Con Đường Cảo Thơm
Chương
29
ĐÀ LẠT, TAI NẠN PHI CƠ F – 5 KHỦNG KHIẾPTừng cuộn mây trắng bồng bềnh trôi, in xuống mặt hồ Xuân Hương phớt xanh, như đoàn thuyền con nhấp nhô trên sóng nước. Sương nhã từng cụm dày phơi phới, là là bay bay, như tấm áo lụa mỏng manh của cô thiếu nữ xuân thì lãng mạn.
Mây muốn nâng mình phiêu lãng lên khỏi mặt hồ, chơi vơi giữa dòng đời. Đôi khi mây chuyển thành màu ngà, rồi ánh bạc, lấp lánh từng dãi dài, như tóc bà tiên huyễn hoặc đứng trên đồi tuyết.
Từng đàn chim bay liệng trên không, chúng thi nhau nhã nhạc véo von, hoà ái, lãnh lót. Trên đồi Cù gió lùa trong kẽ lá, thông reo vi vu. Thiên nhiên hữu tình như quyện hút lẫn vào nhau, ngân rền trong phiến nắng đầu xuân. Vui thật vui.
Giữa làn không khí trong lành, mát rượi, yên tĩnh nên thơ, đầy quyến rũ của năm 1974, bỗng có một tiếng nổ gầm rú to kinh khủng. Làm rúng động, quặn thắt bầu trời xanh. Kèm theo một tiếng nổ long trời lở đất rền vang, đinh tai nhức óc. Tưởng như núi Lâm Viên sụt đổ trong ngày tận thế.
Tôi giật nẩy mình, hai tay đang bưng thau nước để tắm cho bé Hoàng Paul, rơi xuống đất, nước văng tung toé trên nền gạch, văng ướt cả quần áo. Chú bé hai tháng tuổi khóc thét lên. Tôi vội chạy đến ôm chầm lấy con trai
Đúng lúc ấy, những tiếng xì xì xẹt xẹt vút vút bay trên đồi Cù, (đối diện với nhà tôi), kèm một tiếng nổ phụ khác, to rền không kém tiếng nổ ban đầu. Mấy cửa kính, cửa sổ, đồ đạc thủy tinh trong nhà tự động nhảy xuống đất, bể loảng xoảng.
Mọi người trên phố đều hốt hoảng, ơi ới kêu rống thất thanh, la lên rõ to. Chỉ non mươi phút sau, tôi nghe nhiều tiếng còi xe cứu thương hú inh ỏi, vang dội góc phố. Người nhà đi chợ về báo tin:
- Một chiếc phản lực cơ rớt ở ngoài hồ Xuân Hương rồi. Mọi nẽo đường bị chận hết.
Thôi chết rồi. Tuấn Michael học ở Đoàn thị Điểm, không lo lắm. Nhưng Dzũng Joseph đang học giáo lý bên nhà thờ con gà. Huy John học mẫu giáo. Bây giờ là lúc các con tan lớp. Các con phải đi bộ về ngang qua cầu Ông Đạo. Làm sao đây hở Trời?
Vô cùng lo lắng, ruột nóng như lửa đốt, tôi run lập cập, không vì mới sanh con còn non ngày, mà vì tôi quá lo sợ. Vội vàng trao chú con út cho mẹ chồng, nhờ me trông coi. Tôi thay bộ đồ ướt, mặc thêm hai áo lạnh. Tôi run rẩy lần từng bước thấp bước cao, khi chạy khi đi, miệng không ngớt lâm râm đọc kinh cầu nguyện.
Từ nhà tôi đi bộ ra bờ hồ, chỉ mất năm phút. Vừa vòng ra đầu ngỏ đường Cọng Hoà và Võ Tánh, gần khu Toà Tổng Giám Mục, tôi đã thấy hàng hàng lớp lớp người người, đông nghìn nghịt. Kẽ la người hét, chạy lui chạy tới lố nhố. Ồn ào hơn vỡ chợ. Tất cả mọi con đường đều bị niêm phong bởi mấy hàng kẽm gai. Quân cảnh, Cảnh sát Dã-chiến, Biệt-đội phòng vệ, phối hợp với Cảnh sát Quốc-gia, tay họ bồng súng, miệng luôn thổi còi báo động. Hoặc giải tán mọi người tò mò, muốn đến gần ven hồ Xuân Hương, nhìn cho tỏ tường.
