàn bà đầu bù tóc rối tất tả chạy ra, bà lôi tuột ba đứa nhỏ vào trong góc tường, khuất tầm nhìn. Khu phố Số 4 lại vắng teo như bãi tha ma.
Từ thành phố Đà Lạt nhìn về khu Số 4, qua nhiều mái đầu lô nhô, bên hố lỗ hầm hào đắp vội, mấy đám cháy bỗng nhiên bừng lên, phừng phựt cháy. Không biết tại sao!? Lửa đỏ chói lấp lánh ánh mặt trời đỏ au long lanh tưng bừng nhảy múa. Khói lửa bốc cao trên đầu ngọn thông, tạo thành cây nấm lửa, khói đen nghịt oằn thân cây kêu răn rắc, nổ lép tép, cháy xì xèo trụi cành lá, cây cối vật vã xô qua xô lại, tàn tro và nhiều đốm lửa bay lông lốc theo chiều gió xoáy mạnh. Gió ào ào thổi hơi nóng hừng hực, rực sáng ánh vàng xanh ngũ sắc lên cao.
Lửa phừng phựt toả rộng ra hình cây nấm đen khổng lồ, táp vào mặt mọi người đang đứng lố nhố nơi các ngỏ đường, trong thành phố càng nhốn nháo. Chộn rộn. Tíu tít. Nóng rát bỏng mặt muốn lột da. Tôi cảm thấy rùng mình ớn lạnh run run, hai cánh tay rung rung, như cánh con gà rù. Dường như đầu mùa xuân thắm ấm áp, mà tôi chợt lạnh run trong cơn sốt rét da vàng cao độ, lan ra từ hai ống quyển run rẩy va đập vào nhau bồm bộp.
Tiếng nổ lốp đốp liên hồi chẳng dứt, nghe thật chỏi tai. Độ nóng, khói đen nghịt tỏa lan dài ra cùng khắp bầu trời u ám. Mùi thối. Mùi vỏ xe cao su cùng gỗ ván trộn lẫn mùi khét, mùi lông da heo, chó, gà vịt, mùi mỡ khét, mùi nhựa hỗn tạp, lùa theo gió cuốn về thành phố, hôi kinh khủng. Hôi kỳ lạ không sao chịu thấu.
Nhưng, mùi tử khí và mùi chiến tranh thì an nhiên ngủ nghỉ, dừng lại ở khu Số Bốn nầy miết mãi. Làm cháy rụi biết bao ngôi nhà đồ sộ. Làm rợn gáy người nhìn. Làm héo úa những hàng hoa mimosa. Làm đen thui giàn bầu bí. Cháy rụi bao hàng rào dâm bụt. Héo tàn từng bụi hoa dã quỳ, hoa bìm bìm tim tím cong cong.
Mọi người cố nhón cao chân, giương to mắt nhìn về hướng đi Lạc Dương. Họ đứng đông nghẹt trên chỗ cao nhất của khu Domain. Khu Bệnh Viện Đà Lạt. Dinh Một. Khu Lữ Quán Thanh Niên. Người ta leo lên tháp chuông giáo đường Domain. Trường Tiểu Học Đa Nghĩa. Nhà Thờ Tin Lành ở trên đường Hàm Nghi. Họ đu đeo cả trên cây cổ thụ tại Chùa Linh Sơn. Chùa rất gần khu số 4, thế mà họ chẳng biết sợ súng đạn vô tình lạc tới a?
Việt cọng chiếm các nhà cao ốc kiên cố, họ núp trên la phông, trên những ô cửa sổ tò vò bắn sẻ. Họ dùng nhà dân để làm chủ chiến địa. Mục tiêu giao tranh quá cận với cư dân. Nên đơn vị tiền sát của quân đội Việt Nam Cộng Hoà chiến đấu khó khăn, và không thể xin pháo binh yểm trợ lúc tiến quân. Không tạo được vòng đai an toàn, hầu ngăn chặn địch trà trộn vào vùng dân cư đang sinh sống. Người ta đành bất lực nhìn khu Số 4, khu Số 6, Tùng Lâm, Dòng Chúa Cứu Thế, chìm dần trong bóng tối kinh dị. Mọi người bàng hoàng, ngẩn ngơ nhìn tai hoạ ác ôn đổ lên đầu bao gia đình vô tội, không kịp chạy thoát thân. Nét mặt cư dân thị thành đầy lo lắng. Đau đớn. Thương xót. Bối rối. Hoảng hốt. Bủn rủn run sợ tột cùng điếng đau.
Ôi! Thảm thương thay cho người dân hiền ở khu Số 4, khu Số 6 quá! Người dân cùng cư thừ mặt ra không chút cảm giác. Không một lời. Hầu như hoàn toàn im lặng, họ giương to mắt nhìn về nơi lâm nguy. Mặt mày ai nấy đều hốc hác, âu lo tột cùng trong nỗi sợ hãi hoá ra xanh chàm, hết cỡ màu chàm. Sự khiếp sợ hãi hùng đang dâng trào lên tột đỉnh đau thương. Chiến tranh cúi xuống hành hạ, cưỡng bức mọi thứ tan hoang trên chính quê hương chúng ta. Người dân đen biết lấy gì chống đỡ, khi chiến tranh cúi mặt quét mắt qua tầm nhìn?
Lâm và tôi cứ luôn phiên chộp lấy ống nhòm. Đúng bảy giờ sáng, thì quân lực Việt Nam Cộng Hoà mang súng phòng lưu, tiểu liên M.3AL giàn trận thành hình cánh quạt. Các sĩ quan và binh lính người mang súng colt 45 chỉ huy. Người đeo súng M 16, súng rouleau. Người cầm bản đồ, máy vô tuyến PRC 25. Họ đi từ các nơi:
Khu Hoà Bình xuống đường Minh Mạng. Từ đường Cường Để qua Phan Đình Phùng. Từ suối Cam Ly qua ngả Hoàng Diệu. Từ Viện Đại Học xuống lối Bùi Thị Xuân, là những điểm quân ta bắt đầu xuất phát. Quân đội tuần tự chia nhau đi lục soát khắp mọi nơi tình nghi, dọc theo các con đường chính kể trên. Sau đó họ bọc hông lên khu Bạch Đằng.
L 19 luôn bay lượn trên trời, trực thăng chĩa loa phóng thanh xuống dưới đất, phát ra đoạn băng ghi âm. Không ngớt hướng dẫn, kêu gọi đồng bào:
- … Hãy tìm chỗ an toàn lẫn tránh lằn đạn giao tranh. Từ giờ phút nầy thiết quân luật 24/24 giờ, chỉ bắt đầu ở ba khu Số 4. Khu Số 6. Khu Bạch Đằng.
Như thế đủ biết chính phủ quyết dồn mọi khả năng và nổ lực vào chiến lược, chiến thuật, và sách lược điều quân thuần túy quân sự nầy. Họ lo sợ cho đồng bào bị kẹt lại rất nhiều. Trên trời L 19 thám thính liên tục. Trực thăng bay lượn như chuồn chuồn, không ngớt thả những tràng róc két viu viu viu…, xịt xịt xì xịt…, pằng pằng pằng… Oằm! Ùuum… Bùuum! nòng đạn toé lửa trải dài dài xuống mục tiêu. Không gian rào rạo tiếng đạn trái phá xíu xít xì xịt, đùng đùng đùng… Ấm ầm ầm…. quái đản. Ùmmm! Bom lửa Napalm, đại liên từ hai chiếc trực thăng bắn roóoc… roóoc roóoc… Pằng pằng pằng… Tạch tạch tạch… Oằng! Trút xuống khu Số 4.
Súng nổ dưới đất ầm ầm rền vang, đảo điên hơn ngày núi lửa bùng phun nham thạch. Mặt đất khu Số 4 nóng bỏng kêu oc ọc oọcc… ục ục ục… nhô lên hụp xuống, nhấp nhô rung chuyển dữ dội bởi súng lớn, súng nhỏ, súng cối, súng trường. Xe tăng bọc sắt. Lựu đạn, đạn cay, đạn khói, đạn ói, đạn mửa. Ác chiến. Súng đạn nổ rền vang trời long lở đất. Khói đen nghịt từng cuộn khổng lồ như cây nấm phù thủy múa máy. Lửa đỏ rực cuồn cuộn bốc lên thấu trời xanh, cháy lan ra từng vùng khá rộng, nổ lốp đốp suốt mãi. Nhiều mùi hôi thối, khét lẹt nồng nặc lớp lớp lại bay về phố. Sức nóng hừng hực theo hướng gió xô về rát phỏng da.
Phía khu đất trống nho nhỏ trên đỉnh đồi nầy, phi cơ tải thương binh đáp xuống, cánh quạt xoáy tít mù. Vài quân nhân và hai thường dân bị thương, cúi cúi co mình leo lên phi cơ, máy nổ ầm ầm, cánh quạt quay vun vút. Phi cơ vụt bốc thẳng lên cao, bay về hướng phố. Chiến tranh tàn sát ghê gớm, đã san bằng, cày xới, đào bới khai quật, lật tung không biết bao nhiêu là mồ mả ông bà cha cố, tổ tiên trong nghĩa trang Số 4. Các thây ma đã muốn yên giấc nghìn thu vĩnh viễn. Ấy vậy mà hỡi ơi! Nào được an ổn tấm thây khô cho! Nhiều ngôi nhà trong khu Số 4 nầy bị cháy rụi, người chết ở khu Số 4. Khu Số 6, và khu Tùng Lâm, Bạch Đằng chưa kiểm toán nỗi.
Nửa ngày sau khi tàn chiến cuộc, thì cư dân ở Đà Lạt nườm nượp chạy đi, rối rít ùn ùn kéo nhau đi xem khu Số 4 bị tàn phá, người ta ở đâu tụ họp lại đông quá chừng chừng. Tôi chạm trán với một người đàn bà gốc Ấn. Bà nầy có tiệm mỹ phẩm ở ngay khu Hoà Bình, bà có ông chồng đứng bán hàng vui vẻ luôn miệng ca hát. Đôi mắt màu tro đen tuyệt đẹp của bà lộ ra ngoài cái mạng che mặt. Toàn thân bà ẩn dấu trong bộ áo jellaba mầu xanh lục lụng thụng, dài từ cổ xuống tới gót chân, nhiều lớp vải che kín mít thân bà, chiếc khăn voan mỏng cùng màu từ trên đầu bà, phủ lết bết xuống hai bàn chân mang đôi dép thấp, có quai dây cột chéo lên quá mắc cá.
Một đứa con trai nho nhỏ ngồi bệt trên vĩa hè, đang khều khều bàn chân ngăm đen của bà, khiến bà sợ hãi né tránh và toan hét lên. Nhưng khi bà thấy nó ngước đôi mắt van lơn, và chìa bàn tay đen đen run run ra bà xin tiền lẽ. Bà ta thọc tay vào một bên hông, tìm mãi bà mới mò được cái túi áo. Bà ta ngọ ngoạy bên trong, bàn tay cộm lên trong lớp vải một hồi lâu. Bà ta e dè cúi xuống đưa cho thằng bé một nắm xôi đậu xanh. Rồi bà ta nhìn trước ngó sau và lẫn vào đám đông, bà chen lên lề đường đi về hướng Phan Đình Phùng và ngả ba chùa Linh Sơn.
Đích xác một ngôi nhà lầu đồ sộ, kiên cố, to lớn khang trang xinh đẹp nhất vùng, nhà ấy nằm ngay cạnh mé góc đường Phan Đình Phùng, và góc đầu khu nghĩa địa Số 4, đã bị đạn bom dập tơi tả. Vùi dưới đống gạch ngói nghi ngút khói lửa cuồn cuộn. Có hai mươi mốt mạng người trú ẩn trong ngôi nhà kiên cố ấy, đã tưởng an toàn. Nào ngờ họ trợn mắt chết tươi. Họ chết không kịp ngáp, không nhắm mắt hay trối trăn nửa lời.
Chiến cuộc thực sự bùng nổ quyết liệt vì kẻ xâm lăng hung tàn. Dễ sợ quá! Trầm trọng kinh khủng quá chừng chừng! Rùng rợn biết bao! Thật sự tôi rụng rời tay chân, không còn tin ở mắt thấy tai mình nghe nữa! Nhà cửa, ruộng vườn đất đai, đồ vật dẫu có hư hại, thì ta có thể sửa chữa lại khang trang tươm tất. Trộm cắp gian manh lừa đảo, thì có luật pháp trừng trị nghiêm minh. Nhưng có người dã tâm xâm chiếm miền Nam Việt Nam, đem chiến tranh về, ngang nhiên công xúc tu sĩ, hãm hại hiền lương bá tánh, thì lấy ai bồi thường mạng sống và danh dự đây?

_ * _
Ái Ưu Du
#193 Posted : Sunday, March 2, 2008 4:33:58 PM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0




KHU BẠCH ĐẰNG – ĐÀ LẠT 1968

(Năm Mậu Tý 2008, nhớ về năm Mậu Thân 1968)




