Welcome Guest! To enable all features please Login or Register.

Notification

Icon
Error

2 Pages12>
VĂN - Ưu Du > Truyện Ngắn . . .
Ái Ưu Du
#1 Posted : Monday, August 28, 2006 4:00:00 PM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

Roseheart (Nhân Father’s Day, con xin trân trọng kính dâng về Ba & Mẹ: Hai đoá hoa hồng trắng)
*
ÔNG NGOẠI. BA ME & CÁC CHÁU

Ông ngoại lên thăm cháu, thăm con, trước ngày đầy tháng cu bé. Mến mừng quá, ngồi dậy chào. Mến nhìn ba từ đầu đến chân. Trông ba khỏe mạnh, da trắng hồng. Mắt sáng, trán khá cao và rộng. Mũi dọc dừa. Hàng ria mép gọn gàng. Mái tóc quăn tự nhiên nép sát gáy, cắt tỉa cẩn thận. Ba diện bộ veste mầu nâu đen tươm tất, rất vừa khổ người. Áo sơ mi trắng tinh, cổ cứng hồ ủi sạch sẽ, cà vạt màu càfé sọc mờ. Mang giày da. Đầu đội nón phốt. Áo manto vắt trên tay. Trông ba quắt thước, oai vệ và đỉnh đạt. Như ông chủ hãng.
Khi ba mặc áo dài đen có chữ thọ, hay chữ phước. Quần trắng vải thô. Đầu chít khăn đóng. Chân mang đôi guốc mộc to bản. Khuỷu tay móc chiếc dù đen. Trông ba mộc mạc hiền lành, chân phương. Như ông huyện, ông xã, ở dưới làng, lên thành phố du lãm nơi nơi.
Ba hỏi thăm sức khỏe con, bế cháu ra gần bên cửa kính, trông gọn gàng, nhẹ nhõm. Ba ngắm nghía thằng bé coi tướng, bấm độn tử vi, tấm tắc nựng yêu cháu:
- Cháu có hai tai thọ. Tướng ni sau nầy sẽ giàu có. Khá lắm đó. Ưa hờn mát. Thông minh. Nhưng làm biếng học. Hỉ!
Nói chuyện hồi lâu với cháu. Ba điềm đạm vắt chân chữ ngũ, vấn điếu thuốc ngọn, từ tốn mồi diêm đốt lửa. Không kiêu kỳ, không ồn ào. Không hoan lạc, theo men đời say bí tỉ. So với sự nếm trải chua cay, điếu thuốc nầy, có là bao.
Rồi ba bắt mạch, coi sức khỏe cho con. Từ lâu, ba là vị lương y có tiếng thời vua Khải Định. (Ba còn một nghề tay trái nữa, là nghề làm cúp cây, và làm vườn). Cả bên Cao Mên. Cùng vua Sisavangvong tại hoàng gia Lào. Họ từng mời ba đi chữa bệnh, trong dịp phong tước Phagna cho ông Tougeu Lyfung. Đôi ba lần, ba đem Mến đi theo, vào tỉnh Nam Pung Dam. Long Tieng trên cánh đồng Chum mịt mùng. Ba chữa trị bệnh cho ông Bliayao.
Trên đường xa xứ, ngồi xe đò lên Bamêthuộc, từ đó có người dẫn đường, ngồi xe ngựa, tới Buônđon, cách Bamêthuộc khoảng 45 – 50 kilômét. Ven rừng có nhiều túp lều sàn, trang trí đẹp. Ba và Mến ngồi voi suốt ngày đêm, băng rừng lội suối. Doc đường thỉnh thoảng ba gặp nhiều người Thượng M’ Nông, Eâdê, buôn bán voi, ngà voi nhiều nhất.
Người Thượng, Miên, Lào, chuyên vào rừng dụ voi về nuôi, khá tinh vi. Họ trang trí thật đẹp cho con voi độc ngà, có kinh nghiệm quyến rũ voi rừng, tên nài móc võng nằm sát dưới bụng voi, dùng kèn, sáo, đờn, tù và, vân vân... Thổi nhạc cho đàn voi rừng mê tơi, voi rừng bu quanh con mồi. Chúng tha hồ ngẩn ngơ múa vòi, nhún nhẩy và ngửa cổ lên "hú hát" say sưa, inh ỏi. Mặc bọn nài tròng dây xích vào cổ chân voi trẻ, voi non. Voi mồi từ từ quay trở về buôn làng, dẫn theo đàn voi mới, dễ dàng.
Đến bìa làng, nơi cánh rừng thưa ven sông Sêrêpốc, họ cột xích một chân trước, một chân sau con voi mới, vào gốc cây đại thụ. Tiếng kèn, sáo, im bặt. Voi rừng hoàn hồn trở về thực tại, thì hỡi ơi! Nhìn trời hiu quạnh! Thế là chú voi mới lồng lộn, điên cuồng tru hú, nghe kinh dị khủng khiếp. Mất khoảng hai mươi ngày, một tháng, bọn nài mới thuần thục đàn voi mới.
Mỗi ngày, họ đặt bàn cúng linh đình ngoài trời, cứ tờ mờ sáng, tiếng chiên trống, phèn la, tù và, sáo, tiếng hú hét rất man dại cất lên. Bọn nài voi từ trên cây đại thụ nhảy xuống lưng voi, dùng búa nhọn gõ vào đầu, kìm kẹp vào tai, người ta nói da dày như da voi, phải dùng búa kìm mà "trị".
Dưới đất một bọn khác, dùng roi da đuôi cá đuối, roi mây quất túi bụi vào thân thể voi. Một ngày họ "dạy" voi ba lần, mặc sức các chú voi mới rống lên, kinh động cả góc rừng.
Sau mỗi lần "dạy" voi, họ cho voi ăn tẩm bổ đủ thứ, nào mía mật, mía đường, chuối chín, thân chuối non, cháo đậu xanh nấu với cám và bắp. Con nào sớm thuần thục, được nhốt sang một bên, ưu đãi hơn. Vào tháng 3 âm, có hội đua voi nơi cánh rừng thưa, ven sông Serêpốc. Chúng chạy theo tiếng còng, chiêng, tù và. Con voi nhất giơ cao vòi, hai tai phe phẩy chào, bước đi ung dung, trên lưng mang theo quầy chuối. Ché rượu cần thơm ngon. Mùi thịt rừng nướng, Chủ tế ban thưởng hậu hĩ, cho voi, chủ voi, và nài.
Tuy thế, thỉnh thoảng voi vẫn bị chủ quất cho, “tối tăm mắt mũi”, không dám nghĩ đến chuyện bỏ trốn, tìm đường thoát thân, hết nhớ đường trở về rừng xưa. Khi đã khá quen và chung sống với voi nhà rồi, họ chỉ xích voi một chân, cho nài thả đi ăn. Đàn voi mới rất sợ tên nài, họ bảo con voi quỳ, nằm, đứng đi, chúng răm rắp nghe theo.
Lúc đó Mến còn rất nhỏ, chỉ nhớ các cô gái Lào tóc búi cao, dắt hoa sứ trên đầu, mặc xà rông, thêu đầy kim tuyến, đủ màu sắc sặc sỡ lóng lánh dưới cạp lai. Cổ và tay đeo nhiều vàng, bạc, còng đồng. Dây cườm xâu khéo léo. Nàng sơn nữ ở trần, đưa bộ ngực nở nang một cách tự nhiên, không e dè ngượng ngùng che dấu, họ đứng trên đường dốc, trước hướng gió, với cái mẹc to tướng, giơ cao quá đầu, sàng sảy trấu.
Ba luôn đi xa, bốn năm tháng mới quay về. Sự sống đâu phải ngày ngày dẫm chân tại chỗ. Con người từ lúc bé, với tiếng khóc oa oa chào đời. Sống vô tư qua thời thơ ấu, quá trình phát triển nhịp nhàng. Rồi thành niên và lão thành. Chuỗi ngày vượt thắng, là quá trình đấu tranh mọi gian lao, thử thách, đắng cay cuộc sống.
Bằng chứng xác thực nhất là cuộc đời ba, số phận dẫn dắt ba má, đưa các con đi, bước thấp bước cao. Tháng năm xế chiều, có nghèo có giàu. Ba má luôn vất vả nhọc nhằn, ngược xuôi. Khi toàn gia quyến bị uốn cong trong cơn bão đời. Tưởng không phương cứu vãn. Ấy vậy, do tài trí và đầy lòng nhân hậu, cơ may lại đến. Ba má lại có cảnh sung túc như xưa.
Ba từng đi xa, bỏ vợ con ở nhà, không mấy tiện khi nắng gió trở trời. Vã lại, ba thấy các con càng lớn, cần hướng dẫn dìu dắt nhiều hơn. Đồng thời ba cũng ớn, sợ, con cái lông bông, lêu bêu, gàng bướng, nói không nỗi. Sau nầy ba ở nhà, quay qua làm cúp cây, mở vườn ươm cây. Nay, nhiều lần ba trị bệnh giúp người nghèo đau ốm. Ba làm phước, không lấy tiền công.
Ba ngồi bên bàn, thấm nước bọt vào đầu bút chì, hí hoáy viết toa thuốc bắc. Có vài lần ba cất cây viết bic, viết máy paker, trong túi áo sơ mi trắng, mực chảy ra túi áo, giặt tẩy không hết. Từ đó ba không cất viết trên túi áo. Ba đeo mục kính lão, chỉ còn một gọng móc vào bên tai. Mỗi khi nói chuyện, cái kính nhúc nhích. Bên không gọng xệ xuống gần ria mép. Bên có gọng kéo ngược bên không gọng lên. Khiến cặp kính có đường chéo xệch trên mũi. Trông thật tức cười. Ba nói sẽ làm mắt kiếng khác. Thế mà bận rộn, chưa thay được. Mến cười tươi, nhìn dáng nghiêng nghiêng rất đẹp lão của ba.
Ở Tùng Nghĩa thỉnh thoảng lên Dalat, ba đi thăm người nọ người kia, cả tuần mới về. Ba là người đàn ông tao nhã, hiếu khách, nhất là rộng lượng, thương người và hào phóng.
Năm 1947, ba đem theo 500 đồng Đông Dương về quê. Thấy xóm làng nghèo khổ quá, ba cho hết tiền, cho bốn va ly áo quần. Ba chỉ mặc mỗi một bộ đồ về nhà, xách chiếc cặp da cũ xẹp lép, chiếc cặp suốt bốn mươi năm không rời. Trong nhà kinh ngạc, lo sợ, tưởng ba bị cướp. Ba cười nhân hậu, nói:
- Ba đã làm phước mà!
Bạn bè ba là giới lương y, thương nhân, chủ trại cưa, có tiếng tăm trong thành phố. Trong mắt ba thoáng vẻ tinh tường, phóng khoáng, khôn ngoan, đắn đo, đỉnh đạt của người giàu kinh nghiệm, qua thời trai trẻ lẫy lừng. Ba hào phóng và giàu tính bác ái, (mà trong nhà nói là ba ưa “dzợt le, huênh hoang”. Ba chuyên môn “tào lao” dễ xiêu lòng). Con phục ba quá! Có khi vui miệng, Thùy Mến hỏi ba:
- Sao ba không bồn chồn, lo lắng, vì bao năm nai lưng ra, tạo dựng cơ nghiệp. Bỗng chốc tiêu tan hết. Mà, ba vẫn điềm nhiên như vậy? Ba!
Ba nhìn con gái, điềm đạm cười:
- Đến tóc ở trên đầu, bỗng chốc nhìn lại, đã bạc mau, rụng gần hết, chỉ còn lơ thơ vài sợi. Còn rồi mất. Mất tất cả. Tóc trên đầu chưa giữ được. Nói chi chuyện giữ lại tiền của. Con!
Công nhận ba là vị thầy thuốc khá giỏi. Uống đến thang thuốc thứ tư, Mến ăn nhiều, ngủ nhiều, sau hơn hai mươi bảy ngày đêm thức trắng. Còn mẹ, uống qua thang thuốc đau lưng, mẹ đi đứng dễ dàng. Cu tí nhà ta, càng ngày càng tròn vo, như hột mít. Bú, rồi lăn ra ngủ suốt ngày, không biết chán.
Thời gian qua nhanh, trải qua mười năm sau. Nhân mùa nghỉ hè, ở nhà có Mến lo trong ngó ngoài. Tứ và ông ngoại đi suốt mấy ngày, lo mua vật liệu làm cái nhà thứ bảy. Tứ và Mến từng nổi tiếng trong họ hàng là “Người Lái Nhà”. Cứ làm nhà nầy. Bán nhà kia. Buôn nhà nọ mà!
Hai cha con thay phiên nhau, trông coi thợ thầy. Nhiều ngày tự tay ba xây xây, tô tô cưa cưa, bào bào, đóng đóng. Phải nói là ba rất khéo tay, từng đường nét sít sao, vừa mộng, chắc chắn và đẹp mắt.
Thỉnh thoảng nghỉ tay, ngồi xổm trên nền gạch mới, ba vấn điếu thuốc rê, bập bập vài hơi. Ba nhâm nhi ngụm trà Ô Long. Thấy cháu nhìn, ông ngoại chìa ngón tay út lên. Bé Huy một tay ôm trái dừa xiêm, tay kia nắm ngón tay ông ngoại. Ơ hay nhỉ! Sao có nhúm tuổi, mà bé Huy biết thò tay vào túi áo ông, móc tiền ra, cười tít mắt: Chiền…! Tiiềnn.
- Cháu trả tiền cho ông. Cháu chưa biết xài tiền.
Bé Huy lắc đầu, bước đi đến đưa tiền cho mẹ. Khiến cả nhà cười to.
Ba anh em ngồi xem ông ngoại làm việc. Dzũng, Tuấn, Huy, mỗi đứa một quả cà chua mọng đỏ, bóng láng, chúng cắn quả, ăn ngon lành. Huy ngửa mặt lên trời cười tươi, lộ ra hai cái răng sún ở cửa hàm trên. Hồi đó con bị té dập mặt vào cạnh ghế, gãy lìa. Máu phun có vòi. Nay chỉ còn mấy chiếc răng hàm thưa, bé tí xíu, lấp ló trên níu hồng ươn ướt.
Chỉ vì các con nghịch kinh khủng! Trong phòng khách có cái radio Philipe mới mua. Chờ khi ba mẹ đi làm vắng. Ở nhà với bà ngoại, ba anh em thì thầm xúi bảo nhau quậy. Dzũng leo lên ghế, leo lên bàn. Chú bé vói tay qua trên tủ gỗ, kéo cái radiô xuống nền gạch.
Thế là ba anh em lấy búa, lấy kềm, lấy cây đinh vít, mở ra xem. Huy ngồi trước ổ cắm điện, lấy cái kềm kẹp chiếc đinh, chọt vào ổ cắm. Bị xẹt lửa, thằng bé văng ra góc nhà. May mà cái kềm có nắm cầm dài, bằng nhựa, nên không bị điện giật. Nguy hiểm hết sức. Chúng tò mò muốn biết: Có ai ngồi ở trong radiô mà ca hát? Họ nói suốt vậy? Cái radiô bị phá tan tành rồi.
Một lần khác, Tứ có cây đàn Hawaii hai cần, đặt mua mười tám ngàn đồng. Số tiền rất lớn, (Hai người đi làm, một tháng chưa có năm ngàn bạc. Vợ chồng dành dụm cả mấy năm, mới mua được). Khi vắng người lớn trên phòng, ba anh em lại rù rì với nhau. (Tuấn luôn luôn xúi anh) Dzũng lấy cây đàn lòng thòng dây điện. Huy đã có kinh nghiệm về vụ ổ điện xẹt lửa, vẫn chưa thất kinh. Huy cầm cái cán chổi phất trần dài, ngồi từ đằng xa, giơ cây chổi thọt vào ổ cắm điện, để giật dây điện ra. Cũng như lần trước, cả ba anh em xúm lại, giựt dây đàn, đập tháo hết tung hết.
Tứ đi làm về, thấy cây đàn qúy giá, bị hư tan tành. Lần nầy anh không tha tội các con nghịch phá nữa. Anh lôi cả ba đứa ra, đánh cho một trận nên thân. Sau khi bị phạt qùy gối, Mến dắt từng đứa tới những ổ cắm điện, răm đe, chỉ dẫn, dặn dò từng tí. Mến cấm tiệt các con, không được béng mảng đến gần các ổ điện.
Hơi thở âm ấm phả ra từ cánh mũi phập phồng, làm nồng thêm từng tế bào trong lòng mẹ. Bé Hoàng đang bú, lại nhả vú ra, với tay lấy mấy thứ đồ chơi. Bé Hoàng nắm lấy, kéo về miệng, bập bẹ tập nói, phun cả nước bọt ra. Hoàng nắm hai ngón chân cái mủm mỉm, giơ lên, đút vào miệng con gọn gàng.
Tuấn vừa quệt nước mũi vào ống tay áo, hỏi:
- Ba ơi! Con gì chia chìa?
- Kia là con dê.
- Con dê, "sủa" be be be.
- Bậy nào. Con chó sủa gâu gâu. Còn con dê kêu be be. Nhe.
- Con dê nó "chêu" be be.
- Con nói lại, cho ba nghe nào: Kêu. kêu.
- Chêu. Queo. Keo... Con nói được: Con gà cục tác, ò ó o. Vịt cạp cạp rồi.
- Ừ, thì giỏi. Con phải tập nói cho rỏ. Không nói ngọng. Kỳ lắm.
- Queo. Chêu. Quêu.
- Ui chà. Nói như ông kẹ. Í dà!
Cả nhà cùng cười vang. Các con được ông bà ngoại, cưng hết biết. Lỡ có con muỗi rừng chích vào, làn da non nớt, sưng đỏ lên một cục. Thế là ba mẹ giận nhau vì chuyện… con muỗi. Rồi lại làm lành với nhau, về bao chuyện các con ngây ngô nào đó.
Ông ngoại đóng cho mấy hộc ngăn, năm ổ gà ấp trứng trên kệ gỗ, mặt dáo dác. Gà mẹ xù lông chuyền hơi ấm và sức sống, từ thân thể mỗi ngày một héo hon vào quả trứng. Gà làm nhiệm vụ nối dòng chu đáo, đều đặn, say sưa, quên ăn quên uống. Mến cho chúng ăn, uống. Vài con gà mẹ nhảy khỏi ổ, mổ lấy mổ để, cổ ngẩng cao, xù bộ lông phù to, “tục... tục... tác”.
Ánh mặt trời xiên bóng cây trên cành thông, hắt mấy chiếc bóng, đổ dài xuống sườn dốc. Nắng yếu ớt ẩn mình sau màn voan sa mù mờ nhạt. Mặt trời từ từ lặn trên lòng hồ, nhìn từ xa, như chiếc dĩa vàng khổng lồ, nhúng vào hồ nước. Mọi vật lung linh mờ nhoà. Trông thật mơ hồ.
Nhiều lúc Mến thấy mình già đi, không phải vì nàng đã sống đến tuổi già, dẫu đôi mắt đẹp, có đuôi mắt đã bắt đầu dài theo tháng năm qua. Vai trò làm mẹ lúc nào cũng lo lắng, bồn chồn bận rộn nhiều công việc đa đoan. Tề gia nội trợ chất chồng, lại đi dạy học lu bu. Khiến đôi khi Mến gay gắt, bực bội, già nua hơn. Ít khi hồn nhiên, tươi trẻ trong lòng người mẹ, an thư bình yên.
Khi tiếng "Ngoại, Ba Mẹ và Con" vang lên trong lòng, nó khẽ rung nốt nhạc êm ái, ngân dài. Như tiếng chuông vàng âm vang, quẩn quanh trong trái tim nồng cháy. Tạo thành niềm vui tuyệt vời tràn ngập. Hạnh phúc trào dâng, xếp lớp lăn tăn trong vòng tay ấm dịu, ngọt ngào của ba má. Làm an thư. Thinh lặng. Phẳng phiu trong đời con, bao đắng cay cuộc sống.
Xin cám ơn cha mẹ vô vàn. Các con xin ghi nhớ công ơn dưỡng dục của mẹ cha. Suốt đời.
*

Ưu Du_ * _heart[@};-
Ái Ưu Du
#2 Posted : Tuesday, August 29, 2006 7:14:46 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0


Roseheart HOÀI NIỆM về MẸ Thương Yêu

(Con kính dâng về Mẹ đoá hoa hồng trắng: Nhân HAPPY MOTHER’S DAY)
*
Cả nhà vui mừng hoan hỉ, mà người vui mừng nhất là "mạ của con". Rất yếu tim và lo sợ, nhưng mẹ vẫn xin bác sĩ Phán, hai cô y tá, cho phép mẹ đứng trên đầu giường, mẹ lâm râm đọc kinh, đôi mắt như lạc thần nhìn chăm chăm vào mặt con.
Tiếng cầu nguyện thốt lên thành lời, thống thiết chân thực. Hai bên thái dương mẹ ướt đẫm mồ hôi, miệng há hốc, bàng hoàng, nắm chặt lấy bàn tay con, như tiếp sức mạnh. Có mẹ ở bên cạnh, con xiết đỗi yên tâm và bình an.
Khi “cu tí nhau” chào đời, mẹ chảy nước mắt reo mừng, thở phào, như chính mình trút được cơn đau tột cùng. Mẹ muốn san sẻ tất cả đớn đau, cũng như niềm vui mừng với con. Ôi thế mới biết, tình mẹ thương yêu con biết ngần nào!
Bà ngoại thuê phòng hạng đặc biệt, trong viện của bác sĩ Phán, cho Thùy nằm. Suốt mười ngày mẹ vất vả. Sáng sáng khoảng năm giờ, lò mò dậy, mẹ tự tay nấu ăn cho con, mẹ nói người sanh phải ăn cơm thật nóng. Mẹ giặt giũ phơi phong áo quần tã lót. Mua gạo thơm, kho thịt nạc, giò lụa, chà bông, ăn kèm một chén canh đổi món mỗi ngày. Chén dĩa, tô muỗng, mẹ rửa khô ráo sạch trơn, úp lên khay, đậy khăn lau chén đàng hoàng. Khiến bà bác sĩ phải khen:
- Bà cụ lo cho con gái út, chu đáo lạ!
Mẹ cười hiền hậu, không biết trả lời sao, cho khỏi mất lòng bác sĩ, vốn dĩ là chỗ thân tình. Mẹ vui khi thấy con ăn ngon miệng, âu sầu khi nàng kém bữa. Lo lắng chu toàn từng ly từng tí, đủ vất vả, hết cả giờ nghỉ ngơi. Chàng tí hon thuộc hạng rất ư khó chịu. Hay khóc nhè quá! Đái dầm ướt đít, cu cậu ngọ ngọe, la làng, mắt nhắm tít.!
Thỉnh thoảng, mẹ ngồi trên bộ ván, ngoáy trầu trong cối đồng nhỏ xíu. Nhai móm mém, thấy thương làm sao! Vừa nhai trầu mẹ vừa xếp cẩn thận, áo ra áo, tả lót đúng chiều, vuốt thẳng nếp. Mẹ tận tụy cần cù hy sinh cho chồng, con, cháu, là hạnh phúc duy nhất, là lẽ sống thầm lặng, thương yêu ngọt ngào, thủy chung hết mực.
Thấy con không ngủ được, mẹ ngồi nơi góc mùng, bế cháu khi nó quấy, ru hời ru hỡi trong vòng tay ngoại già, cho con gái thiêm thiếp giây lát. Tình yêu thương nồng thắm của người mẹ, giờ đây Thùy mới hiểu thấm thía, thâm thúy, bao la như trời biển, êm đềm ngọt ngào, nồng nàn xiết bao trong từng giờ, từng tháng, từng năm. Cô yêu kính mẹ vô vàn, mẹ âm thầm chịu đựng, hy sinh gắn bó, nhẫn nại, dốc hết sức cạn hơi mòn, hầu chu toàn cho con, cháu, sức khoẻ bình an, hạnh phúc. Dù con khá lớn khôn, có gia đình con cái, đã từng trải. Mẹ dỗ dành Thùy, như đứa trẻ lên năm:
- Con ăn hết dĩa thịt nạc kho tiêu ni đi. Mẹ thấy con không ngủ đươc. Phải ngủ đi.
Nhắm mắt thật lâu. Tai Thùy nghe bước chân mẹ nhẹ nhàng đi lại. Lẩm bẩm về sự xanh xao gầy ốm, mẹ đứng bên bàn rót nước trà. À, không phải, mẹ châm nước sôi vào bình thủy, đậy nắp, đặt lên góc bàn. Mẹ đến cuối phòng thu dọn, chén bát va chạm nhau nhè nhẹ, khi lau rửa. Thoạt tiên, nàng len lén mở mắt nhìn mẹ say sưa, thấy mẹ ngẩng nhìn về phía mình, nàng vờ nhắm mắt lại, sợ đôi mắt mình, sẽ tiết lộ những ý nghĩ thầm kín.
Mẹ đến bên giường, lấy khăn đuổi con ruồi đậu ở mũi, tay nàng đang vắt trên trán, mẹ nhẹ nhàng cầm tay con, đặt xuống nệm, mẹ cúi sát xem con ngủ được không ? Hơi thở mẹ thoảng qua, gây cảm giác ngọt ngào, dễ chịu dường bao! Như hơi nồng từ trái tim mẹ toả sức ấm ra, chứ không do mền nệm, hay lò lửa đỏ vùi tro, đặt dưới gầm giường.
Tưởng nàng ngủ, mẹ mỉm cười, về ngồi bên bộ ván. Nụ cười dịu ngọt, làm nhạt nếp nhăn trên khuôn mặt hiền lành, nhân hậu. Mẹ cười sung sướng, nói lẩm nhẩm một mình, nhìn hai mẹ con nằm ấm áp, trên lò than vùi sưởi lạnh.
Ơ! Đây có phải là đứa con gái út, trong gia đình có mười anh chị em, út lên mười vẫn còn rúc vú mẹ, vòi vĩnh mọi thứ khi thích. Út, sau giờ học, tối ngày thui thủi một mình, vì thế luôn quanh quẩn bên mẹ. Út có tính hư nết xấu. Con dậm chân dậm cẳng, không chịu tắm, dù mẹ đã gói cho đòn bánh tét nhỏ xíu, bằng gan tay, có dây lạt buộc, từ đầu nầy qua đầu kia, làm quai xách. Mẹ pha nước nóng, ngồi trên chiếc đòn nhỏ, bên hiên nhà, bế con trên đầu gối, thòng cái cổ đeo hai ba sợi dây chuyền bằng đất, con ngửa mặt lên trời, cười sằng sặc, lúc thấy nhột, mẹ gội đầu bằng nước bồ kết, nấu với lá sả, lá cam, lá chanh, lá bưởi. Tắm cho con bằng xà bong thơm hiệu "Cô Ba đeo kiềng vàng". Con bé năm tuổi, ngồi bên thềm gạch hoa, ở biệt thự số 5 đường Quang Trung, nhìn mẹ thoăng thoắt may áo quần mới, nghe mẹ kể chuyện cổ tích trầu cau, Tấm Cám.
Mẹ kể chuyện hay đến nỗi, đôi khi con đòi cái gì đó, không có cho con, mẹ mỉm cười nói "Ngày xưa... có một người tiều phu vào rừng..." là mọi thứ hấp dẫn trên đời, đều không bằng câu chuyện cổ tích cuả mẹ. Út say sưa nhìn, mẹ đeo đôi mục kính trắng, khéo léo may từng bộ áo quần đẹp nhất đầu xuân, để con xúng xính trong ba ngày Tết, chạy đi khoe bạn bè cùng tuổi, với đôi hoa tai vàng tòn ten, đong đưa theo mỗi cử động. Kiềng vàng chạm trổ lấp lánh trên chiếc áo nhung đỏ, hài xanh đỏ. Thuở đó Thùy thân nhất với bé Mai, ở nhà gọi là Bê, có bà con với mình. Hai bạn nhỏ đầm ấm chơi đùa vui vẻ, thân thiết.
Một kỷ niệm bất ngờ, không sao giải thích nỗi, tâm trí nàng vụt quay về dĩ vãng, xa lắc xa lơ. Thuở ấy, màn mưa xám đục buông suốt ngày đêm. Mái tóc bum bê lắc lư, Thùy đứng trong khung cửa sổ, nhón chân xem mưa đập lộp bộp vào cửa kính, những dòng nước nhỏ ngoằn ngoèo, chảy xuống tấm kính mờ đục. Út nao nức chờ mẹ. Mẹ đi chân đất, đầu đội nón lá, toàn thân ướt dầm nước mưa, chiếc đòn gánh uốn cong trên đôi vai, còng xuống hai thùng nước cơm trĩu nặng.
Mẹ gánh nước cơm ngoài đồn lính về. Một thùng sạch đậy kín, đựng cơm nóng, có mấy ngăn cào mên thức ăn, còn nguyên trong chảo múc ra, chưa có người ăn. Thùng kia đủ thứ hỗn tạp, là thức ăn heo. Mẹ nuôi vài chục con heo thịt. Thuở đó, gia đình nàng rớt từ đỉnh cao phù vinh, xuống vực thẳm, vì ba làm nhà máy cưa cây, nó hại cho khánh tận, khuynh gia bại sản. "Của rừng, rưng rưng nước mắt thật".
Mỗi buổi nhọc nhằn trở về nhà, mẹ dúi cho út bánh ngọt, miếng chocolate, trái chuối, trái bắp. Thùy thèm ăn nhất là lát bánh mì cứng, hấp trong nồi nước sôi, chấm nước mắm ớt, nước cá hoặc nước thịt, ăn ngon hết sẫy. Mẹ kêu chủ thầu các trường nội trú đến bán heo thịt. Mẹ và các con dẫn vợ chồng bà đầm, cùng phu cai xuống chuồng heo, cách xa nhà 40 mét, bà mua mão hết bầy.
Phu cai trói heo cho vào rọ, khiêng lên đường cái, vất vào hai chiếc xe ngựa xong, bà đầm cầm áo veste, móc túi lấy tiền, đồng tiền không cánh mà bay, mất hai trăm sáu chục đồng Đông Dương. Bà đầm tri hô như thế, một hai bảo người nhà ăn cắp, bà ta gọi hiến binh, phú lít tới.
Không cần biết luật lệ phải trái, có mất tiền thật trong túi áo, máng bên sườn xe kéo, để bên lề đường cái, hay không, họ còng tay mẹ, xô lên xe ngựa, nằm với mấy chục con heo, kêu la rần trời, mặc kệ cả gia đình kêu khóc, phản đối inh ỏi, chúng hăm doạ nếu lộn xộn, sẽ bắt nhốt hết cả đám. Quân cướp cạn hùng hổ, quất ngựa phóng nước đại, chạy như bay, tống giam mẹ vào nhà lao.
Nửa tháng bặt tin, sau đó chúng thả mẹ ra, mẹ về như cái xác không hồn, trông tiều tụy thảm thương. Ba, con cái, xúm xít chung quanh mẹ, lo lắng hỏi thăm, mẹ khóc sưng húp mắt, kể lại suốt bao ngày bị nhốt, chúng cho ăn một ngày nửa chén cơm khô, với ít muối hột, đêm đêm bọn lính Tây lôi mẹ ra tra điện, chúng chích điện vào người, bắt mẹ nhận tội.
Bọn Tây thời đó đầy quyền uy, hống hách, ác độc hơn loài rắn hổ mang, người dân thấp cổ hé họng, chỉ câm miệng cúi đầu, cắn cỏ ngậm vành, không dám hó hé. Mỗi lần bị bọn Việt gian, làm cho Tây tra điện, mẹ sợ hãi kinh khủng, dòng nước ấm chảy ra, ướt dầm thân thể, không thể nén mồ hôi hột lại, nín lại cơn buồn đái. Mẹ không đủ sức chịu đựng cơn đau, phải tuân phục điều độc ác, chúng bắt mẹ phải nhận tội.
Mẹ đau đến ngất xỉu. Chúng lôi chân mẹ, kéo về phòng giam trống, không giường chiếu, tạt nước lạnh cho tỉnh lại, mẹ bị chảy máu mũi, máu đầu, run rẩy, mặt mày xây xát, sưng húp, bầm tím. Mẹ thật chịu oan ức tột cùng, tiền mất tật mang. Suốt từ đó đến nay mẹ yếu hẳn người, bị đau tim, luôn xâm xoàng, ngất xỉu vì quá hãi hùng, điếng lặng.
Vậy đó, mẹ chịu đủ mọi oan ức, khổ sở cay đắng nhọc nhằn, tủi cực trăm bề, để lo nuôi dạy đàn con.
Một lần sau đó, gánh nước cơm về, mẹ đã thay bộ áo quần ướt sủng nước mưa, ngồi bên bếp lò, giơ đôi bàn tay xạm nắng, tóp teo vì thấm lạnh, chai cứng ra sưởi ấm. Nhìn Thùy nhai bánh mì ngấu nghiến. Bỗng mẹ nhìn sững sốt, lạnh lùng hỏi con út :
- Đôi guốc mới, con mang đó. Mô rứa ?
- Dạ... Của con... con... l..a...
- Mẹ nói rồi, đợi bán heo, mẹ sẽ mua quần áo, dép guốc, cho con đi học. Mẹ biết, con mau lớn, giày dép cũ mang không vừa, đi chân không thì lạnh lắm. Mẹ lo sợ con đau. Ngặt nỗi, bi chừ chưa có tiền. Mà răn con dám cả gan, đi ăn cắp, của ai rứa ?
Thùy cúi gầm đầu, một tay túm mái tóc bum bê, nhìn đôi guốc mới, mang vừa vặn ở chân. Đôi guốc màu đỏ đầy hấp dẫn, hai quai cánh cam in đủ màu sắc hoa lá. Trông quyến rũ, thèm khát, ước ao vô vàn.
Khi chị Tư sai út vào quán chị Thế mua trứng vịt, tôm khô. Lúc quán xá bận rộn người mua kẻ bán, út kẹp chặt đôi guốc vào nách, đã che kín bằng chiếc áo mưa lụng thụng. Trống ngực đánh mạnh, mặt tái mét, run như cầy sấy, con bé co giò chạy, vừa chạy vừa ngoái cổ lại nhìn chị Thế, là bà chị dâu, không biết gì hơn, ngoài việc thu nhiều tiền vào tủ sắt.
Mẹ gục đầu trên hai đầu gối ướt lạnh, run rẩy, mệt nhọc, già nua trước tháng năm - và khóc. Khóc vì cảnh thăng trầm không thể ngờ, vì chưa mua nỗi đôi guốc, chỉ đáng vài xu, trong khi tiền cưa cây bạc trăm, bạc ngàn, kể như đỗ xuống biển. Tiền bán ba chục con heo, bị chúng trấn lột hết. Mẹ khóc vì tội lỗi của con thơ.
Tối hôm đó, mẹ thức rất khuya, ngồi một mình dưới gian bếp lù mù, đèn dầu leo lét, mẹ đã cắt khúc vải nhung màu vỏ măng cụt, may áo cho con mặc ấm. Bên trong mẹ bọc thêm một lớp gòn mịn, tốt, ở giữa, và lớp lụa sa tanh mới, ở trong cùng.
Lúc đó, leo lên giường từ lâu, không làm sao ngủ được, Thùy rất sợ và lo âu, trằn trọc mãi, không dám nhúc nhích, mở mắt nhìn mẹ chăm chú làm việc. Khá khuya, đôi dép lẹp xẹp lần từng bước, mẹ nhẹ nhàng đi trong bóng tối mờ. Mẹ vặn ngọn đèn dầu nhỏ thật lu, mẹ cố không khua động giấc ngủ mọi người. Thùy nằm im, giả vờ ngủ say. Trong bóng tối, hé mắt nhìn mẹ ngồi đọc kinh, sau đó mẹ ngả lưng xuống đệm, theo tiếng thở dài.
Bàn tay lạnh ngắt run run sờ soạn tìm con, đặt đầu con nằm ngay ngắn, trên gối mỏng, kéo hai chân con thẳng ra, đắp mềm lên tận cổ con. Mẹ ôm con vào lòng, hôn lên mái tóc khét nắng. Nước mắt mẹ thấm lạnh da đầu con.
Thì ra, mẹ khóc. Khóc âm thầm lặng lẽ, trong bóng tối. Mẹ giống người chèo đò nước ngược đầy sóng gió, đơn độc ra tay chống chèo, khi đàn con nhỏ sợ sệt, la khóc, run rẩy bám chặt vào mạn thuyền. Mẹ cố sức chịu đựng giông bão, gian truân âm thầm câm lặng, và dai dẵng, miễn sao con, cháu, bình yên, no ấm. Người Mẹ Việt Nam tần tảo phúc hậu, ôn hoà cao cả, hy sinh xiết bao, suốt đời mình.
Qua đêm ấy, tuần sau mẹ bán heo thịt, ba làm cúp cây ổn định, khá giả, vinh sang hơn cũ. Nhưng dẫu có sung túc giàu có hơn xưa, nhiều rất nhiều, vết thương đầu tiên về bài học đạo đức, trong lòng mẹ và con, hẳn không có gì lấp đầy, phôi pha được. Từ đó, mỗi khi nàng muốn lấy cắp cái gì, hình ảnh mẹ ngồi bó gối bên bếp than hồng, nước mắt mẹ chảy thấm vào da đầu út, hiện lên rỏ nét; khiến Thùy quắt quay và lặng người, vì hối hận, không dám tái phạm.
Đó là nốt nghịch phách đầu tiên trong đời, vào chiều mưa giông giá lạnh năm xưa. Ước gì nàng được chìm trong dòng sông, đã chảy qua thời ấu thơ, nơi mái gia đình xưa, để nói thật nhỏ : "Mẹ ơi ! Cho con xin lỗi". Ôi! Chỉ cần trở về ngày ấy, biết nói câu nầy, sẽ sống lại và chỗi dậy cả quá khứ ngọt ngào, say đắm, êm đềm, nồng nàn, sung sướng xiết bao ! Và, Thùy biết đằm thắm, khôn ngoan gấp bội lần.
Đó là cái gốc rễ tình yêu, nơi chôn nhau cắt rốn, chính nơi đây, con bập bẹ tiếng "Mẹ Mẹ" đầu tiên. Mẹ là sợi dây vàng, rắc đầy kim cương lóng lánh, nối liền con với niềm vui buồn quá khứ, dạt dào hạnh phúc ân tình. Mẹ là người sung sướng, mỉm cười từ ái, hằng cầu nguyện cho các con, suốt bao năm trường, được hạnh phúc, bình an. Phải không mẹ?
Bây giờ, thời gian vút qua... Con bé bỏng của mẹ lớn khôn, có gia đình, đã làm mẹ. Dù vậy vẫn nhõng nhẽo, quấy rầy mẹ đây, như thuở nào!
Dọn dẹp xong, mẹ ngồi xuống chỗ cũ, lò mò mở kim băng cài túi áo, lấy tiền ra đếm, tiền chẵn cất vào túi áo trong, tiền lẻ để túi áo ngoài, cẩn thận cài hai kim băng vào hai túi. Đôi mắt mẹ ánh lên niềm hãnh diện khiêm tốn, ấm lòng, có tiền riêng lo cho con, cháu, nếu cần, sung sướng, khi mẹ mua các thứ thiếu, do chính đồng tiền tần tảo, vun vén của mình có.
Thùy nằm trên giường, người lân lân giữa trạng thái nửa thức nửa ngủ. Ngử chập chờn cái kiễu gì lạ, không thể mở mắt ra, choàng dậy, cả người mệt mỏi vô vàn, mẹ nói:
- Chiều mà ngủ rứa, là bị mộc đè, không dậy nỗi.
- Dạ phải. Bị mộc đè, dậy chi nỗi.
Ngồi dậy đầu choáng váng, nàng nghĩ : “Có lẽ vì nằm nhiều, không vận động, mất ngủ suốt tuần nên yếu người đi”. Quơ chân xuống nền gạch tìm đôi dép, Thùy đến bàn bưng bình thủy lên mở nắp ra. Bỗng dưng, đầu óc quay cuồng, tối tăm mặt mũi, thân thể nặng nề, và ngả lăn xuống, bất tỉnh nhân sự.
Khi hồi tỉnh, ông bà bác sĩ và cô y tá reo mừng. Còn mẹ. Trời ơi! Nàng không thể nào diễn tả sự khiếp sợ, trên đôi mắt mẹ, tưởng đã lạc thần. Tất cả sự yêu thương, lo lắng tột cùng của mẹ, quá run sợ phải lìa con. Run cầm cập, mẹ lụm khụm đi nấu nước sôi, đắp lên hai vết bầm trên đầu, cánh tay, bắp đùi Thùy. Đã bận rộn nuôi con, cháu, suốt tuần, nay có thêm các vết thương, khiến mẹ càng khổ cực. Mẹ lâm râm đọc kinh cầu nguyện. Con gà bị cắt tiết mất hết máu ra sao, mặt mẹ xám xanh, y như vậy.
Bác sĩ khám rất kỹ vết thương rướm máu ở đầu, nơi bị dập mạnh lên chân tủ, chìa ra ngoài. Bên thái dương kia lại bị một cục u, to hơn nửa quả trứng vịt, tím bầm. Đầu nàng đau nhức kinh khủng, y như có tảng đá nặng đè lên. Ê ẩm cánh tay trái và một bên sườn. Cổ xoay trở không được, phải nhờ người khác giúp. Bác sĩ chích nhiều thuốc, chăm sóc cẩn thận. Vì sự bất tỉnh, Thùy phải nằm điều trị thêm nhiều ngày, hoàn toàn mất ngủ. Mẹ phàn nàn:
- Sau nầy con sẽ bị đau đầu, đau nhức thân thể, hoài đó.
Thấy con cựa mình, mẹ quay lại nhìn:
- Con cần chi? Để mẹ làm cho.
- Khuya rồi. Mẹ ngủ đi. Mẹ đừng lo. Mẹ ngồi cả ngày, cả đêm, mệt lắm. Mẹ ngủ đi kẽo bị bệnh bi giờ.
Trong đêm trường thanh vắng , khuya lắc khuya lơ, nàng nghe rất khẽ nhưng rỏ ràng, tiếng mẹ đọc kinh đều đều. Thỉnh thoảng kèm vài tiếng thở dài nho nhỏ, lời nguyện xin cho con cháu bình an, mạnh khỏe.
Một dải sáng vàng lấp lánh ngoài ô cửa kính, trải ánh bạc thành con đường dài, cắt ngang tòa nhà lớn trên đồi dốc. Trăng sáng và xa xôi nhòa dưới lớp sương, mỏng như dải lụa. Tiếng côn trùng râm ran ngân nga, bản hoà tấu không nhịp nhàng âm điệu, bỗng chốc im bặt, rồi rè rè diệu vợi vang xa, khiến đêm khuya càng thêm mịt mùng thăm thẳm...
Thùy mệt nhọc thiếp đi khi trời hừng sáng, trong tiếng lâm râm đọc kinh cầu nguyện của mẹ hiền.
*
Ưu Du
_ * _
Roseheart
Ái Ưu Du
#3 Posted : Tuesday, August 29, 2006 7:26:01 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