Nhưng, hình như mọi biện pháp an ninh đề phòng, đều không thể ngăn chặn được làn sóng người hiếu kỳ, mỗi lúc một kéo dồn về khu vực tai nạn, đông hết sức đông. Mặc kệ! Ai muốn la, cứ la, ai muốn chửi cứ chửi. Người ta vẫn chạy đi xem, càng lúc càng đông. Coi như điếc không sợ súng, cứ chen lấn nhau mà xem "cho đã".
Tôi run như cầy sấy, lo sợ tột đỉnh, cố chen vai thích cánh với những người đi bộ, san sát nhau. Tất cả xe đạp, xe gắn máy, xe hơi, đều bị cấm. Thế nên họ đứng ù lì, không thể nhúc nhích cục cựa. Bên kia dốc đường Lê Đại Hành, tôi có thấy chóp đỉnh nhà thờ con gà. Nhưng đã bị xe cảnh sát chận ngang, họ không cho dân vào thành phố, vào khu phố chợ. Nội bất xuất, ngoại bất nhập rồi.
Tôi muốn điên lên, nước mắt cứ trào ra, mặc dù tôi không chủ định khóc. Tôi đứng thừ người nhìn xuống hồ Xuân Hương. Úi trời đất qủi thần ơi! Một cảnh tượng vô cùng hãi hùng, đã phơi bày ra trước mắt: Mặt hồ thường ngày trong xanh dường bao, ta có thể soi rõ bóng mình dưới làn nước im sóng. Thế mà, nay trở thành một đầm lầy, bầy nhầy đất bùn sền sệt, sủi bọt bong bóng. Bong bóng nước to, nhỏ, đủ kiễu, nhiều vô số, cứ đứng yên một chỗ, không bể tan. Mặt nước bầy nhầy từng miếng thịt vụn, thịt mỡ, từng khúc ruột lòng thòng, dính rong rêu, bùn đất, từng cánh tay, lóng chân, giày, dép, mũ, nón, đủ thứ vân vân…, loạn xà ngầu.
Dầu nhớt, xăng máy bay lênh láng, khói đen vần vũ trên mặt hồ, ngay chính giữa hồ, một nửa cánh trái của phi cơ lâm nạn, chĩa thẳng lên trời. Thân phi cơ nhấp nhô khỏi mặt nước đen ngòm. Đuôi phi cơ chổng kềnh, nhô cao lên khỏi mặt hồ. Đầu phi cơ đã chúc xuống đáy hồ, rồi bức thân, đầu phi cơ lại rời thân, bay lên phía sân Cù, và cắm phập xuống đất. Đó là nguyên do tiếng nổ phụ lần thứ nhì, mà tôi đã nghe lúc mười giờ sáng nay. Hết sức may mắn! Chứ cả chiếc phi cơ, hay chỉ một cái đầu của phi cơ thôi, mà rơi đúng vào khu vực phố Hoà Bình, hay rơi vào khu chợ Mới; Thì coi như người dân chết vô số kể! Xin cám ơn Thượng Đế vô ngần.
Loa phóng thanh móc tạm trên cột điện, luôn kêu gào đồng bào, hãy tản mác ra. Hay tiếp tay vời Cảnh-sát dã-Chiến, biệt đội phòng vệ Tỉnh Thị-xã, Cảnh-sát Quốc-gia, giữ gìn an ninh trật tự. Xe cứu thương vẫn hú còi inh ỏi, tới tấp chạy bán sống lên bệnh viện Dalat, hay chạy vào trường Võ Bị Đà Lạt, cấp cứu thương nhân.