Trên đường đi đến nơi hầm trú ẩn, mà tôi cho là an toàn nhất. Tôi đã nghe anh lính ngồi trên một trong những chiếc GMC, ngâm nga thơ Lương Từ Châu:
Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi.
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi.
Tuý ngoạ sa trường, quân mạc tiếu.
Cổ lai chinh chiến, kỷ nhân hồi!
(Bồ đào uống chén dạ quang.
Tỳ bà thổi khúc lên đàng, giờ đây
Sa trường chén nhớ rượu nầy.
Xưa nay chinh chiến, đâu ngày gặp nhau!)
(Tác giả xin lỗi, quên tên dịch giả).
Nghe thật xót xa bồi hồi trong dạ sao đâu. Những gốc cây khô đét cằn cỗi, sần sùi khẳng khiu đã cháy đen không còn cành lá, dường như bị róc hết nhựa sống. Giọt nước đang chảy từng giòng ngoằn ngoèo trên thân, cùng với cơn mưa to ở lưng trời bỗng tạnh.
Cả hồ Xuân Hương Đà Lạt mơ màng, nên thơ, quyến rũ với đồi Cù xanh um nệm cỏ mịn màng mướt mát. Hay đỉnh núi Lâm Viên rì rào gió sương huyền ảo kỳ diệu. Xứ hoa đào mơ mòng đầy quyến rũ, vẫn không được chú ý bằng: Mỏm đồi khu Số 4 - đã hãi hùng trải qua giờ phút đau thương kinh hoàng nhất.
Đài phát thanh Đà Lạt ngưng hết mọi chương trình ca nhạc. Họ chỉ phát toàn những bản tin nóng bỏng chung chung, rất vắn tắt. Đài phát thanh trực tiếp truyền thanh lại chương trình đài Sài Gòn, về thông báo khẩn của các ban ngành ở trong nước, công sở, nhân viên công chức hãy túc trực tại nơi làm việc mỗi ngày. Nhất là họ kêu gọi: Binh-sĩ. Cảnh-sát, Cảnh-sát dã-chiến. An-ninh quân-đội. Sinh viên các trường đại học, hãy ứng chiến, hay trình diện từng nơi ở đơn vị gốc của mình.
Sau khi chính phủ miền Nam Việt Nam bắt buộc phải vùi dập khu Số 4 xong, suốt mấy ngày đêm, máy bay L 19 bay lượn trên đầu cư dân Đà Lạt, để thám thính. Rồi thêm một vài chiếc trực thăng ngày đêm quầng thảo mục tiêu, bay vù vù hoài. Mọi cư dân trong thành phố thường xuyên tụm năm tụm bảy, đứng ngồi đông đen trên nhiều ngỏ đường, họ cùng nhau tíu tít xôn xao, chỉ chỏ bàn tán. Họ ngẩng đầu nghe ngóng tiếng động, lo sợ dáo dác nhìn tứ phía.
Hôm sau, L 19 lại luôn bay lượn trên bầu trời, và bên phải cánh cửa lớn của một chiếc trực thăng đang bay vòng vòng, có một anh lính cầm khẩu đại liên chĩa mũi súng xuống đất, nhưng anh ta không hề bắn đi đâu cả. Một quân nhân khác ngồi bên cánh cửa trái, lại dùng loa phóng thanh (như lần trước đã làm ở khu Số 4), anh ta vắn tắt kêu gọi nhiều lần:
- Kính thưa đồng bào ở trong vùng khu số Bốn, khu Số Sáu, Tùng Lâm. Hà Đông. Bạch Đằng… chú ý! Chú ý: Nếu ai còn mắc kẹt giữa các vùng nầy. Xin hãy cố gắng tự tìm mọi cách, tìm mọi phương tiện, để di tản gấp, ra khỏi các vùng kể trên. Nay mai, phi cơ sẽ oanh tạc khu nầy.
Buổi chiều hôm sau, lại có L 19, và vài chiếc trực thăng bay lượn rề rề chậm chạp, thả vô số truyền đơn xuống thành phố Đà Lạt lần thứ tư, lần thứ năm nữa. Muôn vàn tờ giấy trắng chấp choá dưới ánh nắng ấm áp, ngọt ngào hương hoa mùa xuân phơi phới. Giấy bay!
Hầu như muốn che mờ một góc trời xanh xanh. Hoa giấy uốn éo bay bay, giống chuồn chuồn bươm bướm chập chờn uốn lượn, nhảy múa trên không trung giát nắng vàng tươi rói.
Nếu không phải là ngày “lo âu buồn tênh”, thì tôi tưởng tượng những tấm giấy thông báo kia, là những dáng tiên sa vui vẻ cỡi vừng mây mỏng dính, tà tà bay xuống thế trần lấp lánh ánh nắng ấm áp. Hoa giấy phơi phới bay bay trong bầu trời lồng lộng gió rì rào, thênh thang, mênh mông và trống trải.
Quân đội Việt Nam Cọng Hoà điều quân, trong khu đông dân cư luôn phóng loa từ phi cơ xuống khuyên Việt-cọng:
- … và … Hãy buông tha người dân hiền lành vô tội. Cho họ tự do ra đi khỏi vùng chiến tranh.
Tôi và Lâm lại ôm hai con lên lầu, mở tung cửa sổ ra, luân phiên dòm vô ống nhòm, phập phồng dáo dác nhìn đi tứ phía. Bao gia đình thảng thốt, tay dắt lưng cõng họ vừa tất tả chạy băng đồi vượt dốc Thánh Mẫu, qua ngả Hà Đông, họ xuống ruộng dâu về hướng thung lũng ấp Đa Thiện. Họ leo lên dốc Bùi Thị Xuân, cố thoát ra khỏi “vùng tử thù”. Nét mặt họ đầy lo lắng. Đau đớn. Thương xót. Bối rối. Dáo dác. Hớt hãi. Bủn rủn run sợ tột cùng. Họ đứng thừ người ra ngờ nghệch, đờ đẫn, hay họ ngồi bệt xuống đất, hai mắt lờ đờ không cảm giác. Mặt mày ai nấy đều hốc hác. Người người điếng lặng, ngẩn ngơ nhìn tai hoạ đang đổ lên đầu, lên cổ anh chị em cùng mũi tẹt máu đỏ da vàng.
Một toà nhà mái ngói đỏ au nghiêng qua nghiêng lại rồi sụm xuống. Xác người phơi trên nương khoai, dưới ruộng dâu tươi, bên vồng hoa rễ quạt tươi thắm. Cạnh xác một bà mẹ nằm vắt vẽo chân trần trên luống cải úa tàn, có đứa con nhỏ độ tám chín tháng, đứa bé bò lui bò tới khóc la, tìm vú mẹ. Bà cụ lom khom chống gậy, lẽo đẽo theo sau đoàn người tất tả, cúi thấp đầu chạy dưới khe mương. Cụ ngoái đầu nhìn, bặm chặt hai hàm niếu móm mén, cụ cố gào lên trong tiếng nấc:
- Chị kia ơi! Hãy cố gượng dậy, ngồi lên cho con bú. Bò lại gần mẹ cháu thêm chút đi! Cháu ơi!
Dù bà mẹ của cháu bé thật chẳng còn gì, ngoài vũng máu tươi đọng lại trên bờ ngực héo hon. Đôi mắt đứng tròng mở thao láo, hàng nước mắt đọng trên bờ mi vụng dại nỗi đau thương, đã tuôn chảy qua bên thái dương bà.
Quân nhân phân chia ra nhiều phần tách bạch. Họ quyết “dứt điểm nợ” cho xong. Ba giờ chiều, khi ra phố tôi nghe dân chúng đồn đãi đâu đó là: Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa quyết định cho phi cơ B 52 dội bom, loại oanh tạc cơ nặng kí, trang bị toàn titanium, thép, aluminium, có 8 động cơ, Pratt và Whiteney, có trọng tải 35 tấn thì phải. Nếu, Việt-cộng vẫn ngoan cố ù lì bám sát, tướt đoạt lấy tất cả, từ mạng sống người dân, đến lương thực, của cải quý giá, đất vườn của dân lành vô tội. Thì… Đành phải dội bom khu Bạch Đằng thôi.
Do dự án Patricia Lynn chỉ xem là một chương trình tạm, nhưng sau đó rất hữu hiệu, nên phi cơ B-57E đã thực sự tham chiến. Phi cơ này được đặt tên là Biệt đội 1/Phi đoàn 460 Không-Thám Chiến-thuật.
Tôi hốt hoảng lo hộc tốc ba chân bốn cẵng chạy về nhà. Quả đúng như thế thật. Không hấp dẫn chút nào trên chuyến tàu suốt cuộc sống vật vã nầy. Chỉ non hai giờ sau là phi cơ đến. Chiến cuộc thực sự bùng nổ quyết liệt rồi. Sau khi mấy chiếc B-52 dội xong những trái bom, là vút bay đi. Vài phút sau lại có một chiếc khác bay đến. Phi cơ cứ thay phiên nhau bay lượn trên vòm trời Đà Lạt, dội khoảng mươi lăm quả bom rất chính xác, xuống đồi Bạch Đằng và vùng lân cận trong vòng nửa giờ.
Trên ngọn đồi Bạch Đằng trống trải, nhiều hố bom khổng lồ, sâu hun hút, có vô số thây ma không kém gì bên nghĩa địa Khu Số 4 dạo nọ. Khu Bạch Đằng đầy gió lốc cuốn mù đất cát bụi đỏ vật lộn nhau, để tranh giành phù du cuộc đời, cuộc đua, cuộc chạy nước rút, cuộc chơi giữa người sống, người ngáp ngáp cơn hấp hối, và người đành đạch dẫy nẩy chết.
Đại liên từ trực thăng nã đạn xuống mục tiêu ấn định: Khu Bạch Đằng (do linh mục Phan Văn Đài xin canh tác khu đất đai trù mật. Chính phủ Việt Nam Cộng Hoà đã chấp thuận, vừa cho xây dựng ấp mới, được thành lập vài năm nay). Cư dân các nơi từ từ dồn về khu đất đỏ màu mỡ phì nhiêu nầy. Đa số đất toàn là đồi trọc, đất đỏ trộn màu nâu non còn trống trải và rộng rãi. Xe máy cày đất vẫn hì hục làm việc không ngừng, thì...
Đạn bay roóc roóc roóc, Pằng pằng pằng… xíu xíu xiú… xít xít xít… xịt xịt…vun vút xẹt xẹt… ra những vệt lửa vàng vàng đỏ đỏ. Súng nổ dưới đất rền vang. Long trời lỡ đất như ngày động đất hay tận thế. Mặt đất rung chuyển dữ dội bởi súng lớn, nhỏ, súng cối, súng trường. Xe tăng bọc sắt ùn ùn vươn tới dưới chân đồi Bạch Đằng, và nằm đó. Lựu đạn cay, đạn khói, đạn ói, đạn mửa đủ thứ vỡ bùng lên.
Có năm tên áo đen mang súng AK cắm đầu cắm cổ chạy riết lên lưng chừng đồi, nơi có mấy cái hang đất, có lẽ họ định chui vào đó trú thân, thì chẳng may bị đạn từ trên trực thăng nã xuống viu viu viu… xít xí xít… pằng pằng pằng... Thế là có hai tên gục xuống dãy đành đạch mươi phút rồi im re tại chỗ. Một tên lăn cù cù xuống vạt đất đỏ nâu mới cày. Một tên khác gục tại lỗ hang đất. Một tên kia cà nhắc cà thọt nhảy cóc năm bảy bước, ngực ưỡn ra phía trước, hai tay dong lên trời, từ cườm tay lên tới khuỷu tay trái cột miếng băng vệ sinh phụ nữ, mặt y úp vào bụi cỏ rồi cũng rệu xuống. Ngay đơ.
Trên trời L 19 thám thính quần thảo liên tục. Trực thăng bay lượn như chuồn chuồn, không ngớt thả những tràng róc két viu viu… xì xịt… pằng pằng pằng… Bùm bùm bùm… Ùm ùm ùm… Ầm!... dài dài rải xuống mục tiêu. Nơi ác chiến, mồ mã bị cày xới tan hoang. Phi cơ tải thương binh và đồng bào lên phi cơ, máy bay nổ ầm ầm, cánh quạt quay vun vút. Trực thăng vụt bốc thẳng lên cao, bay về hướng thành phố, hay bay vào trong khu Võ Bị thì phải!?
Gia đình tôi đứng trên balcon của nhà mình, nhờ có ống dòm, chúng tôi nhìn về hướng đồi Bạch Đằng rất rõ. Tiếng phi cơ gầm rú trên đầu dù đinh tai nhức óc, dù ở nơi xa xa nầy, mà tôi cũng bị điếc ù tai, ép lồng ngực mệt nhoài, nghẹt thở, muốn bể tim bể não. Huống hồ gì là những cư dân ở gần gần đó, làm sao họ chịu thấu nhỉ!?
Trông những cột lửa đỏ rực ùn ùn đùn lên, đùn lên cao, lên cao. Lên cao. Những cây nấm lửa vừa đỏ đỏ vừa quyện khói đen đen, to khổng lồ quằn quại uốn éo trong tiếng Ùm. Ùm. Ùm… Oằm… Bùm!
Khói đen nghịt từng cuộn nấm khổng lồ, rồi quyện với lửa đỏ rực, quay lông lốc bốc lên thấu trời xanh, cháy lan ra từng vùng khá rộng. Nhiều tiếng nổ xì xèo lốp đốp suốt mãi. Mùi hôi thối, mùi cháy khét nồng nặc. Sức nóng theo hướng gió xô về tận xóm nhà tôi rát phỏng da. Từng đám tro từng đám khói lửa dày đen nghịt toả ra. Những cây nấm lửa khổng lồ khác lại quay cuồng lông lốc trong gió xoáy, ùn ùn bốc thẳng lên trời xanh, rồi toả ra mù mịt.
Tim tôi rung lên từng hồi náo loạn, tôi có cảm tưởng như đang xem một cuốn phim quá hấp dẫn, vô cùng ngoạn mục mà kinh khiếp hãi hùng. Kinh dị tột đỉnh. Rõ ràng. Sống động. Trung thực. Ghê rợn hơn hẳn xem trên màn ảnh rộng stereo. Hơn gấp ngàn lần tôi đã xem các phim Đệ Nhất Thế Chiến. Đệ Nhị Thế Chiến xa xưa. Mấy phim đó chả nhằm nhò gì chuyện tôi đã chứng thực bằng mắt thấy tai nghe.
- Ùm. Ùm. Ùm… Đùng. Đùng. Đùng… Pằng. Pằng. Pằng… Xíu xíu xíu… Xịt xịt xịt… Tạch … Tạch … Tạch… Bùm! Bùm! Bùm! …
Mưa chì. Gió lốc. Khói đen. Lửa đỏ. Chết chóc. Rùng rợn. Đau khổ. Tang thương. Kinh hoàng. Thảm thiết lắm!
Mẹ Việt Nam ba miền: Bắc Trung Nam yêu dấu ơi!
Giông tố ngập trời dâng lên cao ngút ngàn.
Chao ôi! Hỡi Trời cao đất dày kia ơi!!!
Ngày Tết Mậu Thân 1968, mà Ai đã bạo tàn ác ôn gieo chiến tranh thảm khốc, điêu linh đến thế nầy!?

_ * _
Ái Ưu Du
#194 Posted : Friday, March 7, 2008 9:43:31 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

Hoài Hương Xưa

Phần Thứ Ba

Chương 33


Chuyện “CHAT” BÙ KHÚ
(của ông bà già gân 60)




Date: Mon, 1-26 -2004 -00:05:34 -0700 (PDT)
From: "Tony Dautry khanhson21@saigon.com Add to Address Book Add Mobile Alert
Subject: Thư mang số # 4.946 = 1-26-2004 * Mình cùng “CHAT” nghen
To: "wit < tio1@yahoo.com >
CC:
*
Ghi chú:

