Welcome Guest! To enable all features please Login or Register.

Notification

Icon
Error

11 Pages«<7891011>
Ái Ưu Du &gt; Văn &gt;&gt; Những Truyện Tình Dài . . .
Ái Ưu Du
#161 Posted : Saturday, November 17, 2007 4:04:55 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

Hoài Hương Xưa


Chương 9

HƯƠNG XƯA






Sau khi tốt nghiệp khoá quân sự. Hoàng được bổ nhiệm về làm Tiểu đoàn Trưởng, Tiểu đoàn Tân Binh (khu nhà Sắt). Thế là anh phải dọn qua bên đó ở. Anh chỉ huy hơn một trăm tân binh Không-quân.
Thỉnh thoảng anh được đi phép về Sài Gòn (đến ba lần). Nhờ anh quen với chuẩn úy Nghĩa rất dễ thương. Anh Nghĩa vừa tốt nghiệp khoá 19 Võ Bị Đà Lạt. Nhờ Nghĩa, nên anh biết cách làm đơn xin phép. Khi đi ra ngoài trạm tiếp liên, Hoàng liên lạc với anh phi công Mỹ, xin đi ké phi cơ của USAF.
Có một lần, đang học ở Nha Trang, anh đi phép về Sài Gòn. Trên chuyến phi cơ quân sự đó, họ ghé tạt qua Đà Lạt, sẽ từ phi trường Cam Ly thả người xuống. Khi Hoàng đứng trên xe với gần chục mạng pilot khác. Vì anh còn là sinh-viên sĩ-quan Không-quân, Hoàng không được phép bay cùng pilot. Nên Nghĩa đã cho anh mượn áo quần bay của ảnh, để Hoàng mặc vào.
Xe chở các anh đứng lố nhố trên chiếc Dogde không mui, xe chạy lên dốc Lê Đại Hành. Hoàng thấy Hương đi trên phố, với bốn cô bạn gái. Anh mừng quá. Vừa gọi to tên “Hương! Hương”. Anh vừa ngoắt lia lịa. Rõ ràng Hương đứng khựng lại. Ngơ ngác nhìn quanh. Rồi em bình thản quay đi với bạn.
Khi xe tấp vào bên hông khu Hoà Bình. Hoàng vội nhảy xuống, tất tả chạy ngược trở lại tìm em. Hoàng chạy ngược chạy xuôi, anh tìm em khắp vùng đó, nơi em cùng các bạn vừa đi qua. Không hiểu các em rẽ đi lối nào, mà lẹ quá chừng trong làn sóng người đua nhau trẫy hội trên phố chiều thứ Bảy.
Vì anh nghĩ có lẽ em đã hết giận anh rồi. Nhưng định mệnh quái ác, đã tàn nhẫn xô hai người về hai ngả tách bạch. Không cho anh và em gặp nhau. Dù chỉ gần thật gần trong tầm tay. Dù chúng mình đang ở chung một thời điểm – đi chung trong thành phố nhỏ bé và thơ mộng.
Rồi mai đây, anh sẽ rời xa quê hương, sẽ ngăn biết bao sông, cách biết bao dặm trường xuôi ngược, núi non hùng vĩ và hiểm trở, biển cả mênh mông, xa diệu vợi muôn trùng hải lý, anh có nằm mơ, cũng không thể bơi về thăm em. Anh chẳng có giang thuyền, không có đôi cánh. Hai chân anh sẽ chùng bước ngập ngừng, anh không có gì, chẳng có gì tất cả. Làm sao anh có thể chắp nỗi đôi cánh bằng lướt gió tung mây, về cố hương, để anh tìm chút hoài hương xưa đã vụt bay ra khỏi tầm tay anh, bay hút ra khỏi đời anh!?
Thế là kể từ hôm đó, từ đáy lòng anh lại bừng thức dậy nỗi xót xa trong biển tình thắm thiết. Âm thầm mà sâu lắng. Hoàng lặng lẽ tìm về chút “mùi của hoài hương xưa”. Anh luôn luôn mơ về em. Anh ước mong mình hoá thành chú bướm, để có thể nhởn nhơ bay về đậu bên khung cửa sổ phòng em. Anh sẽ mỉm cười lẵng lặng nhìn em đi ra, đi vào, nhìn tháng ngày dần chết trong đời anh. Hay anh sẽ ru em ngủ, nhìn em sẽ êm đềm say sưa đi vào giấc mộng say, không vướng muộn phiền. Trong đó, anh mơ mình sẽ được đưa anh về trùng phùng bên em. Vì, em đã thôi giận anh và từ bi tha thứ anh mọi điều. Chúng ta sẽ vĩnh viễn yêu nhau, bên nhau.
Sự nghẹn ngào tức tưởi nầy, luôn dày vò tâm thức anh. Sau khi anh xa em, dư âm nầy luôn ràng buộc anh. Khiến anh ngẩn lòng. Em có biết không? Cõi lòng anh ray rứt, tan nát. Mà, chỉ khi nào còn một mình anh. Sống cho riêng anh, tình cảm thiêng liêng trân qúy ấy, nó lại chợt hiện đến. Thật đầm ấm ngọt ngào nhưng xa xăm. Diệu vợi...
Đến tháng 9 năm 1965, Hoàng được lệnh đi khám sức khoẻ, do USAF khám. Sau đó, anh được điều về Sài Gòn. Anh đi làm thủ tục an ninh. Thủ tục xuất cảnh. May quần áo lạnh. Hoàng cùng các bạn chuẩn bị đi Mỹ. Trên giấy thông hành ghi: “đi du học”, trong thời gian là 80 tuần lễ. Ôi cha ơi! Lâu quá đi thôi. Ngao ngán biết chừng nào!
Về đến Sài Gòn, anh lấy xe hơi của ba, đến đón Nghĩa cùng đám bạn hữu của Thu. Cùng nhau đi ăn, đi chơi, đi cắm trại. Trước đó, Thu gửi thư cho anh, cô nói là có bốn bạn gái cùng lớp, muốn kết thân với tụi anh. Anh hỏi bạn anh. Có bốn tên “tình nguyện” là Hiển. Vinh. Hùng. Cường.
Anh tụ tập họ lại. Viết bốn tên cô gái, bỏ vào cái mũ lưỡi trai. Xóc đều. Cho bốn thằng “bốc thăm”. là Hiển, với Hiền làm Hostess Air VN. Cường với Ngân. Vinh với Nguyệt. Hùng với Liên. Sau đó có hai cặp thành vợ chồng, là Hiển-Hiền. và Cường-Ngân.
Một hôm vào thứ sáu, anh và Thu đi ăn, đi chơi vui vẻ nguyên ngày. Cuối cùng cả hai vào nghỉ ở nhà của Trung. Anh và Thu nói với nhau nhiều lời hứa hẹn sắt son. Thề hứa suốt đời sống bên nhau, đến khi răng long tóc bạc. Anh và Thu có những giờ phút thắm thiết mặn mà. Nồng nhiệt cuồng mê. Quấn quít. Thu sẵn sàng hiến cho anh đời con gái.
Nhưng, khi đó bỗng nhiên hình ảnh của em xuất hiện. Rất ngây thơ. Dịu dàng. Khả ái. Đằm thắm. Tươi mát. Duyên dáng. Hồn nhiên xiết đỗi. Em hiện lên trước mắt anh quá rõ nét. Thật hết sức bất ngờ! Anh bàng hoàng mở mắt. Kịp ngừng lại, anh ngơ ngác nhìn quanh. Rồi anh nói Thu mặc quần áo vào đi.
Anh lặng lẽ nằm xuống, vắt tay lên trán suy nghĩ miên man. Thu thì chưng hửng! Chính nhờ “mùi của hoài hương xưa” rất vô tình, mà em đã đến bên anh kịp lúc. Để lăng lẽ thân ái cứu thoát nhiều đời con gái con nhà lành khác. Em nào có hay!?
Sáng thứ bảy, gia đình ba má, các chị. Em. Thu, đi tiễn đưa anh trên phi trường Tân Sơn Nhất. Anh và Thu còn lưu luyến. Bịn rịn. Đứng riêng ra một góc vắng. Hôn nhau. Như còn vướng cơn thèm khát cháy lòng, hai người xoắn xuýt lấy nhau suốt. Khi gần hết giờ, anh thì thầm bên tai Thu:
- Hãy trao cho anh kỷ vật nào, thân thiết nhất của em.
Thu vội vàng vào toilet ở phi trường. Lát sau, Thu trở ra nhét vội vào túi quần anh. Kỷ vật Trân Thu trao anh, lúc bấy giờ là chiếc quần xịp, kèm vài sợi... (theo lời anh đề nghị). “Cuộc tình đau muốn bứt da”. Thu chảy nước mắt vi đau. Biết đâu, ngày mai... sẽ xa biệt nghìn trùng!
Họ đã ra về hết. Khoảng chừng 11:45’ trưa. Anh hào hứng, mạnh dạn, vui vẻ bước lên phi cơ. Vài phút sau, phi cơ lăn bánh trên phi đạo. Càng lúc càng nhanh. Sau cùng mặt đất tách rời ra. Anh nhìn xuống. Đất nước Việt Nam. Xóm làng thương yêu. Cha mẹ. Chị em. Họ hàng thân quyến. Bạn hữu. Cô bồ nho nhỏ xa dần. Xa dần và mất hút tầm nhìn.
Phi cơ lao vút vào không gian. Nơi có từng tảng mây xốp bồng bềnh trôi dưới đáy phi cơ. Để lại vùng trời trắng xoá. Ươm vàng chói sáng. Mịt mùng. Mênh mông. Phi cơ của Continental Airlines loại 707, bay từ Việt Nam sang Manila. Ghé lại trạm tiếp tế nhiên liệu. Rồi bay sang đảo Guam. Wake. Sau cùng đến Honolulu.

_ * _


Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau
Trân trọng
Ái Ưu Du

Ái Ưu Du
#162 Posted : Sunday, November 18, 2007 5:18:54 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

HOÀI HƯƠNG XƯA

Chương 10

KIẾP PHONG TRẦN






Hương Hương ơi!
Lúc đó, bọn anh nói tiếng Anh, phát âm theo giọng Anh. Chứ giọng Mỹ chưa chuẩn xác lắm. Cho nên, khi đến Honolulu nghi ngơi. Họ cho xuống phi cơ, các anh đi vào trong mấy Mall lớn. Anh mặc quần áo nỉ màu xanh. Bên cầu vai có chữ VN màu đỏ rất to.
Các anh đi vòng vòng, xem hàng hoá chưng bày la liệt. Họ gọi, gọi mãi. Mà kỳ thực các anh chả “có ma nào” nghe.
Đến khi phi cơ phải rời chỗ đậu, ra ngoài phi đạo. Thì có vài nhân viên hàng không, phát hiện ra “tụi anh”. Họ vội vàng chở các anh ra xe (như lần trước anh đi Singapore vậy đó). Xe bus kèm theo chiếc xe kéo một cái thang dài.
Hai xe nầy lao vút ra phi đạo. Rất may là phi cơ ấy chưa ra đến đầu phi đạo. Phi công trưởng đang dừng lại Rurn Up Engine. Nơi để thử lần chót các máy móc thiết bị. Trước khi máy bay ra xếp hàng trên phi đạo.
Các anh phóng một lần hai ba bậc thang, liền chui tọt vào trong khoang hành khách. Các tiếp viên vội vã sắp xếp, chỉ chỗ ngồi, thắt dây nịt an toàn giúp cho các anh.
Trên phi cơ chiếu nhiều phim khá hay. Nhưng các anh vừa luyện chưởng qua cuộc “ma-rơ-tông” thừa sống bán chết. Mệt muốn đứt hơi thở. “Các cụ” mệt nhoài, đều ngủ say. Ngáy to như sấm.
Anh đã được dặn dò kỹ ở phi trường Tân Sơn Nhất. Nên khi đặt chân xuống San Francisco. Sẽ có sĩ quan liên lạc trực ở Atco.
Hoàng xin xe và trình báo hiện diện. Anh nhìn lại đồng hồ tay, chỉ mới 21:00’. Họ cho chiếc Bus chở tất cả các anh, về Hotel trong căn cứ. Tất cả anh em lo tắm rửa sạch sẽ, ăn uống và xem tivi, nghỉ ngơi thoải mái.
Ngủ qua đêm đó. Hôm sau có phi cơ chở cả bọn, đi về San Antonio (Texas). Vào trường học Anh văn ở Lackland AFB. Cách San Antonio độ chừng chục miles.
Có những điều ngộ nghĩnh kỳ lạ:

*Thứ nhất là: Khi nhìn trên không trung, lúc phi cơ nghiêng cánh, chuẩn bị đáp xuống phi đạo. Các anh nhìn xuống, thấy choáng ngợp. Bởi xe xe xe… Toàn là xe hơi, đủ kiễu, đủ màu. Trên những parking lot khổng lồ, chứa toàn xe. Các anh là công dân Việt Nam. Vừa mới đặt chân lên đất Mỹ, thấy cái gì cũng to. Cũng lạ. Rộng rãi. Văn minh. Vui mắt. Hào nhoáng lạ!
Ôi! Sao mà nhiều xe thế! Bên Mỹ là cái xứ nhìn từ trên cao xuống mà. Dĩ nhiên hệ thống cao tốc và biện pháp an ninh tinh vi hơn. Phải cao hơn. Chặt chẽ an toàn hơn.
Đêm hôm đó ở Hotel, vì chưa quen xài loại khóa chốt tự động. Tức là đóng bên trong, và mở chìa khóa bên ngoài. Vì thế, có vài anh đã bị nhốt ở ngoài hành lang, chỉ mặc mỗi cái quần đùi, áo may-ô.
Số là đi tắm xong, Thanh, Ngọc, quấn khăn lông vào người, đi ra ngoài. Định sang bên phòng bạn tán dóc. Thanh quên mất cái chốt đã bấm cài.
Cứ thế, gió lùa thổi cánh cửa đóng ập lại. Thanh không mở ra được. Anh chàng la cầu cứu. Rốt cuộc Vinh phải chạy xuống phòng Reception. Nhờ ông ta lấy Master Key mở ra. Đó là một bài học thứ nhất.

*Thứ hai là: Trong khi các anh ngồi với đống hành lý. Chờ viên sĩ quan liên lạc xe Bus, đến đón về căn cứ. Rất nhiều bạn khát nước. Nhưng chả biết làm sao mà uống? Sau khi Châu nghiên cứu máy SunRock, đặt ở phi trường, đã chịu thua. Châu đến bên cạnh Hoàng, nói:
- Quái lạ! Sao ngồi đó, tao thấy mấy thằng Mỹ, từ xa đi đến. Nó chỉ cúi xuống, là nước bắn vọt cong lên, cho nó uống. Tao đến tìm hoài, chả thấy cái nút bấm đâu cả? Tao trở ra ngồi quan sát. Tao lại đếm mấy bước chân tụi Mỹ. Xem nó đi bao nhiêu bước, thì có nước uống. Tao lập lại như nó. Dĩ nhiên bước chân người Việt mình ngắn hơn. Cho nên tao trừ hao rồi. Vậy mà vẫn không thấy nước vọt ra gì hết. Khát thấy mồ!
Lúc đó, Hoàng bận rộn sắp xếp lại hành lý, đồng thời ngóng tìm viên sĩ quan trực. Nghe nó nói thế, anh đi lại xem. Quả thật! Chỉ thấy cái vòi, nhưng chả thấy nút bấm ở đâu. Không thấy nút khoá hay mở cái vòi (fauset) thường lệ (như ở Việt Nam) để nước chảy ra.
Sau đó. Các anh đứng nghiên cứu, xem mấy người khác đến uống nước, các anh mới khám phá ra cái “nút ngầm”. Muốn uống nước, anh phải thò mũi giày vô, đạp cái bàn đạp ở bên góc chân dưới cái máy.
Chỉ có thế. Mà nó đã chứng minh được cho các anh biết sự “nhà quê ra Tỉnh”, của nhóm sinh viên sĩ quan chân ướt chân ráo, vừa đặt chân đến đất Mỹ hào nhoáng và đầy đủ tiện nghi. Hahaha!
Đến phi trường San Antonio, gặp viên sĩ quan liên lạc (Atco – Air Training Center Officer) các anh đưa cho ông xem Sự Vụ Lệnh (Order to report to: ...). Họ liền phone cho xe Bus đến, đón khoá sinh về văn phòng.
Vừa khiêng hành lý xuống, xe Bus vội quay đầu đi mất hút. Các anh đi tìm người hướng dẫn, ký các thủ tục và phân chia phòng. Các anh phải lội bộ một quảng đường 500 mét. Mới đến mấy cái Barrack dành cho sinh viên sĩ quan ở.
Đang đi dọc đường, Hoàng thấy mấy cái valises (dù đã ràng bằng sợi dây nhựa, loại tốt, bên ngoài, nó vẫn bung đứt ra). Thế là đồ đạc rơi tùm lum, ngổn ngang. Anh phải bỏ đại ra đường, xếp lại. Sau đó vừa xách, vừa kéo lê nó đi.
Mỗi phòng rộng rãi thoáng mát. Có hai giường. Hai tủ Locker. Hai table de nuit. Một bàn học. Một tủ lạnh xài chung cho hai người ở. Nhà vệ sinh, nhà tắm nằm giữa những dãy nhà ngủ. Mỗi dãy có mười hai phòng xài công cộng.


_ * _

Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau
Trân trọng,
Ái Ưu Du
Ái Ưu Du
#163 Posted : Tuesday, November 20, 2007 3:14:19 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

Hoài Hương Xưa

Chương 11

MỚI LẠ





Hôm sau là chủ nhật, đám sinh viên qua trước, dẫn tụi anh ra phố “share” ăn cơm Tàu. Cùng nhau đi rông chơi thoải mái. Đến tối mịt mới về.

Đợt 1.- (trong chương trình huấn luyện phi hành).

Sáng thứ Hai, tất cả được lệnh đến phòng Lab, thi sắp lớp. Hoàng đậu vào lớp 2100 – Đây là lớp cao nhất của Trường. Những tên yếu kém Anh văn, chỉ vào lớp 1100 – 1300 – 1500 – 2000. Hết khoá là lớp 2500.
Thời gian ở đây rất thảnh thơi. Sung sướng lắm. Các anh chỉ học toàn Anh văn buổi sáng sớm mỗi ngày. Sau đó các anh đi học thể dục. Rồi đến lớp học Lý thuyết. Luyện giọng. Buổi chiều học trong phòng Lab – nghe và viết. Ngoài giờ học thì xếp hang di ăn trưa, ăn tối.
Sinh viên sĩ quan có cái Mess Hall riêng. Dành cho sinh viên sĩ quan các nước ngoài. Lúc đó có chừng vài chục người sinh viên các nước ngoài, đến Mỹ để học hỏi.
- Hạ-sĩ-quan ăn uống theo Hạ sĩ quan – Hạ-sĩ-quan chỉ giao du với Hạ sĩ quan– Hạ-sĩ quan có cái N.C.O cho riêng HSQ.
- Binh sĩ ăn theo Binh-sĩ. Binh sĩ có chỗ riêng! Chả ai được vào Câu Lạc Bộ. (O -Club) cả. Nước Mỹ có cái điều “tự do kỳ thị” đặc biệt đến thế là cùng!
- Từ đầu tháng 10.1965 các anh học ở đó. Đến cuối tháng 11.1965, tốt nghiệp xong, là các anh “ngồi chơi xơi nước”. Chờ khóa học bên Hải-quân Mỹ (US NAVY) khai giảng.
- Đến giữa tháng 12.1965, các anh mới có lệnh lên xe Bus, qua Pensacola NAS (Naval Air Station).
Hỡi ơi! Khi qua đến nơi, lúc vào quân trường chả thấy có “con ma” nào cả! Thì ra, hệ thống chu đáo “tỉ mỉ” của Hoa Kỳ, đôi khi cũng bị xáo trộn nhầm lẫn khủng hoảng đôi chút à há!
Nghĩa là tụi anh đến quá sớm. Chưa có khóa học. Chưa có chỗ ở! Tạm thời mấy tay Hạ-sĩ-quan Thủy-quân Lục-chiến (US Marine Corps) phải chở các anh đến Barrach bỏ trống. Cho các anh ở tạm.
Ngày hôm sau, cũng tay đó dẫn tụi anh vào P.X mua sắm đủ thứ đồ dùng, để luyện tập. Ngay cả cây kim sợi chỉ cũng phải mua. John lại dẫn các anh vào Barber Shop cho các anh cắt tóc ngắn lên còn 2cm. Như là “regulation”. Cái đầu các anh giống như quả bóng. Bạn bè về nằm dài ra. Ở đó chơi phát chán.
- Tuần sau, có lệnh chuẩn bị đi “Trip” lên Washington DC. New York. Ôi! Sướng ơi là sướng nha! Thế là 10 anh Việt Nam và 40 anh các nước khác như: Ethiopa. Iran. Venezula. Peru. Vân vân...
Tóm lại cả đoàn năm mươi Sinh-viên Sĩ-quan, và cả Sĩ-quan (các nước khác gửi Sĩ-quan qua Mỹ học với US Navy) Cùng hai sĩ quan Mỹ hướng dẫn “phái đoàn sinh viên du học” đi.
Đến Washington DC, ở Hotel Willard sang trọng quá chừng! Sĩ-quan hướng dẫn đưa tụi anh đi ăn sáng. Đi du ngoạn khắp nơi. Từ Toà Bạch Ốc, các bạn vào ngồi nghe các ông dân biểu tíu tít hùng biện tranh luận ở The Capitol (nghe giống như vịt nghe sấm).
Cả đoàn đi thăm các viện Bảo-tàng. Thư-viện Quốc-gia (Library of Congress). Đi Maryland thăm trường đại học Hải-quân Mỹ Annapolis (Annapolic Naval Academy).
Tóm lại đi hầu hết các nơi. Để tìm hiểu về lịch sử thành lập nước Mỹ. Từ thời sơ khai, lập quốc. Đến những cơ sở lừng danh. Như Viện Bảo-Tàng Không-Gian. Thăm trường huấn luyện cơ bản những phi-hành-gia.

*Thứ ba là: (tiếp theo những khám phá ngộ nghĩnh từ 2 phần trước, nơi trang 10).

Sau một tuần ở Washington DC. Các anh bay lên New-York, đi thăm rất nhiều nơi. Trước khi xe Bus dừng lại ở một tiệm Cafeteria đồ sộ. Có sức chứa cả ngàn người.
Hai Sĩ-quan hướng dẫn đã briefing cho biết cách thức, làm sao trả tiền, lấy thức ăn. Tại đây, anh được thử nghiệm hệ thống ăn trưa “chớp nhoáng” của người Mỹ. Qua hệ thống Cafeteria tự động.
Xe ngừng, họ chỉ mở một cửa xuống.
Bắt buộc tất cả khóa sinh xuống xe. Sĩ-quan John đứng dưới đất, phát tiền cho các anh, mỗi người mười đồng. Ai bước xuống là ông ta phát một tờ. John chỉ cái máy đổi ra tiền xu (coins).
Hoàng, Vinh, Bé, Hiển, vân vân… bước vào cửa tiệm, thì thấy một hàng tủ đựng thức ăn. Mỗi tủ có cái lỗ, và giá tiền trả bỏ vào. Cái cửa tự động mở ra. Hoàng vừa lấy thức ăn để trên khay của anh, đặt ly nước coca xong. Lập tức phía đằng sau tủ, có người để dĩa thức ăn khác ngay. Giống dĩa đó, vào chỗ cũ.
Các anh tìm chỗ ngồi, thoải mái ăn uống xong. Tự động mình ên bưng thức ăn thừa, nước uống dư, cùng napking vứt vào thùng đựng rác. Sau đó nên thu dọn chỗ mình vừa ngồi ăn uống, chùi sạch bàn, ghế (nếu bị dơ). Cái Automat Cafeteria là thế đấy!
Từ năm 1965 và mãi đến bây giờ. Ở Việt Nam, chưa dám tổ chức tiệm ăn tự động như thế! Nước Mỹ văn minh tột cùng giàu sang. Đã đi trước mình gần một thế kỷ mà em.
Sau hai tuần lễ được đi du ngoạn. Đi hầu hết các nơi phụ cận vùng Washington DC và New York. Các anh quay về căn cứ Hải-quân Pensacola nhập trại.
Trường đã mở cửa sau kỳ Long Holiday (nhân dịp Xmas và New Year). Họ cho các anh dọn vào ở một cái nhà khá rộng của Tiểu-đoàn. Gồm có các phòng họp. Phòng truyền thông. Văn phòng trực. Mỗi phòng có mười người sử dụng.