Đồng thời, họ kêu gọi đồng bào, ai đã chứng kiến, am tường các sự kiện, xin hãy đến văn phòng tạm, đặt ở sân bến xe đi các Tỉnh. (ở ngay cây xăng Shell gần đầu hồi mấy dãy nhà của khu ấp Ánh Sáng). Chỉ chớp mắt, tin tức chính xác nhất, được loan báo trên loa phóng thanh:
- Có bốn người Mỹ trắng, một Mỹ đen. Năm cặp trai gái, ngồi tâm tình bên gốc cây bách tùng. Sáu người bán dạo: Cà rem, kẹo kéo, bánh bò, khô mực, hột vịt lộn, vé số kiến thiết Quốc-gia. Bảy người ngồi câu cá rải rác bên mé hồ, gần nhà hàng Thanh Thuỷ. Và những người đi tản bộ, hay đi honda, xe đạp, ở chung quanh khu vực hồ, thuộc mé cầu ông Đạo (thì chưa thể đếm được). Họ bị sức gió mạnh phi cơ thần tốc cuốn hết xuống hồ, mất tiêu.
Tôi khiếp đảm, kinh hoàng, rụng rời, đứng chôn chân xuống đất, nhìn mặt hồ Xuân Hương tù hãm. Bên kia lối Thuỷ Tạ, một chiếc trực thăng vừa đáp xuống bãi cỏ. Họ thả mấy người nhái ra, đồng thời xe GMC kéo mấy chiếc thuyền con, ở đâu trong lối trường Võ Bị tới.
Một cuộc tập trung mò kiếm chớp nhoáng bắt đầu. Hầu như tất cả “người dự-kiến” đều ngồi xếp lớp chung quanh vòng bờ hồ. Đen nghịt. Mặt mày ai nấy đều tái xanh tái xám, bất động và tỏ lộ nét lo sợ tột cùng.
Mấy “ngư ông” bắt đầu chèo thuyền đi thật chậm, họ chèo bằng mái chèo tay. Tôi nghĩ có thể họ không dùng thuyền máy, vì sợ máy nổ sẽ khua sóng, không vớt những thi thể rữa nát ra chăng? Bốn anh thợ lặn, đủ đồ nghề đeo đựng đầy người, đã nhảy ùm xuống hồ nước lạnh giá và hôi thối đất bùn.
Bốn “ngư thuyền” cầm lưới to bảng, có cây sắt dài, người chèo, người vớt những miếng thịt vụn, những khúc ruột, những lóng tay, lóng chân, vân vân... Họ bỏ vào bọc nilông đen, đựng trong mấy chiếc thau nhôm to. Họ chèo vào bên mé bờ hồ, phía gần nhà hàng Thanh Thủy. Trong khi đó, những thân nhân của người lâm nạn, nằm vật vã trên các gốc bách tùng, các bãi cỏ, họ gào khóc thảm thiết vô cùng. Họ chẳng cần biết những cái bọc ni lông đen đó, là thịt của bà con họ, hay của ai!?
Đứng trên bờ, người ta có thể nhìn thấy những miếng thịt vụn trôi đi trôi về, trôi vòng vòng quanh quanh, dính từng chùm bồng bềnh trên mặt nước ao tù. Lập tức, người nầy chỉ cho người kia xem, rồi họ đồng loạt kêu to, ngoắt vẫy tay lia lịa, cho bác “ngư thuyền” bơi đến “vớt xác” lên.
Cô bạn tôi, nhà ở ngay ấp Ánh Sáng, dãy nhà thứ nhất. Cô đã kể lại trên loa phóng thanh:
- Lúc đó, tôi đang phơi quần áo trước sân nhà, bỗng nghe những tiếng động vô cùng điếc tai, ào ào, cuồn cuộn. Gầm rú. Rồi một sức nóng kinh khủng từ trên trời chụp xuống đầu, rất nhanh. Kèm theo những đường khối lửa đỏ lòm, chạy dài từ hướng Cam Ly về, nóng tột độ. Theo đà lướt của phi cơ, tôi bị xô chúi nhủi, nằm sấp đập mặt xuống nền xi măng. Tôi cứ tưởng trời long đất lở. Tức ngực. Điếc tai, đau đầu ghê lắm.