- 1a = lời của chàng
- 2e = lời của nàng

*

Chào Mi Mi thương, (Từ bi giờ anh phải gọi em là con mèo mi mi của anh nha).
- 1a- Hôm đầu tháng Giêng, năm 2004, anh bị con “vòi vọi” to như con bọ xít, thân đen bóng, cánh cứng, có vòi như cây kim cong cong, nhọn hoắt. Nó có bốn chân và hai cái râu, từ dưới gầm giường bò lên nệm. Thừa lúc anh ngủ say, nó chích anh mấy phát, cái trán sưng chù vù. Cứng ngắt và ngứa ngáy, nhức nhối kỳ lạ. Gần cả tháng rồi, vẫn đau nhức, sưng tấy lên và ngứa lắm. Vậy mà em còn chọc quê anh là “mọc sừng” ha. Giận thì thôi.
- 2e- Ui! Em cứ tưởng là do anh đi hoang. Xin lỗi nha.
- 1a- Hôm nay, anh tức quá đi thay tấm drap mới, giặt mền, gối, rồi anh lật hết những thanh giường ra. Lau nhà sạch sẽ xong, anh lấy thuốc xịt hết vào mấy cái khe. Thì thấy hai con “vòi vọi” đen đen lăn ra chết. Chứ nó chạy nhanh kinh khủng, không thế nào đập trúng. Anh bỏ nó trong bao nylon. Chiều nay sẽ đem nó xuống bác sĩ chữa trị da liễu cho ổng xem. Vì bác sĩ cho rằng nó là con A Sừng! Cách đây vài tháng anh cũng bị nó chích như thế. Anh đến bác sĩ khám và mua thuốc pomade xức. Chẳng ăn thua gì!
- 2e- Ở một tỉnh thành gần khu núi đồi, hồ ao, đầm lầy bên Úc (nơi chị Tú ở). Có một chỗ dành để người dân cắm trại. Nhiều mái lều dựng lên, ăn ở vui vẻ. Bỗng họ nghe tiếng hét to kinh khủng, ở một cái lều hơi gần gần bờ hồ.
Con cá sấu to lớn bò đến ngoạm chân người đàn ông, lôi đi xềnh xệch. Cả khu cắm trại hốt hoảng nhốn nháo, họ ùa ra bãi xem chuyện gì. Một người đàn bà cùng gia đình cắm lều gần đó, nhìn thấy cảnh tượng hãi hùng đó trước tiên. Hai bàn tay không, bà ta can đảm nhảy cỡi lên mình con cá sấu. Hai tay bà ta ôm ghì lấy lưng và nách con vật, hai chân bà quắp chặt vào bụng nó.
Con cá sấu giật mình, hãi hùng nhả chân người đàn ông ra. Nó quay ngược mỏ lên, táp táp vào người đàn bà không được. Thế là nó vát bà ta chạy tuốt xuống hồ nước. Mọi người bất ngờ sững sốt nhốn nháo sợ hãi kêu la inh ỏi. Một người đàn ông ở lều khác, bình tĩnh xách súng chạy đến gần. Tay thiện xạ do dự một phút, rồi đưa súng lên nhắm và bóp cò. Đùng!... Đùng!
Con cá sấu giẫy giụa vài cái, rồi nằm ngay đơ nửa trên nửa dưới hồ nước. Người đàn bà can đảm phi thường ấy không bị lạc đạn, mệt đứt hơi, bà ta nằm vật ra bên con vật nhuộm máu đỏ. Người ta vội vã gọi trực thăng đến, cấp cứu hai nạn nhân. Một người bị cụt chân, một bà bị gãy tay. Chỉ vì “cái mỏ” con cá sấu.
* Rồi, còn một chuyện có thật nữa: Hai chị em cô bé đi tắm sông ở Nam Phi. Cô chị độ mười tuổi thấy em nó bị con cá sấu ngoạm, con cá sấu đang cố sức lôi đứa em xuống sông, để ăn thịt. Cô chị quýnh quá, không biết làm sao, cô ấy không còn biết sợ hãi, cô ấy chạy đến bên con cá sấu, lấy ngón tay trỏ chọt lủng mắt con cá sấu, chọt rất mạnh.
Con cá sấu bị bất ngờ, và đau lắm. Nên nó nhả cô em ra. Nó lo chuồn xuống nước, lặn mất tiêu. Cô em bị thương nặng. Họ cấp cứu hai chị em vào bệnh viện. Đó, anh thấy chưa? Mà anh còn đòi cuối tuần nầy, đi ăn thịt cá sấu với anh Vượng, anh Nuôi hỉ!
- 1a- Em có “ấn tượng” nên em thấy sợ. Vì thấy nó dữ dằn, da lởm chởm sù sì gớm ghiết, móng chân móng tay nhọn hoắt. Cái mỏ và hàm răng ôi thôi kinh dị. Nhất là buổi tối, ngày chúng mình đi vào trại nuôi cá sấu xem. Trong bóng tối, mình lấy đèn pin rọi xuống ao, hồ, thì trông thấy những đôi mắt của nó, như là ánh sao lấp lánh. Vì hai con mắt nó sáng rực, đỏ au, từng con từng con nó nhìn sững vào ánh đèn.
Thịt nó trắng, mềm và thơm ngon hơn thịt gà. Thịt vịt. Lại có hương vị đặc trưng thơm hơn thịt gà nữa em à. Làm sạch, xào với sả, ớt, mè, tỏi, hành, ngũ vị hương, ít dầu hào, ăn với bánh tráng nướng. Thật ngon hết sẩy. Em ơi.
- 2e- Anh lại nhem thèm em nếm tí rượu cá sấu nữa hả.
- 1a- Rượu nầy là môn thuốc, người ta nói để trị bệnh suyễn hữu hiệu lắm em ơi! Uống vào nghe "đã" đến óc. Tuyệt cú mèo.
- 2e- Rồi anh hỏi đố em: Có biết con cá chình không? Mất mấy trăm ngàn đồng Việt Nam, anh mới mua được một con cá chình, chỉ nặng vào khoảng 800 gr. Ở Việt Nam bây giờ con gì cũng được đưa lên bàn ăn, để thiên hạ xài, có tiền là “chiêm ngưỡng” hết: Chồn. Cheo. Rùa. Mễn. Nai. Rắn. Ba ba. Vân vân… Ôi thôi đủ thứ hết.
Đến nỗi bi giờ hầu như những loài qúy hiếm e có nguy cơ diệt chủng. Đã có lệnh cấm săn bắn, cung cấp thịt rừng. Cho tiền thuê, bạc mướn, em cũng hổng dám ăn thịt cá sấu. Ghê quá đi.
- 1a- Em có thấy ớn lạnh không? Người đàn bà cỡi lưng cá sấu. Cô bé chọt mắt cá sấu. Rất phi thường. Can đảm lắm. Nhưng... Chưa đáng kính phục bằng một người đàn bà Việt Nam, đám cỡi lên mình con rắn, và bóp nát trái tim con rắn nữa. Và nhất là bà ta đã làm con rắn cúi đầu khuất phục. Thật đáng ngợi khen. Anh đố em biết bà ấy là ai nào?
- 2e- Bói bài hay cầu cơ cũng chịu thua. Đừng nói tới em. Em hổng biết.
- 1a- Ấy! ... Là em đó.
- 2e- Ui chà chà. Thương thiệt!
- 1a- Anh lại đố em 4 chữ MEN:

1.- MEN TAL ANXIETY : Hoảng loạn tâm thần.
2.- MEN TAL BREAKDOWN : Suy sụp thần kinh.
3.- MEN STRUAL CRAMPS : Co thắt khi có kinh.
4.- MEN OPAUSE : Hiện tượng tắt kinh.

- 2e- Ôi! Thì anh đố em, nhưng anh đã giải thích hết rồi. Lại còn phải hỏi ư.
- 1a- Em có để ý là tất cả nguyên nhân các sự kiện ở trên, đều do chữ MEN mà ra không nhỉ! Đó đàn ông các anh là thiên đường. Mà đàn ông cũng là địa ngục. Em à.
- 2e- Ồ! Cái nầy họ “chơi chữ” quá hay. Vì trong bốn triệu chứng của người đàn bà, đều bắt đầu từ chữ MEN mà ra! Dễ ghét mà rất dễ thương. Anh hỉ!
- 1a- Ôi vui ơi là vui. Đúng rồi! Sau đêm em bị ma đè (chứ hổng phải người à nha), thì cả anh và em đều hoảng loạng, đến nỗi rắc rối… bồi hồi, quên trước quên sau, quên đầu quên... quên… luôn cái phao câu! (con gà con vịt, thì ít khi ai gọi là đuôi gà, đuôi vịt. Mà họ “thít” gọi là phao câu mập ú nù. Phải hông nà?
- 2e- Đúng quá đi “bác xĩ mu rùa hóc môn”.
- 1a- Ha ha! Ui xà, dzậy mà còn phong cho anh làm tới chức bác sĩ mu rùa hóc môn nữa chứ. Ôi trời ới! Nếu vô tình, có ai lọt chân vào trong mạng internet riêng của chúng mình, chắc là họ cười bể bụng, vì mấy cái chuyện của hai ông bà già gân 60 lẩm cẩm nầy ha.
- 2e- Vậy chứ công dụng của cái rốn là gì nè Hoàng?
- 1a- Để cuống rốn nó gắn liền tí nhau với người mẹ. Nhưng khi sinh ra đời, em bé đã được cắt đi. Đáng lẽ ra khi nó lành, phải thành một vết sẹo bằng phẳng. Chứ tại sao cái rốn ấy, lại teo tóp nhăn nhúm, và trở thành sâu hoắm thế Hương của Hoàng?
- 2e- Xin chịu thua.
- 1a- Còn nữa, cặp vú của người đàn bà có công dụng: Là để nuôi con. OK! Thế thì, người đàn ông không thể cho con bú mớm gì. Sao vẫn có vú hỉ?
- 2e- Công dụng nầy, chỉ có Trời mới biết.
- 1a- Rồi, khi người đàn ông đi “quờ quạng bậy bạ” gặp một “gái già bia ôm” lây rận, do người đàn ông khác “di dân rận” thân dẹp lép, bò lết tới mình. Họ chỉ cần áp vào nhau chừng vài phút thôi, là lãnh đủ! Có hơi ấm cơ thể, thế là lũ rận bò sang người mới, định cư liền. Tên đàn ông trăng hoa đó lại mang rận về, tặng lại cho vợ.
- 2e- Úi quơi Trời đất thiên địa ui! Vậy ra anh đã từng mang rận đi, mang rận về ư! Xin bái biệt và tống khứ anh.
- 1a- Không. Đừng nóng thế em.
- 2e- Dieu seul le sait...
- 1a- Nè em, ngày anh còn học chung với Nguyễn Tấn Trung trong đại học Y Khoa Sài Gòn. Trong phòng thí nghiệm có kính hiển vi điện tử. Ta có thể soi rọi con rận ra, to chừng 15.000 lần. Hôm xưa chả biết sao Trung có được con rận, anh ấy mang mấy con rận trắng vào lớp. Rận có ba đôi tay chân lông lá xồm xoàm cả thảy!
Rận màu trắng khác con chí màu đen.
Con rận đẻ trứng bám chặt trên những sợi lông, như là con chí đẻ trứng trên những sợi tóc của con người. Lấy trứng rận ra để trên bàn giết, nó cũng kêu “cái cốc”, y như trứng chí vậy. Phía trước rận có hai càng nhọn hoắt, dùng để đào hang. Rận không sống ở ngoài da, mà nó đào hang. Nghĩa là nó dùng càng đào lỗ, chui vào lỗ chân lông mà nằm. Đa số nó nằm ở chỗ kín, dơ bẫn. Không giống con chí sống lúc nhúc, luôn bò rần rần, hút máu ở trên đầu. (do người ít tắm gội). Khi đói, rận mới bò ra châm vòi vào thịt, hút máu tươi để sống. Mình ngứa điên cuồng là đó.
Giống như con rệp tiết chất hôi, chuyên sống ở khe giường, phản, vậy! Rận, rệp, chí, đều sinh sôi nẫy nở nhanh. Kinh khủng vô cùng.
- 2e- Hoàng. Phải làm sao mà diệt chúng nó chứ anh.
- 1a- Biện pháp duy nhất là phải hy sinh cạo bộ lông, cạo tóc. Không còn chỗ cho chí rận bu bám. Mỗi ngày tắm gội sạch sẽ, lấy DDT (thuốc diệt côn trùng) xoa đều lên bề mặt da. Làm như thế cả tuần nhe. Thật sự chí rận mới “dứt điểm”, sẽ chết hết. OK! Đó là phần giải thích của anh “bác sĩ mu rùa hóc môn”. Em thỏa mãn chưa?
- 2e- Cảm ơn Hoàng. Nhà em có quá nhiều kiến. Tại sao Trời sinh con kiến để làm gì? Tả và nói con kiến có công dụng gì. Cho em nghe nhe.
- 1a- Hương! Coi chừng mùa nóng nầy, thường thường có nhiều kiến. Bọn kiến tinh ranh, khôn đáo để đó em. Trời lạnh lẽo hay sắp chuyển mưa, là chúng biết trước, lo dời trứng lên cao, vào phòng trú trên các trần nhà. Trời nóng nó lại chuyển chỗ xuống đất. Vì thế, kiến không tha mình chỗ nào cả. Đâu đâu nó cũng bò tới “thám thính” được. Ngay cả tủ quần áo, khi không còn mùi long não (naphtalin), nó cũng chui vào. Nhất là nhà em có thịt, cá, chất béo, mỡ, mật ong, thức ăn, thực phẩm khô, là có kiến. Vì thế ở bên mình, anh phải cẩn thận với thức ăn. Mệt lắm.
- 2e- Em hỏi Hoàng, vậy chứ con kiến có cái đuôi, như những con vật khác không?
- 1a- Hahaha!!! Hương ơi! Đúng nguyên tắc thì con kiến cũng có đuôi đó em à. Hổng phải nó có đuôi rõ ràng như đuôi chó, đuôi mèo, hay “đuôi phao câu gà, vịt”. Em có tin không? Kiến có đuôi. Nhưng kiến có hai cái đuôi, chứ không phải một cái đuôi đâu em. Đuôi mọc ngược phía trên đầu. Mà ta nôm na gọi là hai cọng râu.
Theo khoa học thì con kiến bài tiết trên các cành cây. Và chúng liên lạc truyền tin với nhau bằng hai “cọng đuôi râu” nầy. Nếu loại kiến là “cùng một loài giống”, thì nó sẽ có chung một tần số âm thanh.
Còn nếu khác loài, nó tự động phát ra những tần số âm thanh khác. Lập tức nó dùng càng cắt đứt đầu đối thủ. Nói chung, loài vật đều có đuôi cả, tùy theo dài, ngắn, to, nhỏ, cụt đuôi nữa.
- 2e- Ồ thì ra... cọng râu con kiến cũng “hoá thân” là cái đuôi tinh xảo anh nhỉ! Mấy loài khác, thì em thấy cái đuôi rõ rệt. Còn con ruồi, con kiến, xem trong discovery em ”nỏ thấy”. Vậy cái đuôi con rắn, thì có ở từ khúc nào nè anh?
- 1a- Cái đuôi của con rắn, theo anh biết thì tính từ khúc cuối cùng của các đốt xương sống. Nghĩa là từ 1/5 đoạn cuối cùng của con rắn. Đặc biệt em còn nhớ hôm đi tour ở Thái Lan không? Chính anh và em đã chứng kiến ông người Thái biểu diễn màn xiệc rắn. Họ cho chúng mình uống “nhâm nhi” chút rượu thuốc ngâm rắn. Họ lại cho anh và em sờ vào chỗ bộ phận sinh dục con rắn đực, nó chia ra làm đôi. Ổng nói ai mà sờ được chỗ đó đó, thì lucky lắm.
- 2e- Em nhớ ra rồi. Hồi ấy thật thú vị, vui quá! Hoàng à.
- 1a- Còn tính về con người "tiền kiếp"... thì cũng có “cái đuôi” ngắn tủn ngắn tỉn, như là cục thịt thừa đó chứ em. Họ ưa chà đít xuống đá, để mài đuôi cho rụng đi. Nay mất gốc rồi. Vì mọi sự yêu thương truyền cảm, cũng từ “cái đuôi” mà phát xuất ra. Phải chăng đó là giây liên lạc mật thiết của con người không ha?
- 2e- Anh nầy vớ va vớ vẩn. Bộ cứ “Nhân Chủng Học” là anh tin vào thuyết Darwin, thì loài người xuất thân từ loài đười ươi sao! Họ cũng có cái đuôi rất ngắn. Nhưng sau vài triệu năm, thì cái đuôi của loài người rụng đi?? (Lại tưởng giống như con nòng nọc rụng mất đuôi!?). Rồi do cái thế đi đứng của loài người ung dung, hoàn hảo hơn, nên họ bắt đầu đi bằng hai chân. Chứ ngày xưa như trái đất, thì họ đi bằng bốn chân há?
- 1a- Vậy ra, em Hương là “cái đuôi” của anh Hoàng rồi. Anh phải “bảo quản” thật tốt, cái đuôi yêu dấu của anh nha. Từ nay anh sẽ phong chức chính thức cho em là: “Người quản đuôi yêu dấu của anh”. Còn anh Hoàng sẽ là NÔ của em Hương. Nô nức. Nô đùa. Nô giỡn. Nô bộc. Nô tỳ. Nô lệ. Nô gia. Nô nhân. Nô dịch. No. No. No. Yes. Yes. Yes của em suốt đời. Chịu chưa?
- 2e- Dạ vâng! Nhưng, anh cho em xin anh cái đuôi khúc giữa kia.
- 1a- Ui Trời! Sao em khôn thế. Nếu em là cái đuôi của anh. Tất nhiên em là hiện thân tình yêu trọn vẹn duy nhất của anh rồi. Đã trở thành cái đuôi, mà em còn đòi chọn khúc đầu, khúc giữa. Khúc nầy khúc kia nữa. Thôi xin em hãy bằng lòng làm cái đuôi lý tưởng của con rắn nha!
Em biết anh tuổi Tân Tỵ mà! Thì rắn đi đâu cũng phải “tha” cái đuôi kéo lết đi theo. Đi đâu rắn cũng “có đầu có đuôi” theo cùng. Hà gì em phải lo lắng, chọn khúc giữa cho ấm áp an toàn hỉ!
- 2e– OK Salem!
- 1a- Yes. Amen!