_ * _

Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau
Trân trọng,
Ái Ưu Du

Ái Ưu Du
#164 Posted : Thursday, November 22, 2007 6:08:27 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

Hoài Hương Xưa

Chương 12

SAUFFEY FIELD NAAS






Anh nói chuyện với người rất yêu dấu. Hương Hương ơi!
Buổi sáng cuối cùng, khi giá lạnh ban mai len lõi vào chân tơ kẽ tóc làm tê tê đầu môi, gây run rét thân thể, khi sương mù còn phủ kín ngọn đồi, vài giọt sương mai đọng trên tơ nhện đung đưa giăng mắc khắp lối đi.
Anh đứng chênh vênh một mình trên khoảnh vắng, đưa mắt nhìn bao quát chung quanh, mà cảm thấy thương thương lẫn ngậm ngùi. Ô! Khi anh cười hay thở ra, hơi thở của mình quyện đông lại thành một vệt khói lam trắng dài. Ngộ ghê em!
Đây; Florida và căn cứ Pensacola của Hải Quân Hoa Kỳ. Florida và căn cứ Pensacola của Hải Quân Hoa Kỳ. Pensacola là tên của một thành phố nhỏ, thuộc tiểu bang Florida. Florida’s Panhandle trong khu vực Vịnh Mễ Tây Cơ (inlet of Gulf of Mexico).
Pensacola & Vịnh Mễ Tây Cơ nằm dưới South of Alabama. Khí hậu khá ôn hoà, ấm áp. Pensacola có căn cứ US Naval Air Station và The Famous “Blue Angel” US Naval Flying Demonstration Team. Tương đương với The Thunderbird US Air Force Flying Demonstration Squadron của US Force vậy em à.

Đợt 2.- (chương trình huấn luyện phi hành).

Buổi sáng tinh mơ, bọn anh bị đánh thức dậy, để tập thể dục khi các vũng nước đọng chiều hôm trước vẫn còn đóng băng. Có nơi nước đông thành một mãng băng dài. Quang cảnh nên thơ trông thật dễ thương.
Thế là các anh phải bò dậy từ hơn 4 giờ sáng. Theo lịch trình, các anh hì hục chạy bộ mấy dặm đường đèo, lượn quanh co qua những ngọn đồi đầy băng tuyết trơn ướt như da lươn. Khi thì Hoàng leo lên con dốc cao, uốn mình trong những rặng thông. Rồi anh lại chạy xuống đèo thoai thoải phía bên kia sườn núi.
Đúng 7:00 sáng là giờ thanh tra. Hôm nào trong lòng vui vui, sĩ quan huấn luyện sẽ khen thưởng các anh và được gọi là “outstangding”. Còn như buồn buồn, "mấy ông trời con" đổ quạu, thì chết cả đám. Các anh đành “chạy bộ mệt nghỉ”! Kỷ luật tại trung tâm huấn luyện rất gắt gao, vì nơi này đảm nhận huấn luyện chung cho cả sĩ quan Hải Quân và Lục Quân (Marine Corps). Hình phạt thông dụng vẫn là “chạy bộ hộc xì bơ” mà các khóa sinh vẫn gọi là “military drill” hay huấn nhục.
Tại đây, sau hơn ba tháng vã mồ hôi hột, anh cảm thấy con người mình cứng cáp, thể chất khoẻ mạnh hơn, và đồng thời tự tin, kiến thức của mình cũng được nâng lên cao, mở mang thêm rất nhiều.
Thế rồi, các khoá sinh tuần tự leo lên chiếc xe buyt đến trường phi hành; cách đó hơn 50 dặm. Tại cổng trường, có tên gọi Sauffley Field NAAS (Naval Air Auxilliary Station). Các anh nhìn thấy tấm bảng rất to ghi sau: “IT IS BETTER TO FLY THAN TO DRIVE”.
Mà đúng thật! Theo thống kê hằng năm, thì tỷ lệ số người tử nạn phi cơ, so với số người tử nạn xe hơi là 1/1.000 đó em à. Đây là nơi huấn luyện căn bản, một căn cứ Không Quân. Cũng là nơi đào tạo sĩ quan phi hành cho cả ba binh chủng: Hải, Lục, Không Quân.
Trong đợt nầy, mười khoá sinh Không Quân Việt Nam không được ở chung phòng với nhau nữa. Họ bị tách rời từng người một. Xen vào đó là các khoá sinh Mỹ.
Đây cũng là phương cách rất tốt để trau giồi Anh ngữ. Vì lẽ, khi khoá sinh Viêt Nam ở chung phòng, theo thói quen, họ sẽ hăng say đối thoại bằng tiếng mẹ đẻ.
Nay, khi phải thường xuyên ở chung phòng với người Mỹ, họ bắt buộc phải dùng Anh ngữ chuyện trò hay học hỏi. Như thế, vốn liếng sinh ngữ của họ sẽ gia tăng gấp bội.
Có một chuyện ngộ nghĩnh buồn cười đã xảy ra trong nhóm của anh. (mỗi nhóm mười người, kèm theo huấn luyện viên). Tổng cộng có tất cả 500 khoá sinh, mà nhóm Việt Nam mang sắc thái “đặc biệt” nhất:
Đó là có một nữ khoá sinh. Từ xưa, trong lịch sử Hải-quân hay Không Quân Hoa Kỳ, chưa hề có “hiện tượng” này. Số là “cô bé tóc vàng óng ả”, mắt xanh lơ, yểu điệu thục nữ kia, lại mang cái tên rất là “con trai”. Nên máy điện toán của IBM đã tuyển mộ lầm. Thế là họ gửi giấy báo cho cô biết:
- “You” đã trúng tuyển vào trường đào tạo sĩ quan Phi-hành Hải-Quân. Yêu cầu đến trình diện...
Phòng sĩ quan tuyển mộ chết đứng! Bật ngửa ra, làm sao bây giờ? Trả cô về ư? Nhất định cô ta không chịu. Cô ta lại đòi kiện lên đại biểu quốc hội, tại nơi cô cư ngụ. Cả trường bay nhốn nháo xôn xao về việc nên thu nh ận, cô ta hay từ chối!?
Thế là họ phải hội họp gồm Bộ Tư Pháp, Bộ Quốc Phòng, Bộ Hải Quân, Bộ Tham Mưu Liên Quân, Chỉ Huy Trưởng căn cứ. Kết quả “bất đắc dĩ” là họ đành để cô ta theo học khoá nầy, ngỏ hầu tránh lôi thôi phiền phức về sau.
Đây là trường hợp bất khả kháng; kể từ thời “tạo thiên lập địa” của ngành Không-Quân và Hải Quân đến bấy giờ. Chính vì lý do đó, mà sau nầy mới có chuyện đào tạo nữ phi công chăng?
Sáng thứ Hai khai giảng khóa học, sau bài diễn văn chào đón của Đại Tá Chỉ Huy Trưởng, cô ta cười ỏn ẻn, duyên dáng đi theo sau đoàn khóa sinh Việt Nam, do Hoàng làm Trưởng toán. Nhóm anh được chú ý nhất trường, vì sự độc đáo như thế đó.

Đợt 3.- (chương trình huấn luyện phi hành).

Ngày hai buổi, tùy theo thời tiết, nếu buổi sáng học lý thuyết trên gác hangar rộng rãi (nơi cất giữ phi cơ), thì buổi chiều đi bay và ngược lại. Thời gian học rất vui và náo nhiệt hẳn lên. Vì có cô gái dí dỏm kia vui tính, dạn dĩ và hồn nhiên, cô không khác gì một đứa con trai. Cô nổi bật trong đám đông, nhờ mái tóc vàng dài óng ả. Trong khi mái tóc của bọn anh lại ngắn cũn cởn.
Các anh được huấn luyện du hành vào không trung. Mỗi khoá sinh có một huấn luyện viên ngồi phía sau giảng dạy. Bước đầu, các anh làm quen với các loại phi cơ nhỏ T-34B Mento.
Đó là loại phi cơ hai chỗ ngồi, tương tự như loại Beech Craft một động cơ. Phi cơ có tốc độ tối đa là 140 hải lý/giờ (Knot hay là Nautical Mile).
Trong các pha đầu tiên, huấn luyện viên cất cánh, bay đến chỗ tập dượt xong, là ông hỏi các anh:
- Sao, quý anh cảm thấy thế nào?
- Cám ơn ông, vẫn khỏe.
- Ngồi cho kỹ nhe. Bắt đầu Acrobatics đây!
Đó là ông ta bắt đầu “thử sức” đám khóa sinh. Chiếc phi cơ làm đủ thứ trò như bay ngược, bay lên, lộn xuống, quay vòng tròn, vút lên cao, đảo ngược lại, chổng đầu xuống đất.

_ * _

Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau
Trân trọng,
Ái Ưu Du

Ái Ưu Du
#165 Posted : Saturday, November 24, 2007 3:46:18 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

Hoài Hương Xưa

Chương 13

CHUYẾN BAY ĐẦU TIÊN
(của Khóa-sinh KHÔNG-QUÂN)


*Thân kính gửi qúy anh:
DANGVUHA, LOIDIEU04, PHUONGHOANGTIM, HOANGMAIPHI. và LPH





Hôm nay anh kể cho Hương Hương nghe tiếp chuyện hôm qua nhe:
Huấn luyện viên chỉ cần nửa giờ bay vòng vo trên bầu trời, nhô lên hụp xuống, khi cao khi thấp, lộn ngược xuống đất, bay vút lên tít trời cao như thế, là huấn luyện viên thấy có kết quả ngay.
Có những người như anh, và may thay có cô gái, là tỉnh queo. Có hai anh khoá sinh Việt Nam thì ngất ngư, ói mửa tùm lum. Họ bị chóng mặt quay cuồng không thể ngồi vững được.

Đợt 4.- (chương trình huấn luyện phi hành).

Trường phi hành ấn định một số giờ bay nhất định, để sau đó khoá sinh sẽ thực tập bay “solo”. Nếu quá số giờ ấn định mà các khoá sinh vẫn không bay “solo” được. Thì coi như không hội đủ điều kiện để trở thành một phi công. Họ sẽ bị loại ra khỏi khóa huấn luyện.

*Tất cả khoá sinh bị loại, đều phải ra Hội Đồng (Board) giám định. Buồn thay, đa số các khóa sinh bị loại, (vì lý do trên) phải khăn gói về nước. Và tùy theo nhu cầu, họ sẽ theo học các khoá huấn luyện được tổ chức trong nước như: Quan Sát Viên. Điều Hành viên. Phòng thủ v.v.

*Hoặc được thuyên chuyển sang Bộ Binh (nếu là sĩ quan), hay họ tiếp tục theo học giai đoạn 2 tại trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức. (nếu là Sinh Viên Sĩ Quan). Riêng một số khóa sinh bị loại, nếu có ai may mắn gặp ngay khoá Không Phi Hành, tổ chức trong thời gian ấy tại Hoa Kỳ, thì họ sẽ được tiếp tục theo học.
Hầu hết 99% các khóa sinh này đều có hạnh kiểm, đạo đức, học lực cao cùng được các IP (Instructor Pilot) nhận xét tỉ mỹ, phê chuẩn vào hạng giỏi.

*Các khóa không phi hành thường là:

*Kiểm Soát Không Lưu (Air Traffic Control - ATC): Khi mãn khoá trở về nước, họ sẽ làm việc tại các đài kiểm soát (tower) của phi trường. Nhiệm vụ chính của họ là điều khiển phi cơ cất cánh và hạ cánh. Cũng như thông báo các dự đoán thời tiết khá chính xác.

*Weapons Controller - WC: Đây là khóa học về Hỗ-Trợ Không Hành (Air support) và Điều-Hành Không-Chiến (Air Defense). Các khoá sinh được huấn luyện cách hướng dẫn bằng Radar, tại Tyndall AFB (Florida, và hoàn toàn không liên quan gì đến kiểm soát vũ khí cả nhe em.
*Sau khi tốt nghiệp, họ sẽ phục vụ tại các Đài Kiểm Báo như Panama (Sơn Trà - Đà Nẵng). Paris (Tân sơn Nhất). Pyramid (Ban Mê Thuộc). Peacock (Pleiku). Paddy (Cần Thơ). Họ được gọi là Sĩ Quan Điều Không.
- Anh nhắc lại: Nhiệm vụ chính của sĩ quan WC là hỗ trợ không hành (air support), và điều hành không chiến (air defense), được gọi là đều hành không-lưu. Họ làm việc tại các trung tâm và đài radar nhe em.
Riêng khóa sinh không-lưu là Air Traffice Control, thì họ làm việc tại các Tower, và được gọi là sĩ quan kiểm soát không lưu.
Thật là buồn buồn tức tức, khi các anh đành chia tay với hai anh bạn Việt Nam. Còn lại tám mạng Việt Nam và cô gái.

Đợt 5.- (chương trình huấn luyện phi hành).

Mỗi ngày, trong hai tuần đều đặn, các anh đều có chuyến bay chung với thầy. Cho đến một hôm, sau khi đáp xuống một sân phụ, thầy bảo Hoàng:
- Dừng lại. Anh hãy vào bãi đậu.
Thầy thản nhiên đeo dù, bước ra cửa buồng lái, và bảo:
- Hôm nay, tôi cảm thấy anh có thể cất cánh bay solo được rồi. Hãy bay đi, và đáp đúng ba lần. Good luck!
- OK.
- Không được “knock out” à. Nhớ trở lại đây. Đừng quên đón tôi về nha. Chúc anh thành công và vui vẻ.
Hoàng cảm thấy run run phập phồng hồi hộp, khi đem phi cơ ra phi đạo và cất cánh bay một mình. Đó là một ngày hân hoan “trọng đại” vô cùng. Một mình. Một cánh chim. Một bầu trời mùa xuân tươi mát và phóng khoáng vô vàn. Một hoài bão. Một dự tính. Một lý tưởng hoài mong.
Tất cả đều là của riêng ta trong tầm tay. Hoàng vẫy vùng một mình trên bầu trời thênh thang, tự do thoải mái toan tính chuyện sông hồ. Hoàng cảm thấy tự tin, ung dung tà tà bay lượn lả lướt trên không trung. Thích thú lắm! Sau ba vòng bay, anh đáp an toàn. Anh đã bay đi đón thầy. Hai thầy trò mừng rỡ cùng nhau trở về căn cứ.
Theo thông lệ, chiều tối hôm đó, tất cả khóa sinh đều mặc đồng phục kaki vàng, cà vạt đen, cùng hẹn nhau đến câu lạc bộ. Nơi đây, thầy dùng lưỡi lê (loại dao ngắn trang bị cho phi công) cắt đứt cà vạt của anh, để tượng trưng cho ta có khả năng thoát khỏi sự “níu kéo dzùng dzằng” của trái đất.
Hoàng là người đầu tiên tốt nghiệp trong khoá học, với mười sáu giờ bay solo. Ông thầy đã không ngần ngại bỏ tiền túi ra, đãi cả lớp một chầu bia Budweiser.
Được cấp bằng tốt nghiệp trước tiên, Hoàng phải ngồi đó “tà tà chơi xơi nước”. Chờ đến khi đủ năm khoá sinh tốt nghiệp, họ mới gửi các anh qua căn cứ khác để tiếp tục thụ huấn giai đoạn 2.


_ * _

Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
Trân trọng,
Ái Ưu Du
Ái Ưu Du
#166 Posted : Monday, November 26, 2007 9:18:08 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

Hoài Hương Xưa

Chương 14

TỰ DO SUY NGHĨ





Hương Hương yêu,
Những vũng nước mưa trong những cái lỗ đất con con ven đường hôm qua, sáng nay đã đóng thành lớp băng mỏng tanh, trông rất dễ thương. Lạnh lắm em ui!

Đợt 6.- (chương trình huấn luyện phi hành).

Vào lúc 4:00 anh thức dậy theo tiếng kèn, (do máy phát nhạc gắn trên mỗi dãy phòng). Đúng 4:15’ các anh tập trung thành từng Trung-đội điểm danh. Mỗi sáng anh phải chạy lên thao trường, cách xa 1 mile.
Sau đó anh trèo lên một cái đồi thấp. Có những đường chạy vòng trôn ốc xoay quanh ngọn đồi. Từ dưới chân đồi chạy hộc xì bơ lên đỉnh đồi, có cỡ chừng mấy chục cái cọc. Mỗi cọc cách xa nhau là khoảng 100 yards.
Khi Hoàng vừa thở vừa cố chạy chậm lên đến đỉnh đồi xong. Các anh đứng thở dốc mươi giây, lại lo chạy vòng trở xuống theo sau lưng thầy. Các anh cứ chạy lên xuống ròng rã như thế cả giờ. Lúc nào gần hết giờ, thầy trò cùng chạy xuống con đường dốc lài lài cũ, về lại thao trường lần chót thì tan hàng. Công nhận ông thầy bền sức dẽo dai, khỏe thật.
Có vài lần anh bị cảm mệt trong người nên "ma lanh", Hoàng vờ chạy lúp xúp gần đằng sau rốt. Ông thầy lúc nào cũng chạy đầu tiên, chạy trước khoá sinh, thầy không để ý, anh "lủi" vào núp trong mấy lùm cây quanh con đường dốc.
Chờ khi thầy chạy trở xuống con đường trôn ốc cũ, thầy qua mặt anh một đoạn. Hoàng lò mò chui ra chen vào hàng với các bạn, lo chạy tiếp. Mỗi ngày, có vài ba chạy gần cuối hìn thấy, bạn phì cười, cũng bắt chước anh “thay phiên nhau nghỉ ít phút”. Họ làm giống như Hoàng cho bớt mệt tí chút. Chứ anh nào dám ngồi lâu. Chết đa.
Trở về, các anh lo lau chùi dọn dẹp phòng ốc sạch sẽ. Giường ngủ trải tấm drap thẳng băng. Như mặt phẳng. Inspection - Khi Sĩ-quan đến đi kiểm soát. Họ thả cây thước xuống nệm. Cây thước “tưng” lên như cái lò xo. Họ đeo găng tay trắng quệt lên: Khám tủ locker. Sàn nhà đánh xi láng bóng. Bàn ghế. Dưới giường, vân vân...
Hôm nào mà họ cho là outstanding là được khen thưởng. Nếu chỗ nào dơ, cả phòng bị phạt đi bộ, gọi là military drill. Thay vì giờ tự do, ai làm gì thì làm.
Mình phải thay quân phục “dã chiến”, lên phòng tiếp liệu lãnh súng. “Làm ơn các ông tự giác” đưa cả phòng ra sân thi hành lệnh! Ôi nhắc lại chuyện bị phạt, mà thấy ớn xương sống đây em!

Đợt 7.- (chương trình huấn luyện phi hành).

- 6:30’ đi ăn sáng. Bên US Navy họ cho ăn đàng hoàng, nhiều, và rất ngon. Dù phần ăn đó dành riêng cho khóa sinh.
Mỗi khoá, ít nhất có độ chừng 500 khoá sinh, đủ các nơi, đủ các thành phần. Như anh đã nói trên. Có độ chừng 450 khoá sinh của Hải-quân. Thủy-quân Lục-chiến của Mỹ nữa.
- 8:00’ - Đi học chuyên môn. Đám Việt Nam học thêm một tháng Anh-văn. Buổi chiều mới học chuyên môn.
Có nhiều môn-học chuyên ngành như:
1*- Động cơ phi cơ.
2*- Không hành.
3*- Khí tượng.
4*- Nghệ thụât chỉ huy.
5*- Học cách đi đứng (học cơ bản thao diễn).
6*- Học “đoạn đường chiến binh” (Obstacle Course – O Course).

Đợt 8.- (chương trình huấn luyện phi hành).

7*- Học tập bơi lội 2 giờ.
Trong toán, chỉ có 4 người, đa số là dân quê vùng biển, và anh, đủ tiêu chuẩn học bơi hai giờ. Còn sáu anh kia phải học 4 giờ. Học đủ các loại bơi:
- Bơi tự do.
- Bơi ngửa.
- Bơi sấp.
- Bơi ếch.
- Bơi đứng (bơi chỉ bằng hai chân). Vân vân...

Đợt 9.- (chương trình huấn luyện phi hành).

Các anh đã được dạy trước tiên là Dilbert ngành. Mô hình giả của máy bay trong hồ bơi. Chương trình học với Hải-quân. Là phải học cách rời tàu. Máy bay cất cánh từ Hàng-không Mẫu-hạm.
Phải công nhận ở trong Quân-Đội Hoa Kỳ, các Binh-Chủng có riêng truyền thống của mình. Nên chả anh nào chịu thua anh nào cả.
Điều Hoàng nói ra đây, là do nhận xét của chính những người lính Mỹ ở trong quân trường bô lô ba la nói ra, cho các anh nghe đó nha em. Họ là dân Mỹ ở một đất nước tự do. Muốn nói sao thì nói, nghĩ gì thì cứ nói ra. Ai dám bắn lính Mỹ “cái đùng” đâu mà sợ run như cầy sấy hỉ! Hô Hô Hô!!
- Bên Hải-quân Mỹ thì chọn cánh bay màu vàng. Bên Không-quân Mỹ và Bộ-binh thì chọn cánh bay màu bạc.
- Cái danh từ NAVY có nghĩa là Hải-quân. Viết hoa như thế, hoặc viết Navy cũng đồng nghĩa. Nếu thêm US NAVY là có nghiã Hải-quân Hoa-Kỳ. Còn Tỉnh-từ là NAVAL. Ví dụ như NAVAL AVIATOR là Phi-công Hải-quân.
- Chứ bên NAVY họ không gọi là Pilot. Vì họ cho rằng: Pilot của bên Air Force rất lè phè. Ui cha ơi! Kiêu kỳ! Láu cá. Dễ sợ ha em! Mặc dù họ rất kính phục các binh chủng khác, vì thừa biết:
- Bộ-Binh có những Sư-đoàn thiện chiến, nổi tiếng từ Thế-Giới-Chiến lần thứ Hai. Như Sư-đoàn Bảy 101. Lừng lẫy với trận đổ bộ ở Normandy (khi họ giải-phóng nước Pháp). THE FLYING 101st DIVISION.
- Hay là Sư-đoàn “Anh Cả Đỏ” THE BIG RED ONE". Vân vân...
Vì thế cho nên, anh lính của Binh-Chủng nào, cũng tôn sùng binh chủng của mình nhất, và tự phong cho mình là “Number One” cả! Còn các Binh Chủng khác, chỉ là hạng hườm hườm thường thường. Cao ngạo ha em.
- Trong Bộ-binh Hoa Kỳ, thì coi Hải-quân và Không-quân là “Lính-Kiểng” chuyên bay-bướm lả lướt.
- Ngược lại Hải-quân NAVY, {trong đó có Marine Corps, (tức là Thủy-quân Lục-chiến)} lại láu cá coi Bộ-binh là Quân-đội "Vị-thành-niên”.
- Rồi thì họ coi Air Force là “Lính Tập Bay”. Chứ chả phi-công, phi kiết gì ráo cả!
- Còn mấy ông DALTA FORCE là của Special Force (Lực lượng Đặc Biệt). Họ nghĩ đám Trinh-sát Biệt-kích chuyên môn “lủi sâu” vào nội bộ, địa phận kẻ địch, để phá hoại. Tuyên truyền. Thâu lượm tin tức tình báo. Nhóm này thuộc về Special Force. Trực thuộc US ARMY.
Nói chung, có sự tự do suy nghĩ và phát biểu, là thích lấy le vênh váo “cạnh tranh nhộn nhịp” rất “quậy, cho vui” mà thôi. Họ ưa “thì thầm” bên tai trêu chọc ghẹo đùa dzai tí ở các Binh-Chủng với nhau. Anh nhắc lại là họ ưa chọc ghẹo nhau cho vui, chứ chả có hiềm khích gì. Vui thôi mà. Chả ai đấu khẩu “hung ác” hay muốn “ăn tươi nuốt sống” nhau cả.
Ở xứ sở tột đỉnh văn minh, giàu có ngút ngàn tiền rừng bạc bể, và tự do suy nghĩ, thì khổ vậy đó. Người Mỹ cũng có những kỳ thị rất kiêu kỳ, lãnh đạm, tự tôn. Ai muốn suy nghĩ gì, thì xin cứ tự do.
Nhưng riêng Hoàng và Vũ Hoà, Vinh, vân vân… ở nước nhược tiểu xa xôi thì chả dám! Ngoài ra, cứ khách quan không phân biệt chủng tộc, kỳ thị gì, mà nhận xét: Thì phi công nào cũng đáng được quý mến kính phục và trân trọng như nhau.
Nếu phi công F 5 ; AD6 ; A37 có bị bắn rơi, thì chỉ có phi công trực thăng rescuse mà thôi. Ngược lại, phi công trực thăng bị rớt, thì được phi công khu-trục đến thả bom, hầu ngăn chận đối phương, để bộ-binh hoặc trực thăng cứu vớt.
Thế nên, anh xin nhấn mạnh là LÍNH gì, lính ở các binh chủng nào, ở đâu cũng có cái vinh dự, khó khăn, khổ sở, vất vã nhọc nhằn, cùng chiến đấu, cùng bảo vệ tổ quốc, yêu quê hương, gian lao khổ sở, và hy sinh dũng cảm đồng đều như nhau.
Anh chỉ ghi lại những gì tai nghe lính Mỹ nói. Vì thế, các anh dù là phi công Việt Nam. Nhưng khi đi học, vẫn được xem là NAVAL AVIATOR của NAVY. Cho nên, khi trở lại với USAF, các anh vẫn bị “kỳ-thị” như thường. Họ coi mình là “đám con nuôi, con ghẻ” của NAVY.
Chào em. Chúc vui khỏe nhe.