NHÀ

Nắng mới ươm hồng hửng lên, làm vàng hanh những ruộng dâu. Vài luống hoa hồng chúm chím, mượt mà. Bao cành hoa anh đào rung rinh hé nở. Tiếng đàn chim thức giấc đầu tiên, hót líu lo, ríu rít, rộn ràng dưới các mái nhà, nhảy nhót trên nhánh thông già, đan quyện vào nhau, tạo thành bản nhạc vui tươi, lảnh lót.
Dãy đồi thông Thông Thiên Học chạy dài trên đồi thông nhấp nhô, như sóng gợn, nằm cạnh Ký túc xá nữ sinh viên, đường Trương Vĩnh Ký thật hữu tình.
Đứng trên đồi nhìn xuống đại lộ Duy Tân, muôn ngàn dáng xuân lượn bước trong lòng phố thị. Tâm tư Tứ tràn ngập niềm hy vọng và hạnh phúc.
Ở một mình trong thành phố, ngày ngày đi làm việc. Thật buồn. Thật nhớ. Thật cô đơn. Văng vắng. Buồn buồn. Nhơ nhớ. Thương thương. Vợ bồng con, quyết định đi xa. Không làm sao ngăn cản, anh khóc nhiều.
Hết giờ làm việc, anh lang thang đây đó, ban đầu anh cảm thấy đôi chút tự do, như người đàn ông hào hoa, độc thân vui tính Mặc dù ngay sau đó, anh thấy hậm hực, bức rứt, buồn phiền. Không hiểu giờ nầy vợ, con, làm gì? Con trai đầu lòng thân yêu, quá đỗi bụ bẫm, xinh xắn, có ngủ yên, hay khóc nhè trong vòng tay mẹ nó?
Mỗi đêm, anh vẫn ngồi tại café Tùng tối mờ, trước ly café đắng, đen như cuộc đời, gói thuốc lá mang tính độc hại. Kệ! Anh cứ hút liên miên. Chết bỏ. Mặc. Cứ tha hồ, tự do hút thuốc. Không còn ai bên cạnh khịt mũi, nhăn mặt khó chịu, vì mùi thuốc có oxid cacbon làm nhức đầu, rối loạn thần kinh.
Cuộc đời buồn nhiều hơn vui, tràn đầy đau khổ, biến anh thành thứ hoá chất, độc hơn thuốc lào, thuốc rê, thuốc ruby, cào rửa trong tim, trong phổi anh, hết mọi niềm tin yêu.
Có vợ con ở nhà, anh không hút thuốc, vẫn rối loạn thần kinh, mù tít cung trăng, bất lực nhìn vợ con ra đi, như gã bạc nhược, buông thả theo bản năng “mụ vợ” gàng bướng đó sao?
Anh đau khổ nhiều, vì cuộc chiến đấu nội tâm ray rứt khôn nguôi. Chúng vào tận đáy niềm tin yêu, tấn công anh liên miên. Anh nhìn ra lòng phố thị giá băng. Vài chiếc xe vụt qua, tiếng động cơ ồn ào, bụi bặm xăng dầu lan tỏa. Bộ hành lác đác đi lại trên hè. Họ hối hả đi đâu? Vui cười hay phiền muộn? Họ vào tiệm ăn với gia đình? Hay về dưới mái nhà êm ấm? Họ có yêu đời, hay tư lự như anh?
Không. Tứ cương quyết đấu tranh. Phải làm cái gì hữu ích, hơn bó gối trước ly càfé và gạt thuốc đầy tàn, cúi đầu chịu gia đình uốn cong đi, vì bước ngoặt lao đao giữa cuộc đời, lúc vợ dại con thơ, cần bàn tay chăm sóc người chồng, người cha.
Anh phải gần ở bên, chia sẻ chuyện vui buồn, thương yêu trong cuộc sống đùn lên, do những đau khổ, mỏi mệt chất chồng đem lại.
Vợ chồng, phải đính liền nhau trong hôn nhân, tình yêu, và con, như sợi xích thiên nhiên, ràng buộc chặt chẽ, đúng khớp. Không có gì chia xa được. Dù xa dưới hình thức nào cũng thế. Không vì kế sinh nhai, mà đẩy vợ con càng xa nhà.
Nhà. A phải! Tiếng “Nhà” vừa vang lên, Tứ bàng hoàng giật mình, hân hoan, cường diệu xiết bao! Nhất định chính hai bàn tay trắng nầy, sẽ làm được.
Anh vội đứng lên tính tiền, hân hoan về chỗ trọ ngủ sớm. Hai ngày sau, anh đến bạn bè, hàn huyên dò hỏi. May mắn thay! Anh gặp cụ Khải, là hội trưởng Thông Thiên Học, cụ cấp cho anh một lô đất làm nhà. Anh gọi hai chân hụi, mười hai người, (cả cái và con). Mỗi chân năm ngàn. Có tiền, anh đi mua vật liệu chở về, thuê người làm nhà. Ngày dựng nhà, anh nhờ Hiệp, Ngọc, Viên, phụ giúp một tay. Trong vòng ba ngày, kể như khung nhà hoàn tất. Các bạn chí tình, thật tốt, giúp đỡ anh lúc gặp khó khăn. Đúng nghĩa là bạn hiền.
Tứ vui mừng kinh khủng. Nhà gỗ lợp tôn, xinh ơi là xinh, đầy đủ tiện nghi cần thiết. Tứ ngẩn ngơ vui mừng tự hỏi: Không hiểu sao mình giỏi vậy? Nhà không dư tiền, của cải dấu cất cũng không. Thế mà anh sẽ cho vợ con, nguồn hạnh phúc vô biên: Cho gia đình mình mái nhà ấm áp, chui ra chui vào, dù bé nhỏ, đơn sơ nhưng thân thiết, vô vàn ấm cúng. Anh biết Mến sẽ rất vui mừng.
Chiều thứ bảy, ra bến xe, (từ Tùng Nghĩa lên Đà Lạt) thật sớm, anh đứng lên ngồi xuống, mong ngóng đón hai mẹ con. Trong lòng khấp khởi, mừng vui tột cùng. Anh cố dấu hạnh phúc, dẫu vậy vui vẻ khác thường, khiến Mến nhìn anh, ngạc nhiên hỏi:
- Hôm nay, sao anh vui quá?
Tứ bế con vào lòng, hôn lên trán bé thật kêu:
- Không có mẹ con em, anh dọn đi... ở nhờ chỗ khác rồi.
- Điên quá vậy anh? Thuê nhà anh chị Kỳ, tiện cho mình, gần chợ, gần bến xe, nhà thờ. Anh dọn đi ở nhờ, khi cần nhà, người ta đuổi đi, không kịp dọn ra. Anh à.
Anh cười cười, im lặng, nhìn Mến đá lông nheo mấy cái, khiến nàng thấy bực mình, hờn dỗi, xách giỏ theo anh lên xe lam, về chỗ mới. Mến bị cúm mấy hôm nay, mặt nàng xù ra như chú nhím. Tứ thấy thương vợ hơn.
Trước căn nhà màu trắng, xinh xinh, có cửa gỗ sơn màu xanh, Tứ móc túi quần lấy chìa khoá, cho vào ổ, mở cửa ra, nhường vợ bước vào trước.
Mến nhìn quanh: Phòng khách rộng kê bộ sofa, góc phòng là tủ trà, tủ sách, bàn làm việc, có bốn ghế dựa, radio ở đầu ngăn vách. Tường treo hai chùm đèn mờ ấm áp, tỏa ánh sáng dìu dịu. Ngăn đôi phòng khách và hai phòng ngủ, bởi cánh cửa gỗ, bức vách ván đóng mắc cáo, phủ màn voan màu xanh da trời. Phòng ngủ kê một giường thước tư, phòng kia kê giường thước sáu. Tủ quần áo đặt sát góc. Bàn nhỏ thấp bên đầu giường, nệm, mền, sạch sẽ ngay ngắn. Nôi con cạnh giường lớn. Bàn máy may kê sát cửa sổ, nhìn ra rừng thông. Bếp rộng kê bàn ăn, tủ chén bát, thùng gạo, đồ dùng linh tinh, cạnh lò than, hai lò dầu lửa, để trên bục gỗ thấp. Đó là tất cả vật dụng cũ của gia đình.
Anh tủm tỉm cười, hỏi:
- Em thích căn nhà nầy không?
- Anh nói lạ ghê! Thích cũng thua.
- Mà em có thích không đã?
- Em thích chứ.
- Có người tặng cho em đó.
Mến ngạc nhiên, nghi ngờ nhìn chồng đăm đăm:
- Ai mà hào phóng, dễ thương vậy anh?
- Anh chứ ai.
Mến không thể tin, mặt tươi như hoa, khi nghe nguyên nhân "căn nhà của chúng mình". Cô mừng kinh khủng. Chưa bao giờ mừng vui kỳ diệu đến thế! Một điều ngoài ước mơ và hy vọng, nay đã trở thành sự thật. Bất giác Mến mở rộng vòng tay, ôm bố con vào lòng, hôn tới tấp lên mặt, lên cổ hai người. Say sưa với hạnh phúc bất ngờ, cô cười như điên, đi lên "nhà trên" đi xuống "nhà dưới".
Nhà! Chỉ cần một tiếng đó thôi, đã nói lên muôn vàn đầm ấm, hạnh phúc, hân hoan, cường diệu xiết bao! Mến cảm ơn Tứ. Cảm ơn cụ Khải. Cảm ơn bạn hữu thân quen. Cảm ơn tất cả. Tối tối các ca sĩ nổi danh, từ các đài phát thanh, vẳng lên trong radio Philippe bốn băng, đặt ngoài phòng khách.
Cảm ơn đài phát thanh, đã phát chương trình thi ca chọn lọc, gửi theo làn sóng điện, từng hơi thở ngọt ngào thân thương, họ không quên con người ở nơi xứ lạnh hoa anh đào, không quên "gia đình nhỏ", lắng nghe chương trình thoải mái, êm dịu. Xin gửi đến qúy vị lòng biết ơn chân thành, sâu xa nhất của ba người, trong muôn người sống nơi xứ ... “Bài thơ hoa Đào” nầy.
Nhân nghỉ lễ Noel và Tết Dương Lịch, Tứ làm mấy bữa cơm thân mật, trước cảm ơn bạn bè, nồng nhiệt giúp đỡ anh, làm nên mái nhà. Sau là âm thầm "khánh thành căn nhà đầu tiên của chúng mình". Anh không hé môi nói với ai, đã thọ ơn qúy-nhân rất nhiều, không muốn làm phiền họ hơn.
Trong xóm có năm gia đình, cất nhà chông chênh lên mặt đất đầy lá thông khô mượt mà, làm nên bộ mặt thân quen, kết tình thân ái xóm giềng. Hai gia đình Hiệp, Ngọc, có con cái lít chít, lút chút, nheo nhóc, những bảy tám đứa... Ơi là con! Sự hiện diện trẻ con hai nhà nầy, trong xóm đầy tiếng la khóc, nói cười ồn ào. Kế bên là nhà Viên, anh công chức trẻ, độc thân, trầm lặng, siêng năng. Vợ chồng Qúy mới cưới chừng năm bảy tháng.
Mến mời thêm các bạn Thu Cúc, Thúy, Nhung, Hồng. Phía trước triền đồi nhà Mến là nhà Mai, bạn thân. Mỗi lần bế con xuống chơi nhà bạn, hai cô tỉ tê chuyện trò, tâm sự suốt buổi.
Mấy hôm nay Tứ chẳng đi làm, suốt ngày anh quanh quẩn bên vợ con. Mến bị cúm khá nặng, dây dưa hơn tuần chưa dứt. Anh không cho vợ nhúng tay vào nước. Sáng sáng anh giặt tả lót, phơi đồ trên hàng dây thép, kẹp gài cẩn thận. Ở nhà cô đặt nồi cơm, nấu ấm nước pha trà, nấu nước sôi đổ bình thủy. Quét dọn nhà cửa. Tứ ra chợ mua thức ăn giây lát, rồi về làm cơm.
Phải nói là anh thay đổi cách nhìn, cũng như hành động, khác hẳn ngày trước, chưa có con thơ. Thương vợ con nồng thắm. Mến phân vân tự hỏi: Đâu là hạnh phúc ngọt ngào? Đâu là cay đắng muộn phiền? Đâu là hương hoa tuyệt vời của tình yêu đích thực? Có phải... xa nhau thì thương, gần nhau thì thường, vì khắt khẩu? vì thói quen trái ngược? Chưa thấu hiểu nhau?
Từ trong ký ức, quá khứ xa xôi tưởng đã nhạt nhòa, bỗng bừng bừng lóe lên tia chớp hứng khởi, giống kẻ du mục dạn dày, trải qua lắm lần dòng đục, lẫn dòng trong. Nay khát khao tìm về chốn xưa, choáng ngợp hương hoa tình yêu.
Vài lần trong tuần, hai vợ chồng khoá cửa, bế con đi tà tà xuống phố ăn xôi gà, hoành thánh mì, gần khách sạn Thủy Tiên, ăn phở Ngọc Lan. Phố thật gần, đi bộ năm phút là đến. Ăn uống xong, anh bế con vào rạp Hòa Bình, hay rạp Ngọc Lan xem ciné. Chín giờ tối, muốn đi ciné, vẫn bế con đi được. Miễn là hai mẹ con có đủ áo ấm, khỏi sợ sương giá.
Nghỉ phép hơn một tuần. Không muốn vợ đi làm lại, Mến đang đau, Tứ xúi vợ bỏ việc. Mến yêu thích căn nhà quá! Nó dễ thương, dù bé nhỏ thôi.
Toại nguyện, không đòi hỏi gì hơn, cô xiêu lòng, ở nhà không phép tắc, đơn từ gì cả. Hai tuần bình thản trôi qua. Bỗng, Mến nhận thư hiệu trưởng Long báo cô: “Hãy suy nghĩ kỹ, chị không nên bỏ việc, uổng lắm, học sinh rất cần chị”.
Suy nghĩ rất nhiều. Cuối cùng, Mến bàn với chồng, nên đi làm. Đó là cả một quá trình đấu tranh, không khoang nhượng. Cô đã từng đau khổ vì vấn đề cơm áo, lúc vừa cưới nhau. Sự túng quẫn, là bài học thiết thực nhất. Chả nhẽ ăn rồi, đi lui đi tới, chờ chồng về, ngửa tay vòi cái nầy cái nọ. Thậm chí từ củ tỏi hạt tiêu, cần chi ly?
Với hai bàn tay nầy, trí óc không đến nỗi tồi, Mến sẽ tạo cho cuộc sống gia đình, cho mái nhà, góp phần khả quan hơn.
Phong cách hiệu trưởng như Long thật qúy, hiếm có. Ông rất tốt, tận tình, thông cảm và giúp đỡ đồng nghiệp hết mình. Cô nghỉ không đơn từ, không giấy tờ chứng minh hợp lệ, ông không báo trình, dù cô vắng mặt ở nhiệm sở khá lâu, ông che chở, giúp cho bạn, có con đường trở lại. Mến rất cám ơn ông Nguyễn văn Long ở Phú Hội, năm 1964 rất nhiều.
*

Ưu Du
_ * _
Ái Ưu Du
#4 Posted : Tuesday, August 29, 2006 7:32:55 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

XA XÔI LẮM

Bao buổi trưa oi nồng nắng gắt, chạy xe đạp trên con đường đất đỏ gồ ghề, có đá dăm kêu lạo xạo dưới bánh xe ngược gió. Sự nhọc nhằn thấm từng chân tơ kẽ tóc. Lòng Hoài rộn rã niềm vui của kẻ được trở về, nghỉ mệt giây lát dưới tàng me xanh um, ngạo nghễ, vươn mình dưới ánh nắng chói chang. Ngồi trên rễ cây mòn lẵn, trước khi tiếp tục về ngôi nhà trắng xinh xinh, hàng hoa chạy suốt hai bên đường vào nhà, giàn thiên lý tỏa mùi thơm dịu dàng, từ những chùm bông quyến luyến nép bên nhau.
Có một lần, Hoài cùng Thơ, đạp xe trên con đường ngược gió, bụi đỏ mù bay từng đám. Hai tà áo dài trắng bay phần phật, đôi lúc quất lên mặt đau điếng, mái tóc dài rối tung, bay phất phới. Nắng và gió làm cho môi khô má rát, cổ họng đắng nghét, khô lông lốc. Thật dễ sợ.
Bỗng từ lùm cây sau một khúc quanh, có người nhảy xồ ra, vồ lấy ghi đông xe, làm Hoài giật bắn người, lao đao sắp ngã. Vội nhảy xuống, hất ngược chiếc nón lá ra sau lưng, quai nón xiết lấy cổ Hoài đau hơn. Thơ trợn mắt, hả miệng định chửi.
Thì ra là Tiềm, người bạn nhỏ hàng xóm, cũng là ân nhân của gia đình. Bốn năm trước, gia đình Hoài ở Dalat về quê lập nghiệp, bà ngoại Tiềm cho cả nhà Hoài ở nhờ. Suốt mấy tháng, làm nhà xong mới dọn đi. Làng quê đa số dân nghèo, thanh bạch, chất phác, mộc mạc, nhưng họ có cả tấm lòng từ ái, khoan dung, đôn hậu, rộng mở.
Ba nàng thích khai khẩn đất đai, mở mang thôn ấp, tạo công ăn việc làm cho người dân quê. Ba thân chinh đến ông Quận, ông Tỉnh, xin phép làm con đường cái. Sáu tháng sau, con đường rải đá dăm xanh, dày một lớp, nới rộng hơn gấp ba lần cũ. Mùa mưa đường đi không lầy lội, trơn trợt, ngập lụt, đáng mừng cho dân Ấp Thượng Phước nghèo khó nầy. Do nhiệt tâm, tận tình chăm lo mọi người như vậy, nên họ quý trọng, mến phục ba nhiều.
Hoài sửng sốt nhìn, Tiềm cười toe toét:
- Xin lỗi. Cho mượn ống bơm. Xe Tiềm xẹp tê tề.
Nhìn theo hướng chỉ tay, Hoài, Thơ, thấy chiếc xe đạp dựng bên một chàng trai lạ, mặt mày sáng sủa, lối ăn mặt mang tính cách thị thành, khác hẳn thanh niên làng quê.
Thấy Hoài, Thơ quay nhìn, chàng trai gật đầu chào, kèm theo nụ cười nở trên môi. Hai cô chào đáp lễ, rồi đến bên gốc cây sung, ngồi nghỉ mệt, gở nón lá ra quạt.
Tiềm bơm xe, nói:
- Chắc Thơ biết anh Dũng, đứng ở chỗ tê hỉ?
- Ai rứa? Tui không biết. Hỏi chi dị òm rứa?
- Chi lạ rứa. Răn anh Dũng biết Thơ tề?
- Biết chi?
- Ba anh Dũng và ba Thơ, đã hứa làm xuôi gia với nhau.
- Chi lạ rứa!
- Thiệt chớ Tiềm nỏ nói chơi mô. Anh Dũng! Chừ anh muốn nói chi, thì nói đi nợ. Bắt em chở xuống, chở lên, ở con đường ni. Lốp xe cũ mèm, chịu chi nổi hí. Ai biết chi mô, mà anh cứ hỏi thăm o nớ, loạn xạ rứa hè.
- Thôi nghe, quen cả mà, nở chọc nhau chi.
Tiềm trả ống bơm. Chàng nhìn Hoài đá lông nheo, ra dấu về phía Thơ. Hiểu ý bạn, nàng trêu chọc:
- Thơ hơn Hoài ba tuổi, nhưng là em họ Hoài. Dũng chịu làm em họ của Hoài không?
- Chừ thua Hoài rồi. Phen ni, chi mà không chịu chớ.
Thơ giẫy nẩy lên:
- Chi lạ rứa! Khi không lôi tên tui vô. Qủy thiệt.
- Nếu không lôi Thơ vô, thì răn? Xe của Dũng bể bánh rồi. Cho anh em Tiềm đi nhờ xe về nhà, với chớ.
Sau một hồi bàn tính, Tiềm chở Hoài, Dũng chở Thơ, đèo theo chiếc xe đạp bể bánh ở giữa. Chuyện trò vui vẻ nở rộ trên đường quê. Tiềm vui vẻ liếng thoắng hồn nhiên.
Dũng trái lại dè dặt, chỉ hay cười. Anh nầy chính là người mà cha mẹ đã có ý chọn cho Thơ. Hai bên người lớn vui vẻ thỏa thuận đồng ý. Hoài nghĩ chú thím Lý hay thật, Thơ còn nhóc tì, hỉ mũi chưa sạch, ở nhà quê ưa bày đặt chi ba cái chuyện! Càng xa thành phố, họ càng có tục lệ hứa hôn kỳ lạ vậy.
Đến nhà Dũng ở xóm Trung, họ mời hai cô vào vườn ăn trái cây. Đứng bên gốc chùm dâu da sai trái to tròn màu vàng, Thơ bóc vỏ dâu da, cắn vào nghe mát rượi ở cổ họng khô nóng. Dũng đưa Thơ mấy quả mận đào tiên màu hồng thắm, bóng lộn, thấy mà thương. Anh nhìn Thơ mỉm cười, gợi chuyện:
- Anh biết Thơ từ ngày trường cắm trại ở gần khu rừng Cấm. Không ngờ hai ông Cụ thân nhau như vậy.
Dũng ngừng lại, Thơ nhớ hai cụ ngồi khề khà bên chung rượu nhỏ xíu, nhấp miếng mồi nhâm nhi. Chén thù chén tạc càng lúc càng vui ở ngoài hàng hiên, bên giại nứa, mỗi khi chiều về, trăng lên, thì lời bông đùa càng tăng.
- Sau mùa hè, anh đi Saigon xa lắm, ít về quê, mặc dù hoài nhớ em, Thơ... nghĩ sao?
- Thật ra Thơ chưa có khái niệm gì về tương lai, cuộc sống, khi tuổi quá nhỏ.
- Tại sao không? Nếu cảm thấy niềm vui hạnh ngộ. Nhớ "đánh điện ngầm" cho anh nhé.
- Có thể lắm. Bởi Thơ yêu mến rừng sim tím đó.
- Và yêu... nữ kỵ sĩ trong rừng sim nữa chứ.
Thơ cười, mơ màng nhớ lại năm trước, chị em Hoài, Thơ đi học dưới Tỉnh, tại trường Trung Học Phước Môn, Trường công lập Nguyễn Hoàng tổ chức cắm trại trên khu rừng Cấm, sát bên nông trại nhà. Lúc đó, Hoài ngồi trên yên ngựa, trong khu rừng sim với anh trai.
Bỗng nghe tiếng ồn ào lao xao, làm vang động góc rừng yên tĩnh. Ngạc nhiên, không biết có chuyện gì, Hoài phóng ngựa chạy về phía bìa rừng. Ba nuôi hơn ba chục con bò, nên dùng ngựa đi kiểm soát, chăn dắt bò lạc trở về đàn.
Học sinh cao lớn, lớp đệ nhị, đệ nhất, đứng xin nước xài trong vườn ương cây. Thấy Hoài, họ ngẩn người giây lát, rồi mấy con trai, nói rặc giọng địa phương, la hét:
- Tụi bây ơi! Con gái mà cởi ngựa, tề.
- Chi lạ rứa hè! Chì ghê hí.
- Nữ Kỵ Sĩ trong rừng sim.
- Con gái mà cao bồi leo cây. Ê.
- Du côn hè! É, cái đồ ba de.
Vội vàng gò cương, cho ngựa quay về chuồng nhốt gia súc. Đến sân, con ngựa Hồng tinh khôn dựng ngược hai chân trước, nó quay một vòng, rồi hai chân sau tung vó lên trời, cổ vươn ra, hí một hơi dài. Hoài không thể kéo ghì dây cương. Bất ngờ, nó chạy thật nhanh, đến dưới bóng mát cây mít, có nhánh cây ngã ra bên hông nhà kho, chỗ thường cột nó, mỗi khi muốn chuẩn bị đi đâu.
Hoài bị cành mít chận ngang ngực, kéo ghì lại, khi con ngựa chạy dưới nhánh cây. Thế là nàng ngã trên mặt đất, đau điếng, muốn ngất xỉu, giữa tiếng hí con ngựa chứng đắt thắng, không chịu về chuồng, đứng dậm bốn vó đều đều trên sân.
Thơ hoảng hốt chạy đến đỡ chị dậy. Học sinh vổ tay la ó cười nhạo, reo hò. Sau vụ nầy, "người đẹp" Hoài Hương nổi danh "Nữ kỵ Sĩ chèo queo" là vậy.
Mấy anh lớp lớn, trở thành bạn hai cô như Hoan, Minh, Hiền, Chiếu, Ái, Nam, sống các Xã Triệu Lễ, Triệu Độ, Gia Quang, Tả Kiên, đôi khi đạp xe đạp lên rừng, ghé thăm, uống bát chè tươi, ăn chén chè, củ khoai, lát sắn, trao ít vần thơ dễ thương tặng Hoài.
Quê cũ giờ đây xa xôi, phôi pha lắm! Thế là hết. Tình hồn nhiên trong vắt, thơ dại, nhẹ hơn lông hồng khi gió thoảng qua, Thật chẳng có gì, chẳng còn gì!
Thơ, Hoài, được gia đình cho vào học ở Couvent Des Oiseaux. Dalat.
Xa... xôi lắm. Xa nghìn trùng.
*
Ái Ưu Du
#5 Posted : Tuesday, August 29, 2006 7:45:26 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