_ * _

Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
Trân trọng,
Ái Ưu Du

Ái Ưu Du
#195 Posted : Thursday, March 13, 2008 6:53:33 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

Hoài Hương Xưa

Phần Thứ Ba

Chương 34


CHẤT ĐỘC AGENT ORGANGE

Nhắc Chuyện xưa; Nhớ Chuyện nay)





Anh vui lắm, và nhẹ người, anh thì thầm nói chuyện phone với người yêu xưa suốt. Vì đúng như lời Mi Mi nói: Cũng nhờ thủ tục “đầu tiên” nên anh “Có tiền mua tiên cũng được”!
Hoàng tin tưởng ở nàng. Vì anh biết chắc rằng: Không có việc gì trên cõi đời nầy mà chúng mình không làm được. Miễn là hai người có quyết tâm. Anh khuyên Mi Mi hãy bình tĩnh. Mỗi năm có ba trăm sáu mươi lăm ngày (năm nhuận có ba trăm sáu mươi sáu ngày. Cũng như một tháng thì có tháng chỉ có hai mươi tám, hai mươi chín ngày, ba mươi ngày, ba mươi mốt ngày. Mỗi ngày có hai mươi bốn giờ. Mỗi giờ có sáu mươi phút. Mỗi phút có sáu mươi giây).
Năm nào. Tháng nào. Ngày nào. Giờ nào cũng có mặt anh ở bên cạnh em. Chúng mình đã song hành đến tận bây giờ, thì còn ngại ngần gì nữa. Chúng mình sẽ đi đến chân trời góc bể. Đi hết cuộc đời vắn vỏi còn lại. Nghe em!
Anh vẫn tâm nguyện là sẽ chờ đợi Mi Mi, và luôn ở bên cạnh nàng mãi mãi. Anh ưa viết thư hay nói chuyện phone với nàng về:

Vụ thứ nhất.-

Hôm xưa: Anh, Mi Mi, đi thăm và ủy lạo một số đồng bào ở trong làng “Hoà Bình Từ Dũ bị số phận bạc đãi”. Em đã hỏi về việc: Chất độc màu da cam “Agent Organge”. Bây giờ, anh nghiên cứu ra:
-* Agent Organge có từ hồi Bộ Chỉ-huy quân-sự Mỹ ở Việt Nam. Gọi là Operation Ranchhand. Họ đã dùng loại phi cơ trực thăng UH-1-B. C-123. C-130 - để rải đều xuống miền Nam Việt Nam một số hoá chất “Diệt Cỏ”, mang tên là Agent Organge. Tên hoá chất khoa học nầy là Dioxine cực độc. Có một thời đã gây nhiễm độc cho những con tôm ở ngoài khơi Việt Nam. Con tôm ở dưới nước còn bị ảnh hưởng, thì nói gì đến con người, hay cây cỏ ha!
-* Sự việc được phát hiện, là nhờ cậu con trai Đô-đốc Trung-tướng Hải-quân, Tư Lệnh Lực-lượng Hỗn-hợp ở Thái Bình Dương. Đó là ông Fleet Admiral Zumwalt, nguyên là người chỉ huy thực hiện chương trình Ranchhand. Con trai ông nầy bị nhiễm độc và chết sau đó vài năm. Còn di chứng để lại là một đứa cháu nội dị tật bẩm sinh. Sau khi ông giải ngũ và rời bỏ quân đội. Chính ông là người đứng ra khởi kiện chính phủ và quân đội Hoa Kỳ (Toà án Brooklyn New York). Toà án tuyên bố ông thắng kiện. Bồi thường gần mười hai tỷ USD, cho toàn bộ Cựu Chiến Binh Mỹ thì phải!
-* Bên Mỹ họ không hề hay biết vụ nầy. Cho đến năm 1995 mới lòi ra!! Từ đó có những phong trào rầm rộ vát đơn đi kiện, đòi bồi thường. Dow Jones Chemical phải bỏ tiền ra “trám miệng” dư luận. Cũng chính Hãng nầy, có lần bồi thường cho Ấn Độ, vì đã để rò rỉ chất độc Cobalt, làm cho một số thường dân bị chết. Bị thương tật. Họ đã bỏ ra vài trăm triệu USD, làm dịu dư luận thế giới là gì!
-* Ở Việt Nam và Campuchia (còn gọi là Khu R- ở Khu Mỏ Vẹt) từ thập niên 1960 – đã có chất độc diocine nầy, là loại hoá chất cực độc. Không ngờ nó làm biến dạng gene con người dị dạng. Vì thế sinh ra quái thai. Nhưng ít ai biết. Nên mục đích chính là họ rải thuốc là khai quang bụi rậm, rừng rậm. Diệt sạch cỏ.
Chất độc A.O nầy trông có vẻ hiền lành lắm! Nhưng thật ra nó ngấm ngầm tấn công vào hệ thống gene của ai đã từng sống, sinh hoạt, trong những vùng bị rải thuốc. Loại thuốc nầy không bị phân tán. Nó tồn tại rất lâu. Tức là sau khi cây cối, rừng rú đã chết hết.
Đất trở thành hoang mạc cằn cỗi trơ trơ như nham thạch. Ấy thế mà thuốc vẫn ngấm sâu vào lòng đất, hoà tan trong nước, tấn công vào bất cứ nơi nào, từ các ông già, bà lão, trai, gái, già trẻ lớn bé. Không tha người nào. Ảnh hưởng đến sông ngòi. Lan tràn theo gió mà bay đi muôn phương.
Dù càng đi xa chất độc càng yếu dần, chứ chưa chắc thuốc đã hết công hiệu! Nói chung, sau khi các nhà khoa học nghiên cứu kỹ càng, họ kết luận A.O là một yếu tố khoa học rất độc hại, nguy hiểm.
Biết bao nhiêu đứa trẻ tại Mỹ sinh ra không có tay chân, hoặc bị bệnh liệt não, bệnh to đầu, bại liệt từ thuở sơ sinh. Tại Việt Nam số người bị chất độc A.O nhiều gấp ngàn lần bên Mỹ. Vì, theo bản đồ quân sự Mỹ, có đến 35% trên toàn thể lãnh thổ Việt Nam đã bị rải hoặc phun thuốc diệt cỏ nầy.
Tóm lại chất thuốc diệt cỏ nầy có tên là Diethymethyl-Dioxine rất độc hại. Từ đó, ngay cả những người đã lập gia đình ờ các khu vực đó, đã sinh ra toàn quái thai. (Như thập niên 1960, phụ nữ dùng thuốc ngừa thai mang tên Thalidomide không thể ghi trong lịch sử Y Học hiện đại!). Không bút mực nào tả hết sự dã man kinh hoàng dị tật!

Vụ thứ Hai.-

Một ông tỷ phú Mỹ hay đi máy bay nhỏ du lịch nhiều nơi trên thế giới. Nơi nào ông cũng để lại vài “dấu tích kỷ niệm luyến ái ngọt ngào” là một đứa con. Khi ông chết rồi, nhiều phụ nữ đã đệ đơn xin toà án công nhận: Cho con của họ là con ruột của ông ta.
Ấy thế mà... có một bà xồn xồn ở Ninh Thuận, hổng biết làm sao mà “vớ” được ông Trùm nầy!? Bà ta nhờ một ông Việt Nam làm đơn, xin thừa kế tài sản cho con trai của bà.
Ai ngờ ông XX quen biết bà nầy, lại là một tay lưu manh siêu hạng. Ông XX kia nhờ luật sư Mỹ phụ trách chuyện nầy. Và “họ” đã thắng kiện. Theo lệnh toà án, nhà bank đã chuyển vào bank ông kia, một số tiền ban đầu là một triệu tám trăm ngàn đồng USD.
Sau khi thanh toán hay chia chác với luật sư. “Hắn” cầm đưa cho bà ta tám mươi ngàn đồng USD. Bắt bà nầy ký tên vào, và thêm một câu thòng: Bà đã nhận đủ tiến mà không kiện cáo thưa gửi gì!
Bà nầy vốn nhà quê ít học, “chữ i chữ tờ” Việt Nam còn chưa phân biệt rành. Nói gì đến chữ Anh với chữ “Uraway”. Nên bà ta cứ ký bừa đi. Có những tám mươi ngàn đồng dollars ở Việt Nam, thì bà ta sướng tê người rồi! Cần gì nữa! Bây giờ người ta mới phát hiện ra “hắn” còn làm ăn gian lận nhiều vụ khác. Thế là báo chí “moi móc ra” Ôi! Đồng tiền làm mờ mắt và táng tận lương tri con người!

Vụ thứ ba.-

- Năm 1966, có một cô bé bị cháy phỏng hết cả người, mà ông nhiếp ảnh gia Nick Út, là phóng viên của AFP đi công tác tại Đà Nẵng, đã chụp (hiện giờ định cư tại Úc). Ông được giải thưởng Pulitzer về nhiếp ảnh. Cô bé đó đã được đưa qua Canada chữa trị lành lặn. Cô lớn lên nay làm “đại sứ thiện chí” của Unicef.
Bị napalm cháy cũng ghê gớm lắm. Nhưng so với chất độc màu da cam, là chuyện nhỏ! Vì, nếu bị cháy, thì có thể còn lọc cắt lớp da cũ. Nuôi lớp da khác thay thế. Phải không nhỉ!
- Em tin là có Phật Mẫu từ bi hỉ xã phù hộ, cho cô ấy gặp cơ may tốt lành.
- Đối với anh, lòng tin đã có và sẽ có trong tôn giáo. Cũng tốt. Vì mình đã lựa chọn. Nhưng cứ nhắm mắt mà sống chết vì đạo. Thì xin lỗi, anh chưa đến cái mức đó đâu. Có những điều anh chưa hiểu nỗi sự “mầu nhiệm”, thì cũng cắn răng chấp nhận, theo ông bà cha mẹ đã vào đạo từ trước. Vì sử sách viết, họ đã cho là “giáo điều” rồi! Chứ khi còn tấm bé anh không tự chọn. Thật ra, anh thấy đạo nào cũng rất toàn vẹn. Và, đạo nào cũng là tấm bình phong gìn giữ con người với con người – trong lĩnh vực hướng thiện ăn hiền ở lành. Tránh dữ làm thiện. Nhất là không phạm tội. Còn chuyện khác, chỉ là phần “hồn” của niềm tin nào đó.
- Hèn gì... coi anh có vẻ lơ tơ mơ. Em nghĩ: “Con người sinh ra trong thiên nhiên, tất phải trọn vẹn. Nếu con người có hư hỏng, một phần do ở xã hội”. Nhưng, “xã hội đời” cũng trực tiếp chịu ảnh hưởng của gia đình đó.
- Ừa. Chỉ có má anh là “cuồng tín” nhất. Ba anh cũng không. Anh nhắc nhở các con nên giữ đạo. Vì, đạo nào cũng mong muốn con người hướng thiện. “Nhân vi sơ, tính bản thiện” mà! Cần có đạo đức tốt mà người giữ đạo phải tuân phục. Ngoài ra, anh không buộc các con phải siêng năng, sốt sắng đi lễ đọc kinh cầu nguyện luôn miệng. Anh nghĩ đôi khi anh cũng thật tức đó em. Chỉ cần mình sai phạm một lỗi lầm nghiêm trọng nào đó, ví dụ như khi anh lỡ tay giết người chẳng hạng, thì muôn đời “Lục Quân Việt Nam” là khi chết sa mình xuống hoả ngục, đời đời kiếp kiếp. Chả có cơ hội thống hối ăn năn, bị hình phạt tù chung thân khổ sai, như khi còn ở trên thế trần đã đành. Chết rồi cũng bị “Trời tru đất diệt”. Ức thiệt.
Anh không tin đấng bề trên nào lại “ác”, như trong giáo luật do tiền nhân định ra đâu, phô trương đạo đức ra bề ngoài, bên trong rỗng tuếch. Mà, đấng tối cao ấy rất bao dung, bác ái, rộng lượng, ngài yêu thương, luôn vị tha khoan hồng kẻ có tội. Đại khái anh còn nhớ Chúa đã nói: “Nếu có ai tát con má nầy, thì con hãy đưa má kia cho người ấy tát” mà em.
Bây giờ tụi nó lo bương chải kiếm sống đủ mệt muốn tắt thở. Còn thì giờ đâu suốt ngày đêm lo đọc kinh đạo. Mình phải đối diện và phải trả lời về hành vi của mình, trước mặt Thựơng Đế thôi. Nội cái “đời” không, cũng hết giờ chạy bộ bá thở mệt hụt hơi. Em không thấy bi giờ ra đường, hầu hết mọi người phải mang mặt nạ, bịt kín mặt mũi, để chống ám khí bụi bặm bốc lên ở lưng trời, không bao giờ tan nhạt đi sao. Làm gì có xe cúp mà phóng cho kịp “trào lưu văn hoá”. Hả em.

Vụ thứ tư .-

-* Nhân nói đến xe cúp, em nghe có một anh đại học tốt nghiệp về ngành computer. Anh ta rất giỏi, nên đã “móc nối” với một nhóm khác để tiêu thụ trên 3.500 (ba ngàn năm trăm) cái bằng lái xe giả. Họ làm tinh vi đến nỗi sau nhiều năm nghiên cứu, so sánh với tài liệu gốc, sở Giao-thông Vận-tải mới phát hiện ra, đấy là bằng giả. Phải ớn quá không hỉ!?
- Đúng quá rồi còn gì. Nên, từ nay trở đi cảnh sát sẽ gát 24/24 các “cửa nẽo” nơi đi ra đi vào thành phố. Đẫy mạnh chuyện kiểm soát giấy tờ xe, bằng lái xe. Kính chiếu hậu, và nón bảo hiểm. Ui chà! Thế là người bán tha hồ chặt đẹp nha. Nón bảo hiểm tăng vùn vụt như diều gặp gió.
- Họ làm mạnh như thế, may ra dân mình đi vào nề nếp giao thông tốt. Em về Việt Nam, em chả dám đi bộ, càng chả dám chạy xe cúp. Chứ đừng nói là lái xe. Thậm chí em thấy nhiều người (chắc là ở Tỉnh xa đến) họ đã thấy một hàng xe sắp dài dài trên đường một chiều. Thế mà họ cứ cố len vào để chạy ngược chiều. Mới quái lạ thiệt à.

*Một là: Em ngồi chờ, mà đội cái “nồi cơm điện” lên đầu, giữa trời nắng chang chang, thì nhức đầu chết mất. Cũng có nhiều bất tiện lắm: Thứ nhất nếu cả gia đình đi ăn tiệm chung chẳng hạn. Nhà nào cũng phải có ít nhất năm bảy cái nón. Khi đến nơi làm sao treo tòn ten nón nơi xe. Sẽ mất toi đó em. Vì thế mỗi người phải xách kè kè theo bên hông.

*Hai là: Rủi ai làm nghề “chạy xe ôm”, họ phải sắm ít nhất hai cái nón, cho một vài khách hàng đội nữa.

*Ba là: Nếu người dân trong vùng (trong khu phố, quận huyện, thành phố) bắt buộc đội nón bảo hiểm, họ chỉ chạy ra chạy vào gần gần khu chợ chồm hổm, cũng phải xách nón theo sao?

*Bốn là: Ví dụ như cô dâu sáng sớm chạy xe cúp đi làm tóc, uốn tóc, trang điểm để lên xe hoa, buộc lòng cô phải để đầu trần.

*Năm là: Hằng trăm, hàng ngàn học sinh, sinh viên đến trường, có cả ngàn cái mũ bảo hiểm. Nếu để ngoài xe không bảo đảm. Nếu mang vào lớp thì kềnh càng, lại không có chỗ cất. Làm sao có chỗ ngồi học? Cũng thật bất tiện ha. Bao giờ tất cả những người chạy xe gắn máy trên “xa lộ an toàn” có đầy đủ mũ bảo hiểm. Hy vọng ngàn năm mây bay, ít ai bị tai nạn.
- Giống hệt như bên BangKok. Họ rất nghiêm trang chỉnh tề chấp hành luật giao thông - Là điều rất mừng.