Ba dãy nhà bên ấp Ánh Sáng, nhiều mái tôn bị lột sạch mái, bay đi tứ tung, hay căn nhà nào còn, cũng bị cháy đen, bị cuốn cong lại. Ôi thật hãi hùng. Nặng nề nhất là dãy nhà thứ ba, đa số nhà còn làm nhà bằng gỗ, lợp mái tôn, bị cuốn sạch, hư hại, sụp đổ khá nhiều. Vì dãy nhà thứ ba nầy, nằm dưới sức ép, và sức nóng của đường bay phản lực xẹt qua. Có những mái nhà, vách ván, giống như miếng bánh tráng bị nướng phồng rộp lên, cháy đen. Những hàng cột cháy trụi. Có những nhà bị sập, hay chỉ còn lại bức tường vách chông chênh. Trông thật ngao ngán.
Một vài nguồn tin khá chính xác, loan báo về thân phận chiếc phản lực cơ như thế nầy:
- Tin thứ nhất: Anh phi công lái chiếc F 5, từ Sài Gòn lên vùng Cao Nguyên, đi làm nhiệm vụ. Sau khi xong việc, bị trục trặc kỷ thuật sao đó, nên anh ta dự tính lái phi cơ, bay trở về bãi đáp ở Sài Gòn. Nhưng không kịp. Phi cơ lao từ phi trường Cam Ly, chạy đâm đầu xuống hồ Xuân Hương.
- Tin thứ nhì: Một sĩ quan pilot Việt Nam, có cô fiancé ở ngay ấp Ánh Sáng, chỉ còn độ tháng nữa, là họ làm đám cưới. Trước khi đi phi vụ, anh ta đã phone lên dặn dò cô vợ tương lai là:
- Anh sẽ ghé qua vùng trời nầy, bay lượn một vòng hơi gần trên khu nhà em. Khi đó, em nhớ chạy ra sân, cầm chiếc khăn hồng, vẫy tay chào anh. Có thể anh sẽ thả một cái dù nhỏ, liệng thùng quà cưới nhỏ xuống, ở ruộng rau gần suối trước nhà.
Đó là lời của một cô gái trẻ, kêu khóc, vừa nức nở kể lung tung lại trên loa phóng thanh. Bố ai mà tin cho nỗi! Theo tôi nghĩ: Nếu anh bay quá thấp, sức hút của trái đất, sẽ kéo giật phi cơ hụp mạnh xuống. Anh không thể kềm phi cơ (trở thành nặng nề kinh khủng), để phi cơ có thể nhẹ nhàng tự vút bay lên cao. Khi anh tống ga thì sức quay cánh quạt tạo lực đẩy rất mạnh, anh cũng không thể kéo phi cơ trở lại bình phi tối thiểu ở 200 bộ, (có tốc độ kinh hoàng của F 5), trong một khoảng không gian vừa thấp vừa hạn hẹp đến thế. Lại càng anh không thể ngồi trong buồng lái, mà “ném” thùng quà cưới chính xác, cho cô dâu “chụp”! Thật là huyền thoại hoang đường mộng ảo, điên rồ không tưởng!
Trên trời, mấy chiếc bà già, L-19, trực thăng, luôn bay lượn vòng vòng. Một chiếc trực thăng hạ cánh xuống đồi Cù, khu vực nầy hoàn toàn bị cô lập. Mấy phi công Mỹ đang lúi húi tháo những cục bạch kim. Hồi nãy, cánh quạt của chiếc F 5 bị nạn, quay tít, đã chém chết một em bé chăn bò, và mấy con bò gặm cỏ.
Ngay tức khắc, ông Tỉnh Thị Trưởng Đà Lạt ra lệnh cấm: Người dân không được dùng nước, ở khu vực hồ Xuân Hương. Nhà máy nầy đóng cửa. Nhà máy nước uống ở Suối Vàng, hồ Than Thở, sẽ cung cấp nước cho toàn dân thành phố Đà Lạt.
- Thưa ông Tỉnh Thị Trưởng ơi! Thấy cảnh tang thương, rùng rợn kinh khủng kia, người dân Đà Lạt hiền lành sợ mất hồn mất vía, kinh thiên động địa. Không lăn đùng ra mà chết bất đắc kỳ tử, là may thì thôi. Có mô dám ăn uống cái thứ nước máy sền sệt, hôi tanh không thể chịu nỗi chớ!