ANH YÊU HOA MIMOSA

Cỏ nước đong đưa cái bóng mập mờ, xuống dòng nước phớt xanh, trông thật dễ thương, cỏ mọc dày từ đáy suối, như cây mạ non mảnh dẻ, vượt lên dòng nước mát. Tiếng nước chảy rì rào trong lòng suối, nép mình dưới bờ lau sậy lô nhô lượn sóng.
Cây mimosa cánh lá nhung lam xám mông mốc, mỗi mùa xuân đến, lại khoe hoa sắc vàng, óng ánh mịn mượt như nhung, nở tung hết cánh li ti từng chùm, trông thật duyên dáng.
Ý nghĩ của Kim bỗng chốc sáng rỏ, như tấm gương vừa rửa sạch. Hồi còn ấu thơ, chị ưa hái đài hoa mimosa, nâng niu đoá hoa, khum khum ở lòng bàn tay, đi về trong con ngỏ mòn thân quen, vừa đông vừa vui. Dù sương gió hay nắng chiều, làm cánh hoa ẩm ướt, rơi rụng ít nhiều. Chị ép xương hoa vào trang vở học trò. Ngày ấy, với tất cả sự mơ mộng lãng mạn, nâng niu, trang trọng giữ gìn mật thiết, bởi vì "chàng" rất đỗi yêu...hoa.
Bây giờ, chị trồng lại vài cây mimosa, sát hông nhà, mặc dù mùi hoa hăng hắc, không dễ chịu chút nào. Ðể làm gì thế ? Làm gì! Khi Kim đau đớn, xót xa, ngỡ ngàng nhận ra, màu vàng hoa mimosa, là màu tượng trưng cho sự phản bội. Ôi! Chính là sự phản bội đau buốt, trắng trợn, rùng rợn kinh khủng!
Bầu trời hoe hoe màu cam, bỗng đổi nhanh thành màu vàng anh, màu lưu huỳnh rồi tím thẫm. Những áng mây lẻ tẻ trên không trung, hắt ánh nắng chiều vàng thắm, bay ngang qua đỉnh tháp chuông nhà thờ con gà, chợt dậy lên lòng Kim, nỗi choáng ngợp buồn đau.
Chị chôn chặt tình yêu xuống đáy mồ sâu lạnh lẽo. Anh đã ra đi, "màu phản bội" vàng phai trên mái tóc chị vĩnh viễn. Thật sự rồi. Anh đã tự do rong chơi thanh thỏa, đi thênh thang vào vùng cỏ ẩm, hoang vu nào, xa lắc xa lơ.
Mặc chị cuồng điên, khản cổ kêu gào thảm thiết, vật vã như người điên, chị ngất xĩu biết bao lần, bên cổ áo quan, cõi lòng tan nát, như kẻ mất hồn, vô tri vô giác. Mái tóc đen nhánh vén cao, bỏ rơi lại cụm tóc ngắn, đong đưa trên cần cổ trắng nõn xưa, nay xỏa tung ra thành suối tóc huyền, dài chấm bắp chân, phủ choàng lên tấm áo quan, mỗi khi chị úp mặt vào lòng đất, bên huyệt mộ.
Những hòn đất tiếc thương, đưa tiễn anh, đến nơi an nghĩ cuối cùng, đã quăng trên đầu, trên tóc chị. Vất vả lắm, họ mới kéo chị lên, dìu ra xa. Mặt cỏ mới phủ hình hài anh, nồng ấm hơn lên, giữa tình quê, tình đồng đội, tình bạn, tình chồng vợ, khi bước chân ghé qua mồ, đặt lên nhánh hoa tươi.
Chị chửi người điều động chồng mình đi công tác, vào vùng chiến địa. Chửi bọn dã man tàn ác, đã đặt mìn, đắp mô, giết chồng chị. Tội nghiệp ông Trưởng Ty (của anh chồng khuất núi) đứng trước cảnh tang thương, quan tài phủ cờ vàng ba sọc đỏ, những vòng cườm đen hoa tím, hoa đen, chưa khô dòng mực phân ưu đó.
Ông cúi đầu, lắng nghe điều không phải, từ miệng người đàn bà bất hạnh, cuồng điên, mà thương mến chị, buồn bã, chia xẻ, hơn là tức giận. Ai biết được nước mưa, hay nước mắt đắng cay, quyện lưng tròng nhau?
Mặc chị kể lể dông dài sự tình :
- Buổi chiều hôm trước, anh chạy xe vespa vào Ty, đón tôi đi làm về. Hai vợ chồng ăn cơm tối, nói chuyện vui vẻ bên nhau. Nghỉ ngơi giây lát, anh thay áo quần đi công tác. Như bao cặp vợ chồng son yêu nhau khác, anh âu yếm hôn lên má vợ, dặn dò tôi nhớ đi ngủ sớm, khoá cửa cẩn thận. Sáng mai anh sẽ về. Anh nhảy chân chim xuống mấy bậc lầu ra đi, miệng huýt bản nhạc quen thuộc, yêu thích.
Ra đi. Nhưng nào ngờ, anh chẳng bao giờ quay trở lại mái nhà nho nhỏ, với người vợ thân yêu. Nụ hôn ấm nồng hạnh phúc lứa đôi, như dấu ấn chàm, khắc sâu vào má chị, tạo thành hố nước mắt. Tin khủng khiếp đến lúc hừng đông, khác nào sét đánh ngang tai, chị kêu gào lăn lộn, vật vã trên sàn nhà, đôi má Kim hoắm sâu, vầng trán hằn vết nhăn, đôi mắt lạc thần, nhìn đăm đăm vào hư vô.
Mọi người thân trong gia đình, bạn bè cùng Ty đến chia buồn, phúng viếng, chị không biết, không thấy gì! Chị rủ xuống như cây chuối không lá, bị chặt đột ngột, bởi lưỡi dao ngọt xớt, vô tình.
Liên tiếp những tháng ngày qua, sau đám tang, là tháng ngày, chị sống trong kỷ niệm đắm say, nồng nàn, tràn ngập niềm cay đắng, hối tiếc khôn cùng. Tình yêu đã chết. Chết rồi sao? Ðã vùi sâu dưới ba tất đất? Thế là thực sự hết. Hết rồi! Còn hy vọng gì nữa.
Ngày cuối tuần ra nghĩa điạ số Sáu, chị tặng anh bó hoa mimosa tươi, đốt nén nhang trầm thơm ngây ngất. Chị ngồi bên chân mộ, nói chuyện với người nằm dưới cỏ.
Ôi! Nhìn ảnh anh úa vàng in trên bia mộ, chị giật mình, giao động dữ dội. Vẫn nụ cười tươi, khuôn mặt ấy, duy chỉ có đôi mắt xa xăm và trống vắng, nỗi cô đơn muộn phiền trong chị, nơi anh, nay chìm đắm trong bóng tối vĩnh hằng.
Chị thầm tiếc, sao lỡ trót yêu người, thương màu vàng hoa mimosa lá xám làm chi! Chị thấy ghét loài hoa có từng chùm nụ óng ánh, như viên bi bằng nhung, mà có lần chồng nói với chị, khi anh hái cành hoa, đem về cắm trên chiếc độc bình :
- Người ta nói màu vàng, là màu tượng trưng cho sự phản bội. Anh không tin.
- Sao anh không tin ?
- Qua ngót mười năm yêu em, thì chúng ta làm đám cưới. Anh vẫn yêu màu vàng, và càng yêu em hơn. Cớ sao, họ lại nói màu vàng, là tượng trưng cho sự phản bội? Chỉ phản bội em, khi nào, anh nằm dưới gốc cây mimosa mà thôi.
Trời ơi! Anh nói thế, mà cứ y như là thật. Anh đã nằm dưới cỏ, dưới rể cây mimosa nầy. Sao ông Trời không bắt tội anh đi đày ngoài Côn Ðảo. Trong rừng sâu nước độc. Tận miền sa mạc nắng cháy, hay nơi bão tuyết giá băng? Miễn sao anh sống, chị còn hy vọng, sống lây lất qua ngày, chờ anh. Chị sẽ cố đi tìm anh, dù nghìn trùng xa cách, dù xa xôi hiểm trở vô vàn. Vì tình yêu hai người, thật hạnh phúc tuyệt vời. Ðáng tiếc lắm!
Kinh khủng thay sức mạnh tình yêu, có lực cuống hút, hấp dẫn, cuồng quay đến độ, làm cho hai người luống tuổi, đã bị đau tim, dở khóc dở cười, người dở sống dở chết, thế nầy.
Một buổi chiều vàng phai trên mái tóc quá dài, Kim ra thăm mộ anh Thương, đến nơi, chị ngỡ ngàng thấy bên cạnh mộ chồng, có một lỗ huyệt mộ còn tươi dấu đất. Chị buồn buồn cắm bó nhang, xì xụp khấn vái. Chưa tàn bó nhang, nghe tiếng ồn ào từ sau lưng vẳng lại, thoáng chốc chị thấy hai chiếc taxi đậu bên đường, sáu người xuống xe, hai trong bốn người đó khiêng cỗ áo quan bé tí ti, đi sau là vợ chồng thầy hoạ sĩ kiêm nhạc sĩ dạy đàn, ở ngoài phố Dalat.
Hai vợ chồng già không con, nuôi một chó Pop và một mèo Nat. Họ cưng hai con vật quá thể. Nên cả chó lẫn mèo đều hỗn-láo ngang cơ nhau! Ông lẫn bà đều bị bệnh cao máu, tiểu đường, đau gan, đau phổi, kiêng cử đủ thứ. Mỗi bưã ăn, chó mèo ngồi ăn chung mâm với người.
Chó cổ đeo kiềng bạc, có hột lục lạc rung leng keng khi gãi ngứa, thắt thêm nơ đỏ nhân ngày sinh nhật, ngồi chễm chệ bên ông, cạnh góc bàn, sủa vài tiếng bâng quơ, khi ông chưa kịp đút cho nó miếng giò lụa, hay miếng thịt gà.
Mèo đeo kiềng vàng 18k, thân khoát áo len do bà đan, ngang nhiên chồm lên đùi bà, lấy tay khèo khèo miếng cá thu chiên trong diã. Diã cá, diã giò, diã gà, chưa kịp mời khách xơi, cả hai con đều xơi béng mất tiêu. Kim mua bán vàng với bà, nhìn thấy hai con vật, mà ngao ngán sự đời.
Giật bắn người, khi chị nghe tiếng khóc rống bên cỗ áo quan, vừa đặt cạnh lô đất mới, Kim hớt hãi nhìn quanh. Thì ra, bà vợ thầy hoạ sĩ đang khóc, khóc tiễn đưa chó, về nơi an nghĩ cuối cùng đời "cẫu". Tưởng bà khóc đã xong, nào ngờ thầy khóc càng to, hơn bà vợ già rũ rượi kia. Họ khóc tiếc thương con Pop, ngoài sự bối rối nầy, họ không thấy ai, không thấy gì hết.
Mũi lòng trước cảnh thương tâm, Kim cũng khóc thương chồng, nàng lâm râm khấn vái: "Anh ơi là anh ơi! Sống khôn thác thiêng, hồn anh ở đâu, hãy về đây dìu dắt em, qua khỏi cảnh đoạn trường". Kim khóc mùi mẫn, như chưa bao giờ từng được khóc "đã", như buổi chiều nay.
Nàng tủi thân, tủi phận đã đành, lại càng tủi hổ, tiếc thương anh vô cùng. Khi sống, anh không có ngày yên thân, nhọc nhằn, vất vả, lúc chết chẳng may, anh lại nằm gần bên huyệt chó, động cỡn nó tru, nó hú lên, đinh tai nhức óc, anh nằm dưới ba tấc đất, nào có yên không?
Lòng Kim đau như dao cắt, ngổn ngang trăm mồi tơ vò, Kim lồm cồm đứng lên, định ra về sớm hơn mọi ngày, chứ ngồi lại bên mồ chồng lúc nầy, không gì mủi lòng bằng. Bất thần nàng loạng choạng, vấp ngã vào tấm bia đá con Pao. Máu phun có vòi trên trán, Kim hoa mắt, và xỉu tại chỗ.
Vợ chồng thầy nhạc sĩ, kiêm hoạ sĩ tài danh, hốt hoãng, kêu mấy người đứng xớ rớ bên đường, chạy lên, dông taxi chạy tuốt vô bệnh viện Dalat, cứu cấp.
Từ ông Ty Trưởng già mà anh chị em thuộc quyền, thân thương gọi ông là Bố Phiếm, ông Thanh tra: Bố Diệu và Bố Crésis, cùng bốn Trưởng phòng, Trưởng ban, nhân viên văn phòng, đa số anh chị em đều cảm thương, trước biến cố kinh hoàng của chị.
Thời gian trôi chảy mãi theo suối tóc dài, quá dài, cùng với tháng năm, phủ xuống tận gót chân. Ai cũng khen mái tóc chị, nhưng My thấy sợ. Nhất là khi chị bước đi, mái tóc là là bay, cuốn theo làn bụi phai nắng, phủ đỏ gót chân son.
Sau vài năm tang chế, mọi người trong Ty, ái ngại nhìn chị già sút hẳn, trong bộ sô tang vải màn, thả gấu áo lụng thụng, càng tăng thêm vẻ tiều tụy, bi ai, trước khi đốt xã tang, bên cạnh cây mimosa nở hết cánh. Trông đau thương, mũi lòng xiết bao!
*

_ *_

Ưu Du
Ái Ưu Du
#6 Posted : Thursday, September 7, 2006 6:45:46 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

TRẦM MÂY

Đồi cỏ mượt mà, ướt đẫm sương giá, long lanh trên từng ngọn lá. Mây thích vuốt những túm cỏ dày mát rượi, để rửa hai bàn tay. Mặt trời mùa thu chiếu ánh sáng yếu ớt, ảm đạm xuống ngọn đồi mọng nước, bên góc hồ Lãng Ông, trông thật lạnh lẽo, đơn điệu. Mây trắng bay bay cuộn từng cụm, in bóng xuống gương nước trong veo, đầy chỗ trũng.
Trầm Mây thấy rỏ bóng mình in xuống trũng nước, lúc áng mây bay đi. Mai đây, khi mùa xuân về ấm áp, nắng sớm chan hòa, xua tan giá lạnh, vũng nước sẽ khô, áng mây bay ngang lưng đồi, không in bóng xuống trũng nước lấp loáng nữa. Chưa chắc có nhiều áng mây, cuộn từng cụm như đàn cừu, ngập ngừng quay lại chốn nầy, mặc dù mây bay ngàn năm. Còn chăng, là đọng lại đáy lòng người, sự thờ ơ lãnh đạm, vượt lên mọi cảm nghĩ, về không gian và thời gian, để ...
Trong số giáo học cấp bổ túc mới ra trường năm nay, có một thanh niên, người dân tộc Ralđê bảnh trai, ăn mặc lịch sự, văn minh, tế nhị, tên Cilbebi, nói tiếng Pháp như dân Tây, anh đã học trường A’Dran Dalat thật.
Có một lần, đứng giữa đám đông chen lấn, trong văn phòng Ty chật chội. Cilbebi bị lấn đến gần bàn giấy, chiếc xách tay của Mây rơi xuống đất, Cilbebi cúi xuống nhăt. Đồng thời, Mây thò tay lượm, cô đụng phải tay chàng. Anh cầm xách tay lên, mỉm cười:
- Xin lỗi cô. Một việc ngoài ý muốn.
- Không có chi. Cảm ơn anh.
- Làm ơn chỉ giúp, cô Trầm Mây là ai?
- Dạ, là tôi.
- Tôi là Cilbebi. Giáo học cấp bổ túc, mới ra trường. Hân hạnh làm quen với cô. Cô vui lòng cho tôi xin mẫu thống kê: Nhân viên. Trường. Lớp.
Đưa mấy tờ mẫu Cilbebi cần. Mây kín đáo quan sát chàng trai, anh lấy bút mực paker ghi vào tờ trình. Có lẽ anh có vợ, vì cô thấy ngón tay anh đeo nhẫn tròn. Mây e dè hỏi:
- Không thấy anh ghi nơi phần gia cảnh?
- À phải. Tôi quên mất. Hèn gì tôi thấy, nó cứ thiếu thiếu một cái gì. Không nhớ ra.
- Quên gì, chứ quên mình có vợ, bị bà xã giận lắm nhe.
- Ấy thế mà, tôi quên thật đó. Tôi đi học xa gia đình khá lâu. Không hân hạnh đi cưới vợ, biết mặt vợ đâu mà... nhớ mình có gia đình chứ.
- Thế à, anh ghi thêm mục nầy vào, cho tôi... nhờ.
Hai người cùng cười, nụ cười mang tính chất “xã dao, xã búa” đầy bóng gió. Họ lặng lẽ nhìn nhau, tò mò nhìn ngắm nhau ngầm ngầm, như chưa bao giờ biết nhau. Lòng họ hòa lẫn trong niềm vui ồn ào, với các bạn chung quanh.
Thế là Mây và Cilbebi trở thành đôi bạn thân. Mỗi khi đến văn phòng, Cilbebi chu đáo nộp giấy tờ cần thiết, nói năm ba chuyện vui về trường lớp. Trước khi ra về, anh không quên chào câu:
- Xin phép chào Trầm Mây nhé. Chúc vui mạnh.
Có một lần, thừa lúc không ai để ý, Cilbebi cúi xuống trên tóc Mây, nói nhỏ:
- Trầm Mây có chịu đi ciné với anh không? Phim ""Gone with the wind", do Clark Gable và Vivien Leigh thủ vai chính. Rất hay. Mây à. Không xem, tiếc lắm.
“Có chịu không” ? Anh bạo gan bạo phổi quá chừng! Dám thách đố, khiêu khích một cô gái xinh đẹp, khác hẳn anh về mọi phương diện, và, vốn dĩ đã trần trụi. Hay là vì… họ cùng có chung sở thích là rất yêu hoa “Forget me not”. Hay là… gót chân cô đã đi sâu vào giếng mắt ướt ấy, vào trái tim si mê, lên đầu óc hoang dại, phù phiếm, lãng mạn, đa tình ấy. Cũng như ngược lại?
- Nếu Mây nói chịu, hay nói không, thì sao nào?
- Chịu hay không, đó là quyết định, tùy theo sức đối tượng cuốn hút, xem thử mình ngẩn ngơ, mê đắm đến mức nào, trong mọi lĩnh vực. Phải không Mây?
- Vậy sao?
- Tự chúng ta, đã rỏ rồi. Còn phải hỏi.
Ông tổ anh, nguyên cư dân bản địa Tứ Xuyên, bộ tộc Miao-Yao, từ thế kỷ 13. Sau biến cố chính trị bên Tàu, tổ phụ di dân sang hạt Kengkhoai, sau chuyển về hạt Tougeu-Lyfung, Lào, dưới quyền thống trị của Lo Bliayao. Vẫn, do chấn động chính trị Lào, ông cố từ giã ông tổ, ông cố cùng bầu đoàn thê tử, dắt díu nhau chạy, thừa sống bán chết, trên con đường số 7, nối liền Luang Prabang (Lào) với Khe Sanh. Tại đây, dòng dõi anh sống yên ổn, lâu đời hơn. Ba Cibebi đã kết hôn với cô gái Thượng gốc Ralđê.
Cilbebi được lòng Thanh tra Diệu, Trưởng ty Phiếm nhiều. Họ mến chàng qua tính tình và tài năng. Thanh tra phó Crésis cùng anh soạn thảo, bộ tự điển ngôn ngữ học, tiếng Ralđê. Anh ghi tên ở trên Đại học Văn khoa, Dalat, năm thứ hai, theo chính sách mở rộng, ưu đãi người Thiểu số, để dân tộc bán khai, có cơ hội thăng tiến, vươn cao. “Lại cũng tình cờ", hai người học chung lớp.
Sau đó ít lâu. Cô gái Kinh thành xinh đẹp, đầy kiêu kỳ ấy, đã “phải lòng” chàng trai Thượng nguồn. Mặc các bạn dèm pha, bĩu môi khinh dễ. Tự Mây biết thế nào, ít ra giấy rách giữ lấy lề, nhằm nhò gì, ba cái miệng dèm pha lẻ tẻ. Chuyện nhỏ mà! Có người nói:
- Thứ gái liếc ngang liếc dọc, dáng đi sóng rắn, uốn éo, răng hơi thưa, chân dài kia, có giọng cười the thé, là thứ đứng đường, là đồ “đĩ ngựa”. Các anh độc thân, đừng có sờ vào nhá. Trên ngực nó đeo túi bùa yêu tinh. Coi chừng sẽ yêu nó, đến dại khờ, rồi toi mạng, chết không kịp ngáp đấy.
Mây đã dám yêu, “người ấy” chưa có giấy hôn thú, nào có sợ gì! Mặc dư luận bàn tán xôn xao. Hai người lén lút hẹn hò, đưa nhau đi ăn cơm tối, đi ciné. Họ ôm xiết lấy bạn tình, hôn nhau đắm đuối trong bóng tối. Chưa đã thèm nhớ nhung, họ từng hẹn hò đi Gougah, đi Cam Ly, Preen, vào ngày đẹp trời. Họ nói với nhau biết bao lời âu yếm, ngọt ngào.
Tuyệt nhiên không có cách gì giải quyết hoàn cảnh nan giải hiện tại, khi cười, khi khóc, khi trò chuyện. Dẫu thế, chả bao giờ tìm ra lối thoát.
Và, thời gian trôi chảy mãi, yêu quá đậm, hai người rủ nhau đến vườn hoa mang tên Villa Mimosa của nhà Hoài, tại số 2, đại lộ Pasteur. Vườn hoa rợp bóng mát, nắng sớm chan hòa trên vạn vật, ươm hồng cỏ cây. Gió hiu hiu thổi trên những đọt thông reo vi vu, lung lay cánh lá nhung lam mimosa phới phới, dễ chịu dường bao, phấn hoa vàng bay bay, thơm thơm.
Thì, người con trai có hai dòng máu luân lưu trong huyết quản… hứng tình, rạo rực, muốn xin Mây “cái chuyện trần tục” đó.
Bỗng dưng Mây sửng người, hốt hoảng ngồi bật dậy, nơi đám cỏ bồng, dưới hàng hoa ánh vàng lung linh, trên trời nắng chang chang.
Mây đã cho rất nhiều rồi đấy, cho Cilbebi tất cả con tim, tình yêu, mạch sống đời mình, nhất là Mây đã đạp trên dư luận mà đi. Trí óc và con tim Mây quý hơn ngàn vàng, Mây dám cho, không hối tiếc. Như vậy chưa đủ sao? Chi lạ rứa! Cilbebi đòi hỏi gì, cái chuyện tầm thường đến vậy?
Mây thất vọng, đớn đau đến dại khờ, lạnh lùng tê buốt. Cầu xin cho dòng thác lũ đến, cuốn trôi đi hết, cuốn bao thống khổ, tình yêu, cuộc sống. Mặt nước sẽ cau mày, xóa sạch, những thăng trầm chán ngán, vì mình vừa thốt ra lời vĩnh biệt với “người…”
Mây cúi đầu thất thểu bước đi, từng bước rã rời, dưới hàng hoa mimosa vàng trêu ghẹo rộ nở, trên đại lộ Pasteur vắng lặng, lòng buồn rười rượi. Giữa các ý nghĩ quay cuồng, hứng khởi, trong tâm tư xáo trộn, đầy tức giận, buồn phiền, yêu thương, quá mâu thuẫn.
Định mệnh cho Mây gặp Cilbebi, làm chi thật tàn nhẫn, bước ngoặt đột ngột, tình yêu càng tàn khốc, như vết dao chém trên ngực, dại khờ đến bàng hoàng, tê buốt. Đối với Mây, không sao hiểu nỗi.
Bỗng cô nghe văng vẳng có người gọi mình. Mây dáo dát nhìn quanh. Thì ra là Hạ, người bạn gái cùng nhau lớn lên, cùng học, cùng đi trên con đường, chung ý hướng cao cả, chung hoài bão đó, rất thấu hiểu và thông cảm Mây dường bao. Mây quay gót, dựa người trên thân cây. Bởi lẽ, cơn chấn động tình cảm mãnh liệt, mà cô tưởng là, tình yêu tuyệt diệu, cao vời, tinh tuyền, tốt đẹp nhất.
Ngờ đâu... vẫn là sự đòi hỏi quá tầm thường! Bàng hoàng và tuyệt vọng, khiến cô muốn xụm bà chè, chưa tỉnh người ra, theo từng đợt sóng tiếp nối nhau, trào dâng trong lòng.
Mây từng yêu say đắm, nồng nàn, tha thiết, thành thật nhất. Bây giờ, sau những ngày xáo trộn, đớn đau tột độ, thì khác hẳn. Không để trong sắc tố hiển nhiên ấy, chứng cớ tình yêu tai ác, gậm nhấm dần mòn đời mình. Tình yêu, cô nghĩ là cao đẹp, để rồi thêm một lần phi lý.
Riêng Cilbebi, thành thật mà nói, trong anh có nỗi nhớ nhung Mây khắc khoải, ray rứt, sự ân hận bất chợt trổi dậy, trùng lặp với kỷ niệm, và hoàn cảnh éo le hiện tại, chúng dày vò anh, như cơn động kinh dẫy chết . Anh cố níu kéo hình ảnh bà vợ quen thuộc, và hình bóng Mây thân yêu ở lại mãi trong cuộc đời. Khi cả ba người đã trót ràng buộc với nhau, bằng sợi xích định mệnh.
Bao kỷ niệm thuở xưa, giờ đây mọi thứ trở thành phù phiếm, ấn tượng về thời quá khứ vàng son, chợt nhòa đi, trôi đi, hẫng đi khỏi ký ức. Dẫu vậy, chúng luôn dày vò anh, như chiếc cối xay lúa, vẫn quay đều nỗi yêu thương vô tận, vẫn gậm nhấm, nghiền nát trái tim anh, như nghiền nát cục sạn đắng cay, trào lên bờ môi, ẩn dưới giếng mắt ướt, đầy tê tái và bất hạnh.
*
Ưu Du
_ * _

Ái Ưu Du
#7 Posted : Thursday, September 7, 2006 6:50:41 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

GỬI EM: LỜI VĨNH BIỆT

Z - 30 A, ngày 12 tháng 3 năm 1983
Mi Mi, em thương!
Ngày… Tháng... Năm... rồi cũng dần qua đi. Qua đi. Qua đi...
Đêm nay, anh lại khêu ngọn đèn dầu tù mù, đối diện tranh tối, tranh sáng, hình dung em đang ngồi trước mặt anh, vào khoảng 3giờ sáng, anh viết thư nầy cho riêng em, để hỏi vài điều, gợi nhớ nhiều ý nghĩ về em.
Hồi xưa, vào độ 3 giờ chiều, cách đây mười tám năm (chứ không phải 3 giờ sáng) Anh đã ngồi sát bên giường em, khi em vừa sanh bé Dzi. À, thì ra giờ đây bé Dzi đã lớn rồi, em nhỉ! Nhiều khi, giữa đêm khuya không ngủ được, anh nghĩ thật lẩm cẩm: Nếu bé Dzi là con gái đầu lòng, thì bây giờ anh đã là ông ngoại, em là bà ngoại cả rồi. Chẳng hiểu em có nghĩ như thế không?
Anh mong em giữ danh-dự gia đình, vì sông có khúc, người có lúc, gia đình mình sẽ đoàn tụ yên vui, hạnh phúc. Mong em luôn lấy tình yêu-thương các con, làm niềm an vui, khi thiếu vắng anh. Anh rất hiểu, hiểu nhiều hơn sự mong đợi của cha mẹ, em, và các con. Chưa bao giờ anh lại thấy thương em hơn. Anh thương em nhiều quá!
Anh mong sao mình có đôi cánh, bay tới bên em, đưa em đi chữa bệnh, ngồi đầu giường nắm chặt lấy tay em. Như chia sẻ nỗi ngọt bùi ngày nào! Anh thấy lòng mình chùng hẳn lại. Số kiếp nào run-rủi cho em gặp anh, rồi vấp phải cuộc sống cơ-cực lầm than đến thế! Mà, thời gian là những khoảng trống ráo hoảnh, quá dài, quá xa vời, quá đơn điệu, trong niềm suy-tư ray rứt không lối thoát!
Những lúc buồn tủi cho thân phận, cuộc sống, tình người, tình đời, em không biết thổ lộ, tâm sự cùng ai? Nhìn quanh, cha mẹ già, đàn con dại khờ. Họ không thể hiểu, nỗi đau của người đàn bà chân yếu tay mềm; cố hết sức, để vượt qua mọi thử thách cam go, đầy gian truân, ở một xã hội ngày càng lún sâu vào vực sâu, ngỏ cụt, không lối thoát. Cuộc sống phức tạp xiết bao!
Trước mắt em, là một xã-hội bon chen, phức tạp đầy trăn trở, khó khăn vô vàn. Nhìn lại, gia đình mình quá nghèo, khổ cực trăm bề, một nách năm sáu đứa con không cha, với cha mẹ chồng, anh chị chồng, không công ăn việc làm, lúc thời buổi gạo châu củi quế.