_ * _

Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
Trân trọng,
Ái Ưu Du

Ái Ưu Du
#196 Posted : Wednesday, March 19, 2008 10:15:31 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

*

Hoài Hương Xưa

Phần Thứ Ba

Chương 35


Date: Dec-12-2004 > 10:05:20
from: khanhson21@saigon.com
MIME-Version: 1.0
To: ti1o@yahoo.com
Subject : Gửi em: Một đoá hồng thắm sắc tin yêu - # 4.054
Content-Type: multipart/alternative;
boundary="0-1385824307-1102581729=:2514"



GỬI EM MỘT ĐOÁ HỒNG THẮM SẮC TIN YÊU

*

Chào Hương em yêu,

Gần đây, lúc 4 giờ sáng, anh hay đi tập thể dục lòng vòng khắp Sài Gòn, Phú Nhuận, Gia Định. Vì đi bên ngoài thoải mái hơn. Chứ đi vòng vòng trong công Viên Lê Văn Tám, sát nhà anh ở Hai Bà Trưng, chán quá! Vã lại, có một hôm, anh thấy bà Nguyệt đang đi tìm tìm anh. Nên anh vội vàng “hồ, biến”, để khỏi gặp mặt.
Chán lắm rồi. Em à, đã từ lâu, anh không hề hay biết gì đến bà ta cả. Nhưng lâu lâu bả vẫn “canh me” anh. Và, có một lần anh cùng bà Kìm, anh Vượng, anh Ba, anh Bốn, anh Nuôi, ngồi uống cà phê, đấu láo với nhau bên công viên. Thì bà Nguyệt vì giận dữ và ghen tuông với Kìm đang cặp bồ với anh. Nên nó đã tới bên bàn anh, đá bàn đá ghế, và sừng sỏ với anh. Nên Nguyệt bị Kìm (làm ca-va hồi trước, đã có ba bốn đời chồng, bi giờ bả sống tự do và cặp bồ "fairplay" chơi, khơi khơi), Kìm hung dữ bốp chát, mắng chửi lại Nguyệt rất đau. Kìm nói:
- Cô không phải là vợ anh Hoàng. Không còn là bồ bịch gì nữa. Ảnh cặp với tôi là chuyện thường. Đàn ông thiếu giống gì, mà cô phải chạy theo khóc lóc với một người đã ruồng bỏ cô há?
Xin em hãy tin tưởng anh: Anh không đi ngược lại với quyết định của mình. Lâu rồi, nó không thấy anh, nên đi rảo tìm ấy mà! Anh không muốn cho nó gặp, thì có Trời mới biết anh đi đâu, làm gì. Anh chuyển hướng đi tập, khỏi mất công phiền toái. Em nhỉ! Ngoại trừ vài lần anh đi chợ Tân Định nó thấy anh, liền cua cúp xe trước mặt anh. Chận đầu như muốn “làm quen thân yêu lại”. Anh vội lùi ra, lũi dzọt đi thật nhanh! Nó cười toe toét nhưng chưa kịp ngỏ lời.
Anh đã cho em biết là bi giờ, anh “dứt khoát” hẳn với nó rồi. Không phải là anh sơỡợ em buồn, mà “giấu diếm” em. Chẵng qua chuyện tình hờ nầy chả là “cái quái” gì!
V/v con Nguyệt, hay con Kìm” thì chả có gì ầm ĩ cả! Anh thừa sức đối phó lại những “thủ đoạn của chúng nó”. Thứ nhì là anh chán cái “xã hội” thu hẹp bên công viên kinh khủng! Toàn những thứ “lắm chuyện” xầm xì bàn tán, thêu dệt, gán ghép, cặp bồ cặp bich, ghen tuông. Cũng may là em nghe chuyện, mà còn sáng suốt, bình tĩnh. Chứ không thì, em mò về Việt Nam vừa tốn kém, vừa vô bổ, buồn phiền. Thì thật đáng tiếc. Cũng như sự chờ đợi, vun đắp tình yêu của anh bấy lâu, sẽ đem đổ xuống sông, xuống biển! Tự “tụi nó” bu anh, chứ anh chỉ thích bình yên. Anh nào muốn gây sóng gió đâu em!
Anh đã từng nhấn mạnh: Chỉ có niềm TIN YÊU mới dung dưỡng mối tình thắm thiết, dù xa xôi cách trở muôn trùng - ngày càng bền lâu. Chớ để dư luận hay tin đồn, gây nghi kỵ - Vô tình giết chết chúng mình đó. Em ơi!
Như em biết, từ lâu rồi, anh không gặp và chả cần quan tâm tới nó nữa. Không ai trên cõi đời nầy ngu xuẫn đến độ: đi liếm lại bãi nước đờm bọt, mà mình vừa nhổ ra khỏi miệng, rơi xuống đất. Anh không phải là thằng điên cuồng, mê muội, tiếc rẻ gì! Con đàn bà đó không xứng đáng để mình nhắc đến. Anh từng nói với em, đừng quan tâm về chuyện đã qua. Quá khứ không tốt đẹp, thì gợi nhớ làm gì hả em. Nhất là quá khứ đó gợi lên sự đau buồn kinh khủng cho nhau.
Vậy, em hãy sống với hiện tại. Còn chuyện gì em nghe được; hãy cẩn thận suy nghĩ. Em đừng vội kết tội, lên án. Nếu chưa xác định và có sự xác nhận của chính anh – Nghe em. Vì vậy, em ơi! Hãy thận trọng với dư luận. Người thì có người tốt, người xấu. Một lời nói của họ, có nhiều ý nghĩ khác nhau. Em đừng vội tin, mà tự làm khổ thân và buông xuôi cuộc tình; Vốn đã có quá nhiều sóng gió, lao đao từ 45 năm qua.
Chúng mình đã biết nhau từ thuở nào, đã yêu nhau tha thiết bao năm rồi. Hãy suy nghĩ cho chính chắn. Chứ không phải cứ một lần “nghe ai, là em lên cơn” đòi về đây “dứt khoát” với anh. Anh thử hỏi em: Em muốn dứt khoát, có nhiều cách dễ dàng quá! Cần gì em phải về đây, dứt khoát với tình yêu gần như file://bat tử rồi.
Hiện tại và tương lai em vẫn là “kẻ chiến thắng toàn vẹn” trên mọi lĩnh vực. Em phải mạnh dạn, cương quyết hơn. Vì em đã có anh bên cạnh. Anh yêu em nhiều. Là đồng minh đồng thời là hậu phương vững chắc vun trồng tình yêu bền chặt. Em phải tự tin, thì còn sợ quái gì!?
Những điều anh nói ra, là do chính trái tim anh. Em ơi! Vì không có ai trên cõi đời nầy có thể làm cho anh xa rời em được nữa đâu! Nhưng, chỉ có em! Vâng chỉ có em chính là người quyết định kết thúc cuối cùng câu chuyện tình yêu nầy.
Hãy tin tưởng. Hãy mạnh dạn để sống với cuộc tình đã có quá nhiều chông gai, truân chuyên, cay đắng bẽ bàng! Chúng mình đã đi gần hết đoạn đường khá dài. Nay sao em lại do dự, ngập ngừng, chùn bước đến thế hở Hương? Em đừng thèm quan tâm - và nhất là - em đừng thèm nghĩ ngợi gì đến mấy con đàn bà cũ rích kia nữa.
Em hãy nhớ: Đó là một quá khứ đáng nguyền rủa. Đó là những thử thách gay go nhất của đôi ta. Chúng ta giữ nhau, không bằng xiềng xích hôn nhân. Mà giữ nhau bằng sợi dây tình yêu rất mong manh. Nhưng có thể ràng buộc cả đời người: Đó là sợi tơ hồng ươm mộng đài nguyên!
Hôm nay, anh xin gửi em một đoá hoa hồng thắm sắc tin yêu, để chứng tỏ sự kiên định tình cảm và trong sạch từ anh. Mong em đừng để những điều phiền toái gợn sóng trong lòng, làm bâng khuâng sầu héo nữa. Hãy tin yêu nhau mà sống nghe em! Đừng làm hoen ố tình yêu mình bằng những chuyện không đáng, làm cho vết rạn trở lại > vì những chuyện vu vơ.
Chúng mình phải chiến thắng định mệnh. Mình còn đương đầu với những chuyện âu lo khác quan trọng hơn. Hơi đâu em nghĩ chuyện ba xàm ba láp cho mệt. Không ít thì nhiều, làm gì cũng có điều ve tiếng ong xầm xì, bàn tán, khi anh đang sống độc thân tại chỗ! Hãy sống vì nhau, chứ không sống vì “tin đồn” đôi khi chỉ vì cái “lắm chuyện” mà ra. Họ tưởng như vậy là giúp em à!? Thật ra phổ biến những điều nầy, chỉ làm em thêm bối rối. Chả lẽ em không nghe họ hay sao!? Khổ nỗi, em nghe họ mà im hơi lặng tiếng, không nói với anh. Thì bên nầy, anh vô tư bình thản, đi đây đi đó, như chả có chuyện gì xảy ra. Thế là... đâm ra có sự hiểu lầm. Thảo nào dạo nầy em ưa hỏi nhẹ anh:
- Dạo nầy, anh ưa cỡi xe cúp đi lung tung với mấy “bạn già”. Anh chở “ai” tòn ten đằng sau yên xe, mà lả lướt vậy!?
Anh đâu có ngờ có người “mách lẽo” với em! Thật ra vì quá buồn đó em ơi! Càng không ngờ em nghe rồi, âm thầm đau khổ, chán chường đến thế!... Giờ nầy, sao mình dễ dàng để cái chuyện “ruồi bu” phá bĩnh mình như vậy!? Trong khi thật ra mình vui lắm! Vì em, anh đã thay đổi, đã “lột xác” (hay là như em nói: Anh tuổi con rắn, thì “rắn lột da” nè).
Đúng như em nói, vì sao mà anh tự tìm cách đối phó với những bất trắc. Anh hiểu chứ, em rất ghét nếu không muốn nói là căm thù chuyện anh lăng nhăng. Nên anh không nỡ làm em đau khổ thêm. Chúng ta nên sống với niềm tin yêu mãnh liệt và trong sáng. Cương quyết kết thúc câu chuyện tình mình đã gần nửa thế kỷ. Không dễ dàng gì chịu bị hoàn cảnh xé cho tan nát nữa đâu em! Em chịu không?
Vậy thì, em đã hiểu cho lòng anh rồi nhe. Em cứ tin đi. Anh không thể phụ lòng tin yêu của em đâu. Em ơi! Hãy vị tha mà tha thứ cho nhau. Nếu cứ ngồi đó mà trách móc. Thì cả đời vẫn không hết chuyện. Khoảng xa cách muôn trùng nửa vòng cầu nầy, đã nhiều lần gây đớn đau & hiểu lầm. Xin nhất quyết với nhau là đừng cố chấp. Rộng lượng thứ tha anh thêm một chút em nhe. Còn chuyện em đề cập đến “hai con kia”, anh xin thề là anh không hề nghĩ ngợi gì cả. Em nhớ lời anh thường nói với em không:
- Bây giờ và mãi mãi... Anh chỉ còn có em. Anh chỉ còn “mùi của Hoài Hương Xưa” thôi. Anh dứt khoát không còn ai. Ngoài ra, chả có ai hiểu anh sâu sắc. Chịu đựng được anh bền bĩ - Như em đâu.
Anh không đính chính hay nói gì thêm nữa. Bộ em tưởng là: Cần phải có sự ưng thuận - hay cho phép của em – Anh mới có thể khẳng định, hay tự ý làm điều gì anh ưa thích sao!?
Khi anh nói là: Anh đã dứt khoát. Cũng như ly nước đầy đã đổ hắt xuống đất. Nếu em hốt lại được một giọt không dính tí bùn nhơ. Thì mới có chuyện anh trở về với mấy con nhỏ kia! Trời đất ơi! Sao em lo bận tâm chi mấy cái chuyện “ruồi bu kiến đậu” cho mệt xác thế chả biết!
Thật ra, em thừa biết cái tính của anh: Anh không hề thách thức hăm he gì em! Em nỡ lòng nào đáng giá anh thấp như thế! Có TIN ANH, thì tin cho trót. Đừng để bất cứ chuyện gì xen kẽ vào, lầm vẩn đục sự trong sáng của tình mình. Có nhiều điều anh muốn nói. Nhưng xét ra chả ích lợi gì! Thư em, quả thực là một cú shock lớn cho anh. Nếu không muốn nói đó là sự xúc phạm tình yêu, đang thời kỳ tuyệt đẹp.
Anh nhắc lại: Chính ANH mới chính là người - để EM hoàn toàn quyết định vận mạng tình yêu đó em. Mệt mỏi. Rắc rối và buồn phiền. Khổ lắm. Kỳ xưa, những mâu thuẫn nho nhỏ, vô tình dần dần đẩy chúng ta đến bờ vực thẳm chia lìa vĩnh biệt. Những việc gì lỗi lầm của anh đã qua, xin đừng nhắc lại làm gì! Hãy để lại sau lưng cái quá khứ đầy sóng gió và cay đắng đi. Em đừng đeo nó và trở thành gánh nặng trĩu, mà mình phải mang theo suốt đời. Bây giờ thì mấy bà kia, chỉ là khoảng trống, sau những lần ấp ủ tình trần xác thịt! Là cái bình phông, che đậy sự thiếu vắng em.
Vì, lần anh em ta giận dữ chia tay cuối cùng, anh nghĩ là mình mất hết tất cả rồi! Anh nghĩ là em đã thay đổi và không còn “người xưa bến cũ”. Trong lúc anh bồng bềnh như con thuyền trên sóng cô đơn, thì hai ba bà kia đến trong thời gian tám chín năm qua, chỉ giúp anh “giải sầu”. Anh chả thèm lưu tâm đến họ.
Vậy xin em hãy để quá khứ ấy vùi chôn dưới lớp bụi thời gian, đừng khơi dậy làm gì. Chỉ thêm đau lòng nhau. Anh chợt hiểu: Ngoài em ra – Từ trong cuộc đời và cả trong thâm tâm, anh không thể thiếu vắng em. Không ai xứng đáng với tình yêu nồng nhiệt của anh cả. Mọi chuyện bây giờ XONG rồi. Mình là của nhau - từ thuở nào rồi! Em ạ. Chắc chắn điều nầy: Chỉ có em, mới xứng đáng có quyền ngự trị trong trái tim anh. Thể xác phiêu lãng nầy chỉ là cái bến tạm.
Cho dù anh có ở hay sống với người nào. Thực tế con tim anh vẫn quay về nguồn bến Hương xưa. Trong chiều sâu hun hút của tâm tư, anh vẫn hướng về em, với tất cả tình yêu ban đầu. Vì, làm sao có thể quên em được hở? Không có gì có thể chia cách tình yêu của anh & em đâu.
Nay, rãnh rổi, anh đi với anh Nuôi, anh Vượng (họ ở trong nhóm U-70 tuổi). Chiều chiều anh lấy xe cúp chở anh Nuôi, đến mấy quán bán bia uống vài chai Tiger, hy vọng có cái nút trúng chiếc xe BMW, hay trúng mấy đồng hồ Rolex, mỗi chiếc trị giá 20.000usd em ơi! Xe hơi trị giá đến 56.000usd. Rốt cuộc, hầu như các anh chỉ trúng cái móc inox chìa khoá, có pin bằng tia laser. Anh cho cháu nội của anh Nuôi chơi thôi.
Anh dừng thư. Hẹn em vẫn mỗi ngày hai lá thư. Cho anh xuống nhà thay tấm drap giường, xịt thuốc diệt “con sâu vòi vọi”. Sợ nó làm tổ ở đâu đó trong những thanh giường. Nó đã chích anh mấy cái, đau nhức và sưng u lên nhiều cục cứng ngắt. Đau nhức cả tháng, vẫn chưa tan. Kinh khủng quá. Sau đó, anh sẽ xem bóng đá nữa.
À quên: Anh xin tổng kết tài chánh trong “tổ kiến của chúng mình”:
- Từ tháng: 2- 1998 = Em để lại cho anh = 1.500.oo usd
- Từ năm 2.000 ->> 2.005 = Em gửi về anh tất cả = 26.000.oo usd - * Tổng cộng = 27.500.oo usd *Trong đó, do những lần đau ốm, hay anh đi mỗ mũi, bệnh viện. Đi các tours, hotels, (Ngày Tết, ngày lễ Noel, hay 30-4, em hay nói anh đi Đà Lạt nè, Cần Thơ, Mỹ Tho, Vũng Tàu v.v... Khi thì anh đi với mấy bạn Không-quân ở Mỹ về, hay đi bạn già U-70 ở Việt Nam đó).
*Đồng thời anh đóng tiền sữa nhà, *đóng tiền khu xóm, *dịch vụ lo hoá giá nhà, mong sau nầy có sổ hồng, thì dễ bán nhà. *Tiền sữa xe, tu bổ xe của anh và con bé X-Tư *Tiền sinh nhật các con, cháu nè. *Tiền quà bánh cưới hỏi đám tiệc v.v...
*Mặc dù em biết là tiền lương tháng (con gái đã nuôi anh). Con gái đã lo cho anh đầy đủ! *Nhưng, anh bàn với em là chuyện tiền bạc em đã gửi, chúng mình không nên nói cho các con biết rõ đâu em. Không phải việc gì cũng nói hết ra đâu em à. Vì... Đôi khi anh phụ đập vào các khoảng chợ búa linh tinh, hay anh cần dùng bất thường khác. Anh cần có những khoảng tiền riêng là vậy. Vật giá ngày càng tăng lên vùn vụt. Anh đã chi dùng vào trong “tổ kiến của chúng mình” một mớ. Nên đã vơi đi kha khá.
Bây giờ còn 15.800usd (29.000usd nói trên - Ấy là anh không tính những khoảng tiền linh tinh, mà em gửi lắt nhắt cho anh- Khi 500 hay vài ba ngàn, để chúng ta cho bà con anh em, bạn hữu, hay là cứu trợ đồng bào bị thiên tai, bão lụt, v.v...).
Á, suýt nữa anh trúng số độc đắc cặp 100 tờ rồi em. Anh chỉ thiếu, sai một con số thôi. Là anh đã “rước nàng dzề dinh” - Nếu mà trúng số, thì anh có đến 500.000,oo usd, (tính theo tiền Việt Nam mà ra). Thiệt là vô cùng tiếc! Ôi Trời! Anh tiếc ngẩn ngơ cả tuần. Anh phát ốm phát đau đây em ơi! Anh vẫn mua số đề và vé số đều đều. Như mua hy vọng mà em.
Mỗi chiều sau khi đi ăn tối ở ngoài tiệm, anh chỉ nấu ăn có buổi trưa thôi. Còn buổi tối anh đi ăn ngoài. Cho anh đi thong dong chút, chứ em cứ nhốt anh cả ngày trong 4 bức tường ngột ngạt, chắc anh chết sớm em ơi! Về nhà lúc 19g, anh sẽ check thư em và xem bóng đá trước khi đi ngủ nhe.
Vậy, chào em nhé.