Tôi xem phi cơ rớt đã đời xong, sực nhớ chú con trai đầu lòng, tên Quốc Dzũng đang học giáo lý ở bên nhà thờ Chính Toà (mà cư dân địa phương, thường gọi nhà thờ con gà). Tôi cố chen lấn, len lõi, lùi ra xa. Vất vã lắm, tôi mới tìm lối thoát ra được vòng người ngoài cùng, ở gần toà nhà tổng giám mục.
Thế là, tôi đâm đầu chạy một mạch về nhà ở phía đường Cộng Hoà, Võ Tánh, Phan Bội Châu, phố vắng như chùa bà Đanh. Tôi chạy ngược trên đường đến rạp ciné Ngọc Lan. Tôi không nhớ là mình có tiền trong túi, để nhảy lên xe lam, hay xe taxi đi cho lẹ.
Tôi cứ cắm đầu, cắm cổ mà chạy một mạch xuống đường Cường Để. Chạy lên dốc Bà Triệu, lại chạy trên đại lộ Yersin, chạy tới nhà thờ. Hai chân bắt đầu run, tôi ngồi phịch xuống trên bờ cổng đá của nhà thờ. Thở hổn hển. Cha phụ trách lớp giáo lý báo tin lành:
- Bình yên cả. Lẽ ra, cha cho lớp về đúng giờ. Nhưng không hiểu sao, hôm nay chưa cho các em về, chậm mất nửa giờ, để tập dợt. Nên thoát nạn.
Tôi cám ơn cha. Vô cùng tạ ơn Chúa! Lòng khấp khởi vui mừng. Như thế người dân chết ít thôi, chứ nếu chiếc phi cơ kia, rớt đúng vào lúc tan trường, tan sở, người người qua lại khu cầu ông Đạo nầy, khá đông. Hẳn là chết vô số! Ôi!
Nhưng, ngồi được một lát, tôi bật lên như chiếc lò xo. Chưa thấy các em học sinh. Tôi dáo dác nhìn quanh. Sân nhà thờ vắng lặng. Cha phụ trách đã bỏ đi lúc nào không rỏ. Tôi chạy trở lại đường cũ, trở về nhà. Lúc nầy tôi mệt kinh khủng! Phần mới sanh con còn non ngày, phần khắc khoải lo sợ và chạy bộ cả buổi như thế. Người tôi lả đi, hụt hơi, tim đập thình thịch muốn nghẹt thở.
Buộc lòng tôi phải đi từng bước ngắn, có khi ngồi bừa lên lề đường, thở hổn hển, nghỉ mệt. Thế rồi, tôi cũng lê bước về tới nhà. Tôi thấy bé Dzũng đang ngồi trên giường, con toe toét cười. Con kể chuyện lại với bà nội, và mấy em nghe:
- Học và tập dợt xong. Đáng lẽ là con về rồi. Nhưng cha phụ trách gọi các con ở lại. Tụi con đứng trên sân nhà thờ, tự nhiên cha hỏi giáo lý. Rồi cha cho tụi con ăn bánh ngọt. Kể như vừa giải trí, vừa ôn bài. Vì chỉ còn ba ngày nữa, là thi. May quá! Nếu cha không kêu tụi con ở lại, thì đúng lúc đó, là con đã đi về tới ngang cầu ông Đạo rồi.
Tôi mừng rỡ đến ứa nước mắt. Dịu dàng hỏi con trai:
- Sao con về nhà được?
- Con đang đứng ngoài sân nhà thờ, thì thấy những đám khói mù mịt, toả xịt từ trên trời xuống, lửa đỏ rực, kéo dài từ hướng Cam Ly. Cả tiếng động, tiếng kêu rất điếc tai. Cha biểu tụi con lủi chạy vô, núp dưới hầm nhà thờ, nằm xuống nền nhà ngay. Nhưng tụi con chỉ chạy vô tới ngang cửa hông, là nghe mấy tiếng nổ to lắm. Nằm một hồi lâu, không thấy gì nữa. Cha cho chúng con đi về nhà ngay.
- Mọi người đều bị cấm đi qua cầu ông Đạo mà.