Lữ Phượng Hoàng,

_ * _

Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau
Trân trọng,
Ái Ưu Du
Ái Ưu Du
#167 Posted : Wednesday, November 28, 2007 4:49:55 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

Hoài Hương Xưa

Chương 15


HUẤN LUYỆN PHI HÀNH







Suốt ba tháng trời, từ tháng 12 đến tháng 3, các anh phải học qua những phương pháp học ở trường bay, từ học lý thuyết, đến thực hành, từng đợt, từng đợt ôn luyện gay go, tận tâm tối đa như thế.
Có ba điều quyết phải thực hiện thành công. Trước khi được công nhận tốt nghiệp:

Đợt 9.- (chương trình huấn luyện phi hành).

*– Điều một: là phải bơi qua eo biển ở gần Pensacola và Mễ Tây Cơ. (Pensacola có căn cứ US Air Station và The Famous "Blue Angel" Us Naval Flying Demonstration Team). Bề rộng độ chừng một mile.
Các anh mặc quần áo phi công, áo dính liền với quần (coi anh như baby ha). Mỗi toán ba người. Có một chiếc ca nô kèm theo. Trên ca nô có hai huấn luyện viên, (hạ-sĩ-quan hay binh-sĩ).
Trong ca nô có đủ thứ: Cây cọc dài độ ba mét có móc. Khi nào khoá sinh mệt quá. Huấn luyện viên giơ ra để mình bám vào, họ kéo lên ca nô nghỉ mệt. Có mền quấn lại cho ấm. Có chai rượu mạnh, để khoá sinh hớp một ngụm (một ngụm thôi nha) cho tỉnh táo.
Vài phút sau, khoá sinh làm ơn nhảy ùm xuống nước. Tiếp tục bơi. Vì học chung với lớp toàn là sĩ quan của Hải-quân và Marine Corps, cho nên họ bơi khá giỏi, và tuân theo kỷ luật gắt gao kinh khủng.
Ngày ra trường thật đông vui náo nhiệt hết biết. Trông cứ như ngày hội lớn. Bao nhiêu xe hơi và xe Bus đậu dài dài trước cổng trường. Tất cả khoá sinh lên xe trong bộ áo bay màu da cam rực rỡ. Rất đẹp mắt người nhìn.
Đến bãi tắm, đã có hàng ngàn thân nhân. Bạn bè đứng chờ xem hò hét, cổ vũ. Kèm theo những ban nhạc tự phát, đánh những điệu hùng tráng vui vẻ rộn ràng rất hay.
Sĩ-quan điều khiển thổi hồi tu-huýt dài. Cả năm trăm (500) khoá sinh nhào xuống nước, bơi lổn ngổn. Y như bầy cá màu vàng cam bơi lóp ngóp. Bơi đủ kiễu. Vui mắt và hân hoan thích thú hết biết.
Theo lời chỉ dẫn của khoá sinh đàn anh.
Khi các anh khoá sinh đã bơi ra hơi xa xa bờ. Khuất tầm nhìn của huấn luyện viên đứng trên bờ rồi. Thì các anh thò tay vào túi, lấy con dao lam ra. Rọc hết hai tay áo sát nách, ống quần rạch gần sát háng, cho nhẹ người thoải mái, không vướng vít. Anh chỉ chừa khúc thân giữa. Trông dị hợm, ngố ngáo (cũng như baby mặc quần áo ngắn) tức cười lắm.
Trên trời có khoảng chục chiếc trực thăng quần thảo, dọc theo eo biển. Họ có nhiệm vụ canh chừng cá mập. Vì lâu lâu có vài chú cá mập bơi lạc vào vùng nầy, tìm thức ăn. Nếu các khoá sinh thấy trực thăng bắn lên trời quả pháo màu đỏ.
Ngay lập tức, tất cả mọi người phải leo lên ca nô.
Sau mấy giờ thi bơi mệt nhoài. Lúc khoá sinh bơi qua bờ biển bên kia. Có xe Bus đưa các anh trở về trường.

Đợt 10.- (chương trình huấn luyện phi hành).

**- Điều hai: là có ba ngày đêm Survival Days. Các anh mặc đồ mùa đông. Bên trong mặc áo quần lót dày. Ngoài mặc áo treillis. Đội mũ lưỡi trai. Mang giày cao cổ đi rừng, đeo dao găm. Bình bi đông đựng nước uống. Đem theo dụng cụ cắm lều đi rừng.
Các anh được phép chế ra cái ná dây thun. Được cấp phát thuốc trừ sốt rét. Thuốc khử nước. Thuốc trừ muỗi. Ngoài ra hoàn toàn không được mang theo thức ăn, (trừ nước lạnh).
Mỗi toán bốn người: Hoàng, Cường, may mắn đi chung với hai cựu quân nhân Thủy-quân Lục-chiến Mỹ. Họ đã từng sống và chiến đấu tại chiến trường ở Việt Nam.
Sáng sớm hôm đó, ban tổ chức vất mỗi toán một nơi khác nhau. Cách xa nhau cả mấy miles. Ban tổ chức hẹn ba ngày sau. Sẽ gặp tại điểm X nào đó trên bản đồ. Ngày cuối cùng là Escape Day.
Sau khi tất cả khoá sinh biến sâu vào rừng. Trên các đường mòn, nhiều huấn luyện viên mặc toàn đồ pijama đen. Đeo AK (giống “Vi Ci” quá ta). Họ chạy rảo quanh khắp nơi. Thấy toán nào lang bang đi trên đường cái. Thì họ nổ súng (đạn mã tử) chận bắt lại.
Khoá sinh phải đưa phiếu của mình ra. Bấm lỗ vào những chỗ sai phạm. Ví dụ như:
- Lỗi đi trên đường mòn.
- Không ngụy trang khéo léo.
- Bị lộ mục tiêu, vân vân...
Tuần sau, những anh phạm lỗi đó, phải thi lại môn nầy.
Thế là ba ngày đó, tất cả toán phải tự lực cánh sinh. Băng rừng rậm. Vượt đồi dốc cao chót vót. Lội sình lầy. Đầm lầy sền sệt rộng mênh mông, hôi tanh lút đến ngực. Đầy dẫy cá sấu và rắn rết độc.
Vì thế mới gọi là Survival.
Ban tổ chức nói nếu bị rớt máy bay ở trong rừng. Mình phải biết linh hoạt ứng phó trong mọi hoàn cảnh. Có thể tự mình tìm cách sống. Rồi chờ cứu viện sau.
Buổi tối hôm đó, trời cuối thu rất lạnh. Nhóm Hoàng Cường không thể nào ngủ ngáy gì nỗi. Bốn người lo đi chặt cây, làm một cái lều nho nhỏ, và gom góp đầy cây khô, mục, kể cả lá cây tươi kèm vào, để đốt lửa. Các anh ngồi sưởi ấm sát bên nhau. Cùng nhau vui vẻ trao đổi những kinh nghiệm, và nói chuyện phiếm, tếu, rất vui.
Sáng ra, bọn Cường vội thu dọn sạch sẽ, xoá hết các dấu vết. Dập tắt lửa cẩn thận. Các anh bắt đầu ra đi. Hai ông Thủy-quân Lục-chiến vừa nhìn lui nhìn tới, xem la-bàn định hướng, vừa đi trước dẫn đường.
Hai ông lính Thuỷ-quân Lục-chiến Mỹ dẫn hai anh Việt Nam đi đâu, thì Hoàng và Cường đi theo đó. Dọc đường bốn anh nầy, gặp một toán Hải-quân bạn đi ngược lại hướng mình. Các anh vui mừng khi biết: Từ nơi nầy điển hẹn X, chỉ cách xa nơi đây, (chỗ nơi tám người các anh đang đứng tính toán, thảo luận), chỉ xa chừng năm trăm(500) hay sáu trăm mét (600) mà thôi.
Nhưng bốn ông kia cứ gân cổ lên cãi lại hai ông Thuỷ-quân Lục-chiến Mỹ. Bốn ông kia vội vàng tiếp tục đi ngược lại. Bốn anh nầy khuyên bảo gì, họ cũng không nghe mà! Thây kệ!
Đến chiều, toán bốn người đó đi mất hút vào rừng sâu hun hút. Nên họ bị lạc gần năm cây số trong rừng rậm âm u, chằn chịt. Mặc dù trời chỉ về chiều nhưng ở trong rừng rậm tối đen, như ban đêm không trăng sao. Họ đã dùng tín hiệu kêu cứu khẩn cấp. Họ xin trực thăng, nhờ đến đón về. Họ phải chờ đợi một kỳ khác, để đi thi lại môn nầy.

Đợt 11.- (chương trình huấn luyện phi hành).

*** Điều ba là: Ngoài hai cuộc thi vừa kể trên. Còn những điều rất ly kỳ. Chẳng hạng như:
Cách thoát ra khỏi lòng máy bay. Khi phi cơ bị lật.
1.- Đó là Dilbert Dunker. Có một cái mỏ hình cung. Giống cái buồng lái phi cơ.
2.- Và, Abandon Ship Drill (Bỏ tàu khi bị đắm) lúc bị rơi xuống biển.
Ôi trời ơi! Chúng tôi là phi công Không-quân. Ở trên bờ, chứ có đi bằng tàu đâu! Mà phải học! Vậy mà bắt buộc các anh phải bù đầu bù óc học môn nầy.
Hoàng đứng trên bề cao khoảng hai mươi mét. Giống y như boong tàu Hàng-không Mẫu-hạm. Anh xếp hai cánh tay tréo qua hai bên vai. Nhắm mắt nhảy xuống nước thẳng đứng.
Vì sao? Vì nếu từ trên độ cao đó. Mà các anh giăng xoạt hai chân, và giăng hai cánh tay ra. Khi thân thể va đập mạnh vào nước. Tốc độ nhanh và cao kinh khủng. Có thể các anh bị gãy tay, gãy chân như chơi.
Sau ba tháng “đổ mồ hôi sôi nước mắt” vì học tập. Lễ ra trường diễn ra tưng bừng, náo nhiệt đông vui đã đến.
Các anh được chuyển qua trường Sauffley NAAS (Naval Air Auxilliary Station) cách đó chừng năm mươi (50) miles.

_ * _


Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau
Trân trọng
Ái Ưu Du
Ái Ưu Du
#168 Posted : Friday, November 30, 2007 8:49:00 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

HOÀI HƯƠNG XƯA


Chương 16

DU HÀNH VÀO KHÔNG TRUNG






Từ SauffleyField NAAS đi Whiting Field NAAS độ chừng hơn trăm miles.
Đến đó, các anh được phân phối ra hai phi đoàn khác nhau.
Hoàng ở bên Squadron 2. Bên nầy cũng như bên kia. Nghĩa là nửa buổi sáng học lý thuyết, nửa buổi thực hành, đỡ mệt hơn.
Hoàng đi học rất gần. Nửa buổi chiều khoá sinh thực hành. Các anh phải xuống Hangar khi đi bay.
Đi bay ít nhất khoảng hai giờ mỗi ngày. Trừ những ngày trời vần vũ mây đen, hay giông bão. Các anh ngồi dưới Hangar, chờ thời tiết tốt. Nếu trời vẫn xấu, lại ở đó chờ, thì anh đọc sách, đọc báo. Ngày mai khoá sinh trở lại học tiếp.

Đợt 12.- (chương trình huấn luyện phi hành).

Bên nầy, Barrack ở cách xa chỗ đi bay gần ba cây số. Mỗi sáng các anh thức dậy rất sớm 4:00 lo làm vệ sinh cá nhân. Chuẩn bị thức ăn sáng.
Thường là bánh Sandwich kẹp thịt hay trứng gà, (gói lại để ăn sáng và trưa). Một chai sữa hay chocolate. Trong chỗ bay toàn cà phê Maxwell chua lè. Vậy mà cứ mươi phút, mấy ông thầy uống lia lịa, hết một ly cối.
Độ 4:30’ xe Bus đậu tại Barrack. Xe chờ đúng một phút. Một phút thôi - Họ giật chuông để khoá sinh chạy lại. Các anh có mặt dưới sân chờ xe bus trước.
Nếu ai bị trễ vài ba giây, thì mình phải chạy bộ từ nhà đến trường bay. Xa và mệt đứt hơi. Mệt bở hơi tai. Mới hy vọng kịp giờ. Vì mười lăm phút sau mới có một chuyến Bus khác.
Thấm thoát các anh đã học bay được ba tháng rồi. Sau khi anh bay solo nhiều lần.

- Bay đủ kiễu. Đủ cách.

- Bay bình thường. Bay đêm.

- Bay không hành (bay từ thành phố nầy đến ba bốn thành phố khác. Trong một vòng tròn).

- Bay hợp đoàn hai chiếc. Bốn chiếc.


Đợt 13.- (chương trình huấn luyện phi hành).

Hoàng và ít người bạn nữa chuyển sang bay loại T-28B, - C, D của US Navy.
Sau đó tu nghiệp loại T-28A của USAF. T- 28B, - T-28C hai chỗ ngồi. Một cánh quạt, nhưng động cơ mạnh hơn. To hơn chiếc T- 34 nhiều.
Đây là loại máy T- 28 A, B, C, và D. Loại sau cùng, có cái “móc” đằng sau đuôi, để đáp xuống Hàng-không Mẫu-hạm. Tên gọi là Trojan. Loại nầy bay nhanh hơn loại nhỏ. Lại khó điều khiển.

Các anh đã trở thành phi công loại T-34B Mentor của US NAVY rồi. Tổng quát về bay bổng. Bây giờ các anh bay gần như thành thạo.
Theo chương trình suốt thời gian bay, thỉnh thoảng các anh được bốn lần đi bay không hành.
Nghĩa là đến cuối tuần, chiều thứ Sáu, ta lên phòng khí tượng làm Flight Plan (bản đồ bay). Mình có quyền chọn địa điểm đến. Các anh báo cho thầy hay. Ông chỉ việc bỏ vào túi xách phi hành (Flight Bag) mấy bộ quần áo. Ông thầy lên sân bay chờ bọn anh.
Hoàng thường chọn bay đến Oklahoma, nơi có gia đình chị Ba ở. Sáng thứ Bảy anh gọi phone báo cho chị Ba biết tin. Anh chị Ba sẽ lái xe lên đón Hoàng về nhà. Anh ở chơi trọn kỳ week-end. Chiều chủ nhật anh cùng thầy bay trở về trường.

Những lần sau, anh bay solo với bốn chiếc khác. Tập bay hợp đoàn (Formation Flight). Anh bay qua Tampa (FLA) vài lần. Vì nhà ông thầy ở vùng đó.

_ * _

Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
Trân trọng,
Ái Ưu Du


Ái Ưu Du
#169 Posted : Monday, December 3, 2007 3:58:16 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

Hoài Hương Xưa

Chương 17

ĐÀNH LIỀU






Cho đến một đêm anh bay không hành. Bình thường khoá sinh Việt Nam bay đêm, là có thầy đi theo. Các anh chỉ cầm bản đồ bay. Lấy tin tức Meteorology (khí tượng) là xong.
Đêm đó, Hoàng ỉ y có thầy cùng bay với anh. Nên anh chả chuẩn bị một thứ gì. Kể cả cái đèn pibn cần thiết được cấp khi bay.
Đeo dù vào rồi, Hoàng cứ ngồi ở dưới đất, anh chờ thầy mãi. Sĩ-quan Operation Officer đến hỏi anh:
- Sao còn ngồi đó? Chờ ai vậy? Sao không ra Flight Line bay đi?
- Tôi chẳng thấy ông thầy.
- Từ nay trở đi, không có thầy nào cả. Anh bay một mình. Nhanh lên. Tụi nó chờ anh kia kìa.

Đợt 14.- (chương trình huấn luyện phi hành).

Chết thật! Thế là anh vội đi Preffight Check. Hoàng đi một vòng chung quanh phi cơ. Khám từ dưới lên. Từ trái qua phải. Khám đủ thứ hết. Anh giống như thầy bói mù sờ voi vậy.
Thế là anh phải hỏi mượn đèn pibn của người coi cơ khí phi cơ. Anh đi một vòng check lại thật kỹ. Sau đó anh trả đèn pibn.
Hoàng “lập cập” leo lên phòng lái. Ôi! Đêm đó là đêm cuối cùng, sao mà lòng ruột anh nóng như lửa đốt. Đầu óc anh rối ren như tơ vò thế không biết. Nghĩ thấy sợ lắm chứ em.
Năm vừa rồi có một khóa sinh Việt Nam bay đêm như thế nầy. Khi sắp về đến sân bay. Bỗng nhiên nó lật ngửa, phi cơ lao xuống khu rừng bên cạnh. Anh ta bị bệnh vertigo (tức là mẫn cảm với độ cao, mất thăng bằng).
Ban đêm ta chỉ có thể bay bằng phi cụ, điều khiển thời tiết xấu thôi (instrument Flight). Ta phải tin vào phi cụ. Căn cứ vào những dụng cụ trên phi cơ, (gọi là instrumental Flight).
Ban đêm nếu anh bay bằng mắt thường (Visual Flight), sẽ không thấy đường chân trời ở đâu, mà tìm!? Chung quanh anh chỉ thấy bóng tối mịt mù. Trăng sao lấp lánh, huyền hoặc.
Dưới đất toàn đèn màu giăng mắc. Khi con tàu bồng bềnh lướt qua trong mây, không thấy gì. Tốt nhất là bay lúc trời sáng sủa, sẽ an toàn hơn. Có tầm nhìn cao (Visibility) rất thoáng.
Anh cho phi cơ ra sắp hàng ngay giữa phi đạo. Lòng còn run run, ngổn ngang trăm mối lo âu cao chất ngất. Thôi! Đành liều vậy. Một vài phút sau, khi chiếc phi cơ trước mặt anh đã cất cánh.
Hoàng chuẩn bị, báo với đài kiểm soát không lưu lần cuối. Anh tống ga chạy nhanh trên phi đạo. Phi cơ từ từ cất cánh. Khi đã đạt trên 120Knots (1 Knot là một hải lý. Tính theo cách của Hải-quân và Không-quân).
Đến cao độ đã được ấn định. Anh kéo cần ga, cho bay chậm lại. Quẹo về hướng định sẵn. Rất nhiều ngọn đèn đồng hồ trong buồng lái đỏ quạch trước mặt anh. Ấy thế mà, trong buồng lái chói mắt và xám xịt. Anh không thể xem bản đồ bay được. Độ chừng ba mươi giây sau, anh bay ra khỏi tầm nhìn của sân bay. Anh tống thêm ga. Bay nhanh hơn. Bay cao hơn, để tìm thằng bạn đang bay phía đằng trước mình.
Thấy ánh đèn chớp chớp của nó rồi. Thì xin cám ơn. Ha ha ha! Hoàng cảm thấy khỏe re như con bò kéo xe đi te te. Vì, theo thông lệ quốc tế: Trên mỗi chiếc phi cơ khi bay trên không trung, phải có bốn bóng đèn liên tục chớp tắt. Bên trái là bóng đèn màu xanh lơ. Bên phải là bóng đèn màu trắng. Phía trên đầu gần đuôi là bóng đèn màu đỏ. Phía dưới đuôi là bóng đèn màu xanh lá cây.
Anh cứ nhìn theo chiếc phi cơ bay trước mặt, nhìn các bóng đèn chớp tắt kia, là biết ngay. Hoàng mừng rỡ hớn hở huýt gió, rung đùi tà tà bay theo sau chiếc phi cơ kia. (Nếu nó đi lạc, chắc chắn anh sẽ đi lạc theo. Ui là buồn năm phút em hở!).
May thay, sau khi Hoàng đã bay qua năm thành phố, trong vòng hai giờ đồng hồ. Các anh về đến sân bay, Hoàng đáp xuống rất bay bướm, lả lướt, nhẹ nhàng. Đến nỗi những người trực ở đầu phi đạo, phải thốt lên lời khen ngợi:
- Nice landing!
Nở lỗ mũi, anh sung sướng hãnh diện làm sao! Lạng quạng vì anh vội mở canopy ra (móc dây), khi chung quanh sân bay bụi mịt mù. Thay vì quẹo vào Taxiway, anh lại chạy ra bờ cỏ ven phi đạo. Suýt tí nữa thì Hoàng “rơi đài” rồi. Bên ngoài thảm cỏ, đất mềm, có thể bị “sụp” ngay. Khó lòng điều khiển phi cơ lắm!
May nhờ nhanh nhẹn không kém, anh kéo nó lại được, phi cơ trở về vị trí đậu an toàn. Hoàng kết thúc chuyến bay đêm cuối cùng vui vẻ. Hoàng cảm thấy hạnh phúc tuyệt vời làm sao ấy!
Lúc Hoàng đi bộ trở về barrack gần ba giờ sáng, thế mà lòng anh mừng rỡ hưng phấn lắm. Vì anh đã vượt qua được lần thứ nhì cánh cửa “vũ môn".
Khi có đủ ba người, họ mới tổ chức lễ phát bằng trong buổi tiệc linh đình. Tiễn các anh trở về bên US Air Force, để bay bổ túc thêm.
Vì nguyên nhân sau: Chương trình bay với US Navy, đã được đặt ra, từ khi ông Nguyễn Cao Kỳ lên làm Phó Tổng Thống, ông nói:
- Nếu Mỹ sợ dư luận trong nước, và quốc tế, về việc các phi công Mỹ bị bắn rơi. Bị bắt làm tù binh ở Bắc Việt. Hãy xin cho phi công Việt Nam đi bay thay thế. Họ sẽ được huấn luyện bởi US Navy. Sẽ cất cánh từ Hàng-không Mẫu-hạm. Ngoài khơi biển Đông. Họ sẽ tiến vào bờ đánh phá các mục tiêu đã định. Sau đó, họ sẽ thoát đi, bằng cách là phi cơ trở lại với tàu Mẹ. Tôi tin họ sẽ thành công.
Hồi đầu Mỹ chịu, nhưng em nên biết là, Việt Nam phải tuyển toàn những người có trình độ Anh-văn cao. Có thể hình tốt. Và nhất là những người hoàn toàn tự nguyện mới được. Thời gian huấn luyện những phi công nầy, dài gần gấp rưỡi bên US Air Force.
- Muốn huấn luyện thành thục một phi công bên Không-quân, kể cả thời gian học Anh-văn ở Lacklang AFB, cho đến khi ra trường. Thường chỉ là mười tám tháng.
- Còn muốn đào tạo một phi công US Navy. Phải mất ít nhất hai năm. Chưa kể còn phải học “chuyền sâu”, tức là phi công ấy phải đi học bổ túc, để có thể bay loại phi cơ thông dụng tại Việt Nam. Là loại khu trục cơ A.1.E Skyraider.
Vì thế, lúc đó có lệnh “ngưng” lại chương trình nầy. Hoàng và một số ít người được gửi đi học thêm ở US Navy. Kể ra, từ năm 1964 cho đến lúc đó, có tất cả 74 người đi học ở Hải-quân. Thi đậu chỉ có 40 người. Trong đó có Hoàng.
(Bây giờ đa số bạn anh chết hết rồi). Vì học với US Navy, bị “nhồi sọ” kinh khủng, khi bay ra chiến trường, họ vẫn giữ truyền thống gan dạ. Kiên định và đánh bạo, bay rất sát, rất gần. Nên chẳng may phi cơ bị phòng không, hay hỏa tiễn cầm tay SA-7 bắn rơi. Trong đó có các anh: Nguyễn Cao Hùng. Trần Thế Vinh. Phan Quang Tuấn. Vân vân... và vân vân…
Họ toàn là những anh hùng quả cảm, đầy hăng say, nhiệt huyết phi thường của ngành không quân Việt Nam, anh tài kiệt xuất cả.

