Welcome Guest! To enable all features please Login or Register.

Notification

Icon
Error

11 Pages«<678910>»
Ái Ưu Du &gt; Văn &gt;&gt; Những Truyện Tình Dài . . .
Binh Nguyen
#141 Posted : Friday, September 21, 2007 1:31:05 PM(UTC)
Binh Nguyen

Rank: Advanced Member

Groups: Registered, Editors
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 4,945
Points: 1,581
Location: Đông Bắc Gia Trang

Thanks: 1 times
Was thanked: 36 time(s) in 35 post(s)
Chị Ưu Du ơi, có chị nào hỏi thăm chị trong phòng ẩn nè:

quote:
Gởi bởi tonka


Ai muốn khiếu nại thì nhanh nhanh lên nha.
Chị có thể nhắn nhe cho chị Ưu Du được không, sao không thấy chỉ lên tiếng gì hết vậy.




BN.
Tonka
#142 Posted : Friday, September 21, 2007 1:38:20 PM(UTC)
Tonka

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,643
Points: 1,524

Thanks: 95 times
Was thanked: 201 time(s) in 189 post(s)
Cám ơn Bình đánh phèng la dùm. TK có email cho chỉ mà chưa thấy trả lời.
Ái Ưu Du
#143 Posted : Tuesday, September 25, 2007 4:14:02 PM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

CON ĐƯỜNG CẢO THƠM

Chương 19

ÔNG NGOẠI. BA ME & CON CHÁU

(Nhân Father’s Day, con xin trân trọng kính dâng về Ba & Mẹ: Hai đoá hoa hồng trắng)

*



Ông ngoại lên thăm cháu, thăm con, trước ngày đầy tháng cu bé Hoàng. Tôi mừng quá ngồi dậy chào, nhìn ba từ đầu đến chân.
Trông ba khỏe mạnh, da trắng hồng. Mắt sáng, trán khá cao và rộng. Mũi dọc dừa. Hàng ria mép gọn gàng. Mái tóc quăn tự nhiên nép sát gáy, cắt tỉa cẩn thận. Ba diện bộ veste mầu nâu đen tươm tất, rất vừa khổ người. Áo sơ mi trắng tinh, cổ cứng hồ ủi sạch sẽ, cà vạt màu càfé sọc mờ. Mang giày da. Đầu đội nón phốt. Áo manto vắt trên tay. Trông ba quắt thước, oai vệ và đỉnh đạt. Như ông chủ hãng.
Khi ba mặc áo dài đen có chữ thọ, hay chữ phước. Quần trắng vải thô. Đầu chít khăn đóng. Chân mang đôi guốc mộc to bản. Khuỷu tay móc chiếc dù đen. Trông ba mộc mạc hiền lành, chân phương. Như ông huyện, ông xã ở dưới làng, lên thành phố du lãm nơi nơi.
Ba hỏi thăm sức khỏe con, bế cháu ra gần bên cửa kính, trông gọn gàng, nhẹ nhõm. Ba ngắm nghía thằng bé coi tướng, bấm độn tử vi, tấm tắc nựng yêu cháu:
- Cháu có hai tai thọ. Tướng ni sau nầy sẽ giàu có. Khá lắm đó. Ưa hờn mát. Thông minh, học một biết ba bốn. Nhưng hơi làm biếng. Hỉ!
Nói chuyện hồi lâu với cháu. Điềm đạm vắt chân chữ ngũ, vấn điếu thuốc ngọn, ba ung dung từ tốn mồi diêm đốt lửa. Không kiêu kỳ, không ồn ào, không hoan lạc theo men đời say bí tỉ. So với sự nếm trải chua cay trên đường đời ba từng trải qua, thì điếu thuốc nầy có là bao.
Rồi ba bắt mạch, coi sức khỏe cho con. Từ lâu, ba là vị lương y có tiếng thời vua Khải Định. (Ba còn một nghề tay trái nữa, là nghề làm cúp cây, và làm vườn). Cả bên Cao Mên. Cùng vua Sisavangvong tại hoàng gia Lào, họ từng mời ba đi chữa bệnh, trong dịp phong tước Phagna cho ông Tougeu Lyfung.
Đôi ba lần, ba đem tôi đi theo, vào tỉnh Nam Pung Dam. Long Tieng ở cánh đồng Chum mịt mùng. Ba chữa trị bệnh cho ông Bliayao. Trên đường xa xứ, ngồi xe đò lên Bamêthuột, từ đó có người dẫn đường, ngồi xe ngựa, tới Buônđon, cách Bamêthuột khoảng 45 – 50 kilômét. Ven rừng có nhiều túp lều sàn, trang trí đẹp.
Ba và tôi ngồi trên lưng voi suốt ngày đêm, băng rừng lội suối. Doc đường thỉnh thoảng ba gặp nhiều người Thượng M’ Nông, Edê buôn bán voi, ngà voi nhiều nhất. Người Thượng, Miên, Lào, chuyên vào rừng dụ voi về nuôi, khá tinh vi. Họ trang trí thật đẹp cho con voi độc ngà. Con voi nầy có kinh nghiệm quyến rũ voi rừng. Tên nài móc võng nằm sát dưới bụng voi, dùng kèn, sáo, đờn, phèn la, tù và, vân vân...
Họ thổi nhạc cho đàn voi rừng mê tơi, voi rừng bu quanh con mồi. Chúng tha hồ ngẩn ngơ múa vòi, nhún nhẩy và ngửa cổ lên "hú hát" say sưa, inh ỏi. Mặc bọn nài tròng dây xích vào cổ chân "voi trẻ, voi non". Con voi mồi từ từ quay trở về buôn làng, dẫn theo đàn voi mới, rất dễ dàng.
Đến bìa làng, nơi cánh rừng thưa ven sông Sêrêpốc, họ cột dây xích sắt một chân trước, một chân sau vài ba con voi mới vào gốc cây đại thụ. Tiếng kèn, sáo, im bặt. Voi rừng hoàn hồn trở về thực tại, thì hỡi ơi! Nhìn trời hiu quạnh! Thế là chú voi mới lồng lộn, điên cuồng tru hú ầm ĩ nghe kinh dị khủng khiếp.
Mất khoảng hai mươi ngày, một tháng, bọn nài mới thuần thục đàn voi mới. Mỗi ngày, họ đặt bàn cúng linh đình ngoài trời, cứ tờ mờ sáng, tiếng chiên trống, phèn la, tù và, sáo, tiếng hú hét rất man dại cất lên. Bọn nài voi từ trên cây đại thụ nhảy xuống lưng voi, họ dùng búa nhọn gõ vào đầu voi con, kìm kẹp vào tai voi mới. Người ta nói: “da dày như da voi”, phải dùng búa kìm mà "trị" thiệt đúng. Dưới đất một bọn khác dùng roi da đuôi cá đuối, roi mây quất túi bụi vào thân thể voi con. Một ngày họ "dạy" voi ba lần, mặc sức các chú voi mới hú rống lên, nghe thảm thiết kinh động cả góc rừng. Sau mỗi lần "dạy" voi, họ cho voi ăn tẩm bổ đủ thứ, nào mía mật, mía đường, chuối chín, thân chuối non, cháo đậu xanh nấu với cám và bắp xay. Con nào sớm thuần thục, thì được nhốt sang một bên, ưu đãi hơn.
Vào tháng 3 âm, có hội đua voi nơi cánh rừng thưa, ven sông Serêpốc. Bầy voi chạy theo tiếng còng, chiêng, tù và, phèn la... Bầy voi giơ cao vòi, hai tai phe phẩy chào, bước đi nhún nhảy ung dung, trên lưng voi mang theo quầy chuối, ché rượu cần thơm ngon. Mùi thịt rừng nướng do chủ tế ban thưởng hậu hĩ ban phát cho voi, chủ voi, và tên nài. Tuy thế, thỉnh thoảng voi vẫn bị chủ quất cho “tối tăm mắt mũi”. Voi không dám nghĩ đến chuyện bỏ trốn, tìm đường thoát thân, hết nhớ đường trở về rừng xưa.
Khi bầy voi mới đã khá quen và thuần thục hầu chung sống với lũ voi nhà rồi, họ chỉ xích những “con voi mới nhập cư” một chân, cho nài thả đi ăn trong rừng. Đàn voi rất sợ tên nài, họ bảo con voi quỳ, nằm, đứng đi, chúng đều răm rắp nghe theo.
Lúc đó còn rất nhỏ, tôi chỉ nhớ các cô gái Lào tóc búi cao, dắt hoa sứ trên đầu, các cô ở trần mặc xà rông quấn lên ngực thay áo, xà rông thêu đầy kim tuyến, đủ màu sắc sặc sỡ lóng lánh dưới cạp lai. Cổ và tay đeo nhiều vàng, bạc, còng đồng. Dây cườm xâu khéo léo. Nàng sơn nữ ở trần, đưa bộ ngực nở nang một cách tự nhiên, không e dè ngượng ngùng che dấu, họ đứng trên đường dốc, trước hướng gió, với cái mẹc to tướng, hai tay giơ mẹc cao quá đầu, họ sàng sảy trấu theo hướng gió xô về.
Ba luôn đi xa, bốn năm tháng mới quay về nhà. Sự sống đâu phải ngày ngày dẫm chân tại chỗ. Con người từ lúc bé, với tiếng khóc oa oa chào đời. Sống vô tư qua thời thơ ấu, quá trình phát triển nhịp nhàng. Rồi thành niên và lão thành. Chuỗi ngày vượt thắng, là quá trình đấu tranh mọi gian lao, thử thách, đắng cay cuộc sống. Bằng chứng xác thực nhất là cuộc đời ba, mà số phận dẫn dắt ba má, đưa các con đi bước thấp bước cao. Tháng năm xế chiều, có nghèo có giàu. Ba má luôn vất vả nhọc nhằn, ngược xuôi. Khi toàn gia quyến bị uốn cong trong cơn bão đời. Tưởng không phương cứu vãn. Ấy vậy, do sự nhẫn nại, tài trí và đầy lòng nhân hậu, cơ may đến. Ba má lại có cảnh sung túc như xưa.
Ba từng đi xa, bỏ vợ con ở nhà, không mấy tiện khi nắng gió trở trời. Vã lại, ba thấy các con càng lớn, ba cần hướng dẫn dìu dắt nhiều hơn. Đồng thời ba cũng ớn, sợ, con cái lông bông, lêu bêu, gàng bướng, nói không nỗi. Sau nầy ba ở nhà quay qua mở trại cưa làm nghề cúp cây, mở vườn ươm cây giống. Đồng thời, ba trị bệnh giúp người nghèo đau ốm. Ba làm phước, không lấy tiền công.
Ba ngồi bên bàn, thấm nước bọt vào đầu bút chì, hí hoáy viết toa thuốc bắc. Có vài lần ba cất cây viết bic, viết máy paker trong túi áo sơ mi trắng, mực chảy ra túi áo, giặt tẩy không hết. Từ đó ba không cất viết trên túi áo. Ba đeo mục kính lão, chỉ còn một gọng móc vào bên tai. Mỗi khi nói chuyện, cái kính nhúc nhích. Bên không gọng xệ xuống gần ria mép. Bên có gọng kéo ngược bên không gọng lên. Khiến cặp kính có đường chéo xệch trên mũi. Trông thật tức cười. Ba nói sẽ làm mắt kiếng khác. Thế mà bận rộn, ba chưa thay được. Tôi cười tươi, nhìn dáng nghiêng nghiêng rất đẹp lão của ba.
Ở Tùng Nghĩa thỉnh thoảng lên Đà Lạt, ba đi thăm người nọ người kia, cả tuần mới về. Ba là người đàn ông tao nhã, hiếu khách, nhất là rộng lượng, thương người và hào phóng kinh khủng. Năm 1947, ba đem theo 700 đồng Đông Dương về quê, số tiền nầy vào thời buổi đó lá quá lớn. Thấy xóm làng nghèo khổ, ba cho họ hết tiền, và cho luôn bốn va ly áo quần. Ba chỉ mặc mỗi một bộ đồ về nhà, xách chiếc cặp da cũ xẹp lép, chiếc cặp suốt bốn mươi năm không rời. Trong nhà kinh ngạc, lo sợ, tưởng ba bị cướp. Ba chum chím cười nhân hậu, nói:
- Ba đã làm phước mà!
Bạn bè ba là giới lương y, thương nhân, chủ trại cưa, có tiếng tăm trong thành phố. Trong mắt ba thoáng vẻ tinh tường, phóng khoáng, khôn ngoan, đắn đo, đỉnh đạt của người giàu kinh nghiệm, qua thời trai trẻ lẫy lừng. Ba hào phóng và giàu tình bác ái, (mà trong nhà tôi nói là ba ưa “dzợt le, huênh hoang”. Ba chuyên môn “tào lao xịt bộp” dễ xiêu lòng). Con phục ba quá! Có khi vui miệng, tôi hỏi ba:
- Sao ba không bồn chồn, lo lắng, vì bao năm nai lưng ra, tạo dựng cơ nghiệp. Bỗng chốc tiêu tan hết. Mà, ba vẫn điềm nhiên như vậy? Ba!
Ba nhìn con gái, điềm đạm cười:
- Đến tóc ở trên đầu, bỗng chốc nhìn lại, đã bạc mau, rụng gần hết, chỉ còn lơ thơ vài sợi. Còn rồi mất. Mất tất cả. Tóc trên đầu chưa giữ được. Nói chi chuyện giữ lại tiền của. Con!
Công nhận ba là vị thầy thuốc khá giỏi. Uống đến thang thuốc thứ tư, tôi ăn nhiều, ngủ nhiều, sau hơn hai mươi mốt ngày đêm thức trắng. Còn má của tôi uống qua thang thuốc đau lưng, má đi đứng dễ dàng. Nên cu tí nhà ta, càng ngày càng tròn vo, như hột mít. Con bú, rồi lăn ra ngủ suốt ngày, không biết chán.
Thời gian qua nhanh, trải qua mười năm sau. Nhân mùa nghỉ hè, ở nhà có tôi lo trong ngó ngoài. Thứ và ông ngoại đi suốt mấy ngày, lo mua vật liệu làm cái nhà thứ bảy. Thứ rất tháo vát và tôi hưởng ứng chồng, từng nổi tiếng trong họ hàng là “Người Lái Nhà”. Chúng tôi cứ làm nhà nầy. Bán nhà kia. Buôn nhà nọ mà! Từ ngày cưới nhau đến nay chúng tôi đã có tám cái nhà. Từ nhà ván gỗ, lợp tôn nhảy lên nhà xây một tầng lầu. Rồi nhà ngói hai ba tầng lầu đổ bê tông cốt sắt khang trang
Hai cha con thay phiên nhau, trông coi thợ thầy. Nhiều ngày tự tay ba xây xây, tô tô cưa cưa, bào bào, đóng đóng. Phải nói là ba rất khéo tay, từng đường nét sít sao, vừa mộng, chắc chắn và đẹp mắt. Coi rất nghệ thuật và thẩm mỹ.
Thỉnh thoảng nghỉ tay, ngồi xổm trên nền gạch mới, ba vấn điếu thuốc rê, bập bập vài hơi. Ba nhâm nhi ngụm trà Ô Long. Thấy cháu nhìn, ông ngoại chìa ngón tay út lên. Bé Huy một tay ôm trái dừa xiêm, tay kia nắm ngón tay ông ngoại. Ơ hay nhỉ! Sao có nhúm tuổi mà bé Huy biết thò tay vào túi áo ông, móc tiền ra, cười tít mắt:
- “Chiền…! Tiiềnn...mẹ ơi”
- Cháu trả tiền cho ông. Cháu chưa biết xài tiền.
Bé Huy lắc đầu, bước đến đưa tiền cho mẹ. Khiến cả nhà cười to.
Ba anh em ngồi xem ông ngoại làm việc. Dzũng, Tuấn, Huy, mỗi đứa một quả cà chua mọng đỏ, bóng láng, chúng cắn quả ăn ngon lành. Huy ngửa mặt lên trời cười tươi, lộ ra hai cái răng sún ở cửa hàm trên. Hồi đó con bị té dập mặt vào cạnh ghế, gãy lìa hai cái răng cửa. Máu phun có vòi. Nay chỉ còn mấy chiếc răng hàm lưa thưa, bé tí xíu, lấp ló trên níu hồng ươn ướt.
Chỉ vì các con nghịch kinh khủng! Trong phòng khách có cái radio Philipe mới mua. Chờ khi ba mẹ đi làm vắng. Ở nhà với bà ngoại, ba anh em thì thầm xúi bảo nhau quậy. Dzũng leo lên ghế, rồi leo lên bàn. Chú bé vói tay qua trên tủ gỗ cao, kéo cái radiô xuống nền gạch.
Thế là ba anh em lấy búa, lấy kềm, lấy cây đinh vít, mở ra xem. Huy ngồi trước ổ cắm điện, nó lấy cái kềm kẹp chiếc đinh, chọt vào ổ cắm. Bị xẹt lửa, thằng bé giật nẩy mình văng ra góc nhà. May mà cái kềm có nắm cầm dài bằng nhựa, nên không bị điện giật. Nguy hiểm hết sức. Chúng tò mò muốn biết:
- Có ai ngồi ở trong radiô mà ca hát? Họ nói suốt vậy?
Cái radiô bị phá tan tành rồi. Một lần khác, Thứ có cây đàn Hawaii hai cần, anh đặt mua hai chục ngàn đồng. Số tiền rất lớn, (Hai người đi làm, một tháng chưa có dư tới ba ngàn bạc. Vợ chồng dành dụm cả năm, mới mua được cây đàn). Khi vắng người lớn trên phòng khách, ba anh em lại rù rì với nhau (Tuấn luôn luôn xúi anh). Dzũng lấy cây đàn còn lòng thòng dây điện ra. Huy đã có kinh nghiệm về vụ ổ điện xẹt lửa, vẫn chưa thất kinh. Huy cầm cái cán chổi phất trần dài, ngồi từ đằng xa, con giơ cây chổi thọt vào ổ cắm điện, để giật dây điện ra. Cũng như lần trước, cả ba anh em xúm lại, giựt dây đàn, đập tháo tung hết.
Thứ đi làm về, thấy cây đàn qúy giá bị hư tan tành. Lần nầy anh không tha tội các con nghịch phá nữa. Anh lôi cả ba đứa con ra, đánh cho một trận nên thân. Sau khi bị ba nó phạt qùy gối, tôi dắt từng đứa tới những ổ cắm điện, răm đe, chỉ dẫn, dặn dò từng tí. Tôi cấm tiệt các con không được béng mảng đến gần các ổ điện.
Hơi thở âm ấm phả ra từ cánh mũi phập phồng, làm nồng thêm từng tế bào trong lòng mẹ. Bé Hoàng đang bú, lại nhả vú ra, với tay lấy mấy thứ đồ chơi. Bé Hoàng nắm lấy, kéo về miệng, bập bẹ tập nói, phun cả nước bọt ra. Hoàng lại buông đồ chơi ra, nắm ngón chân cái mủm mỉm, giơ lên, đút vào miệng con gọn gàng.
Tuấn vừa quệt nước mũi vào ống tay áo, hỏi:
- Ba ơi! Con gì chia chìa?
- Kia là con dê.
- Con dê, "sủa" be be be.
- Bậy nào. Con chó mới sủa gâu gâu… Còn con dê thì kêu be be. Nhe.
- Con dê "chêu" be be.
- Con nói lại cho ba nghe nào: Kêu. kêu.
- Chêu. Queo. Keo... Con nói được: Con gà cục tác, ò ó o. Vịt cạp cạp rồi.
- Ừ, thì giỏi. Con phải tập nói cho rõ. Không nói ngọng. Kỳ lắm.
- Queo. Chêu. Quêu.
- Ui chà. Nói như ông kẹ. Í dà!
Cả nhà cùng cười vang. Các con được ông bà ngoại, cưng hết biết. Lỡ có con muỗi rừng chích vào, làn da các con còn non nớt, bị sưng u đỏ lên một cục. Thế là ba mẹ giận nhau vì chuyện… con muỗi. Rồi chúng tôi lại vui vẻ làm lành với nhau, về bao chuyện các con hồn nhiên, ngây ngô, vô tư nào đó.
Ông ngoại đóng cho mấy hộc ngăn, năm ổ gà ấp trứng trên kệ gỗ, mặt dáo dác. Gà mẹ xù lông chuyền hơi ấm và sức sống, từ thân thể mỗi ngày một héo hon vào quả trứng. Gà làm nhiệm vụ nối dòng chu đáo, đều đặn, say sưa, quên ăn quên uống. Tôi cho chúng ăn lúa, uống nước lạnh. Mỗi lần con gà mẹ nhảy khỏi ổ, thì nó mổ lấy mổ để, cổ ngẩng cao, xù bộ lông phù to, “tục... tục... tác” inh ỏi.
Ánh mặt trời xiên bóng cây trên cành thông, hắt mấy chiếc bóng, đổ dài xuống sườn dốc. Nắng yếu ớt ẩn mình sau màn voan sa mù mờ nhạt. Mặt trời từ từ lặn trên lòng hồ, nhìn từ xa, như chiếc dĩa vàng khổng lồ nhúng vào hồ nước. Mọi vật lung linh mờ nhoà. Trông thật mơ hồ.
Nhiều lúc tôi thấy mình già đi, không phải vì đã sống đến tuổi già, dẫu đôi mắt đẹp, đuôi mắt có dấu chỉ đã bắt đầu dài theo tháng năm qua. Vai trò làm mẹ lúc nào cũng vui buồn lo lắng, bồn chồn bận rộn nhiều công việc đa đoan.
Tề gia nội trợ chất chồng, tôi lại đi dạy học lu bu. Khiến đôi khi tôi cảm thấy gay gắt, bực bội, già nua hơn. Ít khi hồn nhiên, tươi trẻ như ngày còn độc thân.
Khi tiếng "Ngoại, Ba Mẹ và Con" vang lên trong lòng, nó khẽ rung nốt nhạc êm ái, ngân dài. Như tiếng chuông vàng âm vang, quẩn quanh trong trái tim nồng cháy.
Tạo thành niềm vui tuyệt vời tràn ngập. Hạnh phúc trào dâng, xếp lớp lăn tăn trong vòng tay ấm dịu, ngọt ngào của ba má. Làm an thư. Thinh lặng. Phẳng phiu trong đời con, bao đắng cay cuộc sống.
Con xin cám ơn cha mẹ vô vàn. Các con xin ghi nhớ công ơn dưỡng dục của mẹ cha. Suốt đời.


_ * _

Kính mời quý độc giả xem tiếp chương 20
Trân trọng,
Ái Ưu Du
Ái Ưu Du
#144 Posted : Saturday, October 6, 2007 12:36:37 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

Con Đường Cảo Thơm

Chương 20

THƯ TÌNH TRI NGỘ






Khí hậu ở Đà Lạt vào mùa Thu thật dễ chịu. Không khí thoáng mát, lâng lâng trong lành ấm dịu khôn tả. Tia nắng bình minh hay hoàng hôn đều nhuộm thắm mặt hồ, tạo thành màu vàng óng, sang sáng như tráng men bạc. Những con đường rất rộng uốn lên uốn xuống nhấp nhô, len lỏi qua bao đồi thông xanh ngút ngàn. Mang dáng dấp sang trọng, thấp thoáng nhiều ngôi biệt thự xinh xắn có đèn xanh đèn trắng đèn vàng muôn vẻ, muôn hình dáng yêu kiều đứng riêng trong từng thổ cư. Có bao chiếc xe nhà bóng loáng, đi về lả lướt, càng tô điểm cho bộ mặt thị thành nên thơ hơn.
Phải! Mọi sự đã khởi sự bắt đầu, cũng như chấm dứt từ đây. Từ thành phố Hoa Đào duyên dáng thơ mộng nầy. Từ con đường mòn uốn khúc dưới rặng thông xanh ngút ngàn, dẫn đến ngôi trường thân quen, suốt năm niên khóa. Phiến trời xanh xanh lộ ra dưới kẽ lá rì rào. Bóng râm trên đỉnh núi dài hẳn ra, báo hiệu một ngày nữa, hoàng hôn sắp lụi tàn. Quỳnh thấy quắt quay niềm nhớ nhung, dù rằng cô còn đứng trên con đường thân thuộc cũ, và sẽ do dự bùi ngùi lúc chia xa.
Cái biệt danh đồng nghiệp đặt cho Huỳnh thị Xuân Quỳnh, “Người đẹp mắt buồn rất bình thản”, được bạn trai hân hoan tán thành. Riêng hai “cô gái già” không vừa lòng. Họ làm bộ làm tịch ư hử trong cổ họng, rồi vội quay đi, hai cô nh ìn nhau hất mặt liếc nhìn về Quỳnh bĩu môi. Nét mặt Quỳnh tỉnh queo, dù lúc đó Quỳnh vui, buồn, đi chăng nữa. Cô biết cuộc sống khá tàn nhẫn, nếu chỉ có dũng khí không thôi, mà không đủ kiên nhẫn và minh định con đường riêng ta, thì chưa chắc gánh nỗi mọi đắng cay, cơ cực cuộc đời.
Thế nên Quỳnh ung dung, không muốn nói là bình thản trước mọi biến cố chung quanh, và chính mình. Cô biết, nếu đối lập với quan điểm, hay có ý kiến, ý cò với người khác, thì cô bị xem là khuynh tả. Không có ý kiến, cũng bị coi là khuynh hữu. Thôi mặc sự đời, cô sống cho chính mình, với nhu cầu nội tại, sức mạnh nội tại, và, vẻ đẹp nội tại, là đủ.
Ở đời, ai cũng có nhân sinh quan riêng. Mỗi buổi sáng thức dậy, Quỳnh đọc một đoạn kinh thánh. Buổi tối trước khi lên giường, nàng đọc một đoạn kinh thánh. Thế là nụ cười hồn nhiên tươi nở trên môi, thoáng hiện nét an bình, qua đôi mắt đẹp ngẩng nhìn, và an thư trong giấc mộng.
Tình thân ái giữa bạn bè thân hữu, phụ huynh, học sinh, theo thời gian tăng trưởng vui vẻ. Thật đáng sống. Các bạn thương Quỳnh, một phần dựa trên tính tình cô hòa nhã, đằm thắm, duyên dáng. Phần khác trong Quỳnh tiềm ẩn, súc tích, giàu chất thơ, nên cô khá lôi cuốn họ. Mặc dù họ có cuộc sống khác cô. Tuy thế, không có gì trở ngại trong tình bạn đầy thông cảm và thấu hiểu.
Các cô gái ở cạnh nhà nhau, nhưng dạy khác buổi, nên cô nầy đi dạy, thì cô khác ở nhà, kể như ít gặp mặt nhau để,tỉ tê chuyện trò. Anh Thư dạy buổi sáng. Quỳnh dạy buổi chiều. Hai cô chung một phòng học, cùng sử dụng bàn, ghế, tủ. Mỗi lớp trang trí một bên tường, treo thời khóa biểu, tranh ảnh riêng. Có hai chìa khóa lớp, và chìa khóa tủ riêng, để đựng dụng cụ thính thị chung.
Việc đầu tiên khi vào lớp, Anh Thư cất xách tay, dù, ở trong tủ, cô đem sách dạy trong ngày, vở soạn giáo án, dụng cụ thính thị cần trong buổi dạy. Những cuốn tập học sinh làm bài ngày hôm trước. Tất cả bưng lên bàn cô giáo xong. Anh Thư kéo ghế ngồi. Trước hết, Thư mở quyển “Bút Ký của Chúng Mình”, chỉ có hai cô đọc và viết cho nhau. Chẳng hạn như:
Quỳnh ơi! Ngày 28/9 Hội Thuyết Giáo Khoa. Lần nầy Quỳnh phải dạy mẫu cho giáo chức toàn Tỉnh và Thị Xã xem đó nghe.
- Sau khi đi Hội, Họp xong, Quỳnh nhớ kêu Thu, Hạ, Cúc, đến nhà mình ăn bánh xèo, bánh căn nhe.
- Ngày mai dạy xong, là mình lên xe “chuồn” về Đà Lạt trước. Về sau vui vẻ nhe. Bồ tèo! ”.

Đôi khi đọc chuyện Quỳnh viết, Anh Thư vui hoặc buồn bã bâng khuâng thế nào ấy. Một hôm, Anh Thư đọc lời tâm tình cùng bạn như sau:
. . . “Tháp chuông nhọn hoắt của ngôi giáo đường đâm thủng nhiều tảng mây trắng, xôm xốp, bồng bềnh, vỡ thành triệu giọt nước, hòa vào sương giá, và tiếng chuông càng thánh thót, ngân nga, báo hức bình minh bừng dậy. Quỳnh nao nao nghĩ về… mối tình của mình. Bắt đầu từ các câu đối thoại với chàng:
- Anh là sĩ quan cao cấp, chỉ huy trưởng trên thượng nguồn, đóng trong rừng sâu, toàn thác nước và suối ngàn. Ở đó, chỉ có chim, khỉ, cọp và voi… Làm gì có trường học, dân cư, mà anh nói với Quỳnh là: “Anh xin phép mẹ Quỳnh, yêu cầu em lên đó dạy học? ha”?!
- Á… Vấn đề là nơi đó có đồng bào, dù tận rừng sâu nước độc thật. Em sẽ là hoàng hậu rừng xanh của các em bé thơ ngây, chất phác, hiền lành và giản dị nhất. Nhe!
- Rừng sâu nước độc, chỉ có sốt rét. Ai dám ở.
Anh sẽ cố gắng quy tụ dân cư, đem lại bình an cho từng thôn, xóm. Rồi thì… sau khi bình định, em sẽ ở nhà, dạy dỗ cho chính đàn con nhỏ xinh xinh của em, tạo thành một lớp học.
- Ô! Anh ví em như bà Âu Cơ, làm mẹ trăm con. Anh đùa dai thế.
- Anh không đùa. Anh nói rất thành thật.
Anh Thư ơi! Q. nghẹn lời vì xúc động. Sự ấm dịu bất chợt không có gì cưỡng nỗi, khiến Quỳnh điếng lặng và lịm người. Biết trả lời thế nào? Tiếng hót tình yêu đầy tình âu yếm đã đến. Mình đưa tay ngắt cánh lá vàng màu vương giả, không cảm giác đau nhức nơi bàn tay bị gai hồng đâm chảy máu. Mả cảm thấy vết thương sâu đậm rưng rưng ở trong lòng.
Như nhà địa chất đào bới lớp chert, ngọc thạch lựu, kim cương… Q. luôn hoài tưởng, mơ mộng, mong bắt gặp hình ảnh thân yêu, ngọt ngào xiết đỗi, đã một thời làm chao đảo lòng ta. Q. có muốn yêu người đã có vợ đâu. Có muốn buồn nhớ và tủi hờn. Nhưng… Tự nhiên định mệnh run rủi, lại yêu say đắm và khổ lụy.
Dòng suy nghĩ miên man, choáng váng liên miên, giờ Q. hiểu dưới lớp vỏ trai mong manh, còn ẩn dấu sự sống thực, là cuộc chạy trốn bản ngã mình, trốn nhân sinh quan ẩn dấu trong lớp vỏ số phận. Nó gỏ trong tim Q. đau nhức khốn cùng, không sao tả xiết.
Khác nào Q. tự buộc chặt với chàng, như con tằm nhốt mình trong kén để nhã tơ, ấn tượng trong ký ức bỗng sống động, xúc động, vì đường nét hòa nhập thân quen, vang dội lại lòng mình muôn vàn yêu thương, kiều diễm một thời. Kể ra cũng cần đem cuộc đời vô duyên, cuộc tình đen bạc và hờn tủi của mình, kết tụ thành một hình hài bé nhỏ trong bụng.
Bây giờ, Q. muốn quên, dùng tất cả tình cảm cho con và học sinh. Nói thì dễ, không có nghĩa là quên ngay cuộc tình buồn, không hy vọng. Là hết yêu, quên sự ra đi, trở v. Đi về chua chát, phũ phàng dường bao trong hồi ức. Tựa như sự có mặt của Bá bên bờ nhánh sông không tên, khi thuyền tình ghé lại.
Mất hết rồi bao thi vị, và ý nghĩa từ chiếc bóng yếu ớt, lung linh như nụ cười méo mó nở trên mặt nước xô sóng. Chiếc bóng chập chờn lúc trời choạng vạng tối, thành lớp mạng nhện, phủ chụp lên mình sự mù lòa buông thả.
Khi tưởng tượng Bá sống với vợ, (dù anh bảo gia đình không hạnh phúc. Q. đồng ý không hạnh phúc, nhưng anh đã tạo ra gia đình đó. Anh phải có trách nhiệm bảo vệ và vun đắp. Không vì lý do gì để anh ta chối bỏ, để cao chạy xa bay). Tuy nhiên, Q. nghĩ đến hoàn cảnh mình, sự so sánh ấy khiến Quỳnh không thể vô tư, nhất là sau nầy, Q. biết Bá không chỉ có bà vợ bé, và nhiều cô bồ nhí khác. Q. không thể vô tư, bình thản. Thật tuyệt vọng dường bao!
Thiên kiến tình cảm đầy ngang trái. Con thuyền yêu không làm bàng ván ghép, che nắng che mưa, chống chọi lại bão táp phong ba cuộc đời, mà như chiếc bóng bay giữa trời, hết chất thơ và trí tưởng tượng lãng mạn. Q. âm thầm rút lui, ra khỏi đời anh. Cuộc tình như bong bóng đã mọc thêm hai cánh bay vút đi, quá đỗi là nhanh. Chẳng nên tiếc nhớ, mà phải ngậm ngùi, điếng lặng. Thôi.”