Đáng lẽ ra, lúc nầy anh luôn ở bên cạnh em, hy vọng cho em vơi đi muộn phiền, cơ cực, dù cay đắng, lầm than, khốn khó, hay vui sướng, đầm ấm, hoặc ước vọng đơn sơ khác. Vì, cuộc-sống-chung đã gắn liền, có tinh thần trách nhiệm tương xứng, hổ tương cho nhau, để dìu dắt đoàn con, cùng nhau lo-lắng tương lai các con. Chúng ta phải thắng, phải thắng nghịch cảnh, vượt qua mọi gian-khổ, để các con vươn lên từ bậc thang thấp nhất, ngẩng mặt nhìn đời.
Các con không bị mặc cảm thua sút bạn bè, không cha, không mẹ từ tấm bé. Các con là nguồn hạnh phúc vô biên, là nguồn an ủi bất tận. Xin em đừng rời xa các con, tội nghiệp!
Do nỗi oan nghiệt trong “Hòa bình, Độc lập, Tự do, Hạnh phúc”, nên anh cùng bạn bè phải chịu cảnh tu-đày. Thật thiếu trách nhiệm, khi vắng bóng anh, nhà cửa mình luôn túng hụt, em bệnh hoạn. Không có anh gần kề, nâng em dậy uống viên thuốc. Hay đưa em chén cháo nóng sốt đỡ lòng.
Đáng hổ thẹn khi anh ngồi trong tù, muốn nói với em lời “hứa hẹn” về điều gì. Hay anh kể lể cho em nghe vài chuyện. Không có nghĩa là anh níu kéo, giằng co. Bởi lẽ, anh hiểu rỏ người đàn bà yếu đuối, đa tình, đa cảm nhiều hơn lý trí như em, khó có thể vượt qua những thử thách, cám dỗ tình trần.
Anh thiếu sót, khi chỉ nói các con viết thư cho anh, kể về mọi sinh hoạt xã hội, gia đình, chuyện học hành. Mà anh không nhắc nhở em viết, phải gì em viết thư cho anh đều đều nhỉ!
Từng đêm suy nghĩ miên man, anh hiểu nỗi khổ sở, nhớ nhung, cùng sự mệt nhọc của em, từ mọi cảnh huống cuộc đời. Muốn em xứng đáng với tình yêu thương từng ngày, từng giờ, anh dành cho em. Anh lo-lắng quá chừng, nhiều đêm không hề chợp mắt, không hiểu ở nhà có chuyện gì không, mà vắng bặt tin thư?
Nếu tiện, em cho các con lên thăm anh nhé. Anh báo trước cho em hay: Anh không có gì, ngoài món quà khiêm nhường, tặng em và các con “chú sáo” hót rất hay ở trong lồng tre. Nó đã sống với anh bao năm rồi đấy.
Than ôi! Bây giờ thì mọi thứ đã hết. Hết thật rồi!
Phong tục Việt Nam: Khi chồng chết, thì góa-phụ sau 3 năm để tang, có thể đi lấy chồng khác. Đàng nầy, anh đi tù gần 9 năm rồi, thì theo phong tục, người đàn bà ấy, có thể lấy 2 hoặc 3 chồng cơ mà! Anh thấy thương xót thân anh dở sống dở chết, lẫn thương em quá! Thời gian dài đằng đẵng 9 năm cách xa, (cứ coi như anh đã chết đi), đã cướp mất tuổi thanh xuân của người bạn đời, tài sắc vẹn toàn.
Tạo hóa cay nghiệt, bắt em sống trong một gia đình nghèo khổ, mà trong tâm ý em không bao giờ muốn. Thú thật, chưa bao giờ anh lại thương số phận, đã tước đoạt danh phẩm người đàn bà đa cảm như em.
Sau khi nhận thư em, từng tháng, từng ngày, từng đêm anh suy nghĩ và chính anh, phải dứt khoát, tìm một phương thức giải quyết. Anh hồi âm cho em đây:
Mi Mi, em! Anh gọi tên em nhiều lần, không biết ngày mai sẽ ra sao? Còn gặp em nữa không? Anh nghĩ bây giờ em có quyền suy nghĩ, chọn cho mình hướng đi... Anh không buồn, không vui, không trách hận em nữa. Mà chỉ thông cảm, cay đắng và đau xót. Chúc em sớm hoàn thành vẹn toàn cuộc sống riêng tư mới ươm mộng.
Anh mong em đừng đưa các con đến chỗ em ở, đau lòng, tội nghiệp các con. Anh không trách em, nhưng lương tâm anh không cho phép: Người đàn bà có chồng, con, lại bỏ nhà ra đi, ở với người khác. Chao ôi là đắng cay! Sao anh không chết sớm đi, cho em tự do hơn hở Trời!
Kể từ nay, em đừng gửi thư cho anh nữa. Vì mỗi lần nhận thư em, anh đều đưa bạn bè xem. Đó là nỗi ô-nhục không cứ ở riêng em, mà lây lan cả hai Đại gia đình.
Ngoài những điều kể trên ra, anh không bao giờ làm phiền em.
Vĩnh biệt em,
Trọng Luật
*

Ưu Du
_ * _
Ái Ưu Du
#8 Posted : Thursday, September 7, 2006 7:02:30 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

KHÚC HỒI QUANG

North Dakota, 07 tháng 06 năm 2000
Anh Luật mến!

Mặc dù anh bảo em: “Kể từ nay, không nên gửi thư cho anh”. Thế nhưng, em không tuân theo lời anh dặn. Không phải là em bớt phần mến trọng, không nghe lời anh. Mà vì em phải nói lên hết nỗi uất ức, cùng cực, của một người đàn bà rất đau khổ. Rồi xin tùy ý, anh muốn xử trí ra sao, em cũng cam lòng tuân phục.
Kể từ ngày thành hôn, đến ngày chúng mình chính thức chia xa từ trong tư-tưởng, đến hành động, thấm thoát đã HƠN hai mươi năm rồi, anh nhỉ! Anh còn nhớ ngày cưới chúng mình không? Ba mẹ anh từ Tỉnh lên Saigon, ở nhờ nhà anh chị Tạo, hôm sau cùng dắt díu nhau ra nhà thờ, làm lễ hôn phối. Chúng mình mặc áo quần “đại-lễ”, em diện áo kim tuyến trắng, quần sa tanh trắng, giày trắng, vương niệm kim cương giả lóng lánh, đội lúp voan trắng dài lướt thướt, cổ đeo chuỗi vàng hoa mai, tai đeo bông vàng, tay xỏ nhẫn vàng, tất cả là vàng 24k. Để chụp hình lưu niệm.
Anh đóng bộ complé đen mới tinh, áo sơmi trắng, caravate sọc đỏ nền xanh, mang giày thời trang. Chúng mình ngồi trên xe hoa. Xe bằng những chiếc xích lô máy, nổ đinh tai nhức óc, bụi và khói tỏa bay nghẹt lỗ mũi. Mặt mày em với anh dính đầy than bụi. Ấy thế mà vui. Em nào đòi hỏi gì đâu?
Dọc đường chính chiếc xe xích lô máy của “cô dâu chú rể” lai bị hư haị nặng, mình phải đứng “thộn mặt” ở bến Hòa Hưng. Chờ bác tài sữa khá lâu. Vì thế trể giờ làm lễ cưới. Chúng mình đã giận-nhau, em vùng vằng không muốn làm lễ cưới, lễ hỏi gì nữa. Me anh theo năn nỉ em. Có lẽ đám cưới chúng mình đặc biệt “tếu” nhất ở chỗ “dám” đi xe xích lô máy! Vì có tiền đâu, mà thuê xe hoa sang-trọng chứ. Ấy mà, “Chúng- Mình” đã có bảy mặt con, bốn trai ba gái rồi nhỉ! Đám cưới! Chỉ lèo tèo mười mấy người bên họ "nhà Trai". Bên họ "nhà Gái" tuyệt nhiên không có một người tham dự! Có thể, do chính điều nầy, mà anh sinh ra "hận em & gia đình họ hàng em" chăng?
Em sống trong gia đình anh từ bao năm qua. Kể như là một sự chịu đựng vô bờ bến. Nỗi bức xúc tột cùng, không thể diễn tả nên lời. Không bao giờ nói hết, chỉ tóm gom ít câu chuyện. Em vẫn cố gắng duy trì tình cảm. Giữa sự phân biệt đối xử. Giữa cha mẹ chồng. Anh chị chồng. Chồng. Các con.
Từ cách ăn, uống, sinh hoạt thường nhật của cha mẹ anh, cả anh nữa, đều rất khác biệt với tập tục ở quê em. Chính vì những bất đồng nho nhỏ đó, dần dần dẫn đưa đến tình trạng chia xa sau nầy. Mong anh hãy bình tĩnh, để em tường thuật lại vài quan niệm của em, (hy vọng anh sẽ thông cảm, tha thứ cho em, khi anh nhận thấy điều em nói là đúng sự thật)
Ngày đầu tiên, anh đánh em, ấy là hôm tết ở trong Hà Đông, anh đi đánh bài, thua sach. Bởi em có cái tật ưa cằn nhằn anh hoài. Công nhận em nói dai quá đi:
- Anh thua hết, lấy đâu ra tiền ăn. Trong khi mình thất nghiệp hử?
Bao năm qua, mặc dù đêm đêm đầu gối tay ấp, nhưng em tin chắc rằng: Anh vô tư đến độ, chẳng cần tìm hiểu gì về em cả. Miễn sao những nhu cầu đơn giản nhất thuộc về anh, mẹ cha anh, được đáp ứng, là anh vui lòng an hưởng. Mặc em đau yếu, em vẫn "nai lưng" ra làm việc, âm thầm buồn bực, lo-âu phiền muộn. Anh không hề an ủi, vỗ về, hay động viên nâng đỡ tinh thần em.
Giữa anh và em có một vực thẵm vô hình trĩu nặng, rất cay đắng, mà em không thể thở than cùng ai. Kể cả ba má, anh chị của em. Em không thể nói một lời. Vì chính em cãi lại cha mẹ, tự chọn lựa cuộc hôn nhân nầy. Em phải gánh chịu mọi hậu quả tàn khốc.
Nầy nhé: Do được bố mẹ cưng chiều anh rất mực. Thế nên họ không dám làm mích lòng anh, bất cứ điều gì. Cho dù điều anh suy nghĩ, chưa hẳn là đúng. Mọi ý kiến góp phần trong sự xây dựng hạnh phúc gia đình. Từ việc nhỏ đến việc lớn, anh đều tự ý làm, không nghe lời em bàn bạc. Rồi, khi “cớ sự” xảy ra, nhiều lần chẳng toại ý, anh không lắng nghe lời phân tích của em. Anh “gào lên” bảo là:
- Em cứ cằn nhằn, khi chuyện dĩ-lỡ rồi. Ồn quá!
Ở trong anh có sự bướng bỉnh, đầy ngoan cố. Kẻ cả. Gia-trưởng kinh khủng! Thì vâng! Anh là con trai trưởng mà lị! Dẫu vậy, em không mấy đau buồn, bằng bản tính nóng nảy, cộc cằn, ương ngạnh. Rồi anh trở thành vũ phu, thô-lỗ lúc nào chẳng rỏ.
Những lần anh làm phật ý em, công nhận em có lỗi với anh, khi em không thể ngồi im, nhịn-nhục, tiếp tục cúi đầu im lặng chịu đựng. Em cãi lại anh, để rồi tự rước những trận đòn bầm thâm, bầm tím vào mình. Bao lần em đã khóc rống lên khi bị “ăn đòn”. Như khóc cha mẹ chết. (Mà, quả tình cha mẹ em đã chết, em chỉ ôm mặt khóc thầm, chứ nào có rống lên mà nói. Em không thể về quê dự đám tang. Lúc đó, vừa mất nước hai, ba năm, em không có đồng bạc dính túi, mọi sự đi lại đều vô cùng khó khăn, cách trở vô vàn).

Trở về chuyện em bị ăn đòn thuở xưa, có nhiều lần em nghiến chặt hàm răng, lãnh những cú thoi, cú đá, cú đấm. Chưa “đã”, anh còn lấy cây cột cắm mùng, quất túi bụi vào "một con người", được gọi là “Vợ”. Vừa đánh đập em. Anh vừa gào tên cha sinh mẹ đẻ em. Anh chửi bới.
Nói thật với anh, cho dù anh đánh đập em tàn nhẫn đến cỡ nào. Em vẫn đứng chôn chân tại chỗ chịu trận. Không phải vì em lì đòn, cam phận tôi đòi. Run sợ trước đòn vọt, không dám chống cự. Mà, chỉ vì em chán sống. Không còn nước mắt khóc thương thân phận mình. Nên anh muốn hành hạ em đến chết, cũng đành.
Nhưng tuyệt đối, anh không được xúc phạm đến cha mẹ em. Bởi vì, em là con nhà gia giáo, cha mẹ sinh thành dưỡng dục, dạy dỗ em từ công, dung, ngôn, hạnh. Chưa bao giờ em đền ơn đáp nghĩa. Em quá bất hiếu, bất tuân khi làm vợ anh, (em chưa nhỏ giọt nước mắt bên mồ cha mẹ, em bức xúc tột cùng).
Kể cả họ hàng thân quyến em, họ chưa bao giờ lợi-dụng. Hay làm điều gì mích lòng anh. Tại sao anh đem họ ra để sỉ-nhục. Hở? Do vậy, em đã có những lời nói phản-kháng. Mà mẹ anh cho đó là “trả treo” với chồng. Mẹ bắt anh phải “dạy-dỗ” em “từ thuở bơ vơ mới về” nhà chồng. Dạ vâng! Dạy vợ như thế, mẹ mới hã lòng!
Hồi xưa, anh chưa đi “tù cải tạo”, các con đều xinh đẹp, ngoan hiền, học hành ưu tú, rất giỏi. Đến khi các con lớn lên trong “chế độ hòa bình, tự do ở Việt Nam” nầy. Cha đi tù chưa về, mẹ tần tảo kiếm cháo kiếm cơm nhọc nhằn. Không người chăn dắt, các con đã “đổi mới tư duy” lúc nào. Nhiều lần các con sai trái, em chỉ dạy điều hay lẽ phải. Chẵng những các con không tuân phục, mà nặng lời chê trách, nói:
- Mẹ làm sao, ba mới đánh đập.
Thậm chí có nhiều lần thằng bé Ba chửi vào mặt em:
- Bà không xứng đáng là mẹ tôi.
Nhưng điều đó chưa đau lòng bằng, bao lần con trưởng và con thứ hai, đã lôi tên ba của em ra mà chửi là:
- Tại ông Bộ Trân không biết dạy con, nên để ba dạy, cho biết thế nào là lễ độ.
Anh Luật nè, cho dù em có lỗi tày trời gì với anh đi, thì chúng nó là con cái, đâu có quyền xen vào chuyện của người lớn. Nhất là không thể nào mất dạy, hỗn láo với ông bà, cha mẹ đến vậy!
Rồi một ngày kia, khi anh đã trở về “đoàn tụ”và đi Mỹ theo diện HO. Mấy lần, đến ngày đám giỗ ba mẹ, em để dĩa bánh tro, bánh ít lá gai, (là bánh mẹ thích ăn) lên bàn thờ. Chưa tàn cây nhang, thằng bé Ba nói:
- Khi sống không cho ăn, chết còn bày đặt kiễu cách.
- Lớn rồi, sao con ăn nói bậy bạ vậy?
Thế là, từ dưới đất bé Ba phóng lên lầu, nó vừa chửi, vừa lấy hai tay xua hết dĩa bánh, đỗ xuống thảm. Chẵng những thế, nó còn quăng cả hai tấm hình ông bà ngoại xuống thảm. Rồi đi xuống lầu. Em la mắng nó là:
- Người có học, cao-học mà thua đứa chăn trâu. Đứa chăn trâu mù chữ, vẫn một lòng kính trọng người khuất núi.
Nghe vậy, nó đã chạy lên lầu, cầm hai tấm hình của ba má, ném xuống dưới lầu. Rồi chạy xuống, lấy hai bàn chân mang đôi giày sport mới, dẫm nát mặt kính. Trước sự chứng kiến từ đầu đến cuối của bà nội, và anh.
Hãy nhớ lại xem, thấy rỏ hành động của con, cháu, từ đầu đến cuối. Mẹ anh và anh, không hề mở miệng nói phải trái một lời. Có phải như thế là, bà nội và cha chúng nó, đã gián tiếp xúi giục con, cháu, có những lời lăng mạ, cử chỉ, hành động đốn mạt đến thế? Thế là, kể từ đó, trong nhà đã không có di ảnh của ông bà, cha mẹ nào.
Tất nhiên, từ ngày các con biết em có bạn trai. Em biết nguyên nhân chính là do từ chỗ đó, mà các con càng hỗn láo với em. Vì các con thương anh và em. Chúng không muốn chúng ta ly hôn. Càng không muốn em phụ bạc anh, đi với người khác. Các con nói:
- Do ba mẹ tự chọn. Thì phải chịu đựng, hy sinh cho đến chết!
Em rất nhục, hèn hạ, xấu hổ với các con. Nhưng... Làm sao em có thể tiếp tục sống với gia đình nầy, khi đau thương ngày chất chồng?
Câu chuyện thật rất đau lòng nầy. Em nói ra không ai có thể tin được. Có người bảo em:
- Có lẽ em là “người tình hờ” hay chỉ là con sen đầy tớ. Và, em là bà mẹ ghẻ chúng. Nên họ mới “thù-hận” đến thế!
Thôi có Trời biết, cũng đành “một kiếp người trôi sông lạc chợ”. Những ngọn nến trong cuộc đời, tự tay tay thắp lên. Và, cuộc sống phải là điều... chấp nhận!
Bây giờ, nếu anh đã hiểu rỏ lý do, tại sao em phải xa rời anh. Xa rời anh từ trong tư tưởng. Sự thật không phải là bây giờ, em mới xa rời anh. Mà chính anh đã xô đẩy em, ngày càng xa rời anh, (để tìm kiếm một nơi an tựa khác) - Xa từ ngày đầu tiên, mới bước chân lên thềm nhà anh - Bao lần trước ngọn roi, đòn vọt đó, em đã mạnh dạn nói với anh là:
- Nếu anh thực lòng yêu em, muốn suốt đời chung sống với em, anh hãy thay đổi cách ứng xử. (Em hằng ao ước như vậy, bởi vì, em là người con có đạo Thiên Chúa, lề luật đòi buộc em phải tuân giữ một vợ, một chồng. Cho đến chết. Dù người phối ngẫu có hành hạ mình cỡ nào. Cũng không được phép ly dị. Thật cay nghiệt vô cùng cho một chuỗi lề luật xiềng xích buộc ràng! Anh đã hỏi:
- Tại sao! Nhục đến thế! Chờ gì mà không chịu ly dị?"
Em trả lời rồi đó!
Hồi ấy, em mong:
- Anh hãy giữ em lại bên anh, không cứ là anh chỉ giữ thể xác nầy, mà điều “cốt lõi” vô cùng quan trọng ở tình yêu. Gia đình. Hạnh phúc lứa đôi. - Là anh hãy giữ tâm hồn em ở lại bên anh. (Chứ thân xác em nằm bên anh, mà tâm trí, trái tim em bay bổng đi thăm viếng nơi khác. Thì anh giữ lại thân xác vô hồn nầy, chả hữu ích gì!) Đó mới là sự bền đỗ tình yêu, hạnh phúc vĩnh viễn. Có sá gì cái thân xác tầm thường kia. Như trăm triệu thân xác đàn bà khác.
Có khác biệt, cao quí chăng. Ở chỗ “con đàn bà đó” có trái tim biết hy sinh. Nhẫn nhục chiu đựng. Biết rung động. Biết thổn thức. Biết tương kính như tân. Biết lắng nghe. Phục thiện. Yêu thương và sẵn sàng ôn hòa. Tha thứ tất cả mọi lỗi lầm cho nhau.
Gửi lại anh dòng mực khúc hồi quang cũng như hàng lệ đã ráo hoảnh, cạn khô từ lúc nào chẳng rỏ. Em không còn đủ nghị lực để khơi lại vết thương lòng, quá tàn nhẫn, quá đắng cay cho một thân phận bạc phước yếu hèn.
Xin chào vĩnh biệt anh. Chúc anh cùng các con, an-hưởng mọi điều tốt đẹp nhất.

CHTN Mi Mi
*

Ưu Du
_ * _

Ái Ưu Du
#9 Posted : Thursday, September 7, 2006 7:27:33 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

PHỤ PHÀNG

Nắng ấm đem lại gió mát mùa xuân tươi thắm tràn về trên xứ hoa Đào xóa tan sương giá. Không khí ngào ngạt hương xuân, trên dãy đồi thông trùng điệp đang bừng tỉnh. Mặt trời to tròn rực rỡ, ánh hào quang lấp lánh bơi lên khoảng không mênh mông.
Trong hương hoa ngan ngát, núi đồi tắm đẫm sương đêm, có cái tươi tắn vô tận của vừng hồng, mát rười rượi của rừng, lành lạnh man mát mùi thơm nồng ấm của đất, của suối trong thấm vị ngọt ngon. Cây cối mùa đông khẳng khiu úa tàn, nay đâm chồi nẩy lộc rạng rỡ trên cành.
Dù rằng một cánh én không thể mang lại mùa xuân, nhưng khi muà xuân đến, dù không có cánh én nào, vẫn đến được cơ mà! Những chú én bé nhỏ thay hẳn bộ cánh trên mình. Đầu mùa lông lởm chởm, xơ xác, xanh nhạt, qua mùa xuân bộ cánh mượt mà, xanh đậm đen đen, láng mướt, giơ bụng trắng toát mịn màng, đuôi rung rinh chẻ làm đôi, trên hàng dây điện. Thấy thương ơi là thương.
Ngày đầu xuân mới, Hoa, Thúy Mai, Vân, Trầm Mây, đi xuống Ga thăm Tiết. Cuộc họp mặt tay năm, có biết bao chuyện vui buồn, xếp lớp lăn tăn trên vầng trán suy tư. Như Thúy Mai tràn đầy đặc tính cô gái Huế yểu điệu, dịu dàng, dễ thương. Đồng thời cô cũng khó chịu, tính nết bất thường, thay đổi như chong chóng. Mai ở nhà phá gạo cha mẹ già, không làm gì hết.
Vân sanh trưởng tại Dalat nói tiếng Huế thanh thanh, tóc dài chấm ngang mông, mắt to, nụ cười tươi. Vân trực téléphonic trong tổng đài Bưu Điện, thắm thiết với bồ Tuấn ở Cam Ranh.
Tiết là em cùng mẹ khác cha, với chị dâu thứ chín của Mâyï. Tiên nhờ bà Chi, là gái làng chơi, nay lấy chồng Tây, giới thiệu cho cô làm công. Làm công một thời gian Tiết cặp bồ với chủ tây trắng, Tây thứ thiệt. Hoàn cảnh cô thật buồn, gia đình đông chị em, không một ai làm việc. Tiết đành hy sinh. Cuộc sống "gối chăn" với chồng Tây, nghe ớn lạnh xương sống. Bạn bè không tin, rủ nhau xuống xem mặt chú, có phải là Tây phương hay Tây lai, mà có cuộc sống tình cảm ghê gớm, đến nổi liệt..., như lời Tiết than thở?
Kể ra thì chú beau trai, Tây trắng trăm phần trăm, chứ không phải Tây Lai mười hai lỗ... hay Ma Rốc cốc keng. Lịch sự đáo để, là giáo sư dạy Grand Lycée. Ba mươi bảy xuân xanh. Chú không nói được tiếng Việt, "vợ chồng hờ" nầy khá thông minh, thông cảm kinh khủng! Nói chuyện với nhau bằng tay chân, ra dấu cái gì họ cũng ...thấu hiểu! Mối tình câm đầy thơ mộng í chứ. Đôi khi Tiết nói về vấn đề nào đó, Toma không hiểu, tức quá cô chửi chú "cái đồ ngu như con bò tót". “Chú chàng” cười tươi, gật đầu nói lại:
- Cại đó ngủ dư... con bò tồâi.
Các bạn cười vang nhà. Tuy nhiên Toma đã mua sách Việt Ngữ, chịu khó nghiêng cứu tiếng Việt, nếu Tiết viết ra giấy, thì chú đi lật tự điển xem. Tiết chửi, thì dại gì viết ra.
Hoa và Vân vốn dĩ từ lúc nhỏ đi học, đến lớp Đệ nhất, sinh ngữ 1 là Pháp, sinh ngữ phụ là Anh, nên nói chuyện với chú tàm tạm. Không đến nổi khua tay múa chân, nói tiếng bồi ba xí ba tú. Không biết thì hai cô bập bẹ tiếng Anh. Không sợ nó cười cho thối óc. Toma hiểu được ít nhiều. Hai cô khoái tỉ, hân hoan như gặp đồng hương.
"Tình yêu vượt đại dương" có khác. Nó vượt qua tất cả! Có bền đỗ hay chỉ vài tháng, vài năm? Hoa thấy "phiêu lưu ký" quá, khi nghe chú nói có giấy đổi đi Miến Điện dạy học. Lúc Tiết vừa mang bầu sáu tháng. Toma không nói chuyện cưới xin, vợ con gì cả? Tiết chân thật, giản dị, dễ dãi quá. Cô không nhận thấy viên đạn bất ngờ bắn vào tim. Cảm giác như nở ra trên khuôn mặt thật thà thêm đần đần.
Toma lợi dụng tính dễ dãi, cả tin cũng như cô qụy lụy đến mức phục tùng, chú khuynh đảo thể xác và tinh thần cô. Nói gì thì nói, cô mất mát thiệt thòi quá rồi. Ông Tây nầy thuộc loại kẹo kéo, vắt củ chày ra nước. Không cho cô cái gì sớt, ngoài vài ngàn tiền làm công ấn định. Cô bị con Chi bán đứng, lấy tiền mà không biết. Tiết nhờ Hoa, Vân, hỏi:
- Con búp bê trong bụng Tiết, ông tính sao?
Chú ngồi ngay ngắn, như người cha đức độ nhất, mỉm cười, hiền như ma xơ, ngọt như mía lùi, ôn tồn nói:
- Việc đó, về bên Tây nghỉ hè rồi, mới tính sau với gia đình.
Ô là là! Việc đó thuộc phạm trù tương lai. Quá tầm tay với rồi. Tây đui đang làm thủ tục để "đánh bài chuồng" rồi bạn ơi! Âu đó là do con Chi, trời đánh thánh đâm, ở gần nhà Tiết. Do bà mẹ tham tiền, tưởng cho cô cứ lấy Tây, lấy U, là nó xì ra cả mỏ vàng? Moi được túi, khảo tiền thằng Tây đui kia chắc. Mẹ đã đẩy cô vào cảnh nầy.
Hắn chỉ cho cái "tui đây" không hứng thú gì! Đúng là Tây đui thứ thiệt! Một tháng ba mươi ngày, liệt hết hai bảy ngày rồi, còn gì xí quách! Nghèo rớt mồng tơi, tiền không có đã đành, tình cũng tuột dù trớt quớt, ngoặc cần câu, còn làm ăn nổi gì.
Thúy Mai, Hoa, Trầm Mây, Vân, đi về qua rừng thông muộn phiền giao nhánh, tư lự dưới đài mây, quyện hơi sương là là xuống mặt hồ, nhẹ nhàng gợn sóng và thờ ơ. Nơi xa xôi trên đỉnh đồi, chiều buông lã trong tiếng gió rì rào qua kẽ lá. Khí lạnh thấm dần trên đôi vai gầy, rung rinh mái tóc thề đen nhánh, óng mượt của cô gái Thần Kinh lưu lạc chốn "cao nguyên bồng lai". Sóng bước bên nhau, Hoa nói:
- Mày nghĩ sao?
- Thấy con Tiết lấy Tây lấy Đức, tao chán quá!
- Thời buổi nầy, lấy Tây là thường. Sao lại chán?
- Xì. Những thằng như nó, ngay cả khi lường gạt, yêu đương, dối trá, nó cũng làm cho người ta tin, là nó đứng đắn, trí thức nhất thế gian.
- Mày nghĩ là, nó sẽ đá con Tiết à?
- Một thằng Tây giáo sư, quá sức...ăn chơi, đến liệt gân liệt cốt như vậy, mà chịu lấy con vợ lù đù, không biết cái gì à? Tới tết công gơ nó mới làm giấy cho con nầy đi Tây. Để rồi mầy coi. Nó chỉ lợi dụng, khỏi mất thêm tiền công kia, việc nọ.
Không ngờ Hoa có nhiều ý nghĩ sắc sảo, thâm trầm như vậy! Hoa không tin lời Mai nói. Nó có vẻ bất công thế nào ấy. Cho nhau tình yêu sao lại nhân, chia, trừ, cộng ? Tình không biên giới kia mà! Hoa cúi đầu im lặng.
Nhìn đôi mắt sắc như dao cau của bạn, Hoa không thể nghĩ mới giây phút trước, khi từ gĩa bạn ra về, chính đôi mắt ấy ánh lên nét thông cảm và nồng hậu. Thúy Mai nói tiếp:
- Cũng như tao, tao biết Tấn chưa chắc đã thật tình, miệng mồm liếng thoắng, có vẻ đễu đễu làm sao. Mà, tao không giải thích được. Tấn nghe lời gia đình hơn. Tao thất vọng, dù yêu Tấn, nhưng tao không tin Tấn.
- Mày phải biết cách lèo lái nó chứ.
- Mày nói nghe chán thấy mồ. Tao hỏi mày nhe: Từ ngày Tấn đi đến giờ, hơn hai năm rồi, mà chỉ có năm bảy lá thư viết bâng quơ. Tao công nhận là thư viết rất tình tứ, trên thư từ thôi. Tấn ích kỷ không muốn mất tao, nhưng không muốn cưới tao. Không hứa hẹn điều gì, không một lần về thăm. Rồi Tấn sẽ không bao giờ, về thăm Dalat, chứ đừng nói là để gặp lại tao. Mày hiểu không?
- Cầu xin tao sống lâu, xem chàng xử trí thế nào.
- Số của tao độc thân cho đến chết. Bệnh hoạn suốt đời, thì cần gì cơ chứ.
- Đừng bắt chước ông Chu Công ba ngàn năm trước đã đặt ra mười can, xoè hai bàn tay và bàn chân ra, mà đếm đủ Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Qúy. Rồi bói quẻ con: Tí, Sữu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi, cho tao nghe đi.
- Mầy không tin hả? Số mạng của mầy đã nói lên sự thật đó thôi. Mầy không biết ngày ấy, năm ấy ông chồng mầy là ai đâu. Vậy, cái ngày mầy quen Thi đầu tiên, mầy có thấy nó xấu không?
- Thôi bà thầy ơi! Ngày nào cũng đẹp, cũng tốt cả. Buổi sáng tao thấy mặt trời mọc phương đông, chiều lặn phương tây. Chứ giờ ấy, ngày ấy, khi tao quen Cilbebi, và sau nầy quen Thi, tao không thấy nó mọc ngược ở phương tây, và lặn ở phương bắc. Mày đừng dị đoan quá!
- Mày không tin con người có số à?
- Trường hợp của tao, tự tao quyết định chọn lấy con đường tương lai. Thú thật tao thấy ngày xa Cilbe, là ngày giúp tao xoay ngược ván cờ.
- Thành công hay thất bại?
- Do mình thôi. Chén bát trong sóng còn có khi xao động. Mỗi bên dẹp bớt cái tôi ích kỷ, hẹp hòi. Thông cảm và thấu hiểu nhau hơn. Muốn bền lâu hãy vun đắp, muốn tan vỡ thì đập phá. Mà ít có ai điên khùng đập phá.
- Nói chuyện chồng con, tao ớn lên tới cần cổ.
- Độc thân vui tính như mầy, tự do kinh khủng.
- Nhưng về già có đủ cảnh khổ, biết trông chờ ai. Ráng mà bò đi lo lấy một mình. Tứ cố vô thân.
- Ừ. Đằng nào cũng chán. Mỗi người có một cảnh khổ riêng, không ai giống ai.
- Vào nhà đi. Con mày khát sữa, khóc lòi rún rồi.
Từ đó đến nay, thấm thoát gần bốn mươi năm trôi qua, đứa con gái mang hai giòng máu lớn lên, rất đoan trang xinh đẹp. Cô bé chưa bao giờ biết tin tức về “người ấy”, người mà cơ cảm thấy đau đớn, rất tủi hổ, muốn phủ nhận sự lường gạt tình cảm, lẫn tiền bạc trắng trợn nhất. Người mà cô bé không bao giờ gọi là cha, cũng chả cần biết mặt.
Cô bé đã làm thủ tục đi Hoa Kỳ, chỉ với mẹ, và các em (cùng mẹ khác cha), theo diện con lai Mỹ
Nghe bạn kể cảnh ăn ở "chồng con" của Tiết, Thúy Mai dội quá! Sợ toát mồ hôi hột. Cô hứa sẽ ở giá, làm gái già hơn là lấy "Tui đây". Bởi vì chuyện tình yêu giữa Mai và Tấn lấp lững, như tơ trời. Không báo hiệu niềm vui, hay điều tốt lành, hứa hẹn ngày mai quang đãng, có thể bị hất lại nỗi thất vọng đột ngột.
Ngày Tấn ở trong quân trường Võ Bị, tình cảm họ đã đi qua lòng nhau. Gợn lên êm ái không kém phần say đắm. Vài năm choáng ngợp nồng nàn. Khi Tấn ra trường, người đi kẻ ở, tình cảm xa vắng nhẹ nhàng, lờ lững lùi dần vào câm nín. Bức tường xa xôi cách trở, qua thời gian và không gian, đã dựng lên hố thẳm ngăn chia.
Tấn ra đi theo nhịp bước hải hồ. Lãng du vào những bến bờ xa lạ. Mới mẻ. Đời chiến sĩ dãi dầu gió sương. Thúy Mai ở lại chốn cũ đồi xưa, xếp tơ lòng giữa tiếng ồn ào xe pháo. Giữa muôn người bàng quang. Hờ hững đi lại trong nắng gió khuya chiều.
Thúy Mai mơ mộng và tình tứ hoá cuộc tình. Bằng cách Mai đã cắt lọn tóc dài, tẫm đầy nước hoa, gói trong khăn nhung hồng, nhân ngày Hoa về Saigon ăn đám cưới chú em họ. Mai nhờ Hoa trao tận tay Tấn, cùng với lá thư màu xanh viết đầy tám trang giấy. Cuộc đời vô vị, cùng số phận khe khắt, dẫn Mai đi bước thấp bước cao, không ngờ tràn đầy cay đắng và cô độc.
Các bạn nói Thúy Mai bói bài. Hoa không tin chuyện bói toán, nhất là Hoa và Mai thân nhau quá, chuyện lớn chuyện nhỏ, đều biết tỏng tòng tong, còn linh ứng gì, cần gì phải đoán, phải coi. Mai độc thân thế cũng khỏe. Tự do. Muốn đi đâu thì đi, làm gì thì làm, cơm cha áo mẹ, “công thợ may”, cứ ở nhà phá gạo, lâu lâu, buồn buồn, gọi năm ba đứa tụ tập nhà bạn, coi bói, hầu nghiên cứu tử vi, học hỏi thêm vui.
Thật buồn cười, khi Mai đứng trên đỉnh cao của tuổi băm bảy, băm tám, độc thân vui tính, bói toán về cuộc đời tình ái, sự nghiệp, công danh của các bạn, Cô kênh kiệu hất mặt lên, kèm theo nụ cười mỉa mai, tự tôn, tự hào về tài bói toán nầy, đã đưa cô lên đỉnh cao “tán phéc”, có nhiều khách hâm mộ, coi thường người khác, mặc dù cô chẳng hơn ai. Các bạn đùa:
- Người đâu mà an nhàn, thấy sướng. Mai à.
Thúy Mai ưa chửi Hoa là “đồ lãng mạn. Vớ vẫn. Cứ thích ru ngủ trên mây”. Hai cô trái ngược nhau hoàn toàn, ấy thế mà, họ rất đỗi thân thương nhau.
Thúy Mai đi thênh thang trên dòng đời xuôi ngược, hăng say lao vào cuộc chơi, tìm hiểu muôn điều bói toán huyền bí. Cho đời thêm vui, thi vị hóa cuộc sống, hơn là yêu anh, yêu trường, yêu lớp. Mai không thích cành cây ngọn cỏ, cao thấp nhấp nhô, không thích tiếng chim hót bừng lên mỗi sáng. Không yêu con đường đi về, mỗi buổi chiều hôm.
Bây giờ Thúy Mai đã yên giấc ngàn thu dưới ngôi mộ đá lạnh lẽo. Vì chứng xơ chướng gan kinh niên. Không chồng. Không con. Không nhìn ngắm mảng mây trắng, phủ sương xám, trên lưng trời, như đàn cừu nhỏ thủng thẳng về chuồng, không ngâm chân trong dòng suối mát, ngọt và trong, con nước in hình chiếc lá vàng, đan hờ hững trên cành cây khẳng khiu.
Luống cải xanh rờn, những dây mạng nhện mong manh như sợi tóc giăng mắc khắp không gian, tạo thành tấm lưới khổng lồ trùm lên cây cỏ, lóng lánh dưới ánh mặt trời ấm dịu thoang thoảng mùi hương hoa đồng nội tinh khiết.
Lớp bụi hồng mỏng tanh, mịn màng bốc lên, theo bước chân rải đều, trên đôi giày trắng của Hoa. Lớp bụi lại nhè nhẹ theo nhau về nằm nghỉ yên trên mặt đất, nơi Mai yên nghỉ trong khu mộ thành phố buồn số Bốn.