_ * _

Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
Trân trọng,
Ái Ưu Du

Ái Ưu Du
#170 Posted : Wednesday, December 5, 2007 11:31:05 PM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

HOÀI HƯƠNG XƯA

Chương 18

GỢN SÓNG




Hương Hương ơi,

Khi đã tốt nghiệp bên US Navy, anh chính thức được công nhận là phi công, có bằng lái phi cơ loại 2 chỗ ngồi. Đồng thời các anh nhận được quyết định thăng cấp Chuẩn-úy phi công, từ bên Bộ Tư Lệnh Không-quân Việt Nam.
Lẽ ra, Hoàng đã được gọi đi học Khoá Huấn Luyện Viên. Khóa đó có ba chỗ, gọi là IP (intructions Pilot) bên Keesler. Nếu ngay lúc đó, trong giới bạn cùng khóa, có ai chịu khó ra trường cùng anh, là Hoàng đi học khỏe re. Hùng và Bé (ở khoá 64 C, Nha Trang) ra trường sau anh hai tuần lễ.
Xui xẽo là lúc đó, Hùng đi thăm gia đình em gái ở bên Florida. Thế là Hoàng và Bé được đưa về Battalion X (Tiểu-đoàn nầy là nơi ở của những người đang học bên US Navy bị loại). Họ chờ đợi để được điều đi học lại môn khác.
Hoàng và Bé có một tháng ròng rã ngồi chơi xơi nước, có lương. Sáng, trưa, chiều, tối, chỉ ăn rồi ngủ. Thức dậy không biết làm gì hơn, Hoàng đi la cà ra phố chơi rông. Chiều tối anh chui vào mấy Bowling Alley, hay vào rạp chiếu phim. Cho hết giờ.
Thời gian nầy, Hoàng bắt đầu mập ú. Nhàn rỗi quả thực vô vị, nhàm chán. Anh viết thư về gia đình. Viết thư tình cho Trân Thu, mỗi ngày một lá thư thắm thiết, thêu dệt những ý tình đẹp đẽ đầy nhớ nhung. Hoàng kể hết chuyện dông dài trên trời dưới đất. Anh gửi nhiều hình ảnh đó đây, kèm đủ thứ quà rất giá trị về cho Thu.

Đợt 15.- (chương trình huấn luyện phi hành).

Mãi đến lúc Hùng trở về, cả ba người mới lên đường đi học bổ túc bên Randolph ở Texas. Thật ra, lúc đó chẳng có khoá nào cả. Nhưng chả lẽ họ cho tụi anh ăn rồi, ngồi chơi nhông nhống ở không mà ung dung lãnh lương? Nên họ điều các anh đi học! Vâng! Đi học.
T-28A mà bên USAF sử dụng, ví dụ đơn giản thì chỉ giống như chiếc xe honda chừng 50cc. Trong khi đó, các anh đã tốt nghiệp cái bằng loại xe honda gắn 90cc rồi.
Về đến Randolph, việc đầu tiên cần giải quyết là:
-* Trên Sự Vụ Lệnh thuyên chuyển các anh, Mỹ vẫn ghi là “A/C", nghĩa là Cadet. Theo nguyên tắt cadet, thì các anh vẫn còn là Sinh-viên Sĩ-quan. Thế nên từ ăn đến ở, đều là Sinh Viên Sĩ Quan, chưa được hưởng quyền lợi của Sĩ-quan.
-* Khi vừa đến, các anh nhìn trong danh sách gửi người học du học khóa nầy: Có người đến từ Việt Nam, tất cả đều là Sĩ-quan. Từ thiếu uý, trung uý. Chứ không có ai là Sinh Viên Sĩ Quan.
-* Họ định chuyển các anh về barrack, ở chung với đám Sinh Viên Sĩ Quan. Thế là các anh không đồng ý. Hoàng và Trần Thế Vinh trưng bày sự vụ lệnh, đưa bằng tốt nghiệp ra, đồng thời đưa quyết định của Bộ Tư-lệnh Không-quân Việt Nam. Công nhận các anh hiện giờ đã là Sĩ-quan.
Ông Đại-tá Chỉ-huy-Trưởng Không-quân Hoa-Kỳ, mời các anh lên. Hoàng trình bày rõ ràng quan điểm của mình. Đòi hỏi phải có quyết định đúng đắn. Nếu không, thì cả khoá học đi về US Navy. Các anh xin về Việt Nam, không thèm học nữa.
Sau khi bàn thảo tỉ mỹ và giằng co hồi lâu. Họ đành chấp nhận là “Hold for third Lieutenant”. Vì bên USAF không có cấp bậc Chuẩn-úy (Aspirant), mà chỉ có Warrant Officer. Là Thượng-sĩ-Nhất, cấp bậc cao nhất của USAF mà thôi.
-* Họ vẫn chưa công nhận các anh là sĩ-quan. Nhưng mình hưởng chế độ ở phòng sĩ-quan. Anh và Hiển được cấp một phòng lớn. Có phòng khách, hai phòng ngủ, toilet, đồ dùng đầy đủ, tiện nghi. Vân vân...

Đợt 16.- (chương trình huấn luyện phi hành).

Đi học bay bên nầy, thật nhàn hạ phong lưu như đi dạo mát. Các anh kia, đã tốt nghiệp khóa L-19 bên Việt Nam. Nên họ hơi vất vã. Chứ “ba đứa anh”, thì bay xoành xoạch, loại mạnh hơn, to hơn nhiều. Khóa học ấn định ba tháng. Nhưng mới học đến tháng thứ hai, trường phải chuyển toàn thể căn cứ đi Keesler AFB, ở cách đó độ 200 miles.
Ở đây, anh có một kỷ niệm rất vui. Ông thầy người gốc Ý vui tính, hồi xưa ông đã qua Việt Nam, lấy bà vợ rất trẻ. Một chữ Anh bẻ đôi, bà cũng không biết. Thế là lúc đó, bà vợ ông thầy có bầu, ông muốn đưa bà vợ lên học khóa giảng dạy “Người Mẹ tương lai”. Nên thầy nhờ Hoàng làm “thông dịch viên”. Ông đem xe đến chở anh, và bà bầu kia, đến bệnh viện.
Hoàng phải ngồi đó nghe. Rồi phiên dịch lại cho bà bầu, biết cách thức luyện tập trước khi sanh. Sau khi sanh. Cách thay tã lót. Tắm rửa. Pha sữa. Hay nấu thức ăn lỏng cho em bé có bao nhiêu tháng tuổi.
Tóm lại, ba tháng ở đó, anh là “trợ lý ngôn ngữ” cho bà bầu. Bà bầu được “mang Họ của anh”. Cả khoá xúm lại, chọc quê anh là “chuyên viên đỡ đẻ”.
Ông thầy rất hợp với Hoàng. Sau đó, anh chuyển qua căn cứ khác, ông thầy vẫn ân cần thăm hỏi. Họ báo tin: “mẹ tròn con vuông”, cám ơn anh rối rít. Họ mời anh khi nào tiện, ghé nhà xem mặt cháu bé. Họ nhờ Hoàng đỡ đầu và xin phép được đặt tên con trai, lấy tên của anh là Tony. Vậy, anh đã có một đứa con nuôi, nơi đất khách quê người đó. Nha em.
Chuyện thứ hai, là có sự hiềm khích giữa Hoàng, và thằng Trung-úy tên Carroll. Nó chả làm gì anh cả. Nhưng Hoàng rất ghét nó. Số là ở barrack, có lệnh cấm nấu nướng trong phòng. Sợ vật liệu xây dựng nầy, dễ bốc cháy.
Mỗi chiều, Carroll đứng gần chỗ người Việt ở, chận đường mấy sinh viên đi mua thức ăn về, định nấu nướng thêm. Vì ăn đồ Mỹ hoài, ngán lên tới cần cổ. Và không hợp khẩu vị. Carroll tịch thu, vất hết vào sọt rác. Có hôm anh thấy anh ta làm chuyện lếu láo đó, (với mấy anh kia). Hoàng đến cự nự:
- Anh có thấy rõ họ nấu nướng ở barrack không? Sao anh dám vứt thúc ăn của họ? Anh có biết anh đã xâm phạm “tự do cá nhân”, đồng thời phạm lỗi “phá hũy tài sản” của kẻ khác không? Vì họ đã mua thức ăn, bằng tiền của CA. Anh có muốn tôi làm complaint thưa lên CA không?
Bởi vì, Hoàng cũng là một sĩ-quan. Nên anh ta không dám tranh luận. Thế là “ảnh” xin lỗi. Từ đó anh ta hết dám đứng chận đường đám sinh-viên. Thật ra vụ nầy, anh cũng có một lần bị.
Hôm đó đám sĩ quan Việt (sĩ-quan đó nha) có nấu nướng thật. Khi tất cả sĩ-quan tập trung đi học, thì ở nhà có an ninh (Air Security) đến.
Họ chận các ngỏ lên xuống, tự động lấy chìa khóa Master Key, mở các phòng ra. Hễ thấy có đồ dùng để nấu bếp, họ tích thu hết. Thậm chí có những thứ hàng hóa còn nguyên kiện, anh em mua, định gửi về quê nhà, biếu thân nhân, cũng bị tịch thu. Họ chở một chiếc xe GMC đầy nhóc.
Trưa hôm sau, Hoàng và chín bạn nữa, bị mời lên phòng Chỉ-huy-Trưởng căn-cứ, để họp. Nhìn nồi niêu son chảo tùm lum trước mặt. Ông nói:
- Chúng tôi tôn trọng qúy anh, là sĩ-quan đồng minh. Sao qúy anh không tuân theo điều lệ của căn-cứ là: Cấm nấu ăn trong phòng. Qúy anh có ý kiến gì không?
Mấy bạn đẫy anh ra tranh luận: OK nói thì nói. Sợ gì! Có bị bắn “cái đùng” đâu mà chết:
- Thưa Đại-tá, chúng tôi là người Việt Nam, ăn thức ăn Việt Nam quen rồi. Nay ở bên Mỹ gần hai năm, ăn toàn thức ăn Mỹ. Không hợp khẩu vị, không ăn được hoài. Do đó, chúng tôi không đủ sức khỏe đi bay. Với lại... ông không có bằng chứng gì, là có người nấu nướng, phải không? Nếu ông thật sự tôn trọng, quan tâm đến chúng tôi. Xin giúp đỡ chúng tôi, bằng cách có chỗ nấu nướng riêng cho chúng tôi nhờ.
Nhìn đống son nồi méo mó như thế, cả nhóm đều cười to, mà anh dám nói liều lếu láo, cũng lạ!
Công nhận người Mỹ rất “Fair Play”, đúng là “tinh thần cao thượng” tuyệt vời của người Mỹ. Ông cười cười, nói:
- OK. Để tôi xem đã. Tạm thời, tôi phải giữ những thứ nầy lại. Cảm phiền qúy anh, tối nay đi ăn ở Cafeteria dùm. Mai sẽ tính.
Em biết không? Sáng sớm hôm sau, có đoàn người đến xây cất mấy căn nhà. Bằng vật liệu nhẹ, có mái che, có đường đi ximăng. Họ làm cái bếp, có đủ thứ cần thiết hết. Kể cả bảng hướng dẫn sử dụng điện. Nhớ tắt điện sau khi dùng. Nhớ làm vệ sinh mỗi ngày các lò nấu. Vân vân...
Thật chu đáo. Họ còn bảo các anh lên lấy lại “dụng cụ bếp núc”. Từ đó, xuất hiện “cái bếp dã chiến” ngay tại khu B.O.Q (Bachelor’s Officer Quarter). Khu dành riêng cho sĩ-quan độc thân).
Rồi một ngày kia, có lệnh di dời toàn bộ căn cứ qua Keesler (Mississippi). Thu dọn đồ đạc xong, Hoàng lên xem bảng trực. Oái oăm thay! Trong lịch, thì anh phải bay với Carroll. Anh xuống phản đối dưới Chỉ-huy-Trưởng:
- Các ông sắp xếp cho tôi, bay với Carroll. Nhất định, tôi sẽ không bay đến Mississippi đâu. Tôi sẽ cho hắn đi theo tôi, ra ngoài phòng lái, đi rong chơi với tôm cá dưới biển. Nếu không, tôi sẽ làm một phi vụ Kamikaze.
Kamikaze là Thần phong của Nhật hồi Đệ-nhị Thế-chiến, đó là những phi cơ có trang bị đầy bom, đạn, bay cảm tử. Họ chỉ cất cánh nhào xuống các chiến hạm Mỹ. Họ ra đi không hẹn ngày về... Hồi xưa, đó em.
Nhượng bộ anh, nhưng họ cũng rất cáo già. Khi đến căn cứ Keesler AFB, thay vì họ đưa ba đứa anh về BOQ, ở với những sĩ-quan đồng khoá. Họ xỏ lá, cho ba thằng bên Navy, về thẳng bên Barrack của sinh-viên sĩ-quan.
Các bạn kia cũng tức tối lắm, Hoàng định “đảo chánh làm loạn” nữa. Nhưng sau cùng, Bé ôn hòa an ủi anh hơn, nói:
- Thôi mày. Chỉ còn vài tuần nữa, là học xong. Kệ cha nó. Hơi đâu làm loạn cho mệt.
Thỏa thuận với nhau, nên tụi anh ở tạm đến hết khóa học. Sau khi tốt nghiệp, họ tổ chức một buổi lễ. Mấy đứa bạn anh âm thầm bỏ trốn đi hết. Cầm đầu là Trần Thế Vinh. Chả cần báo, chả cần tham dự lễ lạy gì hết, để trả lời về vụ bọn Mỹ nó o ép, kỳ thị, chơi xấu mình.
Thế là, họ báo về Bộ Tư-Lệnh Không-quân Việt Nam là “tụi anh” không tuân theo kỷ luật, đề nghị phạt. Cả mấy đứa đều bị phạt “15 ngày trọng cấm. Ghi trên giấy tờ”.

_ * _

Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
Trân trọng,
Ái Ưu Du
Ái Ưu Du
#171 Posted : Saturday, December 8, 2007 7:40:09 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

HOÀI HƯƠNG XƯA
*Đặc biệt thân kính gửi tặng qúy anh:
DANGVUHA, HOANGMAIPHI. Read DaDieu. LOIDIEU04. Gucci.
Và... cố nhân.

*

Chương 19

TRỞ VỀ VỚI U S A F
(United States Air Force
- Không Lực Hoa Kỳ).

*




Ra đi...

Trạm dừng chân cuối cùng là: Căn cứ Hurlburt AFB, cách xa Walton Beach khoảng 30 miles, sát bên đường biên giới của tiểu bang Alabama và Florida. Hurlburt AFB là một căn cứ không quân và cũng là nơi huấn luyện các phi công tác chiến (Combat training).

Đợt 17.- (chương trình huấn luyện phi hành).

Nơi nầy, theo chương trình huấn luyện, các anh được chuyển qua thực tập với khu trục cơ A1-E Skyraider.
Đây là loại oanh tạc cơ được biến cải từ AD–5; do công ty Douglas chế tạo. Phi cơ được trang bị 4 khẩu đại bác 20mm, đồng thời có khả năng mang theo nhiều loại bom khác nhau. Ngoài ra nhờ vào tầm hoạt động khá rộng, và phi cơ có thể xuống thấp để oanh tạc. Nên đây là loại oanh tạc cơ rất hữu dụng, cho các phi vụ yểm trợ quân bạn.
Phi cơ AD –5 có hai chỗ ngồi, có cabin phòng lái cho hai phi công, mà công tác chính yếu của AD-5, là dùng trong việc huấn luyện các phi công chiến đấu. Phía sau phòng lái còn có khoang rộng, có thể dùng cho nhiều việc khác.

Đợt 18.- (chương trình huấn luyện phi hành).

Song song với việc cải tiến, công ty Douglas cũng cho ra đời loại: AD–6 và AD–7 một chỗ ngồi, trở thành oanh tạc cơ A1-H và A1-J. Dùng tác chiến, hành quân. Nói chung cả mấy loại nầy đều giống như nhau.
Ngoài 4 khẩu đại bác 20mm, các oanh tạc cơ Skyraider có thể mang từ hai đến bốn trái bom 250 Lbs. Hai bộ rocket, gồm tất cả 24 quả. Phi cơ cũng có thể mang theo bom napalm, hay còn gọi tắt là bom xăng-đặc. Đây là một hổn hợp dễ phát hỏa gồm có xăng, polystyrene và benzene, cô đọng lại dưới dạng keo, được điều chế từ hổn hợp naphthalene và palmitate.
Khi ném bom xuống mục tiêu, vỏ ngoài của quả bom sẽ bể toang ra, lượng nhiên liệu đặc sẽ rải vung trên một diện tích khá rộng, và bám vào vạn vật, nhờ chất keo. Khi ngòi nổ phát hỏa, nhiên liệu này sẽ bùng cháy dữ dội, thiêu hủy kinh hoàng tất cả trong tầm nó sát hại.
Ngoài ra khi phát hỏa trên một bình diện khá rộng, lượng dưỡng khí trong vùng sẽ bị giảm đột ngột, gây khó thở cho các sinh vật các nơi phụ cân. Đây là loại vũ khí rất hữu hiệu trong việc ngăn cản, phá vở các cuộc tấn công, với chiến thuật biển người của đối phương, nếu họ vào các tiền đồn của Việt Nam Cộng Hoà.

Đợt 19.- (chương trình huấn luyện phi hành).

Viết cho em mà dài dòng chi tiết kỷ thuật, quả thật là lẩm cẩm. Có lẽ các anh được huấn luyện nhiều thứ, nên anh phải ráng nhớ nằm lòng. Thật ra, em không nên buồn hay thắc mắc, khi anh đi vào chi tiết chưa chính xác cho lắm. Ngay cả ai được huấn luyện bên Không-quân (USAF), cho dù là phi công ngày xa xưa ấy, chưa chắc bây giờ đã nhớ hết tường tận từng chi tiết.
Anh cũng vậy, đôi khi anh không thể nhớ nỗi, vẫn còn sơ sót và quên lẫn là chuyện bình thường. Vậy, mong em hãy rộng lượng và bao dung thứ tha cho anh điều ghi trên. Em nhé!
Trong Không-Lực Việt Nam (VNAF) từ năm 1963 đến 1965, chỉ có 74 người, được chính phủ Việt Nam Cộng Hoà đặc biệt tuyển chọn, đưa họ đi huấn luyện chung với US Naval Aviator. Các phi-công Hải-quân đeo cánh vàng, trong khi bên USAF hay VNAF, và Bộ-binh Mỹ họ đeo cánh bạc.
Tất cả các phi công nói chung đều có một chương trình huấn luyện đầy cam go, vất vả nhọc nhằn như nhau, đòi hỏi các khóa sinh phải bền bỉ, cố gắng thực tập thuần thục các phương pháp phi hành phức tạp. Tuy nhiên cũng thành thật mà công nhận là có sự hơi khác biệt này, bắt nguồn từ các nguyên do sau:
*Không-quân thành lập các căn cứ với phi trường, nôm na là trên đất liền, dù sao cũng rộng rãi cùng với các phi đạo thẳng tắp, dài chừng ba miles, nên các hoa tiêu không quân cất cánh và hạ cánh nhẹ nhàng, lả lướt. Thực tế là vậy.

Đợt 20.- (chương trình huấn luyện phi hành).

*Trong khi bên Hải-quân, hoa tiêu chỉ có vỏn vẹn cái bon Hàng-không Mẫu-hạm, chiều dài chừng 200’, (còn gọi là Yellow Zone hay Landing Zone). Trên Hàng-không Mẫu-hạm, “đường bay” chỉ dài không quá 50 mét. Ngay đầu phi đạo họ thiết lập hệ thống dây cáp căng ngang. Mỗi dây cáp cách nhau khoảng 10 mét.
Trong phạm vi ngắn ngủi nầy, hoa tiêu thật khốn đốn, gò ép, lo lắng, phải bình tĩnh thả móc (hook) và đưa con tàu vào vị trí thích hợp, thì dây cáp sẽ tự động bật lên. Và cái hook (tức là cái móc) ở đằng sau đuôi máy bay, sẽ bấm vào đó, mà kéo máy bay lại, để phi-cơ đáp xuống.
Khi nào, phi cơ chạm xuống bon tàu. Sao cho cái móc sau đuôi phi cơ vướng vào một trong các sợi cáp. Thì hệ thống dây cáp này, có tác dụng giúp phi cơ ngừng hẳn trên bon tàu an toàn, trong vài mươi mét. Vì thế các phi cơ được chế tạo cho Hải-quân sử dụng, đều có cái móc dưới lườn, gần phần đuôi của thân tàu.
Trong trường hợp anh đáp vượt ra ngoài, không chính xác với dây cáp thứ nhất, thì còn hai sợi dây cáp nữa. Chung quy, chỉ có tất cả độ 90 foots (độ chừng 30 mét), để phi cơ đáp xuống trên Hàng-không Mẫu-hạm.
Nếu phi cơ bị lọt ra ngoài:

Một là: Anh phải tống ga cất cánh bay vút lên trở lại.

Hai là: Lủi vào Safety Barrier, ở cuối bãi đáp, nơi có tấm lưới nylon đặc biệt, mới có thể giữ máy bay lại (bất cứ loại máy bay nào). Sau đó màn lưới ấy bị phế thải, dù một tấm lưới, chi phí ít nhất là một trăm ngàn dollars! Kinh khủng chưa em?

Ba là: Chỉ còn nước lao xuống biển, hoa tiêu cùng phi cơ có dịp đi thăm hà bá mút mùa lệ thủy chơi. Ha ha ha!!!
Cất cánh cũng thế, nếu ở dưới đất liền, anh có thể lướt theo chiều dài của phi đạo. Khi đạt đủ tốc độ cần thiết, thì anh chỉ cần kéo cần lái, là phi cơ sẽ cất cánh nhẹ nhàng.
Ngược lại, thủ tục rất phức tạp khi muốn cất cánh từ Hàng-không Mẫu-hạm. Trước tiên hoa tiêu phải hoàn tất các thủ tục an toàn, nhân viên giàn phóng sẽ hướng dẫn phi cơ vào nơi quy định. Khi muốn cất cánh, cái Canopy (cái mũi bằng Plexiglass, một loại nhựa trong) phải để chiếc máy bay đậu ở trên hai cái bệ phóng. Hai bánh xe của phi cơ gắn lên đó (là cái Catapult). Hệ thống này có công suất rất cao, đủ sức đẩy những chiếc phi cơ nặng cả chục tấn về phía trước.
Các anh ngồi an toàn ở trong buồng lái, chăm chú quan sát nhân viên điều hành. Mỗi người có một việc riêng, được phân biệt bằng màu áo họ mặc trên người như: màu áo xanh lá cây, màu vàng, màu cam.
Trên bon tàu vào lúc này rất ồn vì tiếng động cơ gầm thét, nên mọi liên lạc hoàn toàn dựa trên dấu hiệu bằng tay của họ. Khi hoàn tất các thể thức an toàn xong, qua hiệu lệnh của nhân viên điều khiển phía dưới, anh đạp thắng và đẩy hết cần ga. Động cơ gầm thét ầm ỉ ồn ào kinh khủng. “Con tàu” nửa chực như muốn giận dữ phóng tới, mà nửa như giận dỗi dùng dằng bị kềm giữ lại. Khi có dấu hiệu khởi hành, anh nhả thắng và cùng lúc ấy máy thủy điều dưới bon tàu phóng phi cơ lao về phía trước, với tốc độ kinh hoàng nhất. Chỉ trong tích tắt vài giây đồng hồ, phi cơ rời bệ phóng vài giây, là đã đủ tốc độ để cất cánh rồi.
Nói như thế, tất nhiên môn học bên nào cũng có những sự khó khăn và phức tạp vượt mức, mà mình cần cố gắng vượt qua. Cũng không có nghĩa là anh coi trọng bên nầy, hay xem nhẹ bên kia cả. Bên nào cũng có những khó khăn phức tạp đáng sợ. Và, do ở chính bản thân ta thu thập được bao nhiêu vốn kiến thức. Sự học hỏi và thực tập đến mức độ cần thiết nào thôi em. Anh chả tài giỏi gì trong bộ môn nầy. Mém một tí nữa thì “anh lặn sâu cả đời trai lẫn con gái tàu bay” xuống đại dương sâu thẳm, đi thăm thủy cung rồi. Hú vía em ơi!
Anh rất khổ sở, khó khăn, vất vả, bực mình muốn điên, đổ quạu muốn buông xuôi bỏ cuộc, vì anh phải học môn “quỷ quái” nầy. Kinh nghiệm bản thân của anh sẽ cho em thấy: Anh thành công hay thất bại trong trường bay, là do ở điểm nào: Ở dưới nước? (bon tàu) hay ở trên đất liền? (phi đạo). Rồi em sẽ thấy nhe.
Sau thời gian được huấn luyện chu đáo kỹ lưỡng, anh đã lái thông thạo, bay thuần thục, khá nhuần nhuyễn cả hai nơi. Trong vòng hai tuần nữa, anh sẽ thành công rực rỡ, tốt nghiệp và hát khúc khải hoàn ca. Anh sẽ vui vẻ mừng rỡ ung dung lên đường trở về quê hương. Xa mù xa.
Thì...

_ * _

Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
Trân trọng,
Ái Ưu Du
Ái Ưu Du
#172 Posted : Wednesday, December 12, 2007 7:49:37 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

HOÀI HƯƠNG XƯA

Chương 20

CẨN TRỌNG







Đợt 21.- (chương trình huấn luyện phi hành).


Tính ra, các anh đã bay những loại phi cơ:
* T-34. Từ ngày 31-o3-1966 - đến 28-o4-1966.

Sau đó, chuyển qua bay bên US NAVY.

Đợt 22.- (chương trình huấn luyện phi hành).