Anh Thư đọc mãi lời tâm sự trong “Bút ký của chúng mình”, rồi xếp tập lại, để trong hộc bàn. Vào giờ ra chơi, cô ngồi trong lớp, hồi âm cho Quỳnh:
Xuân Quỳnh, bạn thân mến!
Chúc mừng bạn có những suy nghĩ chính xác. Không ai có lỗi cả, trong viêc để lại một góc tâm tư mình, chút ước nhớ luyến mong, về thời vàng son xa xưa. Số phận đã tước đoạt trên tay ta niềm hạnh phúc bé xíu, mà định mệnh đã an bài vào mùa Thu năm kia, cho hai người gặp nhau, như trong câu chuyện huyền thoại, và yêu nhau. Chính là vì biết không phải là chuyện thần thoại, nên con người ai cũng có đôi lần vấp ngã.
Câu chuyện về cái góc thiên đường của Quỳnh và Bá, thật là kỳ. Quỳnh như con chim non, vừa bay ra khỏi tổ, cuộc sống tưởng bình yên phẳng lặng. Nào ngờ đã khắc ghi vào lòng quá đỗi buồn phiền. Nó vẫn ngấm ngầm theo mình sát nút, kèm những tiếng hót tuyệt vời, đầy tình âu yếm, ngọt ngào hương vị mùa xuân, đầy quyến rũ. Quyết định nên hay không, vẫn do lòng ta, tùy ở cường độ yêu thương và sự cứng rắn mỗi người.
Tiếng hót ân tình vẫn lách qua kẽ lá rì rào, vang lên giữa đám lá xanh, tình yêu theo không gian và thời gian, sẽ xuất hiện trở lại tươi xanh hay úa vàng? Màu vàng lá thu phong, có khác với màu lá vàng của hoa mimosa. Có ai nói hai màu lá vàng khác nhau, sẽ không cùng một mùa làm rụng lá chia phôi?!”…

Đôi bạn thường say sưa viết trao đổi đủ thứ chuyện linh tinh, về kinh nghiệm nghề nghiệp, bản thân, chuyện đời phức tạp, viết cả những tập tục kỳ lạ của nguời kỳ lạ, nơi xa xôi kỳ lạ. Đó là những giờ phút ấm lòng, tuyệt diệu nhất. Họ đến với nhau trong tình tri ngộ.

_ * _

Kính mời quý độc giả xem tiếp chương 21
Trân trọng,
Ái Ưu Du
Ái Ưu Du
#145 Posted : Tuesday, October 9, 2007 1:50:47 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

Con Đường Cảo Thơm

Chương 21

MẸ TỪ NHÂN DẤU YÊU







Bầu trời sau khi tráng nước mưa trong suốt như pha lê, các mái nhà như kỳ cọ gội rửa sạch bon. Con đường nhàng nhạt, cành cây ngọn cỏ màu xanh thắm loáng nước. Lưng trời sáng bạc ngất ngây đầy rung cảm, điễm vài hoa mây phớt hồng thấp thoáng, trôi nhè nhẹ như bong bóng mây bay lơ lửng giữa bầu trời rộng thênh thang.
Tôi rất mừng khi má ở Tùng Nghĩa đến thăm, có má ở lại giúp con, chăm nom các cháu, là tôi rất an tâm. Mỗi lần đến thăm, má mang rất nhiều quà bánh, khệ nệ bưng hết giỏ nầy, đến giỏ khác, thậm chí cả gạo, rau, cá, thịt, tôm, vân vân… Có bao nhiêu tiền dành dụm, má trút hết cho con, nhất là bà cưng các cháu ngoại hết sức, dù chúng rất quậy, khiến ngoại mệt phờ người.
Má cầm cái quạt, quạt cho mình và quạt cho con, cháu. Trời Đà Lạt khá mát. Má dùng quạt, đủ biết má mệt đến đâu. Tôi muốn khóc hết sức, khi ngồi cạnh má. “Lên non, mới biết non cao. Nuôi con, mới biết công lao mẹ hiền” là thế. Má rất thích xức dầu Nhị Thiên Đường. Nhìn vẽ già nua hiện lên từng đường nét rõ ràng, khuôn mặt già và mỏi mệt, mái tóc điểm muối tiêu, vành miệng móm mém, má ưa nhai trầu dập từ cối đồng nhỏ xíu, cầm lọt trong lòng bàn tay. Đôi mắt má thoáng mầu nâu, hấp háy sau làn mi dài lưa thưa, có cái nhìn ấm áp, chuyển thành niềm vui dạt dào, bộc phát mừng rỡ:
- Đói lắm hử? Mẹ cháu về rồi. Ù ơ... tham ăn y như mạ mi hồi nhỏ hè.
Bỗng dưng tôi nhớ lại thời niên thiếu, quá đỗi xa xôi, thuở con chim non vàng mỏ tham ăn kia. Ngày ấy, gia đình ba má sống tại ngôi biệt thự La Rose ở đường Quang Trung, gần nhà Ga xe lửa Đà Lạt. Tôi diện quần sa tanh trắng, áo dài nhung đỏ, do mẹ tự cắt may. Tôi mang hài cườm cùng màu với áo, đầu đội nón lá mười hai vành, do mẹ chằm. Cổ đeo kiềng vàng chạm trổ thẫm mỹ, vai tôi đeo chiếc bóp đầm đỏ. Hai mẹ con ngồi xe kéo đi chợ Đà Lạt mua sắm đồ Tết suốt ngày.
Trước khi mua sắm, má cho tôi ăn bánh bèo xong, tôi lại lết qua hàng mì quảng ăn no nê. Sau đó hai mẹ con chen lấn vào chợ vải và quần áo, giày dép.
Tôi bị người lớn chen lấn nên tụt lại đằng sau, kẹt giữa làn sóng người đông như kiến. Hốt hoảng, tôi vừa khóc vừa kêu "Mạ ơi! Mạ". Tay nắm chặt lấy tà áo dài của má, tôi kéo mạnh lại. Dù rách toạt mất một thân áo, má tôi không hề la rầy, hay giận dữ. Má đằm thắm bế con lên, cùng với hai giỏ xách quà đầy, má móc vào khuỷu tay.
Lúc về, má mua cho tôi mấy bịch bánh thuẩn, nải chuối cau, chén chè đậu xanh đánh, và mấy cái bánh cam. Ngồi trên xe ngựa, tôi gặp hai mẹ con Mai, (Mai thường gọi ở nhà là Bê, bây giờ Mai đã có chồng con, mở tiệm ảnh trên phố). Tôi sung sướng chia sẻ cùng bạn ăn quà, và chuyện trò huyên thuyên. Mai cho tôi một món đồ chơi xinh đẹp. Nhưng, về nhà đồ chơi cũng không quyến rũ con bé, mập tròn giống hột mít như tôi (vì háu ăn), tôi quanh quẩn bên chân má, líu lo hỏi chuyện:
- Mạ nấu phở, cho cả nhà ăn ha mạ?
- Ừ. Ra ngồi sân chơi đi. Ây. Coi chừng bị phỏng lửa.
- Chín chưa mạ?
- Chưa được. Coi chừng phỏng nước sôi.
- Được chưa mạ?
Sốt ruột, do cái tật mê ăn của con, nên mạ đã làm trước cho tôi một tô. Tôi nhón chân, bốc nhúm hành ngò trong dĩa ở trên bàn. Tôi chạy theo mạ, đến bên góc đi văng, tôi bỏ đầy hành ngò vào tô. Tay cầm đủa tay cầm muỗng, tôi cúi xuống thổi tô phở phù phù. Nước miếng ứa ra miệng, bụng tôi sôi lọc ọc. Tôi cảm thấy đói cồn cào vì mùi thơm ngạt ngào:
- Mạ cho con căn thiệt no. Nghen. Con đói.
- Để nguội đã. Ăn từ từ thôi. Ngán tới con mắt chừ. Chớ tham ăn chi he.
- Con ăn từ từ, cho đến khi nào, no tới con mắt, thì thôi. Nghen mạ.
Má phì cười, nguýt yêu con gái tham ăn. Qua nửa tô phở, tôi buông đủa, hét to:
- Chết con rồi! Ơ hơ! Cay quá! Mẹ ơi. Mẹ.
Tôi đã gọi tiếng “mẹ” thay “mạ” từ lúc đó. Cay thật. Cay đến nỗi hai lổ tai tôi lùng bùng, môi miệng đỏ chót, phồng rộp lên. Mắt tôi thấy sao bay trong màng lệ, đầu lưỡi nhứt nhối, rát bỏng. Tôi hoảng hốt chạy quanh nhà, vừa kêu vừa khóc. Tôi bức tóc bức tai, rồi chui xuống gầm bàn, nằm lăn lộn trên nền gạch hoa. Tôi lại bò ra chui mấy vòng qua hai ống quần má. Tay tôi thọc vào miệng, cào cào lưỡi, phun nước miếng phì phì. Hai cánh tay tôi quệt nước mắt.
Khổ nỗi, ớt dính mấy đầu ngón tay, càng cay mắt hơn. Tôi kêu khóc inh ỏi, mũi dãi lòng thòng. Chỉ vì mắt nhắm mắt mở, tham ăn quá, tôi không thấy trái ớt xiêm xanh lẫn trong hành ngò. (dù mẹ tôi có ý để ớt qua một bên dĩa to). Mồ hôi vã ra trên trán tôi như tắm, mặc dù trời khá lạnh.
Mẹ vội lấy nước lạnh khuấy chanh đường, bế con vào lòng, cho con súc miệng nhiều lần, nhổ ra. Má xổ tóc ra, lấy đuôi tóc lau trên đôi mắt con. Mẹ lấy khăn ướt lau mặt mũi, vạch vú da của mẹ cho con mút, mặc dù con khá lớn khôn. Có bầu vú mẹ, tôi dịu cơn đau. Khiếp quá. Cay kinh khủng!
Ôi! Lần ăn phở, muôn đời ghi nhớ ấy, nó ớn lên tới con mắt thật. Mà mẹ yêu dấu, là người họa sĩ tài ba đầu tiên, đã âm thầm vẽ nét ngây thơ, hồn nhiên duyên dáng vào trong tâm hồn con tươi trẻ hình ảnh bất diệt, nên thơ, trong sáng thân thương ấy, từng ấp ủ nơi con đây, thời xuân trẻ luôn khát khao niềm tin yêu, chưa làm quặn thắt lòng con. Một tình mẫu tử bất diệt và bao la, co xiết thành khối mật, vừa dịu êm ngọt ngào, vừa nồng nàn men say say, trào dâng lên bờ môi ngọt lịm, từ bầu sữa mẹ tinh tuyền ngát hương.
Trái tim con thèm khát nhịp đập cuồng quay, trong lồng ngực phập phồng, bồng bềnh chơi vơi, trên con sóng biển yêu thương, mệt nhoài rong chơi. Mẹ thân yêu! Mẹ nâng niu giữ gìn cho con bao kỷ niệm yêu thương, đậm sâu, dạt dào ân tình mặn mà thuở thiếu thời. Đôi mắt con lẫn vào lòng mắt mẹ, ẩn chứa tất cả niềm vui, tuổi thơ trong sáng ấp ủ thầm lặng, nó vừa hiền, vừa lành, vừa vui, và trọng lượng tình yêu trong lòng mắt mẹ dành cho con, muốn vỡ thành muôn hạt nước tròn trịa, li ti lăn tăn trĩu nặng bờ mi, trôi đến tận cùng tơ rung suy nghĩ, làm gợn sóng lăn tăn, lung linh, chơi vơi trong từng tế bào con run rẩy.
Hạnh phúc vô ngần, khi con trở về trên dáng xưa yêu kiều, đầy hoa mộng đó. Chao! Dòng đời xuôi ngược nhiều ước mơ, hoài bão, hy vọng dạt dào, tràn đầy mộng đẹp, vụt tan biến quá đỗi là nhanh. Và, con không khỏi kinh ngạc, khi nghe mẹ nhắc khéo chuyện con tham ăn, đã lẫn vào lòng thời gian lúc nào chẳng rõ. Hẳn là mẹ đang nghĩ đến:
- "Cho con ăn phở, đến khi nào con no, lên tới con mắt thì thôi"?!
Vui tột độ, khiến tôi dại người đi giây lát, bỗng quay qua nhìn mẹ đăm đăm, và tôi toét miệng cười ngất. Mẹ nhìn con gái mỉm miệng cười đôn hậu, hòa ái. Thật đáng yêu xiết đỗi đôi mắt đầy bao dung, thông cảm và thấu hiểu của mẹ biết ngần nào!
Bầy thiêu thân quay cuồng quanh bóng đèn dầu lửa, vòng quay mỗi lúc một nhanh, dần dần thu nhỏ lại, sau cùng bị hút vào ống thông hơi. Cuộc khiêu vũ điên cuồng trong ánh lửa, thật sự chấm dứt bằng tiếng nổ nhỏ từ ánh lửa xẹt ra. Sự chết nhanh chóng, bất ngờ quá đỗi. Ngọn đèn chong suốt đêm, mỏi mệt khô dầu, sắp lụi tàn. Tim đèn nở hoa vàng bập bùng, theo ánh sáng yếu dần dần.
_ * _

Kính mời quý độc giả xem tiếp chương 22
Trân trọng,
Ái Ưu Du
Ái Ưu Du
#146 Posted : Wednesday, October 10, 2007 4:15:50 PM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

CON ĐƯỜNG CẢO THƠM

Phần Thứ Ba

Chương 22

TRÀM MÂY






Đồi cỏ mượt mà, ướt đẫm sương giá, long lanh trên từng ngọn lá. Trầm Mây thích vuốt những túm cỏ dày mát rượi, để rửa hai bàn tay. Mặt trời mùa Thu chiếu ánh sáng yếu ớt, ảm đạm xuống ngọn đồi mọng nước bên góc hồ Lãng Ông, trông thật lạnh lẽo, đơn điệu. Mây trắng bay bay cuộn từng cụm, in bóng xuống gương nước trong veo, đầy chỗ trũng.
Trầm Mây thấy rõ bóng mình in xuống trũng nước, lúc áng mây bay đi. Mai đây, khi mùa Xuân về ấm áp, nắng sớm chan hòa, xua tan giá lạnh, vũng nước sẽ khô, áng mây bay ngang lưng đồi, không in bóng xuống trũng nước lấp loáng nữa. Chưa chắc có nhiều áng mây, cuộn từng cụm như đàn cừu, ngập ngừng quay lại chốn nầy, mặc dù mây bay ngàn năm. Còn chăng, là đọng lại đáy lòng người, sự thờ ơ lãnh đạm, vượt lên mọi cảm nghĩ, về không gian và thời gian, để ...
Trong số giáo học cấp bổ túc mới ra trường năm nay, có một thanh niên, người dân tộc Ralđê bảnh trai, ăn mặc lịch sự, văn minh, tế nhị, tên Cilbebi, nói tiếng Pháp như dân Tây, anh đã học trường A’ Dran Đà Lạt thật.
Có một lần, đứng giữa đám đông chen lấn, trong văn phòng Ty chật chội. Cilbebi bị lấn đến gần bàn giấy, chiếc xách tay của Mây rơi xuống đất, Cilbebi cúi xuống nhăt. Đồng thời, Mây thò tay lượm, cô đụng phải tay chàng. Anh cầm xách tay lên, mỉm cười:
- Xin lỗi cô. Một việc ngoài ý muốn.
- Không có chi. Cảm ơn anh.
- Làm ơn chỉ giúp, cô Trầm Mây là ai?
- Dạ, là tôi.
- Tôi là Cilbebi. Giáo học cấp bổ túc, mới ra trường. Hân hạnh làm quen với cô. Cô vui lòng cho tôi xin mẫu thống kê: Nhân viên. Trường. Lớp.
Đưa mấy tờ mẫu Cilbebi cần. Mây kín đáo quan sát chàng trai, anh lấy bút mực paker ghi vào tờ trình. Có lẽ anh có vợ, vì cô thấy ngón tay anh đeo nhẫn tròn. Mây e dè hỏi:
- Không thấy anh ghi nơi phần gia cảnh?
- À phải. Tôi quên mất. Hèn gì tôi thấy, nó cứ thiếu thiếu một cái gì. Không nhớ ra.
- Quên gì, chứ quên mình có vợ, bị bà xã giận lắm nhe.
- Ấy thế mà, tôi quên thật đó. Tôi đi học xa gia đình khá lâu. Không hân hạnh đi cưới vợ, biết mặt vợ đâu mà... nhớ mình có gia đình chứ.
- Thế à, anh ghi thêm mục nầy vào, cho tôi... nhờ.
Hai người cùng cười, nụ cười mang tính chất “xã dao, xã búa” đầy bóng gió. Họ lặng lẽ nhìn nhau, tò mò nhìn ngắm nhau ngầm ngầm, như chưa bao giờ biết nhau. Lòng họ hòa lẫn trong niềm vui ồn ào, với các bạn chung quanh.
Thế là Mây và Cilbebi trở thành đôi bạn thân. Mỗi khi đến văn phòng, Cilbebi chu đáo nộp giấy tờ cần thiết, nói năm ba chuyện vui về trường lớp. Trước khi ra về, anh không quên chào câu:
- Xin phép chào Trầm Mây nhé. Chúc vui mạnh.
Có một lần, thừa lúc không ai để ý, Cilbebi cúi xuống trên tóc Mây, nói nhỏ:
- Trầm Mây có chịu đi ciné với anh không? Phim ""Gone with the wind", do Clark Gable và Vivien Leigh thủ vai chính. Rất hay. Mây à. Không xem, tiếc lắm.
“Có chịu không”? Anh bạo gan bạo phổi quá chừng! Dám thách đố, khiêu khích một cô gái xinh đẹp, khác hẳn anh về mọi phương diện, và, vốn dĩ đã trần trụi. Hay là vì… họ cùng có chung sở thích là rất yêu hoa “Forget me not”. Hay là… gót chân cô đã đi sâu vào giếng mắt ướt ấy, vào trái tim si mê, lên đầu óc hoang dại, phù phiếm, lãng mạn, đa tình ấy. Cũng như ngược lại?
- Nếu Mây nói chịu, hay nói không, thì sao nào?
- Chịu hay không, đó là quyết định, tùy theo sức đối tượng cuốn hút, xem thử mình ngẩn ngơ, mê đắm đến mức nào, trong mọi lĩnh vực. Phải không Mây?
- Vậy sao?
- Tự chúng ta, đã rõ rồi. Còn phải hỏi.
Ông tổ của anh, nguyên cư dân bản địa Tứ Xuyên, bộ tộc Miao-Yao, từ thế kỷ 13. Sau biến cố chính trị bên Tàu, tổ phụ anh di dân sang hạt Kengkhoai. Sau họ chuyển về hạt Tougeu-Lyfung, Lào, dưới quyền thống trị của Lo Bliayao. Vẫn, do chấn động chính trị Lào, ông cố tổ tổ từ giã ông tổ. Ông cố cùng bầu đoàn thê tử, dắt díu nhau chạy, thừa sống bán chết, trên con đường số 7, nối liền Luang Prabang (Lào) với Khe Sanh. Tại đây, dòng dõi anh sống yên ổn, lâu đời hơn. Và, Ba Cibebi đã kết hôn với cô gái Thượng gốc Ralđê.
Cilbebi được lòng Thanh tra Diệu, Trưởng ty Phiếm nhiều. Họ mến chàng qua tính tình và tài năng. Thanh tra phó Crésis cùng anh soạn thảo, bộ tự điển ngôn ngữ học, tiếng Ralđê. Anh ghi tên ở trên Đại học Văn khoa, Dalat, năm thứ hai, theo chính sách mở rộng, ưu đãi người Thiểu số, để dân tộc bán khai, có cơ hội thăng tiến, vươn cao. “Lại cũng tình cờ", hai người học chung lớp.
Sau đó ít lâu. Cô gái "Kinh thành" xinh đẹp, đầy kiêu kỳ ấy, đã “phải lòng” chàng trai "Thượng nguồn". Mặc các bạn dèm pha, bĩu môi khinh dễ. Tự Trầm Mây biết thế nào, ít ra giấy rách giữ lấy lề, nhằm nhò gì ba cái miệng dèm pha lẻ tẻ. Chuyện nhỏ mà! Có người nói:
- Thứ gái liếc ngang liếc dọc, dáng đi sóng rắn, uốn éo, răng hơi thưa, chân dài kia, có giọng cười the thé, là thứ đứng đường, là đồ “đĩ ngựa”. Các anh độc thân, đừng có sờ vào nó nhá. Trên ngực nó có đeo túi bùa yêu tinh. Coi chừng các anh sẽ yêu nó, đến dại khờ, rồi toi mạng, chết toi không kịp ngáp đấy.
Trầm Mây đã dám yêu “người ấy” chưa có giấy hôn thú, nào có sợ gì! Mặc dư luận bàn tán xôn xao. Hai người lén lút hẹn hò, đưa nhau đi ăn cơm tối, đi ciné. Họ ôm xiết lấy bạn tình, hôn nhau đắm đuối trong bóng tối. Chưa đã thèm nhớ nhung, họ từng hẹn hò đi Gougah, đi Cam Ly, Preen, vào những ngày đẹp trời. Họ nói với nhau biết bao lời âu yếm, vỗ về an ủi ngọt ngào. Tuyệt nhiên không có cách gì giải quyết hoàn cảnh nan giải hiện tại, khi cười, khi khóc, khi trò chuyện. Dẫu thế, chả bao giờ tìm ra lối thoát.
Và, thời gian trôi chảy mãi, yêu quá đậm, hai người rủ nhau đến vườn hoa mang tên Villa Mimosa của nhà Hoài, tại số 2, đại lộ Pasteur. Vườn hoa rợp bóng mát êm đềm lặng lẽ và thanh vắng, nắng sớm chan hòa trên vạn vật, ươm hồng cỏ cây. Gió hiu hiu thổi trên những đọt thông reo vi vu, lung lay cánh lá nhung lam mimosa ánh bạc lấp lánh phới phới, dễ chịu dường bao, phấn hoa vàng bay bay, thơm thơm. Thì, người con trai có hai dòng máu luân lưu trong huyết quản… hứng tình, rạo rực, muốn xin Mây “cái chuyện trần tục” đó.
Bỗng dưng Trầm Mây sửng người, hốt hoảng ngồi bật dậy, nơi đám cỏ bồng, dưới hàng hoa ánh vàng lung linh, trên trời nắng chang chang. Mây đã cho rất nhiều rồi đấy, cho Cilbebi tất cả con tim, tình yêu, mạch sống đời mình, nhất là Mây đã đạp trên dư luận mà đi. Trí óc và con tim Mây quý hơn ngàn vàng, Mây dám cho, không hối tiếc. Như vậy chưa đủ sao? Chi lạ rứa! Cilbebi đòi hỏi gì, cái chuyện tầm thường đến vậy?!
Mây thất vọng, đớn đau đến dại khờ, lạnh lùng tê buốt. Cầu xin cho dòng thác lũ đến, cuốn trôi đi hết, cuốn bao thống khổ, tình yêu, cuộc sống. Mặt nước sẽ cau mày, xóa sạch, những thăng trầm chán ngán, vì mình vừa thốt ra lời vĩnh biệt với “người…”
Mây cúi đầu thất thểu bước đi, từng bước rã rời, dưới hàng hoa mimosa vàng trêu ghẹo rộ nở, trên đại lộ Pasteur vắng lặng, lòng buồn rười rượi. Giữa các ý nghĩ quay cuồng, hứng khởi, trong tâm tư xáo trộn, đầy tức giận, buồn phiền, yêu thương, quá mâu thuẫn.
Định mệnh cho Mây gặp Cilbebi làm chi thật tàn nhẫn, bước ngoặt đột ngột, tình yêu càng tàn khốc, như vết dao chém trên ngực, dại khờ đến bàng hoàng, tê buốt. Đối với Mây, không sao hiểu nỗi.
Bỗng cô nghe văng vẳng có người gọi mình. Mây dáo dát nhìn quanh. Thì ra là Hạ, người bạn gái cùng nhau lớn lên, cùng học, cùng đi trên con đường, chung ý hướng cao cả, chung hoài bão đó, rất thấu hiểu và thông cảm Mây dường bao. Mây quay gót, dựa người trên thân cây.
Bởi lẽ, cơn chấn động tình cảm mãnh liệt, mà cô tưởng là, tình yêu tuyệt diệu, cao vời, tinh tuyền, tốt đẹp nhất. Ngờ đâu... vẫn là sự đòi hỏi quá tầm thường! Bàng hoàng và tuyệt vọng, khiến cô muốn xụm bà chè, chưa tỉnh người ra, theo từng đợt sóng tiếp nối nhau, trào dâng trong lòng.
Mây từng yêu say đắm, nồng nàn, tha thiết, thành thật nhất. Bây giờ, sau những ngày xáo trộn, đớn đau tột độ, thì khác hẳn. Không để trong sắc tố hiển nhiên ấy, chứng cớ tình yêu tai ác, gậm nhấm dần mòn đời mình. Tình yêu, cô nghĩ là cao đẹp, để rồi thêm một lần phi lý.
Riêng Cilbebi, thành thật mà nói, trong anh có nỗi nhớ nhung Mây khắc khoải, ray rứt, sự ân hận bất chợt trổi dậy, trùng lặp với kỷ niệm, và hoàn cảnh éo le hiện tại, chúng dày vò anh, như cơn động kinh dẫy chết . Anh cố níu kéo hình ảnh bà vợ quen thuộc, và hình bóng Mây thân yêu ở lại mãi trong cuộc đời. Khi cả ba người đã trót ràng buộc với nhau, bằng sợi xích định mệnh.
Bao kỷ niệm thuở xưa, giờ đây mọi thứ trở thành phù phiếm, ấn tượng về thời quá khứ vàng son, chợt nhòa đi, trôi đi, hẫng đi khỏi ký ức. Dẫu vậy, chúng luôn dày vò anh, như chiếc cối xay lúa, vẫn quay đều nỗi yêu thương vô tận, vẫn gậm nhấm, nghiền nát trái tim anh, như nghiền nát cục sạn đắng cay, trào lên bờ môi, ẩn dưới giếng mắt ướt, đầy tê tái và bất hạnh.