_ * _
Ái Ưu Du
#10 Posted : Thursday, September 7, 2006 7:33:16 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

MẠC A KÍU

Trong phòng làm việc, có Mạc A Kíu là người chân thật, đến mức ngây ngô, mà dễ thương, chịu không nỗi.
A Kíu thích uống nước đá thật lạnh, nhai nước đá cục rốp rốp. Trong lúc anh ăn cơm nóng sốt, vừa thổi vừa ăn. Răng anh bỗng dưng dỗi hờn, đau đớn sưng vếu lên một cái, bỏ anh mà đi. Anh tức mình, đi bọc răng vàng ở lỗ trống. Thế là hai hàm răng, thấy cái răng vàng, giàu có, “đẹp gziai” quá, chúng dỗi hờn, từ từ rủ nhau đi hết cả hàm dưới.
Răng hở thì môi lạnh, môi buồn, nên mỗi lần ăn, anh cố cho hàm trên đi gặp hàm dưới, thăm hỏi nhau tí chút. Nhưng nó đã thất lạc trong cuộc đời. Một chiếc răng vàng cô độc, không hiểu tiếng nói nhau, còn răng mô mà cười!
Hàm răng mệt, cái mồm mệt, không nhai thức ăn, cơ thể mệt, bộ óc mệt lã theo. Chúng rủ nhau biểu tình, đi tìm trẻ lạc mất răng. Hàm răng cái sún, cái bọc vàng lổn chổn. Thật khó chịu. A Kíu không nhớ gì hơn, ngoài việc lo lắng "bộ gió". Vì cái răng cái tóc, là gốc con người mà!
Một hôm, được phân công, Kíu cùng bạn công tác tại xóm Nghĩa Hành. Bé, Châu, đi nhanh. Là âm thoại viên, anh có phần bệ vệ, vì bụng lỡ mang thùng nước lèo khá lớn, so với chiều cao. Kíu ì à ì ạch leo lên dốc. Anh che tay nhìn ngang nhìn dọc, không thấy hai bạn đâu. Mất hồn mất vía, anh ngồi phịch xuống gò mối, nghỉ mệt. Đã lo sợ lạc đường, tự dưng cái bụng phệ sôi ục ục. Như muốn biểu tình, phản đối giờ cơm đến trễ. Lom khom đứng lên, bỗng máy truyền tin phát tín hiệu. Anh lại ngồi vật ra, duỗi hai chân, chụp lấy máy, mở tầng số liên lạc. Nghe xong, “anh ca”:
- Cái lày ngọ xin “lại ý” dzui loòng chỉ cho. À, ló tẩy chay ngọ, ló li lâu mắc dồi, bỏ em lứng dứi gót cay phựng. Ló hỗng béc liều a. Em hỏn béc chỗ lào, lễ li dề à. Lần lầu mới dề qua lay. Hỏn béc dớ cái đừng dề a.
Thọ, Đan, và Nhã phì cười, Nhã trêu chọc:
- Đi mau mới kịp bạn. Phải biết "giác ngộ", cho tiêu bụng mỡ chứ.
- Ngộ béc dát ngộ mờ. Có gì ngộ ngộ, ngộ dát cho a.
Có trời biết, làm cách nào A Kíu trở về an toàn, lưng đeo máy truyền tin, vai đeo ba lô cá nhân, vai vát thêm lưỡi cày, chả biết nhặt ở đâu. Kíu nói:
- Nó giác ngộ quá, thì ngộ dát dề a.
Thọ vừa tức, vừa vui, anh kêu trên loa phóng thanh: Có ai mất lưỡi cày, xin cho biết. Phòng mang trả lại sau.
Lần khác đang ăn cơm, Đoàn-trưởng gọi xuống, bắt anh em nộp bảng "Dự trù Kế Hoạch A. Tối cần". Kíu quên chưa cúp máy, báo trình với Đan:
- Xin báo thựng cấp là tối cần, bạng dự trù kế hoạch A, chớ sáng thì hỏn cần.
Ngờ đâu Đoàn-trưởng nghe được. Trời ơi! Hậu quả ăn với nói, lầm lẫn và hiểu sai nghiã. Anh "an nghỉ năm ngày chuồng cọp", bị muỗi đốt thỏa táich. Anh nằm chèo queo, chờ điều tra. Toàn Phòng, Ban, gửi “thỉnh nguyện thư” lên Đoàn-trưởng, bảo đảm hạnh kiểm, hành vi anh. Kíu được tha khỏi chuồng cọp.
Từ đó, anh câm như hến, không dám bép xép cái miệng ăn mắm, ăn muối. Anh tình nguyện “xuống cấp”, làm hoả đầu quân ở Sư-đoàn, cho chắc ăn. Anh nấu ăn ngon tuyệt. Y như Tàu Hồng Kông. Anh kể chuyện tình của anh, với cô bồ ở Chợ Lớn, vui và buồn hết biết, như sau:
- Sau khi đã bọc chiếc răng vàng, nhân "mùa thu lá bay", để kỷ niệm lần đầu tiên “Anh và Em” yêu nhau. Họ đi nhà hàng Arc Enciel. Anh bảo nàng:
- Em là Ba Chệt, thì cứ hiên ngang, can đảm nhận mình là Ba Chệt, sợ gì ai mà mắc cỡ. Em hãy mặc áo Thượng Hải, hở ngực, hở nách, xẻ hai bên đùi, lên sát mông. Cho anh dẫn đi dzợt le. Anh muốn tụi mình nên cà nhỏng chút, cứ làm dóc, giựt nổi, chơi trội, đi khoe với đời. Em không nổi, như cái rốn của vũ trụ. Thì đời mình mất vui, kém hạnh phúc đi.
Thế là nàng trẻ người non dạ, “ẻm” nghe chàng dụ khị, "phỉnh" nhẹ thôi, chứ anh gallant trắng trợn, còn ra cái thể thống gì bậc mày râu! "Anh Em" cho... tới luôn bác tài. Nàng hí hửng, thích thú mặc xiêm y, thân hình chưa phì lũ lắm. Chàng trông nàng đẹp ra phết. Hai người cầm tay nhau “dzung dzăng”, lí lí lắc lắc đi ngon lành. Cái bóp đầm lủng la lủng lẳng đung đưa, có vài đồng bạc lẽ, bỗng bị "bàn tay anh tài” cướp giựt mất, lẹ như chớp.
Bất ngờ, nàng trợt chân té, chiếc giày cao gót, văng lông lốc tuốt dưới lầu. Đau quá là đau, nàng ngồi chò hỏ nơi bậc thang, mặt tái xanh, không còn chút máu. Mồ hôi hột vã ra, "ẻm" bủn rủn tay chân. Nàng thầm nghĩ :
- "Chắc là ma nó xô, cho mình bong gân, lọi giò đây, chứ cái thằng ma-cô cướp cạn, ốm o như đồ xì ke, đuổi ruồi không bay. Làm gì xô mình lọi giò được ha"
Vô tình nàng "để quên sự đời em ra". Thây kệ mặc khách tao nhân, đi lên, đi xuống cầu thang, quay lại nhìn, ngó sững sờ "chỗ nớ" đã đời.
Chàng thanh niên non đời ĐÃ nén giận, chạy xuống lượm chiếc giày. Anh đứng dưới chân thang nhìn lên. A Kíu thấy “chỗ nớ” tổn hổn, rỏ mồn một. Giật mình xấu hổ, mặt đỏ tía tai rần rần. Ảnh mắc cỡ muốn độn thổ. Chàng cầm chiếc giày cao gót sút đế, vụt nhảy lên một lần, hai ba bậc cấp, ném chiếc giày vào bụng nàng, kêu cái "biịcch". Chàng cằn nhằn:
- Con gái, con nai gì không ý tứ, mặc cái "xì níp" nhỏ xíu, trơ trẽn quá. Em lại còn xí xọn, nhí nha nhí nhảnh.
Nàng tức giận lên cực điểm, đến tím mặt, bầm gan. Không dỗ dành, khi người ta đau điếng, thì thôi. Còn la mắng cái nỗi gì, giữa chỗ ba quân. Nàng nghiến răng trèo trẹo, xổ một tràng tiếng "Háng" văng cả nước bọt khiếm nhã ra:
- Ai biểu, nị thít ngộ đi “phe” với đời. Ngộ không bét. Ba trợn á. Ay dà! Cái đồ dóc tổ a.
Tự ái dồn dập mà! Tuy nhiên, thấy nàng xù ra như lông nhím, chàng cũng biết điều, liền hạ mình hạ giọng, năn nỉ ỉ ôi. Nàng được trớn, lên mặt vênh váo, lì lợm, làm le, làm tới, không thèm hòa. Nàng xù bộ mặt rất ư dễ ghét ra, trông ngứa mắt quá chừng! Xách chiếc giày lủng lẳng, nàng hất mạnh tay chàng, cà niễng cà giật chân, đi theo điệu “bì bộp, xô-lô-rốc” chấm phẩy. Ẻm leo lên taxi... cho tới luôn bác tài. Bác ta rồ máy chạy cái vù. Giữa đám thị dân, đang kinh ngạc nhìn theo.
Thế là chàng nổi máu anh hùng lên, bỏ đi một nước, giang hồ biệt tích. Anh leo lên xe “đi quân dịch là thương nòi giống” . Anh vui vẻ hát điệu tẩu mã rất linh hoạt của dân ca Huế.
Thôi chả còn gì cho “Anh và Em”. Thật chả còn gì cho mối tình, mà chàng nghĩ từ nay đúng là: Thứ cà tửng, cà tàng, cà khịa, cà chớn, cà chua"... Khi nàng ù té chạy làng, lê bước chân què, leo lên con đò, ca bài “Sang Ngang” của Đỗ Lễ, cho mối tình đi đứt, theo đuôi con nòng nọc.
Anh dứt khoát mọi điều khẳng định. Như đinh đóng cột vào vách. Như ngôi nhà quay mặt về núi. Muôn đời không thèm đối diện với biển cả.
Nghe tin được về hậu cứ sớm hơn dự định, A Kíu nổi tiếng trùm sò, chuyên môn cho anh em "ăn mắm mút dòi". Nay anh là người hào phóng, trước tiên vát cái bụng phệ, đi quăng mùng mền quần áo cá nhân. Anh cần nhẹ bớt ký.
Anh lấy ly, tô, chén, soon, nồi ở trong thùng ra, đập bể hết, xán cho bằng thích (hai bàn tay mập ú). Các anh khác bắt chước, lôi tô chén trong ba lô cá nhân ra, xán bôm bốp xuống nền gạch. Đã thiệt ta!
Đùng một cái Trưởng phòng đi họp về, báo tin phải ở lại thêm bốn ngày. A Kíu ngồi thộn ra, méo mặt như cái nồi soon nhăn nhúm. Lấy gì xào nấu cho anh em ăn đây hở Trời! Thật chán mớ đời. Mấy ngày đó, anh em chịu trận giữa cơn rét rừng luồn vào tủy sống. Các anh chẳng dám mở miệng kêu than nửa lời.
Ngày ngày A Kíu xin nấu ăn nhờ nhà dân, đi bắt ốc mò cua, hái rau sam, rau dền, rau đắng mọc hoang, luộc cho anh em ăn tạm đỡ lòng, với thịt hộp xin đồng đội. Thật may vừa có lệnh leo lên xe về nhà.
Tất cả câu chuyện về bạn bè, cùng hoàn cảnh, không gian và thời gian, thoáng hiện trong tư tưởng Đan, dưới ánh sáng màu thiên thanh kỳ diệu. Đan mỉm cười về vài mẫu chuyện vui, tương tự như thế. Hầu quên đi nỗi nhọc nhằn đời lính chiến phong sương. Tạm quên bao khổ đau cuộc sống đùn lên trong đời.
*
Ưu Du
_ * _
Ái Ưu Du
#11 Posted : Thursday, September 7, 2006 7:42:16 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

NGHĨA XƯA

Vào lúc choạng vạng tối, trên mái ngói lầu cao, ở bến xe Tùng Nghĩa - Đà Lạt, ánh đèn pha sáng trưng, hàng ngàn chú dơi bay lượn thoăng thoắt bắt mồi, chúng rít lên tiếng kêu xít xít không ngừng. Cạnh bến xe ồn ào như vỡ chợ, đinh tai nhức óc suốt ngày đêm. Sao chúng không điên, mà cứ rít lên, rít lên! Tiếng rít khiến Hoài càng nhức đầu, nhức tai, bủn rủn, thốn tim hơn, trái tim vốn dĩ mang căn bệnh trầm kha rồi. Cầu trời, nếu có chuyện gì xảy ra, xin cho chuyện lành. Con đã có quá nhiều đắng cay, bất hạnh. Xin cho con hai chữ bình an, đừng để con “xỉu” tại nơi nầy.
Băn khoăn, lo lắng cùng cực, tựa như đằng sau cánh cửa sáng đèn, vừa mở ra, sẽ có cái gì thình lình ập đến, hoặc choảng vào đầu, khiến Hoài lo sợ, rụt rè, thập thò nơi ngưỡng cửa. Tứ ngồi trên giường đùa với các con. Ông nội nằm đọc báo trên sofa, bà nội ăn chè bên bàn. Đầy đủ cả nhà. Đồ quỷ nà! Thế mà cứ lo sợ bâng quơ! Bậy bạ quá!
Các con nhảy phóc xuống giường, chạy ra mừng mẹ về, chúng ríu rít vui vẻ bên Hoài. Bé Hai cố kéo lê giỏ xách trái cây, lôi đi xềnh xệch, đến trước mặt mọi người. Cả nhà xúm lại, vừa ăn quà, cô đã mua ngoài bến xe, chuyện trò vui vẻ. Lúc sau, như sực nhớ ra, Tứ nói:
- À, hôm qua, ca sĩ Mai Tuyên, đến thăm chúng ta, với một người đàn ông lạ. Cô tặng em đôi dép kia kìa. Tuyên hẹn sẽ đến gặp em ngày mai, trước khi về Saigon đó.
Hoài vui mừng thật sự. So với cô em kết nghĩa đầy danh vọng, thì món quà bé nhỏ, đơn sơ, chỉ đáng vài đồng. Nhưng bất ngờ cô em đến, khiến Hoài suy nghĩ, khơi dậy trong lòng Hoài cái phẩm chất cao qúy, khi nhận nhau qua tình chị em kết nghĩa. Tâm trí Hoài bối rối, không thể diễn đạt điều băn khoăn, về người đàn ông đi cùng. Hoài tin chắc ông là người tình của Tuyên, nhưng là ai?
Hẳn không thể là anh, như bạn bè đồn đãi. Nhưng biết đâu! Nếu sự thật Tuyên dẫn anh ta đến, Hoài có thể đánh giá hai nhân vật nầy, hiểu được họ muốn gì, khi chúng tôi gặp lại nhau. Điều nầy, khiến Hoài bối rối, băn khoăn, quả là một cuộc gặp gỡ khó chịu. Quá khó chịu là đằng khác, giữa Anh, Chị và Em.
Sáng sớm hôm sau, Hoài lo trang điểm, mặc vội quần áo đẹp nhất, đi làm gấp, nàng muốn tránh cuộc tiếp xúc không hẹn. Vừa mở tủ lấy cái bóp và cây dù xếp nhỏ, chợt nghe Tứ nói:
- Tuyên đã đến rồi. Em.
- Em ngại tiếp họ ghê. Anh ra tiếp hộ em. Nói em đi vắng nhe.
- Coi sao được. Không kịp rồi.
Nhìn ra khung cửa kính, Hoài bủn rủn, bàng hoàng, bất ngờ đến lặng người đi, lúc họ dừng chân trước bậc thềm. Run rẩy, lúng túng, bối rối, Hoài mời Cảnh, Tuyên, vào nhà, ngồi trên sofa. Nàng xuống bếp, pha ba ly trà bốc khói, đặt trước mặt. Hơi thở dội ngược vào lồng ngực, trái tim trầm kha co thắt, đập mạnh dữ dội, khiến nàng thốn tim, nghẹt tim hơn.
Tuyên tìm cách gợi lại mối tình say đắm, thiết tha xưa, ra oai, để chiếm hữu thế giới nội tâm, từ dĩ vãng, hiện tại, đến tương lai chàng ư? Vừa muốn “ân cần rất mực” với người nhận là chị. Sau nầy, lỡ có liên lạc, không ai đi quá giới hạn, lẫn nguyên tắc gia phong.
Sự gặp gỡ bất ngờ, sau bao năm ly biệt, như ba dòng nước ngược xô vào nhau, tóe lên thành nhiều cột nước, chảy xiết xuống thác Datanla, thác Gougah, thác Pongour… Mọi triết lý tình yêu, không nghĩa lý gì, giữa trường hợp một cuộc tình, có ba trái tim rối rắm kinh khủng, đang đập loạn xạ trong lồng ngực.
Cái đấm tình yêu lạnh lùng, tàn nhẫn, từ năm 1964, chưa đủ mạnh, không đủ đớn đau sao? Giờ đây họ gượng dậy, cố tìm nhau, khi đau thương còn đầy chăng? Quá khứ xa xôi dồn dập vang dội lại, phút chốc bẽ bàng, cay đắng biết mấy! Cảnh vượt qua không gian, thời gian, trở về trên đường phố hoa Đào, nơi quê hương thơ mộng, diễm kiều, từng là niềm ấp ủ bao thương yêu, nhung nhớ. Cảnh đã trở về trên đường phố quê hương, để làm gì nữa, khi chính “nàng” phản bội “chàng” trắng trợn nhất. Chính phải! Sự trở về chua chát, cay đắng dường bao!
Tháng năm dài đăng đẵng, vừa thoáng qua hiện tại, chỉ vài giờ đối diện ngắn ngủi. Tuy vậy, đủ ngất ngây rung cảm, từ chân tơ kẽ tóc, nỗi khát khao sống lại thời xuân trẻ, vụt bay xa, lạnh ngắt một đời. Không có ai, không có gì, tuyệt nhiên ngăn cản anh, quay trí du hành về phạm trù quá khứ u uẩn, đượm vẻ băn khoăn, đau buồn, xa vắng thế nào ấy.
Ở phạm trù xưa cũ đó, và nàng, đã có những giờ phút đắt thắng, tự hào vang bóng một thời xuân trẻ “long đong”, trước số phận tàn nhẫn cay nghiệt, quật ngã. Sau bàn tay vô hình nắm lại, tự đấm vào tim vào óc mình mấy cái, quá khứ vồ xé hiện tại, trở thành bẽ bàng chua chát. Một sự chua chát kinh khủng!
Qua khóe mắt tò mò, đầy hiếu kỳ, pha chút ngại ngần, Cảnh nhìn Hoài đăm đăm, như muốn quan sát cuộc sống, niềm vui, nỗi buồn, ẩn hiện trên khuôn mặt nàng. Cảnh thấy chùng xuống vũng bóng tối cô đơn, dày vò, mềm lòng đi, trong nỗi khát khao thèm hôn lên giếng mắt thăm thẳm riêng lẽ, đôi môi tươi thắm, có nụ cười say đắm, làm ngã lòng người đó, quá chừng.
Nếu chỉ vì tình yêu xưa đắm say, bỗng chốc vỡ tan, như bọt sóng sùi sụt xô bờ, giờ đây chắc chắn cả ba người không bẽn lẽn, bẽ bàng ngồi trước mặt nhau, như màn kịch câm, do cô danh ca độc đáo dàn cảnh trùng phùng. Thì, chẳng bao giờ, Cảnh dám quá bộ ngồi vào sofa, khi vết thương lòng vừa khép miệng. Tuyên tinh ranh hơn, lợi dụng lòng cả tin của vợ chồng Tứ, sự chiều chuộng yêu thương của Cảnh, cô ném một hòn đá vào mục tiêu, có chủ đích, trúng ba vết thương một lúc. Cô khá cao cơ, muốn chiếm đoạt thể xác, trái tim Cảnh từ quá khứ, hiện tại, cả tương lai.
Tuyên có cử chỉ ghen tuông buồn cười nhỉ! Vờ vĩnh nhã nhặn, vui vẻ, hợm hĩnh sao đâu, cử chỉ lố bịch, khiến họ khó chịu gấp ngàn lần. Chẳng thà thẳng thừng trách cứ nhau đi. Tuyên làm chi, mà vùng vằng, nép vào ngực anh, lại hất tay Cảnh ra, khi anh vuốt lọn tóc cụt lủn xỏa bên má cô, rồi vùng chạy qua ngồi sát bên Hoài, léo nhéo nói những câu, chả đâu vào đâu. Lại chạy qua, chạy về, bốc đồng lên, Tuyên bịa đặt ra đủ thứ chuyện, trên trời dưới quận, miễn sao hạ đối phương, cho đã miệng.
Cảnh cười hì hì, cố âu yếm cầu hòa. Họ cần đến đây “diễn một pha” như thế, để làm gì nhỉ? Có thể là họ đùa, trên thương đau chính mình, hay người khác. Thật, Hoài không hiểu nỗi! Hoài nói chuyện chung chung, tránh hỏi han cặn kẽ, sợ Tuyên hiểu lầm “chị” còn lưu ý đến “anh”. Nàng hỏi xã giao, để Tuyên không lấy lý do gì, dằn vặt Cảnh, trước mặt người xưa.
Cảnh đánh diêm mồi thuốc, phân nửa que diêm bừng sáng, mang đốm lửa xanh vàng, xì xì xẹt xẹt. Khuôn mặt anh trở nên run rẩy, mờ nhạt, xa xăm, trong làn khói thuốc uốn quanh. Giống như hình ảnh phản chiếu, trên mặt hồ đầy sương, khi gió thoảng, gợn sóng lăn tăn. Trên vầng trán rộng và cao, Cảnh biến mất vẻ ưu tư đau buồn, vì so với góc cạnh sắc sảo, cay độc đời mình, những gai nhọn từ đóa hồng, đâm thủng bàn tay năm xưa; thì đóa hoa tình yêu Tuyên vừa trao gửi, êm ái hơn nhiều. Anh khéo léo “xí xóa” vài lầm lỡ của bạn tình non, khi Tuyên có cử chỉ “ngây thơ cụ”, lời nói kém tế nhị, vụng về.
Cảnh cắt tóc cao, ép vào gáy, tạo vẻ dạn dày trước tuổi, hiên ngang, làn da phong sương ngăm ngăm, khuôn mặt chữ điền, chiếc cằm rộng thêm phần quả quyết, mũi lân to bè khoan khoái, nụ cười rộng mở, hàm răng trắng đều, anh “hồn nhiên và khả ái” cười toe . Đôi mắt đẹp hai mí to tròn, hàng mi dày cong cong như cười theo. Đôi mắt đó không khác gì xưa, nhưng bây giờ trống vắng, chả nói lên được điều gì, lúc mắt Cảnh, thầm lặng đọng lại trong giếng mắt Hoài. Dù tuổi xuân bay, tình yêu như bong bóng trôi dần về quá khứ, thời gian, không gian, cướp dần dần đi tất cả; đôi mắt ấy vẫn ánh lên ngọn lửa, có độ nồng nung mầu nâu thẫm, đầy xúc cảm về dấu kỷ niệm, nhiều giông bão chưa phai nhòa.
Nhiều lần Tuyên chạy qua, chạy lại, giữa hai người, nói ba xàm ba láp, thì Cảnh lặng lẽ nhìn Hoài, thiết lập chiếc cầu giao cảm thầm lặng, đầy tình hữu nghị. Tâm trí anh mơ màng nhớ biết bao chuyện vui, buồn, thương, giận, thuở xưa. Anh nhớ lần đầu tiên hai người vào rạp Hòa Bình xem phim Nữ hoàng Ai Cập Cléopâtra, thủ diễn vai chính, với tướng Jules César và Marc Antoine. Anh bạo dạn ôm nàng trong bóng tối. Anh nhớ con suối vàng êm ả buông mình bên bụi cây thưa, khi lần đầu tiên tỏ tình, anh ôm hôn cô đắm đuối. Anh nhớ tiếng ríu rít bầy chim giữa hoàng hôn bên thác Prenn, con thác trắng xóa điên cuồng xô sóng, chạy vào bờ, khi rút ra đã cào cuốn tất cả rong rêu, đất cỏ, một cách kiêu hãnh, tung hoành và khoái chí. Đó là ngày anh đưa ba má lên nhà coi mắt Hoài, ngỏ lời cầu hôn. Rồi những tháng năm yêu nhau đậm sâu quá chừng.
Anh nhớ rất rỏ từng câu chuyện tình trong sáng, êm đẹp của “đôi ta”, nhớ tháng mười một lộng gió, trời lạnh lẽo suốt bao ngày dài, vật vã giữa dòng đời. Cũng là ngày Hoài tàn nhẫn từ hôn. Đột ngột. Lạnh lùng, tàn ác quay lưng đi, không lời từ giã, mặc dù Cảnh như điên cuồng, thất thểu theo anh Doãn, là anh ruột Hoài, đi hết vùng đất Dalat, hai người tìm kiếm nàng suốt tháng.
Cho đến bây giờ, Cảnh không hiểu nỗi tại sao, Hoài vĩnh biệt anh, khi hương độ yêu thương nồng nàn đến vậy? Tưởng không ai, không bao giờ có thể chia cắt, dù có bao bối cảnh… Nhưng Hoài đã bỏ Cảnh, mà đi lấy chồng. “Chúng ta” đã làm điều gì sai? Thật oái oăm và đau đớn, kinh khủng biết ngần nào, về những ngày xa xưa ấy!
Khi trực diện với Cảnh, cùng những kỷ niệm ngày xưa, công bình và thẳng thắng, đó là niềm kiêu hãnh, Hoài luôn tự hào ta là một kiều nữ, từng làm tan nát bao trái tim chàng trai phải lòng, hãnh diện về thời vang bóng vàng son, thuở mới lớn bên anh, một cách công khai, không dấu diếm. Thật thế, Hoài yêu say đắm, từng ấp ủ trong lòng nhiều mộng đẹp. Đời đôi lúc có nhiều chuyện trớ trêu, phũ phàng không tưởng nỗi. Và, bước ngoặt khốc liệt nhất đã đến, đẩy hai người, tới cảnh ngang trái, đắng cay nầy.
Có lẽ, ngồi khá lâu, thộn mặt ra nhìn Tuyên, chủ động vai “nhân vật chính, mối tình salon” thấy cũng kỳ. Cảnh ngập ngừng, hỏi nhỏ:
- Hoài… được mấy con rồi?
- Một trai, một gái. Anh à.
- Lý tưởng lắm. Anh mừng cho em.
- Anh định nhân đôi niềm hoan hỉ, chia hai hạnh phúc sao! Anh nên cưới vợ đi.
- Ư hừ.
Cảnh thốt giọng khô khan, dường như nỗi u uất, đắng cay thầm lặng, bộc lộ ra tiếng “ư hừ”. Hoài cắn nhẹ làn môi, ngẩng nhìn Cảnh, gượng cười, khi Tuyên nói:
- Người ta yêu em, không phải vì em nổi danh, không vì em chả đẹp, mà cầu hôn em. Bởi vì em là gái ĐàLạt sống giữa Sàigòn. Cưới qua hình ảnh khác...
Cùng lúc ấy, Cảnh cười gằn, nhẹ hất hàm, hỏi:
- Rượu em cần uống sao? Để làm gì. Muốn uống bao nhiêu?
Giọng Cảnh hơi gắt, như dằn vặt, thách thức, một cách khó hiểu, lại cười gằn về điều gì đó, chợt nhớ ra, nhưng không tiện nói. Một phút sau, anh đã gửi đến Hoài ánh nhìn ấm dịu, đọng lại nụ cười buồn, đằm thắm ở bờ môi.
Chỉ một thoáng, dù chỉ một thoáng, mắt người nầy lẫn vào lòng mắt người kia, ẩn chứa bao điều không tiện nói ra. Đôi mắt vốn dĩ có thể sánh với sự dũng cảm, của anh lính chiến đấu, biết chắc mình đã thua cuộc. Hoài nhớ cung cách ấy suốt đời. Hình ảnh độc đáo đó, không thể lầm lẫn, với bất cứ ai.
- Đám cưới em, chị đi dự nhe.
- Tiếc là xa xôi quá. Cám ơn em.
Hoài biết chắc Cảnh, nhất là Tuyên vờ vồn vã, nhưng không mời nàng, nếu có tiệc cưới. Sao Hoài mở miệng nói lời “cám ơn” giả dối, khi lòng trào lên mối tức giận vô bờ, vì rỏ thực chất của kẻ “gia ơn mời giả tạo”. Bỗng dưng lòng trí khuấy đảo, Hoài thấy ghét Tuyên kỳ lạ, khi Tuyên chêm thêm một câu, chả đâu vào đâu:
- Em cảm ơn chị mới đúng. Chị liệng anh Cảnh, thì em… lượm.
Hoài giả vờ cười cười, theo câu nói dị hợm đó:
- Chị nghĩ chẳng bao giờ Tuyên thông cảm, thấu hiểu vấn đề nầy đâu.
Trong đời, Hoài đã từng gặp trường hợp hai người không ưa nhau, tính tình biệt lập, nhất là kỳ phùng địch thủ, nhưng trong điệu bộ toan tính kỹ từ xưa, Tuyên đã có ý nẫy sinh ra ước muốn chiếm đoạt Cảnh, - chia xa hai người. Hoài phân vân tự hỏi “Ai sẽ là vợ Cảnh sau nầy? Người đó, lạy trời không phải là Tuyên”. Nhưng nếu là Tuyên, tự nhiên cơn giận dâng đầy cổ. Cảm giác tự kiêu chợt tiêu tan, người đau khổ nhất lại là Hoài, và Cảnh, đã bị cô em kết nghĩa lừa “chúng tôi” vào cái bẫy, tinh vi không ngờ.
Bây giờ, cô là danh ca, nhưng chưa thu phục nhân tâm Cảnh, ấy là không do Hoài còn sống trong lòng anh. Dẫu không đẹp như Hoài, tính tình khác hẳn, biết đâu tài danh, tiền bạc, vật chất xa hoa, do cô tìm có, Tuyên có thể được, và hơn tất cả. Cảnh sẽ thấy tình yêu năm xưa, nay thật chẳng còn gì. Tuyên đến đúng lúc, không đem lại đắng cay, buồn đau bất hạnh, sau một bất hạnh lớn lao; cô sẽ thành công, chứ cần gì ghen bóng, ghen gió, với dĩ vãng?
Tuyên có làm màu làm mè, với Cảnh trước mặt cố nhân, thì, cái thế của Hoài và Cảnh không thay đổi. Không có nghĩa đã xóa nhòa dĩ vãng, bởi hiện tại và tương lai, (qua hồi ức dễ thương và dễ ghét thế) “Chúng tôi” vẫn không làm gì khác, để Tuyên lo sợ đến vậy!
Dù sao, Hoài vẫn quặn thắt cõi lòng, khi nhìn Cảnh cặp tay Tuyên, bước ra đường. Cố nhân lặng lẽ, khỏi cần biết thêm tương lai, không cần biết không gian, thời gian, qua giây phút âm thầm nhìn nhau, từ biệt chốc lát. Đôi mắt đã nói nhiều hơn lời. Phía sau cái nhìn, hình như còn đọng lại quá khứ, hiện tại, và có thể, trong tương lai.
Vốn dĩ Tứ không biết mặt Cảnh, nhưng khi nằm trong phòng, nghe chuyện, anh làm mặt giận. Tứ đã giận thật, cộc cằn xô Hoài ra, cằn nhằn gì đó. Thiệt tức cười. Tứ là người thắng cuộc, luôn tự hào là người cao tay ấn, đã cuỗm trên tay của “thằng ấy” một vố mật ngọt tinh tuyền, khá đau đầu, hơn đau màn óc. “Hắn” không điên thì thôi, sao anh lại điên khùng, hất vợ ra ? Hờn dỗi cái nỗi gì! Còn làm bộ, làm tịch hoài. Hoài muốn sà vào lòng chồng thêm lần nữa, nhưng sao không đủ can đảm, đi sâu vào cảm nghĩ riêng anh.
Thứ tình cảm và cảm nghĩ trái ngược hẳn nàng, qua đôi mắt sắc sảo sau hàng mi dài, cong cong, như muốn đi vào tim, vào óc nàng, đôi môi hơi nhếch lên khinh miệt, cằm bạnh ra, càng tăng nét đanh trên làn da ngăm ngăm, chiếc mũi cao cao, khiến khuôn mặt hơi gầy.
Phải! Có nhiều điều khác nhau, vô cùng xa lạ, nhất là về quan điểm, tính tình, đồng cảm, tình cảm. Một sự thiếu thông cảm đầy bất công, mâu thuẫn, lại xen lẫn niềm vui, hạnh phúc chợt đến, chợt đi, chợt về.
Không có gì hủy diệt được, về cái ngày tiền định, từ đàn én báo xuân, khoảng chục ngàn con, vượt vài trăm ngàn ki lô mét, từ phương Nam bay về tu viện San Juan Capistrano, ngày 17 tháng 3, được mệnh danh là Swalows Day. Có một chú én lạc đàn, đã mang chiếc cúc áo bay xa, xa hẳn đàn. Vì đó là, chiếc nút áo của Tứ.
Ngày ấy, sau buổi bế giảng khóa hội thảo, các bạn về chung lối, hai tay Tứ bận mang mấy cây đàn, anh nhờ nàng cài hộ chiếc nút áo veston, cho anh bớt lạnh, lúc hai người đi trên ngả ba đường lộng gió, xuống dốc chùa Linh Sơn, Phan Đình Phùng; Tứ đẹp trai, tao nhã, tài hoa, cùng nút áo xinh xinh, nhưng không hề có sự đồng cảm, thân mật hay truyền cảm.
Thế mà… không hiểu sao, ít tháng sau, Hoài quyết định bỏ vị hôn phu, (là cảnh) và ra nông nỗi? Định mệnh chơi xỏ nàng một vố khá đau, “cho” Hoài yêu mê mệt tiếng đàn lão luyện, tiếng hát trầm ấm, ngọt ngào, dạt dào âm điệu ríu rít, như đàn én trữ tình bay đi, bay về, đến thế. Tiếng đàn, giọng hát ngọt ngào, ấm áp, quyến rũ, đã cuốn hút Hoài đến bên Tứ, lúc nào không rỏ, trong cái khuôn đã định, mang nhiều sóng gió và thử thách.
Để rồi giờ đây, khi không chuyện ở đâu đưa đến, gia đình đang yên vui, bỗng dưng giận dỗi lãng nhách. Hoài điên tiết đi lui đi tới, trong lòng tức bực, đủ thứ chuyện dồn dập. Giận cá chém thớt, không đi chợ, chả thèm đi làm nữa. Nàng giật mạnh hàng nút, cởi áo, ba hột nút xé toạt một bên thân áo đẹp, lăn tròn dưới nền gạch, còn một hột, dính sợi chỉ dài tòn ten, đung đưa, lắc qua lắc lại, lòi cái “cọc xê dị hợm” ra. Trông chả giống con giáp nào, chả giống ai. Thật dễ ghét.
*
Ưu Du
_ * _
Ái Ưu Du
#12 Posted : Tuesday, September 12, 2006 5:27:40 PM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