*Loại: T-28, Ngày 28-05-1966 đến 11-10-1966.

Đợt 23.- (chương trình huấn luyện phi hành).

* Rồi trở về bên USAF, học bổ túc T-28. Từ ngày 29-1-1967 đến ngày 24-o4-1967.

Đợt 24.- (chương trình huấn luyện phi hành).

* Tốt nghiệp Phi-công Quân-sự xong. Các anh được chuyển qua căn cứ Hurlburt A F B, để học tác-chiến trên chiếc A.1.E Skyraider. Từ ngày 1-05-1967 đến ngày 18-07-1967.

* Đợt 25.- (chương trình huấn luyện phi hành).

*- Có một lần khác, khi các anh học cách thoát ra khỏi máy bay, khi đáp xuống biển, có một phi cơ bị lật ngửa. Viên phi công bị dây đai nịt an toàn, cột chặt vào ghế.
Huấn luyện viên cho một tốp khóa sinh bên Vinh (có biệt hiệu rất thân thương là Vinh Tô Tô) thực hành, và biểu diễn trước. Họ leo lên cockpit (buồng lái giả), cài đặt trên một đường rây, đặt trên cao ở hồ bơi, cách mặt nước khoảng chừng 10mét. Có ghế ngồi, có dây an toàn, có panel cản lại. Nói chung là: có đầy đủ mọi thứ. Giống như buồng lái thiệt.
Sau khi kiểm soát kỹ càng, các học viên mang dù, được gài chặt vào ghế rồi. Huấn luyện viên hỏi:
- Ready?
Vinh đưa ngón tay cái “thumb up”. Ông thầy kéo cái chốt. Thế là hai buồng lái giả nầy, tuột băng băng xuống “dốc rây” cao tít dựng đứng, và rơi tõm xuống nước.
Sau đó lật ngược, chổng mông lên. Học viên “tá hoả tam tinh”. Như bị Trời giáng cho một cú vào đỉnh đầu. Nguy hiểm thật.

Điều đầu tiên là: Phải bình tĩnh ngồi yên. Chứ mình càng nóng ruột, hồi hộp, nôn nóng lo âu bao nhiêu, thì càng dễ phạm sai lầm, khi nhìn mọi việc xảy ra chung quanh.

Tiếp theo sau đó ta mới thao tác từng việc một. Thầm đếm từ 1 đến 10. Mặc nước bọt xoáy tùm lum. Các anh tháo dây an toàn, dây radio. Ngồi lên ghế và đạp mạnh. Thoát ra bên hông. Nhanh chóng bơi ngay ra xa. Tránh chiếc phi cơ tạo ra lực kéo, lôi mình xuống sâu hơn.
Hoàng nhớ hồi xưa khi ba anh có chiếc xe hơi. Mặc dù có chú Bảy chăm sóc. Nhưng tính anh khi lái xe đi đâu, là anh đi một vòng quanh xe kiểm soát kỹ, trước khi leo lên xe ngồi lái. Ở trường bay cũng thế! Cái việc nầy gọi là Pre-Flight check.

Đợt 26.- (chương trình huấn luyện phi hành).

Bên Không-quân cũng thế! Anh đi một vòng kiểm soát từng bánh xe. Xem có rịn rỉ dầu nhớt ở đâu không. Vì khi mình mở công tắc lên rồi, chỉ cần chậm năm giây. Là nó “nổ cái đùng”, thì toi mạng như chơi. Thậm chí anh còn cẩn trọng mở bình xăng ra, coi màu xăng nữa:
Vì mỗi loại máy bay, có một màu xăng khác hẳn nhau, riêng biệt, chắc chắn cần phải học thuộc lòng.

- Xăng màu tím để dùng cho máy bay phản lực.
- Màu xanh lá cây để dùng cho máy bay cánh quạt một động cơ.
- Màu vàng để dùng cho cánh quạt nhiều động cơ.

Ấy thế mà, có lần Hoàng thoát chết. Hôm ấy, chả hiểu sao, thay vì đổ xăng máy bay, cho loại cánh quạt. Họ lại nhầm lẫn cho đổ loại xăng máy bay phản lực vào.
Khi anh mở bình xăng ra xem, thì thấy khác màu. Lập tức, Hoàng lên phòng điều hành, yêu cầu kiểm soát mấy chiếc phi cơ nầy lại. Anh không nhận chiếc máy bay nầy.
Đúng y boong! Tốp lính bảo trì không biết gì. Họ quên hay cũng chả để ý. Nên thay vì cho chiếc xe bơm xăng chạy vào khu máy bay phản lực, cách đó vài chục mét. Họ lại nhầm lẫn chạy xe vào khu vực đậu máy bay cánh quạt.
Hú hồn hú vía. Hương Hương em nhỉ!

_ * _

Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
Trân trọng,
Ái Ưu Du

Ái Ưu Du
#173 Posted : Wednesday, December 19, 2007 8:23:54 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

Hoài Hương Xưa

Chương 21

CHUYỆN RONG RÊU





Trước khi bước vào câu chuyện định mệnh sầu đắng, anh xin dừng lại đây ít phút. Kể hầu em nghe vài chuyện “Buồn cười nhỉ” nha.

*- Thường thường, vào hai buổi chiều Thứ Bảy, Chủ nhật cuối tuần, trường có những chuyến xe Bus quân sự miễn phí. Chở các sinh-viên sĩ-quan ưa đi ra bờ biển chơi. Hay về những thành phố gần đó giải trí. Thế nên, cứ chờ đến cuối tuần, bọn anh ra bờ biển, ngồi trong các Bar uống nước, uống bia, hay rươu nhẹ giải khuây.
Tại các quán kia, có những cô gái tóc vàng, mắt xanh, còn rất trẻ. Đa số các em là sinh-viên, đi làm thêm partimes mùa Hè, kiếm tiền mua sắm, xài vặt, hoặc đóng tiền học.
Vì thế, các quán Bar luôn luôn nhộn nhịp. Đông đúc. Ồn ào. Ầm ỉ hết biết. Đến uống bia, hay nước ngọt, các anh thích ngồi gần cửa ra vào, cho thoáng. Hầu hết các an không quân nầy, được sự mến mộ của mấy em tiếp viên.
Thế nên, có một nhóm Hoologans tức tối. Tụi nó to cao, dềnh dàng, vam vỡ. Mặt mày bặm trợn. Nghênh ngang. Coi người khác như pha. Bất cần đời. Đi đâu chúng cũng dàn hàng ngang, giạng chân ra. Rú xe mô tô phân khối lớn. Khói bay mù mịt. Bóp còi kêu inh ỏi.
Thấy đám sinh viên Việt Nam lịch sự, được các cô vui vẻ tiếp đãi nồng hậu. Thế là, “tụi nó” chễm chệ ngồi bên trong, tìm cách gây hấn với các anh. Lần nào “tụi anh” cũng cặp bốn năm tên, ngồi đối diện và “nghênh” chiến. Hoặc, chúng đi ngang qua bàn các anh ngồi, cố ý đụng bàn, đá ghế. Làm đổ ly nước, hay ly bia.
Nghĩ phận mình nhỏ con, không muốn phiền phức, hay kết bè cánh tạo “băng đãng” tại địa phương. Cho nên các anh đành phải nhịn nhục. Nhưng trong lòng mỗi anh, tức giận kinh khủng! Chả lẽ mình cứ cúi đầu chịu nhục, để chúng nó lên mặt ăn hiếp hoài sao!?
Về trường bay, các anh sôi nổi bàn tán chuyện nầy. "Ông nội Vinh" tức giận nhất, hăm he tìm cách nào để "rửa hận" mới thôi. Bọn anh giơ thẳng hai tay lên trời đồng ý cái rụp.
Có hai anh sinh viên Đại Hàn. Tướng tá họ trông ngon lành. Mà lại là hai vỏ sư Đệ Tứ Đẵng Karatedo và Taekwondo. Nghe các anh kể lại, họ nói với các anh:
- Để chúng tôi “trị tội” bọn “mất dạy” kia cho.
Thế rồi, một buổi chiều cuối tuần, các anh đi cùng hai anh Đại Hàn, ra quán Bar. Vì hai anh nầy là người Á Châu, nên không khác gì người Việt Nam mấy. Hai anh kia bàn tính:
- Nếu có đụng độ. Các bạn cứ gọi Taxi, ra ngồi hết trong xe. Chờ chúng tôi ở đó nhe. Trong quán, để chúng tôi “làm gỏi” mấy tên “cao bồi, du đãng” nầy xong. Rồi cùng nhau chạy về căn cứ luôn. Nha.
Bọn kia vào quán, vẫn thấy đám anh ngồi ở chỗ cũ. Theo thường lệ, chúng vẫn đá bàn, đá ghế, và “cà nghinh, cà bật”. Ngổ ngáo. Bặm trợn. Coi chẳng giống ai. Chẳng giống con giáp nào. Hai anh Đại Hàn nháy mắt với các anh Việt Nam mỉm cười.
Vinh kêu cô tiếp viên tính tiền. Mấy anh Việt Nam nhẹ nhàng thối lui. Các anh ra ngồi chờ sẵn trong ba chiếc taxi. Để cửa xe rồ máy mở cửa sẵn.
Không nói chẳng rằng, hai anh Đại Hàn, đứng dậy nhào vô bọn chúng. Họ “nện” cho mấy tên kia, một trận đích đáng nên thân. Rồi kéo nhau chạy ra xe. Các anh sung sướng, cười nói thoải mái quá chừng. Xe chạy riết về căn cứ.
Khổ nỗi, khi hai anh Đại Hàn, vừa cho chúng bài học đích đáng xong, vừa chạy ra xe, hai anh Đại hàn cứ la to:
- Việt Nam! Việt Nam!
Ngày hôm sau, các báo địa phương đăng tin:
- Có một nhóm sinh-viên sĩ-quan Không-quân Việt Nam, vào quán Bar, bị làm nhục nhiều lần. Nay họ đã ẩu đả với bọn Hooligans. Khiến mấy tên bị thương nhẹ. Một tên gãy xương quai hàm. Một tên gãy tay. Một tên long đầu gối, què chân. Từ đây xin đừng ai dụng chạm, hay “kỳ thị” đến người Việt Nam nữa nhé.
Tin nầy chấn động cả thành phố nhỏ. Thật hả hê trong dạ làm sao! Có điều hơi phiền toái là: Tin đó, được đưa lên tận phòng Tuỳ Viên Quân Sự Việt Nam, tại Toà Đại Sứ.
Than ôi! Ít lâu sau, có một ông sĩ quan liên lạc bay đến. Ông mời các anh Việt Nam lên phòng hội. Khi anh vừa bước vào phòng, ông ta chỉ ghế ngồi. Ông lắc đầu, nhướng mày lên, và cười cười:
- Các anh cứ thú thật với tôi đi. Ai đã đánh mấy thằng Mỹ bị thương? Chứ các anh nhỏ con, làm sao mà đánh đấm tơi bời, cái bọn có dao găm kia. Đến nỗi chúng bị gãy tay, lọi giò đó? Hở?
Các anh kể lại hết và thú nhận. Ông ta cười vang. Không nói gì. Mọi chuyện rồi cũng ổn thoả thôi.
Về sau, mỗi lần có người Châu Á đi ra phố, đa số thị dân đều đón tiếp ân cần, trịnh trọng. Vì họ nghĩ: Người Việt Nam bé nhỏ nầy, nhưng Việt Nam là “Hero. Vỏ công cao cường”. Mấy anh Việt Nam đã dẹp sạch lũ Hooligans ngoài bờ biển thật rồi. Nhân đó, tên Vinh đẹp "gziai" nhà ta, được qúy nàng mắt xanh tận tình ưu ái chiếu cố.

*- Còn nhớ ngày lễ Thanhsgiving năm 1966, lúc các anh đang bay ở Randolph AFB (Texas). Ở ngay đầu sân bay, có trại chăn nuôi “Gà Tây” (Turkey) mấy chục ngàn con. Ông chủ trại tên Joseph, làm một cái chòi gác cao ngất. Và ông đã đặt một khẩu súng đại liên 20 trên đó. Ông doạ là:
- Sẽ bắn rơi tất cả máy bay nào, bay xuống thấp.
Vì trại chăn nuôi cả ngàn con gà Tây, chúng rất sợ tiếng phi cơ gầm rú, khi đáp xuống, hay khi cất cánh. Chúng sợ hãi bay tán loạn và ngừng đẻ. Khiến trang trại của ông bị thua lỗ đậm. Nên ông ta mới làm “căng” như vậy!
Thật ra, khoá sinh không quân cũng có lắm anh khoái chí chọc ghẹo, tinh nghịch quá chừng! Họ ưa bay là là sát mái nhà, rượt đuỗi đàn gà của ông ta chạy nhốn nháo. Cho nên ông ta mới giận dữ, và hăm doạ ấy mà.
Thế là, trường ban lệnh cấm: Các anh không được bay dưới thấp quá 300 feets.

*- Có một lần, các anh đi học Ground School (học lý thuyết dưới đất) thì bọn Mỹ gốc Xì, được trường thuê mướn quét dọn phòng ốc, đã đình công. Họ đòi tăng lương, nên không chịu làm việc.
Lớp các anh có mười người sĩ quan, tốt nghiệp ra trường cả. Lên lớp, ông đại úy Mỹ rất “kỳ thị chủng tộc”. Y nhấn mạnh từng câu nói:
- Tụi Xì đình công. Thì tụi bay phải làm thay tụi nó, quét dọn lớp cho sạch sẽ.
Vinh đứng ra chất vấn nó:
- Tại sao?
- Tụi bây cũng là coloured people.
- Chính phủ ông mời chúng tôi sang đây, là đi học bay. Vậy thì, dù chúng tôi có là da màu chăng nữa. Chúng tôi vẫn là Guest. Chứ không phải là Servant của mấy ông. Ông không được nói thế.
Các anh Việt Nam và hai anh Đại Hàn cương quyết không chịu làm. Thế là tên đại uý tức mình, chửi mắng các anh đủ thứ tiếng lóng. Nó gọi người Việt Nam là Goddamn Gook.
Hoàng đã gây lộn với thằng Mỹ ấy khá lâu. Chính Thanh dũng cảm đi lại gần nó, Thanh lầm lì không nói không rằng, Thanh từ từ lấy cái ghế đẩu gần đó, kéo sát lại. Vì Thanh chỉ cao đến ngực thằng Mike, (trong khi Mike cao 1m98). Thanh từ từ leo lên ghế, thoi một cái đấm rất mạnh, vào giữa mặt thằng kia. Mike xịt toé máu mũi, văng máu tùm lum.
Thấy vậy, cả mười anh sĩ quan Việt Nam bao vây nó lại. Thằng Mỹ sợ quá, vừa la vừa chạy lên “méc” ông chỉ huy Trưởng. Ông Đại tá xuống ngay. Các bạn đẫy Hoàng ra nói chuyện, vì dù sao tiếng Anh của anh, cũng đủ khả năng để đối chất lưu loát.
Công nhận người Mỹ thật hay! Mike biết lỗi, nó đi bắt tay từng người, xin lỗi cả lớp. Nó từ tốn gọi là các "ông sĩ quan" đàng hoàng. Từ đó, Mike thân thiện, hiểu biết hơn. Không có thái độ khinh khi người da màu nữa.
Tuy nhiên, vì Thanh phạm kỹ luật nhà trường, nên bị báo cáo về Việt Nam. Họ “đì” Thanh “tới bến” hoài, sau nầy không cho Thanh đi bay. (nhờ đó mà Thanh còn sống sót đến bây giờ. Nay Thanh làm đủ thứ nghề, chạy xe ôm, sữa xe đạp... Cuối cùng, Thanh cũng ra đi vĩnh viễn, vì bệnh ung thư yết hầu).

_ * _


Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
Trân trọng,
Ái Ưu Du

Ái Ưu Du
#174 Posted : Sunday, December 23, 2007 7:00:58 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

HOÀI HƯƠNG XƯA

Chương 22

PHƯỢNG HOÀNG GÃY CÁNH






Đợt 27.- (chương trình huấn luyện phi hành).


Ngày 19 tháng 7 năm 1967, đúng 3 giờ chiều. Anh cất cánh bay cùng với ông thầy. Bay được một vài giờ. Thầy kêu anh quay trở về sân bay. Lúc đó, có hai chiếc A.1.e khác đang chờ. Ông bảo:
- Anh cứ tiếp tực làm phi-đội-trưởng. Hướng dẫn hai chiếc phi cơ kia. Đi ra Range để thực tập. Anh bay solo!
Cùng bay với Hoàng hôm đó, có Lợi, và Hạnh. Hoàng sắp hàng chờ. Khi cất cánh xong, Hoàng nghe số 2 và số 3, báo cáo là họ đang bay sát anh. Hoàng dẫn họ đi ra, làm các thao tác qui định.
Sau khi ném hết bom. Bắn hết đạn. Xăng còn ít thôi. Anh dẫn họ về. Đến sân bay, Hạnh đáp xuống trước, phi cơ đang rề rề rẽ về đường Taxiway. Lợi đáp thật gần và chậm quá sức. Hoàng đang bay trên đầu nó.
Hoàng thấy rõ những ngôi nhà to, những con đường sóng lượn quanh thành phố, kể cả vô vàn chiếc xe hơi đủ màu đang ùn ùn chạy đi chạy về, khiến anh hoa cả mắt,
Trong tích tắc, Hoàng nghĩ thầm:
- “Nếu mình bớt ga, để đáp xuống. Thế nào cũng đáp ngay trên đầu nó. Chắc chắn cả mấy phi cơ sẽ nổ tung”. Chết hết cả đám ở dưới đất đang lóng ngóng nhìn lên kia.
Vì thế, Hoàng tống ga, để bay lên tiếp. Như đã từng làm trước đây.
Nhưng, Hoàng quá quen tay lái với các loại T-28 rồi. Khổ một cái, là hồi trưa, anh đã từng bay lên cao độ 5.000 bộ, để thử nghiệm nó rồi. Vì, khi đang bay bình phi, mà hạ cánh cản, cùng bánh xe xuống rồi. Thì chiếc máy bay sẽ trở thành nặng nề, vô dụng.
Nếu Hoàng tống ga lúc đó, sức quay của cánh quạt, sẽ tạo nên một lực đẫy rất mạnh. Khiến chiếc phi cơ có thể lật ngửa ra. Hay sẽ chúi mũi đâm sầm xuống đất.
Còn nếu ở độ cao, mình có thể dễ dàng “go” được. Nghĩa là mình sẽ kéo phi cơ trở lai bình thường. Dĩ nhiên là phải cần có ít nhất là 200 bộ. Mới có thể cứu chữa tình huống vô cùng hiểm nghèo.
Đằng nầy, Hoàng đang ở tư thế chuẩn bị đáp, nên chỉ ở cao độ chừng 100 bộ thôi. Cho nên anh vội tống ga rất mạnh. Hậu quả là chiếc phi cơ chao đảo. Nghiêng qua một bên. Hai hiện tượng đó gọi là: Torque Roll.
Thế là, điều cuối cùng anh chỉ kịp nhìn thấy bầu trời quay cuồng chao đảo. Ngả nghiêng. Một tiếng nổ dữ dội, long trời lở đất đinh tai nhức óc bùng lên. Phi cơ đã chạm cánh xuống bãi cỏ, sát bên phi đạo. Chạm mũi. Cánh quạt bị bứt, bay đi khá xa. Phi cơ lật bên phải. Rồi lật ngửa. Cuối cùng chỉ dừng lại ở điểm “tiếp đất”. Cách nơi đáp xuống chừng 2 kilomets.
Các anh biết điều nầy, là khi đang nằm ở bệnh viện, thì Uỷ-ban điều tra tai nạn, phải dùng một chiếc trực thăng, bay lên cao độ 3.000 bộ, chụp lại toàn cảnh tai nạn. Hoàng thấy chiếc máy bay cuả mình vừa ngồi lái, như những miếng vỏ vở vụn, bay lả tả rải rác khắp nơi, từ phía đầu đến phía cuối phi đạo.
Riêng anh, bị buộc cứng vào ghế, bởi sợi dây nịt an toàn. Nhưng chả hiểu làm sao, cái ghế bị văng ra ngoài bải cỏ. “Nó ngồi” thẳng đứng? Hoàng còn đầy đủ cả mũ bay. Cái mũ đội hơi chúi xuống mắt. Dù đeo sau lưng.
Sau cú đáp kinh hoàng đó. Anh cảm thấy đau nhói kinh khủng cùng khắp thân thể. Nhưng Hoàng vẫn còn tỉnh táo. Anh nghe thoang thoảng mùi cỏ ẩm. Mùi khét, và làn gió nhẹ thổi, phe phẩy trên mặt. Anh nhắm mắt lại, chỉ kịp kêu:
- Chúa ơi!
Gió vẫn thổi man mác vào mặt mình lành lạnh. Anh lại mở mắt ra, mới biết mình còn sống. Anh dáo dác nhìn chung quanh, chỉ thấy toàn các mãnh sắt vụn. Những đám lửa nho nhỏ đang bốc cháy. Đó là những ống dẫn dầu thủy điều bị cháy. Anh ngồi ở cái ghế bay. Một mình chơ vơ, trên bãi cỏ có nhiều vệt lửa. Anh thấy một cánh tay bên phải cuả mình, nằm ở tư thế khác thường. Anh nghĩ nó đã gãy nát rồi.
Lúc đó, nhiều tiếng hú còi xe cứu thương. Xe cứu hoả, ập sát vào chỗ xảy ra tai nạn. Anh còn thấy hai y tá Mỹ (Corpsmans) lui cui chạy nhanh vào. Mấy người Mỹ khác vừa chạy, vừa dập tắt các đám cháy nhỏ. Một người rối rít hỏi to:
- Phi công ở đâu rồi? Phi công ở đâu rồi?
- Tôi ở đây. Đây!
- Are you OK?
Họ chạy vào. Mặt anh đầy dầu nhớt. Máu me. Họ vội đỡ anh ra khỏi chiếc ghế. Hoàng cố gắng đứng lên, mới biết là mình đã bị gãy luôn cái chân bên phải. Họ lấy cái dù, để lót cho anh nằm đỡ trên cỏ.
Khi vào đến nơi cấp cứu, ngay lập tức một “đạo quân” bác sĩ, y tá vây quanh. Họ cắt hết quần áo bay, có chiếc giày bên phải là không cởi ra được. Vì đã bị một khúc ống inox dài đâm xuyên thủng, từ bên nầy, qua thấu bên kia cái gót bàn chân cuả Hoàng.
Bỗng nhiên anh thấy có bốn ông Mỹ lực lưỡng tiến đến. Họ đè anh rõ mạnh. Ông bác sĩ lấy cái kềm, kẹp cứng cây inox, rút ra. Chao ơi! Đau đớn thấu trời xanh, rợn tóc gáy, muốn đứng tim mà chết. Sau đó, họ cấp tốc lo cứu thương cho Hoàng.
Anh vẫn nằm trên nền gạch ở góc phi trường. Anh thấy Hùng và Bé đứng nhìn xuống. Hoàng còn mỉm cười với tụi nó. Anh thấy “hai ông tướng” lắc đầu lia lịa. Mặt họ lo lắng. Buồn thiu. Hùng thì bụm mặt lại quay đi. Anh nghĩ:
- “Chắc là mình bị thương nặng lắm. Hay sao đây”.
Họ đã tiêm vào người Hoàng, hai mũi thuốc morphine giảm đau. Thế mà anh còn cưỡng lại. Vì Hoàng sợ nếu anh ngủ đi. Thì mình sẽ không còn thức dậy nữa. Sau khi thấy anh vẫn còn tỉnh táo, ông bác sĩ trực hỏi Hoàng:
- Anh có muốn đi bằng trực thăng không?
- Tùy ông.
Thế là ông ta cho chiếc xe cứu thương, và hai y tá khiêng cáng leo lên xe. Xe hụ còi inh ỏi suốt lộ trình. Xe chạy rất nhanh trên đường cao tốc. Đến Eglin AF Hospital, cách đó chừng nửa giờ. Lúc đó là 17giờ 45’. Họ mang anh vào phòng cấp cứu đặc biệt.
Một lô bác sĩ chuyên khoa xúm nhau chẩn đoán. Tốp thì xem Tai. Mũi. Họng. Răng. Hàm. Mặt. Tốp lo khám nội khoa. Ngoại khoa. Tóm lại là khám rất lâu, rất kỹ.
Vì thấy sức đề kháng của anh quá mạnh, nên bác sĩ lại tiêm cho Hoàng mũi thuốc thứ ba, và thêm mũi thứ tư. Mà bác sĩ thấy anh còn tỉnh táo. Họ kinh ngạc trợn mắt nhìn nhau.
Tất cả đều lui ra, nhường chỗ cho các bác sĩ chấn thương chỉnh hình ở lại. Họ chụp ảnh. Anh biết chắc anh bị gãy cánh tay phải. Gãy từ xương đùi, xuống mắt cá bên phải. Phía háng bị thương nặng, do dây và móc dù kéo bên tinh hoàn phải ra. Trên mí mắt bị rách một đường, phải may mấy mũi.
Sau khi nhận thức rằng: Định mệnh ác nghiệt, bắt Hoàng phải đương đầu với cái nợ đời, chưa trả dứt. Mặc dù phượng hoàng đã gãy cánh. Anh ứa nước mắt, thì thầm:
- Mình vẫn còn sống...
Sau đó, Hoàng mới thấm thuốc, nên đã lịm dần vào giấc ngủ say. Từ lúc nhận mũi thuốc morphine thứ tư, anh vùi đầu trên gối, chìm vào cơn mê sâu.