_ * _

Kính mời quý độc giả xem tiếp chương 23
Trân trọng,
Ái Ưu Du


Ái Ưu Du
#147 Posted : Friday, October 12, 2007 3:31:34 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

CON ĐƯỜNG CẢO THƠM

Chương 23

ANH YÊU HOA MIMOSA






Cây mimosa cánh lá nhung lam, mỗi mùa xuân đến, khoe hoa sắc vàng, óng ánh mịn mượt như nhung, nở tung hết cánh li ti từng chùm, trông thật duyên dáng. Ý nghĩ của Kim Định bỗng chốc sáng rõ, như tấm gương vừa rửa sạch. Hồi còn ấu thơ, chị ưa hái hoa mimosa, khum khum nâng niu đoá hoa, ở lòng bàn tay, đi về trong con ngỏ mòn thân quen, vừa đông vừa vui. Dù sương gió hay nắng chiều, làm cánh hoa ẩm ướt, rơi rụng ít nhiều. Chị ép xương hoa vào trang vở học trò, với tất cả sự mơ mộng, lãng mạn, nâng niu và trang trọng.
Bây giờ chị trồng lại vài cây mimosa sát hông nhà, mặc dù mùi hoa hăng hắc, không dễ chịu chút nào. Để làm gì thế? Làm gì? Khi Kim Định đau đớn, xót xa ngỡ ngàng nhận ra, màu vàng của hoa mimosa, là màu tượng trưng cho sự phản bội. Ôi! Chính sự phản bội đau buốt, và trắng trợn, rùng rợn kinh khủng!
Bầu trời hoe hoe màu cam, bỗng đổi nhanh thành màu vàng anh, màu lưu huỳnh rồi tím thẫm. Những áng mây trôi lẻ tẻ trên không trung, hắt ánh nắng chiều vàng thắm, bay ngang qua đỉnh tháp chuông nhà thờ con gà, chợt dậy lên lòng Kim Định nỗi choáng ngợp buồn đau.
Chị chôn chặt tình yêu xuống đáy mồ sâu lạnh lẽo. Anh đã ra đi, “màu phản bội” vàng phai trên mái tóc chị vĩnh viễn. Thật sự rồi. Anh đã tự do rong chơi, thanh thỏa, đi thênh thang vào vùng cỏ ẩm, hoang vu nào, xa lắc xa lơ. Mặc chị cuồng điên kêu gào thảm thiết, vật vã như người điên, chị ngất xĩu biết bao lần, bên cổ áo quan, cõi lòng tan nát, như kẻ mất hồn, vô tri vô giác.
Mái tóc đen nhánh xưa vén cao, bỏ rơi cụm tóc đong đưa trên cần cổ trắng nõn, nay xỏa tung ra, thành suối tóc huyền, dài chấm bắp chân, phủ choàng lên tấm áo quan, mỗi khi chị úp mặt vào lòng đất, bên huyệt mộ. Những hòn đất tiếc thương người thân, đưa tiễn anh đến nơi an nghĩ cuối cùng, quăng trên đầu, trên tóc chị. Vất vả lắm, họ mới kéo chị lên, dìu ra xa. Mặt cỏ mới phủ hình hài anh, nồng ấm hơn lên giữa tình quê, tình đồng đội, tình bạn, tình chồng vợ, từ mỗi bước chân bạn hữu thân nhân ghé qua mồ, đặt lên nhánh hoa tươi.
Chị chửi người điều động anh đi công tác, vào vùng chiến địa. Chị chửi bọn dã man tàn ác, đặt mìn, đắp mô, giết chồng chị. Tội nghiệp ông Trưởng Ty (của anh chồng khuất núi), đứng trước cảnh tang thương, quan tài phủ cờ vàng ba sọc đỏ, những vòng cườm đen hoa tím, hoa đen, chưa khô dòng mực phân ưu đó. Ông cúi đầu, lắng nghe điều không phải, từ miệng người đàn bà bất hạnh, cuồng điên, mà thương mến chị, buồn bã, chia sẻ, hơn là tức giận. Ai biết được nước mưa, hay nước mắt phiền muộn đắng cay, quyện lưng tròng?
Mặc chị kể lể dông dài:
- Buổi chiều hôm trước, anh chạy xe vespa vào Ty, đón tôi đi làm về. Hai vợ chồng ăn cơm tối, nói chuyện vui vẻ bên nhau. Nghỉ ngơi giây lát, anh thay áo quần đi công tác. Như bao cặp vợ chồng son khác, anh âu yếm hôn lên má vợ, dặn dò tôi nhớ đi ngủ sớm, khoá cửa cẩn thận. Sáng mai anh sẽ về. Anh nhảy chân chim xuống mấy bậc lầu, ra đi, miệng huýt bản nhạc quen thuộc, yêu thích.
Ra đi… nhưng nào ngờ, anh chẳng bao giờ quay trở lại mái nhà nhỏ, với người vợ thân yêu. Nụ hôn ấm nồng hạnh phúc lứa đôi, như dấu ấn chàm khắc sâu vào má chị, tạo thành hố nước mắt. Tin khủng khiếp đến lúc hừng đông, khác nào sét đánh ngang tai, chị kêu gào, lăn lộn, vật vã trên sàn nhà, đôi má Kim Đình hoắm sâu, vầng trán hằn vết nhăn và đôi mắt đã lạc thần, nhìn đăm đăm vào hư vô.
Mọi người thân trong gia đình, bạn bè cùng Ty đến chia buồn, phúng viếng, chị không biết và không thấy gì, chị rủ xuống như cây chuối không lá, bị chặt đột ngột bởi lưỡi dao ngọt xớt, vô tình.
Liên tiếp những tháng ngày qua, sau đám tang là tháng ngày, chị sống trong kỷ niệm đắm say, nồng nàn, tràn ngập niềm cay đắng, hối tiếc khôn cùng. Tình yêu đã chết. Chết thật rồi sao? Đã vùi sâu dưới ba tất đất? Thế là thực sự hết. Hết rồi! Vô vọng.
Mỗi ngày cuối tuần ra nghĩa điạ Số Bốn, chị tặng anh bó hoa mimosa tươi, đốt nén nhang, trầm thơm ngây ngất. Chị ngồi bên chân mộ, nói chuyện với người nằm dưới cỏ. Ôi ! Nhìn ảnh anh úa vàng in trên bia mộ, chị giật mình, giao động dữ dội. Vẫn nụ cười tươi, khuôn mặt ấy, duy chỉ có đôi mắt anh là xa xăm, trống vắng vô ngần.
Nỗi cô đơn muộn phiền trong chị, nơi anh, nay chìm đắm xuống bóng tối vĩnh hằng. Chị thầm tiếc, sao lỡ trót yêu người thương màu vàng hoa mimosa làm chi. Chị thấy ghét loài hoa có từng chùm, óng ánh như viên bi bằng nhung, cánh lá lam nhung mượt mà, rực lên nét kiêu sa. Mà có lần anh chồng nói với chị, khi anh hái cành hoa, đem về cắm trên chiếc độc bình:
- Người ta nói màu vàng, là màu tượng trưng cho sự phản bội. Anh không tin.
- Sao anh không tin?
- Qua ngót mười năm yêu em, thì chúng ta làm đám cưới. Anh vẫn yêu màu vàng, và càng yêu em hơn. Cớ sao lại nói màu vàng, là tượng trưng cho sự phản bội? Chỉ phản bội em, khi nào, anh nằm dưới gốc cây mimosa, mà thôi. Em à!
Trời ơi! Anh nói thế mà, cứ y như là thật. Anh đã nằm dưới cỏ, dưới rể cây mimosa nầy. Sao ông Trời không bắt tội anh đi đày ngoài Côn Đảo. Trong rừng sâu nước độc. Tận miền sa mạc nắng cháy, hay nơi bão tuyết giá băng? Miễn sao anh đang sống, thì chị còn hy vọng sống lây lất qua ngày, ngóng chờ anh.
Hoặc chị sẽ cố đi tìm anh, dù nghìn trùng xa cách, dù xa xôi hiểm trở vô vàn. Vì tình yêu hai người thật tuyệt vời. Thật hạnh phúc. Đáng tiếc lắm thay! Kinh khủng thay cho sức mạnh tình yêu, có lực cuống hút, hấp dẫn, cuồng quay đến độ, làm cho hai người luống tuổi, đã điếng lặng, vì bị đau tim kinh khủng.
Từ ông Ty Trưởng già mà anh chị em thuộc quyền, thân thương gọi ông là Bố Phiếm, hai ông Thanh tra: Bố Diệu và Bố Crésis, cùng Trưởng phòng nhân viên là Kim, (anh quân nhân mới biệt phái về), có Bích Thủy phụ tá ban nhân viên. Có Mây Trưởng phòng Học Vụ. Và tất cả các trưởng, phó, ban ngành, trong văn phòng, đa số anh chị em, đều cảm thương, trước biến cố kinh hoàng, như ngọn giáo sắt lạnh, thọc vào tim chị.
Thời gian trôi chảy mãi theo suối tóc dài, quá dài, cùng tháng năm, phủ xuống tận gót chân Kim Định. Ai cũng khen mái tóc chị, nhưng Mây thấy sợ. Nhất là khi chị bước đi, mái tóc là là bay, cuốn theo làn bụi phai nắng, như vệt máu hồng loang ra từ gót chân. Sau vài năm tang chế, mọi người trong Ty, ái ngại nhìn chị già sút hẳn, bộ sô tang vải màn, thả gấu áo lụng thụng, càng tăng thêm vẻ tiều tụy bi ai, trước khi chị đốt xã tang chồng. Trông đau thương và mũi lòng xiết bao!
Mỗi tuần đều đặn, vợ chồng thầy nhạc sĩ Tạ Hào thả bộ lên nghĩa trang, thăm những mộ phần mồ côi, không người chăm sóc. Họ không có con, nên đã nuôi một chó xù nhật lông trắng dài phủ mặt, đôi mắt chó to tròn như hòn bi. Và nuôi một con mèo mun rất mập. Họ dẫn chúng đi tà tà vào khu Số 4 để viếng mộ.
Vào dịp Tết nhất, lễ lạc, họp bạn, sinh nhật thầy cô, thì họ cho con Mimi đeo kiềng vàng 18 K, cột thêm nơ đỏ. Con Lulu “đòi” giống bạn mèo. Họ “cưng” con Lulu hơn, đeo cho nó thêm cái lục lạc vàng nữa, nó giữ tủ vàng thì khỏi chê, hổng lười như con mèo. Mèo chuyên ăn vụng rồi đi “ị” bậy, chua lòm, nó ngủ suốt ngày trên tủ kính, mặc xác mấy chú chuột, tha hồ tung hoành trong nhà kho. Hai “đứa con cưng” dĩ nhiên, được chị bếp “hầu” chu đáo, tắm gội bằng xà bong Dove, xức tí nước hoa Tabu vào lông chúng cẩn thận.
Con chó thấy người lạ vào nhà, nó chồm lên, xộc ra cửa, sủa dồn, chiếc dây xích sắt kéo căng, ghì hàng lông cổ dựng đứng, sợi dây xích chạm vào kiềng vàng, có hột lục lạc kêu leng keng.
Chị bếp ra vỗ vỗ vào lưng, nó quay về chiếc giường nệm bé tí, quay vài vòng rồi nằm xuống, mỏ gát lên chân trước, liếc về khách rên i ỉ. Đôi khi chó tức giận nhìn con mèo tỉnh bơ, nằm ngủ phơi cái bụng lên trời.
Mây thấy họ yêu loài vật kinh khủng, họ cưng nựng, trìu mến nói chuyện với chúng, y như con ruột. Mỗi bữa cơm, “hai con” ngồi ở hai đầu ghế, thầy cô ngồi đối diện. Có khách dùng cơm chung, cũng không thiếu “mặt” hai con nầy. Thầy và cô đều bị cao máu, nghẽn tim, tiểu đường, đau bao tử, vân vân... Họ không ăn được món ngon. Nên cứ thế, họ đút cho chúng từng miếng thịt, miếng giò lụa, miếng cá chiên thơm ngậy.
Con mèo tham lam, hổn xượt, tự động chồm lên khoèo miếng cá, hết cá, tới giò lụa, thịt heo, thịt gà. Con chó tức giận hất cái bờm xù, sủa nhát gừng, hai chân trước chó chồm lên mép bàn, dành phần ăn. Thầy cô nể khách, la rầy qua loa. Hình như biết lỗi, chúng thu mình ngồi xuống gầm gừ, liếc khách cứ việc ngồi chơi xơi nước. Trầm Mây nhìn chó mèo ngồi “ngang hàng” với người. Mây thấy bực. Coi sao được. Âu cũng là cái nợ.
Cô yêu thầy, hy sinh chiều chuộng săn sóc thầy, hơn bất cứ ai, sức mạnh tình yêu, trân trọng và nâng niu, không thốt nên lời, từ người vợ hơn chồng một giáp. Họ mãn nguyện khi gọi nhau bằng tên, diễm phúc đó, đôi khi không phải là không sóng gió. Lúc ấy cô thỏ thẻ:
- Thì Túy chỉ bảo thế. Có gì đâu mà Hào giận Túy.
Chung quy, cũng tại con chó con mèo. Thầy rất yêu thú vật. Cô “cũng iêu”, nhưng ghét con mèo ị bẩn thỉu, đời cô luôn ngửi phải cái mùi khó chịu nhất. Suốt ba bốn chục năm, hết con mèo nầy già khú đế, chết đi, thầy lại rước con mèo khác về. Nếu không vì thầy quá yêu nó, cô sẽ cho con Mimi khốn kiếp trận đòn, tống cổ ra khỏi nhà từ khuya. Lâu ngày thành thói quen, và cô “iêu” nó lúc nào, chả rõ.
Bỗng dưng, con chó lười ăn, thầy cô đóng cửa tiệm, chở chó lên bác sĩ thú y, và rồi... rồi chó “nghẻo”. Cô tiếc điên cuồng, thầm than
- “Sao con mèo không chết quách đi, để cho con chó sống, phải là có ơn có ích, sạch nhà hơn không”.
Thầy khóc như mưa, thuê thợ mộc đóng cỗ quan tài chó xinh đẹp, sơn phết tử tế, bọc vải đỏ bên trong, khâm liệm hẳn hoi, cầu kỳ hơn, là thầy thông báo cùng bạn hữu thân thích, học trò học bè, ai rảnh rỗi đến chia buồn, và đi đưa đám chó. Mộ chó khi chôn bên cạnh mộ người, khi mua đất chôn trong viện thú y, mặc trời mưa gió, hay trời nắng chói chang, có hại cho sức khoẻ thầy. (sức khỏe thầy không bao giờ khả quan, vốn quá yếu ớt cũng đành).
Hôm nay, vợ chồng thầy cô dẫn con Mimi, và thêm con chó “nhí” mới mua, cùng nhau lên nghĩa địa số Bốn, thăm mộ con Lulu.
Không ngờ chó nằm bên cạnh ngôi mộ chồng mình, chị Kim Định ngỡ tên Lulu là tên đứa trẻ, có ngày sinh ngày tử, lên mười tuổi nào đó, tên đã khắc trên bia mộ. Nay gặp họ, chị mới vỡ lẽ ra, chị vật vã than khóc, chị thương chồng, thương thân, tủi phận hèn, tủi thân chồng sống bầm dập, chết lại nằm bên chó. Chị khóc đến ngất xỉu, đầu vập vào tấm bia mộ chó, máu tuôn có vòi.
Thầy cô hốt hoảng, đứng bật dậy, ơi ới gọi taxi chở chị, chở cả chó, cả mèo. Cả người bị thương và người bệnh, chạy ù lên bệnh viện cấp cứu. Thầy rên rĩ “quây” điện thoại, gọi Trầm Mây lên chăm sóc bạn. Bàng hoàng, Mây bỏ việc, phóng lên hon da vụt chạy đi.

_ * _

Kính mời quý độc giả xem tiếp chương 24
Trân trọng,
Ái Ưu Du
Ái Ưu Du
#148 Posted : Saturday, October 13, 2007 2:49:57 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

Con Đường Cảo Thơm

Chương 24

BÌNH DỊ





Trời thoáng lạnh, cái lạnh ngây ngất, mát rượi dễ thương làm sao trên thành phố hoa Đào nầy. Những bông hoa tươi thắm đầu xuân, làm đẹp mắt trong phòng khách, nói lên niềm hạnh phúc bé nhỏ, đơn sơ, từ căn nhà của cô nhiều hơn lời.
Gia đình ông Năm Chánh, là chủ xưởng cưa cây rất giàu có, sáng sớm ông đi, tối mịt ông về. Hai vợ chồng họ có sáu người con, cùng ở trong một ngôi nhà rộng đúc bê tông cốt sắt đồ sộ. Họ còn một căn kia đầy đủ tiện nghi vẫn bỏ trống.
Nhờ thầy Bê giới thiệu nên Hoa, Bé, Thủy, được ông bà Năm cho ở nhờ một trong ba ngôi nhà xây của bà Năm Chánh. Nhà nầy an toạ trong khu vườn trĩu nặng cây trái tốt tươi rất rộng.
Họ mừng rỡ vì như thế sẽ giảm bớt thời gian đi về. Tiền lương giáo viên quá ít ỏi khiêm nhường, nếu phải đi xe đò từ Đà Lạt xuống Phú Hội dạy học xong, chiều chiều lại lên xe trở về nhà, chi bằng nhịn đói ở nhà cho xong, vì tiền xe không đủ, lấy đâu ra tiền ăn uống hay thuê mướn nhà?
Vậy hầu hết giáo viên xin ở nhờ nhà của phụ huynh, hay góp một tí tiền mọn gọi là. Qua mùa Hè sẽ tính sau. Các cô thường trao đổi công việc và chuyện trò thân mật với phụ huynh, và tâm đầu ý hợp biết mấy với gia đình bà Năm. Mọi quan tâm khác là hàng thứ yếu, so với sự lo sợ cấp bách, và kinh tế gia đình.
Bà Năm Chánh tuy bị mù lòa nhưng tinh khôn, tỉnh táo lanh lẹ hết biết. Một mình bà Năm Chánh mò mẫm đi lên nhà trên, xuống nhà dưới, qua nhà ngang ít khi bà bị nhầm, hay bị té ngã. Bà lắng nghe tiếng ai nói chuyện đôi ba lần, là bà nói trúng phóc tên ai rồi.
Hoa ngồi trong nhà thứ ba im lặng soạn bài. Nghe tiếng bà Năm hỏi sau lưng, khiến cô giật bắn người. Bà biết cảm nhận hơi hám người khác ở chung quanh bà. Hoa e ngại hỏi:
- Sao bác biết, có người ở gần bên. Hay vậy bác?
Bà Năm cười, tiếng nói rõ ràng:
- Tôi thính tai, mà còn thính mũi nữa đó cô.
Hoa hơi ngờ vực. Bà Năm lại cười:
- Tôi nói thật đó.
Quả vậy. Muốn đánh một trong những đứa con, ít khi bà nhầm, mặc dù chúng nhỏ lít chít ngang đầu, ngang tai nhau, cách nhau từng năm một. Nhất là tự một mình bà đi đánh ghen, là hết biết. Bình thường bà hiền lành, ít nói. Nhưng nếu có ai làm bà mích lòng, khiến bà nổi cơn tam bành lên, bà hung dữ kinh khủng!
Bà đi đâu cũng có cô con gái đầu lòng của bà là Trúc, và đứa con út ba tuổi đi theo. Cùng con chó xù cao hứng sủa om sòm, khiến bà mẹ phải kêu con trai nhỏ đuổi đi. Thằng Chương khoảng bảy tuổi, bùn bết lên hai chân đen thủi đen thui trông như mang đôi giày bốt. Chương cầm sợi nịt da kéo cổ nó lôi đi, sợi dây xích ghì chặt, khiến hai con mắt chó trợn tròn, như hai hạt nhãn, lưỡi thò ra với mấy chiếc răng nhọn hoắt, hàng lông trên lưng dựng đứng.
Cô Trúc con gái bà Năm Chánh nay mười bảy tuổi, tính tình Trúc thật thà, mặt mày sáng sủa dễ nhìn. Cô chỉ ở nhà chợ búa cơm nước, phụ người giúp việc, trông coi đàn em, dẫn mẹ đi đây đi đó. Rảnh rỗi Trúc qua nhà mấy cô giáo trò chuyện, mượn sách, truyện, cô bé hỏi điều nầy điều nọ. Tuy ít học nhưng Trúc chịu khó tìm hiểu, do vậy Trúc hiểu biết khá sâu sắc, tinh tường, khiến các cô giáo đang học trên đại học, hết dám huênh hoang coi thường Trúc. Họ ý tứ và mến phục Trúc hơn.
Bà Năm ưa mắng con gái:
- “Rừng như biển thánh khôn dò. Nhỏ mà không học, lớn mò sao ra”?
- Nhưng con lớn tồng ngồnh như vậy, mà một mình ên vào ngồi lớp Bảy, lớp Tám, thì coi kỳ quá. Người ta sẽ tưởng con là cô giáo mất.
- Thì tự học ở nhà. Người ta nói: “Học thầy không tầy học bạn” đó sao?
- Má thiệt tình! Làm sao học ở nhà mà bằng cắp sách đến trường có thầy cô dạy dỗ chớ. Con cũng muốn đến trường học từ hồi nảo hồi nao chớ. Ngặt nỗi là con phải ở nhà chăm sóc má, và lũ em. Chớ con hổng làm biếng đâu. Má à.
- Ừa! Phải hén.
Xã nhà có một hương lộ chính trải nhựa rộng rãi. Nổi bật nhất là các xưỡng cưa, nhà máy xay lúa, nhà hàng Bạch Thỏ, vài nhà hàng thời Tây còn lại, nhiều tư điền tư thổ như Trà Hoa Thôn, Đinh Lan Thôn, Hải Đường Thôn... Đinh Gia Trang. Lê Hồ Trang… Có Năm mười quán ăn, cà phê bình dân, tiệm tạp hóa, quán cóc bên đường, dẫn vào khu xóm bình dân nhưng tươm tất.
Phú Hội gần thác Gougah, nên chiều thứ bảy, ngày chủ nhật du khách tấp nập đi lại, trên hương lộ đông vui. Phố xã rộn ràng vài ngày cuối tuần, rồi trở lại yên ắng thường lệ. Dân cư số đa số sung túc, làm chủ đồn điền, chủ trại cưa, làm nghề cưa cây xẻ gỗ, làm nông, làm vườn. Có một số ít cư dân đi làm thuê, cuốc mướn.
Họ xếp sự mệt nhọc âu lo mỗi ngày lại một bên, lui về sau những bức tường kín, liếp thông dày chắn gió che mưa, che nắng. Bên ngọn đèn vàng vọt mờ nhoà từ ngọn đèn dầu lửa tỏa ra. Xã Phú Hội nầy không có một rạp ciné, không một trò giải trí lành mạnh nào khác, nên bộ mặt thị xã đã buồn, càng đơn điệu hơn.
Nhất là đêm về, khi mặt trời vừa tắt nắng ở lưng đồi, trăng bắt đầu lên. Làn khói đục trùng điệp mong manh giăng giăng, tạo thành tấm màn sương thưa thớt, kéo đất với trời xích lại gần nhau hơn.
Dù sao các thầy, cô giáo, và công tư chức ở đây cũng phải có bạn bè, láng giềng, phụ huynh học sinh, giao tiếp hàng ngày. Đừng sợ cái nghèo khó của mình làm người khác khinh dể. Mỗi người đều có một hoàn cảnh, nhân sinh quan và quan niệm sống khác nhau.
Phải kiếm cơm ăn áo mặc cho các con, dù bất cứ giá nào, bất cứ ở đâu, Hoa phải đạt, dù ở nơi nầy rất buồn và cô độc, có khi nguy hiểm đến tính mạng mặc lòng. Thế nên, dù bé Bi, Bo, còn non ngày, Hoa cũng dồn hết áo quần của ba mẹ con vào va ly, giỏ xách, đem theo nồi niêu soon chảo, mùng mền, chiếu gối theo. Mẹ con đùm túm, dắt díu nhau ra bến xe, lên Đà Lạt, đi dạy thêm trên trường trung học tư thục.

_ * _

Kính mời quý độc giả xem tiếp chương 25
Trân trọng,
Ái Ưu Du
Ái Ưu Du
#149 Posted : Sunday, October 14, 2007 10:49:17 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

Con Đường Cảo Thơm

Chương 25

XUÂN QUỲNH




Quá khứ lùi sâu vào dĩ vãng xa xôi, tưởng đã phai mờ hết, âm thanh rền vang khói lửa chiến tranh. Xa hẳn vùng Minh Long, Nghĩa Phú, Mộ Đức, Cộng Hoà. Tưởng đã chấm dứt chiến chinh, như chiếc lá cuối cùng rụng xuống. Tưởng không còn. Tưởng đã hết. Tưởng đã quên. Chẳng thấy và còn nhớ điều gì.
Nào ngờ ... vẫn còn. Xuân Quỳnh nghe tiếng vọng xa tít cung mây. Tiếng rền vang rùng rợn rung đều rất nhanh, như cây dùi gõ mạnh trên mặt trống căng cứng. Chuỗi ngày phiêu lãng xa lắc xa lơ, tràn đầy niềm vui thơ trẻ, trên cánh đồng bát ngát hương hoa, dịu ngọt, nhè nhẹ lâng lâng theo bóng mây.
Đôi khi mang ít nhiều sóng gió, ngọn sóng đắng cay cuộc đời. Hầu như Quỳnh từng nếm trải qua rồi trong chiến tranh. Cô muốn xóa sạch, bỏ rơi mọi ưu phiền. Dù ít ai làm được, nó đã hằn lên đôi ba vết mờ đường trán suy tư, nơi mắt nhìn tư lự, mái tóc sớm ngả bụi đường, trên vẻ do dự già nua trước tuổi.
Chao! Nếu giờ phút nầy, Quỳnh được tan theo từng mảng sương mù ẩm lạnh, hay bay theo mây trắng, lờ lững trôi qua con đường, qua thành phố xứ Quảng, xứ Đà. Lên suối nước đầu ghềnh ở ngàn chốn sơn khê, đèo heo hút gió Minh Long, Nghĩa Phú, A Sao! Thì hay biết bao.
- Mơ mộng gì, mà thừ người ra thế?
Tôi hỏi, đập tay lên vai bạn. Ly nước vơi quá nửa, cái bánh ngọt lỏng lẻo giữa hai ngón tay Xuân Quỳnh, khi thời gian vụt trôi qua. Sự im lặng trong bàn tiệc chia tay, tưởng là quá lâu. Xuân Quỳnh không biết làm gì, với hai bàn tay mất tự nhiên, trở nên buồn thảm thế nầy.
Tôi đã gặp cô bạn đồng hành, qua cái gật đầu của Xuân Quỳnh, tính tình cô trầm lặng, dễ thương, nghệ sỹ, vui tính, tuy thỉnh thoảng có điên điên đôi chút. Ừ! Giống hệt cái điên của tôi. Xuân Quỳnh biểu lộ tình cảm, dưới đôi mắt lá răm to tròn tuyệt đẹp (mà các bạn thường đùa là "khung cửa sổ đa tình"). Sóng mũi cao, miệng Quỳnh cười truyền cảm duyên dáng, hàm răng trắng bóng như tráng men. Dù Xuân Quỳnh cười, nhưng đôi mắt ngược lại, nó ánh lên vẻ buồn mơ màng, sâu thẳm nét đa tình. Nàng giản dị, thoải mái, ung dung, hay cười, dù cô rơi vào niềm cay đắng.
Phải chăng đó là sự thể hiện lòng can đảm, kiên cường tiếp nối trong từng nhịp thở của cô, làm tan đi nếp gợn, trong mối thâm giao với bạn bè? Xuân Quỳnh vừa đi dạy trẻ vừa tiếp tục ghi danh trên đại học Văn khoa cùng với Mây, Thu Thủy, Hà, tôi, Bé, Oanh. Tương lai chắc chắn nhóm nầy, dù muốn dù không, “sẽ bị” chuyển lên dạy trường Trung-học thôi.
Cái biệt danh đồng nghiệp đặt cho Huỳnh thị Xuân Quỳnh, “Người đẹp mắt buồn rất bình thản”, được bạn trai tán thành. Riêng hai “cô gái già” thì không vừa lòng, làm bộ ư hử trong cổ họng, rồi họ vội quay đi, bĩu môi, nét mặt họ vô cảm tỉnh queo.
Dù lúc đó Quỳnh vui, buồn, đi chăng nữa. Cô biết cuộc sống khá tàn nhẫn, nếu chỉ có dũng khí không thôi, chưa chắc gánh nỗi mọi đắng cay, cơ cực cuộc đời. Thế nên Quỳnh ung dung, nếu không muốn nói là: Bình thản trước mọi biến cố chung quanh, và chính mình. Cô biết, đối lập với quan điểm, hay có ý kiến, ý cò, với người khác, thì bị xem là khuynh tả. Không có ý kiến, cũng bị coi là khuynh hữu. Thôi mặc sự đời, cô sống cho chính mình, với nhu cầu nội tại, sức mạnh nội tại, và, vẻ đẹp nội tại, là đủ.
Song ở đời, ai cũng có nhân sinh quan riêng. Mỗi buổi sáng thức dậy, Quỳnh đọc một đoạn kinh thánh, buổi tối trước khi lên giường, nàng đọc một đoạn kinh thánh. Thế là nụ cười hồn nhiên tươi nở trên môi, thoáng hiện nét an bình, qua đôi mắt đẹp ngẩng nhìn, và trong giấc mộng. Tình thân ái giữa bạn bè thân hữu, phụ huynh, học sinh, theo thời gian tăng trưởng vui vẻ. Thật đáng sống.
Các bạn thương Quỳnh, một phần dựa trên tính tình cô hòa nhã, đằm thắm, duyên dáng. Phần khác Quỳnh tiềm ẩn, súc tích, giàu chất thơ, nên cô khá lôi cuốn họ. Mặc dù họ có cuộc sống khác cô. Tuy thế, không có gì trở ngại trong tình bạn đầy thông cảm và thấu hiểu nầy.
Quỳnh chỉ lưu tâm đến một người khác, đặc biệt quan trọng hơn. Hai cuộc sống hoàn toàn trái ngược, dồn dập, đã khẳng định mọi điều dứt khoát, đưa anh ra khỏi đời cô. Nguyễn Long, tự Bá, vào đời cô có trăm trái tim hoa tình yêu đua nở, phơi phới và phù vinh nhất. Vì, Bá có tất cả ưu ái Trời ban: Cao ráo tráng kiện, hào hoa, quyền hành địa vị, danh vọng.
Để Quỳnh tin tưởng anh hơn, Bá đưa Quỳnh về cha mẹ, các anh chị em của chàng, (bây giờ Quỳnh đâm nghi ngờ, không hiểu họ có phải là thân nhân, ruột thịt của Bá hay không nữa? Hay là anh nhận hờ đám “bá vơ” ở đâu đó, đưa họ về nhà cô làm “cò mồi”?).
Một hôm, trên đường đi chợ về, tôi và Quỳnh gặp Liễu, cô em người bạn thân của Bá. Liễu mừng rỡ, ân cần hỏi thăm hai chị:
- Lâu quá. Nay em mới gặp lại chị Thùy Mến, chị Quỳnh he.
- Ồ. Mới ngày nào em còn bé tí xíu, học trên Couvent. Nay em lớn rồi ha.
- Anh Phụng bạn chúng ta, học xong năm thứ hai, văn khoa Đà Lạt, ảnh buồn tình vì chị Thùy Mến sao đó, ảnh bỏ đi pilot, ảnh du học tại Hoa Kỳ. Lúc thực tập lái khu trục, chẳng may ảnh bị rớt máy bay. Tai nạn đó, khiến ảnh bị gãy tay, gãy chân khá nặng. Ảnh phải nằm trên giường suốt năm. Sau đó, ảnh hồi hương, chống nạn xuống máy bay. Ảnh thành thương phế binh rồi. Ảnh đã có vợ, ba đứa con gái, gia đình ảnh hoàn toàn không hạnh phúc. Sắp lôi nhau ra tòa đó. Chị à, không phải Phụng cưới Hà, như chúng ta tưởng đâu. Em xin lỗi, mãi nói chuyện ai, quên hỏi thăm chị và bé Nguyên Đào, bé hẳn lớn rồi ha chị?
- Lớn rồi. Đã đi học. Còn em?
- Em vẫn thường, đã xong đại học sư phạm. Hiện em dạy ở Mỹ Tho. Em xin lỗi, hai chị có chuyện buồn hả?
- Không.
- Sao em thấy hai chị vẫn mặc áo quần đen?
- Chúng tôi thích màu đen.
- Vậy mà em nghĩ các chị là cô phụ, gặp anh Phụng ảnh vẫn hỏi thăm về chị, em lỡ nói chồng chị đã chết. Anh thắc mắc không hiểu tại sao. Thiệt là xin lỗi lần nữa nghen. Tuần sau, về Sài Gòn đi dạy lại, em sẽ đính chính.
- Không cần cho họ biết đâu.
- Bá đã chết trong lòng chị rồi.
- Bất cứ giá nào, chị cũng nắm bắt hạnh phúc. Vì con chị mà.
- Như vậy, có tàn nhẫn và bất công cho chị, con chị, lắm không?
Trong mắt Liễu, đã nhìn thấy nỗi quằn quại, của người bị tước đoạt mọi quyền hạng, sạch trơn, vô nghĩa, trần trụi. Quỳnh khỏi cần bộc lộ niềm đớn đau phiền hận, qua ngôn ngữ, cử chỉ. Mà, trải dài ra sự mệt mỏi, khinh mạn, cùng sức chịu đựng sâu sắc, như tấm màn voan xám đục luôn vây kín, từ mọi phía trên đỉnh Lâm Viên mù sương.
Hoài, Quỳnh, Liễu, chia tay nhau. Quỳnh cúi đầu bước đi, cắn mạnh môi, ngăn chặn mọi đảo lộn khác thường. Trong tim bừng bừng cơn sốt tiếc thương, vang vọng trở về, mỗi lần có người vô tình gợi nhớ đến người xưa. Quỳnh thương mình, lẫn thương anh và con.
Duy có điều gay cấn giữa Quỳnh và Bá: Hai cuộc sống hoàn toàn trái ngược, Bá Có tất cả quyền hành địa vị, danh vọng. Cô chưa thấy bóng mây u tối nào, phủ màu hắt ám, ngoài sự bay bướm, lả lướt, lăng nhăng, vô cùng rối rắm, khiến bà “phu nhân” nổi giận.
Hôm đó, Quỳnh ngồi trong trường, cùng Hội Đồng Trung Ương chấm thi. Tất cả giáo chức phải đến trung tâm thi tuyển học sinh vào lớp 6, làm việc ba ngày. Chiếc phong bì lớn bìa màu vàng, cứng ngắt dày cộm, dán kín. Con niêm bằng nhựa dẽo và dai, to tướng, màu đỏ sậm, đè lên hai sợi chỉ vàng. Mặt trước phong bì có vài ba con dấu bưu điện in dấu ngày gửi đi, ngày đến. Xéo hai góc bì thư là con dấu “Tối mật” và “Thượng khẩn”.
Ông chánh chủ khảo mặc bộ veston sang trọng. Ông có bộ mặt béo phị, dấu hiệu ấy cho tôi biết ông sống đầy đủ, sung túc, minh xác về sự ông ta ăn uống mỗi ngày một tăng theo tỷ lệ thuận. Nếp nhăn xếp lớp dưới cái nọng xệ từng nấc rung rinh, mỗi khi ông nói hay cười híp mắt, đôi mắt him híp như một đường chỉ. Bụng ông quá phệ, nên không có dây nịt nào vừa kích cỡ. Thay vào đó là hai quai dây vải, móc từ sau lưng quần, quàng lên vai, đan chéo trên lưng ông, vòng ra bụng quần phía trước, có hai nút cài, như quần em bé bự.
Ông là người tốt tướng và “tốt bụng”. Mặc khác ông là người nghiêm nghị, cẩn thận dùng cây bút đỏ, gạch tên thí sinh nào phạm lỗi. Chốc chốc ông đưa ngón tay trỏ đẩy cọng kính gọng vàng, chính xác về sát trên sóng mũi to bè.
Bỗng, có một người đàn bà trang phục lộng lẫy, hơi cầu kỳ và sửa mắt mũi cằm, trang điểm diêm dúa. Bà ta hất mặt lên, thẳng bước vào văn phòng, yêu cầu cho gặp Xuân Quỳnh ngay. Hân, anh tùy phái trực ban ôn tồn, nói:
- Mời bà vui lòng chờ ở đây. Cô Quỳnh bận chấm thi, không thể tiếp ngay.
- Có lâu không?
- Tôi không thể biết.
Quen lối trịch thượng, hách dịch, bà ta quắt mắt nhìn mọi người, hỏi trống:
- Cô Quỳnh ở phòng nào vậy?
- Vì lý do an ninh trường thi, tôi xin miễn trả lời bà. Mời bà ngồi đợi.
- Đợi… có lâu không?
- Điều nầy, tôi lại càng không biết.
- Tôi là phu nhân đại tá Bá, chồng tôi bị nó bỏ bùa mê thuốc lú, ổng về đánh đập tôi… Tôi đến đây… Huực... hic hic... hụ hụ.
Hân đứng dậy, điềm đạm:
- Thưa bà bớt giận, ở đây là trường thi, họ đang chấm thi. Và, chúng tôi có bổn phận bảo vệ an ninh trường thi. Ngoài ra, việc cá nhân, chúng tôi không muốn nghe, không có ý kiến. Mời bà im lặng ngồi chờ. Nếu bất tuân, buộc lòng chúng tôi phải nhờ giới thẩm quyền can thiệp về việc bà đang gây rối, làm mất an ninh trật tự ở truờng thi.
Bà ta vung tay, trượn mắt hất hàm, vừa chửi đổng (hạ tiện như đã từng mạc sát thuộc cấp ở tư gia bà ta chăng?). Bà vừa quày quả đùng đùng bỏ đi, ra ngoài xe jeep, nạt nộ tài xế lái xe đi một lèo.
Đàn bà yêu chồng mới ghen. Nhưng trong việc ghen để đem lại hạnh phúc, có hai cách: Thứ nhất, ghen để đem vinh danh đến cho chồng. Thứ hai, ghen để rồi đem đến sự nhục nhã, về bản thân và cho chồng. Tiếc thay! Người đàn bà cao sang quyền quý đó, đã chọn cách quá ghen thứ hai.
Quỳnh ngất xỉu tại phòng chấm thi. Trường thi rối ben. Sau một giờ các ông bà cô thầy trong phòng thi lo xúm lại bên Quỳnh giật tóc mai, mời bác sĩ. Bỗng vị “đại tá anh minh” xuất hiện. Tất nhiên ông oai phong đường bệ, lịch duyệt và trí thức lịch sự hết biết. Ông ta xin lỗi Ban Giám Khảo Trường Thi, xin lỗi các ban, ngành, kể cả anh tùy phái ít học, nhưng có tư cách của một người tự biết mình.
Ông xin phép được đưa Quỳnh về nhà. Cô tránh mặt Bá, chối từ. Quỳnh viết vội vài chữ, nhờ tùy phái chuyển đến Bá:
“Từ nay, xin cho mẹ con em được yên vui và bình an. Chào vĩnh biệt. Xuân Quỳnh.”