- Dạ phải. Con chạy xuống dốc nhà thờ, định về nhà. Nhưng bị xe cảnh sát chận lại. Họ không cho đi. Người ta đứng coi ở bên phố, bên chợ, đông lắm. Con khóc vì sợ quá. Cuối cùng con tụt xuống dốc nhà thờ, con chạy qua đường Phạm Ngũ Lão, chạy qua cầu Bá hộ Chúc, lên phố, mà về nhà.
Bé Tuấn mới bảy tuổi, cũng góp chuyện:
- Con ngồi viết bài trong lớp. Nghe tiếng động điếc tai, nổ to lắm. Rớt cái la phông và cái bảng đen. Bụi đất, gạch cát, bay rào rào trên đầu. Thầy Tu nói tụi con chui xuống gầm bàn, nằm úp mặt xuống đất, hai tay bưng lấy đầu. Nằm lâu lắm. Thầy đi đâu đó, rồi cho tụi con về nhà. Thầy nói bị rớt máy bay ở bờ hồ. Thầy cấm, không cho tụi con đi xuống chỗ cầu ông Đạo. Tụi con chạy xuống rạp ciné Ngọc Lan, con đứng trên sân coi. Đông lắm.
Đồng thời, lúc đó Tứ chân thấp chân cao, chạy về ở ngoài sân, anh thở hổn hển, đã hỏi dồn:
- Em ơi! Các con về nhà chưa?
Dzũng, con trai lớn của tôi nhanh nhẹn đáp lời ba của nó, thay tôi:
- Dạ! Các con về rồi. Ba yên tâm.
Tôi mệt quá chừng! Không nói nên lời, chỉ gật gật đầu. Đông đủ cả nhà! Chúng tôi mừng rỡ vô cùng. Không ngờ các con tôi biết tìm lối về, khôn ngoan đến thế! Vậy mà, tôi quá lo lắng, run sợ con tôi có bề gì... Hay bị kẹp cứng giữa làn sóng người đông đúc. Các con trai chỉ mới chín tuổi, bảy tuổi đầu, nếu không bị kẹp cứng trong đám đông hơn kiến, sẽ bị nghẹt thở, bị người ta to lớn dềnh dàng, xô đẩy, dẫm đạp lên đầu lên cổ, tất bẹp dúm ra! Thì chết là cái chắc. Tạ ơn Chúa!
Tai nạn thương tâm đó đã xảy ra hơn một tuần rồi. Ấy thế mà, mặt hồ luôn luôn sôi bọt bong bóng. Bọt bong bóng cứ hết bể bụp cái nầy, lại nổi lên bong bóng khác, sủi sì sụt. Lúc nầy người hiếu kỳ đến xem, thưa thớt dần dần. Họ chỉ tập trung vào mỗi buổi chiều nhàn hạ, khi mặt trời chưa gát núi.
Riêng tôi, mỗi ngày đi dạy học, tôi dẫn hai con trai đi, phải đi ngang qua bờ hồ, qua cầu ông Đạo, đi bộ tới trường. Chung quanh khu vực nầy bắt đầu có mùi hôi khó chịu. Tôi luôn chứng kiến những cảnh đau lòng, thương tâm vô cùng, mà âm thầm rơi lệ. Tôi thấy những thân nhân (của người bị nạn) cùng nhau tụ họp lại, ở ngay góc bờ hồ, phía bên lối đầu cầu (gần Hạnh Tâm) vào chợ.
Họ mở đàn cúng cầu siêu suốt tuần. Họ đặt những cái quách dài độ bảy tấc, để dưới thảm cỏ, ven bờ hồ. Từ trong quách ấy, họ trải những tấm vải trắng dài thật dài, làm thành những bậc cấp, nối liền cái quách với mặt hồ, chạy dọc xuống dưới nước. Họ cúng chiêu hồn suốt mười ngày đêm. Ngày, đêm nhang trầm đều nghi ngút. Thầy cúng đến cúng vái. Thân nhân khóc than não nuột. Tiếng khóc than rên siết bay lên trời cao. Thảm thiết lắm. Không ngày nào đi ngang qua khu vực cầu ông Đạo nầy, mà tôi không khỏi nhỏ nước mắt, khóc thương người dưng: Nhưng họ cùng màu tóc đen, màu da vàng, mũi tẹt!