_ * _

Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
Trân trọng
Ái Ưu Du



Ái Ưu Du
#175 Posted : Saturday, December 29, 2007 2:20:25 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

HOÀI HƯƠNG XƯA


Chương 23

ĐỊNH MỆNH SẦU ĐẮNG






Chừng khoảng 21:30’ hôm sau, Hoàng chợt tỉnh dậy. Anh nằm trong phòng chăm sóc đặc biệt (speccial Care Unit). Chung quanh có nhiều bác sĩ, y tá. Họ mừng rỡ reo lên. Mấy bác sĩ hỏi anh:
- How are you?
A ha! Ai cũng hỏi anh có thoải mái không? Ui cha! Nhìn xuống thân thể lúc đó, Hoàng thấy mình hoàn toàn như là một cái “xác ướp Mummy” vậy. Bên cạnh đủ thứ dụng cụ máy móc. Lâu lâu có y-tá đến hút đàm, dịch truyền, dây truyền máy. Vân vân...
Thế là xong. Tàn kiếp giang hồ! Thoả chí tang bồng hồ thỉ chí nam nhi! Lướt mây cỡi gió rồi. Hết tự do "lả lướt bay bướm" trên nền trời thênh thang. Anh không còn thú tự do vẫy vùng đôi cánh tung bay trong gió bạt ngàn. Mất hết niềm tự hào sãng khoái, khi anh bay vào không gian với muôn vì sao khuya lấp lánh! Huyễn hoặc, thân thiết và mê đắm... trong bầu trời bao la, mênh mông!
Bác sĩ Mỹ đứng bên cạnh theo dõi. Luôn miệng hỏi:
- Are you comfortable?
- Are you OK?
Ôi! Lại hỏi Hoàng có thoải mái không hoài à? Nhìn thân hình bị bó bột trắng xoá. Từ bàn chân phải lên tới bụng, tràn qua đùi bên trái. Họ chỉ chừa cho một cái lỗ, khoét ở giữa, để cần “làm việc” vệ sinh cá nhân. Chân phải bị treo lên cục tạ to, dùng làm cán cân. Nghĩa là người ta định kéo giãn khúc xương gãy bên chân nầy, cho bằng với chân kia.
Lẽ ra, theo chế độ sĩ quan, Hoàng được xếp nằm ở trong phòng chăm sóc riêng. Một phòng chỉ có một người nằm. Nhưng bác sĩ thấy nếu cho anh nằm trong đó, rất buồn. Không có phường tiện giải trí gì. Phòng hoàn toàn im lặng.
Bác sĩ mới ra lệnh đẫy cho Hoàng ra, nằm chung với nhiều bệnh ở phòng công cộng. Ngoài nầy, có hai dãy giường của Hạ-sĩ quan và Binh-sĩ. Rộng rãi, đầy đủ tiện nghi giài trí vui vẻ và nhộn nhịp! Trong phòng nầy có những người đi lại được (Ambulatory). Có một Ti vi rất to. Cỡ 45”, cho anh em toàn phòng xem chung.
Bên cạnh Hoàng, đủ thứ dụng cụ máy móc. Mỗi giường đều có gắn tấm ri đô khi mình cần sử dụng riêng tư. Hoàng bấm chuông gọi y-tá đến. Cô ta mang “bô” Bed Pan. Cô ta bỏ ra ngoài, cô ta kéo màn lại. Mình “tự do thao tác”. Khi xong việc, bấm chuông, cô y tá mang cái bao đựng cái “bô”, đem đi. Cô y tá đến toilet dọn dẹp. Buổi sáng, buổi chiều, đều có bác sĩ đến thăm, khám cho bệnh nhân kỹ càng. Cho thuốc uống đều đặn.
Mỗi ngày, vào buổi sáng, họ đưa cho bệnh nhân một tờ thực đơn có ba món. Mình thích phần ăn nào, thì check vào đó. Ngày mai họ nấu cho ăn. Nói chung họ cho ăn khá ngon. Hoàng cứ ăn, ngủ, và xem Ti vi riết. Phát chán!
Mấy lần, ông thầy dạy bay của anh vào thăm. Thầy mang nguyên một thùng carton lớn, toàn là những cuốn Play Boy. Thầy nói:
- Tôi thương anh lắm! Gửi tặng anh. Những thứ nầy tôi đã “sưu tầm” hơn mười năm rồi.
Thế là Hoàng cứ nằm đó, mà “nghiên cứu” hết mấy trăm tập. Nhờ thế vốn liếng sinh ngữ trong Hoàng ngày càng khá hơn.
Đám bạn sinh viên sĩ quan Việt Nam đều đến thăm Hoàng. Ngay cả ông đại úy sĩ quan liên lạc, từ Mississippi cũng bay qua thăm. Hoàng bàn giao chức vụ Trưởng đoàn Khóa sinh cho Hạnh.
Khi trước, còn nằm ở trong phòng kín, đầy oxy, anh đã bỏ hút thuốc lá một thời gian khá lâu. Nhưng cũng do mấy “ông bạn hiền” thương xót anh hay đến thăm. Họ đẫy băng ca, cho Hoàng ra nằm ngoài sân phơi nắng. Rồi họ đưa thuốc lá, biểu anh hút đi cho vui. Sau đó, ui cha! Hoàng đâm ra ghiền, càng ưa hút thuốc lá lại.
Thời gian sau, Hoàng ra ở phòng ngoài (phòng bệnh nhân điều trị) anh nhờ mấy bà thiện nguyện mua dùm thuốc lá. Mỗi tuần họ đến an ủi, giúp đỡ, thăm thương binh một lần. Hoàng nhờ họ mua thuốc lá hút liên miên.
Có bà Louise ưa “chăm sóc Hoàng đặc biệt” nhất. Lâu lâu, bà ta đẫy anh vào phòng tắm. Bà gội đầu, lau mình, rồi dần dần bà “tắm rửa” kỳ cọ kỹ lưỡng, kích thích đủ thứ chỗ kín cho anh. Bà hỏi Hoàng thích bà “massage therapy ở chỗ đó” đó, hoài như vậy không?
- Ô lá là!
Đám sinh viên sĩ quan rất sợ, vì “cái tính dâm” kinh khủng của bà.
Hoàng nằm ở bệnh viện Hurlburt hơn ba tháng. Một hôm, ở bệnh viện Mới, cũng gọi là Hurlburt Hospital. Người ta dời Hoàng về đó nằm. Ở đây sướng lắm! Mỗi phòng hai người. Đầy đủ tiện nghi, trang bị tối tân. Giường loại mới, có nút bấm tự động, để mình tự điều khiển giường ngồi lên cao, hoặc nằm xuống an toàn, theo ý mình thích.
Khỏi cần nhờ trợ y giúp đỡ. Có chuông điện ngay trên góc giường. Có Ti vi ra toilet ngay kế trong phòng sát bên bàn, tủ. Sạch ơi là sạch. Có một cửa lớn, một cửa sổ thoáng mát. Hoàng có thể đứng ngắm hoàng hôn, hay bình minh, mà không sợ làm phiền ai.
Nằm riết muốn tê bại người như thế, đến mấy tháng sau, họ đã cắt bột chung quanh bụng, và hai chân. Chỉ còn bó bột ở trên cánh tay phải. Thế nên, mỗi lần muốn di chuyển đi dâu, Hoàng chỉ cần tựa người trên chiếc xe lăn đi thong thả một mình.
Vã chăng, cái số kiếp Trời gieo trong anh “định mệnh sầu đắng” rồi hay sao! Chiều hôm đó, như thường lệ, Hoàng nhảy cò cò từ giường vào toilet, vô ý anh đã bị trượt té. Cái chân phải bị đập rất mạnh vào bồn cầu. Khiến nó sưng tấy lên liền, đến nỗi chật cứng ống quần pirama nhà thương ra.
Nghe tiếng động mạnh, mọi người chung quanh gần phòng Hoàng chạy vào. Họ đỡ Hoàng nằm lên giường. Y tá, bác sĩ, bu quanh anh khám nghiệm. Họ mang anh đi chụp X Ray, chích cho mấy mũi thuốc gì đó. Hoàng đã ngủ vùi.
Vài ngày sau, bác sĩ Trưởng khoa điều trị đến. Ông nói:
- Tôi thấy cái đùi của anh vừa chớm lành. Nay đã bị gãy tung ra lại hết rồi. Cả cánh tay của anh nữa. Anh sẽ không đi đứng bình thường. Phải bị tật. Sau nầy anh có muốn đi bay lại không?
- Sure!
- Vậy thì phải mổ lại. Để tôi làm việc với anh. Sau nầy về quê nhà, anh vẫn còn khả năng đi bay được. Anh nghĩ sao?
Một liều, ba bảy cũng liều, Hoàng vội vã gật đầu cái rụp.
- Nếu anh đồng ý. Hãy ký tên vào tờ cam kết.
Không ngại ngần, Hoàng cầm bút ký cái rẹt. Thế là sau khi cho thử nghiệm lại đủ mọi thứ. Họ chở anh đến trung tâm. Y tá lột hết quần áo, làm vệ sinh, xoa thuốc tím lên những nơi sắp mổ. Họ đắp lên người Hoàng tấm drap trắng tinh, thơm thơm mùi thuốc sát trùng. Họ cột tóc của anh, bằng chiếc khăn trùm kín mít.
Họ cho Hoàng nằm lên bàn mổ. Hoàng sững sốt nằm ngửa, nhìn năm cái đèn sáng choang. Hai bên toàn những dụng cụ mổ inốc bóng loáng, đủ thứ máy móc với kéo, kềm, búa, cưa, kim chỉ. Y như là một xưởng mộc, hay xưởng hàn gì đó. Chứ không phải là bệnh viện.
Một ông Mỹ đen to cao, đứng gần Hoàng nhất, nói:
- Relax count to ten. OKay?
Thế là, sau khi các dây dịch chuyền được gắn vào người Hoàng. Họ bơm loại thuốc hồng hồng ở cổ rồi. Hoàng bắt đầu đếm:
- One. Two. Three... Four... Fiv...e...
Hoàng bắt đầu lim dim, và ngủ say luôn. Mãi đến 22g, anh mới hồi tỉnh trong phòng recovery. Chân phải bị mổ lại. Bác sĩ mổ hai bên xương hông, lấy tủy xương, đem ghép vào phía đùi. Sau đó, lắp ghép một miếng bạch kim (platinum) cùng một hàng ốc vít (jewett screw). Một tuần sau, đến phiên cánh tay phải của anh, họ cũng làm tương tự như trên.
Gần đến mùa Christmas 1967, chị thứ ba cùng bé con của chị, và cô em gái thứ bảy từ Việt Nam sang Mỹ du học. Họ lái xe hơi đi ròng rã ba bốn ngày, từ Norman (OK) đến Eglin (AL). Hoàng được đi phép đi ra ngoài bệnh viện, chơi với chị, em, cháu, suốt những ngày Christmas và New Year.
Hoàng vẫn sống âm thầm, buồn lặng và đầy nhớ nhung trường cũ, nhớ về những ngày đầy tự do, khoẻ mạnh. Khi mà trong tay Hoàng có “con chim sắt” để cùng anh chắp đôi cánh, tự do vẫy vùng trong bầu trời thênh thang.
Cuộc sống hào hùng nầy, luôn vẫy gọi, níu kéo anh muốn quay về bến mơ, từ thời vàng son hoài hương xưa cũ ấy. Hoàng vẫn viết mỗi ngày một lá thư, gửi nhiều hình ảnh, từ khi anh mới sang Mỹ, lúc trở về USAF, khi bị thương, đến Trân Thu.
Sau khi bị thương và xem hình ảnh của Hoàng, Kể từ ngày Hoàng bị gãy tay, gãy chân nằm bệnh viện, đến nay gần một năm rồi, Thu đã liên lạc thư từ thưa thớt dần dần. Lời thư của Thu viết tỏ lộ sự nhạt nhẽo, hững hờ trống vắng, chẳng đậm đà thăm hỏi, coi có vẻ “Trở Mặt Làm Ngơ”. Xa cách vô duyên sao đâu.
Hoàng thật buồn. Người ta nói: “Xa mặt cách lòng” cũng đúng. Và, càng đúng hơn, khi “con người ấy” đã hững hờ tàn nhẫn quay lưng, vô nhân đạp trên đớn đau của người khác, mà xéo bước... “Ai mà phụ nghĩa quên công. Thì đeo trăm cánh hoa hồng, chẳng thơm”. Tình đời thường trắng trợn và bạc bẽo đến thế!
Tết Mậu Thân 1968. Ở Việt Nam đang xảy ra chiến trận. Đụng độ dữ dội giữa hai phe miền Nam Việt Nam và miền Bắc Việt Nam tham chiến. Những buổi tối, Hoàng nằm thao thức hằng giờ, anh đăm đăm nhìn cảnh chiến tranh Sài Gòn đổ nát, chết chóc. Cộng sản tràn ngập vào Thủ Đô. Anh nghĩ thầm: “Thôi. Thế là hết”.
Mấy bạn Mỹ thường trêu anh:
- Làm sao anh về nước? Khi tay chân bó bột? Khi chiến tranh đang xảy ra liên miên kia?
Nhưng Hoàng quyết chí đòi về quê hương. Vì, ít nhiều gì, anh vẫn mang canh cánh bên lòng, mối tình hoài hương. Vã lại, gần như toàn bộ gia đình ba má, anh, chị, em, các cháu của anh còn kẹt lại. Cũng có thể là: Hoàng còn nghĩ đến chút tình với Thu, nên anh nhất định đòi trở về Việt Nam.

_ * _

Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
Trân trọng
Ái Ưu Du
Ái Ưu Du
#176 Posted : Thursday, January 3, 2008 7:39:33 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

HOÀI HƯƠNG XƯA

Phần Thứ Nhì

Chương 24

TRỞ VỀ QUÊ HƯƠNG





“Quê hương trái đất nửa vòng. Ngày thương đêm nhớ, những mong ngày về”. Hoàng đứng lên lại nằm xuống, đi ra đi vào xem ti vi chiếu tin tức thế giới, xem “chuyện lạ Việt Nam”.
Những anh quân nhân thương binh không-quân Mỹ cùng Hoàng xúm lại nhìn ti vi, xem ông Jean Bedel Bokassa, đã tham gia trong đoàn quân viễn chinh Pháp, qua Việt Nam ngày xưa.
* Hồi thập niên 1950, ông Jean mang cấp bậc Trung-sĩ, thời xa xưa ấy, ông ta đã “tò te” với một bà Việt Nam xồn xồn ở miền Tây Việt Nam. Sau đó, ông quay gót trở về cố hương. Bao nhiêu năm trôi qua thăng trầm ở quê nhà, ông Jean Bedel Bokassa từ từ leo lên chức tướng, rồi ông trở thành hoàng-đế Cọng-Hoà Trung-Phi.
Năm 1966 hoàng đế Jean Bedel Bokassa, gửi một văn thư lên Tổng-thống Thiệu, xin tìm giúp cho vua Bokassa một cô con gái của mình, tên cô gái là Martine. Đúng là có một “nàng con” đến trình diện bộ Ngoại-giao, và cô gái làm thủ tục xuất ngoại. Vài tháng sau, cũng có một cô gái khác đến bộ Ngoại-giao, tự xưng là con gái của Jean Bedel Bokassa, cùng y chứng thư đầy đủ giấy tờ hộ tịch.
Chính phủ và đồng bào khắp nơi ở miền Nam Việt Nam, “ồn lên” bàn tán sôi nổi về hai cô công chúa lọ lem. Không biết ai thiệt, ai giả?
Tin nầy đến tai vua Cọng Hoà Trung Phi. Hoàng Đế Bokassa lại gửi văn thư khác, xin Tổng-thống cho “cả hai cô nàng công chúa”, đi tuốt về thủ đô Bangui, thuộc Cộng Hoà Trung Phi. Thật là chuyện hi hữu ngàn năm có một không hai. Và “hai nàng xung xướng tê người”, tót lên phi cơ lánh xa nơi vùng đất chiến tranh đang xảy ra liên miên. Chuyện duy nhất thật bàng hoàng! “Hoạ vô đơn chí. Phúc bất trùng lai” thiệt.
* Thỉnh thoảng trên ti vi Mỹ vẫn chiếu đi chiếu lại, những cuộc biểu tình gay gắt cũ: Các phe nhóm chống chính phủ, các cấp lãnh đạo tôn giáo, các tổ chức chính trị, sinh viên học sinh rầm rộ phản đối, biểu tình, rối tung rối mù trời đất hầu hết diễn ra ở miền Man Việt Nam. Trong khi ngoài chiến trường ở Việt Nam, vẫn sôi sục đêm ngày.
Nỗi buồn đau bỗng trĩu nặng trên vai Hoàng, dưới vầng trăng như chiếc dĩa bạc sáng toả vằng vặc, soi rõ mọi thứ trong góc phòng bệnh viện. Hoàng không biết làm gì hơn, là tối anh ngày soạn va ly ra, Hoàng xem những gói quà to tướng sẽ mang về tặng thân nhân ở quê nhà. Anh dùng chất vitriol mà rửa những hình thể đá thạch bóng ngời, trông giống như màu da thật. Hoàng lại bồi hồi thở vắn than dài đóng mấy cái va ly vào.
Các bạn cùng khoá đã trở về Việt Nam hết rồi! Chỉ còn độc nhất mỗi mình anh “cứ nằm ù lì lại”. Trước khi về, Vinh, Hạnh, Lợi, Bé, Hùng, Hiển, vân vân… đã đến chia tay Hoàng. Họ còn chọc quê anh, xúi dại Hoàng:
- Thôi mày, cứ ở lại Mỹ, an giấc nghìn thu, nằm nghỉ ngơi cho sướng cái đít đi.
- Hay còn sống, thì mày chộp ngay một con Mẽo là xong.
- Tầm bậy! Sao xúi Hoàng an giấc ngàn thu?
- Vì, không bao giờ có ai nói: An giấc ngàn xuân cả.
- Vậy thì, đừng biểu nó: An giấc ngàn đông nghen?
- An giấc ngàn con Thu í. Hô Hô Hô!
- Hãy an giấc nghìn hạ cho rồi.
- Hạ hay với Thu?
- Ư hừ!
- Mày théc méc mần chi hỉ!
- Hổng chịu mở méc ra, coi tụi tao “rủng rỉnh xung xướng” đi dzìa Việt Nam nè.
- Ô hô!!
Hoàng phải chờ chiến cuộc ở Việt Nam giảm bớt cường độ giao tranh kinh khủng kia. Nghĩa là: Sau khi “phe ta” tái chiếm Sài Gòn. Đà Lạt. Huế. Khi nào “Cờ Bay trên thành phố Quảng Trị”: - (Vì thế mãi sau nầy Hoàng thích ca: “Cờ bay! Cờ bay oai hùng trên thành phố thân yêu. Vừa chiếm lại đêm qua bằng máu. Cờ bay! Cờ bay tung trời. Ta về với quê hương. Từng mong đợi quân ta tiến về. Ta ôm nhau mắt lệ nghẹn ngào... Qùy hôn đất thân yêu...” Quê hương ơi! (Anh Việt Thu).
Do sự cương quyết can thiệp của Thủy-quân Lục-chiến Hoa Kỳ, và Hạm-đội thứ Bảy, lúc đó họ mới cho anh biết là: Sẽ đưa Hoàng trở về Việt Nam. Cuộc đi kéo dài hơn cả tháng. Cứ bay “nhảy cóc” như là mình đang bồng bềnh dạo chơi trên không trung, du hí vậy. Thoạt đầu, họ mang Hoàng ra phi trường, Hoàng còn nằm trên cáng thương. Họ xách theo bốn va ly to tướng đầy nhóc quần áo, đồ đạc linh tinh của anh. Hai thùng carton lớn đựng quà dành riêng cho Thu, hai thùng nữa dành cho gia đình, và một xách tay samsonite đầy đủ thuốc men, do bác sĩ ghi toa chỉ định Hoàng cách uống thuốc.
Chỉ một mình Hoàng là “thượng khách” trên một phi cơ rộng lớn. Trong buồng lái chỉ có phi hành đoàn. Tiếp viên hàng-không. Bốn anh lính Không-quân thay nhau khiêng cáng, bưng đồ dung của anh. Hai bác sĩ quân-y. Một y-tá. Hoàng. Hết. Ngoài ra không có ai nữa.
Bay đến Colorado, Hoàng nằm lại ba đêm. Rồi bay qua San Francisco, anh nằm tại bệnh viện hai tuần. Hoàng ăn no rồi ngủ kỹ. Tự nhiên có một ngày Hoàng được đám phóng viên, truyền thông ở Mỹ đến tận nơi quay phim, đưa anh lên Ti vi nữa. Tức cười thật. Họ bảo:
- Anh cứ “giả đò, làm bộ” anh là thương phế binh sống ở Mỹ, gốc người Hoa. Anh cầm phone gọi về nhà, nói chuyện với thân nhân gia đình anh nhe.
Nằm tại San Francisco hai tuần. Thì chiếc phi cơ C – 130 rất to, chở Hoàng đi. Lại vẫn chỉ có bấy nhiêu người cũ, tất cả lên phi cơ bay một lèo qua Clark Field (Phi Luật Tân). Họ lại đưa anh vô bệnh viện, nằm đợi đến hai tuần nữa. Ôi là ngao ngán! Chỉ mong chờ bớt pháo kích ở Tân Sơn Nhất, Hoàng mới được trở về Việt Nam. Những ngày đêm chờ đợi mòn mỏi, trông ngóng đợi chờ hoài, sao mà anh cảm thấy lâu quá chừng chừng!
Thế rồi buổi sáng thứ Bảy giữa tháng Ba, năm Mậu Thân, chiếc C-130 hạ cánh xuống phi trường Tân Sơn Nhất. Mặc dù khi phi cơ còn lăn bánh, chạy chầm chậm trên phi đạo. Họ đã hạ cái bửng phía sau đuôi phi cơ xuống. Ngay lập tức có một chiếc xe cứu thương, một xe cứu hoả, chạy cặp sát hai bên hông chiếc phi cơ C -130 chạy rề rề.
Hai anh lính phi công Mỹ, ở bên xe cứu thương, liền nhảy phóc xuống dưới đường phi đạo. Họ chạy bộ rất nhanh, bưng cái cáng trống, họ chạy qua bên chiếc C-130. Đồng thời trên phi cơ, hai anh lính Mỹ “áp tải thương binh Hoàng”, họ nhanh nhẹn khiêng sẵn cáng tụt xuống đất.
Họ giao cáng thương cho người đứng dước đất ở Việt Nam nhận. Lúc xe cứu thương và phi cơ đang còn chạy chầm chậm, rề rề. Họ thảy bốn chiếc va ly to tướng, mấy thùng carton lớn, cùng tất cả đồ dùng, chiếc xách tay đựng thuốc men của Hoàng xong. Phi cơ C-130 lo dzọt vút bay đi thật lẹ.
Vì lúc nầy, tất cả xe cứu thương, phi cơ, đang ở trong tầm ngắm của hoả tiễn 122 hay 130 bên “phe kia”, nằm đâu đó ngoài vòng phi đạo. Phi cơ tăng tốc độ, chạy một đoạn ngắn. Cất cánh bay bổng. Hai chiếc xe cứu hoả, cứu thương lo rẽ vào đường Taxiway.
Họ đưa anh qua bên bệnh viện dã chiến số 3. (Third Field Hospital). Vài ông Mỹ ngồi bên cạnh nói:
- Are you crazy?
- Coming back to Việt Nam?
Hoàng hoãng hốt la lên:
- Ô! Các anh lầm rồi. Tôi là người của bên Không-quân Việt Nam. Không phải bên Không-quân Hoa Kỳ.
Thế là họ vội quay đầu xe, đem anh bàn giao qua bên Không-quân Việt Nam. Úi Trời! May mà ông Mỹ kia không nói, chắc là Hoàng sẽ “bị” trở về Mỹ mất rồi!
Gặp bác sĩ Thành khám Hoàng rất kỹ. Ông định cho Hoàng xuống nằm ở bệnh xá Không-quân. Anh năn nỉ bác sĩ quá:
- Em du-học suốt ba mươi lăm tháng rồi. Nhớ nhà quá. Em còn chống nạn đi đứng tốt. Xin bác sĩ cho phép em về thăm ba má. Nhà em ở gần đây. Sáng thứ Hai, em xin trở vô bệnh viện.
- OK.
Thế là bác sĩ kêu xe cứu thương cho chở Hoàng về, xe đậu ngay trước cửa nhà. Hoàng mặc bộ quần áo ở bệnh viện, chậm bước dưới phố chiều Sài Gòn rực nắng tươi. Mọi người và cảnh vật vui tươi huyên náo lạ! Lòng anh cảm thấy vui và hồi hộp không thể tả! Hai binh sĩ Việt Nam khiêng, xách, vát bốn va ly, thùng quà, của Hoàng bước lên thềm nhà anh.
Ba anh đang ngồi đọc báo trên sofa, ba Hoàng đứng lên. Ông hoảng hốt nhìn kỹ. Ba anh liền chạy đến, ôm chầm lấy Hoàng, kêu lên rất to:
- Trời ơi! Hoàng đã về rồi nè.
Ba khóc. Hoàng khóc. Má chạy ra, mừng rỡ níu lấy cổ anh, hôn chùn chụt và khóc rống lên. Các chị, em, ở trên lầu ba, lầu bốn, vụt chạy xuống, họ xôn xao mừng rỡ và khóc oà. Cả nhà đều choáng váng và bất ngờ tột độ. Vì Hoàng không hề báo trước, về chuyện anh sẽ trở về Việt Nam. Thật là một cuộc đoàn tụ bất ngờ. Kinh hoảng. Đầy nước mắt trào lên mi “kịch tính”. Lạ lùng như vậy đó.
Quả đất tròn vo, tưởng là to lớn lắm! Ấy thế mà, khi đi xa nửa quả địa cầu, nay trở về quê hương, hoá ra Hoàng vẫn thấy nhỏ ha.
Ngay lập tức, ba anh gọi phone cho Thu. Hoàng nóng lòng đi ra, đi vào, chờ đợi cuộc trùng phùng thật tình cờ.