Quỳnh đã đoạn tuyệt mối tình mà cô tin yêu chân thật, trong đắng cay, đầy nước mắt tủi nhục. Từ ngày quen nhau, Quỳnh vẫn đặt dấu hỏi về tình trạng gia đình Bá. Anh luôn nói đã ly dị khiếm diện từ lâu, và nay bà ta đã mất dấu tích. Khi Bá đưa Quỳnh về cha mẹ, các anh chị em của chàng. Bán tín bán nghi về người đàn bà tự xưng là “vợ của chàng”. Nhưng Quỳnh đã quyết định dứt khoát.
Dù bao lần Bá đến nhà năn nỉ có, hăm dọa có, cầu hôn có, giận dữ có, đưa đủ giấy tờ chứng minh sự thật. Thôi. “Một sự bất tín, vạn sự chẳng tin”. Niềm tin yêu trong Quỳnh đã nguội lạnh mất rồi. Tình yêu đó, như ly nước ngọt ngào, đầy ắp ân tình, vừa giáng mạnh xuống nền gạch, nơi trường thi.
Hoa ái ngại nhìn bạn, dò hỏi:
- Thế còn con của Quỳnh thì sao?
- Sau nầy con lớn lên, Quỳnh sẽ nói cho con biết: Ba của con là ai. Ông đã đạt được mục đích trên đường đời, dù nhiều cách suy nghĩ, hành động, và quyết định khác nhau. Tình yêu cho đi, Quỳnh không ân hận, chỉ buồn là mối tình chân thật, hoàn toàn bất vụ lợi đó, đã giết chết chính mình. Niềm vui, hạnh phúc duy nhất bây giờ là con.
Bé con có nét giống ba, có nét giống mẹ. Những nét dịu dàng và anh tú đó, đã tạo thành bé gái Huỳnh Uyên Nguyên Đào, mang họ mẹ.


_ * _

Kính mời quý độc giả xem tiếp chương 26
Trân trọng,
Ái Ưu Du
Ái Ưu Du
#150 Posted : Tuesday, October 16, 2007 10:12:31 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

Con Đường Cảo Thơm

Chương 26

TRỰC THĂNG LÂM NẠN





Những ngấn nước to tròn long lanh, soi bóng hoa anh đào e lệ đung đưa. Những con thiên nga gỗ buộc chặt ở cọc cắm, thong thả lắc lư quay lui quay tới trên mặt hồ loang loáng ánh bạc. Những tiệm cà phê nổi tiếng ẩn hiện trong làn sương mờ đục buổi sáng ngái ngủ nhờ nhờ. Thủy Tạ trắng toát in bóng xuống mặt hồ phẳng như phiên gương trong suốt như pha lê.
* Khoảng tháng Tư năm 1973, lần đầu có một chiếc trực thăng, đã bị rớt tại hồ Xuân Hương, Đà Lạt, vô cùng “vô duyên òm, lãng nhách lạ”. Chỉ tại vì mấy anh chàng phi công thích “đào hoa, lả lướt, bay bướm”. Thế thôi.
Tôi đi thăm gia đình anh chị Thuyền ở dưới Địa Dư về. Lúc tôi lái xe honda chạy ngang qua cầu đúc nhỏ, gần khu bệnh viện của ông bác sĩ người Pháp nổi tiếng. Tôi thấy một chiếc trực thăng, đang quay chong chóng vù vù, mà đậu ở dưới bãi cỏ, gần sát khu nhà hàng Thuỷ Tạ.
Sau đó, có ba bốn anh phi công mặc áo vàng, áo xám, lúi húi chạy xuống những bậc cấp nhà Thủy Tạ, họ leo lên chiếc trực thăng. Vài anh còn ngoái cổ hay cúi xuống vẫy vẫy tay chào. Trực thăng vẫn nổ máy ầm ầm, chong chóng quay tít mù, sức gió từ cánh quạt xô những hàng hoa anh đào, hoa mimosa, hang cây xá lị ngả nghiêng. Chiếc máy bay nhấc bổng lên khỏi mặt đất. Anh phi công tài hoa lái trực thăng, cho bay lượn hai ba vòng rộng ra xa xa, rồi từ từ bay thu vòng tròn hẹp lại quanh nóc nhà hàng.
Khi phi cơ nghiêng cánh bên nầy, khi chao cánh bên kia. Nhẹ nhàng, uyển chuyển như một chiếc lá vàng chao lượn trong không gian. Coi phi cơ nhẹ nhàng ung dung uyển chuyển rất lả lướt, bay bướm, thật đẹp mắt người nhìn! Trong nhà hàng Thủy Tạ, có những bàn tay cầm khăn hồng, khăn tím, khăn trắng, giơ lên vẫy chào lia lịa.
Bỗng, một tiếng nổ long trời lở đất gầm rú. Tôi hoảng hốt giật nẩy mình mất hồn mất vía, run rẫy như cầy sấy, hai đầu gối va vào nhau lộp cộp. Phi cơ bay quá gần sát nóc nhà Thủy Tạ. Đuôi máy bay đã chém trúng vào cột thủy lôi. Lúc đó, chính mắt tôi nhìn thấy cảnh tượng hãi hùng kia, khi tôi chạy xe Honda đi ngang qua thao trường, đồi diện với Thủy Tạ.
Tôi bị bất ngờ nên té chúi nhủi xuống mặt đường nhựa, xe honda gầm rú, bánh xe quay tít mù. Tôi ngồi phịch xuống lề đường, toàn thân ê ẩm, đau rần, run bần bật, nhưng hai mắt tôi vẫn dán chặt vào chiếc máy bay.
Lửa ở cột thu lôi của nhà Thủy Tạ liên tục xì xì xẹt xẹt, nổ lốp bốp. Trong nhà hàng người ta rú ré lên, nghe man rợ lắm. Hình như một góc vách tường ở ngoài phía hồ Thủy Tạ bị sập, hay có người bị thương, hoặc té xuống hồ thì phải. Họ nhốn nháo bò lê bò la, hay chạy lui chạy tới rầm rầm, la hét kêu gọi nhau ơi ới.
Chiếc máy bay trực thăng bị lâm nạn thì chao đảo, nó từ từ chúi đầu xuống, bồng bềnh, chơi vơi, rơi chầm chậm xuống giữa mặt hồ tung toé nước lan vòng sóng xoáy vào tận bờ cỏ. Nước dậy sóng bắn vọt lên cao. Nước càng vọt lên cao thêm mấy lần.
Trong khoan máy bay, tôi thấy mấy anh phi công đang loay hoay, hốt hoảng quay lui quay tới. Họ cố tìm lối thoát thân. Một người gục vào ô cửa, đầu anh ta đội mũ bay, dòng máu từ thái dương chảy nhoè khung kính đầy máu. Mấy bàn tay kia chới với đưa lên, tuyệt vọng đấm đấm thật mạnh vào cánh cửa kính.
Toàn thân máy bay trực thăng từ từ lún dần dần xuống trên mặt hồ. Mặt hồ lại dậy sóng bung lên trời, như những ngọn pháo bông khổng lồ. Nước trắng xoá luôn bắn vọt muôn ngàn vòi nước lên cao ngất, từng đợt nước trắng xoá, rồi rơi mạnh xuống mặt hồ.
Chiếc trực thăng bồng bềnh, chao đảo, nghiêng ngả trên mặt hồ chồng chềnh trào dâng sóng. Như chiếc thuyền con cỡi trên sóng biển bạc đầu. Trực thăng nhô lên hụp xuống mấy lần, dần dà chìm xuống từ từ. Chìm xuống. Chìm xuống.
Những bàn tay hoảng hốt, tuyệt vọng giơ lên cao đấm đấm vào cánh cửa kính. Rồi từng ngón tay cào cào. Và, chỉ còn mấy lóng tay yếu ớt rụng rời mất hút. Toàn thân phi cơ chìm hẳn trong lòng hồ. Trơ lại chút đuôi máy bay vô duyên, trơ trẽn ló chổng lên khỏi mặt nước gợn lăn tăn.
Bất ngờ, bàng hoàng, sợ hãi đến tột độ kinh khủng, khi tôi thấy nguyên nhân của dữ kiện, và nhìn thấy rõ sự kiện đã xảy ra trước mắt mình, dù chỉ trong thoáng chốc. Toàn bộ cuốn phim diễn ra trước mắt tôi chính xác, cùng với nỗi hãi hùng kinh dị tột đỉnh là nguyên vẹn không bao giờ phai mờ.
Đúng là đuôi và cánh quạt máy bay chém vào cột thủy lôi cao ngất kia, nên đã gây ra tai nạn khủng khiếp nầy. Bây giờ trông cây cột thuỷ lôi nó cụt lủn, trơ trẽn lạ, vô duyên tệ. Làm xấu xí dị hợm mất thẩm mỹ, khó chịu người nhìn. Cửa nẽo tường vách khu nhà hàng bể toang hoang, làm ô danh trơ trẽn nhà hàng Thuỷ Tạ độc đáo duyên dáng mất rồi.
Từ nãy đến giờ xe chở hàng loạt cảnh-sát hụ còi báo động, xe bên an ninh quân-đội, quân-cảnh, đã phối hợp, tăng cường, ráo riết giăng kẽm gai, họ rào con đường vào Thủy Tạ có hai hàng hoa xá lị, hoa anh đào, hàng mimosa thật nên thơ.
Hình như tôi bị một cú shocking nặng lắm hay sao, mà tôi cảm thấy bãi hoãi chân tay, run rẫy, rụng rời, tôi không thể nhấc thân đứng lên nỗi, hầu nổ máy xe chạy về nhà? Tôi vẫn ngồi ù lì thừ ra ở lòng lề đường, run run bồi hồi. Lồng ngực như có tảng đá đè lên, nghẹt thở mệt kỳ lạ. Tôi rã rời không muốn đứng lên, nên đành bỏ buổi đi dạy học về chiều.
Hầu hết người hiếu kỳ, ở đâu chạy ra nhanh kinh khủng. Họ tập trung đông đảo quanh khu vực hồ Xuân Hương. Họ chỉ biết trơ ra nhìn đuôi phi cơ, mà không thể làm gì hơn. Việc cứu cấp những anh phi công, coi như trớt quớt, hỏng tiệt mất rồi. Bây giờ tôi mới sực nhớ xe honda còn nằm chình ình bên lề. Tôi uể oải đựng nó đứng lên, rồi từ từ leo lên ngồi trên yên xe Honda. Tôi thẫn thờ nhìn sững mặt hồ.
Tôi im lặng nghe thiên hạ xôn xao bàn tán. Chỉ chỏ ồn ào hết biết. Tôi cũng không nhìn trong nhà hàng Thủy Tạ, họ lo chạy lên chạy xuống cầu thang, ra vào làm gì nữa. Tôi chỉ nhìn chút đuôi chiếc trực thăng, mà ngao ngán lắc đầu xuýt xoa thở dài hoài.
Khoảng hai giờ trưa, vài ba người dân địa phương, thay quần áo ngắn, họ leo lên trên nóc nhà Thủy Tạ, bước ra cầu thang, họ nhảy tủm xuống hồ, bơi quanh quanh đuôi máy bay. Họ lặn xuống trồi lên vài ba lần. Rồi họ bò vào bãi cỏ ngồi nhìn ra mặt hồ phẳng lặng. Họ nói to:
- Nước rất lạnh. Đáy hồ sâu lắm. Không thể ở dưới đó lâu hơn. Máy bay đóng kín cửa. Mấy ổng chết hết rồi.
Thời gian chậm chạp, nặng nề trôi qua. Lòng người hiếu kỳ lúc đó, có thể nói là nôn nao kỳ lạ! Họ tụ tập lại khu vực nầy càng lúc càng đông đen hơn. Tôi mệt lử, bần thần ngơ ngẩn như người mất trí, ngố ngáo uể oải dẫn xe honda xuống lề đường nổ máy. Tôi chạy chầm chậm về nhà, bụng đói cồn cào.
Đến hai giờ chiều ngày hôm sau, khi nắng tươi vẫn chan hoà trên vạn vật. Tôi chở hai chú con trai đi xem người ta vớt xác người chết. Mấy mẹ con ngồi chết trân trên xe, nơi thảm cỏ xanh rờn, sát hàng kẽm gai, chờ xem...
Một chiếc xe GMC từ hướng phi trường Cam Ly, chở thợ lặn từ Nha Trang lên. Ba anh thợ lặn thay quần áo, khi thì có canô chở ra giữa lòng hồ. Canô chạy quanh, họ chỉ chỏ, rồi mấy tay thợ lặn nhảy tủm xuống nước. (Khi thì họ tự bơi ra chỗ máy bay đã rớt).
Bốn giờ chiều, thợ lặn đưa cái xác thứ nhất lên bờ. Họ đặt người chết nằm dưới cỏ, loay hoay làm gì đó thật lâu. Vì ngồi tuốt ngoài hang rào, tôi không trông thấy rỏ. Sau đó, bốn anh lính đem cáng thương đến, họ xúm lại nâng cái xác thứ nhất lên. Đặt anh ta nằm ngay ngắn trên băng ca. Họ khiêng anh ta từ trong lối Thủy Tạ đi ra, giữa những hàng người đông đúc, đứng chật như nêm ở hai bên vệ đường.
Anh phi công đeo đồng hồ Omega, mặc đồ bay xám chật căng cứng, mập ú. Mặt mày, và hai bàn tay anh ta sưng húp, bầm tím, tím thẫm một cách ghê rợn. Đôi mắt trợn trừng, tóc dính bệt vào trán. Hai bàn tay thõng xuống, đung đưa, lắc lư, theo từng nhịp đi của những người khiêng cáng. Mũ bay úp trên ngực anh ta nhúc nhích, lắc lư.
Mọi người giạt ra. Hai anh lính chờ sẵn ở chiếc xe hồng thập tự quân-y, đỡ cáng. Họ xúm nhau đẫy cáng thương vào xe. Họ nhảy lên và đóng sập cửa lại. Xe rồ máy sẵn, vút chạy vào hướng trường Võ Bị. Rồi non giờ sau, cuộc vớt xác vẫn tái diễn như lần đầu.
Mọi người dự kiến, đều chán nãn lắc đầu, ngao ngán tiếc thầm cho kiếp trai phong trần. Chỉ vì... vài phút đa tình lả lướt bay bướm, nay trở thành bướm bay lãng nhách! Họ sơ ý lo bông đùa, phi công đã bay lui bay tới mấy vòng, lo cười giỡn lả lơi, vẫy tay từ biệt với mấy người đẹp, người yêu ngồi ngoài balcon ở nhà hàng.
Họ quên mất cột thu lôi đá cao lênh khênh kia. Thật là những bàn tay vẩy chào oan khiêng vĩnh biệt! Đáng giá nghìn năm thương đau, ân hận dày vò người thân suốt cả cuộc đời!
* Tháng 9 năm 1973 - Rồi, chỉ cách khoảng bốn năm tháng sau, thêm một chiếc trực thăng thứ hai, lại rớt xuống gần công viên của khu chợ Đà Lạt, sát dốc đường lên phố Hoà Bình, và cây xăng Shell, nơi bến bãi xe đò đi các Tỉnh miền Tây miền Trung khác. Sau lưng bến xe là Ấp Ánh Sáng. Nhìn qua cầu ông Đạo và góc hồ Xuân Hương.
Thật vô cùng may mắn! Chỗ đó là nơi tập trung đông đúc dân chúng. Họ đi chợ, tấp nập đi các nơi. Nhưng khi chiếc phi cơ trực thăng nầy do người Mỹ lái, bị rớt xuống, chỉ bị thương nặng mấy người đi bộ. Kể cũng lạ! Hôm sau lúc đi chợ, tôi chỉ thấy chiếc trực thăng, nằm chúi sát bên góc đường dốc, dựa mũi lên mấy bờ tường đá. Những cây anh đào gãy cành, bật gốc, còn nguyên. Chưa ai thu dọn. Ngoài ra không thấy ai trong trực thăng trống trơn cả.
Giữa tháng Hai năm 1974 - sau lần nầy, lại có chiếc phản lực F-5 chúi xuống hồ Xuân Hương. Tình trạng khủng khiếp, đau thương gấp trăm lần hai chiếc trực thăng trước. Hôm xảy ra tai nạn khủng khiếp đó, tôi chạy ra hồ xem. Dù mọi ngã đường bị nêm chặt cứng giữa làn sóng người đông đen...

_ * _

Kính mời quý độc giả xem tiếp chương 28
Trân trọng,
Ái Ưu Du
Ái Ưu Du
#151 Posted : Thursday, October 25, 2007 11:53:19 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

CON ĐƯỜNG CẢO THƠM

Chương 28

NGHỈ HÈ







Tôi rất bận rộn về việc vừa giảng dạy, vừa lo tập văn nghệ cho học sinh vào dịp hè. Tôi lo lắng, mệt nhọc, vất vả, qua bao điệu múa, lời ca, vở kịch vui, nặng tình dân tộc, quê hương. Ngày đại hội hiến chương nhà giáo, và phụ huynh học sinh đã đến.
Ngồi sau bàn giấy, tôi thoăng thoắt viết từng hồ sơ, lời khai lý lịch, đơn xin dự thi chuyển cấp, thi lên lớp vân vân… Phụ huynh học sinh ngạc nhiên, tò mò nhìn tôi đầy thán phục. Họ nghĩ tôi tài ba ghê gớm. Họ đâu có biết bàn tay tôi đã rã rời (vì ghi chép và viết thay cho họ), đã tê cứng rồi đây.
Trong chương trình có cả mục trình diễn văn nghệ. Kết quả mỹ mãn không ngờ. Quan khách và phụ huynh học sinh, thân bằng quyến thuộc, anh chị em của học sinh, đến tham dự rất đông đủ. Hội đồng giáo viên chụp ảnh lưu niệm cùng quan khách, các em học sinh. Những người đã cùng nhau chung vai góp sức, góp phần xây đắp nền giáo dục, dựng xây thế hệ trẻ tương lai, ngày một thêm thăng tiến.
Nhân buổi lễ, ông hội trưởng hội phụ huynh, ưu ái mời toàn thể giáo viên qua tham dự ngày khánh thành chùa Long An. Liên hoan, dùng cơm chay. Nhờ lòng mến khách, vị tha, giạt ra những bất đồng nho nhỏ, quý ông hội trưởng, trưởng ấp, được sư cụ và sư sãi trụ trì chùa kính mến. Họ sống đời khất thực lặng lẽ, thanh cao và cẩn trọng. Lòng khao khát an hoà thư thái vươn lên, họ chuyên làm điều thiết thực, hữu ích, tốt đẹp cho đời.
Ông trưởng ấp, hội trưởng và sư ông thân thiết nhau trong tình đồng hướng thượng. Ba ông bạn già đi lang thang chỗ nầy chỗ nọ trong khuôn viên chùa, tay họ đan vào nhau chắp sau mông, cúi đầu chuyện trò nhỏ nhẹ như đếm từng bước đi.
Đố ai biết quý ông sẽ phác thảo tương lai phát triển thôn, ấp, trường lớp, đình, chùa, ra sao! Họ ở vào tuổi tráng niên và lão thành, đó là lứa tuổi trưởng thành, dày dạn, từng trải, chính chắn suy tư nhất.
Ông hội trưởng thư thả bước vào một góc phòng, tước cọng lạt cứng, chọc dọc tẩu vào ống thuốc lào, ông kéo cọng lạt ra, thành màu da lươn bóng, ướt sũng chất nicotin. Ông đưa cọng lạt lên mũi ngửi, năn mũi, nhíu mày, tỏ vẻ gớm ghiết. Ông ung dung hể hả cười, vui vẻ hứa với bạn già ngồi chung mâm cơm chay, là tối nay ông sẽ chơn bát thuốc lào, bỏ hút luôn.
Bàn tiệc cười ồ, họ chêm vào mấy câu bông đùa dí dỏm:
- Ư ừ… thì đó. Đã chôn điếu xuống, lại đào điếu lên là gì.
- Quá tam ba bận nghe.
- Đất chùa khá rộng, đưa đây tui ra chôn cho. Đố ông tìm được à.
Mặt trời chênh chếch sau vườn dốc thoai thoải, tốp người dân quê đi hái rau, hái cây quả về ngang sân chùa. Bóng họ ngả dài thường thượt xuống đồi, trông lêu khêu như người khổng lồ chập choạng bước trên mặt đất tơi mịn. Tiếp sau là nhóm phụ nữ gồng gánh bắp đậu vừa hái, họ bước nhịp nhàng theo thúng gióng đong đưa. Các cô chuyện trò vui vẻ:
- Hái xong nượt ngô đậu nầy, “núc lào dảnh dỗi”, tui sẽ “xang” vườn phụ bác “nàm” cỏ he.
- “Nần nượt nàm” đổi công chứ.
- Hoa bưởi đã “nó lụ da dồi”. Vài tháng sau “nà” có tí đỉnh tiền dắt cạp quần, tha hồ du hi nhá!
Họ chọc ghẹo nhau, tiếng cười vỡ tung ra dưới ráng chiều đỏ thắm. Các đài mây thong dong ngả mình thành từng mảng tơ vàng óng ả, đàn chim chao lượn trên không trung. Chiều chìm dần theo tiếng thông reo vi vu, tiếng gió rì rào xa xa, vẳng lại tiếng nước róc rách chảy trên dòng sông vắng khuất, vời vợi.
Chiều chìm dần theo tiếng gió hiu hiu, lướt qua hình răng cưa trên hàng lá non cuộn hình ốc, cây không hoa, sinh sản bằng bào tử dưới phiến lá dương xỉ.
Tôi nhìn áng mây vàng sáng ẩn khuất bên bìa rừng, như ô cửa quá khứ tình cờ quay về. Tôi gặp lại đoạn đời cũ mình đã nhí nhảnh vui đùa, đã sống duyên dáng vô vàn, bất chợt vừa vang lên, theo tiếng cười các phụ nữ vừa đi qua sân không quen biết. Tôi mỉm cười nhìn họ khuất bóng sau hàng cây, mà cảm thấy vui lây, như mình đang nâng trên tay cánh hoa forget me not, mong manh, tim tím, mềm mại, và bối rối vô cùng.
Do niềm vui sắp được đổi về nơi thuận tiện, gần nhà, tại thành phố Đà Lạt, hơn là do lòng tốt thúc đẩy, tôi ưu ái tặng lại các bạn đồng nghiệp tất cả dụng cụ thính thị, tranh ảnh, đồ dùng trong lớp.
Tôi dùng thì giờ rảnh rỗi, âm thầm đi thăm các em học sinh ở vùng thôn quê xa xôi. Các em nghèo lắm nhưng học giỏi, nhất là rất ngoan, kể cả khi ở nhà các em nhỏ phải quần quật lo giúp mẹ cha làm việc nặng nhọc.
Tôi đến cùng các em, với tấm lòng hướng thiện, luộn rộng mở, nụ cười vui, đôi mắt trìu mến gửi chào lặng lẽ. Tôi nghĩ nhiều về sự thiếu lòng tốt, từ năm ba người cũ, trong bước khởi đầu tôi mới đặt chân đến nơi nầy. Ngày xa xưa ấy do thiếu sợi dây đồng cảm và tình cảm nhạt nhẽo giữa phụ huynh và thầy cô giáo, nên mới có chuyện không vui. Ít nhiểu gì giữa chúng tôi chưa có sự ràng buộc thầy, cô, phụ huynh, học sinh, làng xóm. Một sự ngăn cách, thấy gần nhưng rõ xa, trống rỗng và nhút nhát đến lạ.
Nay trải qua năm bảy niên khóa dài, mọi sự giờ đây trở nên thấu hiểu, tốt đẹp, ấm áp dường bao. Thầy, cô, và phụ huynh thân thương hơn. Nhất là giữa thầy cô và các em, mến mộ, thân thiết nhau xiết đỗi. Thì phải xa rời nhau. Các em nghịch phá nhất lớp ngày xưa, nay ra dáng là cậu thiếu niên chững chạc, ngoan hiền, học giỏi hơn. Thỉnh thoảng đi học trên thành phố về ngang, các em cùng nhau ghé qua nhà thầy, cô, chuyện trò thăm hỏi thân thương, tự nhiên biếu chùm hoa tươi, khiến tôi cảm động dường bao.
Tiếc thay tôi phải ngậm ngùi quyến luyến rời xa, chia lìa họ! Thôi nhé! Tôi đã đến với em, từ dĩ vãng, hiện tại, sẽ dõi theo các em trên bước đường tương lai, mà các em sẽ đạt tới đích cần thiết hữu dụng trong vinh quang. Tôi sẽ đến với các em một đời gắn bó âm thầm. Tôi sẽ gìn giữ mái trường cũ, cùng bao kỷ niệm đậm sâu, nơi đã cho tôi một đời trang trọng đáng sống.
Xin giã từ con đường đất đỏ mỗi độ hoàng hôn, giã từ mái ngói đỏ với hàng cây xanh um tùm lá. Phượng đỏ phơi mình bên đài mây phơn phớt tím. Giã từ nhánh sông không tên, chảy thầm lặng suốt tháng năm qua. Dọc theo hai bờ lau lách, uốn mình vào thác Gougah quạnh hiu, rừng thông theo gió rì rào reo muôn thuở, ru mình vào giấc mộng muộn màng. Khi ráng chiều duỗi mình bên bờ cỏ mịn. Rừng trải trên mặt đất, lớp lá thông khô nâu nâu vàng úa, và bóng mướt.
Chúng tôi gồm: Tôi là Thùy Mến. Kim Liên. Hương. Trầm Mây. Thu Cúc. Anh Thư. Xuân Quỳnh đã đến với các thôn làng đìu hiu. Đã ở lại dài lâu, rồi lần lượt chúng tôi từng người ra đi, cuốn theo vài bạn cùng ra đi về nơi chốn khác.
Trường xưa, học trò bé thơ, bạn cũ. Còn sống mãi trong lòng các cô thầy giáo chăng, hay là còn đọng lại những giọt mưa suốt mùa, rơi rời rạc, lốp bốp, đơn điệu nhỏ từng giọt, từng giọt trên táng lá. Giống như từng giọt buồn nhỏ tong tong xuống vũng nước đọng, bên thềm trường xưa cũ.
Và đây là mùa nghỉ hè đầy vui nhộn, hân hoan cuối cùng trước năm 1975.
Ba tháng sau ngày đại hội phụ huynh học sinh, ông trưởng ấp, thầy Bê, thầy Thăng, bị nhóm người lạ vào nhà, trong đêm hôm khuya khoắt, bắt đi biệt tăm, biệt tích. Một tin rùng rợn kinh hoàng, chấn động giới giáo chức khủng khiếp. Mọi người nơm nớp lo sợ, lấm lét, hồi hộp, run sợ, thì thầm với nhau.
Không ai còn tâm trí, có đầu óc minh mẫn, hầu truyền đạt những hiểu biết, kinh nghiệm của mình, cho thế hệ con em tương lai.