Sau mười ngày, một buổi sáng tinh sương, họ cuốn mười mấy tấm khăn trắng kia, cuốn từ từ ở dưới nước lên dần tới cái quách, họ bỏ hẳn vào trong quách, chỉnh tề, ngay ngắn. Mỗi cổ quách, có hai thầy cúng đứng hai bên, (vừa tụng kinh, vừa cuốn tấm vải) Thân nhân bò lết dưới đất vật vã, khóc rống lên. Thảm thiết vô cùng. Thầy cúng cho người đóng cổ quách lại. Chở đi.
Mặc dù người ta đi xem cuộc chiêu hồn, đông vô số kể, nhưng mọi người im lặng cúi đầu quệt nước mắt xót thương. Đó là chút tình “tứ hải giai huynh đệ. Máu chảy ruột mềm. Thương người như thể thương thân. Bầu ơi! Thương lấy bí cùng. Tuy rằng khác giống, Nhưng chung một giàn”! Là vậy.
Mặt hồ Xuân Hương suốt tháng qua vẫn sủi tăm, bồng bềnh những bèo bọt bong bóng nhớp nhúa. Bùn đất tráng lên mặt nước đen ngòm rờn rợn. Hôi thối tanh um kỳ lạ. Dầu, mỡ, xăng nhớt, cứ đọng lại từng khóm, ánh lên từng vệt loang dưới mặt trời đỏ chói. Không có cách gì tẩy uế hết. Thật ngao ngán quá chừng. Dù mỗi ngày, chuyên viên tháo gỡ phi cơ, lặn xuống hồ tìm kiếm... tha lên ít một.
Cuối cùng, trước mùa mưa, ông giám đốc nhà máy thuỷ điện, phải cho mở những ngăn cửa đập, dưới chân cầu ông Đạo, xổ hết nước trong hồ Xuân Hương, cho nước chảy qua cầu Bá hộ Chúc. Con suối nhỏ uốn lượn chảy vào men phố Cường Để, rồi chảy vào thác cam Ly, lẫn khuất trong rừng sâu.
Hồ Xuân Hương đã lồ lộ chiếc phi cơ nhăn nhúm, cụt lủn, như trái táo khô, trông vô cùng khó coi! Vô duyên xấu xí hết chỗ nói. Lòng hồ sâu hắc ám phơi ra giữa lộ thiên, giơ đầy sự bẩn thỉu lên trời. Đáy hồ lổm chổm những đụn rác rưởi ô tạp. Cỏ lác, cỏ năn, quyện chặt với xe đạp, vỏ xe hơi, xe honda rải rác, xác xương súc vật. Tôm búng mình, nhảy tưng tưng trên mặt bùn sền sệt. Ếch nhái, lươn, lủi thật nhanh. Cá lớn cá bé phóng mình giãy giụa, đập đuôi bành bạch trong sình lầy đặc quánh.
Dạo trước, ai ai cũng thấy bề mặt của hồ Xuân Hương, thơ mộng, tuyệt diễm, quyến rũ, tràn lan thi vị là thế. Không ai trông thấy bề sâu của lòng hồ cả. Nay, lòng hồ đã khác hẳn cách nhìn...
_ * _
Kính thưa độc giả rất thân mến!
Ái Ưu Du viết truyện dài: "Con Đường Cảo Thơm” - Đến đây - xin tạm ngừng.
(Còn ít chương cuối, ÁƯD xin mạn phép để dành lại một bất ngờ thú vị…)
- Ái Ưu Du đã sáng tác những truyện dài hoàn tất sau đây:
1.- HIẾN CHƯƠNG TÌNH YÊU -
2.- GIỮA HAI LẰN ĐẠN -
3.- CHUYỆN ANH & TÔI -
4.- CON ĐƯỜNG CẢO THƠM -
5.- HOÀI HƯƠNG XƯA -
6.- VẪY GỌI CON THUYỀN -
7.- ĐƯỜNG THIÊN LÝ
8.- PHÙ DUNG -
*
Kính mời quý độc giả kính mến đón xem.
Trân trọng,
Ái Ưu Du
aiuudu@yahoo.com