Hoàng,

_ * _

Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
Trân trọng,
Ái Ưu Du

Ái Ưu Du
#197 Posted : Tuesday, April 1, 2008 4:53:37 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

Hoài Hương Xưa

Phần Thứ Ba

Chương 36


NAM - KHOA Y - HỌC






Tôi không ưa bà Hoà, bà vợ bé của Tấn. Vì cho rằng: Bà Hoà giựt chồng người! Tôi nghĩ cánh đàn ông các anh bênh vực nhau. Nhất là Sơn với Tấn thân thiết từ hồi bé, coi nhau như ruột thịt. Con Sáu ngồi nói chuyện với anh về bà Thuý. Nó nói là:
- Cháu kêu bà Thúy bằng dì. Cháu mới thấy thấm thía nỗi đau của dượng Tấn. Chỉ vì dì Thúy và dượng Tấn bồng bột vội vàng làm đám cưới. Khi họ chưa thật sự thấu hiểu nhau. Khi về làm vợ rồi, thì mới lộ ra cả trăm điều, mà không ai có thể ngờ! Nhất là sau nầy, khi dượng Tấn đã thành danh trên đường đời. Dượng Tấn càng không thể chấp nhận có một người vợ kém sút mọi mặt. Dì Thúy vốn là cô gái nông thôn, nên hơi nhà quê, ít học. Vì thế lối ăn nói thiếu suy nghĩ, và xử lý kém cỏi không tế nhị, vô duyên lại trẻ con. Cộng thêm cái tính lười biếng vô trách nhiệm. Ở nhà dì rông rống không làm gì cả, dì Thúy đi ngồi lê đôi mách hàng xóm, nói xấu người nầy, chê trách người kia. Dì Thúy chẳng chịu đi chợ búa cơm nước, chồng đi làm về luôn đói meo. Dì không biết ngọt ngào chia sẻ với chồng, cũng như không đảm đang. Dì Thúy nói:
- Tội gì chợ búa cơm nước cho mệt. Ổng làm tới chức bác sĩ, có nhiều tiền, tui cứ kêu cơm tháng ăn. Tội gì chui vô bếp cho khổ!
Tôi ngậm ngùi, nghe cô cháu gái kể tiếp:
- Đúng ra, Tấn rất mất mặt với bạn bè khi mang vợ ra ngoài xã hội giao tế. Bà Thúy luôn đốp chát những câu vô duyên, thiệt như gáo nước tạt vô mặt bạn. Sau nầy, Tấn gặp bà Hoà thì khác hẳn. Bà Hoà thông minh, tế nhị, khôn ngoan, đảm đang, vui vẻ. Tấn yêu bà Hoà. Có thể nói Tấn rất hãnh diện vì đã gặp và yêu bà Hoà. Vì thế, thời gian sau bà Thúy vợ lớn cứ “ngồi trong bóng tối”.
Tôi nhìn anh dò hỏi. Anh gật đầu:
- Anh nói nghe thật lạ lùng!
- Vậy mà thật đó. Bà Thúy có ba đứa con khôn lớn, thành đạt cả. Các con Tấn rất yêu mẹ. Thứ hai, Tấn đã tạo cho bà Thúy cái nhà, có cửa tiệm, để các con cùng mẹ chúng nó sinh sống. Tấn chưa hề ly dị với bà Thúy. Trên pháp lý mọi tài sản đều là của Tấn. (trừ khi Tấn làm di chúc để lại). Theo anh nghĩ Tấn không ngờ... Nên, em đừng nghĩ rằng bà Hoà “cướp” hết: Chồng, và 2 tài khoản: Một bank tiền Việt Nam. Một bank tiền USD. Mà, bà Hoà chỉ giữ mấy quyển sổ thôi. Bà Thúy mới là người thừa kế tài sản, (một khi Tấn nằm xuống). Nhưng ba đứa con bà Thúy xúm lại thuyết phục mẹ chúng, nên làm giấy ủy quyền cho bà Hoà; để bà Hoà có tiền nuôi hai đứa em nhỏ cùng cha khác mẹ.
Bà Thúy rất thân với bà vợ cũ anh. Hai bà có những tính giống nhau: Mỗi lần gặp nhau, là họ xúm lại chửi anh và Tấn ác liệt. Thật oan uổng và tội nghiệp lắm em! Hãy lấy công tâm mà xét xử công bằng đi.
- Anh cũng kinh khủng không vừa gì! Chắc anh muốn nói: Tình yêu chân thật phát xuất từ hai trái tim đồng điệu, thông cảm. Thì không có tội lỗi. Phải không nà?
- Anh không muốn tranh luận với em điều nầy. Có thể em nghĩ anh không công bằng, thiên lệch, khi anh đến thăm mẹ con bà Hoà, mà hầu như ít đến thăm mẹ con bà Thúy. Nếu em biết sự thật, em sẽ anh thấy có lý.
- Thôi, dù sao cũng chỉ là chuyện nói cho vui, chứ chả còn gì! Giữa hai bên chỉ còn là khoảng trống. Tội mấy đứa nhỏ là anh chị em ruột, mà hai bên chưa bao giờ quen biết nhau, từ xưa đến bây giờ, và mãi mãi... Họ đứng trên hai “chiến tuyến” khác hẳn nhau.
Hôm nay, chúng tôi đổ xăng thật đầy bình, ăn mặc chỉnh tề, mang theo mũ bảo hiểm. Để chuẩn bị một ngày đi xa. Chúng tôi đi thăm bạn thân nhất đời về cõi vĩnh hằng. Cơn triều cường chảy hoài đến khúc quanh cầu Bình triệu, Thủ Đức, ngập tới nửa bánh xe. Ồ, đó là nơi cái nhà ga cũ, nơi xưa kia anh và tôi bị ngập lụt nước mưa, xe chết máy. Chúng tôi bỏ cả giày dép ra, lội bì bõm dưới nước bùn sình hôi tanh đen ngòm. Hầu đẫy chiếc dream chết máy. Khó khăn nhọc nhằn vô cùng không đẫy nỗi. Hai anh em nâng đầu xe lên cao cho nước chảy ra. Sau đó anh đạp nổ xe, chen lấn để chạy nhanh về nhà. Chỗ đó vẫn luôn bị ngập lụt, mặc dù cơn mưa chiều hôm trước không to, nước không dâng cao lắm. Sơn chạy xe đến gần cầu Gò Dưa mới có đoạn đường tốt, xe cộ đông nghẹt. Chạy mãi đến gần ngã tư xa lộ Thủ Đức. Anh rẽ vào lối đi tắt, đi lung tung vòng vèo, đến nghĩa trang Đô Thành.
Gia đình Tấn chọn nơi nầy thật đẹp, đất gò cao ráo, phóng khoáng. Nghĩa trang rộng khoảng 10 hecta. Nơi mà hồi xưa trung tướng Mai Hữu Xuân đã mua, rồi nhờ ba của Sơn đứng ra cai quản. Tấn được vào nằm trong nghĩa trang nầy, (nghĩa trang tương tự như Arlington ở Washington DC), là một vinh dự to lớn, vì Tấn nổi tiếng là một bác sĩ giỏi.
Gửi xe xong, tôi mua một bó hoa và một bó nhang, hộp quẹt, nến. Hai chúng tôi đủng đỉnh tới ngôi mộ Tấn. Trước bia mộ ghi tiểu sử. Ngôi mộ xây đá cẩm thạch đen khá cao, rất đẹp. Hình Tấn thật phong độ, vui tươi. Sau lưng bia mộ lớn, là tấm bảng đen bóng, trên đó khắc ghi một bài thơ tiếng Anh, đại ý là:
“Lúc tôi mới sinh ra đời. Tôi khóc thét lên. Mọi người đều vui cười hoan hỉ. Nay tôi đã nằm xuống. Mọi người tiếc thương và than khóc. Chỉ riêng tôi lặng lẽ mỉm cười”.
I burst into tears at my birth.
Whereas one laughed for congratulations!
Now I am brought at an early grave.
One mourns over me crying.
Only me that I smile quietly. (Chuyển ngữ câu trên do: Thanh-tra Trung-học ĐHPC - ghi trong bài viết nầy. Không phải nguyên bản lời ghi trên bia mộ).
Tôi gửi anh Tấn lời tống biệt cuối cùng! Thôi anh Tấn ơi! Nếu ai có khóc thương tiếc nuối anh. Thì... Bây giờ họ phải đành chấp nhận sự thật của tạo hoá ngàn năm an bài. Gặp gỡ rồi chia tay. Có tựu rồi tan. Có sống rồi phải chết. Ai ai cũng phải bước qua “cái Ải buồn đau” nầy!
Tôi thật buồn và rất qúy trọng anh Tấn. Nhớ ngày đầu tiên cách đây vài chục năm, tôi biết anh Tấn, là hôm đó Sơn và tôi chia tay nhau ở trên bến xe, gần tiệm cà phê Domino. Tôi thấy anh Tấn thật vui tính và hiền.
- Tấn cũng “đào hoa” ra phết đó em à. Ai có ngờ con người coi như có vẽ chậm chạp, lù đù, hiền lành, ít nói. Thế mà có khối bà, khối cô mê Tấn tít thò lò! Bà Hòa nói: Kỳ xưa, anh Tấn bị “hai bà: vợ lớn, vợ bé” đuổi ra khỏi nhà. Tấn phải đi lang thang ngoài phố, ăn cơm quán, ngủ hotel. Ấy là vì hồi đó Tấn lại cặp một con bồ khác. Anh Tấn định thuê nhà để nó về ở chung. - - Trời! Thì hồi đó chính Sơn thuê nhà cho Tấn ở đó mà. Khi anh Tấn chết rồi, lại có cô bác sĩ nào đó, trẻ măng mê anh Tấn hết sức. Lúc sắp sữa liệm, cô ta chạy ra ngoài khóc nức nở!
Sơn trả lời bà Hoà:
- Đúng rồi! Cô bác sĩ nầy trẻ tuổi lắm, cô chỉ hơn con của Tấn năm bảy tuổi là cao. Tôi có biết cô ta. Theo tôi nghĩ có lẽ do cô ấy quý trọng tài năng của Tấn, thì đúng hơn. Nghe chị nói tôi mới té ngữa ra. Ai dè cái bề ngoài đạo mạo, nghiêm trang. Mà ẩn chứa trong lòng những sống động tình cảm sôi sục chứ. Chỉ có điều làm sao mà anh ta “dàn xếp” hữu hiệu khi chia tay bà nầy bà kia yên ổn. Tôi còn nhớ có lần chúng tôi gặp nhau, Tấn mời tôi đi ăn cơm rồi giành trả tiền. Tấn moi trong ngăn bóp tờ một trăm xếp nhỏ xíu, nhét kỹ một góc kín.
- Giờ chết đi, anh Tấn chả mang theo được đồng nào. Thậm chí mấy nút áo, nút quần, cũng bị lặt lại trên trần thế. Theo tục lệ Việt Nam, họ nói phải cắt để lại, không có đem theo sắt đá nút neo gì hết. Xác mới nhẹ nhàng, dễ siêu thoát.
Tấn chết đi rồi, còn để lại mối ưu phiền cho hai bà vợ, cùng bầy con hai dòng máu một cha khác mẹ, quả thật là buồn! “Một vợ nằm giường lèo. Hai vợ nằm chèo queo. Ba vợ ra chuồng heo mà... nằm”. Thiệt! Xét cho cùng, tôi vẫn thấy thương bà vợ lớn hơn. Bà lớn tất nhiên không khôn khéo, thất học, không biết cư xử, không biết cách giữ chồng, (như lời cô Sáu và anh nói). Nên bị người khác giựt chồng là phải!
Tuy nhiên, tôi nói:
- Vì bà lớn quá yêu chồng, sợ mất chồng, nên “kè kè giám sát” từng hành vi, cử chỉ chồng. Khiến anh ta nổi giận mà... xa! Còn bà nhỏ lanh lẹ, khôn ngoan, có học, tinh tế hơn! (như lời anh ca tụng). Bà Hoà biết là Tấn có vợ con “đình huỳnh”. Nhưng vẫn có cách chiều chồng người. Vỗ về an ủi chồng người! Rồi đương nhiên nhào vô giựt chồng người... Anh cho là... là phải nốt!?
- Thôi em! Moi móc làm gì. Chuyện buồn mà! Duy có một điều vô cùng nuối tiếc về Tấn. Anh ấy đã làm một chuyện rất tốt đẹp, mãi lưu truyền đến nay. Mặc dù Tấn chết đi, nhưng anh ấy đã để lại một kho tàng vô giá cho y học (nói chung, và cho cánh đàn ông nói riêng). Nếu em nhìn đúng khía cạnh nghề nghiệp chuyên môn của Tấn. Em sẽ không nghĩ là Tấn “khích dục hay gia tăng độ dâm đãng”.
* Đây là một khía cạnh của xã hội. Rất ít ai dám đề cập đến. Ai cũng sợ nó. Vì, nó tế nhị, nhạy cảm. Vã lại nếu đàn ông mà không “làm tròn bổn phận” người chồng với vợ. Nhút nhát thú nhận “mình bất lực” thì còn gì là “đàn ông tính”!
* Khoa Y học NIỆU nầy, được chính thức công nhận chỉ chừng 15 năm nay. Gọi là Nam Khoa Andrology, được phơi bày ra dưới lăng kính Y Học nghiêm túc, cần thiết rất khoa học (chứ không phải dưới lăng kính kích dục, cường dục hay vui chơi). Trước kia, chỉ có khoa trị liệu về các bệnh liên quan về Niệu. Còn chuyện “tế nhị phòng the”, ai ai cũng sợ lộ ra. Họ cứ sợ là nói ra thì...
Tôi có một phần suy nghĩ trong vấn đề nầy:
- Nhất là một số các bà vợ, cho rằng chồng mình bay bướm đàng điếm ăn chơi, sa đoạ mà ra nông nổi! Chứ gì!?
Sơn phản đối kịch liệt:
- Tầm bậy nữa rồi. Khoa nầy hiện nay đã chứng minh được sự cần thiết của môn y học. Dân số trên thế giới đa số trên 65% đã rơi vào tuổi khá cao, nếu chưa muốn nói là già. Còn lại 35% là tuổi trẻ. Do đó những vị cao tuổi của NAM và NỮ, đều tối cần thiết là Andrology. Nếu họ muốn có cuộc sống hạnh phúc lứa đôi trường tồn. Vấn đề Tấn theo môn Nam Khoa nầy, không phải tự do Tấn hứng khởi, mà là do một giảng sư đại học Y khoa: Lichsteinberger là tên của vị linh mục khả kính dòng Tên, nhưng ông là một bác sĩ tài ba, xuất chúng.
- Em nghĩ anh Tấn chọn ngành Y nam khoa nầy, chỉ vì xu hướng cá nhân.
- Không đúng đâu. Trước kia, Tấn chỉ là một bác sĩ đa khoa giỏi. Sự việc nầy chỉ tình cờ mà thôi: Một bác sĩ giảng sư dòng Tên đã tâm sự với Tấn:
- Anh nên chọn về ngành Y-Nam-khoa. Vì cánh đàn ông các anh rất thiệt thòi. Anh có điều kiện, nên lưu ý về khoa nầy. Tôi hy vọng anh sẽ phát huy y học Nam Khoa tốt.
Thế là sau khi về Pháp, vị linh mục đó gửi cho Tấn những tư liệu, tài liệu, sách vở, để Tấn nghiên cứu, học hỏi thêm. Ông bác sĩ dòng Tên ấy nghiên cứu kỹ về những cặp vợ chồng, về hạnh phúc lứa đôi trong xã hội. Nhưng ông ta không có điều kiện phát huy hay thực hành. Vậy, ông ta truyền đạt vấn đề nầy lại cho môn sinh giỏi là: Tấn, làm “truyền nhân” nghiên cứu kỹ càng thêm. Không biết bao giờ ngành Y học Việt Nam có được một bác sĩ khác được kết nạp vào E.D.A.C.T (Hiệp Hội Suy Nhược Dương Cường Toàn Thế Giới). Em không nên nghĩ đó là chuyện “kích dục” nha.
- Em chưa đồng quan điểm với anh... Về việc nầy tí nào cả.
- Tại sao em cứ nhìn “nó” với bản năng tầm thường, của một người đàn bà thu mình trong trôn ốc. Như con ốc len nhút nhát? Mà không chịu vươn mình lên đỉnh cao: Của y học và nghệ thuật!? Tại sao nữ giới đã có Phụ-khoa, có Sãn-khoa? Trong khi đó, người đàn ông bị “trục trặc” vấn đề ấy, lại không có phép đi khám Nam-khoa? Theo như thống kê gần nhất, người đàn ông từ 40 -> 60; 70; 80 tuổi - đa số bị trục trặc đến 65%. Không nhiều thì ít. Mà lại chả có môn y học nào chuyên trị! Hở? Không công bằng.
- Có phải anh gián tiếp khuyên em: Hãy cứ nhìn vấn đề Nam-khoa một cách khoa học lành mạnh. Em sẽ thấy nó bổ ích cho nhân loại. Chứ không phải chỉ để cánh đàn ông lợi dụng “ăn chơi” trác táng không thôi. Chắc?
- Ư Ứ Ừ. Nó phục vụ cho sự hoà hợp gia đình giữa vợ chồng. Em cứ nghĩ anh như thế, thật oan ơi ông địa! Đó cũng là quan niệm chung chung của một số ít phụ nữ, có chút mặc cảm về chồng mình.
- À ra thế! Vì đề cập đến chuyện nầy, có không ít đàn bà Việt Nam “kín cổng cao tường rất khó nói”. Biết thắc mắc cùng ai? Anh Tấn đã dày công nghiên cứu y học và mạnh dạn phổ biến trong Nam-khoa chuyên về Niệu-đạo-học Urologist nè!
- Đúng Mi Mi ạ! Hãy cùng nhau nhìn vào lăng kính Y-Học mà tìm hiểu, nghiên cứu, nghiền ngẫm lại em nhé! Anh chỉ công bằng và lấy công tâm ra, để cùng nhau chia sẻ tâm tình, tìm hiểu, nói vấn đề nầy cho vui. Anh không có ý tranh chấp chuyện nầy với em. Hay bất cứ với ai gì cả. Nhá.
- Dạ vâng! Thưa ông tướng!
- Ông...Tướng gì nào?
- Tướng công E.D.A.C.T (Hiệp Hội Suy Nhược Dương Cường Toàn Thế Giới) đó!
- Vậy, em sẽ là nữ “trợ tá đắc lực của Urologist” nha.
- Hahaha!!! Hổng dám đâu. Thưa Tướng công E.D.A.C.T !!!
Nay, chúng tôi đã già lắm. Cuộc tình giữa hai người: Thật ra chỉ là những ủi an trên phone, thân thiết, nồng nhiệt, vui vẻ. Chúng tôi nói những chuyện đôi khi ba xàm ba láp, cũng có lúc hữu ích. Cho đến ngày nào đó… có một trong hai người vĩnh viễn nằm xuống, đành đoạn rứt áo ra đi. Thế thôi.