_ * _

Kính mời quý độc giả xem tiếp chương 29
Trân trọng,
Ái Ưu Du



Ái Ưu Du
#152 Posted : Tuesday, October 30, 2007 9:31:01 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

Con Đường Cảo Thơm

Chương 29

ĐÀ LẠT, TAI NẠN PHI CƠ F – 5 KHỦNG KHIẾP





Từng cuộn mây trắng bồng bềnh trôi, in xuống mặt hồ Xuân Hương phớt xanh, như đoàn thuyền con nhấp nhô trên sóng nước. Sương nhã từng cụm dày phơi phới, là là bay bay, như tấm áo lụa mỏng manh của cô thiếu nữ xuân thì lãng mạn.
Mây muốn nâng mình phiêu lãng lên khỏi mặt hồ, chơi vơi giữa dòng đời. Đôi khi mây chuyển thành màu ngà, rồi ánh bạc, lấp lánh từng dãi dài, như tóc bà tiên huyễn hoặc đứng trên đồi tuyết.
Từng đàn chim bay liệng trên không, chúng thi nhau nhã nhạc véo von, hoà ái, lãnh lót. Trên đồi Cù gió lùa trong kẽ lá, thông reo vi vu. Thiên nhiên hữu tình như quyện hút lẫn vào nhau, ngân rền trong phiến nắng đầu xuân. Vui thật vui.
Giữa làn không khí trong lành, mát rượi, yên tĩnh nên thơ, đầy quyến rũ của năm 1974, bỗng có một tiếng nổ gầm rú to kinh khủng. Làm rúng động, quặn thắt bầu trời xanh. Kèm theo một tiếng nổ long trời lở đất rền vang, đinh tai nhức óc. Tưởng như núi Lâm Viên sụt đổ trong ngày tận thế.
Tôi giật nẩy mình, hai tay đang bưng thau nước để tắm cho bé Hoàng Paul, rơi xuống đất, nước văng tung toé trên nền gạch, văng ướt cả quần áo. Chú bé hai tháng tuổi khóc thét lên. Tôi vội chạy đến ôm chầm lấy con trai
Đúng lúc ấy, những tiếng xì xì xẹt xẹt vút vút bay trên đồi Cù, (đối diện với nhà tôi), kèm một tiếng nổ phụ khác, to rền không kém tiếng nổ ban đầu. Mấy cửa kính, cửa sổ, đồ đạc thủy tinh trong nhà tự động nhảy xuống đất, bể loảng xoảng.
Mọi người trên phố đều hốt hoảng, ơi ới kêu rống thất thanh, la lên rõ to. Chỉ non mươi phút sau, tôi nghe nhiều tiếng còi xe cứu thương hú inh ỏi, vang dội góc phố. Người nhà đi chợ về báo tin:
- Một chiếc phản lực cơ rớt ở ngoài hồ Xuân Hương rồi. Mọi nẽo đường bị chận hết.
Thôi chết rồi. Tuấn Michael học ở Đoàn thị Điểm, không lo lắm. Nhưng Dzũng Joseph đang học giáo lý bên nhà thờ con gà. Huy John học mẫu giáo. Bây giờ là lúc các con tan lớp. Các con phải đi bộ về ngang qua cầu Ông Đạo. Làm sao đây hở Trời?
Vô cùng lo lắng, ruột nóng như lửa đốt, tôi run lập cập, không vì mới sanh con còn non ngày, mà vì tôi quá lo sợ. Vội vàng trao chú con út cho mẹ chồng, nhờ me trông coi. Tôi thay bộ đồ ướt, mặc thêm hai áo lạnh. Tôi run rẩy lần từng bước thấp bước cao, khi chạy khi đi, miệng không ngớt lâm râm đọc kinh cầu nguyện.
Từ nhà tôi đi bộ ra bờ hồ, chỉ mất năm phút. Vừa vòng ra đầu ngỏ đường Cọng Hoà và Võ Tánh, gần khu Toà Tổng Giám Mục, tôi đã thấy hàng hàng lớp lớp người người, đông nghìn nghịt. Kẽ la người hét, chạy lui chạy tới lố nhố. Ồn ào hơn vỡ chợ. Tất cả mọi con đường đều bị niêm phong bởi mấy hàng kẽm gai. Quân cảnh, Cảnh sát Dã-chiến, Biệt-đội phòng vệ, phối hợp với Cảnh sát Quốc-gia, tay họ bồng súng, miệng luôn thổi còi báo động. Hoặc giải tán mọi người tò mò, muốn đến gần ven hồ Xuân Hương, nhìn cho tỏ tường.
Nhưng, hình như mọi biện pháp an ninh đề phòng, đều không thể ngăn chặn được làn sóng người hiếu kỳ, mỗi lúc một kéo dồn về khu vực tai nạn, đông hết sức đông. Mặc kệ! Ai muốn la, cứ la, ai muốn chửi cứ chửi. Người ta vẫn chạy đi xem, càng lúc càng đông. Coi như điếc không sợ súng, cứ chen lấn nhau mà xem "cho đã".
Tôi run như cầy sấy, lo sợ tột đỉnh, cố chen vai thích cánh với những người đi bộ, san sát nhau. Tất cả xe đạp, xe gắn máy, xe hơi, đều bị cấm. Thế nên họ đứng ù lì, không thể nhúc nhích cục cựa. Bên kia dốc đường Lê Đại Hành, tôi có thấy chóp đỉnh nhà thờ con gà. Nhưng đã bị xe cảnh sát chận ngang, họ không cho dân vào thành phố, vào khu phố chợ. Nội bất xuất, ngoại bất nhập rồi.
Tôi muốn điên lên, nước mắt cứ trào ra, mặc dù tôi không chủ định khóc. Tôi đứng thừ người nhìn xuống hồ Xuân Hương. Úi trời đất qủi thần ơi! Một cảnh tượng vô cùng hãi hùng, đã phơi bày ra trước mắt: Mặt hồ thường ngày trong xanh dường bao, ta có thể soi rõ bóng mình dưới làn nước im sóng. Thế mà, nay trở thành một đầm lầy, bầy nhầy đất bùn sền sệt, sủi bọt bong bóng. Bong bóng nước to, nhỏ, đủ kiễu, nhiều vô số, cứ đứng yên một chỗ, không bể tan. Mặt nước bầy nhầy từng miếng thịt vụn, thịt mỡ, từng khúc ruột lòng thòng, dính rong rêu, bùn đất, từng cánh tay, lóng chân, giày, dép, mũ, nón, đủ thứ vân vân…, loạn xà ngầu.
Dầu nhớt, xăng máy bay lênh láng, khói đen vần vũ trên mặt hồ, ngay chính giữa hồ, một nửa cánh trái của phi cơ lâm nạn, chĩa thẳng lên trời. Thân phi cơ nhấp nhô khỏi mặt nước đen ngòm. Đuôi phi cơ chổng kềnh, nhô cao lên khỏi mặt hồ. Đầu phi cơ đã chúc xuống đáy hồ, rồi bức thân, đầu phi cơ lại rời thân, bay lên phía sân Cù, và cắm phập xuống đất. Đó là nguyên do tiếng nổ phụ lần thứ nhì, mà tôi đã nghe lúc mười giờ sáng nay. Hết sức may mắn! Chứ cả chiếc phi cơ, hay chỉ một cái đầu của phi cơ thôi, mà rơi đúng vào khu vực phố Hoà Bình, hay rơi vào khu chợ Mới; Thì coi như người dân chết vô số kể! Xin cám ơn Thượng Đế vô ngần.
Loa phóng thanh móc tạm trên cột điện, luôn kêu gào đồng bào, hãy tản mác ra. Hay tiếp tay vời Cảnh-sát dã-Chiến, biệt đội phòng vệ Tỉnh Thị-xã, Cảnh-sát Quốc-gia, giữ gìn an ninh trật tự. Xe cứu thương vẫn hú còi inh ỏi, tới tấp chạy bán sống lên bệnh viện Dalat, hay chạy vào trường Võ Bị Đà Lạt, cấp cứu thương nhân.
Đồng thời, họ kêu gọi đồng bào, ai đã chứng kiến, am tường các sự kiện, xin hãy đến văn phòng tạm, đặt ở sân bến xe đi các Tỉnh. (ở ngay cây xăng Shell gần đầu hồi mấy dãy nhà của khu ấp Ánh Sáng). Chỉ chớp mắt, tin tức chính xác nhất, được loan báo trên loa phóng thanh:
- Có bốn người Mỹ trắng, một Mỹ đen. Năm cặp trai gái, ngồi tâm tình bên gốc cây bách tùng. Sáu người bán dạo: Cà rem, kẹo kéo, bánh bò, khô mực, hột vịt lộn, vé số kiến thiết Quốc-gia. Bảy người ngồi câu cá rải rác bên mé hồ, gần nhà hàng Thanh Thuỷ. Và những người đi tản bộ, hay đi honda, xe đạp, ở chung quanh khu vực hồ, thuộc mé cầu ông Đạo (thì chưa thể đếm được). Họ bị sức gió mạnh phi cơ thần tốc cuốn hết xuống hồ, mất tiêu.
Tôi khiếp đảm, kinh hoàng, rụng rời, đứng chôn chân xuống đất, nhìn mặt hồ Xuân Hương tù hãm. Bên kia lối Thuỷ Tạ, một chiếc trực thăng vừa đáp xuống bãi cỏ. Họ thả mấy người nhái ra, đồng thời xe GMC kéo mấy chiếc thuyền con, ở đâu trong lối trường Võ Bị tới.
Một cuộc tập trung mò kiếm chớp nhoáng bắt đầu. Hầu như tất cả “người dự-kiến” đều ngồi xếp lớp chung quanh vòng bờ hồ. Đen nghịt. Mặt mày ai nấy đều tái xanh tái xám, bất động và tỏ lộ nét lo sợ tột cùng.
Mấy “ngư ông” bắt đầu chèo thuyền đi thật chậm, họ chèo bằng mái chèo tay. Tôi nghĩ có thể họ không dùng thuyền máy, vì sợ máy nổ sẽ khua sóng, không vớt những thi thể rữa nát ra chăng? Bốn anh thợ lặn, đủ đồ nghề đeo đựng đầy người, đã nhảy ùm xuống hồ nước lạnh giá và hôi thối đất bùn.
Bốn “ngư thuyền” cầm lưới to bảng, có cây sắt dài, người chèo, người vớt những miếng thịt vụn, những khúc ruột, những lóng tay, lóng chân, vân vân... Họ bỏ vào bọc nilông đen, đựng trong mấy chiếc thau nhôm to. Họ chèo vào bên mé bờ hồ, phía gần nhà hàng Thanh Thủy. Trong khi đó, những thân nhân của người lâm nạn, nằm vật vã trên các gốc bách tùng, các bãi cỏ, họ gào khóc thảm thiết vô cùng. Họ chẳng cần biết những cái bọc ni lông đen đó, là thịt của bà con họ, hay của ai!?
Đứng trên bờ, người ta có thể nhìn thấy những miếng thịt vụn trôi đi trôi về, trôi vòng vòng quanh quanh, dính từng chùm bồng bềnh trên mặt nước ao tù. Lập tức, người nầy chỉ cho người kia xem, rồi họ đồng loạt kêu to, ngoắt vẫy tay lia lịa, cho bác “ngư thuyền” bơi đến “vớt xác” lên.
Cô bạn tôi, nhà ở ngay ấp Ánh Sáng, dãy nhà thứ nhất. Cô đã kể lại trên loa phóng thanh:
- Lúc đó, tôi đang phơi quần áo trước sân nhà, bỗng nghe những tiếng động vô cùng điếc tai, ào ào, cuồn cuộn. Gầm rú. Rồi một sức nóng kinh khủng từ trên trời chụp xuống đầu, rất nhanh. Kèm theo những đường khối lửa đỏ lòm, chạy dài từ hướng Cam Ly về, nóng tột độ. Theo đà lướt của phi cơ, tôi bị xô chúi nhủi, nằm sấp đập mặt xuống nền xi măng. Tôi cứ tưởng trời long đất lở. Tức ngực. Điếc tai, đau đầu ghê lắm.
Ba dãy nhà bên ấp Ánh Sáng, nhiều mái tôn bị lột sạch mái, bay đi tứ tung, hay căn nhà nào còn, cũng bị cháy đen, bị cuốn cong lại. Ôi thật hãi hùng. Nặng nề nhất là dãy nhà thứ ba, đa số nhà còn làm nhà bằng gỗ, lợp mái tôn, bị cuốn sạch, hư hại, sụp đổ khá nhiều. Vì dãy nhà thứ ba nầy, nằm dưới sức ép, và sức nóng của đường bay phản lực xẹt qua. Có những mái nhà, vách ván, giống như miếng bánh tráng bị nướng phồng rộp lên, cháy đen. Những hàng cột cháy trụi. Có những nhà bị sập, hay chỉ còn lại bức tường vách chông chênh. Trông thật ngao ngán.
Một vài nguồn tin khá chính xác, loan báo về thân phận chiếc phản lực cơ như thế nầy:
- Tin thứ nhất: Anh phi công lái chiếc F 5, từ Sài Gòn lên vùng Cao Nguyên, đi làm nhiệm vụ. Sau khi xong việc, bị trục trặc kỷ thuật sao đó, nên anh ta dự tính lái phi cơ, bay trở về bãi đáp ở Sài Gòn. Nhưng không kịp. Phi cơ lao từ phi trường Cam Ly, chạy đâm đầu xuống hồ Xuân Hương.
- Tin thứ nhì: Một sĩ quan pilot Việt Nam, có cô fiancé ở ngay ấp Ánh Sáng, chỉ còn độ tháng nữa, là họ làm đám cưới. Trước khi đi phi vụ, anh ta đã phone lên dặn dò cô vợ tương lai là:
- Anh sẽ ghé qua vùng trời nầy, bay lượn một vòng hơi gần trên khu nhà em. Khi đó, em nhớ chạy ra sân, cầm chiếc khăn hồng, vẫy tay chào anh. Có thể anh sẽ thả một cái dù nhỏ, liệng thùng quà cưới nhỏ xuống, ở ruộng rau gần suối trước nhà.
Đó là lời của một cô gái trẻ, kêu khóc, vừa nức nở kể lung tung lại trên loa phóng thanh. Bố ai mà tin cho nỗi! Theo tôi nghĩ: Nếu anh bay quá thấp, sức hút của trái đất, sẽ kéo giật phi cơ hụp mạnh xuống. Anh không thể kềm phi cơ (trở thành nặng nề kinh khủng), để phi cơ có thể nhẹ nhàng tự vút bay lên cao. Khi anh tống ga thì sức quay cánh quạt tạo lực đẩy rất mạnh, anh cũng không thể kéo phi cơ trở lại bình phi tối thiểu ở 200 bộ, (có tốc độ kinh hoàng của F 5), trong một khoảng không gian vừa thấp vừa hạn hẹp đến thế. Lại càng anh không thể ngồi trong buồng lái, mà “ném” thùng quà cưới chính xác, cho cô dâu “chụp”! Thật là huyền thoại hoang đường mộng ảo, điên rồ không tưởng!
Trên trời, mấy chiếc bà già, L-19, trực thăng, luôn bay lượn vòng vòng. Một chiếc trực thăng hạ cánh xuống đồi Cù, khu vực nầy hoàn toàn bị cô lập. Mấy phi công Mỹ đang lúi húi tháo những cục bạch kim. Hồi nãy, cánh quạt của chiếc F 5 bị nạn, quay tít, đã chém chết một em bé chăn bò, và mấy con bò gặm cỏ.
Ngay tức khắc, ông Tỉnh Thị Trưởng Đà Lạt ra lệnh cấm: Người dân không được dùng nước, ở khu vực hồ Xuân Hương. Nhà máy nầy đóng cửa. Nhà máy nước uống ở Suối Vàng, hồ Than Thở, sẽ cung cấp nước cho toàn dân thành phố Đà Lạt.
- Thưa ông Tỉnh Thị Trưởng ơi! Thấy cảnh tang thương, rùng rợn kinh khủng kia, người dân Đà Lạt hiền lành sợ mất hồn mất vía, kinh thiên động địa. Không lăn đùng ra mà chết bất đắc kỳ tử, là may thì thôi. Có mô dám ăn uống cái thứ nước máy sền sệt, hôi tanh không thể chịu nỗi chớ!
Tôi xem phi cơ rớt đã đời xong, sực nhớ chú con trai đầu lòng, tên Quốc Dzũng đang học giáo lý ở bên nhà thờ Chính Toà (mà cư dân địa phương, thường gọi nhà thờ con gà). Tôi cố chen lấn, len lõi, lùi ra xa. Vất vã lắm, tôi mới tìm lối thoát ra được vòng người ngoài cùng, ở gần toà nhà tổng giám mục.
Thế là, tôi đâm đầu chạy một mạch về nhà ở phía đường Cộng Hoà, Võ Tánh, Phan Bội Châu, phố vắng như chùa bà Đanh. Tôi chạy ngược trên đường đến rạp ciné Ngọc Lan. Tôi không nhớ là mình có tiền trong túi, để nhảy lên xe lam, hay xe taxi đi cho lẹ.
Tôi cứ cắm đầu, cắm cổ mà chạy một mạch xuống đường Cường Để. Chạy lên dốc Bà Triệu, lại chạy trên đại lộ Yersin, chạy tới nhà thờ. Hai chân bắt đầu run, tôi ngồi phịch xuống trên bờ cổng đá của nhà thờ. Thở hổn hển. Cha phụ trách lớp giáo lý báo tin lành:
- Bình yên cả. Lẽ ra, cha cho lớp về đúng giờ. Nhưng không hiểu sao, hôm nay chưa cho các em về, chậm mất nửa giờ, để tập dợt. Nên thoát nạn.
Tôi cám ơn cha. Vô cùng tạ ơn Chúa! Lòng khấp khởi vui mừng. Như thế người dân chết ít thôi, chứ nếu chiếc phi cơ kia, rớt đúng vào lúc tan trường, tan sở, người người qua lại khu cầu ông Đạo nầy, khá đông. Hẳn là chết vô số! Ôi!
Nhưng, ngồi được một lát, tôi bật lên như chiếc lò xo. Chưa thấy các em học sinh. Tôi dáo dác nhìn quanh. Sân nhà thờ vắng lặng. Cha phụ trách đã bỏ đi lúc nào không rỏ. Tôi chạy trở lại đường cũ, trở về nhà. Lúc nầy tôi mệt kinh khủng! Phần mới sanh con còn non ngày, phần khắc khoải lo sợ và chạy bộ cả buổi như thế. Người tôi lả đi, hụt hơi, tim đập thình thịch muốn nghẹt thở.
Buộc lòng tôi phải đi từng bước ngắn, có khi ngồi bừa lên lề đường, thở hổn hển, nghỉ mệt. Thế rồi, tôi cũng lê bước về tới nhà. Tôi thấy bé Dzũng đang ngồi trên giường, con toe toét cười. Con kể chuyện lại với bà nội, và mấy em nghe:
- Học và tập dợt xong. Đáng lẽ là con về rồi. Nhưng cha phụ trách gọi các con ở lại. Tụi con đứng trên sân nhà thờ, tự nhiên cha hỏi giáo lý. Rồi cha cho tụi con ăn bánh ngọt. Kể như vừa giải trí, vừa ôn bài. Vì chỉ còn ba ngày nữa, là thi. May quá! Nếu cha không kêu tụi con ở lại, thì đúng lúc đó, là con đã đi về tới ngang cầu ông Đạo rồi.
Tôi mừng rỡ đến ứa nước mắt. Dịu dàng hỏi con trai:
- Sao con về nhà được?
- Con đang đứng ngoài sân nhà thờ, thì thấy những đám khói mù mịt, toả xịt từ trên trời xuống, lửa đỏ rực, kéo dài từ hướng Cam Ly. Cả tiếng động, tiếng kêu rất điếc tai. Cha biểu tụi con lủi chạy vô, núp dưới hầm nhà thờ, nằm xuống nền nhà ngay. Nhưng tụi con chỉ chạy vô tới ngang cửa hông, là nghe mấy tiếng nổ to lắm. Nằm một hồi lâu, không thấy gì nữa. Cha cho chúng con đi về nhà ngay.
- Mọi người đều bị cấm đi qua cầu ông Đạo mà.
- Dạ phải. Con chạy xuống dốc nhà thờ, định về nhà. Nhưng bị xe cảnh sát chận lại. Họ không cho đi. Người ta đứng coi ở bên phố, bên chợ, đông lắm. Con khóc vì sợ quá. Cuối cùng con tụt xuống dốc nhà thờ, con chạy qua đường Phạm Ngũ Lão, chạy qua cầu Bá hộ Chúc, lên phố, mà về nhà.
Bé Tuấn mới bảy tuổi, cũng góp chuyện:
- Con ngồi viết bài trong lớp. Nghe tiếng động điếc tai, nổ to lắm. Rớt cái la phông và cái bảng đen. Bụi đất, gạch cát, bay rào rào trên đầu. Thầy Tu nói tụi con chui xuống gầm bàn, nằm úp mặt xuống đất, hai tay bưng lấy đầu. Nằm lâu lắm. Thầy đi đâu đó, rồi cho tụi con về nhà. Thầy nói bị rớt máy bay ở bờ hồ. Thầy cấm, không cho tụi con đi xuống chỗ cầu ông Đạo. Tụi con chạy xuống rạp ciné Ngọc Lan, con đứng trên sân coi. Đông lắm.
Đồng thời, lúc đó Tứ chân thấp chân cao, chạy về ở ngoài sân, anh thở hổn hển, đã hỏi dồn:
- Em ơi! Các con về nhà chưa?
Dzũng, con trai lớn của tôi nhanh nhẹn đáp lời ba của nó, thay tôi:
- Dạ! Các con về rồi. Ba yên tâm.
Tôi mệt quá chừng! Không nói nên lời, chỉ gật gật đầu. Đông đủ cả nhà! Chúng tôi mừng rỡ vô cùng. Không ngờ các con tôi biết tìm lối về, khôn ngoan đến thế! Vậy mà, tôi quá lo lắng, run sợ con tôi có bề gì... Hay bị kẹp cứng giữa làn sóng người đông đúc. Các con trai chỉ mới chín tuổi, bảy tuổi đầu, nếu không bị kẹp cứng trong đám đông hơn kiến, sẽ bị nghẹt thở, bị người ta to lớn dềnh dàng, xô đẩy, dẫm đạp lên đầu lên cổ, tất bẹp dúm ra! Thì chết là cái chắc. Tạ ơn Chúa!
Tai nạn thương tâm đó đã xảy ra hơn một tuần rồi. Ấy thế mà, mặt hồ luôn luôn sôi bọt bong bóng. Bọt bong bóng cứ hết bể bụp cái nầy, lại nổi lên bong bóng khác, sủi sì sụt. Lúc nầy người hiếu kỳ đến xem, thưa thớt dần dần. Họ chỉ tập trung vào mỗi buổi chiều nhàn hạ, khi mặt trời chưa gát núi.
Riêng tôi, mỗi ngày đi dạy học, tôi dẫn hai con trai đi, phải đi ngang qua bờ hồ, qua cầu ông Đạo, đi bộ tới trường. Chung quanh khu vực nầy bắt đầu có mùi hôi khó chịu. Tôi luôn chứng kiến những cảnh đau lòng, thương tâm vô cùng, mà âm thầm rơi lệ. Tôi thấy những thân nhân (của người bị nạn) cùng nhau tụ họp lại, ở ngay góc bờ hồ, phía bên lối đầu cầu (gần Hạnh Tâm) vào chợ.
Họ mở đàn cúng cầu siêu suốt tuần. Họ đặt những cái quách dài độ bảy tấc, để dưới thảm cỏ, ven bờ hồ. Từ trong quách ấy, họ trải những tấm vải trắng dài thật dài, làm thành những bậc cấp, nối liền cái quách với mặt hồ, chạy dọc xuống dưới nước. Họ cúng chiêu hồn suốt mười ngày đêm. Ngày, đêm nhang trầm đều nghi ngút. Thầy cúng đến cúng vái. Thân nhân khóc than não nuột. Tiếng khóc than rên siết bay lên trời cao. Thảm thiết lắm. Không ngày nào đi ngang qua khu vực cầu ông Đạo nầy, mà tôi không khỏi nhỏ nước mắt, khóc thương người dưng: Nhưng họ cùng màu tóc đen, màu da vàng, mũi tẹt!
Sau mười ngày, một buổi sáng tinh sương, họ cuốn mười mấy tấm khăn trắng kia, cuốn từ từ ở dưới nước lên dần tới cái quách, họ bỏ hẳn vào trong quách, chỉnh tề, ngay ngắn. Mỗi cổ quách, có hai thầy cúng đứng hai bên, (vừa tụng kinh, vừa cuốn tấm vải) Thân nhân bò lết dưới đất vật vã, khóc rống lên. Thảm thiết vô cùng. Thầy cúng cho người đóng cổ quách lại. Chở đi.
Mặc dù người ta đi xem cuộc chiêu hồn, đông vô số kể, nhưng mọi người im lặng cúi đầu quệt nước mắt xót thương. Đó là chút tình “tứ hải giai huynh đệ. Máu chảy ruột mềm. Thương người như thể thương thân. Bầu ơi! Thương lấy bí cùng. Tuy rằng khác giống, Nhưng chung một giàn”! Là vậy.
Mặt hồ Xuân Hương suốt tháng qua vẫn sủi tăm, bồng bềnh những bèo bọt bong bóng nhớp nhúa. Bùn đất tráng lên mặt nước đen ngòm rờn rợn. Hôi thối tanh um kỳ lạ. Dầu, mỡ, xăng nhớt, cứ đọng lại từng khóm, ánh lên từng vệt loang dưới mặt trời đỏ chói. Không có cách gì tẩy uế hết. Thật ngao ngán quá chừng. Dù mỗi ngày, chuyên viên tháo gỡ phi cơ, lặn xuống hồ tìm kiếm... tha lên ít một.
Cuối cùng, trước mùa mưa, ông giám đốc nhà máy thuỷ điện, phải cho mở những ngăn cửa đập, dưới chân cầu ông Đạo, xổ hết nước trong hồ Xuân Hương, cho nước chảy qua cầu Bá hộ Chúc. Con suối nhỏ uốn lượn chảy vào men phố Cường Để, rồi chảy vào thác cam Ly, lẫn khuất trong rừng sâu.
Hồ Xuân Hương đã lồ lộ chiếc phi cơ nhăn nhúm, cụt lủn, như trái táo khô, trông vô cùng khó coi! Vô duyên xấu xí hết chỗ nói. Lòng hồ sâu hắc ám phơi ra giữa lộ thiên, giơ đầy sự bẩn thỉu lên trời. Đáy hồ lổm chổm những đụn rác rưởi ô tạp. Cỏ lác, cỏ năn, quyện chặt với xe đạp, vỏ xe hơi, xe honda rải rác, xác xương súc vật. Tôm búng mình, nhảy tưng tưng trên mặt bùn sền sệt. Ếch nhái, lươn, lủi thật nhanh. Cá lớn cá bé phóng mình giãy giụa, đập đuôi bành bạch trong sình lầy đặc quánh.
Dạo trước, ai ai cũng thấy bề mặt của hồ Xuân Hương, thơ mộng, tuyệt diễm, quyến rũ, tràn lan thi vị là thế. Không ai trông thấy bề sâu của lòng hồ cả. Nay, lòng hồ đã khác hẳn cách nhìn...

_ * _


Kính thưa độc giả rất thân mến!