heartheartheart NGHĨA TƯƠNG GIAO

Thời gian tiếp nối nhau ngày qua ngày, đêm qua đêm, trôi đi, trôi đi.
Đan, Nữ, có dịp làm chung nhiều công tác. Nữ hỏi Đan chuyện "Hoàng Tộc của anh". Đôi khi cao hứng, anh nói sơ qua về đời vua Gia Long, Vua Minh Mạng ra lệnh xiềng mã của ông Lê Văn Duyệt ở đường Hiền Vương, ông Duyệt rất linh thiêng. Cụ cố Hường Thuyền là bọ đỡ đầu của tổng thống Ngô Đình Diệm. Thế là ba anh mang họ Ưng.
-* Nói về vua Thiệu Trị. Ông Tôn Thất Thuyết làm Binh Bộ Thượng Thư dưới Triều Vua Tự Đức, năm 1883 Tự Đức băng hà. Khâm sứ Georges Mahé bị cách chức vì cho đào mồ vua Tự Đức lấy nhiều châu báu vàng bạc.
-* Tiếp sau là Joan Charles cho đào Tử Cấm Thành, điện Minh Viên của vua Minh Mạng vơ vét ngọc ngà. Hai ông Thuyết và Tường, đổi di chiếu phế bỏ Dục Đức là con nuôi của Tự Đức, tự quyền đưa em của Tự Đức, là Lạc Quốc Công lên ngôi, lấy hiệu là Hiệp Hòa. Họ đưa Dục Đức đi biệt giam, sau đó bắt Hiệp Hòa uống thuốc độc tự sát. Kiến Phúc lên ngôi 6 tháng thì chết không rỏ nguyên nhân.
-* Hai ông lại đưa Ưng Lịch lên ngôi vua lúc 12 tuổi, niên hiệu là Hàm Nghi. Ngày 22 tháng 5 năm 1885 bị thất trận đồn Măng Cá, ông Thuyết rước Vua Hàm Nghi và đoàn tùy tùng chạy đến Tân Sở. Băng rừng vượt suối ra Quảng Trị. Đi Hà Tỉnh. Qua Trung Quốc, ông thất chí thành cuồng điên, lấy gươm chém vào đá. Người đương thời gọi ông là "Trảm thạch Tôn Tướng quân". Pháp đày ông Nguyễn văn Tường. Lập Chánh Mông lên ngôi vua, lấy niên hiệu là Đồng Khánh.
-* Bây giờ Việt Nam có hai vua. Vua Đồng Khánh xe pháo ra Quảng Bình dụ Vua Hàm Nghi về hàng Pháp. Năm 1888 vua Hàm Nghi bị bắt đày qua Algerie. Bửu Lân là con Dục Đức và mẹ bị biệt giam được triều đình rước về tôn lên vua lấy hiệu là Thành Thái. Khi 18 tuổi Pháp biết Thành Thái có chân đứng với Phong Trào Đông Du, đã truất ngôi lưu đày sang đão Réunion.
-* Lập Vĩnh San lên ngôi lúc 8 tuổi, lấy hiệu là Duy Tân. Trần Cao Vân và Thái Phiên lập Việt Nam Quang Phục nước bại lộ. Vua Duy Tân bị bắt ngày 6.5.1916 ở Nam Giao. Pháp giam vua ở đồn Măng Cá rồi đày vua qua Réunion. Hai ông Vân và Phiên bị chém ở pháp trường. Pháp lại chọn con trai của Đồng Khánh là Bửu Đảo lên ngôi, lấy hiệu là Khải Định. Thượng thư Bộ Lại và Cơ Mật thời vua Khải Định là Phước Môn Nguyễn Hữu Bài đảm nhận.
-* Vua sau cùng là Nguyễn Phước Vĩnh Thụy, niên hiệu Bảo Đại. Ông Lê Phát An, một cự phú ở Saigon là con trai trưởng ông Huyện Sĩ. Ông An được Vua Bảo Đại quý mến, phong cho chức An Định Vương. Ông gã cháu gái là Nguyễn Hữu thị Lan, (con ông Nguyễn Hữu Hào) cho Vua Bảo Đại, tức Nam Phương Hoàng hậu. Bảo Đại có chính thức ba quý phu nhân: Lý Lệ gốc Tàu. Mộng Điệp ở đường Graffeille, số 7, Dalat. Và Gernie bà Tàu lai Pháp.
Ba Đan nhìn thấy "lịch sử kinh dị" từ trước đời vua Gia Long đến đây, không mong gì hơn, là cho Đan du học, tránh xa cảnh đau lòng.
Đan đưa Nữ xem những tấm ảnh, chụp thắng cảnh Kinh Thành ánh sáng Ba Lê. Bà con anh em trong Hoàng tộc. Tuy nhiên anh chỉ thích ngắm nhìn bức danh hoạ lừng danh Leonardo de Vinci vẽ Mona Lisa, người đàn bà anh thư tuyệt vời, nhưng kín đáo, khó hiểu bên trời Tây.
Tựu trung, Đan chỉ nói với Nữ những chuyện từ đời... ông cố lũy, chuyện tào lao xịt bộp. Tuyệt đối anh không hàn huyên tâm sự chuyện tình riêng, hay thân mật ngọt ngào hơn. Anh xem Nữ như nghĩa tương giao. Mặc dù vậy, Nữ yêu thầm trộm nhớ Đan, đến rã rời héo hon. Nàng muốn chinh phục anh bằng mọi cách.
Khổ một điều, hình như Đan không lưu tâm đến mình, Nữ không là đối tượng của anh. Đồng thời Nữ cũng mến yêu Thắng, Quân. Không biết như vậy nàng có đa tình, lãng mạn, bậy bạ lắm không? Chỉ có một trái tim, mà chứa hai ba bóng hình?
Không có cách gì quyến rủ thu hút họ, Nữ đâm ra tức giận, ghét Hoài, tên thật của mình thật xí. Còn tên thật con “qủy xứ" đó, nghe chi mà ngứa tai, cái gì mà Hương Hoài? Ủa, cả biển nước mắt khóc đầy vì nó, hay là nó khóc nhớ ai thành biển khói hương hoài? Cầu cho nó khóc ai, nước mắt thành sông thành biển đi. Hèn gì cả đại dương bao la, cũng rì rầm sóng vỗ đêm ngày vì... si nó.
Con nhỏ nầy có cái gì hơn ta nào? Nó thật thà ngố ngáo, lù đù quê một cục, quê mùa hết chỗ nói. Nếu Nữ không muốn xỉ vào mặt nó mà nói:
- Mi cù lần số một. Trong khi tau đẹp thua kém chi mi, tau ăn nói có duyên, khôn khéo, từng trãi, có kiến thức sâu rộng ngang ngữa mi. Mi tú tài đôi, thì tau tú tài toàn chứ bộ!
Không hiểu mấy tên đàn ông, mê con nhỏ cái nỗi gì, mà ngẩn ngơ, bơ phờ, hốc hác hết trọi vậy? Nữ thấy Đan thật dễ thương, lúc nào cũng trầm tư, ung dung, đứng đắn và nhã nhặn. Đan khác Thắng. Thắng nhanh nhẹn vui tươi, hồn nhiên và lém lỉnh.
Trong giờ làm việc, bạn bè dốc toàn lực vào đó. Họ ít nói, lầm lì, mệt nhọc với giọt mồ hôi đọng bụi đường bẩn thỉu. Công việc giải quyết nhanh chóng. Toàn ban đứng phắt dậy. Đầu đội nón sắt, nai nịt gọn gàng. Chân mang giày saut, áo quần đồng mầu. Ba lô nặng trĩu mập ú sau lưng. Họ chạy ra bãi đậu xe leo lên. Xe GMC từ từ rồ máy. Vài anh chậm chạp lon ton chạy theo. Miệng la ơi ới, tay ngoắt lia liạ, nói câu chọc ghẹo nhau, bông đùa:
- Chờ tui ga guộng dới. Tui lấy bâu, đựng gậu nấu en, ren?
- Định bỏ rơi tôi lại với ai đây? Ở với bầy khỉ à?
- Cho tui ngó ông đi goa, boà đi lợi, chớ có mô khét khe, dzậy cà.
Thế đấy! Dù đi với đồng đội đến vùng trời xa xôi, hẻo lánh gần đầu đạn mũi tên, chết chóc không biết sẽ đến lúc nào. Vậy mà họ tươi cười, cố bám theo. Mấy anh ngồi trên xe chồm xuống giơ tay ra đón chụp, kéo bạn lên. Anh lính cười thoải mái, thân hình đeo lủng lẳng trên thành cửa, lắc lư như chú khỉ chuyền cành. Cây súng va lách cách vào băng đạn. Cái bi đông nước lắc qua lắc lại, dưới quai đeo sờn uá, rách lỗ chỗ. Bên doanh trại lộng gió và đầy sa mù, là tiếng quát hỏi dõng dạc:
- Ai đó. Yêu cầu đứng lại. Vui lòng trình giấy tờ.
Nhiều tiếng nổ ầm ì vang vọng từng hồi như dịp sấm. Lửa tóe ra trên đầu như vì sao băng đổi ngôi. Bià rừng hiu quạnh, có tiếng vạc vỗ cánh lạnh lùng đi ăn đêm, vọng vào căn lều ẩm lạnh. Trưởng Phòng nhắc nhở anh em phải cẩn thận, dò dẫm từng bước đi. Ở vùng nầy thường bị đắp mô, phá hoại, gài mìn, ném lựu đạn.
Người Lính muôn đời Lục Quân Việt Nam truy tầm "chuột nhắt" mỗi ngày, mỗi giờ. Phải hy sinh trong muôn vàn hy sinh to lớn kinh khủng. Sau loạt B 40 và Bêta. Nhiều tiếng hoả tiễn xè xè vút vút bay, rồi từng chuỗi nổ dồn dập rền rền.
Mắt họ nổi đom đóm. Đầu choáng váng, đinh tai nhức óc. Ngực tức đến độ muốn ói máu. Những chòm râu tua tủa quanh hàm, đựng đứng lên. Hai hàm răng nghiến trèo trẹo, kẻ răng rít lên từng tiếng thở hổn hển dập dồn.
Người Lính luôn nằm gai nếm mật, ăn bờ ngủ bụi. Nếu có được cái giao thông hào ẩm lạnh trú chân là may. Họ chụm đầu cúi mặt, chia nhau từng vụn thuốc nhỏ, hai bàn tay khum khum che đóm lửa, không cho ánh sáng thoát ra ngoài. Họ hít hít từng hơi thuốc. Tình đồng đội vào những giây phút tột cùng hiểm nguy, thật vô cùng trân quý. Cảm động đến chảy nước mắt. Cực khổ quá chừng! Ôi! Đời lính vô cùng xót xa và bạc đãi!
Cuộc sống Người Lính Chiến nằm gai nếm mật là thế! Là những ngọn nến trong muôn triệu ngọn nến đời, tự tay người Lính đốt lên. Và, cuộc sống gian truân, phải là sự hy sinh, chấp nhận vẹn toàn cho tha nhân. Chấp nhận vẹn toàn!
Hơn một tuần trôi qua tốt đẹp, cho đến một hôm Đoàn làm việc xa Tiểu Khu. Nữ băn khoăn thấp thỏm, lo lắng muộn phiền, nhớ nhung ngập lòng. Nàng gọi phone kể Thắng nghe nỗi buồn thương ray rứt và hỏi: ..."Có phải em đã yêu người lính phong trần, nơi ngàn chốn sơn khê Minh Long rồi không ?". Nữ dám hỏi Thắng câu đó. Kể cũng lạ!
Nhóm tiếp liệu trợ y của Nữ lên đường, khi sương ướt đẫm cỏ cây. Bầu trời chìm đắm trong khí lạnh mùa xuân ve vuốt ban mai, ẩm ướt giá lạnh và buồn bã vô vàn. Duy có hình ảnh đáng nhớ nhất, trong lần tiễn đưa giờ phút đầu tiên, trên lưng đồi ngập tràn gió lạnh sương mai: Khuôn mặt đẹp, dáng dấp oai hùng, phong sương, trầm tư và chững chạc.
Gió sớm thổi phồng lưng áo trận bạc màu, đôi giày đinh lấm lem bụi đỏ, khi Đan đứng trên thềm doanh trại, đầu đội mũ sắt, một tay anh cầm ca nước nóng đưa cho Hoài uống. Một tay Đan chống ngang hông, phiá sau trại tù (nay có lẽ bỏ hoang) từ thời Pháp thuộc, là đỉnh Núi Thần Phong, và dòng suối bạc uốn khúc lấp lánh xa xa, ẩn hiện dưới tàng cây um tùm lá.
Hình ảnh đó, khiến Nữ gợi nhớ đến Thái Tử Đan nước Yến, (dùng Kinh Kha như con cờ) với chung rượu quan hà. Thái Tử Đan tiễn đưa Kinh Kha quê nước Vệ, sang bên bờ Dịch Thủy. Theo kế của lương sư Điền Quan tiên sinh, Kinh Kha mang sứ mạng giết bạo Chúa Tần Thủy Hoàng, cứu lục quốc. Bạo chúa Tần Thủy Hoàng đốt sách chôn học trò, độc ác vô song. Ông mê tiếng đàn tuyệt vời của Cao Tiện Ly, mà vẫn ác tâm chọc mù đôi mắt người ca sĩ.
Tráng sĩ Kinh Kha đệ nhất kiếm tuyệt luân, khí khái phi phàm, một lòng trung quân ái quốc. Kinh Kha có người yêu đúc Lũ Tuấn kiếm, cô hy sinh tình yêu, để Kinh Kha quyết tâm ra đi, mưu cầu việc lớn cho Quốc Gia đại cuộc.
Còn Nữ? Chẳng có gì! Chẳng được gì tất cả, ngoài nỗi cô đơn kinh hoàng, giữa khói lửa chiến tranh tàn khốc, phủ chụp xuống góc trời, và riêng góc đời mình.
Nhìn Đan và Hoài, đứng trên thềm doanh trại từ giã nhau. Bỗng dưng Nữ bừng nhớ quắt quay, vì... "người ấy" đã xa tôi rồi.
*
Ưu Du
_ * _

Ái Ưu Du
#13 Posted : Sunday, September 17, 2006 5:55:17 PM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

TÌNH GIA TỘC

Khi ngọn đồi còn ẩn hiện dưới làn sương mờ mờ đục. Ngày ngày bốn chị em thả bộ vào rừng hái sim ăn thỏa thích. Trái sim no tròn mọng chín, ngọt lịm thơm phức, họ hái say sưa, ăn đã đời, môi người nào người đó tím ngắt, cổ họng rát bỏng, khô khé. Có ngày họ xuống thăm ruộng nhà, hái dưa gan ruột đỏ au, thật ngọt và dòn chắc, ăn vào đâu mát đến đó.
Lúa mới trổ đòng đòng xanh mởn mượt mà, đan kết lại với nhau thành tấm nệm nhung óng ánh, nhấp nhô sóng lúa rì rào khi gió lùa qua, trông đẹp vô cùng. Ớt chín rộ đỏ rực cả khu vườn rau, nhân công mồ hôi đầy lưng thu hoạch suốt tuần, phơi ớt giã thành bột. Ớt cay nóng, người ta hách xì, nước mắt nước mũi tha hồ chảy, trông thật ngao ngán. Vườn rau không kịp hái, cải úa vàng trên luống, mặc đàn gà năm ba chục con tha hồ bới móc.
Đêm đêm anh Thương, anh Thuyền đi săn thú rừng, thịt rừng ăn thật ngon. Cánh phụ nữ đi lưới cá rất vui. Đủ mọi thứ cá, tôm tươi ngon nhảy tưng tưng trong lưới. Cả nhà rủ nhau đi đặt lờ chơm cá trê, cá lóc, lươn, ếch. Gia đình có đủ mọi thứ ngon lành. Khi thời cơ đến công việc làm ăn thuận lợi phát triển đều đều như nước chảy xuôi, mua bán tấp nập. Nhà phát tài kinh khủng. Ba biết thích ứng với cuộc sống mới, có óc sáng tạo, có kế hoạch làm ăn chu đáo. Mùa màng trúng lớn, kho vựa đầy ngũ cốc. Cha mẹ dư tiền mua năm con trâu, hai chục con bò Cam Lộ. Người chủ chỉ bán cả bầy ba mươi chín con. Ba phải làm giấy vay tiền ông cố mua thêm bò. Cuộc sống gia đình Út, khá an thái thanh bình, dưới lũy tre xanh bao bọc được bao năm.
Cha mẹ bỏ làng quê xa xôi đầy tai biến chiến chinh, vào miệt Mỹ Chánh mua đất khai hoang, Vết hằn sâu trên trán như đường cày đã tố khổ nhiều tháng năm lao đao lận đận. Út chợt nhớ cảnh vườn quê mới, bóng dáng cha mẹ già nua thấp thoáng sau bụi chuối vườn tiêu, chăm bón từng vồng khoai nương sắn. Cây mít bên góc nhà có ríu rít chuồng chim bồ câu sơn xanh sơn đỏ ? Cả chuồng cúc cu gù gáy bao mùa mưa nắng?
Chị Sáu Huyền nuôi khoảng năm mươi con gà, lúa ở trong kho, chị lấy ra vãi đầy sân, cho gà ăn thoải mái. Cứ vài ba ngày chị làm thịt một con gà mái tơ, cho con chị ăn. Chị sống vị kỷ nên mấy em út không ưa. Vài lần, chờ chị bưng thau quần áo xuống sông Như Lệ tắm, giặt rất lâu. Ở trên nhà nầy, chị hách nấu sẵn nồi nước sôi, anh Thuyền lo đi bắt gà, cắt cổ nhổ lông. Út nhỏ xíu đứng dưới giàn hoa thiên lý, canh chừng chi Sáu Huyền lên chưa. Ba chị em luộc gà vừa chín tới, chắm muối tiêu, ăn ngon lành. Chị em Út ghét tính chị Sáu vị kỷ, chứ không phải thèm khát gì. chỉ biết có mình và chồng con, mặc dù ở chung nhà, cơm nước cha mẹ nuôi, mà chị còn phân biệt đối xử như vậy!
Chị Huyền nấu ăn ngon cở nhà hàng Hồng Kông. Tính tình chị nhẫn nha, từ tốn điềm đạm thành chậm chạp, không nghiêm khắt như chị Tư. Duy có điều chị nói chuyện dai như đỉa. Một chuyện vui buồn nào, chị nhắc đi nhắc lại hoài. Út vui lây hoặc buồn lây vì chuyện của chị. Chị luôn trách cha mẹ, đã nài ép duyên, khiến đời chị trôi nổi rày đây mai đó, khi lên voi lúc xuống chó.
Bây giờ chị đang lên voi, vòng vàng xuyến nhẫn, đeo trên người năm bảy lượng, của chìm của tư không kể. Nhưng trách chị vẫn cứ trách, chị vô cùng tiếc nuối về mối tình đầu:
Chị và anh Cư yêu nhau âm thầm kín đáo, không ai biết suốt bốn năm trời. Bỗng một hôm cha mẹ biết, ngăn cản chị quyết liệt. (Bởi vì, trước khi yêu chị Năm, anh Cư đi hỏi vợ là chị Hồng, làm rể với gia đình cậu ruột, anh của mẹ. Sau đó, cả gia đình cậu từ hôn, vì anh Cư rất cà tửng, bốc đồng không chịu nỗi, có dòng máu điên điên).
Buồn tình và thất vọng tràn trề, anh rời thôn làng nơi đã chém nhát dao đầu tiên vào bờ ngực phải tươi vết máu. Anh Cư đi Dalat lập nghiệp, ban đầu làm công cho ông Đội Có giàu nhất nhì ở Dalat. Anh trồng hoa tươi, theo xe đò đem hoa về Saigon bỏ mối bán cho các sạp hoa ở đường Charner. Anh săn sóc cẩn thận mấy con chó bẹc rê, theo chủ đi bán giá rất cao cho khách xộp. Thỉnh thoảng anh Cư diện bộ complet tân thời, áo popeline trắng, quần polyester trắng, veston trắng, giày trắng, đầu chải tóc "tăng gô Si Noa" hai mái rẽ giữa với dầu brillantine láng coón, xức dầu thơm hiệu Charlie thơm phức.
Anh đến thăm gia đình o dượng Bộ Lại Thượng Thư, là em ruột của cô vợ hụt. Gia đình Hoài ân cần tiếp đón anh, như qúy khách. Do đi đây đi đó, tin tức nóng bỏng từ làng quê xa xôi, được anh chuyển đạt đến gia đình Hoài, từ khóm trúc bụi tre, cây đa đầu đình đến ruộng lúa nương khoai, bà con làng trên thôn dưới, từ ông A đến bà Z anh đều biết, kể rành mạch, đúng sự thật, không mảy may thiếu sót điều gì. Câu chuyện vui nổ dòn như bắp ran mỗi chiều thứ bảy, ngày chủ nhật. Anh ăn ở trong nhà như con cháu ruột.
Cha mẹ yêu thương anh, đáp ứng mọi nhu cầu vật chất và tinh thần gia tộc, ngoại trừ việc anh Cư yêu chị Sáu, cha mẹ nói dù anh Cư không thành chồng của chị Hồng, cũng xem như con rể nhà cậu, không lý chi thành duyên với con mình. Cha mẹ quyết liệt ngăn cản, không chấp nhận dù bất cứ giá nào. Trong gia đình họp khẩn, thông báo anh Cư biết, yêu cầu anh đoạn giao với chị Năm, đồng thời ngăn cấm chị Năm triệt để.
Một lần nữa thêm nhát dao chém trên bờ ngực trái của anh, lần nầy xoáy sâu vào con tim dại khờ vì yêu, buồn tình đau khổ và thất vọng, khiến anh như cái xác không hồn bỏ ăn bỏ ngủ, đi lang thang thất thểu ca hát, rong chơi, như kẻ mộng du bất cần đời. Một anh Cư duyên dáng thị dân, với bộ áo quần tây trắng nõn, là ủi thẳng nếp cao sang ngày xưa, nay trở thành một ông hề, ca hát không có tiền, lố bịch, khiến người khác sợ, với bộ đồ cháo lòng nhàu nát, hôi hám và tơi tả.
Cha mẹ đi tìm anh về, săn sóc thuốc men chu đáo, ở trên lầu ba. Thế mà, không hiểu sao, một hôm anh lẽn xuống lầu, tỉnh táo thu dọn ít đồ đạc cá nhân, chuồng đi biệt tích giang hồ lúc nào, không rỏ. Gia đình khổ công tìm kiếm anh, khắp mọi nơi. Nghe đồn anh bỏ vào chiến khu, không biết sống chết ra sao.
Chả hiểu chị Sáu có tiêm nhiễm dòng máu điên khùng của anh Cư không? Từ khi anh Cư biệt dạng, thì chị lầm lì ít nói ít cười, có người muốn đi bỏ trầu cau, dạm hỏi chị. Chị tự ý đi Saigon tìm kiếm anh Cư. Saigon rộng mênh mông như biển cả, làm sao tìm cho ra? Chị chưa biết Saigon ở đâu, mà dám bạo gan bạo phổi quá chừng. Sau vài tháng, chú Lý gửi thư cho biết, chị Sáu đang ở nhà chú. Ba tức tốc đi tìm chị về.
Đôi ba lần, chị làm lỗi hoặc cải lời cha mẹ, ba bắt chị nằm xuống ghế dài, lấy roi mây đánh chị. Chị gan lì, không hề khóc hay kêu rên, mặc dù tươm máu đít. Lần sau cùng cha đánh chị, Hoài lớn khôn, biết chút ít. Gần kề ngày cưới, anh chị lên nhà thờ, chị giở quẻ không chịu. Ba giận vì chị không muốn, sao không nói trước. Đến ngày, thiệp mời đã gửi đi, tiệc tùng bày biện. Cha mẹ biết ăn nói sao với họ hàng, làng nước? Ngày cưới chị, là ngày đưa tang khối tình sầu, chôn sâu xuống tuyền đài, mọi người bắt chị nghỉ tu.
Anh Thương khổ sở vô cùng, không hiểu vì sao chị không ưa anh, trong khi anh vô tư, hiền lành, chuyên cần chăm chỉ, nhờ vẻ ngăm ngăm đen, anh đẹp trai vì mũi cao, miệng rộng, răng trắng, nhất là nụ cười tươi, vui vẻ hoạt bát. Anh được lòng tất cả mọi người. Chỉ có tội anh ít học. Tuy vậy, anh chịu khó đi học thêm Bình Dân Học Vụ. Có mấy cô ở lứa tuổi chị, mê anh tít thò lò. Thế mà chị Sáu bị đòn, vì không ưa anh. Thế mới biết trái tim có lý lẽ riêng.
Bây giờ, mỗi mùa hè, gia đình chị thường đi biển hóng gió, picnic cho các con tự do thoải mái nô đùa ngoài thiên nhiên. Ngồi trên bãi cát vàng nhìn ra cửa biển Mỹ Khê, lòng Út bâng khuâng, ưu phiền vô hạn, khi thấy người đông như kiến, thoải mái tung tăng chạy nhảy nô đùa trên sóng nước. Trai gái dập dìu sánh bước bên nhau, hồn nhiên cười nói ồn ào, như chỗ không người.
Đi hóng biển nhìn người khác tắm thì thích, duy có điều bắt Út phơi bày thân thể, một phần kín ba phần hở ra giữa ban ngày ban mặt, chắc là ngượng ngùng chết. Ai chê Út cù lần, quê mùa, không có óc cầu tiến, thiếu thẩm mỹ nghệ thuật. Út công nhận, nhưng, bảo Út tắm sông tắm biển (vả lại mình có biết bơi đâu mà ham. Nàng xin chịu thôi.
Út thường dõi đôi mắt nhìn theo muôn cánh chim biển bay lượn trên vách núi, vào buổi hoàng hôn dần tắt ở đường chân trời. Chúng bay chụm lại khi tản mỏng ra rồi bay thành hàng dọc, hoặc ngoằn ngoèo như muôn sợi tơ bỗng chốc nở xoè ra như bông hoa trời, chúng vẽ đường bay lả lướt bay bướm vô cùng như những chàng phi công lão luyện trong bầu trời thênh thanh.
Chúng lao xuống nước rồi vút lên cao chớp mắt trông thật ngoạn mục, miệng không ngớt ríu rít gọi đàn, phát ra tiếng hót chiêm chiếp lanh lãnh trầm bỗng, hòa cùng tiếng sóng vỗ ầm ầm, tiếng gió reo bên hàng thùy dương. Tiếng quà bánh rao bán hàng bánh trái, bán hột vịt lộn, bánh bò, bánh mì nóng, mía xâu, chè đá lạnh, đậu phộng rang, tiếng chuông cà rem lắc leng keng, tạo thành một âm thanh sống động, dập dồn, không ngớt hào hùng, cuồng quay và dữ dội.
Út nghe người ta nói bồ câu và yến là loài chim thông minh, biết yêu trọng gia đình và chung thủy nhất. Vào độ đầu thu, yến lấy lông tơ, nước miếng và thứ rong biển mịn, để xây tổ, trên khe vách đá cao cheo leo. Thường bị người ta dựng thang tre, cao vài chục mét, lấy tổ, đem về nấu ăn rất bổ phổi và hiếm qúy. Chúng cặm cụi xây lại, dù bị mất luôn luôn, không tổ, chẳng có con, nước bọt đã khô cạn trong hơi tàn kiệt sức. Vợ chồng yến không thiết ăn uống, bay lượn trên không suốt ngày, rồi bất thần đập đầu vào vách đá, chết tươi.
Có ba loại tổ: Tốt nhất là yến trắng, có dây tơ như tế nhân ngư. Yến vàng có chỉ hồng. Yến đen không bằng hai loại trên. Ở Việt Nam có loại yến quý mang tên Aerodramus Fuciphagus. Thế là các tay săn bắt chim, gỡ tổ, lại có dịp gỡ yến nhặt về, cho thiên hạ ăn nhậu thỏa thuê. Ôi loài yến sao biết yêu thương gia đình, thủy chung và tội nghiệp đến thế!
Suốt mười ngày, gia tộc họp mặt đông đủ tại nhà cậu ấm Cửu Ổn. Không bút mực nào tả hết nỗi đau thương tiếc nhớ cậu vào giờ phút lâm chung. Cậu ra đi êm đềm an thái, không buồn quay lại thế trần. Chị Sao đôi mắt sưng vù, khóc khàn cổ ngất xỉu mấy lần bên quan tài cha. Đám tang cậu lớn kinh khủng! Mỗi ngày mợ làm một con heo. Ngày đưa đám cậu, mợ làm một trâu, một bò, một heo, gà vịt ê hề. Bà con làng nước họ hàng đông như kiến.
*