_ * _

Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau
Trân trọng
Ái Ưu Du

Ái Ưu Du
#177 Posted : Monday, January 7, 2008 3:51:43 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

Hoài Hương Xưa

Phần Thứ Nhì

Chương 25

NGHẸN ĐẮNG CỔ







Hoàng đang nằm lim đim trên sofa, thì cô ta đến. Trông Hồ Trân Thu chẳng vui vẻ, hân hoan mừng rỡ, hay lo âu cuống quít gì! Nét ưu tư, lỡ làng, dường như hằn rõ lên gương mặt Thu héo hon rồi.
Thế là, Hoàng và cô ta lúng túng e ngại hững hờ ngồi trên sofa, nói chuyện vô duyên, nhạt nhẽo hơn nước ốc, chả ra môn ra khoai gì. Cô ta luôn cúi đầu xuống, hay ngượng ngùng né tránh cái nhìn lặng lẽ của Hoàng. Sau khi Thu cho anh biết, cô ta đã đổi nhà, dọn lên đường Phan thanh Giản, Thu vội vội vàng vàng đứng dậy, cáo từ. Cuộc gặp gỡ chưa đầy mười phút.
Hoàng hẹn Thu hôm sau, anh sẽ lên đón Thu đi ăn sáng. Cô ta ấp úng, ngập ngừng, lưỡng lự, do dự ậm ự rồi gật đầu. Hoàng đã biết ngay từ dạo anh còn ở Mỹ. Khi Thu nghe hung tin anh bị tai nạn phi cơ. Lẽ ra, như bao người yêu chân tình, hay những vị hôn thê thủy chung khác, họ sẽ tỏ ra cuống quít âu sầu, lo lắng, ngày ngày thư từ tấp nập, hỏi thăm người yêu rối rít.
Đằng nầy, lúc Hoàng vừa qua Mỹ, và trước khi anh bị tai nạn, thì mỗi tuần Thu viết cho Hoàng vài lá thư. Nhưng kể từ khi biết “anh lâm nạn”, kể từ đó đến nay hơn mười tháng, thì cô ta đã tỏ ra lạnh nhạt, lâu thật lâu mới có vài hàng chữ “cầm hơi” rồi... im bặt. Ở Mỹ Hoàng luôn suy nghĩ: Chẳng lẽ Thu bây giờ sinh tệ như “sông sâu có thể bắc cầu. Lòng người thâm hiểm, biết đâu mà dò”!
Bây giờ, mặt đối mặt, diện kiến trực tiếp, Hoàng kiểm chứng lại điều nầy: Thái độ ngượng ngùng của Thu, đang trả lời anh thực rất chính xác. Anh đã chuẩn bị tinh thần, từ cái nhìn xa lạ hững hờ dè dặt đầu tiên, sau gần ba năm, nay mới gặp lại. Không có gì khó hiểu đâu. Xa mặt cách lòng! Xa nhau, dĩ nhiên có nhiều thay đổi (khi con người không có sự trung kiên, không có tình yêu chân thực. Tình yêu chỉ là sự chọn lựa trên địa vị, danh vọng và tiền tài. Thì tình cảm cũng dễ dàng thay đổi chớp nhoáng, bạc bẽo theo).
Buổi sáng, Hoàng lái chiếc xe bedford đi lên điểm hẹn chờ Thu. Anh chỉ đậu xe ở ngoài xa xa. Vì Thu nói:
- Em không muốn cho người nhà, biết chuyện hẹn hò nầy.
Lúc bấy giờ, chân phải của Hoàng đã hoàn toàn cưa cắt bỏ băng bột. Nhưng anh còn phải chống nạn, và đi khập khễnh (cho tới bây giờ. Tuy thế, nếu ai không nhìn kỹ, và anh không đi nạng, ít ai lưu ý điều nầy). Loại nạng đặc biệt, do bên bệnh viện Hoa Kỳ chế tạo riêng cho anh. Vì, tay phải của Hoàng vẫn bó bột, đã đặt ở độ cong 90o. Nên chiếc nạng bình thường, được lắp thêm cái tay, để anh có thể tựa cả cùi chỏ lên, làm điểm tựa, và đi trên nạng. Trân Thu nhìn Hoàng lấm lét, vẻ mặt ngượng ngùng, e ngại, bối rối. Thấy thế, tự nhiên anh cũng ngượng ngùng không kém. May là anh lo xa, mặc bộ đồ bay màu xám, đính huy hiệu con rồng thè lưỡi trước ngực áo. Hai người đến tiệm ăn Sing Sing, ở đường Phan đỉnh Phùng. Khi anh và Thu bước vào, tất cả thực khách, dồn mắt nhìn về phía tụi anh.
Một thiếu úy phi công, lái chiếc xe hơi bedford diễu qua phố, rồi chống nạng đi với người đẹp! Khiến ai ai cũng ưa thích sự phô trương lác mắt. Chắc ai ai cũng nghĩ Hoàng bị tai nạn xe cộ. Vì, phi công thì... ít khi lành lặn trở về sau một phi vụ. Hôm qua, lần đầu tiên Hoàng mới nghe bản nhạc “Kỷ vật cho em” của Phạm Duy, trong đó anh nhớ mang máng hình như câu nầy:... Anh trở về trên đôi nạng gỗ, anh trở về bại tướng cụt chân, bên người yêu tật nguyền chai đá. (Hay là... “ngập ngừng cay đắng”... Phải không em ơi!).
Hoàng luống cuống vụng về ngồi vào ghế. Thu ngồi đối diện, đầu luôn cúi gầm xuống mặt bàn. Cô ưa liếc nhìn trộm anh, cái nhìn dường như có ý đồ bất chính nào đó, mà lúc nầy Hoàng không thể hiểu nỗi. Buổi ăn sáng vô cùng tẻ nhạt, nếu không muốn nói là vô duyên hết sức.
Thu chẳng thèm nhìn thẳng mặt Hoàng, không hề hỏi thương tích của anh ra sao rồi? Hay cô ta vui vẻ nói câu nào. Mà, Hoàng cũng chả buồn hỏi thăm Thu ở quê nhà thay đổi tới đâu! Cứ thế, cả hai người cúi đầu, im lặng ăn ăn và uống uống. Nghẹn đắng cổ họng khô lông lốc.
Ăn xong, Hoàng lặng lẽ đứng dậy khập khễnh đi tính tiền. Âm thầm lặng lẽ chia tay nhau ra về. Dường như Hoàng và Thu, chưa hề có một thời gian yêu thương nồng nhiệt, khắng khít hơn vợ chồng! Trước suốt thời gian anh chuẩn bị đi Mỹ, hay sao?! Mà bi giờ coi Thu quá dị hợm thế không biết?!
Trước khi thả Thu xuống lề đường, gần nhà cô ta. Hoàng hỏi:
- Bao giờ... anh mới có thể gặp lại em?
Hoàn toàn im lặng. Không một cái lắc đầu hay gật đầu. Chả có câu trả lời.
- Cho anh xin số phone nha.
Lắc đầu quầy quậy. Không cho.
Thật hết rồi: “Yêu nhau sinh tử cùng liều. Thương nhau lội suối qua đèo có nhau” mà! Ở đây thì Hoàng và Thu: Chẳng thà không gặp thì thôi. Gặp nhau rồi, cùng phơi bày những điều quá trắng trợn, càng buồn đau và tủi hỗ hơn. Thế thì... quá rõ ràng rồi. Còn nghi ngờ gì nữa!
Ngay lúc đó, Hoàng lái xe vào bệnh xá Không-quân. Sau khi khám xong, ông thiếu tá bác sĩ phi hành cho biết:
- Mọi việc đều ổn.
Xem xét tập hồ sơ bệnh án dày cộm của Hoàng, ông bảo:
- Cứ ở lại đây mấy tuần. Tôi theo dõi anh. Sẽ quyết định sau.
- Xin bác sĩ vui lòng cho em về nghỉ. Nhà em ở rất gần đây.
- Anh đến đây bằng cái gì?
- Em tự lái xe hơi đến.
Ông trố mắt, kinh ngạc nói:
- Ôi! Chết rồi. Làm sao tay chân anh như vậy, mà tự lái xe đến? Không được đâu. Để tôi cho xe đưa anh về. Từ ngày mai, anh sẽ có xe cứu thương đến, rước anh vào đây khám, rồi có tài xế đưa anh về.
Hoàng đành phải tuân lệnh thôi. Nhưng, mỗi ngày khi khám bệnh xong, chú tài xế trung sĩ vừa đưa Hoàng ra khỏi cổng Phi Long, anh bảo chú dừng lại, Hoàng cho chú ta tiền, và nói:
- Chú không phải đưa tôi về nhà nhé. Tôi tự lái xe được. Ngày nào cũng thế. Chú cứ đậu xe, chờ tôi ở chỗ nầy. Tôi gửi xe ở chỗ người bạn. Đơn vị anh ấy là phòng an ninh phi trường. Rồi, chú chở tôi vô bệnh xá thôi. OK?
Dĩ nhiên là chú ta rất vui mừng. Vì chẳng mất công đưa đón, mà mỗi ngày Hoàng còn tặng chú vài trăm đồng, để chú uống cà phê.
Hai tuần nay, Hoàng ưa lái xe lảng vảng đến gần nhà Thu. Có mấy lần anh lái xe thẳng vào cổng, anh bấm chuông, thì chợt thấy Thu bước ra thềm. Rồi... Thu thấy anh, nên cô ta thụt lùi, vụt thoáng lui vào phía sau. Chờ một lúc khá lâu, Hoàng bấm lại mấy lần chuông. Người nhà ra cổng, nhìn anh lạnh lùng:
- Cô Thu đi vắng rồi.
Lần sau. Lần sau. Lần sau nữa. Vẫn cứ thế! Hoàng thật buồn. Nhưng thôi. Anh đã hiểu. Khi con người đã tàn nhẫn quay lưng đi. Thì mình cố níu kéo, càng vô ích và thêm mang nhục. Dù rằng Hoàng rất muốn mọi chuyện yêu đương giữa Thu và Hoàng, nên giải thích rõ ràng, minh bạch, hầu: “cư xử với nhau, không gì hay bằng nghĩa. Và không có gì quý bằng nhân”. Sau nầy, nếu có gặp lại nhau, cũng không thể bẽ mặt bôi tro trét trấu. Thật là Hoàng đã rất lầm khi yêu Hồ Trân Thu.
Một ngày kia, khi Hoàng đi vắng nhà. Cô ta đến, Thu khệ nệ bưng đem trả lại anh tất cả thư từ, hình ảnh, quà anh đã gửi tặng Thu, nhiều thật nhiều. Ba má nói Thu ráng ở lại chút, chờ Hoàng về, hai người ngồi nói chuyện sau. Cô ta lắc đầu quầy quậy. Cộc lốc nói:
- Không. Cháu bận.
Sau cú chia tay “tuyệt đẹp của cô ta”. Hoàng sống những tháng ngày trôi qua rất vô vị, chán chường và hụt hẫng biết bao! Hoàng trôi lênh đênh như con thuyền không bến đậu. Trước ngày đám cưới Thu, cô ta nhờ Hiền, (là bạn thân của cô ta) gọi phone tới nhà gặp Hoàng “bắn tin”:
- Thu lấy chồng, để “trừ cấn món nợ” cờ bạc khổng lồ, mà bà dì của Thu, mắc nợ của ông chồng Thu đó.
Hoàng cười xoà. Úi trời đất qủi thần ơi! Gạt đứa con nít, có lẽ nó còn kinh ngạc nữa là. Nghe giống y hệt chuyện “Nàng Kiều thời nay”!! Nợ của bà dì, thì mắc mớ gì, mà cháu gái họ phải nai lưng ong ra, gánh vát, đỡ đần cho họ hàng (chứ không phải nợ của cha mẹ cô) "món nợ hồi môn" ấy!? Cô nàng “hy sanh” cuộc đời, tương lai và hạnh phúc tình yêu?? Ô là là... Sao nói dối ngọt xớt thế! Không biết ngượng? Tuyệt cú mèo!!!
Hoàng lái xe đến đậu ở bên kia bưu điện Sài Gòn. Anh ngắm nhìn xe hoa chở cô dâu chú rể. Anh để ý quan sát thật kỹ: Rõ ràng Trân Thu không hề có cử chỉ ủ dột, miễn cưỡng, hay lo buồn, thương tiếc người tình xưa, lẫn tiếc thương thân mình. Khi phải “bán mình” chuộc nợ cho bà dì họ cả. Thu ung dung vui vẻ cặp tay chồng, rất lả lơi tình tứ nép sát vào ngực chồng, cùng tiến vào vương cung thánh đường Đức Bà Sài Gòn.
Hoàng ngồi thừ người ra suy nghĩ. Buồn bã mất mươi phút. Thật sự hiểu ra, thế là vui rồi. Kết thúc xong một chuyện tình, mà anh cứ lầm tưởng là “đẹp như giấc mơ hoa dâm bụt”.
Dẫu sao thì... Hoàng đã giăng rộng vòng tay ra ôm ấp Thu, cùng đi chung với cô nàng trên một đoạn đường đời khá dài. Khá dài, đủ để thấm đượm nỗi vui mừng ái ân cuốn quít, hay hờn ghen nho nhỏ ngày xa xưa. Hoàng đã cười trên nỗi đắng cay bẽ bàng vô duyên tệ đời mình. Ha Ha Ha!!! Hoàng mạnh dạn lái xe đi về nhà. Cảm thấy lòng nhẹ nhõm, hết băn khoăn, sầu muộn. Quả thật đúng như thế.
Sau nầy, năm 2005 khi đã an cư lạc nghiệp ở Mỹ, ly dị chồng xong. Cô ta gọi phone về nhà Hoàng, và tò te nói:
- Lúc em xa anh, và đi lấy chồng đó. Không ai hiểu được em đâu.
- Thì vâng! Anh hiểu! Hôhôhô!!!

_ * _

Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
Trân trọng
Ái Ưu Du

Ái Ưu Du
#178 Posted : Saturday, January 12, 2008 3:41:32 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

Hoài Hương Xưa

Phần Thứ Nhì

Chương 26

NIỀM ĐAU KHỜ DẠI







Ngày ngày... Mỗi buổi sáng, Hoàng chỉ có việc lái xe đến điểm hẹn, chú tài xế chở anh vào bệnh xá. Anh sắp hàng giữa sân, chờ khám bệnh. Đứng xớ rớ chút cho “có lệ làng”, rồi anh chuồn!
Sau nầy, anh vào trình diện tại đại đội hành dinh Không-quân. Anh được giao nhiệm vụ cai quản độ hai mươi người, thuộc đủ thành phần. Có tên “đào ngũ”. Có tên “thặng số linh tinh”. Có tên “lính kiễng”. Trung đội “ruồi ô hợp” ấy, chỉ có hai người sĩ quan, là Hoàng và thiếu úy Tâm. Chả hiểu sao Tâm bị truy nã về tội đào ngũ? Trong khi Tâm còn ở trong bệnh xá rành rành nè!
Nhiệm vụ của Hoàng: Sáng sáng cho họ ra sân, sắp hàng, điểm danh. Anh báo cáo lại cho thiếu tá chỉ huy trưởng. Cho họ đi vòng quanh doanh trại nhặt cỏ, rác, tàn thuốc lá. Thế là xong. Lại cho họ vào sân xếp hàng, điểm báo. Rồi ra lệnh cho họ tan hàng. Hàng tháng, họ vẫn lãnh lương. Hàng qúy, vẫn có người đến, làm lại sổ sách đàng hoàng. Hoàng nằm ở đây từ giữa tháng 3-1968, đến tháng 5–1968, anh nhận được lệnh:
- Phải chuyển “quý anh” qua bên Tổng Y Viện Cộng Hoà để nằm. Bằng mọi giá, phải cho những người “phơi phới” như thế nầy giải ngũ. Vì, trong một cuộc thanh tra, bên bộ Tổng Tham-mưu, thì Hoàng và viên trung-uý kia, đều KHÔNG có tên trong danh sách Không-quân. Họ cho là “tụi anh” đã đào ngũ rồi?! Trời ơi là dị hợm! Thế mới chết. “Hai anh tướng con” vội vàng chạy qua bên Tổng-y-viện Cộng Hoà nằm. Và, phải làm cách nào đó, để được phép giải ngũ có lương hợp lý.
Xét về cánh tay, và cái chân của Hoàng bị gãy. Nay cánh tay đã tạm ổn. Cái chân phải, đi đứng chưa được vững, hầu như bị tật luôn rồi. Nghĩa là anh khập khễnh chút chút (như đã nói ở trên). Nhưng, cứ coi như anh bình thường đi. Kể như lành lặn, thì làm sao giải ngũ đây?
Ông thượng-sĩ ở bệnh viện, bảo nhỏ:
- Chỉ có cách: Tạo ra bệnh suyễn. Anh mới có thể giải ngũ.
Thời điểm đó, Hoàng bắt đầu hút thuốc phiện, và sa đoạ. Vì anh theo bọn “lính kiễng” thương binh kia, nhàn cư vi bất thiện, đi ăn chơi, hút xách khá nhiều. Mỗi ngày, sau khi làm những công việc nhàn hạ, Hoàng cùng bọn “lu la” kia, lủi nhanh vào nhà tên Xì Thẩu, ở Chợ Lớn, ông ta chuyên cung cấp bàn đèn, thuốc phiện. Giá cắt cổ kinh hồn.
Ba má biết anh hư hỏng đến thế. Nhưng thương con, ba má chẳng nói tiếng nặng. Ba anh chỉ nói:
- Con lớn khôn rồi. Hãy suy nghĩ và cứ chọn đi. Một là con chọn con đường kia. Con đường kia có đem đến cho con, khoái cảm sung sướng luôn mãi? Hay là nó chỉ sung sướng chốc lát. Rồi hành hạ thân xác con đau đớn, buồn bã, vật vã thêm? Hai là con chọn có gia đình vợ con êm ấm, bình yên? Bên nào hạnh phúc hơn? Ba rất thương con, nhưng chẳng thà ba đành chịu mất con...
Hoàng cúi đầu suy nghĩ miên man. Một hôm, cô ba Hồng (bà con họ hàng của ba anh) đến thăm gia đình. Gặp Hoàng ở nhà. Cô hỏi:
- Cháu có chịu lấy vợ không? Cô làm mai cho một con nhỏ nầy. Xinh xắn lắm.
- Chịu thì chịu. Có sao đâu. Cô!
Mặc dù lúc đó, Hoàng đang quen thân với ba, bốn cô gái khác. Nhưng nhìn chung, chỉ có Thanh Thảo trình-dược-viên, cô ta có trình độ, là coi được nhất. Thảo không đẹp, mà có duyên, khôn ngoan, lanh lợi. Nhưng khổ nỗi, trước khi gặp anh, cô ta đã trao thân cho người đàn ông khác. Thú thật, Hoàng chả chấp nê gì chuyện đó. Chỉ có điều là... Thảo đợi đến lúc hai đứa “chín mùi” rồi, khi Hoàng và Thảo đã cởi phăng hết quần áo ra. Anh thấy cái bụng to tồ tồ, Thảo mới thú nhận, là cô đã cấn thai gần ba tháng rồi!!!
Đối với Hoàng, có thể tha thứ được chuyện “rủi ro”. Nhưng, nếu thật tình anh lấy cô ta làm vợ, khi cô ta mang bầu. Thì anh mang tội “lừa dối, bất hiếu" với cha mẹ. Hoàng phải cưu mang đứa con của “ai đó”, mà anh nhận là con của mình. Và, đó là huyết thống của cha mình. Ba má anh phải nhận nó là “cháu đích tôn”. Điều nầy, anh không thể chấp nhận.
Hoàng ngồi bật dậy, khẽ nói:
- Thôi. Hãy mặc quần áo vào đi. Mình chia tay vĩnh viễn.
Thảo tìm đủ mọi cách “lôi cuốn” anh lại, bằng cách cô ta giả vờ uống thuốc tự tử. Nhưng cô ta là trình dược viên, nên biết cách uống 5 viên Optalidon thuốc, thì chết làm sao được! Báo hại anh, hôm đó đã về nhà nghỉ. Nghe tin, Hoàng lật đật chạy vô bệnh viện Sài Gòn.
Thế là sau khi xảy ra chuyện đó. Thảo cố tìm mọi cách thuyết phục anh làm người tình lãng mạn. Anh lặng lẽ giã từ. Nhiều lần gặp nhau ngoài đường, Thảo vẫn chạy theo và kêu anh rất to. Anh phải vờ đi. Coi như không nghe.
Lúc cô ta lấy chồng. Anh đã đi dự tiệc cưới. Ngồi trong bàn tiệc, cô ta ngồi giữa Hoàng và ông chồng. Thảo cứ thò tay xuống gầm bàn, ngắt nhéo hai bên bắp vế non của anh, đau điếng. Hoàng ngồi im chịu trận, không dám cựa quậy, nhúc nhích hay xuýt xoa kêu đau. Khổ hết biết.