Ái Ưu Du viết truyện dài: "Con Đường Cảo Thơm” - Đến đây - xin tạm ngừng.
(Còn ít chương cuối, ÁƯD xin mạn phép để dành lại một bất ngờ thú vị…)

- Ái Ưu Du đã sáng tác những truyện dài hoàn tất sau đây:

1.- HIẾN CHƯƠNG TÌNH YÊU -
2.- GIỮA HAI LẰN ĐẠN -
3.- CHUYỆN ANH & TÔI -
4.- CON ĐƯỜNG CẢO THƠM -
5.- HOÀI HƯƠNG XƯA -
6.- VẪY GỌI CON THUYỀN -
7.- ĐƯỜNG THIÊN LÝ
8.- PHÙ DUNG -

*

Kính mời quý độc giả kính mến đón xem.
Trân trọng,
Ái Ưu Du

aiuudu@yahoo.com

Ái Ưu Du
#153 Posted : Friday, November 2, 2007 11:13:09 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

Công Huyền Tôn Nữ Vì Dân
CHỨNG NHÂN một SỰ KIỆN LỊCH SỬ





Lúc nầy tình hình chính trị tại Việt Nam, ở vào giai đoạn “dầu sôi lửa bỏng”. Sau những vụ chấn động. Vì Dân nghiệm thấy đằng sau hậu trường, có bóng dáng những tay “mưu đồ chuyên nghiệp”. Đã giựt dây. Để tạo sự bạo loạn - Vô tổ chức. Tình trạng “hỗn quân hỗn quan”. Hầu lợi dụng thời cơ... nước đục thả câu.
Một tuần lễ công tác trong Tổng-hội Sinh- viên Việt Nam ở Huế. Đã gây cho Vì Dân bao điều xót xa. Cùng làm việc với Dân trong tuần lễ đó. Có một anh sinh viên rất qúy mến bạn. Anh ta ngầm báo với Dân là:
- Hãy hết sức cẩn thận. Đề phòng. Tính mạng của các anh chị. Hiện nằm trong tay “Họ”.
Thú thật, Dân không hiểu mình đã làm gì sai? Và, chẳng thể biết. Không hình dung nỗi “Họ” đây. Là anh ta muốn “ám chỉ” về ai? Bởi vậy, ban ngày Dân và các bạn ghi tên ở khách sạn. Ban đêm đi ẩn nấp. Khi ngủ chỗ nầy. Khi ngủ dưới ghe bà Nẫm. Đến khuya cho ghe neo đi chỗ khác. Lúc lên gần cầu Bạch Hổ. Khi về cầu Gia Hội.
Miền Trung, hoàn toàn do sinh viên chi phối. Dẫu ông tướng Thi đang nắm giữ quyền bính trong tay. Ông bất tuân lệnh của Sài Gòn. Dân và các anh đã từng chứng kiến chuyện đau lòng: Dù sao ông Sĩ cũng là một trưởng phòng Nội-an ở Huế. Khi ông Sĩ thương lượng với sinh viên. Sinh viên dùng số đông trấn áp. Hỗn độn hết biết. Ông Sĩ bị bắt trói thúc ké. Ông Sĩ qùy dưới đất, mặc bộ đồ thường dân.
Đấy là dấu hiệu “loạn quân loạn quan” đã lên cao độ rồi. Cái nền dân chủ sơ sinh. Mà như thế nầy. Thì... tương lai đất nước, sẽ còn tối đen. Như đêm ba mươi Tết. Thanh niên là rường cột của quốc gia. Như con dao hai lưỡi. Sẽ đi về đâu? Vì Dân cảm thấy chán nãn tột đỉnh. Cúi đầu quay gót, Dân không hề dám ngoảnh lại nhìn.
Nói chung, lúc đó quả thật là một xã hội trôi bồng bềnh. Như chiếc tàu không người lái. Mặc ai muốn làm gì thì làm. Luật pháp bị xô ngã. Nhường bước cho sức mạnh bạo lực. Lên nắm chính quyền điều hành. Mà ngộ ha! Họ chưa từng kinh qua một trường lớp nào. Chưa có kiến thứ sâu rộng. Học hỏi nhiều về “chiến tranh chính trị” cả!
Vì Dân đã đánh mất tất cả tin yêu vào cuộc đấu tranh vô bổ. Vã lại, Dân thấy chuyện chính trị, hoàn toàn không phù hợp với quan niệm, hoài bão, lập trường của ta. Dân muốn tìm riêng cho mình, một lối thoát ôn nhu. Tìm về (cuộc sống vô tư, thanh thản hữu hiệu, thật sự đáng sống trong cuộc đời hơn). Vì Dân muốn sống một cuộc đời thực sự bình dị. Chất phác. Ôn hoà. An lành. Như mọi công dân hiền hậu khác. - Không oán ghét, chẳng vò xé hận thù. Không vướng mắc mọi ưu tư trong lòng.
Đồng thời, rất buồn vì chuyện tình yêu giữa “chàng và nàng” bị đổ vỡ vô cớ. Kèm theo chuyện “chính chị chính em” dị kỳ. Dân không muốn mọi thứ luôn thọc mũi dùi, vào đời sống sinh viên, quấy rối nữa! Vì; (Tất nhiên có cả các anh bạn của Dân nữa): Anh còn nhớ rất rõ: Buổi chiều đó, một buổi chiều nắng nhạt. Bình thường như bao buổi chiều khác. Có khác chăng, là một tí nữa đây. Vì Dân và hai anh bạn sẽ được vinh dự, làm người – Trong những người tận mắt chứng kiến - Một sự kiện lịch sử. Từ đầu đến cuối sự kiện trọng đại nầy. Có nhiều dư luận. Có nhiều lý thuyết. Có nhiều phán đoán. Có nhiều nghi vấn. Nhưng “trăm nghe không bằng mắt thấy”.
Đó là một buổi chiều định mệnh. Vô cùng bi thảm vào đầu tháng 11 năm 1963 – Đúng hơn, là buổi sáng đó, ông Trần Trung Dung - nguyên Bộ Trưởng Quốc Phòng, dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Ông Dung đã gọi phone đến. Dân và anh bạn ngồi gần bàn làm việc. Nên bắt phone và chuyển sang cho ba Hai chủ tiệm.
Sau một hồi trao đổi. Giọng ba Hai rất lo lắng. Bối rối. Quắt quay. Bồn chồn. Như có điều gì bức xúc lắm. Cuối cùng ba Hai thở dài. Buông phone xuống. Ba Hai nhìn mọi người hiện diện. Ba Hai rướm lệ, nói nhỏ:
- Tổng Thống, và ông Cố Vấn Nhu đã chết.
Bàng hoàng. Sửng sốt. Mọi người túc trực trong phòng khách, mở tivi lên xem. Hội đồng tướng lãnh do Trung-tướng Dương Văn Minh đứng đầu. Đảo chánh đã thành công. Ông tuyên bố là: “Tạm thời lãnh đạo quốc gia”. Đài phát thanh Sài Gòn chỉ mở nhạc hoà tấu. Luôn luôn nói anh em ông Diệm đã tẩu thoát.
Chẳng nói chẳng rằng, ba Hai vội vã kiếm người đi gọi đạo tỳ đến xưởng. Chuẩn bị “hậu sự” cho Tổng Thống và ông Cố-vấn. Trong khi đó, ở nhà kho có nhiều hòm tuy đẹp, đắt tiền. Nhưng không mấy xuất sắc. Chỉ còn một cái hòm tốt nhất bằng gỗ gia tỵ, là loại gỗ rất quý hiếm. Có bọc sẵn thêm cái hòm kẽm ở bên trong.
Ngoài ra, còn một cái hòm nhôm mới toanh của quân đội Mỹ. Chiếc quan tài nầy rất đẹp. Làm bằng nhôm nhẹ, hai lớp. Bên ngoài mạ lớp sơn bóng loáng. Bên trong bọc một lớp đệm mỏng. Êm ái như tấm đệm giường ngủ. Nắp mở ra đóng vào, bằng kính, được dễ dàng. Chốt cài bên hông. Có thể lộ cả khuôn mặt người quá cố. Cho mình nhìn tiễn biệt phút cuối cùng. Nếu là xác đã ướp lạnh, có thể để lộ ra ngoài.
Lẽ ra là chiếc hòm nầy, đựng thi hài một viên Tá Mỹ đã từ trần. Nhưng không hiểu sao, họ mang bỏ nó ở bên hông nhà ướp lạnh. Trong phi trường Tân Sơn Nhất. Tình cờ, ba Hai đi làm việc đã thấy. Tiếc quá, nên ba Hai nài nỉ, thương lượng với tên quản lý nhà xác. Ba Hai mua lại. Hầu trưng bày trong tiệm coi chơi. Ai mua giá cao cỡ nào, ba Hai cũng không bán. Thế là ba Hai quyết định:
- Chỉ có Tổng Thống, mới xứng đáng, nằm an nghỉ trong đó thôi.
Cả hai khuôn hòm được mang ra lau chùi bong loáng, sát trùng sạch sẽ, chuẩn bị sẵn sàng chờ lệnh ông TTD.
Hôm đó, tình cờ Trung (bạn Dân, đang học Y khoa, năm thứ Năm) vào nhà ở chơi. Trung nghe nói sắp đi tẫn liệm hai anh em nhà họ Ngô. Trung xin phép đi cùng. Gần 11 giờ trưa, phone của ông TTD gọi báo:
- Nhờ ông vui lòng mang khuôn hòm, đến nhà xác bệnh viện Saint Paul. Ở đường Tú Xương. Ông chỉ cho những người có bổn phận cần thiết đi. Tuyệt đối không cho ai lạ tháp tùng nghen. Xe chỉ chở một quan tài đến đó.
Ba Hai nêu ý kiến, hỏi:
- Có nên lấy thêm một xe nữa. Đi theo phía sau xa xa. Hay không?
- Chở từng cái một. Mang cái “đầu tiên” trước. Cho một xe tang vào thôi.
Ba Hai tuân lệnh. Đem cái hòm đặc biệt “đầu tiên” đi. (Ý họ muốn nói đến ông Diệm, là người sẽ liệm trước tiên). Chiếc xe tang lăn bánh. Trên xe có má Hai chủ tiệm. Anh. Trung. Bốn người đạo tỳ. Xe lao vào đường phố vắng tanh. Như đi trong thành phố chết. Hay đang vào giờ giới nghiêm. Thiết quân luật vậy.
Đến đường Tú Xương, Dân mới thấy họ đã cho các chốt cảnh sát, quân cảnh, xe jeep chận ngang các ngỏ vào nhà xác. Khi xe tang vào hẳn bên trong. Một soeur, hình như có lệnh trước, đã vội vàng kéo cánh cửa đóng ập lại. Chỉ có một ngọn đèn vàng, lù mù leo lét thôi. Bốn đạo tỳ mang quan tài, đặt trên bệ đá cẩm thạch, trong nhà xác.
Ngoài các anh, Vì Dân, má chủ tiệm, và bốn đạo tỳ ra. Hai soeur có lẽ ở bệnh viện nầy. Thêm hai vợ chồng người kia. Ông ta là người nước ngoài. Vợ ông là người Việt (mà sau nầy mới biết, ông là cháu rể của Tổng Thống). Ông ta lăm le chiếc máy ảnh trong tay.
Độ chừng hai mươi phút sau, bỗng có một chiếc hồng thập tự, kiễu Dodge nhà binh, (màu cứt ngựa) thắng lết bánh, đỗ xịch lại. Bà soeur kia lại mở cánh cửa nhà xác ra. Từ trên xe có bốn quân nhân, khiên cái băng ca đi lắc lư. Trên đó có một người nằm. Cũng nhún nhảy, lắc lư theo. Họ mang băng ca vào, để xuống đất. Chả buồn nhìn, hay nói câu nào. Họ vội vã quay trở ra. Leo lên xe. Chiếc xe Dodge lại rít lên. Vút đi trong sự im lặng hãi hùng. Nghe rợn tóc gáy.
Lúc bấy giờ, cả nhóm đứng sát bên băng ca. Người nằm trên băng ca là vị Tổng Thống kính mến của miền Nam Việt Nam Cộng Hoà. Ngài mặc bộ veston màu xanh rêu, thắt cà vạt xanh đậm, có chấm trắng. Dưới chân mang chiếc giày màu đen. Bên chân kia, chỉ có một chiếc tất trắng. Ngài nằm đó, im lặng. Như chìm trong giấc ngủ bình an. Không muộn phiền. Chẳng khổ đau. Như đang say giấc ngủ ngàn thu. Cả bộ comple chìm trong màu máu. Trên đầu có một vết thương sâu, từ dưới ót, trổ lên đỉnh đầu bê bết máu.
Ánh sáng loé lên. Thì ra ông ngoại quốc kia, đã bấm được vài tấm ảnh. Chả hiểu ông lúng túng, sợ hay sao ông lại ngưng. Có lẽ ông thấy cảnh máu me lan tràn như thế. Thật đau lòng. Nên ông không cầm nỗi cơn xúc động?
Sau khi đạo tỳ khiên xác Ngài lên, đặt lên bệ đá cẩm thạch khác. Má chủ tiệm nói Hoàng, Trung. Cùng hai soeur, lấy bông gòn và compresse nhúng đầy alcohol. Lau nhẹ nhàng lau sạch sẽ. Lau rất cẩn thận các vết máu. Sửa sang lại áo quần cho chỉnh tề, ngay ngắn. Bốn đạo tỳ cắm cúi lo tẫn liệm ông đàng hoàng. Ân cần. Chu đáo.
Má chủ tiệm lâm râm đọc kinh, cầu nguyện cho linh hồn người quá cố. Má Hai nhét vào tay Ngài xâu chuỗi hột mân côi. Hình như Tổng Thống mới chết. Cho nên hai bàn tay đã khép lại dễ dàng, giữ xâu chuỗi. Như ông đang lần hạt. Mọi người hiện diện có cảm tưởng tim đập thiếu nhịp. Thở hụt hơi. Nghẹn ngào. Ngậm ngùi. Cay đắng. Xao động. Đau xót kinh khủng. Thương tiếc sâu sắc. Buồn mênh mông cho kiếp phù sinh bạc mệnh. Ngắn ngủi.
Chưa kịp đậy nắp hòm, thì chiếc xe hồng thập tự lúc nãy, trờ đến. Cánh cửa lại được mở ra. Họ khệnh khạng bưng cái xác thứ hai vào. Bà soeur khép cánh cửa lại ngay. Đó là ông Cố-vấn Nhu mặc áo sơ mi trắng cụt tay. Đẫm máu. Áo bỏ trong quần hơi xộc xệch chút. Ông mặc quần màu nâu nhạt, thắt dây lưng da. Mang đôi giày màu kem.
Gương mặt ông có vẻ oán hận. Bất bình điều gì. Cho nên vầng trán thật cao, cau lại nhiều nếp nhăn. Đôi môi mím chặt rất nghiêm nghị. Anh không thấy nét thanh thản bình an. (Như gương mặt của người anh). Ông nằm hơi nghiêng qua một bên. Anh thấy ông bị rất nhiều vết đâm. Loại dao baionet của quân đội. Máu vẫn túa ra, từ các vết thương đó. Trên đầu, ngay thái dương có hai vết thủng. Đó là dấu đạn đi xuyên từ bên nầy, sang bên kia.
Công việc tẫn liệm cũng tuần tự diễn ra. Cẩn thận nhưng hơi vội vàng như lần trước. Không khí lúc nầy, quả thực nặng nề kinh khủng! Im lặng hoàn toàn. Hình như ai ai cũng thở rất nhẹ. Vì sợ mỗi tiếng động, làm dấy lên từ đáy lòng mình. Tiếng nấc than vãn. Khóc thương một kiếp người bạc phận!? Hay làm hỏng cái không khí kính cẩn tôn nghiêm. Nơi con người thực sự đã bước chân vào cõi vô cùng mong manh?!
Vì Dân cảm thấy mệt lả. Nghẹn trong cổ. Vội kéo Trung bước ra thềm nhà, đi về hướng Phan Thanh Giản. Cho dễ thở hơn. Đó là hình ảnh vô cùng thương tâm. Dân sẽ không bao giờ quên. Không bao giờ phai mờ trong trí óc. Vì, rất thật. Quá thật tình cờ... mình là chứng nhân một sự kiện lịch sử trong thế kỷ. Ý thức thấy rõ là: Cuộc sống như bong bóng mây bay giữa lưng trời rám bạc. Như cây muốn lặng, mà gió chẳng chịu ngừng. Ngay lúc đó, Dân thấy một đoàn biểu tình, rầm rộ kéo nhau xuống đường. Họ vừa đi vừa hò hét. Đả đảo chế độ gia đình trị họ Ngô. Họ đi thẳng tới biệt thự, đường Phan Thanh Giản của ông bộ trưởng Bộ Nội Vụ Bùi Văn Lương. Người đã từng nắm giữ chức vụ “Tổng Ủy trưởng, Tổng Ủy Di Cư năm 1954”. Họ lao vào nhà đập phá, hôi của. Tất cả mọi thứ trong nhà thoáng chốc. Biến hết ra đường. Thậm chí Dân còn thấy có mấy người, bưng hai con chó Nhật sợ hãi nhìn quanh. Như nó tìm chủ.
Đám biểu tình bắt đầu nổi lửa trong sân. Rất may, lúc đó có toán Cảnh sát Dã chiến đến. Họ can thiệp kịp thời. Ôi! Cuộc Cách Mạng đã thành công rồi đó. Toàn dân bấy giờ đã thoát khỏi chế độ “Gia đình trị Họ Ngô”. Nhưng, rồi đây sẽ đến phiên ai? Và, sẽ ra sao? Xin nhường câu trả lời cho những tháng năm sau nầy.
Nghe tiếng má chủ tiệm gọi. Các anh chị vội chạy trở về nhà xác. Khi hai chiếc xe hồng thập tự đã đến, lấy quan tài vừa đi khỏi. Họ nói vì lý do an ninh, Quân đội mang hai ông về an táng bên trong Bộ Tổng Tham Mưu. Sau mấy cuộc đảo chánh. Chỉnh lý. Tổng Thống Thiệu đương nhiệm, nghe lời ông thầy địa lý nói:
- Vì hai huyệt kia, đã chôn nhằm “long huyệt”. Cho nên đất nước đã xảy ra lộn xộn liên tục. Muốn cho yên ổn. Phải cho dời ngay đi.
Sau ngày đảo chánh, bên quân đội lại cho mời ba Hai đến bàn tính. Họ nhờ ba Hai làm hai cái kim tĩnh, xây gạch, tráng xi măng trước. Ba Hai lại cho người lên bộ Tổng Tham Mưu. Hì hục đào bới cả hai anh em cố Tổng Thống vào ban đêm. Đạo tỳ làm bù đầu đến gần sáng. Đem hai ông về chôn ở nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi. Khi hạ rồng rồi. Lóng cát phủ lên cho đầy. Bên trên chỉ được lấp ba tấm ván sơ sài. Trông rất hèn mọn. Tầm thường. Tuyệt đối không được phép ghi tên. Hay ghi bia mộ chí gì cả. Dù quanh đó là những ngôi mộ cẩm thạch bóng loáng và hào nhoáng khác.
Vì “họ” sợ dân biết, sẽ đến cầu nguyện và ngưỡng mộ. Nhưng! Làm sao che được tai mắt dân lành? Không biết do đâu “rò rỉ ra” nguồn tin:
- Chính là hai ngôi mộ đơn sơ. Không tên nầy. Là của anh em ông Ngô Đình Diệm.
Thế là từ đó, mỗi khi ai ai có dịp vào thăm nghĩa trang. Họ liền đi vào cổng chính. Đến đoạn giữa. “Hai ngôi mộ Anh Em” nằm đối diện, với cái tháp tưởng niệm, và ngôi mộ cố thống tướng Lê Văn Tỵ nhìn sang.
Có một điều rất khác biệt. Với những ngôi mộ lộng lẫy sang trọng kia. Trên hai ngôi mộ đạm bạc. Đớn hèn nầy. Luôn luôn có những bó nhang trầm nghi ngút khói hương. Có đóa hoa tươi màu. Và bốn ngọn nến sáng lung linh. Thắp suốt đêm ngày. Hình như là người ta luôn tưởng niệm cho “Ngày dài nhất thế kỷ, buổi chiều định mệnh đó”. Họ là những người ẩn danh. Như thầm nói:
- Vĩnh biệt Tổng Thống. Vĩnh biệt ông Cố-vấn. Xin các Ngài cứ bình thản ngủ cho yên. Vì, đất nước Việt Nam. Vẫn còn là đất nước Việt Nam. Có thay đổi chăng. Chỉ là con người. Những con người lãnh đạo mà thôi. Chúc hai ông an nhàn bình tâm ra đi. Ngao du sơn thủy. Đi trên khắp mọi miền đất nước. Lãng quên cuộc đời bạc bẽo. Hết sức trắng trợn. Ô trọc và phù dung. Vô cùng độc ác và rối rắm nầy! Ôi!
Công Huyền Tôn Nữ Vì Dân

_ * _
Ái Ưu Du
#154 Posted : Sunday, November 4, 2007 10:39:22 PM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

Ái Ưu Du tài hèn sức mọn, không bao giờ dám mơ mình là nhà văn, nhà thơ cả.
- Rất cảm kích và chân thành cảm ơn một số qúy độc giả, bạn hữu, đã ưu ái gửi e-mail về khích lệ Ái Ưu Du nên viết văn. - Dạ vâng! Xin sẽ cố gắng. Nếu có sai sót, kính mong quý vị niệm tình dung thứ và chỉ giáo thêm: Vì; Tôi ước mong được học hỏi cùng quý vị, hầu: Trau dồi tư tưởng. Mở rộng kiến thức. Nâng cao tâm hồn. Trao nhau niềm thành tín cậy trông. ÁƯD biết ơn quý vị.
Tiếp sau đây là truyện dài HOÀI HƯƠNG XƯA
Kính mời quý độc giả kính mến xem:
Trân trọng,
Ái Ưu Du


HOÀI HƯƠNG XƯA

Phần thứ Nhất

Chương 1

BỨC BÌNH PHONG





Con đường mòn ngoằn ngoèo quanh sườn dốc đèo uốn éo như rắn lượn. Từ thung lũng men theo dòng suối, nước bắt đầu leo qua bờ cỏ, bụi bờ cây sậy, cây lau, cụm sim. Lối mòn lại leo lên sườn dốc thoai thoải khuất dần sau bờ lau sậy lô xô. Khí hậu miền Cao Nguyên Đà Lạt thật dễ chịu, không khí thoáng mát, tinh tuyền, trong lành, ấm dịu khôn tả. Mùa lạnh chưa bứt hết lá úa đan trên cành cây khẳng khiu, trơ trụi buổi thu tàn. Gió tràn về tê buốt thịt da, ngây ngất lạnh và anh cảm thấy đượm buồn.
Hoàng đang thì thầm nói chuyện với người rất yêu dấu:
Từ trong đại học xá, anh đã dọn ra ở riêng trên đường Võ Tánh. Ban ngày anh chẳng thèm lên đại học ghi chép bài vở, mặc Hà viết lách, ghi bài, đem về phòng riêng cho anh. Hà ở lại đến khuya.
Buồn vì mất người yêu dấu, buồn vì giữa Hoàng và Thạch có những bất đồng, anh mất bạn thân. Chính lúc đó Hà đến thay thế em vào khoảng trống vắng. Rồi tuần khác anh cải nhau với Thạch, (về chuyện Thạch không muốn cho Hà lên đài phát thanh Đà Lạt, để Hà vừa đánh đàn piano, vừa đơn ca. Mỗi tuần một lần, trong chương trình phát thanh của sinh viên). Thạch nói:
- Hà mà đánh với đấm gì. Ca hát gì cái ngữ ấy.
Anh làm phó chủ tịch tổng hội sinh viên. Thạch chủ tịch. Hà thư ký, nên cùng hoạt động chung. Sau chuyện nầy, Hà càng gắn bó thân mật với anh. Chứ không thể nói là tình yêu. Về chuyện thằng Thục “thóc mách” với Hương, chẳng qua nó ghen tương thôi. Không phải riêng chuyện Hoàng với Hà, mà hồi xưa, khi anh chỉ mới mười lăm, mười sáu tuổi, Thục yêu thích con nhỏ tên Khôi. Nhưng con nhỏ lại mê anh lắm, nó đá lông nheo và tự tìm cách hẹn riêng anh đi ciné. Đồng thời con nhỏ “láu cá” báo cho Thục biết, để rình Hoàng.
Anh đâu ngu đến thế mà thử. Hoàng có đến điểm hẹn thật, nhưng anh đứng xa xa theo dõi. Quả nhiên Thục và cô em của Thục đến đó rình Hoàng. Họ thấy con nhỏ Khôi đi lui đi tới dáo dác tìm kiếm anh. Hoàng tỉnh queo quay về nhà, làm như chưa hề biết chuyện nầy. Buổi tối vẫn gặp nhau ở nhà anh học bài như thường lệ. Thục hằn học kể ra chuyện đó. Hoàng vạch mặt con nhỏ Khôi bắt cá hai ba tay ra luôn. Trung phải đứng ra giải hòa, “nối kết tình bạn” sắp rạn vỡ.
Mặc dù vậy, Thục luôn xem anh là tình địch. (Kể từ hồi nhỏ xíu, cho đến bây giờ). Có thể Hương không biết, chứ thật tình là Thục rất “mết em”. Cũng có thể là nó muốn “cua” Hương, để trả thù mối hận tình đầu, thuở xa xưa vậy! Rất vui là “em tôi” đoan chính, em không mảy may có chút tình ý với hắn.
Trở về chuyện Hà: Giới trai trẻ thời ấy, chẳng mấy ai mà chả biết tiếng đào hoa của cô ta. Hà biết mình có nhan sắc, lại có học cao. Cô ta thích “Flirt” (từ nầy, em có hiểu không? Nghĩa là chỉ đùa giỡn tình cảm với người khác phái). Với ai, cô ta cũng thích “làm trò đùa” như thế.
Trước khi có Vũ Anh, cô ta vẫn thế. Ngay cả khi đang giao du thân mật với anh, Hà còn cặp kè với ông thiếu tá có vợ con đùm đề. Em biết, mỗi ngày Hà bắt ông ta chở cô ta đến phòng anh, từ sáng đến chiều. Hà hành hạ ông kia đủ điều, nhiều chuyện ngộ nghĩnh, tiếu lâm hết biết. Bao ngày Hà bắt ông ta ngồi đợi đã đời ngoài xe. Cũng nhiều khi Hà đi chơi chung với anh và ông ta suốt canh thâu. Hà bắt ông nầy về ly dị vợ, để làm đám cưới linh đình với Hà. Trước ngày cưới, Hà còn gặn hỏi anh mãi:
- Nếu Hà lấy Thịnh, Hoàng nghĩ sao?
- Tốt chứ. Hà nên lấy ông ấy đi.
- Hoàng không yêu Hà rồi.
- Tình cảm dễ dàng. Chưa bao giờ Hoàng nói yêu Hà.
- Không phải tình yêu sao?
- Hoàng thẳng thắng trả lời Hà rõ: Chỉ là trai và gái, tự do gần gũi nhau thôi.
- Hoàng có yêu Hà không?
- Tất nhiên không yêu Hà. Đến giờ phút nầy, mà Hà vẫn chưa tin, là Hoàng không hề yêu Hà à? Hà nghĩ Hoàng cũng “cá mè một lứa” như bọn thằng Vũ Anh, Trương Anh, Điều, Độ, Vinh? Không đâu Hà à. Giữa Hoàng và Hà, chỉ là sự đam mê của tuổi trẻ thôi. Đó như là sự đam mê của nghệ sĩ yêu bức tranh. Như thi sĩ yêu bài thơ hay. Như khán giả ngưỡng mộ tài danh nghệ nhân trên sân khấu.
Nghe rõ ràng vậy, Hà đau khổ trong suốt thời gian mấy tháng, và thất vọng bỏ đi làm bé. Nhưng đi đâu, Hà vẫn rủ rê anh đi cùng. Hà khuyên anh đừng đi lính, với tình cảm sâu đậm đó, Hà tưởng có thể lay chuyển được anh. Hà nào biết sự “thật tình yêu thương” của anh, là riêng dành cho “ai kia”, (em biết rõ "ai kia" là ai mà) chứ không phải là cho “cô ta”.
Sau nầy, ông chồng ghen luôn đánh Hà bầm dập, vì cái tội Hà thích liếc mắt đưa tình lẵng lơ với trai. Riêng gia đình Hà, họ chỉ chú trọng đến tiền bạc, lợi lộc. Chuyện yêu đương là trò chơi. Chỉ muốn con cái họ cặp với những gia đình bề thế, giàu có. Chính anh đã đưa mẹ Hà vào thầu ở Câu Lạc Bộ trong đại học. Họ thầu được hai năm.
Sau khi xa em, anh không biết hay đã làm gì nữa! Quen với ai? Tại sao? Tại sao ra nông nỗi nầy! Đời anh coi như xuống dốc thảm thương, (kể từ sau khi bi gia đình em, và chính em ruồng bỏ). Anh đem đời anh vứt xuống vực thẳm rồi. Những đêm dài đốt đời trong ly cà phê đắng và khói thuốc, nằm la cà ở những động hút xách, hầu giết dần cuộc đời chán chường nầy đi.
Ơi! Anh cứ ngủ vùi đến trưa, dậy rồi tắm rửa thay quần áo, là đi ra phố với đầu óc rỗng tuếch. Nhiều đêm tụ tập năm bảy đứa đi ăn xôi ở Thủy Tiên, đi ngông vòng quanh bờ hồ. Vài lần anh đã đi ba vòng bờ hồ, đi từ canh khuya đến lúc hừng đông. Anh lấy đêm làm ngày. Khi những tiếng xe thổ mộ lọc cọc chạy trên đường vắng lạnh, sương che phủ mịt mùng các lối đi, cứ thế mà anh đi đến sáng. Anh quay về khu bến xe cũ, ngồi ở cà phê Domino, nhìn những giọt cà phê tí tách nhỏ xuống ly, nhấp vị đắng dâng lên đầu môi.
Thông thường, anh cặp với vài ba ca sĩ (hạng bét) vài cô ca ve (cũng thế) đi để tán dóc, phét lác chờ sáng. Duy có một điều em không hề biết. Ngày anh em mình đi chơi với nhau lần cuối cùng ở thác Datanla, vì anh nghĩ giữa anh và em, đã có một vực thẳm sâu hun hút, không thể vượt lên được. Em không hề biết, là nỗi đau khổ của anh ngút ngàn. Tất cả hình ảnh đàn bà, con gái khác, chỉ là cái bình phông, cái bóng mờ. Họ như khúc gỗ, không mặn nồng xương thịt. Anh dùng họ để che đậy sự đau khổ.
Anh bám víu vào, để khỏa lấp khoảng trống, che đậy vết thương lòng luôn ứa máu, để anh khỏi chìm sâu vào sự đau khổ thêm. Anh buông mình vào cuộc chơi, mong tìm quên, không thiết tha gì, hầu che đậy cái nỗi hận, và niềm đau đớn, đắng cay ngút ngàn trong lòng mình.