_ * _

Kính mởi độc giả xem tiếp chương sau.
Trân trọng,
aud
Ái Ưu Du
#198 Posted : Thursday, April 3, 2008 12:15:38 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0


Hoài Hương Xưa

Phần Thứ Ba

Chương 37

Date: Tue, 05 – 12 – 2005 - 00:01:21 – 05 (PDT)
From: “Tony Dautry khanhson21@saigon.com - com Add to Address Book Add Mobile Alert
Subject Thư # 5,013: Bình đẵng trao đổi tâm tình.
To: “Wit < tio1@yahoo.com



BÌNH ĐẴNG TRAO ĐỔI TÂM TÌNH



Nhân có Hậu. Hạnh, Lợi, Phước, Bé, ở bên Mỹ về thăm. Anh đã đi chơi với họ cùng bà Kìm mấy ngày. Về nhà sau khi anh trao đổi với các con. Đêm về anh cứ nằm đó suy nghĩ và bị “dày vò” (như “ai” vậy, chả khác em tí nào). Các con đã quyết như thế, nghĩa là ngoài mẹ chúng ra, thì chỉ có em là người mẹ thứ hai thôi. Vì những câu mà bé Hai đã nói ra giữa bốn cha con anh, là do con nói ra tự đáy lòng. Chứ con gái lớn không bị ảnh hưởng, hay do tác động bên ngoài, như con bé Tư đâu em à.
Anh hiểu rõ con bé Hai rất quý trọng yêu thương em. Em biết là hồi xưa, thì bé Hai chưa mấy có cảm tình với em. Vì con khép kín, ít giao tiếp với em. Vã lại bé Hai ở gần mẹ nó nhất, dĩ nhiên bé Hai thương mẹ nó nhiều. Bây giờ thì ngoài em ra - Chả có ai có thể làm cho các con của anh thương đến độ đó. Bé Hai đã nói một câu, mà anh nghĩ đi nghĩ lại, như là điều mà chính anh đặt lời nầy vào miệng con vậy:
- Ba đã thấu hiểu và biết chắc rằng: Trên đời nầy chẳng có ai yêu thương ba, chịu đựng những cố tật của ba, như cô Hương! Điều nầy đã được xác nhận. Vậy, chúng con mong ba đừng làm cô Hương đau khổ thêm nữa. Ba đã gây ra nhiều sóng gió từ mẹ các con rồi. Và bao nhiêu đàn bà khác nữa. Bây giờ ba đã già, cần tìm một người hết lòng yêu thương ba, để sớm hôm có nhau. Chứ con không thể lo cho ba mãi.
- Các con lớn cả rồi. Chuyện tình cảm tự đâu dẫn đến. Không do ba muốn đâu. Tuy nhiên muốn thay đổi một cái gì, ít nhất cũng phải có một thời gian, một giai đoạn nào đó. Chứ không có thể một ngày mà bỏ lập tức. Khi ba đã quyết định dứt bỏ mọi thứ. Có tranh luận cũng không bổ ích gì! Chỉ hơi buồn chút là ngày ngày ba cứ bó chân trong nhà. Sáng sớm dậy đi tập thể dục. Về nhà 6 giờ sáng mua báo, uống cà phê, ăn sáng. 8 giờ xách giỏ đi chợ. Vền nhà lo nấu ăn. 12 giờ ăn trưa, ngủ đến 14 giờ dậy. Xem ti vi nếu hôm nào không có chương trình bóng đá là buồn. Chiều tối ba xách xe đi ăn ở ngoài. 19 giờ về nhà tự giam mình cô độc trong phòng, đến hôm sau. Ngoại trừ chiều thứ Bảy, ngày chủ nhật thì ba thường đi với họ.
- Ba phải quyết định đi. Nếu ba yêu cô Hương thật, thì ba phải trân trọng tình yêu. Còn không thì ba cứ nói cho cô rõ. Chứ ba không nên để cô về đây chịu khổ, chịu buồn đau. Vì những sự lăng lăng, và lấp lững tiền bạc của ba. Ba đừng vướng mắc mấy bà đó nữa. Phiền phức lắm. Ba biết rõ mà: Họ chỉ lợi dụng ba. Họ chỉ dòm vào túi tiền của ba. Chứ họ chả yêu thương già ba cả.
- Con ơi! Ba chán lắm!
- Vậy rất tốt. Ba nên tu thân tích đức, để phước lại cho ba đứa con gái của ba nè. Rồi đây ba về già, sẽ có người “nâng khăn sữa áo” cho ba. Ba thấy không, ở Việt Nam nào là ba quen với bà Loan bán xôi trước ngả tư,. Bà ta nghèo khó, cứ mỗi sáng khi ba đi làm, thì bà ta cố dành dụm cho ba mấy gói xôi to, để ba mang đi có mà ăn. Bà ấy chí tình như vậy, rồi ba cũng bỏ. Ba lại quen bà Nga chủ chứa, vì bà ta ghen tương với tay em út, mà bà ta đã chạy theo xách guốc cao gót đánh ba, chảy máu đầu lênh láng (khi ba ngồi trên xe xích lô, với gái đó). Ba quay qua cô Dậu, bà Hồng, bà Dung, bà Nguyệt, bà Kìm.
- Rồi họ cũng dông tuốt luốt. Mà ba biết có bà nào chịu đựng nỗi ba, như cô Hương không? Bây giờ ba sáu mươi lăm, sáu sáu tuổi, mà Ba cứ lông bông vậy, ba tính thui thủi một mình hoài sao? Đừng gây thêm cho cô Hương những nỗi đau nữa ba à. Tội lắm.
- Ba đâu vô cảm đến độ để cô Hươngi đau khổ thế. Ba vẫn yêu cô Hương. Nhưng bi giờ cô Hương phú quý cao sang. Có nhà cửa tiền bạc, con cháu sum vầy. Tự dưng cô phải trở về đây, để âm thầm chịu đựng thêm “cái của nợ là ba”, để trả giá cho hạnh phúc tình yêu. Thì cũng tội quá đi! Cuộc đời cô Hương từ tấm bé đến giờ, có mấy khi tìm ra hạnh phúc!
Rõ ràng bất công quá! Nhưng ba nghĩ rằng: Để đánh đổi lấy hạnh phúc của tình yêu chân thật: Là con đường sẽ gặp nhiều chông gai, gian nan. Mà cả hai người yêu nhau phải cố gắng vượt qua. Bi giờ ba không còn vướng chuyện “ruồi bu”. Không phải là ba muốn giấu diếm các con và cô ấy. Nhưng ba nghĩ đó là chuyện vặt vãnh của đàn ông, có khi phạm sai lầm. Từ lâu rồi ba đã ăn năn hối cải, mà con.
- Ba nhiều lần đã xin lỗi cô Hương rồi. Ba phải quyết tâm phải từ bỏ “nó”. Không để cho mấy bả có cơ hội gặp mặt, rủ rê ba vào chuyện yêu đương, cho yên thân ba. Cho nên, ba đã tuyên bố với các con là ba đã nhổ bãi đờm xuống đất mà. Chẳng lẽ ba cúi xuống liếm lại? ba là con người, chứ đâu phải là con vật, mà không có tự tin và tự trọng! Đã chạm trán và tỏ thái độ dứt khoát, ba nói huỵch toẹt, vạch từng cái xấu, ích kỷ, lạm dụng của họ rõ ràng như vậy rồi. Còn mong gì mà níu kéo. Đã không hợp nhau, thì “nghỉ chơi”. Như một vở kịch được dàn dựng rất công phu. Nhưng trước khi trình diễn, thì bị bể mất, đã bị lật tẩy, còn mặt mũi nào mà yêu đương? Vã lại họ cũng biết là ba vẫn yêu cô Hương nhiều. Họ không có cách gì giựt ba ra khỏi vòng tay của cô Hương.
- Tình yêu có ba thái độ khởi sự: - Thứ nhất là: Yêu thích ngay khi vừa gặp, nên cố tìm mọi cách để chinh phục (như tiếng sét ái tình). - Thứ hai là đã yêu rồi ghét, như chưa bao giờ từng ghét ai đến thế (vì người ấy đã gian dối, lừa gạt, xúc phạm đến tình cảm). Thứ ba là sau khi tìm hiểu, thấy không hợp, thì dửng dưng, như chưa hề yêu thương. Thì thật sự chả có gì gọi là tình! Phải không ba?
- Ừa. Cô Hương và ba đã từng bàn tính với nhau rất kỹ về việc nầy: Cô đã chấp nhận về với gia đình mình, tất nhiên cô không quản ngại việc nhỏ đó. Duy chỉ có điều cô e ngại là ba chưa “cải tà quy chánh, tu thân, tu tình”. Nhất là cô Hương nói: Cô không muốn về đây, để mang thêm gánh nặng áo cơm cho bé Hai đã nuôi ba, nuôi em, nuôi ông bà ngoại, nuôi dòng họ ngoại dì, cậu... Nên cô muốn là khi trở về ở hẳn Việt Nam, ít ra cô cũng có một số vốn kha khá. Để lo tuổi già hai người. Chứ không thể yêu nhau trong “một túp lều tranh, hai quả tim vàng”. Vấn để thiết thực là cơm áo. Nếu không có kinh tế, thì thử hỏi làm sao mà tránh khỏi lục đục trong nhà, sẽ không có cảnh “cơm lành canh ngọt” Do vậy, cô đã dành dụm gửi về ba cất giữ được vài ba chục ngàn USD, từ khoảng mươi năm nay rồi.
- Được như vậy, các con rất mừng. Ba phải dứt điểm với bà Nguyệt, bà Kìm đi.
- Nó đã đi khuất trong đời ba từ lâu. Ba đã nhiều lần “xạc” cho nó mấy trận, yêu cầu nó đừng theo quấy rầy. Hãy để cho tôi yên. Ba đã xác nhận trước mặt các con là:
- Các con đừng lo âu. Chuyện gì ba đã dứt khoát rồi. Thì quyết không thay đổi.
- Không cứ gì cô Hương mà các con biết được điều nầy, sẽ vui mừng lắm.
Hương em, trên đây là một buổi nói chuyện tâm tình thân mật rất bình đẵng giữa bốn cha con anh. Vậy mà, em vẫn chưa hoàn toàn tin anh hay sao? Còn chuyện Nguyệt, hay Kìm có nói gì với bé X-Tư. Điều nầy đối với anh lại ghét nhất, rất tối kỵ. Vì chả lẽ các con của anh lại có quyền lực gây ảnh hưởng đối với anh. Mà mấy bà kia kể lể khóc lóc với bọn trẻ? Em cũng thế. Mỗi khi các con có thổ lộ điều gì với em, thì xin em hãy nói cho anh biết. Nếu có, anh sữa sai. Em không thông đồng với các con, rồi rình rập anh đi đâu, làm gì nhé. Vì, chính anh mới là người quyết định đời mình. Nhe.
Anh muốn em chấm dứt tình trạng nghi ngờ. Mỗi lần nghi ngờ là làm chết dần chết mòn tình yêu. Làm sự xa cách giữa anh và em càng rộng lớn. Tại sao anh có thể tin em hầu như tuyệt đối. Mà ngược lại ở bên Mỹ em cứ phập phồng thấp thỏm lo âu, ngờ vực anh hoài? Anh sẽ rất buồn đó em. Anh muốn em phải có niềm tin yêu, để có sức mạnh vươn lên đỉnh hạnh phúc.