Ưu Du
_ * _

Ái Ưu Du
#14 Posted : Monday, September 18, 2006 4:35:45 PM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

NGƯỜI ANH PHONG SƯƠNG

Thắng hiên ngang oai hùng, đẹp trai trong bộ quân phục màu vàng ka ki, cà vạt đen, găng tay trắng, mũ két cầm tay, giày đen, giây biểu chương màu tam hợp, móc bên gù vai. Anh đến nhà đón Hoài đi dự Lễ Giỗ Tổ Hùng Vương.
Không phải là chờ xem buổi Đại Lễ long trọng, mà Hoài cùng dân chúng dám bất bình, la ó om sòm, vì trải qua ba giờ mỏi mệt, khó chịu dưới ánh mặt trời nắng chang chang, thì thật là hỗn láo, kỳ thị và bất công.
Nhất là khi ông Mỹ tên Timothy làm trưởng đoàn cố vấn. Đại tá Tư Lệnh Sư Đoàn có Cố Vấn William là quan khách ngoại quốc danh dự đầu tiên đến Việt Nam, được mời tham dự, thị sát, hầu thực hiện việc yểm trợ, tiếp liệu các nhu yếu của Mỹ Quốc Viện Trợ, trong việc thực hiện chương trình tay bắt tay "hoà hảo mật thiết". Cờ Mỹ tung bay, năm mươi ngôi sao lấp lánh, có mười ba sọc, gồm sáu trắng bảy đỏ, nền xanh biển, in trên hầu hết các nhu yếu phẩm từ Mỹ chuyển về xứ ta.
Đó là những kinh viện và quân viện, là một nhu cầu chính trị, thực hiện giai đoạn then chốt đầu tiên. Mỹ giàu thật! Họ đã bay đi viện trợ khắp bốn phương trời. Kể cả nước nghèo và chậm tiến ở bên bờ đại dương nầy, cũng được Mỹ ưu ái nhìn đến. Không hiểu họ có muốn đổi chác, dòm ngó gì, hay không kỳ vọng mảy may?! Mà chỉ muốn hào phóng cho đi tất cả?
Tỉnh Thị Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng, lo hành chánh và quân sự. Các vị hành pháp, tư pháp mũ mão cân đai chỉnh tề, đi sau vị chủ toạ, kèm bên qúy phu nhân, kiêu sa, đài các, vòng vàng sáng chói, quần áo thơm tho rực rỡ muôn màu. Thì đám dân ngu khu đen dưới nầy trơ mắt ếch, thộn ra nhìn, như kỳ lân đá. Từng đôi một tiến lên khán đài, trịnh trọng trang nghiêm. Người xướng ngôn viên xưng danh các vị, trên khán đài vụt đứng dậy hăng hái vỗ tay hoài, khi quốc thiều và quốc kỳ kéo lên, họ mới đứng yên.
Đám dân gian vỗ tay rời rạc, lổng chổng, vang lên lẻ tẻ nhiều nơi. Họ vỗ tay không nhiệt tình, mà vì bổn phận, thì đúng hơn. Qúy phu quân kiêu hùng oai dũng hiên ngang với tài danh lẫy lừng, nhưng các qúy phu nhân không là gì, ngoài dựa hơi hám vai vế của chồng, một bước nhảy tót trên sàng danh vọng. Mặt họ hếch lên, dương dương tự đắt tự phụ hơn. Bọn cơ hội, đón gió trở cờ, tham ô, lợi dụng và lạm dụng, đút lót qúy phu nhân. Không mất thì giờ móc nối, chụp giựt, cầu thân, "hùm chết để da, người ta chết để tiếng" mà.
Khán giả tha hồ chỉ chỏ, nói chuyện bàn tán lộ liễu và bất lịch sự, lấn ác tiếng người xướng ngôn viên gào lên, trong máy phóng thanh 100 watl đặt trên nhiều cột điện cao thế. Buổi lễ long trọng, càng kéo dài, như bất cứ buổi lễ nào khác.
Đầu bù tóc rối, áo quần bám bụi vàng, mặt mày mệt mỏi hốc hác; đồng bào bơ phờ chán ngán, vội vàng thở phào, như trút gánh nặng đè vai, vội vã ra về. Tiện cùng một đường đi, Thắng mời Hoài rẽ qua nhà.
Thắng ở chung với bốn anh bạn độc thân vui tính, căn nhà đủ tiện nghi, vui vẻ đầy tiếng cười rộn rã. Thảo nào ngày cuối năm, hai anh đi sắm đồ dùng có năm màu khác nhau. Họ bàn tán về hai phi công Việt Nam: Phạm Phú Quốc và Nguyễn văn Cử, đã ném bom bắn cháy Dinh Độc Lập, vào hôm tháng 2 năm l962. Khiến gia đình Ngô Tổng Thống phải dời sang Dinh Gia Long an vị, chờ kiến thiết lại. Nghe đâu bản vẽ Dinh Độc Lập sẽ tu chỉnh, do đồ án của Kiến Trúc sư Ngô Viết Thụ, đoạt giải Khôi Nguyên La Mã đảm nhiệm. Chuyện dội bom gây xôn xao, rúng động dư luận trong nước và ngoại quốc, ảnh hưởng khá nhiều về mặt chính trị, ngoại giao, kinh tế, nhất là đời sống dân cư an lành bỗng chốc kinh dị. Chả hiểu vì sao.
Thấy Thắng về với bạn, họ tế nhị chuyễn đề tài, niềm nở tiếp chào Hoài. Sau khi giới thiệu nàng với bạn bè ở chung nhà, Thắng nói:
- Mời Hoài ngồi, anh thay bộ quần áo nặng nề, rồi ra ngay. Xin lỗi!
- Anh cứ tự nhiên.
Năm chàng độc thân, có anh Lê Tiến đỉnh đạt nhất, về tuổi tác, cũng như về binh nghiệp: Thiếu tá Nhảy Dù, ba mươi sáu tuổi. Tuy thế anh còn nét trẻ trung, vui tính. Kế đến là anh Vương Gia Tùng: Y sĩ Quân Y. Anh Nguyễn Kháng Chiến: Đại úy Biệt Động Quân. Anh Đào Ngũ Quang: Trung úy Thủy Quân Lục Chiến. Sau rốt là Thiếu úy Đinh Toàn Thắng, hai mươi mốt tuổi.
Anh Tiến trêu chọc anh Tùng:
- Hoài biết không! Anh thích làm nghề mỗ xẻ tim gan phèo phổi. Không phải nghề mỗ xẻ, như Bác Sĩ Tùng nhà ta. Mà anh í hả! Anh thích mỗ thịt bò, thịt heo, thịt ngựa, lấy bộ ruột non, ruột già kia.
- Để làm gì cha nội? Ngửi thì hôi, nhìn thì ghê quá.
- Ấy. Sao “toa” nóng quá vậy hở Quang? Để yên “moa” nói tiếp nào. Chưa gì nó đã nhảy phóc dzô miệng mình. Còn hứng thú đâu, mà kể chuyện tiếp. Moa không thèm nói chuyện tiếp, thì Quang có bổn-phận-sự, trách-nhiệm-vụ, trình bày cho các bạn nghe: Tại sao toa đi lính!? Sao mỗi lần nhận thư nhà, toa khóc như mưa thế?
Quang pha ly chanh đá mời Hoài, ngồi trên ghế nệm bên các bạn. Quang và Thắng cùng đi lượn phố Tết, mà Hoài thường biết mặt. Anh phát một cử chỉ, cười đùa:
- Á à à! Chả vì lúc đó “moa” lười học, ăn chơi lêu lổng. Hoang đàng chi điạ. Đếch có tấm bằng nào, dù tuổi hai mươi. Moa ở nhà đeo bố mẹ, trốn chui trốn nhủi như con dế mèn, trong cái lu, dấu kín ở góc phòng tối, luyện "Tịch Tà Kiếm Phổ". Mẹ kiếp! Cảnh Sát nắm tóc lôi lên, hỏi cung tới tấp:
- Anh yêu đồng bào, yêu Nước, yêu gia đình, yêu lính tráng không?
- Có.
- Anh sẵn sàng đoàn kết, hy sinh, không?
- Rất sẵn sàng.
- Hãy chuẩn bị đi lính.
- Không.
- Tại sao? Anh nói rằng anh yêu Nước. Anh sẵn sàng hy sinh mà?
- Tôi vãi vào đấy cơ man nước tiểu. Nó khiến tôi thân bại danh liệt rồi. Còn đâu.
- Đừng có gà mờ, ấm ớ hội tề mí tôi, không được. Tôi hỏi anh yêu Nước không? Chữ Nước viết hoa. Có nghĩa là Tổ Quốc, Đất Nước. Quê Hương, chứ không phải là nước uống hay nước đái. Anh nghe ra chửa?
- Ô! Nói nghe hay đáo để! Tôi mà không yêu Nước à! Có điều tôi chán ghét. Họ không đùm bọc yêu thương nhau, mà thù hận, giết chóc. Tôi không tham dự cuộc chiến. Thế thôi.
- Bây giờ, tôi mời anh đi.
- Đi đâu?
- Đi lính.
- Đi thì đi. Chứ sợ gì ai!
- Chúng nghĩ moa ngông cuồng, hay thần kinh bất ổn, cho ngay con số tám vào hai cườm tay, kêu cái cộp. Đau điếng, khiến moa tỉnh hẳn người. Bố kiếp! Thiên la địa võng ơi, phen nầy hết giả đò thương tật, chân không đi điệu tango rồi. Còn sung sướng chán. Hơn cả Đường Minh Hoàng bên Tàu, hơn Gia Long, Tự Đức. Các cậu biết tại sao!? Giờ ăn cơm có người đem tận chỗ. Giờ đi cầu, có lính ôm súng gát. Giờ ngủ có lính đổi canh. Đó chính là Đào Ngũ Quang, mà bố mẹ ưu ái đặt tên cho. Ấy mà! Sự thực moa đếch cần đào ngũ đâu nhe. Bởi nhẽ là moa rất yêu mến đồng đội, và đoàn kết chiến đấu, một lòng trung quân ái quốc. Mong thăng cấp như thằng Chiến bạn nối khố. Về việc khóc hu hu, đơn giản thôi, moa đa tình, nhớ quê hương, nhớ bố mẹ anh em, và cô bồ nho nhỏ ở phương xa. Không được đấy phổng?
Họ cười ha hả. Quang muốn nhảy dựng lên, chơi giựt nổi với đời, muốn mình là cái đinh, là cái rốn của vũ trụ. Anh thích nổ những pha ghê hồn, không bùi tai, không đẹp mắt, không lé mắt, thì không ăn tiền. Không nổi, thì đời kém vui. Lạ lùng thay, đến nay anh đã "thành nhân chi mỹ", nhất là về mặt giao tế, lịch lãm, và văn chương. Anh là giáo sư anh văn trong Sư Đoàn, là điều Hoài rất ngạc nhiên cho một võ biền.
Tùng chuyền gói thuốc Quân Tiếp Vụ đến các bạn, thở từng hơi thuốc vặt, nói:
- Quang chọc quê anh đó. Nhất là khi uống rượu thì phải biết, Quang uống rượu rất chì. Rượu xịn mà “vô mỏ, vô cơ”, đã điếu rồi, nói hết sẫy. Hoài đừng tin.
- Dạ. Em biết. Ảnh lém lắm.
Trong phòng bỗng chốc lặng như tờ. Quang có cảm tưởng các bạn đang nghĩ về chuyện chàng kể, nửa đúng nửa sai vừa qua. Anh biết hối hận về ngày cũ đã lêu lổng. Lẽ ra anh là Đại úy rồi. Thời buổi nầy, không còn hàn sinh áo mão gánh gạo lên Tỉnh, thi Hội, thi Đình. Người trai hôm nay phải có hoài bão, ý chí, lập trường, kiên cường, có lý tưởng cùng vốn kiến thức sâu rộng, để tự vươn lên với đời đích thực hơn.
Thắng bước ra phòng trong bộ pirama màu kem viền sọc xanh, trông anh trẻ trung tươi mát, như một bạch diện thư sinh. Anh cười nói:
- Trời ơi! Đoàn kết, kiểu anh Quang á hả; Đoàn kết là “đết còn” ấy.
Những anh lính chiến phong sương hoan hỉ cười vang. Vui vẻ. Trẻ trung hoà ái vô ngần.*

_ * _
Ái Ưu Du
#15 Posted : Saturday, September 23, 2006 7:11:51 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

ĐƯỜNG TRĂNG TỐ NỮ

Hơi thuốc thơm thoang thoảng bay bay, khiến phòng khách be bé gọn gàng, trong căn nhà nho nhỏ xinh xinh, có vẻ thanh lịch dễ thương hơn. Thắng ngồi bên chiếc đàn guitare đánh vài điệu. Trông anh phong lưu an hòa, khuôn mặt xinh trai bỏ lững tay đàn, thỉnh thoảng ngẩng lên, liếc mắt nhìn về phiá Hoài, qua làn khói nhạt vướng lại đôi mắt sáng ngời. Anh đá lông nheo, kèm theo nụ cười tinh nghịch, cử chỉ hoà ái, vui tươi.
Hoài nhìn sững chàng trai, mỉm cười như bị thôi miên. Cái nhìn không cho Thắng biết là sự vui tính, phong lưu, đẹp trai ấy, khiến nàng ngẩn ngơ phút giây hoài cảm. Hoài chớp mắt đáp lời thầm lặng, và ngưỡng phục.
- Hương Hoài biết bản nhạc nầy chứ!
Nàng dối Thắng, vờ lắc đầu nhè nhẹ, để nghe anh nói:
- Đấy là bản nhạc "Thu quyến rũ". Này nhé: Anh mong chờ... Hoài Hương... Ấy chết!
Thắng cười xinh xinh, anh ca tiếp: Anh mong chờ mùa thu. Trời đất kia ngã mầu xanh xanh lơ. Đàn bướm kia đùa vui bên muôn hoa. Bên những bông hồng đẹp tươi. Anh mong chờ mùa thu... Hoài thương quyến rũ anh rồi.
Khóe mắt Hoài khắc khoải ưu sầu, lóe sáng tia chớp hứng khởi, từng phiến u hoài rụng rơi, tim bừng lên niềm vui dịu dàng. Bao tin yêu dấu ái ngày xưa, sống dậy trong lòng. Tiếng hát ấm ngọt, dịu vợi, khuyấy động tâm hồn lắng đọng của Hoài, như con thiên nga huyên náo, khuấy đảo tưng bừng mặt nước đang yên ắng. Hoài thán phục và rụt rè trước mặt chàng trai, bởi vì anh khả ái, lịch lãm, vui tươi. Lúc nào Thắng cũng lộ vẻ hân hoan, khiến anh thêm hồn nhiên dễ thương.
- Cảm ơn anh đã gieo cho Hoài niềm tin.
- Hoài thiếu niềm tin, từ buổi anh thấy Hoài đứng tư lự, bên góc nhà thờ kìa.
- Ồ! Hoài trầm tư vậy a!
- Bởi nhẽ, anh có "tâm sự đau buồn" gần như thế.
- Em thấy anh lạc quan, yêu đời quá mà.
- Ấy! "Cười là tiếng khóc khô không lệ. Người ta cười những lúc quá chua cay", Hoài biết đấy. Có câu danh ngôn “Giữa quá khứ đã trốn tránh ta. Tương lai mà ta mù tịt. Chỉ có hiện tại gồm các bổn phận của ta”. Thế thì, bổn phận ta là vui vẻ, lạc quan, yêu đời, để tự vươn lên.
- Dạ phải.
- Hoài ngoan lắm. Nhớ hôm trước đi lễ, anh đứng gần Hoài ở cuối giáo đường. Em lo cầu nguyện, nào có hay. Không ngờ em cùng đạo mí anh đấy.
- Anh tếu thật, "Tứ hải giai Huynh, Đệ" mà.
- À há! Quả thực anh vô duyên bỏ xừ! Đừng buồn anh, cô bé nha.
- Ối dào. Hơi đâu buồn anh, cho mệt.
Thắng nghe Hoài nói "Hơi đâu buồn anh", thì đầu nghiêng nghiêng, mái tóc dài rung rung, bờ môi cong cong, mím mím, mỉm mỉm, thấy dễ mích lòng, dễ hờn nhau, và dễ thương... ghê nơi. Thắng cười:
- Biết rồi. Chán ơi là chán.
Tiếng đàn xưa như rót về từng phiến u hoài, ngân vang trong lòng. Ngọn lửa tình nồng nhiệt còn bí mật âm ỉ cháy. Dĩ vãng xa xôi hiện ra, như dòng sông phủ sương mờ nhòa, bao chua xót vỗ sóng âm thầm, làm nhăn mặt nước.
- Xị mặt ra rồi. Cấm không buồn à nha.
- Dạ. Ông tướng ơi.
Thắng lặng người mất vài giây thân ái, nhìn Hoài, mỉm nụ cười duyên, chiếc răng khểnh tinh nghịch lú ra khỏi vành môi phớt hồng, như trêu ghẹo nàng. Anh móc đàn trên đinh treo, Thắng quay nhìn đám lá me bay bay ngoài khung cửa sổ, hững hờ đáp nhẹ xuống bên bờ giếng.
Sau kỳ trúng thi tuyển, trở thành Hoa Hậu, Hoài được mời vào làm việc tại Phòng 5 Tâm Lý Chiến, trực thuộc Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 2, đặt tại Sơn Trà, cùng Sư Đoàn với Thắng. Trong Sư-đoàn nầy có Ban 1 quân số. Ban 2 an ninh. Ban 3 hành quân. Ban 4 tiếp vụ. Ban 5. Do đó, đôi khi có việc, họ cần hổ trợ và bổ xung cho nhau.
Hoài yêu màu tím. Thế nên, từ áo dài, áo lạnh, khăn quàng, bít tất, giày, đều “tím “tông xuyệt tông”. Khi lên sân khấu diễn kịch, ca hát, Hoài lại tô mí mắt màu tím, môi son tím. Trông lãng mạn, đa tình, mơ màng, và buồn rười rượi. Mặc dù Hoài vẫn biết: “Chí lớn trong thiên hạ, không đựng đầy trong vị rượu qúy. Không đựng đầy trong đơi mắt giai nhân”
Ban Văn nghệ do trung úy Phước làm Trưởng phòng. Thượng sĩ Cương là Trưởng ban Văn nghệ. Trung sĩ Nhất Thái là Phó ban, có sáu Nữ và mười hai Nam. Năm cô làm chung với Hoài mười bảy tuổi là: Thanh Trúc mười chín tuổi. Lan Anh hai ba tuổi. Thu Hoa, Mai Hồng hai mươi lăm tuổi. Thu Hương ba hai tuổi. Hoài là em Út của Sư Đoàn. Về kinh nghiệm, công việc, tài năng và tuổi đời, Hoài thua hẳn đàn anh, đàn chị.
Hoài kết thân với Trúc, là một thiếu nữ xuân-thì, khá xinh đẹp, duyên dáng và tài hoa. Trúc là cháu của Đại Tá. Nàng đi làm có tài xế đưa đi đón về. Cuộc sống khá thoải mái về vật chất. Tinh thần Trúc có phần hạn hẹp. Muốn bảo vệ uy danh cậu, Trúc phải đi thưa về trình. Khi cậu đi hành quân vắng nhà, Trúc qua mặt mợ vù vù, vì mối đa tình, và cuộc sống tình cảm khá sôi nổi, lăng nhăng của cô.
Có phải Trúc là "nữ châm" không, mà cứ như cục nam châm, hút trai trẻ hằng tá. Trúc hay nhờ Hoài đến cổng bấm chuông, gửi lính mang "Giấy mời Họp khẩn", xin phép mợ cho nàng vắng nhà. Sổ lồng rồi, Trúc tha hồ tung bay giữa bầu trời tự do, hẹn với bồ đi dạo phố du hí thoải mái. Đôi lúc cô cậu ngồi nhờ ở nhà chị Thương, nói chuyện cả buổi.
Phải nói rằng Trúc có nhiều ưu điểm nổi bật, làm mờ khuyết điểm, (mà cô gái đẹp thường có). Để kết thúc bức tranh Tố Nữ, Trời còn ban cho Trúc có giọng ca oanh vàng, làm say đắm biết bao người. Nhờ thân thế cậu, và ưu điểm, Trúc đặt mình ở ngôi vị cao hơn anh chị em cùng phòng.
Trong Ban muốn chiều ý Trúc, có thể không vì ý kiến Trúc đúng. Chỉ vì họ muốn nịnh Trúc, phòng xa khỏi bị đổi đến các vùng địa đầu giới tuyến, giữa lằn đạn mũi tên. Họ sợ việc làm của mình, sẽ đến tai ông Tá, đôi khi cô thêm mắm dặm muối thì nguy to. Tuy nhiên, Trúc có tính tốt, bao che anh em, không rảnh công đi mách chuyện đâu đâu, có hại cho đồng nghiệp.
Trúc rất cảm tình với bé Hoài khờ khạo, có chút kiến thức căn bản, ở nhà quê ra Tỉnh. Trúc thấy Hoài hiền như nai. Mọi công việc của Hoài, đều do Trúc chỉ dẫn lúc ban đầu. Anh Thái dặn Hoài “Nên chọn Thanh Trúc làm bạn”. Ý kiến hay.
Một buổi tối, các cô rủ nhau xuống dưới chân đồi, ra cổng, định ăn bún bò Huế tại quán bà Thi, ở bên cầu. Đến lưng chừng đồi (mà Hoài đặt tên là đồi TT2, có nghiã là hai anh chị Trúc, Trọng), trong mái nhà tiền chế, dùng làm Bệnh Xá khu hành quân, người ra kẻ vào vội vàng, khẩn thiết và im lặng. Tò mò, các cô rủ nhau vào xem.
Dưới ánh đèn vàng vọt, tù mù hắt ra. Một cảnh tượng bi thương hãi hùng phơi bày: Độ tám cái ghế bố. Thương binh chung 1 ghế bố, người nằm xuôi kẻ nằm ngược. Họ rên xiết, quặn quại, quắt queo. Vết thương lầy nhầy máu mủ, toả mùi hôi thối nồng nặc, khiến khứu giác nghẹt thở. Có người tay chân quờ quạng, đôi mắt thao láo. Người băng chân kẻ băng tay, băng đầu, vân vân...
Quá vào trong tí nửa, ba bác sĩ Quân Y, lo cấp cứu cho một thương binh bị đạn vào ruột. Thân hình anh ta bê bết máu. Mắt lạc thần, mặt xanh lè. Anh ta đau đớn gào lên, nghe rùng rợn kinh khủng. Mùi hôi tanh của máu khô, mùi creostote, alcoln, mùi cỏ ẩm, mùi thuốc súng khét lẹt.
Hoài thấy Huyền Nữ, cô y tá Trung-sĩ, (đã chính thức được áp triện son, con dấu có hàm ý phong cho cô là:
- “Ta đã vinh thăng, đừng có xớ rớ, đừng ì ra, đừng hòng lên mặt dạy đời. Ta không chịu nỗi”) mà các anh quân nhân thân thương, âu yếm gọi Nữ là Trung Tá Y Sĩ em)
Nữ thản nhiên, cầm trên tay bàn chân đẫm máu, của một người vừa bị cưa cụt, bọc trong nilông. Cô liệng nó vào thùng đựng rác bằng sắt, nghe kêu khô khan một cái "Đùng".
Hoài rùng mình, cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng, sự đau đớn, rên xiết não nuột, như tiếng hú từ Âm Ty đưa về. Cho Hoài trọn ý niệm kinh hoàng tột đỉnh, về cơn đau đớn kiếp người. Đến lúc này, không thể nào chịu đựng nỗi cảnh khủng khiếp rùng rợn đó, Không biết mình là ai, ai là mình, Hoài ngất xỉu.
Trúc hoảng hốt la lớn. Bác sĩ Quân Y, y tá và mấy bạn, vội chạy đến bên, vực Hoài nằm lên ghế bố, bác sĩ khám bệnh và mỉm cười, không lo ngại.
Hoài thực sự vào Đời khi tóc chấm ngang lưng, mắt xanh vương từng phiến u hoài. Hoài say mê đi tìm cuộc sống mới, cụ thể dần dần đổi thay hoàn cảnh hiện tại. Không muốn đầu hàng sự đau khổ. Lao khó. Muộn phiền. Nghèo đói: Làm kiệt lực con người.
-Tình yêu- là ánh sáng hướng thiện, soi dọi con đường trước mặt khỏi vấp ngã. Hoài đoạn tuyệt tất cả, sẵn sàng xây dựng viên gạch đầu tiên chân xác. Mặc dù Hoài không yêu thích cảnh sống đa dạng nầy, nhưng đành chấp nhận. Cuộc sống cuộn chặt vào đời mình chỉ vì... miếng cơm manh áo. Hoài không muốn phiền lụy anh chị.
Sự thay đổi lối sống nầy, có gì đâu! Đơn giản thôi! Một động tác nhẹ nhõm uốn mình, nhảy qua khe suối nhỏ, như chú mèo uyển chuyển, nhẹ nhàng nhảy từ trên mái nhà, xuống nền đất. Thế là đã bỏ sau lưng... tất cả mật ngọt. Hương hoa tình yêu, và hủ mật... đắng. Đắng nghét của đời.
_ * _
Ái Ưu Du
#16 Posted : Friday, September 29, 2006 2:42:36 PM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