_ * _

Kính mời quý độc giả xem tiếp… Chương 2
Trân trọng,
Ái Ưu Du

Ái Ưu Du
#155 Posted : Wednesday, November 7, 2007 1:52:41 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

Hoài Hương Xưa

Chương 2

PHÙ PHIẾM THẾ THÔI






Hoàng lún sâu vào những canh bạc, để tìm quên. Vâng! Tết đó anh ở trên Trần Bình Trọng, tụi anh chung nhau đánh bài tối ngày sáng đêm. Anh đánh cặp lân la với mấy thằng bên sư phạm, bên phân khoa triết, lúc ăn lúc thua. Anh có sợi dây chuyền má cho hai lượng vàng, mỗi ngày anh cứ lấy xe chạy ra Bùi thị Hiếu cầm. Đem tiền về anh đánh bài tiếp. Ăn bạc anh chạy ra chuộc, thua bài chạy ra cầm.
Cứ làm thế, đến nỗi khi thằng Hiếu thấy anh chạy vô, là nó chả thèm nói, cầm sẵn xấp tiền đưa anh. Nó cầm sợi dây chuyền cất vào tủ, không viết giấy tờ cam đoan gì ráo. Tụi anh đánh bài luôn trong hai tuần lễ nghỉ Tết, khi nào mệt đi ngủ, thì có tay khác vào thay thế. Cơm nước ở dưới tầng hầm, có vợ chồng ông Tạo lấy tiền xâu, nấu cho bọn đánh bài ăn dĩa cơm gì đó chẳng biết, ăn uống đại khái chứ chẳng biết ngon miệng.
Tất nhiên anh thua sạch, chẳng còn gì cả! Thấy bọn Bửu, Tâm, Long, Thành, Tân, vân vân...) nằm nhà co quắp, đói meo. Anh “nổi máu anh hùng” lên, bèn chạy vào ông thượng sĩ Hồ, nhà ở Ấp Ánh Sáng, ông mê chiếc xe vespa của anh lắm, ông ta cứ đòi mua, anh không chịu. Anh đem xe đến, định để “cầm” thôi. Nhưng đến nơi, nghe lời ông ta “dụ dỗ ngon ngọt", anh đồng ý bán xe cho ông, giao giấy tờ và chiếc xe, rồi anh kêu taxi ra về.
Anh đưa “đồng bọn” đi ăn tối. Lúc ấy khá khuya, nên hầu hết tiệm ăn đóng cửa, thành thử bọn anh xuống tận Phan Đình Phùng, gần rạp ciné Ngọc Hiệp, ăn một bữa no nê, cho bỏ tức những ngày đói khổ. Hoàng lo trả nợ nần hết. Tiền không còn bao nhiêu, anh đành mướn phòng trên Vỏ Tánh, đi bộ đến đại học cho gần.
Lại bắt đầu sống một ngày như mọi ngày mới trống trải, đơn điệu vô vàn, anh tấp vào quán cà phê, ngồi lì đến khi đói bụng, anh đi kiếm chút gì ăn, rồi ghé vào các động tiên nằm dài, phần lớn Hoàng nghe chuyện hơn là hút. Mấy lần anh đi nhảy, đi chơi với ca sĩ Khả Ly, và Ngư Lan, cùng thằng Giàu, Minh, Lý, và hai ba thằng nữa. Thằng Giàu và Lý có chiếc xe MGA, tụi nó chất bia lên chạy trước, nhóm kia đi bộ theo sau.
Khuya lắm, khi sương mù bao phủ thành phố, che khuất cảnh vật, đi mỏi chân, tất cả ngồi xuống bờ cỏ ven đường, lấy hai két bia và tí mồi ra nhậu. Gần sáng Hoàng về ngủ chung một giường với hai nữ ca sĩ nằm hai bên. Bọn nó chọc phá, bắt anh nằm giữa, làm “cục nhưn”. Anh tỉnh queo nằm ngủ đến sáng. Cho đến cái đêm định mệnh, mưa to gío lớn...
Quả thật tối hôm đó, trời trút xuống cơn mưa dai dẵng từ xế trưa đến tối, mưa rất lớn. Anh chờ trời tạnh. Không được, nên anh đội mưa đến tiệm Mỹ Hương ăn cơm cùng Lý. Vừa cởi áo khoát móc lên tường, Hoàng chỉ mặc phong phanh cái áo sơ mi màu xanh da trời, quần jean, mái tóc anh ướt sũng nước mưa. Anh quay vào bàn, ngồi xuống, nhìn chung quanh. Bên ngoài, trời vẫn mưa tầm tã, mưa rất to.
Đầu tiên là anh thấy Hương, ngồi ngay ở bàn đối diện sát bàn anh. Hoàng đã chạm phải cái nhìn sắc lạnh, như xoáy suốt vào lòng người. Như tia chớp sáng lòa thuở ban đầu, (ngày xưa chúng mình mới quen nhau ở nhà thờ “con gà”), thì nay cái nhìn sững sờ nầy, cũng là tia sét. Nhưng tia sét phũ phàng, đen bạc, đã lạnh lùng giết chết tình yêu chúng ta.
Anh thấy Hương thộn mặt ra, trên tay em cầm trái chuối, bỗng nhiên như nặng, đã rơi xuống bàn. Anh thấy mặt Hương tái xanh, run rẩy, như con chim non bị nạn. Hương lãng tránh nhìn anh. Có lẽ trong lòng em thầm van lơn, cho anh đừng nhìn thấy cảnh bẽ bàng, khi em ngồi với “ai”. Phải không?
Phải! Đừng nhìn thấy nhau, không thấy cảnh chua xót phũ phàng, thì hay biết mấy. Nhưng đôi mắt anh và em như dán chặt vào nhau, nhìn nhau chết sững. Im lặng. Bối rối. Ngỡ ngàng. Chán chường chưa. Dù bị ướt sũng, nhưng Hoàng cảm thấy hai vành tai và mặt đỏ bừng bừng, hơi nóng từ bên trong toả ra ác liệt.
Hoàng không đói bụng cồn cào như lúc tối nữa. Anh cảm thấy hình như là mình bị đau ốm gì lâu ngày, đau nặng lắm, rã rời kinh khủng. Trước mặt em yêu, anh chỉ là cái xác không hồn. Thằng Lý nhìn Hoàng sững sờ, (anh xem Lý như là đứa em nuôi, cho nên đôi lúc anh kể chuyện “anh và em”, cho nó nghe. Tiếc là nó chưa quen biết Hương, tuy thế nó biết chuyện mình nhiều lắm). Lý đã thấy rõ từ đầu, nó gặn hỏi mãi:
- “Già” nói đói bụng lắm, sao bi giờ ngồi thừ người ra, không chịu ăn uống gì. Có chuyện gì nghiêm trọng lắm. Phải không?
- Hết đói rồi.
- Ăn đi. Ăn chút đi. Chuyện đâu còn đó. Hôm nào “già” hỏi em, sẽ rõ. Đừng buồn làm gì!
Hoàng ngồi chống tay lên cằm, đợi nó ăn uống xong, hai anh em vừa đi dưới trời còn lất phất mưa, vừa tâm sự. Lý khuyên gì, anh cũng chẳng nghe. Hoàng rất nhớ và hiểu tính nết Hương. Làm sao anh quên được! Cho nên, hôm đó, quả là tiếng sét, tiếng sét nầy, không phải là tiếng sét ái tình đầu tiên, mà tiếng sét đánh mang tai. Anh chẳng thiết gì nữa cả. Mặc dù xa cách Hương rồi, nhưng anh luôn ngấm ngầm theo dõi em, rất kỹ và rất lâu trong mấy năm trời. Bao nhiêu lần, Hoàng chỉ thấy em toàn đi với bạn gái. Tuyệt nhiên Hương không hề đi với người con trai nào.
Vì thế, nay Hoàng gặp em ngồi ăn cơm chung với “ai”, thật sự là anh té ngữa ra, vì anh biết rằng: Em đi với ai, thì hẳn là, người ấy sẽ là người Hương yêu thương, hay ít ra là người em đã chọn, để làm người bạn đường hoặc bạn đời. Chứ nếu không có một trong hai vấn đề kia, thì đố Hương chịu đi cùng.
Đêm ấy, anh không còn lòng dạ nào mà vô cà phê Tùng, hay xuống dancing. Anh đã chết thật sự rồi. Anh thao thức trằn trọc vật vã trắng đêm. Ngay sáng sớm hôm sau, anh kêu thằng Kỳ dậy, và nói cho Lý biết, anh quyết định bàn giao hết cho Kỳ và Lý, từ cái Tổng Hội sinh viên, bức tranh portriat mà thằng Quang vẽ Hà, cả bàn, ghế, tủ giường, áo quần, cho đến cái máy quay dĩa thời trang mới toanh, anh cũng cho Lý luôn. Vì Thạch thì trốn đi đâu biệt tích, hay "vào bưng" rồi cũng nên. Anh tìm nó không ra.
Anh đi bộ ra Hotel Thủy Tiên, hỏi bà Tư Rậm:
- Chừng nào bà về Sài Gòn?
- Lúc nào cũng được. Anh biết lái xe không?
Anh cười, khinh khỉnh:
- Bà biết rõ tôi từ khuya rồi, còn giả bộ ngây thơ, vờ vĩnh mãi.
Tiện nói thêm bà Tư Rậm nầy, tuổi lớn hơn Hoàng, hơn cả một con giáp, bề xề cục mịch, chẳng đẹp đẽ gì, bà ta có chồng con đùm đề. Nhưng bà mê anh như điếu đỗ. Hôm xưa, lúc nhà bà mở party (ở gần nhà ba má), lẽ ra - là Hoàng cua con gái đầu lòng của bà. Hoàng vô tình bị bà xoắn xuýt ép anh uống rượu. Hoàng ngà ngà say, bà ta xốc kè anh vô phòng và... cái điều không tưởng tượng nỗi, đã xảy ra. Anh có cảm tưởng như bị hiếp dâm thô bạo. Thế rồi, thỉnh thoảng bà vẫn rủ rê Hoàng, (khi ông chồng đi vắng). Bà ta nói:
- Lâu lâu cho bà “hun” anh cho đã thèm.
Bà ta vẫn hăm he Hoàng:
- Anh cứ quen người khác. Nhưng nếu anh bỏ rơi tôi, không chịu “đi đêm” với tôi. Tôi sẽ bắn chết anh.
Khốn nạn thế đó! Hôm ở Hotel Thủy Tiên, bà ta ôm con bé mới sinh, tên Osin lên Đà Lạt, cho Hoàng coi mặt. Bà ta cứ nói là con của anh. Hoàng nhẫm tính chu kỳ, cũng như thời gian gần gủi, chắc chắn nó không phải con của anh. Vả lại thời gian tám chín tháng qua, chồng bà ta ở nhà. Hoàng luôn đi học ở xa. Bà Tư Rậm muốn “gài bẫy” (cho anh lọt vô tròng, ưng thuận bà. Vì trách nhiệm từ đứa con, thì bà ta ly dị chồng, nên bà nói vậy). Nhưng làm sao gạt được anh. Hoàng thẳng thắng phản đối, cương quyết:
- Tôi chở bà trả trở về với gia đình. Bà và tôi chấm dứt. Đừng hòng đem súng đạn ra mà “hù doạ” tôi.
Hoàng lái chiếc xe Chevrolet Bel-Air chạy vòng ra đổ đầy xăng, rồi quay xe về đầu cầu ông Đạo. Anh định lái lên dốc Võ Tánh, thì anh thấy một tốp năm cô, đi thơ thẩn bên lề đường, nhí nha nhí nhảnh tíu tít chuyện trò. Trong số đó, có một con nhỏ, em của thằng Long, bạn học với anh trên đại học, nó nhìn thấy Hoàng, nên gọi to:
- Anh Hoàng đi đâu đó. Cho tụi em đi với.
- Anh đi tà tà chơi, chiều anh về Sài Gòn rồi. Muốn đi, thì lên xe.
Mấy cô nhảy lên xe. Chở họ đi vòng vòng bờ hồ Xuân Hương, anh tà tà chạy thẳng tới hồ Than Thở. Họ nhảy xuống đi lung tung. Riêng Hoàng rất buồn và chán chường kinh khủng, lại mất ngủ suốt đêm, nên anh mệt mỏi ngồi thừ người trên xe, vừa nhắm mắt định ngủ một tí.
Lúc đó, một cô gái trông kha khá người, thấy Hoàng không xuống xe đi với họ, nên cô ta liền quay gót trở lại xe. Cô ta đến bên, tự động mở cửa xe nhảy vào, lân la gợi chuyện làm quen trước. Cô ta cho anh biết tên là Trân Thu, cô cho anh địa chỉ, và hỏi anh địa chỉ nhà. Chuyện trò vui vẻ khá lâu. Thu vui mừng hớn hở hẹn ngày tái ngộ ở Sài Gòn.
Hoàng lái xe như bay về lại Lữ Quán, thu xếp ít bộ đồ, thế là anh ra đón mẹ con bà Tư Rậm về Sài Gòn. Vì quá buồn chuyện Hương, và mất ngủ suốt cả đêm, nên khi lái xe anh như người đi trong mộng. Hoàng chẳng nói một lời nào với bà ta. Lái xe trên đoạn đường dài, đường thẳng, hay đường quá tốt, cộng với tiếng xe kêu o o o đều đều, thường làm cho mình chợp mắt lúc nào chẳng hay, tiếng xe như điệu ru, có khuynh hướng khiến tài xế mau buồn ngủ.
Vì Hoàng đeo kính đen, nên bà Tư chẳng biết Hoàng ngủ gục, cứ thế anh tống ga chạy boon boon trên đường. Suýt tí nữa chiếc xe lao xuống đèo. Hoàng kịp bẽ tay lái giữ lại được. Hú hồn! Đến gần Bảo Lộc, anh phải ngừng xe khá lâu, vào nhà hàng rửa mặt cho tỉnh táo, ăn uống nghỉ ngơi vài giờ, rồi mới dám lái xe chạy tiếp về Sài Gòn.
Anh ngồi lầm lì nói thầm với người trong mơ: Hương yêu, anh mong em thông cảm, xin hãy nghe anh một lần duy nhất, và cuối cùng:
- Tất cả những người đàn bà, con gái kia. Chỉ là cuộc tình vay mượn tạm bợ, rong chơi ngắn ngủi. Hết thật rồi. Rất phù du... Anh đã ngoảnh mặt, đi về hướng đời tách bạch khác. Em có biết: Đó toàn là những chuyện lãng du phù phiếm thế thôi. Em có thấu hiểu cho anh chăng?


_ * _

Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau
Trân trọng,
Ái Ưu Du

Ái Ưu Du
#156 Posted : Thursday, November 8, 2007 1:11:19 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

Hoài Hương Xưa

Chương 3

KHÚC QUANH KHỐC LIỆT






Như đã kể: Hoàng đang học năm thứ Hai, mà suốt đêm anh đi la cà, lêu lổng. Ban ngày ít khi anh lên đại học. Không phải để học, mà để “thanh toán” những phần tử phá bĩnh, có ý định chi phối thành phần tổng hội sinh viên cũ. Họ là một nhóm sinh viên mới từ Sài Gòn lên.
Nghe tin nhóm đó định tổ chức họp sinh viên Đà Lạt, mà không xin phép, không có ý kiến của tổng hội cũ. Với tư cách là Phó Chủ Tịch Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam, Hoàng đã cảnh báo nhiều lần. Họ không sợ. Các anh đã muốn yên, mà họ không tha. Bọn họ cứ “chọc mũi dùi” vào quậy phá các anh sinh viên trên Đà Lạt hoài. Tức điên người. Không chịu nỗi.
Hôm đó Hoàng đi lên dốc viện, chợt thấy trên đại học, có một nhóm chừng bốn, năm tên sinh viên đi ngược lại. Tay cầm đầu tên là Chân. Chúng cầm dây xích, hai đứa cầm gậy nhọn. Anh đã chuẩn bị sẵn, nên liên lạc với bọn giang hồ ở Đà Lạt là Tương Anh, Xì Rô, Nhu, Độ, Bích đen, lên chận chúng ở dốc gần đại học. Các anh rượt đuỗi, đánh chúng một trận tả tơi. Thế là chúng bỏ chạy.
Còn anh rượt theo tên cầm đầu. Chân quay lại giơ cao dây xích lên, định đập anh. May là Hoàng né khỏi. Anh bay người tới đá mấy cú vào mặt, vào ngực hắn. Chân lấy con dao nhíp quơ lên. Thế là con dao ghim vào bắp chuối Hoàng. Máu bắt đầu chảy. Nhưng anh cứ rượt theo hắn. Hắn chạy trối chết vào cổng đại học, xộc vào toà nhà của viện trưởng núp. Cha Viện-trưởng phải mời Hoàng lên giản hoà. Một cuộc giàn xếp, được tổ chức giữa hai phe nhóm. Vì nể cha Viện-trưởng, nên phe các anh bắt tay bọn chúng. Lúc ra cổng đại học, Hoàng nói:
- Ngày mai, tao còn thấy bọn mày lãng vãng ở đây. Đừng trách tao ác nghen.
Chúng nó sợ teo người, kéo cả băng trở về Sài Gòn. Hết dám chọc ghẹo ai ở Đà Lạt. Ồ, thì ra hồi anh học năm đầu khóa Chiến Tranh Chính Trị, có một nhóm ở Sài Gòn lên, tay cầm đầu tên là Chân. Bi giờ hỏi ra mới biết, thằng Chân chính là anh họ của Thu. Buồn cười nhỉ!
Một thời gian khá lâu ở Sài Gòn anh có quen thằng Đại công tử, là tay giang hồ đàn anh khét tiếng thời bấy giờ. Nay nó đã trốn lên ẩn nấp ở Đà Lạt. Mấy lần, khi anh đến thăm, Hoàng thấy nó ngồi lì ở góc nhà suốt ngày im lặng. Nó cắm cúi mài liếc con dao. Mài miết. Anh khuyên bảo:
- Đừng vì thù mà trả thù dai. Rồi thù nầy chất chồng thù kia. Trả hoài không dứt mối thù. Hãy sống bình an, ngay cả trong tâm hồn.
Sau ít lâu, Hoàng thấy nó tội nghiệp, {vì anh biết thật tình nó muốn sám hối, quyết chí tu thân, sữa mình không quậy nữa. Nó không mài con dao bảy (loại dao to, dài chừng 30cm, rất sắc bén, thường dùng đi rừng). Nên anh đã cho nó ăn ở nhờ, mấy tháng trong phòng anh}.
Khi Đại vừa dọn đi vài ngày, nó bị bọn thằng Xì Rô, và vài quân nhân, kéo ra chận đường nó ở gần vũ trường Maxim’s. Họ chém thằng Đại cở năm sáu dao gì đó. Khá may, nó chỉ bị thương nặng. Sau khi ngã từ trên taluy cao ngất xuống đất. Nó bị trầy trụa sơ sơ, chỉ bị trúng ba bốn lát dao không nặng vào lưng, vào tay, chân, như “vết thù trên lưng ngựa hoang” của nó.
Lúc đó anh cùng Khả Ly, và một nhóm đàn em của thằng Đại, đang nằm ở “Vom anh Hai ghen” hút. Nghe thằng Hi chạy về báo. Hoàng và họ chạy ra, thì đã tan hàng. Chỉ còn lẻ tẻ mấy bà con đứng xầm xì to nhỏ bàn tán. Các anh chạy lên bệnh viện hỏi thăm. Họ nói:
- Đúng là có một người bị mấy vết chém, không nặng. Ông ấy vừa đi khỏi đây.
Khuya lắm, khi trở về phòng trọ, Hoàng thấy trên ổ khoá, có một vật gì đen đen treo trên hai cái khuy của ổ khoá. Anh nhìn kỹ, chợt rùng mình. Đó là hai quả lựu đạn MK2. Thói quen thường nhật của Hoàng, là khi nào đi ra ngoài, thì anh bấm thêm ống khóa ở hai khuy móc bên ngoài. Nhưng sao hôm ấy, tự dưng anh chỉ khoá ống khoá chìm ở trong cánh cửa, mà không móc thêm ổ khoá bấm ngoài. Nên họ tưởng anh đang ngủ trong phòng.
Mất hồn, Hoàng chạy bộ từ phòng lên dinh Tỉnh Trưởng, (lúc đó là Trung tá Phấn). Anh trình bày sự việc. Ông cho xe jeep chở chuyên viên bên quân đội đến. Tháo gở cái “của nợ giết người” đi. Ông nhìn Hoàng trầm ngâm hồi lâu, rồi từ tốn khuyên:
- Rõ ràng có người muốn giết hại em. Cách tốt nhất là, em tạm thời “chui” vào trong quân đội. Em mới có thể sống. Chứ không thì trước sau gì, có ngày em cũng bị...
Hoàng đã hiểu. Chỉ còn duy nhất một con đường. Anh phải thu xếp, ổn định cuộc sống khá hơn. Không thể sống bừa bãi buông thả. Hoàng đã “thả nổi” cuộc sống mình bê tha quá nhiều như hiện nay.
Cộng thêm vào niềm đau đớn Hoàng mất người yêu, là mất tất cả, chẳng còn hy vọng gì!
Thời gian rối rắm nầy, anh không thể gặp Hương, em lẫn trốn anh, như “cô gián nhỏ” lẫn trốn ánh sáng ban ngày. Đôi khi anh muốn giải thích cho Hương rõ hoàn cảnh éo le hiện tại. Và anh ân cần muốn cùng Hương, đề nghị chúng mình nên ngồi vui vẻ êm đềm bên nhau, hầu tìm một biện pháp dung hoà thích hợp.
Ôi! Làm như cái số kiếp phân lìa rồi. Hễ anh thấy Hương đi với các bạn gái, thì y như rằng, em không nhìn thấy anh. Ngược lại... Hoàng cũng vậy! Cuộc rượt đuổi vô vọng, trong bóng tối mãi tiếp diễn.

_ * _

Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau
Trân trọng,
Ái Ưu Du
Ái Ưu Du
#157 Posted : Saturday, November 10, 2007 2:25:45 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

HOÀI HƯƠNG XƯA

Chương 4

CHUYẾN CÔNG DU ĐẦU TIÊN






Hoàng, với tư các là Phó Tổng Thư-ký Tổng Hội Sinh-viên Việt Nam. Nguyễn Ngọc Thạch, Chủ tịch Tổng hội Sinh-viên Đà Lạt. Vĩnh Kha, Chủ tịch Sinh-viên Huế. Lê Đình Điểu, Tổng Thư Ký Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam. Lê Đình Bảo, Tổng-Thư -ký Tổng hội Sinh viên Huế. Tôn Thất Tuệ, Ủy-viên Báo-chí Tổng-hội Sinh-viên Sài Gòn.
Các anh đã lên đường đi dự Hội-Nghi Sinh Viên Quốc Tế toàn Thế Giới, lần thứ 11. nghiã là 11th ISC (international Student Conference) tại Cheistchurch (New-Zeland) và dự Hội-thảo lần 5th - Tại Sydney (Autralia) là 5th ASS (Asian Student Seminar).
Lẽ ra thì lúc 17:00, các anh được xe Bus đón tại Hotel, để ra phi trường tiếp tục cuộc hành trình. Nhưng khổ nỗi, vào giờ đó, các anh mãi mê đi Shopping mua sắm ngoài Trung Tâm. Họ gọi phone nhiều lần. Họ đến phòng ngủ không thấy ai.
Sau khi đi mua sắm đã đời, các anh quay về mới hay. Ui! Chưa kịp tắm rửa, thay quần áo gì. Họ gọi phone dặn reception phải giữ các anh lại, không cho đi đâu hết. Chốc lát xe Bus đến chở các anh lên phi trường. Tất cả cứ ngồi trong Louge, chờ đến tối mịt. Đợi dài người. Mới hay là đang có cuộc đình công, của toàn bộ nhân viên Hãng Hàng-không (bộ phận phục vụ trên không, và dưới đất).
Thế rồi, họ “lùa” các anh qua thủ tục an ninh phi trường và quan thuế. Trên chiếc máy bay 707 đồ sộ, rộng mênh mông. Thế mà chỉ có hơn bốn mươi hành khách. Chính ông phi công trưởng đoàn đã đến từng chỗ ngồi, chăm sóc cho các anh.
Lúc 21:00 ông ta điều khiển phi cơ cất cánh. Sau khi bình phi, ông ta để viên phi công phụ lái. Rồi ông tự xuống tiếp tục làm tiếp viên cho hành khách (vì trên máy bay không có một người tiếp viên hàng không nào. Họ lo đi đình công hết). Thấy Hoàng kéo cái ghế dài ra định ngủ. Ông ta nói:
- Nầy anh, hãy vui lòng đứng lên.
Rồi ông luồng tay kéo hai chân ghế ngang ra. Thế là cái băng ba người ngồi, đã trở thành chiếc giường nệm êm ái. Ông vói tay lên hộc, lấy mền cho các anh đắp. Chuyến đi buồn cười vậy đó. Nguyên cả buổi quá mệt mỏi vì lo đi mua sắm. Nên tất cả ngủ khò suốt đêm dài. Họ thi nhau ngáy vang như sấm. Lúc các anh tỉnh dậy, mặt trời đã lên khá cao.
Phi cơ sắp sữa đáp xuống Perth, (thành phố lớn ở miền đông nước Úc). Bước ra ngoài cửa phi cơ, anh chợt rùng mình. Luồng gió lạnh buốt từ ngoài thổi vào. Ôi sao lạnh đến thế! Bây giờ chỉ là mùa thu, mà đã lạnh đến 9oC. Lúc sắp nhận hành lý, các anh mới hay là nhân viên ở phi trường đình công. Nên nhân viên nghiệp dư, đã sắp xếp hành lý của hành khách, lên lộn với chiếc phi cơ khác!!!
Thôi rồi! Thế là trên thân mỗi người chỉ mặc mỗi chiếc veston nhẹ. Cả đoàn co ro cúm rúm, vì lạnh thấu xương. Hoàng xuýt xoa cắm cúi chạy đến xe Bus. Họ chở các anh về Hotel.
Vì quá lạnh, cho nên chả ai rủ ai, mọi người đều tạt vào shop gần đó. Mỗi người lo mua một chiếc áo khoác duffelcoat dày cui. Mặc vào cho đỡ lạnh. Sáng hôm sau, họ báo đã có hành lý rồi. Đồng thời có chuyến bay từ Perth đi Sydney (bờ phía Tây nước Úc).
Thế là các anh lại lên phi trường bay liên tiếp trên 10 giờ. Từ trên cao nhìn xuống, chỉ thấy toàn sa mạc mênh mông lạnh giá trải dài hằng ngàn cây số. Trống trải, đơn điệu võ vàng của trung tâm Úc. Chiều tối các anh mới đến Sydney.
Thay vì được nghỉ đêm tại đây. Họ lại “tống” các anh lên máy bay cánh quạt cổ lỗ sĩ. Bay từ Úc Châu, băng qua biển Tasmania. Để qua Tân Tây Lan. Hai giờ đồng hồ sau, các anh đến Christchurch. Một thành phố cổ kính và nhỏ bé, ở hòn đảo phía Nam của New-Zealand.
Cùng buổi tối đó, ban tổ-chức cho các anh biết là: Miền Bắc Việt Nam, cũng có một phái đoàn sinh viên đã đến Tân Tây Lan. Nhưng vào giờ chót, vì phái đoàn của miền Nam Việt Nam đã đến trước. Nên họ đã lịch sự từ chối phái đoàn kia. Thế là sinh viên miền Bắc buồn thiu phải ra ngồi ở phi trường. Họ không được cấp visa nhập cảnh, đành chờ bay trở về Hà Nội. Thảo nào, họ đã chở các anh bay đi nhanh như điên. Để đến nơi “tranh cho kịp chuyến tốc hành”.
Tân Tân Lan gồm có ba bốn đảo: - Hòn đảo phía Bắc là thủ phủ Wellington và Aukland rất nóng. - Phía Nam có đảo Christchurch. – Hòn đảo Tasmania rất lạnh. Trong khi ở trên phía Bắc, họ có thể đi vui thích tắm biển, phơi nắng thoải mái. Thì ở phía Nam cùng thời điểm đó, họ đi trượt tuyết, đi tắm suối nước nóng, ở giữa đám tuyết trắng xoá. Giữa hai đảo có con phà rất lớn, sức phà chứa có thể lên đến hai mươi xe hơi. Và hơn năm trăm hành khách.
Nơi các anh đến dự hội nghị là Christchurch, một thành phố nhỏ như Đà Lạt, (gồm có hơn bốn trăm ngàn dân) rất sạch sẽ và tươi đẹp. Những ngôi nhà cổ kính và yên lặng. Con sông xanh tươi êm đềm uốn khúc, có từng bầy thiên nga bơi lội, bên những sườn đồi cao thấp nhấp nhô. Nhà nhà có sân rộng đầy chim bồ câu (mập ơi là mập) soãi cánh lòa xoà bay. Người dân ở đây hiếu khách. Hiền hoà. Cởi mở. Chí tình và thân thiện.
Sở dĩ tổ chức lần họp Thứ 11th Sinh-viên Thế Giới tại nơi nầy. Là vì có ngôi trường đại học nổi tiếng, lâu đời nhất của Tân Tây Lan. Giống như đại học cuả Anh là Cambridge. Hay Oxford của Mỹ. Harvard, hay Princeton vậy đó. Các anh được đưa đến ở một khách sạn nhỏ. Chỉ có bốn tầng lầu, cách nơi họp độ vài trăm mét.
Hôm khai mạc hội nghị, phái đoàn Việt Nam chỉ được sắp ngồi ở hàng ghế “Quan sát viên” mà thôi. Bước qua ngày thứ hai. Sau khi thảo luận sôi nổi. Phái đoàn Việt Nam mới có một bài phát biểu. (Ấy là nhờ do đề nghị của đại diện sinh viên Thụy Sĩ).
Cho nên Đại Hội Đồng gồm 112 nước tham dự hội nghị, đã tổ chức một cuộc bỏ phiếu. Cuối cùng đại hội chấp thuận cho Việt Nam chính thức gia nhập vào Hiệp Hội Sinh Viên Thế Giới. Ngày thứ ba, họ chuyển sinh viên Việt Nam cho chính thức vào ngồi dự hội nghị. Hoan hô tinh thần Tự do. Dân chủ. Độc lập muôn năm!
Kể từ năm 1964, Việt Nam đã được công nhận là hội viên chính thức. Đây là một thành công lớn, mang về cho Việt Nam. Trên phương diện ngoại giao và về mặt chính trị. Cuộc họp chỉ có ba ngày là kết thúc.
Sau đó, anh, Thạch, và Bảo ở lại Christchurch, đi tham quan hai thành phố lớn của Tân Tây Lan, ở trên đảo phía Bắc. Còn ba người kia bay về Úc Châu, chờ dự hội nghị sinh viên Á Châu lần 8th . Các anh hẹn gặp nhau ở Sydney.
Tóm lại, chuyến đi đó, chỉ xảy ra trong vòng ba tuần lễ. Thế mà các anh đã xoay trở tài tình, để ghé lại Manila vui vẻ. Kuala Lumpur du lịch thảnh thơi. (Ngoài các thành phố của Úc Châu và Tân Tây Lan).
Thật ra, như anh đã nói: Các anh đã đi xuất ngoại, dự Hội Nghị Sinh Viên Thế Giới Lần 11th . Tổ chức tại Christchurch. Chỉ là cách xử thế. Mà ông Nguyễn Khánh dùng tiền, “cả vú lấp miệng em”.
Cho các anh đi xa lúc bấy giờ. Là một hình thức ve vuốt. Để - cách ly các Tổng Hội Sinh Viên tại miền Nam Việt Nam – với Sinh Viên trong nước hoạt động biểu tình, chống đối rầm rộ. Chứ chả tốt lành gì!
Sau chuyến công du đi Singapore. Malaysia. Úc Châu. Tân Tây Lan. Phillippines trở về lại Việt Nam. Hoàng vội vàng trở lên Đà Lạt, anh rút hồ sơ, chứng chỉ văn bằng trên đại học. Anh đành cay đắng ngậm ngùi rời khỏi “con đường tri thức danh giá” đã chọn.
Đó là “cái dấu ./. tình yêu nồng thắm với Hương yêu xa xăm muôn trùng”. Và anh “hoàn tất kiếp sống phong trần”, vào năm thứ Hai, tại đại học Đà Lạt.