_ * _

Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
Trân trọng,
Ái Ưu Du

Ái Ưu Du
#199 Posted : Monday, April 7, 2008 3:29:14 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

Hoài Hương Xưa

Phần Thứ Ba

Chương 38

HÃY TIN YÊU



Date: Tue, 07 – 12 – 2005 - 18:21 –
From: “Tony Dautry khanhson21@saigon.com - com Add to Address Book Add Mobile Alert
Subject Thư # 5,014 – Oct-10-2005 : H ãy Tin Y êu.
To: “Wit < tio1@yahoo.com

Hương ơi!

Mấy đứa con cũng lo sợ, thắc mắc là anh sẽ quay trở lại với mấy cái bà “khủng khiếp”, (như lời bé Tư nói với bé Hai hồi sáng). Và khuyên răn anh đủ điều như trên đó. Có lẽ là do em “tâm sự” với các con. Em nghĩ rằng anh dễ bị dụ khị lắm ha!?
Càng nghĩ, anh càng thấy thương em. Nhớ năm 2001 khi em trở về Việt Nam, có lần em đã đưa cho anh một cái vòng cẩm thạch, và báo anh “để minh chứng tình yêu, anh đeo chiếc vòng ngọc vào tay cho em. Từ nay trở đi, sẽ không ai và không có gì tháo gỡ ra được”. Nhất là, em có mái tóc rất dài chấm mông, tha thướt óng ả dễ thương đến thế, khi tuyên xưng tình yêu, em đưa kéo cho anh cắt mái tóc mà anh rất thích.
Từ chối mãi không được, anh run run cầm cái kéo trong tay và cắt mái tóc của em ngắn lên tới cần cổ. Lòng anh vẫn nguyện mỗi khi mở tủ ra, thì anh luôn nhớ thương em, và giữ trọn tình chung thủy. Mái tóc nầy anh vẫn cất giữ lại trong chiếc hộp xinh xinh, anh bỏ trong tủ như là báu vật, minh chứng cho tình yêu nồng nàn của hai ta.
Chính vì quá yêu em, nên đôi khi anh phân vân lắm. Tình yêu đưa em vào một cái thế rất khó xử. Bên nghiã bên tình và đạo lý con người! Càng đi sâu vào chi tiết, anh thấy em càng còn trách nhiệm. Nếu chúng mình “có duyên số với nhau” thì định mệnh an bài cho sum họp rồi. Vì thế, anh hy vọng và sống trong tình yêu, anh chờ đợi sẽ có ngày định mệnh nối kết anh và em trở lại dây tơ hồng. Dù muộn màng cỡ nào. Vẫn có nhau trước khi nhắm mắt lìa đời. Thật ra, anh ít khi dám bàn bạc hay nghĩ đến điều gì xa xôi. Anh bị căng thẳng giữa hai vấn đề nan giải:
Một bên là tình yêu cá nhân. Một bên là tình yêu gia đình. Anh không muốn vì anh, mà em đánh đổi tất cả hạnh phúc xa hoa đang có. Về đây sống kiếp tơ tằm thiếu thốn, nghèo khó. Em đừng buồn khi anh phân tích vấn đề nầy tế nhị, để em thấu hiểu anh hơn. Ấy vậy mà anh vẫn ước ao sẽ có một ngày, ngày nào đó em trở về vĩnh viễn bên anh. Anh đã có tuổi rồi, chứ còn son trẻ gì đâu em!
* Em không nhớ sao? Hồi xưa anh đã từng nói với em: Anh sẽ nói với người con gái, tha thiết hơn là bạn thân. Em chưa là vị hôn thê. Em chưa là vợ của Hoàng. Em Hương Hương– vô cùng cần thiết - quan trọng hơn thế gấp ngàn lần, trong đời của Lữ Phượng Hoàng. Bởi vì Hương chính là Tình Yêu vĩnh cửu. Và, Hoàng đã yêu Hương nhiều. Yêu nhiều lắm! Bây giờ và mãi mãi... Hiến chương tình yêu nầy cao quý và trân trọng vô vàn. Không bao giờ thay đổi. Em thấu hiểu anh nhiều mà.
* Anh cũng giải thích cặn kẽ về hiện tại của em cho các con rõ. Em đã chọn rồi thì em không do dự băn khoăn. Tương lai của hai đứa mình. Cuộc sống thực tế mỗi ngày, và nhất là vấn đề tình cảm giữa chúng ta, các con đôi bên. Nếu mà các con tỏ ra bất kính đối với cha mẹ. Chẳng thà mình chết đi, còn sướng hơn. Duy có điều rất đổi mừng là chính các con của anh thật lòng yêu thương em. Hầu như là còn yêu thương gần gũi em hơn mẹ chúng nữa. Kỳ lạ thay! Điều nầy khiến anh rất vui mừng. Khi em đã có anh, thì em chấp nhận và từ bỏ tất cả! Đó là những bức xúc mà thỉnh thoảng anh vẫn giật mình và mất ngủ đó em.
Em đã biết dứt khoát lập trường của anh: - Chỉ có em: Hương là người yêu đầu tiên và là người cuối cùng duy nhất trong đời anh Hoàng. Ngoài em ra, anh không thể yêu bất cứ ai. Em nhớ nhe: Duy Nhất – Không còn con đường lựa chọn nào khác. Không có ai trên cõi đời nầy – có thể chia lìa anh và em (trừ phi CHÍNH EM mà thôi. OK?!). Hãy giữ vững niềm tin yêu và hy vọng để có đủ sức chờ đợi chiến thắng cuối cùng nhe.
Tạm thời, chúng mình phải xa nhau – là chỉ còn bức màn rất mỏng ngăn chia chúng ta. Tuổi thanh xuân đã qua rồi! Bây giờ điều thiết thực nhất giữa anh và em là sự hiện diện tinh thần vô cùng quan trọng. Chuyện thể xác chỉ là hàng thứ yếu. Hay nói đúng ra là hữu ích nâng vực tình yêu lên cao. Hãy tin tưởng nhau: “Yêu nhau không phải là chỉ để nhìn nhau, mà cùng nhau nhìn về một hướng”, như Exupery đã nói nghe em.
Vậy mà anh bị shocking nên cả đêm không ngủ được. Sáng nay anh bỏ đi tập thể dục, mặc dù đã ngậm hai viên sterpsil mà vẫn khan tiếng. Anh đã nói với em công viên kia là hiện thân của những phù phiếm nhất trên cõi đời. Người nầy đâm thọc người kia, mắng nhiết chà đạp nhau. Giống cái chuồng thú hổn tạp. Tiếc thay đó là những ông vua, những bà hoàng hậu, thái hậu, những quý công nương thơm ngát. Chả ai chịu nhận mình là phó thường dân nam-bộ! Nhưng bên trong họ ẩn chứa toàn là quỷ dữ! Họ bóp méo sự thật. Họ làm người khác đau đầu rồi tụm năm tụm bảy ngồi đó nói xấu, chà đạp nhau và cười khẩy.
Anh đã nghe anh Ba, anh Vương, anh Nuôi nói lại với anh, là họ nói nhiều điều “dựng đứng” về anh. Anh nghĩ “Thôi kệ! Ai muốn nói gì thì nói. Đó là thủ đoạn rất có dụng ý, chia rẽ anh và em.“Trâu buộc ghét trâu ăn”. Miễn sao em hiểu anh mới thành vấn đề. Nào ngờ có một vài kẽ đã gọi phone qua Mỹ để “méc em”. Em đừng làm anh nãn lòng, do những gì anh đã kể thật về anh, em nhe! Vì thế em nên rút kinh nghiệm từ nay hãy thận trọng.
Em không nhìn cái vẽ bên ngoài, mà đánh giá con người nha. Mấy người đó thâm hiểm lắm em. Làm sao em biết được bên trong lòng ai tốt, ai xấu, ai thương ai ghét mình. Không biết họ nghĩ gì! Em nên tin những gì đáng tin. Nghe những gì cần nghe. Ở đời mà! Có thể họ qúy mình, lỡ mình đụng chạm đến quyền lợi của họ, ngoài mặt họ tươi cười, nhưng bên trong họ sẵn sàng hạ mình, trả thù bất cứ lúc nào có dịp. Câu chuyện nay tạm gác qua một bên. Em đừng tự mình đi “bới lông tìm vết” hay “vạch lá tìm sâu” về dĩ vãng. Anh đã chán ngấy lên tận cổ!
Hãy nhìn vào sự thật, hầu biết cách cư xử với nhau cho đúng đắn. Anh tin qua cơn “chấn động tinh thần” nầy, em sẽ bình tĩnh trở lại, chuyện đã qua rồi. Xin em hãy để cho nó qua đi, và sẽ yêu anh hơn. Nhất là em nên thận trọng với những tin “hoả tốc”, kiểu giết người không gươm không dao nhe. Nếu em thấu hiểu được anh, thì anh sẽ rất vui mừng. Một lần thứ năm mươi (?!) Anh xin lỗi em đã vì anh, mà em buồn đau kinh khủng! Xin lỗi em. Hãy rộng lượng bao dung và tha thứ nhe.
Chào em nhé. Hẹn thư sau sẽ nói nhiều. Chúc em an mạnh. Anh rất nhớ em.
Hoàng

_ * _

Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
Trân trọng,
Ái Ưu Du

Ái Ưu Du
#200 Posted : Sunday, April 13, 2008 3:42:57 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

Hoài Hương Xưa


Chương 39


ĐIÊU NGOA








Hoàng tiên liệu những gì sắp xảy ra, thì Hương sẽ rất giận anh, khi anh vô tình để lại những thiếu sót, trong vấn đề giao tiếp hằng ngày, và trao đổi thư từ với bạn. Nhưng, với “bản chất” ưa trăng hoa bay bướm cũ, Hoàng nhũ thầm mấy bà đó đó chỉ là những chiếc bóng mờ. Và, Hương sẽ bao dung tha thứ anh, bao lần nữa.
Rồi Hương sẽ tin tưởng vào lời đường mật của anh. “Yêu nhau không chỉ nhìn nhau mà nhìn về một hướng”, như St Exupery nói. Hy vọng anh sẽ đến an ủi em trong lúc nầy.
Đây cũng là giây phút anh cần em nhất. Nên nhớ: Lúc nào, trong hoàn cảnh nghiệt ngã nào, thì Hoàng vẫn ở sát bên cạnh Hương. Chung lòng chung trí với em, từ đây cho đến phút cuối đời. Anh yêu em. Vì, Hương không chỉ là người yêu dấu nhất đời cuả anh - Mà, em chính là tình yêu cuả anh - Anh rất cần Hương. Ngoài em ra, anh chẳng thể yêu ai. Hương hãy đến cùng anh, để cho anh gục đầu trên vai em, thì thầm lời tạ lỗi.
Ấy vậy mà… Hoàng đang điêu ngoa bắt cá hai ba tay. Bây giờ, Hoàng viết thư thêm cho nhân vật thứ ba ở bên Mỹ đã ly dị chồng, sống phây phây: Trân Thu. Thư Hoàng viết vụng về hơn, lời thư không văn hoa bóng bẫy, trau chuốt như vẫn viết cho Hương, mà bị gò bó, gượng gạo, gấp gáp nôn nao, thiếu chính xác.
Thư anh vẫn viết E-mail cho “tên Hương” mỗi năm, mỗi tháng, mỗi ngày hai lần. Mấy hôm nay Hoàng viết thư cho Thu, đại ý copy những thư tình cũ từ Hương, không khác gì, nhưng anh chỉ sữa đổi tên người nhận, trích nguyên văn đoạn luộm thuộm thư sau:

Date: 01-20-2006 > 14:05:20
from: khanhson21@saigon.com
MIME-Version: 1.0
To: cungi077thu.com
cc: tmtfe@yahoo.com
Subject : Gửi Thu
Content-Type: multipart/alternative;
boundary="0-1385307-1581729=:2514"


Thu ơi!
Anh đọc thư em, mà lòng anh ngổn ngang trăm mối và ngậm ngùi. Nhưng anh rất mừng là hai đứa mình cùng MỘT QUAN ĐIỂM: Mối tình đó bất diệt. Vậy thì xin cứ để đó. Mình cứ TÔN THỜ nó, và xem đó là cuộc tình tuy đậm đà. Nhưng kết thúc rất có hậu. “Tình chỉ đẹp khi còn dang dỡ” mà em!
Vâng! Em cứ tự nhiên, vì anh cũng hiểu là công việc của em rất đa đoan và bề bộn. Tuy nhiên, vẫn drop cho anh vài hàng khi rãnh rổi. Vì như em nói đó: Bây giờ chỉ có sự cảm thông sâu sắc; Những gì tiềm ẩn được phơi bày.
Anh hiểu em, và ngược lại em cũng hiểu anh phân nào? Xin cứ xem mối tình cuả mình là giai đoạn đẹp nhất cuả cuộc đời nầy.
Nếu có kiếp sau. Nếu có... thì anh hứa với em là anh không để lỡ bước nữa đâu. Anh đã có em trong vòng tay. Và bỗng nhiên em thoát ra bay mất.
Nhưng ngược lại, em vẫn còn mãi mãi trong tim anh.
Điều nầy thì chỉ có anh biết, khi nào anh nằm xuống thì nó vẫn còn tiềm ẩn với thời gian và không gian. Em vẫn là mãi mãi, là ngàn năm Thu ơi!
Thôi thì như anh nói: Mình còn có thể nói cho nhau những gì mình từng ấp ủ tận đáy tâm hồn. May thay, kiếp sau còn ĐOẠN CUỐI cuộc đời - em đã hiện diện cho kiếp sau. Anh gửi lời cảm ơn em. Anh đã nhận được 200usd. Vâng! Anh sẽ nhớ mà, mỗi ngày anh đều viết cho em hai lần thư, càng dài càng tốt.
- một copy về điạ chỉ e-mail ở sở: tmthufe@yahoo.com; một copy về điạ chỉ e-mail cungi077.com.
Mấy năm nay chuẩn bị đón Tết, thì lu bu nhiều việc. Mặc dù năm nào cũng như năm nào: Anh vẫn đi trên đường một mình cô độc. Nhưng mùa xuân năm nầy, anh có em, và có thêm nhiều bạn đồng hành trong quá trình đớn đau nầy.
Anh tin rằng: Nếu em “Hét” được, thì anh cũng sẽ hét. Cho có thời gian và sự kiên nhẫn, cũng như ý chí quyết chống chọi lại mà thôi. ???!!! Điều nầy thì anh có thừa. Anh hiểu là anh vẫn có và vẫn còn em trong đời mà. Hãy đến với anh – Như cô thiếu nữ ngày nào em nhé. Mọi chuyện khác thì thời gian sẽ cuốn trôi đi. Anh cũng không quên cảm ơn sự quan tâm đặc biệt của em là: Em đã gửi anh 200usd. Và quyên góp bạn anh, sẽ gửi về thêm cho anh 2.000usd như em hưá.
Để hôm nào buồn buồn, thì anh nói chuyện phone tâm tình với em, ôi! chuyện gì mà mình nói phone vào lúc đêm khuya, từ bốn năm giờ liền vậy nhỉ!? Thì ra, vẫn còn rất nhiều điều, mà chúng mình chưa bao giờ thổ lộ với nhau. Gần tàn đời rồi em. Hãy nói cho nhau biết tất cả nhe.
Em còn nhớ anh thường viết cho em câu: Em không chỉ là người yêu. Mà, em chính là tình yêu?
Tạm biệt... Hẹn sẽ gặp lại em,
Hoàng

*
Eo ui! Cha chả chà! Sự thật tồi thế đấy. Hở Trời đất qủy thần thiên địa ơi?!
Bề trái cuả chiếc mặt nạ - đã bị lột phăng ra – Thô bỉ - trơ trẽn và trần trụi kinh khiếp tột đỉnh - đến thế ư!?

_ * _

Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
Trân trọng,
Ái Ưu Du


Users browsing this topic
Guest (12)
11 Pages«<891011>
Forum Jump  
You cannot post new topics in this forum.
You cannot reply to topics in this forum.
You cannot delete your posts in this forum.
You cannot edit your posts in this forum.
You cannot create polls in this forum.
You cannot vote in polls in this forum.