_ * _

Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
Trân trọng
Ái Ưu Du

Ái Ưu Du
#179 Posted : Monday, January 21, 2008 4:31:35 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0


Hoài Hương Xưa

Phần Thứ Nhì

Chương 27

DUYÊN PHẬN BẼ BÀNG






Trở lại với buổi gia đình Hoàng đi “coi mắt” ở nhà Phùng Vi. Hôm ấy, ba má, mấy chị, em, cô Ba Hồng, Hoàng, đến Phú Thọ. Hoàng chỉ thấy thoang thoáng hai cô gái ra bưng trà, bưng nước mời khách. Cô nào cũng xinh xinh, đẹp đẹp, nho nhỏ. Cô Ba Hồng nháy mắt nhìn anh, cười cười.
Từ đó, cả nhà xúm lại “thuyết pháp” Hoàng về bổn phận, và “nghĩa vụ gia tộc” của con trai trưởng cần báo hiếu, để cha mẹ có tí cháu nội bế bồng. Hoàng uể oải gật đầu.
Thế là, cứ cách vài ngày, Hoàng lại đến nhà Vi “tìm hiểu nhau”. Hôm cả nhà đến coi mắt Vi, thì cô ta lại đi vắng nhà. Bây giờ, ngồi ở trong phòng khách, Hoàng nói chuyện với Vi “trên trời dưới đất” cho vui thôi. Rồi anh đi về. Hoàng và Vi, chưa có một lần đi chơi riêng ra ngoài. Ngoại trừ một lần duy nhất, Vi hẹn anh ở đầu đường, để chở Vi đi xem bói thử Vi có nên lấy chồng, anh nầy ra sao? Hoàng dặn dò:
- Em đứng chờ anh ở cột xe bus, gần ngỏ vô nhà nhe.
Thì cô ta lại tưởng là Hoàng hẹn Vi đợi đâu đâu, đi xa lắm. Nên hai ngưới lạc nhau cả hai ba giờ. Gặp nhau rồi, anh chở Vi đi xem bói xong. Hai người đi về ngay. Ông thầy bói thấy Hoàng “tốt tướng”, đi xe hơi, thì nói:
- Cuộc hôn nhân nầy rất đẹp đôi. Xứng đáng mà! Yên trí lớn sống với nhau suốt đời. Chả cần phải “khách sáo” mời mọc nhau đi ăn uống, chuyện trò thân mật hỉ?
Cha mẹ hai bên đã gặp nhau, bàn thảo kỹ càng, xôm tụ về việc hôn nhân. Một tháng sau làm đám hỏi. Ngày chủ nhật cuối tháng 9 – năm 1968, tổ chức tại nhà ba má của Vi. Đầu tháng 1 – 1969, đám cưới Hoàng-Vi vô cùng long trọng ở nhà thờ Tân Định. Buổi tối, chiêu đãi thân nhân, họ hàng, khách khứa tấp nập, đông đúc và trọng thể, tại nhà hàng Quốc Tế.
Suốt cuộc hành trình đi tìm kiếm hạnh phúc lứa đôi, Hoàng chỉ như là con “rô bô”. Như kẻ mất hồn. Như Thiên Lôi, ai sai đâu anh đánh đó vậy. Kết thúc một giai đoạn cũ, với những mối tình lăng nhăng. Không ai hiểu anh. Họ tưởng tất cả quá khứ đầy sóng gió của Hoàng, đã chìm vào quên lãng. Chỉ có Hoàng, và may ra, duy nhất chỉ còn cái “mùi của hoài Hương xưa duy nhất” mới hiểu rõ anh đớn đau như thế nào mà thôi.
Cuộc hôn nhân nầy như một “trò đùa của định mệnh trớ trêu”. Vì quả thực, hai người vừa ăn ở với nhau, đã "phát sinh ra" đủ thứ chuyện rối rắm đầy mâu thuẫn. Mỗi người một cá tính dị biệt. Rất khắc khẩu. Hầu như mọi vấn đề đều khác biệt.
Nếu Hoàng thích A, thì “người ta” lại thích Z. “Anh” thích màu xanh, “Em” lại thích màu đỏ. Như một chiếc xe hơi mới toanh, khổ nỗi lại có hai cái "vô-lăng” hai hộp số, hai cái thắng. Thì, Hoàng định rẽ về bên phải. “Người kia” lại muốn lái về bên trái. Hoàng muốn nhấn ga, thì Vi muốn đạp thắng. Tréo cẳng ngổng. Mà con đường đời thì không phẳng phiu, êm ái trơn tru gì. Nó quanh co, gập ghềnh, lởm chởm, gồ ghề, uốn lên uốn xuống khúc khuỷu ghê lắm.
Ngay từ buổi đầu tiên trong ngày “honeymoon say đắm” kia. Vợ chồng Hoàng lái xe hơi, ra nghỉ ở Vũng tàu. Dọc đường đi, có một cặp khác còn vui vẻ trẻ trung, cũng lái xe hơi chạy gần gần bên. Khi thì xe Hoàng qua mặt xe của cậu ta. Khi cậu ta qua mặt xe anh. Cả hai người cùng vẫy vẫy tay cười cười vui vẻ. Nhưng Hoàng thấy mặt Vi xù ra như lông nhím. Hoàng nghĩ thầm:
- “Không vui rồi”.
Anh cho xe chạy chậm lại, giả lả với Vi vài câu chuyện vui, để khỏi mích lòng vợ. Ấy thế mà, Vi im thin thít, bĩu môi, lạnh lùng quay mặt đi.
Vào lấy phòng trong Hotel xong, anh soạn áo quần móc vào tủ. Má của anh chu đáo lắm. Đã mua sắm cho con dâu đầy đủ, tỉ mỉ mọi thứ quần áo, đồ dùng sang trọng. Không thiếu món gì. Trong khi chờ đợi Vi đi tắm, Hoàng nằm đọc báo ngoài balcon. Tắm xong, Vi đi ra chỗ anh nằm. Từ trên lầu tư cao chót vót nhìn xuống sân. Vi bỗng chỉ tay xuống đất, gọi giật Hoàng lại. Vi hét to lên:
- Hoàng! Coi hai cái đứa mất dạy kia kìa. Chúng nó bám riết theo ta. Cố ý chọc quê tụi mình đó.
- Không phải đâu em. Chỉ là sự tình cờ, trùng hợp ngẫu nhiên thôi.
- Xì. Tình cờ gì! Mình dời đi chỗ khác. Đi anh.
- Sao lại vậy?
- Anh không đi hả. Nếu anh thích, cứ ở với chúng nó.
- Em kỳ ghê à nha.
- Ừa. Em như vậy đó.
Thế là, Hoàng phải thu xếp đồ đạc. Dời đi hotel khác. Trả phòng, anh phải nói dối với bà chủ là: Có “điện tín”, cần về Sài Gòn gấp. Dĩ nhiên là mất toi tiền phòng vô lý. Dời đến hotel xa thật xa bờ biển. Khi xuống garage lấy xe hơi, Hoàng, Vi lại “đụng độ” với cặp vợ chồng trẻ lúc chiều. Họ vồn vã hỏi thăm “anh chị”, rất lịch sự:
- Chào anh chị. Sao anh chị không ở hotel nầy, cho vui nhỉ?
Hoàng bắt tay ông chồng, vội trả lời:
- À... Chả là vì, có bà con ở đằng kia, đã lỡ hẹn phòng cho chúng tôi rồi. Cám ơn anh chị. Chúc anh chị những ngày nghỉ vui vẻ nhe.
Vi nguýt họ một cái rất dài, cô xù mặt quay đi. Lên xe, trước khi đóng cánh cửa xe “cái rầm”, Vi thò đầu ra đốp vào mặt họ:
- Cái thứ đó. Nói chuyện làm gì!
Hai vợ chồng trẻ sửng sốt, đứng ngây ra nhìn Vi. Họ nghe rõ mà.
Bắt đầu “một mái gia đình hạnh phúc” như thế đó. Nói chung, trong tuần lễ “trăng mật”, chả vui vẻ gì! Cải nhau suốt bốn năm lần. “Chàng” rủ “nàng” đi tắm, thì nàng kêu mệt, bỏ đi nằm ngủ. Khi “anh” mời “em” đi ăn, em chỉ thích coi ca nhạc, cười hô hố. Hai người đi tắm nửa chừng, nàng nói “không vui”, lại hầm hầm bỏ về phòng ngủ vùi.
Từ đó, cuộc sống lứa đôi thật nhàm chán. Đến với nhau chỉ là bổn phận. Vì, thật ra cả hai không hề yêu nhau. Đây chỉ là một cuộc “gạ đổi”. Có nhẽ nào như chuyện ngẫu nhiên của “đôi đũa lệch, mốc, chọi mâm son”? Hai đứa không có thì giờ, ngồi lại với nhau “tìm hiểu” kỹ càng. Trước khi bước vào hôn nhân. Chỉ như “bắt đầu ngồi đó”, “anh chị” làm tròn bổn phận của đứa con chí hiếu.
Tuy nhiên, Hoàng hy vọng (vẫn còn hy vọng chứ) khi sinh ra đứa con, anh mong nó sẽ là cái gạch nối tình yêu hữu hiệu, giữa hai người sẽ tốt đẹp hơn. Thế rồi... Có một đứa con. Hai đứa con. Ba đứa con. Hoàng cũng chả thấy cái “– gạch nối –“ nào cả!!! Thật là:
- "Tóc quăn chải lược đồi mồi. Chải đứng chải ngồi, quăn vẫn hoàn quăn".
Làm bổn phận người cha, anh lo toan chu đáo. Đầy đủ. Hoàng rất mực yêu thương các con. Làm bổn phận người mẹ, Vi vẫn chăm sóc con toàn vẹn. Với sự hỗ trợ đắc lực của ông bà nội. Nhất là trong nhà có ba người vú em, chu đáo lo riêng cho ba đứa con của họ.
Ấy vậy, Hoàng vẫn hậm hực than rằng:
- "Lạnh lùng thay! Láng giềng ơi! Láng giềng lạnh ít, sao tôi lạnh nhiều". Vì càng ngày thì cá tính Vi càng bộc lộ cơn bực bội, nóng nảy tam bành vô lý. Cái lối “ăn trả nói treo” ngang tàng, hỗn xượt, với tất cả người khác trong gia đình. Nhất là "bố lếu bố láo" với ba má. Vi cóc cần ai coi họ “như pha”. Tạo ra sự mâu thuẫn trầm trọng giữa mẹ chồng nàng dâu. Giữa chị em dâu, em chồng. Mặc dù, Hoàng biết rõ: Là ba má rất yêu thương và chịu ép mình hạ giọng nhịn nhục Vi. Điều nầy, khiến anh rất xấu hổ, ngượng ngùng vô ngần, với chị, em, và mấy người làm bồi bếp đông đúc ở trong nhà. Ôi thôi! Ngày nào cũng như ngày nấy: "Nội-chiến tưng-bừng" à. Không khí trong gia đình hồi xưa, khi chưa có “dâu về”, không phải anh tự hào, chứ quả thật là một đại gia đình có tôn ti trật tự, lễ phép và gia phong đâu ra đó anh chị em trên thuận dưới hoà. Tương kính lẫn nhau như tân. Êm ấm, hạnh phúc thật sự. Đúng nguyên nghĩa hạnh phúc của nó. Đến nay, khi đã “rước nàng dzìa Dinh”, mỗi ngày đi làm về, anh đều phải “dàn xếp” những chuyện chả ra gì. Bên nào cũng trách anh:
- Sao anh sợ họ. Không dám nói. Vậy?
- Anh đừng “đội vợ” lên đầu.
- Con vợ chưa giáo dục, hổn láo hết biết.
Chịu không thấu nỗi. Nên ba anh đã trao cho Hoàng một số tiền lớn, kèm theo số tiền anh dành dụm bấy lâu. Ba muốn anh dọn ra ngoài ở riêng, cho yên ổn. Vâng! Chính Ba rứt ruột ra quyết định như thế. Hoàng biết là ba má rất thương con, cháu. Nhưng đành phải rời xa. Hoàng lo đi thuê nhà ở tạm bên đường Duy Tân.
Ra riêng rồi, tha hồ cho Vi “tung hoành”. Những mâu thuẫn vợ chồng càng hiện hình rõ nét, trầm trọng hơn. Mặc dù Hoàng cố nghiến răng chịu đựng. Nhưng trong lòng anh quá đau buồn. Hoàng đi làm về, vừa mệt mỏi cởi đôi giày ra, là có chuyện không vui. Anh muốn ngồi lại đùa giỡn với các con tí chút, cũng không yên. Vi cứ “lải nhải cằn nhằn" đủ điều bên tai anh. Vi dằn mặt chồng đánh đập con, cốt ý chửi xiên chửi xéo "cái đồ hư đốn giống cha như đúc". Hoàng rất thương con. Anh chịu không nỗi cái cảnh con bị hành hạ vô lý.
Một là anh ôn tồn can thiệp. Nhưng, anh càng vuốt ve, xoa dịu Vi, thì Vi càng có cớ, làm hung, làm dữ. Hai là Hoàng mặc áo quần, bỏ nhà đi ra ngoài phố. Hoàng bắt đầu chán. Chán không thể tưởng! Ra đường hoài, không biết đi đâu? Làm gì cho hết giờ? Anh lại chui vào mấy quán Bar gặp vài ba cô lôi kéo, tán hưu tán vượn, cho quên buồn. Đợi đến lúc tối mịt, tối mò, nửa đêm, nửa hôm khuya khoắt, anh bò về nhà. Hoàng vẫn nghe ra rả bên tai, tiếng Vi chửi rủa con cái hay người vú léo nhéo. Vi chửi xéo, chửi xiên anh, cùng kèm theo tiếng đập đổ đồ đạc. Trong nhà nầy tương tự như một "hoả ngục ở trần gian" rồi. Biết “chui” vào đâu mà “trốn” đây hử?

_ * _

Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
Trân trọng
Ái Ưu Du

Ái Ưu Du
#180 Posted : Wednesday, January 23, 2008 3:00:06 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

Hoài Hương Xưa

Phần Thứ Nhì

Chương 28

CÔN SƠN LORAN
(Long Range)


*





Gia đình Hoàng “lủng củng lình xình” như thế đó. Anh rất đau buồn!
Thời gian nầy, Hoàng đã được giải ngũ. Ở nhà càng chán, đủ thứ chuyện ồn ào trên trời dưới quận. Nên anh đi tìm được một việc làm, ở công ty điện thoại hãng FEC của Mỹ. Nhưng với điều kiện, là anh phải làm việc ở ngoài đảo Côn Sơn. Phần chán nãn chuyện gia đình đến tột cùng. Phần Hoàng cũng muốn đi xa nhà. Anh nghĩ:
- Thà xa nhau, để mà gần nhau hơn. Chứ ở cận kề, ngày nào cũng có sóng gió, đay nghiến, thì khổ tâm lắm. Nhất là khi các con còn bé tí, mà tụi nó vẫn biết lo sợ, biết buồn, biết khóc, biết bịt hai tai, mỗi lần cha mẹ to tiếng.
Hoàng lên phi cơ bay ra Côn Sơn làm việc, anh cảm thấy thật thoải mái, tự do về đủ mọi phương diện. Tuy nơi đây có hoang vu vắng lặng và da diết buồn thật. Một doanh trại, gồm vài ba dãy nhà, và một sân bay nho nhỏ. Không có đài kiểm soát không lưu gì cả. Chỉ có vài cột trụ, dựng lên mấy cái “ống gió”, cho phi cơ nhìn trước khi đáp, để hoa tiêu định được vị trí hướng gió mà thôi. Ô là là!!!
Bên phía Tây của hòn đảo Côn Sơn là: Thị-trấn nhỏ bé, đơn điệu và khiêm nhường, với những hàng quán lẻ tẻ, số ít dân sống đời đạm bạc, khép kín. Đi xa nữa, sẽ lên những trại giam tù chính trị (là chuồng cọp). Trại giam B2, vân vân... Rồi đến "thành phố buồn mang danh Nghĩa Trang". Đến mũi Cá Mập. Đi mãi tận cuối cùng, sẽ đến Sở Củi. Nơi nầy, các tù nhân khổ sai, sẽ đi vào rừng đốn củi, chặt cây, đem về cho trại giam.
Phía đông hòn đảo, nhìn từ trên phi cơ xuống, thì Côn Sơn như một cù lao hoang vu khổng lồ, lềnh bềnh nhấp nhô trong đại dương bao la, bát ngát sóng vỗ. Côn Sơn nằm bên bờ biển tuyệt đẹp. Ngày như đêm, sóng cuồn cuộn dập dồn, rì rào gió biển dìu dặt, lao xao, lồng lộng. Đường chân trời như viền chỉ bạc tít đặm ngàn hải lý, xa mờ xa. Vào mỗi buổi bình minh hay hoàng hôn đều tuyệt đẹp và đượm buồm. Hải âu soãi cánh nô đùa, chao lượn trên những ngọn sóng bạc đầu.
Gió lao xao ríu rít dưới hàng phi lao lồng lộng, sóng xô bờ đập vào những mô đá gập ghềnh, hùng dũng chạy lui chạy tới, tạo thành nhạc biển thiên hùng ca triền miên. Một phần núi choài ra biển xanh ngắt, ngâm mình trong nước loáng bạc. Xa thật xa, thỉnh thoảng có những cánh buồm trắng nhỏ li ti, nhấp nhô trên sóng nước biếc xanh. Những cánh buồm không bao giờ vào bến đậu nơi nầy. Muốn di chuyển từ Côn Sơn, đi về đất liền, thường thường chỉ có cách dùng phi cơ.
Bầu trời xám nhạt, mây trắng cuộn từng lọn lênh đênh trôi. Nước xanh lam đậm và tươi ánh lên long lanh, như quyện lẫn hoà tan vào nhau, tạo thành đường chỉ chân trời, bơi bơi trong không gian bao la ngút ngàn vô tận.
Gần văn phòng, có mấy căn nhà nhỏ, để Trưởng đài, Phó đài, chuyên viên Y-tế ở. Một dãy nhà khác cho nhân viên Việt Nam. Ở Côn Sơn không bao lâu, nhưng Hoàng được nghe, và chứng kiến nhiều chuyện “không tưởng” thú vị. Nói ra, chả ai tin nỗi. Vì họ không tận mắt nhìn.
Hoàng và Tiến ở chung một căn phòng rộng lắm. Còn những chuyên viên nước khác như: Phi, Đại Hàn, Đài Loan, vân vân... ở chung một nhà khác. Mỗi nhà đều có nhà tắm nước nóng, lạnh. Có máy lạnh, máy giặt, máy sấy. Tức là đầy đủ tiện nghi như ở đất liền.
Có điều là “tụi mình” không thèm giặt. cứ cho đám “quân phạm” ít tiền, là xong hết. Dãy nhà cuối cùng xa xa dành cho đám tù quân phạm. Những “ông” hạ-sĩ-quan, sĩ-quan, hay quân nhân bị phạt tù, từ 5 năm trở lên, thì ở đây. Ai trong những nhóm đó, có khả năng Anh-văn, được tuyển vào đài làm việc. Họ tự do đi lại trong khu doanh trại. Ăn uống đầy đủ. Mỗi tháng có cấp ít tiền xài, mua sắm trong canteen của Mỹ. Thật ra, họ cũng còn sướng ha!
Còn một đám khác phục vụ trong nhà ăn. Có đám phục vụ làm vệ sinh trong phòng ngủ, trong toilet. Họ làm công việc lặt vặt trong doanh trại. Ôi! Tóm lại, họ gồm đủ mọi thành phần: Từ những “anh” sĩ-quan ngổ ngáo, từng bắn giết mấy ngừơi, đến những “em” binh nhì ném lựu đạn, cho chết cả sòng bài, để lấy tiền. Cả thành phần đào ngũ, giết người vì nóng giận, say rượu, vân vân...
Tuy nhiên, trong thành phần kể trên, có trung úy Kiệm, Biệt-kích Dù, đóng trên Pleiku, đã bị tù về tội: Lấy AR-15 ria một loạt, chết hết ba ông Biệt-động-quân say rượu. Vì, mấy “ông tướng kia” chỉ dám “xàm-xỡ” với vợ của “ông thầy”, (đại úy chỉ huy trưởng) của Kiệm mà thôi!!! Kiệm bị ra tòa án binh lãnh 20 năm tù giam khổ sai. Cậu ta rất mến Hoàng.
Từ ngoài cổng đi vào, có mấy con đường tráng nhựa. Dãy nhà đầu tiên, là nơi làm việc của đài Phát Sóng, gọi là Loran (gọi tắt của chữ Long Range). Đây là một trong ba điểm tam giác - để quân đội Mỹ định vị toàn bộ vùng biển Đông: Ở ngoài Trung có Tân Mỹ Lo Ran (cũng ở ngoài hòn đảo Tân Mỹ). Phía nam là hòn đảo Côn Sơn Lo Ran. Và, bên phía Tây, có SATTAHIP (cũng ở trên đảo tại bên Thái Lan).
Nơi đây có những cột antenna cao ngất trời, cao cả trăm mét. Về vụ cái antenna nầy, có một lần, bóng đèn trực trên đó bị cháy. Ông Trưởng đài lên phòng báo tin:
- Suốt ngày nay, tôi sẽ bận leo lên cột antenna, để thay bóng đèn bị cháy, lắp cái mới. Hôm nay, tôi bàn giao toàn bộ đài lại cho anh trông coi. Nếu có liên lạc vô tuyến từ đất liền ra, anh cứ trả lời nhe.
Ông Trưởng-đài mời Hoàng và Tom (thư ký tiếp liệu) và một phi công nữa, cùng đứng đó nhìn. Chính tay Mike mở cái gói ra. Nhiều lớp giấy tốt bọc lại lắm. Mike mở đến mười phút mới xong. Sau đó, Mike nhờ thư ký tiếp liệu làm biên bản, để mọi người chứng kiến ký tên vào.
Mike thay bộ đồ phi công màu vàng. Vai đeo theo cái túi haversack to nặng. Cuộn dây nhợ lớn móc bên hông quần. Đó là những sợi dây an toàn, Mike tự bước và móc vào cột antenna, leo lên. Mike mang găng tay, chân đi ủng cao, đầu đội mũ bảo hiểm. Mike mang cả cafe và sandwich làm sẵn. Mãi đến 17:30’ Mike mới tụt xuống đất.
Hằng ngày, Hoàng làm việc sát cánh Mike, nên anh rất rành về các thủ tục. Hôm trước, có một chiếc phi cơ, chỉ chở duy nhất một cái bóng đèn, từ trong đất liền, bay ra Côn Đảo mà thôi. Bóng đèn rất mắc tiền ta không nói, mà nhất là nó quan trọng, kinh khủng chưa?
Công việc của Hoàng mỗi ngày là: Kiểm soát và làm Time sheet cho sáu anh nhân viên bảo vệ. Họ đều là người Việt, gốc Pakistan. Anh giúp Mike mỗi khi có việc cần. Rồi anh ăn và ngồi chơi rung đùi xơi nước.
Tháng tháng, anh được về đất liền nghỉ phép bốn ngày. Thế mà, khi anh ở nhà có hai ngày vui vui, còn hai ngày kia, anh phải “đi bụi đời”. Mặc dù trong lòng anh rất nhớ thương các con. Thương lắm.
Lần sau cùng, khi trở ra Côn Sơn, anh bị chứng ói ra máu. Sợ bị loét dạ dày, nên anh báo với Mike, trưởng cơ quan nầy. Ông Mike gọi nguyên một chiếc phi cơ vận tải, loại C-47 dakota, từ Sài Gòn bay ra Côn Sơn, để khẩn cấp chở Hoàng về đất liền, nẳm trong bệnh viện Hoa Kỳ Trird Field Hospital, anh chụp X-Ray, chờ điều trị. Anh bị bị loét bao tử, một vết to bằng đầu ngón tay. Hoàng nằm đó hai tháng.
Khi khoẻ lại rồi. Lẽ ra, thông thường thì Hãng FEC cho Hoàng nghĩ việc. Nhưng nhờ anh siêng năng làm việc. Đồng thời, Hoàng được sự “gởi gắm” của Mike, ông ta chứng nhận anh làm việc rất giỏi. Hoàng lại quen thân với một trưởng phòng người Việt Nam. Nên anh nghỉ, và ăn lương hai tháng.
Trở lại Hãng FEC, họ cho Hoàng vào làm tạm “gát cổng” văn phòng chính, ở đường Phan Đình Phùng, Sài Gòn. Tuần sau, họ đổi Hoàng vào làm việc tại phòng An-ninh. Anh trợ lý cho một người nữa, anh lo đi lên, đi xuống, ra vào phi trường Tân Sơn Nhất. Anh làm thẻ cho nhân viên Mỹ. Vì, chu vi hoạt động của hãng FEC bao gồm các đường dây điện thoại rất rộng lớn. Trong phi trường và trong DAO, trên Long Bình. Nghiễm nhiên Hoàng trở thành Phó-phòng, chuyên phụ trách Thẻ ở Tân Sơn Nhất.
Gần cuối tháng 4-1975, Hoàng lấy xe Van, đi làm một cái bản đồ, ghi rõ tất cả địa chỉ, mà nhân viên Mỹ ở. Thường thường, người Mỹ ở tập trung, thuê bao nguyên một building nhỏ. Nếu ai có bồ bịch ở Việt nam, hay có vợ con đem qua Việt Nam, họ mới ở riêng và ở xa nhau.
Khi anh hoàn thành xong công việc, giao cho “xếp”. Cũng là lúc Hoàng đã biết về chiến dịch “White Christmas” – Nghĩa đen là “Chiến dịch di-tản người Mỹ”. Hoàng vẫn ung dung dửng dưng!
Mặc dù, lúc đó Hiển đang ở Biên Hòa, đã phone cho Hoàng:
- Mày chuẩn bị đi. Tao sẽ lấy chiếc AD-5, để một đứa con của tao, vợ con mày cùng bay đi Mỹ.
Anh về bàn với bà vợ. Nhất định Phùng Vi không chịu đi đâu hết. Đành thôi. Chờ đợi Hoàng mỏi mòn không đi, Hiển đã bay đi một mình. Hiển lái phi cơ, kẹp đứa con gái bé nhỏ ở giữa hai đùi.
Ngày cuối cùng, trước khi đi, ông “xếp” gọi Hoàng:
- Tôi sẽ đi đây. Bây giờ, cái công ty nầy, là thuộc về anh.
Hoàng chỉ cây dù ông dựng ở cuối văn phòng. Cười cười:
- Tôi không có ý định đó. Nếu ông cho, tôi chỉ xin ông “cây dù đen” kia, để làm kỷ niệm...


_ * _

Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
Trân trọng,
Ái Ưu Du

Users browsing this topic
Guest (8)
11 Pages«<7891011>
Forum Jump  
You cannot post new topics in this forum.
You cannot reply to topics in this forum.
You cannot delete your posts in this forum.
You cannot edit your posts in this forum.
You cannot create polls in this forum.
You cannot vote in polls in this forum.