_ * _

Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau
Trân trọng,
Ái Ưu Du

Ái Ưu Du
#158 Posted : Monday, November 12, 2007 1:25:21 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

HOÀI HƯƠNG XƯA

Chương 6

NGÀY NHẬP NGŨ





Hương Hương ơi! Anh vẫn nói chuyện với người rất yêu dấu! Cuộc đời anh, chắc có lẽ gắn-bó với binh chủng Không-quân hay sao em à!
Hồi còn nhỏ, khi anh đúng mười sáu tuổi, thanh niên ở miền Nam Việt Nam, ai ai cũng đi kê khai “Lược Giải Cá Nhân”, ở đường Trần Hưng Đạo (Nha Cảnh Sát Đô Thành). Sau khi điền tên tuổi, địa chỉ vào tờ khai. Anh mang lên nộp trong văn phòng. Ông cảnh sát già thu nhận tờ khai. Đọc lướt qua, ông nhìn anh, cười lớn:
- Cậu nhỏ nầy. Tôi e rằng lớn lên, cậu sẽ đi Không-quân quá. Tên ngộ lắm: Lữ Phượng Hoàng.
Cũng có thể do ba má đặt tên cho anh. Là một điều dự đoán hữu duyên với binh nghiệp của anh sau nầy cũng nên? Một lần khác, vào đầu tháng 02 năm 1962. Anh đã chuẩn bị tập hồ sơ, định lên nộp đơn xin gia nhập Không-quân. Lúc đó anh chưa đủ hai mươi mốt tuổi. Anh phải giả mạo chữ ký của ba, đồng ý cho anh nhập ngũ.
Rồi anh nhờ thằng bạn, (có bà chị làm ở văn phòng Phường trên Phú Nhuận), đóng dấu xác nhận chữ ký của ba “cho phép”.
Ngày ấy, đúng là một ngày xui hết biết. Khi thức dậy, anh lo đi làm vệ sinh cá nhân, ăn sáng xong. Mặc quần áo sẵn sàng, anh đứng trên lầu ba, trước chiếc tủ gương lớn chải tóc. Anh chuẩn bị mang hồ sơ lên Tân Sơn Nhất để nộp.
Thì, nghe tiếng phi cơ bay vù vù ầm ầm. Bay rất sát, anh muốn điếc tai. Gần như ép buồng phổi anh đau nhói, muốn tức vỡ ngực. Nghẹt thở. Đứng tim.
Không biết chuyện kinh khủng gì xảy ra? Anh vội chạy nhanh lên sân thượng, bước ra ngoài dáo dác nhìn xuống khu Sài Gòn. Anh thấy hai chiếc phi cơ đang quần thảo trên bầu trời. Rồi thoáng chốc nghe tiếng bom. Nhiều tiếng súng nổ rền, ở miệt nhà thờ Đức Bà. Thì ra có biến loạn. Những quả bom trút ào ào xuống tại Dinh Độc Lập.
Một lúc sau mới thấy nhóm phòng vệ Tổng Thống Phủ phản ứng. Súng phòng không dưới đất bắn lên, khói đen nghịt từng nhúm. Hai chiếc phi cơ, sau khi thả hết bom, bắn hết đạn, nhanh như chớp đã bay ra biển Đông.
Anh vội vàng chạy xuống nhà, anh phóng xe vespa chạy đi về hướng đó, xem chuyện gì. Người người xe cộ đông như kiến, không thể chen chân, mọi ngả đường bị chận đứng, đông nghẹt. Anh đành kiếm ngỏ tắt về nhà. Mãi đến xế chiều mới biết, là do hai phi công Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử đã ném bom. Thế là tiu nghỉu trở về nhà, anh buồn phiền xếp lại hồ sơ.
Lần nầy thì không có gì ngăn cản bước chân anh muốn giang hồ cả. Anh đã lên nộp đơn, và trở về nhà nằm chờ. Khoảng thời gian nhàn rỗi, thật vô vị, trống vắng và buồn kinh khủng! Anh vẫn hẹn hò với Trân Thu đi ăn, đi chơi chỗ nầy chỗ kia. Tuy có Thu, nhưng anh vẫn có thêm vài ba cô bạn hờ thân thiết nữa. Ấy thế mà sao lòng cảm thấy đìu hiu, muộn phiền chi lạ!
Độ nửa tháng sau, thư mời gửi về nhà, báo anh lên sân bay Tân Sơn Nhất khám sức khoẻ. Thông thường như mọi năm, bên ban tuyển mộ Bộ Tư Lệnh Không-quân chọn 4 khóa. Ví dụ: Năm 1960 có khóa 60A. - 60B. - 60C. - 60D. Tuy nhiên nhiều năm cũng có những khóa như: 64B và 65D, đều là nhân viên Hạ-sĩ-quan được tuyển chọn đi học Sĩ-quan không phi hành.
Anh và một lô một lốc trai trẻ tráng kiện khác, hân hoan vui vẻ sắp hàng chờ khám sức khỏe. Phòng khám nhỏ xíu. Đa số thí sinh cứ tràn vào. Chật chội. Họ đứng gần kế ông bác sĩ. Riêng anh ngồi vào ghế đợi, nhìn những người khác khám rất nhanh. Bác sĩ khám sơ sơ thân thể. Phần tai. Mũi. Họng. Răng. Mắt. Ngực. Phổi. Thần kinh. Khám máu. Khám tổng quát.
Họ bắt thí sinh đứng thẳng, xem mình có bị dị tật bẩm sinh gì không. Đa số thí sinh đều tốt. Mọi cuộc khám nghiệm về anh đều trôi qua êm đẹp. Nhất là bác sĩ khen đôi mắt anh trong sáng lạ thường: 10/10.
Chỉ có lúc Hoàng khám tai thì quá lâu. Ông ta lấy đèn soi vào lỗ tai. Bác sĩ không thể khám màng nhĩ, ngăn tai ngoài và tai giữa. Nên ông cứ loay hoay mãi. Ông lấy cái kẹp nhỏ, dài, từ từ gắp, moi, ở lỗ tai anh. Ông lấy ra từng miếng cục ráy tai. To ơi là to, nhiều kinh khủng. Khiến thí sinh đứng, ngồi, gần đó í dza dza cùng cười ồ. Thiệt là mắc cỡ!
Thật sự Hoàng không mấy hy vọng. Vì suốt thời gian qua, anh sống buông thả bê bối tự do. Chẳng mấy khi anh chú trọng đến sức khỏe. Chăm chút cho bản thân. Hoàng gầy đi nhiều, so với chỉ số cần thiết. Ví dụ chiều cao hơn 1mét 68, Hoàng có. Tuy thế về trọng lượng anh chỉ nặng hơn 50kgs chút.
Xong xuôi, anh lại trở về nằm nhà. Từng ngày đi ra đi vào thật vô vị. Tối tối, đêm đêm, Hoàng lại rủ rê Thu đi ăn, la cà đi chơi rông. Thời gian nầy, anh và Thu thân thiết hơn.
Một hôm, nhận giấy báo anh đã trúng tuyển, đủ điều kiện gia nhập vào “Khoá 65A Phi Hành”. Anh rất vui. Thế là chấm hết chuỗi ngày chán chường đã trôi qua. Anh hí hửng vui vẻ, mặc bộ quần áo sạch đẹp, lên Tân Sơn Nhất làm thủ tục nhập học. Họ đưa mẫu đơn tình nguyện, Hoàng điền và ký tên vào, hứa sẽ gia nhập Không-quân – ít nhất là mười năm – kể từ ngày ký.
Họ cấp phát cho mỗi khoá sinh một ba lô. Giày bata. Giày botte de saut. Mũ. Bít tất. Vài bộ đồ treillis. Vài bộ kaki. Họ bảo mang về sửa sang lại, để mặc cho vừa khổ người của mình.
Đúng vào buổi tối ngày 30-09-1964, thằng em trai của Hoàng là Toma lái xe chở anh đi. Má không làm sao ngăn cản con. Nên má đưa anh đi. Má khóc rất nhiều. Hoàng cảm thấy lạnh tanh, chả có gì ầm ĩ mà khóc với than! Hoàng không thấy Thu đến tiễn anh đi, như cô ta đã hứa. Cũng bình thường thôi!
Anh mặc bộ treillis “mới cáu cạnh”. Đội mũ lưỡi trai. Mang botte de saut Đến trại Cửu Long (ở bên trại Thủy Quân Lục Chiến). Đó là nơi tập trung đông đúc khóa sinh các trường Hải Quân. Trường Hạ Sĩ Quan Đồng Đế. Họ sẽ đi học chung với nhau, trên chiếc Tuần Dương Hạm 602.
Sau khi xuống tàu, Hoàng chọn ngồi ở một nơi có mặt phẳng trên bon tàu. Nhiều tên “tân binh” sợ sóng gió, thì họ chui tọt xuống dưới gầm tàu. Dưới kia chắc hẳn là kín mít ngột ngạt lắm! Chiếc tàu to kềnh càng kéo neo lên. Con tàu chuyển lối dần dần rời sông Sài Gòn, chạy trốn sau khúc quanh ở “Cảng Nhà Rồng”. Bên kia sông, thành phố Sài Gòn vẫn rộn rịp, tấp nập xe cộ lao đi vun vút. Người và người vô tư, nhộn nhịp chuyển động không biết mệt, dưới ánh đèn đường muôn màu.
Chả ai ngủ được. Hoàng nhìn quanh, anh thấy Trần Thế Vinh to con, đẹp trai ngồi lầm lỳ ở một góc. Quân nhỏ loắt choắt. Các anh lân la ghé tới làm quen nhau, tự nhiên nói chuyện thân mật vui vẻ. Làm y như là đã quen nhau từ kiếp nào!
Hỏi ra anh mới biết dự báo thời tiết báo buổi sáng thì biển lặng. Đến trưa sóng to, rất to đổ dồn. Con tàu lênh đênh bồng bềnh như cái nút chai trong chiếc ao lớn. Thế là các cậu ngồi bên anh, bắt đầu nôn ọe tùm lum. Riêng anh vẫn tỉnh queo. Đến chiều, Vinh, mặt xanh như tàu lá, đưa hộp cơm vắt thịt kho rất ngon, (của mẹ Vinh làm):
- Mày ăn đi. Tao nuốt không vô rồi.
Anh cười hề hề, lấy cơm ngồi ăn ngon lành. Mặc dù lúc đó, có những đợt sóng thần cao ngất, đang phủ lên đầu tàu đầy sóng bạc trắng. Chiều buông xuống rất nhanh, choạng vạng tối, khi các anh em mệt mỏi, đừ đẫn cả người. Thì tàu đến ở Cầu Đá. Nha Trang!

_ * _

Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
Trân trọng,
Ái Ưu Du
Ái Ưu Du
#159 Posted : Wednesday, November 14, 2007 4:02:35 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

Hoài Hương Xưa

Chương 7

TRONG QUÂN TRƯỜNG






Hoàng vát ba lô xuống bến tàu, đoàn Không-quân gồm có 74 khóa sinh. Cộng với mấy trăm tân binh Không-quân. Được tách riêng ra, các anh xếp hàng chờ điểm danh. Họ gồm đủ mọi miền. Đủ thành phần. Đủ hoàn cảnh. Cùng quy tụ về dưới mái trường Không-quân. Những đoàn xe GMC chở mọi người về căn cứ 12:
- Tân Binh thì được hướng dẫn viên cho đi thẳng xuống khu nhà lá xa xa.
- 74 Khoá-sinh sinh-viên sĩ-quan Không-quân, thì ghé lại cổng trường. Hàng chữ: Trung Tâm Huấn Luyện Không-Quân – Căn Cứ 12. đập ngay vào mắt mọi người.
Có con đường tráng nhựa khá dài, có lẽ dài đến bảy tám trăm mét, chạy quanh doanh trại. “Vọng Cộng Hoà” sừng sững giữa các bãi cỏ xanh tươi. Nơi chuyên để sinh viên sĩ quan đàn anh sắp ra trường, tập trung đàn em khoá sinh lại, tha hồ “nhồi” cho tân khoá sinh có sức khỏe, có kiên cường nhẫn nhục và có sức chịu đựng dẽo dai trong quân đội.
Có chiếc máy bay T-6 (loại phi cơ một cánh quạt tấn công của Pháp). Đồng thời chiếc máy bay nầy, từng dùng để huấn luyện đợt phi công đầu tiên của Việt Nam. Như các ông: Toàn Phong Nguyễn Thế Vinh. Đặng Khắc Mai đàn anh của ông Nguyễn Cao Kỳ. Vân vân…
Tại Câu Lạc Bộ có nhiều người đang ăn uống, nhiều người chơi giải trí. Đánh bida. Pingpong. Phía trên kia là văn phòng điều hành khóa sinh, nơi làm việc của Đại-úy Trưởng-đoàn Khoá-sinh. Văn phòng ông Thượng-sĩ Cơ Bản Huấn Luyện người Mỹ. Văn phòng đoàn Cán-bộ Sinh-viên Sĩ-quan.
Những Khoá-sinh đi trước, chưa được tuyển đi du học. Thường đề-bạt lên làm Cán-bộ (hoặc Trung-đội. Đại-đội. Tiểu-đoàn. Càng già tuổi, cấp bậc càng cao). Vọng nhỏ là Vọng-Khóa-sinh. Tức là sân nhỏ giữa doanh trại. Nơi mỗi cuối tuần có đám sinh viên sĩ quan, khóa-sinh bị phạt, sẽ thi hành lệnh “dã chiến”.
Sân rất lớn, nằm ngay bên dãy nhà tiền chế. Theo kiễu ba-rắc của Mỹ. Ở giữa là hai dãy nhà vệ sinh, nhà tắm công cộng. Phía trên là văn phòng điều hành khóa sinh.
Các anh vát ba lô đi vào giữa sân. Đầu tiên, khoá sinh xếp hàng theo thứ tự cao, thấp. Những anh cao lêu nghêu, đứng trước, đứng trên. Những anh thấp (không thấp lè tè đâu nha em) đứng dưới, đứng sau.
Anh thấy một sĩ quan huấn luyện rất cao lớn, to con, Gần giống như người Mỹ cao vậy. Khi ông ta mở miệng ra, mọi khoá sinh nghe mà phát khiếp! Giọng nói ông ta tốt, sang sảng, rổn rảng, oang oang. Không phải là giọng nói, mà là giọng ông ta hét to:
- Trong số các anh. Có ai là sinh viên đại học. Hãy bước ra khỏi hàng. Đứng qua bên phải.
Trong bụng Hoàng thầm nghĩ: “Chà! Oai nhe! Chắc đám sinh viên nầy được phè phỡn ưu tiên. Khỏe re à nhe”.
Anh cùng một nhóm nhỏ độ chừng tám chín tên, vội vàng bước ra khỏi hàng. Đứng qua bên phải. “Ông to con” kia, hất hàm cho các cán bộ Trung đội Trưởng, dẫn đám đông còn lại bắt đầu “chào sân”. Nghĩa là bắt đầu chạy quanh Vọng Cộng Hoà.
Sau hết, ông ta quay sang phía bọn anh, hét tiếp:
- Các anh được cho ăn no, rồi vát thân ung dung đi học. Hay lắm. Tốt lắm. Giỏi lắm! Sung sướng mà các anh không biết nương thân. Còn bày đặt biểu tình, biểu tọt. Phản đối nọ kia ầm ĩ. Các anh có biết: Vì các anh ưa dzợt le, quấy rối. Mà bọn tôi ở đây, bị cắm trại liên miên không? Bây giờ, các anh vào đây rồi. Chúng tôi cho các anh biết: Thế nào là lễ độ. Đâu là kỷ luật sắt trong quân ngũ. Nào. Chuẩn bị. Các anh hãy chạy theo tôi.
Thế là ông ta chạy trước rõ nhanh. Các anh tuần tự lúp xúp chạy theo sau. Cứ thế mà chạy. Vừa chạy, ông ta vừa hét to:
- 65A – 65A – 65A
Các anh phải “gào lên” to hơn:
- Khỏe. Khỏe. Khoẻ.
Cứ thế mà các anh bị “hành hạ” cho đến hơn 10 giờ đêm. Có hơn một nửa khóa sinh đã ngất xỉu. Họ nằm vật ra bên vệ đường. Chả có ai “ân cần” chăm sóc nước nôi, ăn uống gì. Họ cứ nằm (y như “nằm vạ” ra đó). Khi nào tỉnh dậy. Thì anh ta tự động lết về sân.
Còn anh, sao anh khoẻ đến thế nhỉ? Mặc dù lúc đó anh ốm nhom. Có lẽ do ở Đà Lạt anh bán quách xe vespa rồi, phải đi bộ rã gối rã giò nhiều. Ngày mấy lần anh đi lên, đi xuống từ đại học. Anh ra phố, về nhà. Đi hoài, nên anh quen rồi chăng? Chả rõ. Chỉ biết là anh nhìn cái lưng của thằng khóa sinh chạy trước. Cứ thế mắt nhắm, mắt mở, Hoàng cắm đầu chạy riết.
Cho đến khi hơn hai phần ba anh bạn kia đã “rụng rời tả tơi”. Ông ta mới cho mấy anh chạy khật khưỡng lẻo khoẻo (như anh) dừng lại. Tất cả về tập trung ở sân cỏ. Ông ra lệnh cho từng cặp. Từng cặp đi qua nhà kho (kế bên dãy nhà khóa sinh). Các anh tự túc khiêng giường, tủ, bàn, ghế. Trời đất! Đói và mệt lả người. Lúc xong công việc, đã hơn nửa đêm, càng mệt muốn đứt hơi thở.
Hoàng đi khiêng đồ dùng chung với Vinh. Hai người cùng đựng áo quần chung trong một cái tủ. Một bên là đồ dùng của anh. Một bên là của Vinh. Sau nầy Hoàng mới biết, vì Vinh to con, đẹp trai và khỏe. Cán bộ thấy nó thế. Nên ưa chiếu cố. Họ “siêng năng” tới phòng các anh “hỏi thăm sức khỏe”!
Vô tình ở chung, Hoàng cũng vướng vào cái thảm hoạ bị “trù dập, đì tới bến”. Khi không hai đứa anh vô cớ bị phạt “dã chiến” hoài. Nghĩ cũng tức vì sự vô lý ấy, mà đành chịu “vâng lời” là thượng sách.
Họ mang găng tay trắng tinh, tìm kiếm những chỗ ngóc-ngách quệt vào. Thử hỏi làm sao mà chả có tí bụi? Cứ thế, họ rút trong túi áo khoá sinh ra tờ giấy. Ghi phạt vào chiếu thứ bảy.
Trong vòng chừng ba giờ đồng hồ, từ trong phòng khoá sinh chạy lên sân, các anh “bị kỷ luật” thi hành bất cứ lệnh phạt nào. Nếu làm sai, thì bị phạt hít đất. Có những lệnh trớ trêu buồn cười lắm. Như cán bộ hét:
- Anh phải về phòng mặc ngược áo treillis. Mặc trái quần kaki. Một chân mang botte de saut. Một chân mang giày bata trái. Các anh có 10 phút để thi hành.
Mệt ơi là mệt, nhưng rất vui. Khi ra lệnh, cán bộ hét oang oang. Nên các bạn ở trong phòng nghe. Họ sắp xếp sẵn đầy đủ mọi thứ. Các anh bị phạt chạy về phòng, nhờ có các bạn đã giúp Hoàng mặc đồ mới kịp.
Thử hỏi, nếu không có sự yểm trợ, của bạn đồng môn trong phòng. Giúp đỡ mặc áo. Xỏ quần. Mang giày. Thì khi anh chạy lên, sẽ bị phạt 50 cái hít đất. Thì ra, trong quân trường họ cố rèn luyện cho tân sinh viên sĩ quan phải lấy “đức vâng lời” làm điều tiên quyết, bất kể “lệnh lạc” đó, có đúng hay nực cười! “Thi hành trước, khiếu nại sau” mà.
Những lần sau, khi bị phạt, các anh thường bảo nhau:
- Khi chạy qua khu sinh-viên sĩ-quan đàn anh đã ngủ. Tụi bây nhớ gào lên thiệt to:
- 65A.
- Khỏe.
- 65A.
- Khỏe. Khỏe.
- Nhớ chưa?
Cứ thế, các anh quay vào cửa phòng ngủ của họ, gân cổ hét la thật to. Thế là có kết quả ngay. Vì nhóm Tiểu-đội-Trưởng kia, kêu Cán-bộ Đại-đội-Trưởng lên la mắng:
- Có phạt tụi nó. Thì phạt ban ngày thôi. Ban đêm để cho “ông” ngủ nghe.
Ngay cả tên Cán Bộ phạt anh nhiều nhất, hoá ra là thằng Thanh. Cứ đêm đêm đến, nó cố tình kêu Hoàng ra, phạt năm mươi cái hít đất. Thi hành xong. Anh đứng nghiêm chào, và la to:
- Sinh-viên sĩ-quan Lữ Phượng Hoàng, khoá 65A. Thi hành lệnh phạt xong.
- Có biết tại sao, tôi ưa phạt anh không?
- Thưa không.
Thế là nó cười cười cứ phạt anh ra hít đất hoài. Vì cái tội “không biết”. Mãi về sau, khi Hoàng gần đi Mỹ. Nó mới thố lộ:
- Tôi là anh họ của Trân Thu. Thấy anh công tử dễ ghét, và yêu Thu. Tôi cứ phạt anh chơi. Cho đã tức!?
- Cha chả!

_ * _

Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau
Trân trọng
Ái Ưu Du

Ái Ưu Du
#160 Posted : Thursday, November 15, 2007 1:39:38 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

HOÀI HƯƠNG XƯA

Chương 8

NHỮNG GIỌT MỒ HÔI TRÊN CÁT






Ngày đầu tiên vừa đến quân trường Không-quân Nha Trang, Quân sợ đến gần “té đái”. Khuya đó, nó lân la tới gần, to nhỏ rủ rê Hoàng và Vinh:
- Tao với mày đào ngũ. Về Sài Gòn đi. Có gì trốn lên Đà Lạt he.
- Ha ha! Thôi đi con trai. Đã dấn thân vào đến đây. Còn sợ chết hả?
- Ngủ đi mày.
Thời khóa biểu khá chặt chẽ. Buổi sáng sớm, trường mở loa phát nhạc quân hành. Thế là tất cả anh em ngồi bật dậy. Anh vội thay bộ đồ thể thao. Mặc sẵn quần tắm bên trong, Hoàng chạy ra sắp hàng, điểm danh như thường lệ.
Lúc bốn giờ sáng, từ quân trường cắm đầu chạy riết ra Cầu Đá, xa chừng khoảng sáu cây số. Đến nơi, các anh tập thể dục đồng hành. Chạy trở về đến khúc quanh gần cổng trường. Lúc đó tự do. Ai muốn tắm, có quyền đùa giỡn trên sóng biển. Mỗi lần chạy về đến cổng căn cứ, nhìn lên tấm bảng ghi hàng chữ đậm:
“Thao trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu”.
Lòng ai ai cũng cảm thấy vui vẻ phấn khích. Vì thế, khoá sinh ai ai cũng cố gắng học tập, chịu đựng gian khó. Về đến sân trường, khóa sinh tập họp lại điểm danh. Rồi tan hàng. Mọi người chạy về phòng, lo sắp xếp chăn, màn, gối, nệm cho ngay ngắn. Ngăn nắp sạch sẽ. Đánh răng rửa mặt. Làm vệ sinh. Thay quần áo. Các anh sắp hàng đi lên Phần Xá. Các Tân khóa sinh chưa được đeo Alpha trên áo, thì phải đứng nghiêm chào. Tự xướng danh:
- Khóa sinh Lữ Phượng Hoàng, số quân 6 ... - ...
Vì, số quân bên Không-quân, bắt đầu từ con số 6. Rồi mới được bỏ mũ ra. Anh đi dến cái bàn gần nhất, vào nhà ăn. Nhiều dãy bàn dài cùng những hàng ghế dính liền nhau. Mỗi hàng ghế có thể cho mười sáu khoá sinh ngồi. Chia nhau thành từng “ca rê”. Bốn người ngồi ăn cơm chung trong một mâm.
Trời ơi! Hôm nào xui xẻo, Hoàng ngồi với vài ông bạn “già gân” miệt quê. Thì kể như anh thua rồi. Vì, họ ăn rất nhanh và quá khỏe. Thoáng một cái, là trên mâm thức ăn hết sạch. Vài ông còn bẻ chuối ra, chan cả nước trà mà lua. Hay có ông ăn uống đạm bạc, rắc tí muối tiêu vào cơm trắng. Cứ thế họ ăn tiếp. Miễn sao no bụng là xong.
Mấy lần đó, đói meo. Anh chỉ có nước chờ giờ nghỉ lao mười lăm phút. Hoàng cắm đầu chạy lên Câu Lạc Bộ, mua cái gì ăn, cho đỡ đói. Nếu Câu Lạc Bộ không có thức ăn theo ý thích. Hoàng nói với ông bà chủ tiệm. Hôm sau họ sẽ đem hàng về. Sống ở đây như một gia đình khoá sinh nho nhỏ. Mỗi tháng các anh tân binh có tiền lương. Đồng tiền tuy hạn chế. Nhưng không đến nỗi nào quá eo hẹp.
Trước mỗi tuần vào ngày thứ Bảy. Cán bộ huấn luyện sẽ cho biết, tuần sau khoá sinh học môn gì. Họ niêm yết bảng “Thời Khoá Biểu” tại phòng khoá sinh.
Lần đầu tiên, họ cho Test để sắp lớp. Dĩ nhiên Hoàng đã vào học lớp cao nhất. Đó là lớp học từ 21 đến 25. Sáng nào cũng học Anh-văn. Sau mỗi ngày học. Anh phải vào phòng Lab làm bài.
Những anh kém, vào học lớp vỡ lòng, từ lớp 11 đến 15. Lớp Trung-cấp từ 16 dến 20. Sau khi học hết các lớp. Qua kỳ thi tuyển. Hoàng đậu hạng thủ khoa khóa học nầy.
Các anh đi học thường mặc quần áo kaki. Mang giày soulier bas.
Rồi học căn bản về đủ các môn quân sự. Như: Chiến thuật tác chiến. Cơ bản thao diễn. Thể thao quân sự. Vũ khí chiến lược. Nghệ thuật chỉ huy. Lúc đó các anh mặc đồ treillis. Mang botte de saut. Đội mũ lưỡi trai.
Tóm lại là học rất nhiều môn. “Thực đơn” của một tân khóa sinh cần phải biết. Các anh phải nắm vững mọi vấn đề. Để sau nầy chỉ huy.
Sau ba tháng “huấn nhục”, chịu đựng gian khổ, nhục nhằn, cuộc sống của các anh như cái máy. Hay sắp trở thành cái máy mà chả biết. Các anh gò mình trong khuôn khổ và kỷ luật sắt. Đây là những giọt mồ hôi. Nhỏ tong tong từng giọt, từng giọt. Theo những bước chạy tốc hành trên cát nóng.
Ngày. Tháng... dần qua nhanh và niềm vui mừng vinh quang lại đến! Đó là ngày: Các anh chính thức được gia nhập vào hàng ngũ sinh-viên sĩ-quan thực thụ. Khoá sinh được làm lễ gắn Alpha. Tổ chức tại sân trường “Ra mắt sinh-viên sĩ-quan” trọng thể. Có Chỉ-huy-Trưởng Căn cứ. Chỉ-huy-trưởng Liên-đoàn sinh-viên sĩ-quan. Sinh-viên sĩ-quan. Cán-bộ. Thân nhân. Bạn hữu tham dự đông đủ.
Từ sáng sớm, các khoá sinh ra sắp hàng ngoài sân. Khoá sinh quỳ gối, đọc lời tuyên thệ. Trước khi gắn Alpha lên cầu vai. Ai ai cũng phải mang chiếc dép để kê. Chứ quỳ hàng giờ như thế. Có mà rục đầu gối ra.
Ngày đầu tiên được phép xuất trại. Hoàng ra phố chơi tự do đến 17:00. Ngoại trừ những anh nào bị ghi thẻ phạt (của tuần trước). Không được đi phép. Cán bộ niên-trưởng kiểm soát khá kỹ. Dặn dò đủ thứ. Trước khi xuất trại, sinh-viên phải giữ tác phong:
- Ra phố, có quy chế “tác phong” của sinh-viên sĩ-quan đàng hoàng.
- Quần áo chỉnh tề. Cấm không được ăn mặc cẩu thả.
- Không cười đùa cợt, giỡn hớt “lố lăng” ngoài phố.
- Cấm đi xích lô. Cấm đi xe đạp. Chỉ được phép đi xe vespa, xe hơi. Taxi.
- Mỗi khi gặp tuần tra của căn cứ. Phải đứng nghiêm chào. Sau đó mới đi tiếp.
* Nếu ai vi phạm bất cứ nội quy nào. Sẽ lập tức bị cán-bộ trên xe nhảy xuống. Thu hồi tấm giấy phạt, để trên túi áo bên phải của sinh-viên. Họ mang về căn cứ, xử phạt.
Nhưng nhờ kỷ luật và cuộc sống điều độ vậy, mà Hoàng cùng hầu hết các bạn tăng trọng lượng. Khỏe mạnh hơn lúc trước.
Hình phạt “dã chiến” nầy, thật ra đó là cách tập luyện, cho khoá sinh có nhiều thể lực. Có sức khỏe. Có tinh thần nhẫn nhục. Kiên nhẫn chịu đựng. Biết ôn nhu. Trầm tĩnh. Đắn đo. Khôn ngoan. Kinh nghiệm sống. Tháo vát hơn. Hầu có thể kiên cường, vượt qua mọi chông gai gian nan, thử thách trên đường đời.

_ * _

Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau
Trân trọng
Ái Ưu Du


Users browsing this topic
Guest (40)
11 Pages«<678910>»
Forum Jump  
You cannot post new topics in this forum.
You cannot reply to topics in this forum.
You cannot delete your posts in this forum.
You cannot edit your posts in this forum.
You cannot create polls in this forum.
You cannot vote in polls in this forum.