Dưới Sức Nặng Kinh Khủng của - Gánh Đời

NGHIỆT NGÃ


Ngày 19-06-1962
Đoàn xe trực chỉ về Quảng Ngãi, lúc năm giờ sáng. Dọc hai bờ quốc lộ, nhiều lũy tre cựa mình, kêu kẽo kẹt. Lá tre reo vui hát ca trong nắng sớm, hàng tre nghiêng bóng sà xuống trên mặt nước ven sông. Càng xôn xao thúc giục lòng Hoài dạt dào niềm vui và nôn nóng. Mong sớm đặt chân lên đường quê thênh thang, dõi bước theo mộng hải hồ vừa ươm.
Đồi Trị Bình nằm phía phải, nhìn từ xa, như chiếc đầu trọc khổng lồ úp lên mâm cỏ vàng to tướng. Con đường đất ngoằn ngoèo nổi bật trên lưng đồi, như sợi gân xù xì dày cộm, khô cao. Sau cơn mưa chiều hôm trước, đã vạch hẳn một đường nâu xám, chia thành những mảng da đất khô ghồ ghề. Trông từ xa, kinh dị như những cục máu bầm, nức nẻ sau vết thương lở loét.
Đoàn xe tạm ngừng, bên hàng hàng lớp lớp kẽm gai bao bọc, chờ xin lệnh từ Bộ Tổng Chỉ Huy Hành Quân- Sư Đoàn 2, cho phép vào khu phi quân sự.
Đồi núi âm u chập chùng nhấp nhô cao thấp tiếp tiếp. Rừng đầy lá khô cọ nhau kêu xào xạc. Gió thoang thoảng mùi hoa ngâu thơm thơm. Trong màn sương khói mờ mờ, thật buồn bã, vô cùng đơn điệu khi nắng mới vừa ươm.
Dưới chân đồi, là công sự phòng thủ chu đáo, có hệ thống truyền tin máy PRC - 25 liên lạc hữu biệu, nhanh chóng. Có cả bệnh viện dã chiến nằm bên chân đồị Cạnh các kho bom xăng, bom nổ,và bãi phi cơ tốc hành.
Xe vào vùng cấm địa, những tiếng nổ lép tép, xì xèo mùi mỡ khét, thịt cháy, bốc lên hừng hực, theo đám khói đen nghịt ùa theo gió ào về. Khiến Hoài lộn mửa. Loạt đại bác đủ tầm cỡ đặt chênh chếch, chĩa thẳng mũi về hướng Tây Bắc, giận dữ gào thét uỳnh uỵch, trút cả khối hung tàn, đến khu rừng già tận phía chân trời xa. Nhiều loại súng ì oành ì ầm, rít trong bầu trời, làm rung chuyển bao căn lều sắt phủ bạc, giật rung kêu ken két.
Khu nhà tiền chế rung rinh, cả khu vách ván lợp tôn đồng loạt nghiêng ngả dữ dội. Khung cửa kính kêu rè rè, đôi khi không chịu nỗi sức ép của tạt đạn bay quá gần, đã bể ra rào rạo, ngổn ngang. Thật ớn lạnh.
Đạn gầm rú trong dãy trường sơn, vang vọng lại từ nơi phát xuất, từng hồi trầm thống. Như những nhịp sấm rền. Phía chân trời, nơi các đụn khói đen sì, cuồn cuộn bốc cao, bừng bừng tỏa rộng ra. Giống một cây lọng che khổng lồ, đùn đùn nối tiếp, vọt lên lưng trời đỏ rực. Cuộn lửa và khói đen mù mịt, quyện lẫn vào nhau, quay lông lốc, ùn ùn, xoay xoay, đảo đảo dưới bình minh xiên xiên, mờ mờ sương núi phủ xuống ngọn đồi trọc.
Chiếc bà già Morance 500 củ rích xập xệ, ì ạch bay giữa cơn lốc cuốn cao, Hoài sợ nó bị hụp xuống vùng trôn ốc, không kinh qua nỗi trận cuồng phong dữ dội xoáy vòng quá!
Phi cơ trinh sát luôn bay lượn trên đầu, vòng bay mỗi lúc một tỏa rộng trông thật ngoạn mục. Dù chiến cuộc đang hoành hành trên lãnh thổ. Phi cơ L 19 liên tục quầng thảo, tiếng súng phe ta lẫn bên địch nổ rang, rung động khung trời đỏ ầm ầm. Đạn 130 delay chui xuống "dưới đất hoả ngục trần thế" mới chịu nổ, kéo tung cào xới, xé toang hết mọi thứ. Rồi, cuồng bạo vất ngược lên trời.
Chiếc phi cơ Skyraider thả napalm, lượn vài vòng chào đồng đội, chào bãi, uỷ lạo chiến sĩ, vút bay đi. Trên ngọn đồi dựng đứng, cao sừng sững, nhìn xuống tứ phía làng mạc, một vị trí khá thuận lợi để đặt bộ chỉ huy, quan sát điạ hình và bố trí điều quân, thì không thể nào chê.
Mới tóm được mấy tên bị lôi lên, cánh tay bàn chân tím bầm sưng húp, lở loét nặng mùi, chân cụt thò ra run rẩy. Một tên lúi húi băng lại vết thương đẫm máu, cuộn băng cũ thấm từng chỗ loang lỗ máu khô. Vài xác chết sình thối căng phồng, như con chó chết chưa kịp chôn, thúi hoắt. Bên những khuôn mặt trẻ con hớt hãi, da tái vàng bũng, tóc tai lởm chởm, thân hình gầy còm tiều tụy, dưới lần vải đại cán Nam Định có hai túi, cổ đứng, màu dưa úa thô thiển, may vụng về.
Vài tên khác mặc quần áo thô nhàu nát, luộm thuộm khác màu, chân đất, hai cánh tay nổi ốc trâu xù xì, dựng đứng những sợi lông tơ, làm xấu xí. Tuổi đời mới độ mười bốn mười lăm, lớp ghéc bẫn thấm mồ hôi đen, vừa rịn ra từ hàng ria mép nõn, khiến Hoài phiền phiền, đau đau.
Quay nhìn quân nhân Cộng Hoà Việt Nam, Hoài nẩy nở sự so sánh khinh miệt, khó chịu, gớm ghiếc. Nhưng đầy lo sợ, muốn đánh bài chuồn. Không dám chạm trán với “các bác”. Gặp bác kể như... chào thua. Kể như đi đứt. Kể như héo úa. Tàn phai nát đời. Chứ không được hay ho, tuyệt vời như “Đêm tàn Bến Ngự” của Dương Thiệu Tước.
Lần đầu ở trong vùng giao tranh, nghe đạn rít bên mang tai, tiếng đại bác rú rền, trời long đất lở, mắt nhòa đi bởi nhiều khối lửa rạch không khí, tiến nhanh vun vút về phía nội thù. Các cô gái đứng trên sân, khiếp sợ tột cùng, giật mình hét to, đồng loạt cúi cong người, vụt chạy vào căn nhà gần nhất. Họ chui tọt xuống hầm trú, sâu lút đầu người, chui nhanh vào gầm bàn, gầm giường, gầm ghế. Họ bò lê bò la, nằm úp mặt xuống nền đất ẩm lạnh, hai tay ôm lấy đầu, miệng không ngớt kêu gào, rên rỉ.
Trái tim Hoài đập điên loạn trong lồng ngực cuồng quay, đau nhói, co thắt từng hồi muốn nghẹt thở. Như có bàn tay vô hình bóp chặt trái tim, làm nghẹt thở, bật máu đào. Giống như mình đang mang trong người, cơn bệnh trầm kha thoái hóa thần kinh, tế bào thần kinh tiết ra chất dopamine thành bệnh parkinson, làm thân thể co siết, run lập cập, run rẩy kinh niên, đáng ghê sợ.
Họ chưa kịp hoàn hồn, đã bị bồi thêm mấy vố, nhiều đợt chấn động tột cùng khủng khiếp. Súng bắn ngang đầu, xuyên qua tường nứt nẽ, gạch vôi vữa, đá dăm, bụi hồ, cùng mảnh thủy tinh rắt đầy lên đầu lên cổ các cô. Cột sắt kêu lanh canh chạm điện, lửa xẹt xẹt ra nổ lốp bốp. Bóng đèn bể bụp, rơi loảng xoảng. Họ la ó kêu gào từng hồi thất thanh. Căn phòng bỗng dưng tối mờ. Gió lùa khói đen khét lẹt cuốn thốc, bụi đất mù bay.
Trong bóng tối mờ mờ từ lỗ châu mai dọi xuống, họ nhìn nhau, ánh mắt xao động hãi hùng, chua cay. Xen lẫn chút hào khí, đầy phẫn nộ ở lưng tròng mắt nhau. Vừa gù gù đáy thắt lưng ong, nhấp nhô đầu nón sắt, lên khỏi miệng hầm. Tràn đạn ria qua. Lạnh buốt xương sống, họ rú lên, vội vàng hụp xuống sâu. Giống con nhái bén lặn kỹ dưới đáy nước, mút mùa lệ thủy.
Cả khu đồi sục sôi kêu lục ục trong lòng đất nhấp nhô. Nhà cửa động thổ rung rinh, nghiêng bên nầy, xiêu bên kia. Thật quá dễ sợ dưới đống mưa chì, bão lửa. Bao mái tóc một sớm một chiều, đã bạc nhanh trong giờ phút đẫm máu, kinh hoàng!
Sau cuộc pháo kích, chiến sĩ Thiên Thần Mũ Đỏ, Bộ Binh phối hợp cùng Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân, mang giày Botte de saut, nai nịt gọn gàng. Thân họ dắt đầy lá cây xanh, đầu đội mũ lưới sắt, súng lăm le trong tay. Vài trái na dắt hai bên mạn sườn thò ra. Từng hàng nịt da đầy băng đạn. Lưng chiến sĩ cong cong, balô nặng trĩu căng phồng hết cỡ. Một tuần lương khô, một vài bộ quân phục, chiếu mền, đạn dược, và khẩu súng cổ lỗ sĩ.
Thân hình họ cong còng xuống, dưới sức nặng kinh khủng của gánh đời nghiệt ngã. Bổn phận làm trai: Phải trả nợ non sông thật hết sẫy. Cho đến lúc tái người gây gây rét, từng cơn ớn lạnh bao trùm tủy sống. Chính nhân quân tử đi trên đường sạn đạo vào...vùng chiến sử ca.
Trời luôn ầm ầm hú động quái dị điếc tai. Họ đi trên thảm khốc điêu tàn đổ nát, đi trong tiếng hét kinh hoàng thống hận, sôi bỏng căm thù chinh chiến. Mắt bừng bừng đỏ từng đường gân máu co giật tóe lửa. Cục xương yết hầu mắc họng oan gia suốt bao kiếp, đưa lên đưa xuống, đâm vào cuống cổ, cho trợn trừng con mắt. Hàm răng họ nghiến chặt, bắp thịt cuồn cuộn, đôi chân dũng mãnh, vững chải đạp trên đất phù sa, đạp lên gai góc, cát đá. Cả nơi bì bõm đồng chua nước mặn, sình lầy. Họ tiến về cuối làng tiếp cận dãy trường sơn.
Có điều gì linh thiêng, thần bí và cường diệu, thôi thúc họ từ bỏ tất cả xa hoa quyến rũ??? Khi người lính xông vào vùng chiến đia tàn khốc điêu linh!!! Không chút rụt rè, do dự? Như là nghề của chàng mà!
Thật cảm động đến bàng hoàng ngẩn ngơ. Nếu không phải vì họ thiết tha yêu thân nhân, yêu đồng đội, yêu đồng bào, yêu đất nước quê hương mình đến thế?
Bình nguyên lắng dịu dần dần. Sau từng đợt xung kích ào ạt, xua “quân thù” cùng màu da vàng mũi tẹt, chạy bán sống bán chết, tan tác trong rừng sâu. Thỉnh thoảng dăm ba tiếng súng nổ lẻ tẻ từ từ nhỏ dần, nhỏ dần, xa dần, xa dần và im bặt.
Khi tiếng súng hoàn toàn im bặt, không gian bao trùm mùi khét nồng oi ả. Khói lửa điêu linh trôi qua khá lâu. Các cô mới lóp ngóp bò dậy. Họ ngồi thừ ra, chẳng thể cử động trên nền đất khô cứng, nham nhở gạch đá bừa bộn, thủy tinh lộn xộn. Họ không kêu la, không nói, không khóc. Vì sự khiếp sợ đã dâng đầy cổ họng khô bỏng. Mặt mày ai nấy đều tái xanh tái xám, như nhuộm chàm, mặc dù trước đó cô nào cô nấy, thắt đáy lưng ong, mặt hoa da phấn, môi trái tim thoa son tía, má hồng tuyệt đẹp, lông mày lá liễu, đôi mắt lá răm, cổ áo lá sen, quần lá toạ.
Giờ phút thập tử nhất sinh, họ chà mặt xuống đất, trông lem luốt như con mèo vá. Mà, không ai thèm cười nhạo nhau nửa lời. Mồ hôi, bụi bặm, đất cát, khói khét, đã "trổ đồi mồi" màu da họ rồi.
Đại tá Phát cùng qúy sĩ quan cao cấp tùy tùng, đi thị sát một vòng quanh vùng cấm địa. Trúc nghe cậu nói trong phái đoàn nầy, có mấy quân nhân vinh dự, đã học khóa Clandistine Operations cuối năm 1960, do Combined Studies tổ chức, qua sự tài trợ của Toà Đại Sứ Hoa Kỳ.
Dù nhiều đêm không chợp mắt, trước tấm bản đồ hành quân địa phương chằn chịt dấu mực xanh đỏ, điểm chuẩn của trục trung độ và hồnh độ, được lấy bí số Phương Dung, Lệ Thu, để gọi chấm trên bản đồ, lên, xuống, phải, trái. Trông ông có vẻ mệt.
Tuy thế, ông vẫn không mất đi nét rắn rỏi kiên cường, oai nghiêm trên bộ treillis lá cây mầu xanh đậm, hồ ủi thẳng nếp. Đôi giày botte de saut cao cổ bóng láng, ôm lấy hai ống quần gọn gàng. Súng lục nhỏ nạm ngà voi xinh xinh, đeo xệ xệ bên hông. Miệng ngậm ống pipe, đầu đội nón sắt, tay ông quay quay chiếc ba ton gỗ bịt bạc hai đầu, làm gậy chỉ huy. Dù trên cổ áo ông không đeo bông hoa bạc, nhưng có mấy ai mà không biết về vị chỉ huy Sư Đoàn nầy.
Ông đậu thủ khoa khoá Sĩ quan Đông Dương, mang tên Promotion Indochinoise Quân Đội Pháp. Ông giữ các chức vụ quan trọng, như Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 3 Thiết Giáp. Tổng Giám Đốc Bảo An Dân Vệ. Bây giờ là Tư Lệnh Sư Đoàn 2 Bộ Binh.
Đại Tá Tư Lệnh khu Chỉ Huy Hành Quân, vừa đi thị sát điạ hình, vừa thảo luận về kế hoạch phòng chống, cách tiến công, với ông Rufus Phillips, làm giám đốc cơ quan Ấp Chiến Lược, gọi nôm na là Nông-thôn-vụ. Ông giám đốc cơ quan viện trợ Mỹ USAID, ở trong lòng chiếc phi cơ hạ cánh tại phi trường Đà Nẵng. Cùng tháp tùng có phái bộ kinh tế gọi tắt là USOM, chuyên cung cấp sữa bột có đường, bột mì, dầu bắp, hàng ngàn bao bố áo quần Mỹ Quốc viện trợ, thuốc lá Salem. Pallmall, vân vân...
Phái bộ chỉ huy yểm trợ quân sự, gọi tắt là MACV, và Cố Vấn Mỹ là Trung Úy James Webb trẻ măng, miệng tươi cười ngậm điếu xì gà Schimmelpennick. Hình như anh ta mới tập sự viễn chinh. Có thể những người Mỹ đầu tiên đặt chân lên đất Việt, còn ngỡ ngàng xa lạ về chiến tranh. "Du kích chiến" chỉ là một khái niệm mơ hồ. Ắt hẳn "anh chàng" chưa hiểu định chế ấy, chưa có kinh nghiệm, và rút tỉa kinh nghiệm chiến thuật là bao. Không rành hơn, không giỏi hơn quân nhân Việt Nam về chiến thuật, chiến lược nầy.
Dù rằng kỹ năng tác chiến, và khả năng toàn diện của Cộng Hoà Việt Nam, dựa vào thuật ngữ của súng M-1, súng Garrand cổ lỗ sĩ. Vả chăng "anh chàng" kéo mươi củ súng 105 ly qua Thái Bình Dương, để "mớm mồi" Cộng Hoà Việt Nam "bắt tay với Mỹ Quốc viện trợ". Trong tinh thần nhân chủng, “đề huề” hợp tác chặt chẽ việc bang giao! Nhưng, ông Tá phe ta sẽ nhờ họ thực hiện tốt: Việc yểm trợ, tiếp liệu quân viện, kinh viện là trọng yếu. Ông sẽ thảo luận về các mối tương đồng, viện trợ.
Thực tế nhất là xin vật liệu làm nhà tiền chế, tráng đường nhựa, xin cung cấp cho xi măng, sắt chữ U, sắt chữ V, làm cầu, v.v... Cùng giao hảo tốt đẹp khác. “Anh chàng ta” nói "Sure". Mấy chuyện lẻ tẻ nầy, nước Mỹ không lo bankcruptcy. OK!
Thấy phái đoàn dừng lại trước cửa bất ngờ, các cô vội vàng đứng dậy nghiêm chào. Đại Tá thấy thần sắc các cô nhợt nhạt, tái xám, lem luốt, đầu bù tóc rối, như người bệnh thần kinh nặng. Ông quay sang các sĩ quan thuộc quyền, nhích cặp lông mày lên một chút, nhếch mép mỉm cười. Chao ôi! Thật thảm thương cho các "Nữ Tướng hào kiệt anh tài của Hoa Mộc Lan" thuở xưa, chạy tuốt về Tàu mất tiêu.
Mấy ngày sau vẽ bình tĩnh, bàng quang của thôn, xóm, có lẽ vãn hồi, nhưng còn đọng lại trong lòng người bao lo âu, run sợ. Các cô dần dần bình tĩnh đôi chút. Nhờ sự lân mẫn tự nhiên, giữa các chàng quân nhân dạn dày sương gió, từng xông pha nơi vùng mũi tên đầu đạn chiến trường. Nhờ sự lặng lẽ thờ ơ của người lính trẻ. Nhờ nhiều nụ cười đầy bao dung khoan thứ của các sĩ quan đã từng trải. Các cô nhận biết, quen tai, khi tiếng súng bắn đi và câu vào. Tuy đôi lúc bất thần họ còn sợ, hai lỗ tai hầu như ù ù, lùng bùng, điếc không nghe gì. Riết rồi điếc đặc không sợ súng.
Riêng Hoài điếc thật rồi, nhưng mắt còn thấy lửa đạn bay. Nàng thập thò lấp ló đi ra, đi vào lều bạt, thấp thỏm nhìn về mấy ụ súng. Khi nòng sắt đen lạnh khạc ra lằn lửa xẹt xẹt, viên đạn nhọn hoắt bịt đồng sáng loáng, vút vút xoáy tít vào không trung. Hoài sợ hãi kinh khủng, nấp vào góc nhà, rụt cổ co người, ngồi hụp xuống. Hai tay Hoài bưng lấy đầu, toàn thân run bần bật, tim nhảy thình thịch trong lồng ngực, thở đứt quãng như hụt hơi.
Cuộc sống mới dưới sức nặng tột độ kinh khủng của - Gánh Đời nghiệt ngã - năm 1962- đón chào Hoài, bằng những "pha ngoạn mục" đến thế sao!?

_ * _
Ưu Du
Ái Ưu Du
#17 Posted : Saturday, September 30, 2006 2:33:48 PM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

CHUYỆN DẠI KHỜ DƯỚI VẦNG TRĂNG TRÒN

Trên đỉnh đồi, ánh trăng Trung Thu vàng óng, tròn vành vạnh, to, sáng vằng vặc. Như có ai vừa ném một chiếc đĩa vàng, lóng lánh vào không trung. Nền trời trong vắt không một gợn mây. Cuối hồ mảng sương mỏng mềm như giải lụa, vắt ngang tháp chuông Grand Lycée. Nhạc thông ngân cung đàn muôn điệu, giữa khung cảnh nên thơ, bên hồ Xuân Hương huyền ảo, mơ mòng.
Hương Hoài, Thùy, Bảo, Quốc, Toàn, Thịnh, Trình, Phượng, được phép đi ciné. Sau một tháng vùi đầu vào trang sách mở rộng. Vả lại phim "Les Miserables", chuyện của văn hào bất hủ Victor Hugo, viết rất hay. Không đi xem uổng lắm.
Mấy dì cháu xuống dốc Bà Triệu. Qua khu giữa Ấp Ánh Sáng có đường đi rộng, nhà cửa thiết kế giống nhau. Người trong nhà đi ra, đi vào đông vui hơn. (ban ngày họ thường đi lên những bậc cấp cao tít, ở hông trái hai dãy nhà. Nhưng ban đêm, đi như thế vắng vẻ. Dễ sợ lắm).
Khi leo lên lưng chừng lối mòn, về phía bên phải hai dãy nhà. Suốt tháng bảy, người sống cúng ngoài sân. Cho các vong hồn mồ côi, bơ vơ vất vưỡng, đói khát, thiếu thốn, được xá tội, đi lang thang khắp nơi kiếm ăn. Nhờ phước người trần. Dịp nầy, vong hồn có cơm ăn áo mặc. Có ngựa xe đi. Có rượu đế Bà Điểm Hóc Môn, ngon nổi tiếng. Họ vãi gạo, muối, đi tứ phương.
Cúng ở ngoài sân, khi tàn cây nhang, chủ am đốt giấy tiền vàng bạc, áo quần, ngựa xe bằng giấy. Rồi gõ thùng, lon, để đám trẻ con trong xóm xông vào chụp giựt thức ăn, tiền lẻ. Nhà Kim Tuyến có cửa sổ trên gát hẹp, nhìn ra sau am cậu. Tuyến nói cậu hiện về phò hộ, làm phúc cho người nghèo khó. Đồng thời không ngại vặn tay, bẽ chân. Ai cả gan dám phá phách “Cô Cậu”.
Dì cháu quên điều đó, lúc đi ngang mâm cúng linh đình, bày dọn la liệt trên bàn. Hai bình hoa vạn thọ lớn, lư hương nghi ngút khói thơm, kê sát bên dốc vắng. Trong am ngọn đèn dầu tù mù, không đủ sáng. Dáng bà cụ hắt chiếc bóng gầy còm, lung linh lên bức tường loang lổ. Khấn vái xong, cụ lạy mấy lạy.
Ngoài nầy Bảo nhanh tay bưng dĩa trái cây. Quốc bưng dĩa xôi vò. Toàn xách nải chuối sứ, (trái no tròn mủm mỉm, trông thật dễ thương). Thùy chộp con gà trống béo ngậy. Các thứ đó, đều bỏ vào cái túi vải tám, (họ định xách theo bỏ áo lạnh, mũ. Khi ra về, đựng bắp sống, sẽ mua).
Bọn trẻ quay ngược trở xuống dốc mòn. Không đi ciné nữa. Bảo nhanh chân lẹ tay hơn, vát túi vải đi về phía cầu Ông Đạo, đến Thủy-Tạ trước. Dì cháu tay không, đủng đỉnh đi tà tà. Tự nhiên, nhàn hạ, hiền lành nhất thế giới.
Mụ Mị mắt kèm nhèm, lẩm cà lẩm cẩm, đến góc bàn lấy giấy áo, nhà, xe, vàng bạc để đốt, đã phát giác cô cậu chưa hưởng lộc. Bọn “cô hồn sống cõng cô hồn chết”, đã bợ ngon ơ mất toi. Mụ "đào mồ cuốc mả" quân ăn cướp, khố rách áo ôm, trẻ không tha già không thương, âm ty địa ngục không chừa. Quân cướp cạn! Mụ la làng, dậm chân đấm ngực. Kêu gào dữ dội. Khiến bà con lối xóm rần rần chạy về phía am. Xem chuyện gì.
Mụ Mị mọi ngày hiền như bụt, không mích lòng ai, trẻ con người lớn. Ai ai trong Ấp đều biết Mụ. Từ cọng rau đến con gà con ngoé, mụ chẳng thèm "tơ vương" của ai. Thế mà, nay bị "nó chơi" Mụ một vố. Tức hơn bò đá! Mụ Mị không chửi cha chúng sao được! Chửi còn may! Hễ vô phúc đứa nào bị mụ túm bắt được. Mụ “hóa giải” cho chúng về chung kiếp với tổ tiên. Cái gan Mụ Mị rứa đó. Khiến bà con Ấp Ánh Sáng, nghe Mụ Mị la, đều khiếp vía. Có người nói:
- Rứa là ma dụ dỗ người ăn trộm. Chớ người mô, mà ăn cắp mau hè!
- Chao! Cậu thiêng hỉ! Bị mất cắp. Mà biết liền hí!
- Hèn chi ! Bóng diện trước am không đỏ tề.
- Xời ơi! Nói nghe hổng được rồi. Lảng nhách hà.
Thùy khúc khích cười, cào vào tay Hoài. Khiến cô la lên:
- Nhỏ này, khi không cào người ta... đau điếng à.
Mọi người quay nhìn. Hoảng hốt, dì cháu lủi nhanh ra khỏi đám đông, xuống dốc, về lối Thủy Tạ. Thùy lấy xôi vò ra. Thế là họ bốc ăn, thích thú cười đùa, đau thắt bụng, nói hoài chuyện đó không biết chán. Cả bọn nằm lăn trên đám cỏ mềm, ướt đẫm sương đêm. Nhưng không thấy lạnh. Họ thích chí ngữa mặt lên trời, nhìn ánh trăng tròn, cười nắc nẽ như đười ươi vậy! Chắc chết quá.
Tám rưỡi tối, dì cháu về nhà, Lễ, Phú, Tài, Vinh, ngồi nói chuyện với chị Khánh. (Các bạn lên Dalat, trọ tại đường Hai Bà Trưng, luyện thi tú tài. Thỉnh thoảng đến nhà anh chị chơi).
Thấy bọn trẻ về sớm, chị Khánh ngạc nhiên hỏi, Thùy liếng thoắng trả lời:
- Tụi em "trúng tủ", đi ciné không nỗi nữa.
Quay qua các bạn, cô mời họ:
- Nếu các anh không sợ cậu về bẻ tay, vặn cổ. Mời xuống nhà ăn chùa.
Các bạn không hiểu gì. Ngây ra nhìn như ngỗng đực. Chị Khánh nhạy cảm nhất, (vì hồi nhỏ chị đã từng phá chị em Ni Ni, Na Na, hai bà đó mê lên đồng lên cốt). Chị Khánh la một trận đích đáng, trước mặt mấy chàng trai:
- Tụi bây coi chừng, có ngày bắt được. Họ nhổ không còn sợi tóc. Vặn không còn răng ăn cơm, ở đó mà múa may, lờn mặt. Tao nói lần nầy là lần chót, Coi chừngï bắt được. Họ đánh cho cái mặt, sưng bằng cái mâm. Mới tởn. Nghe!
Dì cháu mắc cỡ muốn độn thổ. Nếu chị Khánh biết trong túi xách còn con gà trống. Có lẽ chị đánh thật, chứ chẳng chơi. Ngày hôm kia, ở nhà mới làm thịt hai con gà trống thiến, thịt ăn không hết. Chị bếp hâm đi hâm lại, mềm nhừ, không ai ăn, trông thấy sợ! Có nhịn thèm nhịn khát gì cho cam. Chị nuôi một chuồng gà vài ba chục con, mười lăm con vịt. Thích ăn gà, vịt, là có lai rai. Gì chứ về khoảng ăn uống, chi tiêu. Chị hậu hĩnh, tươm tất, chu đáo lắm.
Họ nháy nhau, lẽn vào phòng, cài cửa lại. Trái cây "thủ tiêu" vô dạ dày cho chắc ăn. Con gà "mới gay chứ"! Bỏ thương (tiếc của trời) mà vương thì tội, Thùy bàn:
- Con gà đó, lát nữa mấy anh kia về. Cho họ nhe.
- Ừa, em nói kheo khéo, kẽo mấy ảnh buồn nhe. Chị sợ chị Khánh biết, la mắng, mất mặt bầu cua lắm. Chị Khánh la đúng. Ở đây có vài người bạn, mình còn xấu hổ vậy. Nhỡ họ bắt được, có nước độn thổ. Lần sau chớ dại nữa nghe.
Bảo nói:
- Dì không nhớ câu "Ăn cắp quen tay, ngủ ngày quen mắt, ăn vặt quen mồm" sao?
- Biết vậy, nên cố gắng chừa đi. Là vừa.
- OK
*
Ái Ưu Du
#18 Posted : Sunday, October 8, 2006 3:14:02 PM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

CHÉN RƯỢU ĐỘC

Đêm đã về khuya. Bốn bề tĩnh mịch quá chừng, trong niềm cô đơn trống vắng. Nhiều tiếng côn trùng rền rĩ, trên đồng cỏ tối tăm. Từ nơi xa xôi trong lòng đất, bầy dế sảng khoái kêu vang. Khi lảnh lót thanh thanh. Khi trầm trầm rè rè. Đồng loạt hửng lên, rồi im bặt kéo dài.
Loại côn trùng chi mà tội, như loài dế, ve sầu, vân vân... nở ra trong lòng đất, chui lên, mọc cánh, âm thanh nhã ra, tuyệt vời réo gọi. Trên đôi cánh mỏng te, có những đường gân phù du quá đẹp. Ca hát được mấy ngày sầu lắng, lặng buồn. Nay mai có sương sớm, chúng sẽ sống dưới cỏ, với kiếp lụi tàn. Chẳng biết thêm được ít ngày, rồi tan kiếp phù sinh? Bốn bề im ắng, đêm thật yên lặng, vắng ngắt đến ghê rợn, chỉ nghe tiếng côn trùng rời rạc trong khuya.
Ngôi nhà mới đã hoàn tất theo họa đồ của Tứ, xinh đẹp hết ý. Gia đình dọn vào xong lúc hai giờ khuya. Ăn ở liền, không chờ sơn khô và ráo nền gạch. Thỉnh thoảng bác Hải ở sát bên, nói ú ớ mấy câu bông đùa trong giấc ngủ say, xen lẫn tiếng ngáy liên hồi. Lúc lên bổng, khi xuống trầm. Như tự phát về lời thở than cơ cực. Từng trói buộc cuộc sống nhọc nhằn, dãi dầu mưa nắng.
Cái gì mà ngáy quá sức vậy không biết! Thật dễ sợ! Hoài không sao chợp mắt được trong ngôi nhà mớị. Cô ít khi nghe âm thanh lạ lùng giữa canh trường vắng lặng, phát ra từ cổ họng người ngủ say: Ố …ộc ộc ộc… - ố ố ồ ộ ộ…
Đất nhà bác ở đường Mai Hắc Đế rất rộng, nên bác hiếu khách, muốn “nhất cận thân, nhì cận lân”, đã cho không, biếu không các gia chủ: Thi, Thiên, Vông, Bằng, Đóa. Mỗi gia đình một lô, làm nhà ở đông đúc cho vui. Manh áo cơ hàn bao phủ trong lồng ngực, có trái tim đầy tình nhân ái. Thật hiếm có. Đáng kính phục.
Bác Hải trai năm nay khoảng bốn chín, năm mươi tuổi: Đôn hậu, chất phác, hiền lành chân tình hữu ái và vui tính. Tiếng nói to, dứt khoát từng câu, dáng người khỏe mạnh, da dẻ hồng hào. Trán cao rộng và hói. Mũi cao. Mắt sáng. Bác là người đàn ông tráng niên "đẹp gziai".
Mỗi buổi sáng, bác thức dậy từ ba giờ khuya, lục đục nấu nồi xúp, sắp xếp quang gánh, chuẩn bị đi bán phở dạo. Cả gia đình mười một người, sống nhờ vào gánh phở rong lúc sáu giờ sáng. Khoảng chín, mười giờ sáng, bác lững thững gánh về. Đôi lúc ế ẩm thì mười một giờ hơn. Tính bác rộng rãi, không bán cắt cổ. Nên ai cũng muốn chờ bác gánh đến ngỏ xóm. Phút chốc bác bán sạch trơn. Bác nấu phở, có mùi vị đặc biệt. Ngon và lạ miệng. Họ thèm ăn. Về nhà, bác làm cho vợ con, mỗi người một tô đầy. Sau đó, bác vớt xí quách ra, lôi xị rượu trong góc tủ, để lên bàn. Vợ con ăn. Bác uống. Gia đình bình dân đầm ấm. Vui vẻ cả làng.
Chiều thứ bảy, ngày chủ nhật, bác ưa bưng thau xí goách, kẹp xị rượu qua nhà anh. Bác ép anh uống vài chung nhỏ xíu, hứng thú nói chuyện thời sự. Tứ không biết uống rượu. Anh nễ bác quá, nếu không ngồi với bác. Bác buồn. Nên anh nâng ly lên, nhúng môi cho phải phép, rồi lại đặt ly xuống. Không chịu, lôi anh qua nhà, bác nói:
- Ở bên nhà chú, có cô giáo. Chú sợ, không dám uống. Sang đây, uống mí tôi nào.
Tứ kính mến gọi ông là bác, (thay cho các con, ông Hải lớn hơn anh cả chục tuổi) Tứ thích tính bộc trực đó. Không uống rượu, nên nhiều ngày Tứ vờ bận việc, anh lẫn trốn bác. Bác đi tìm Tứ không có. Trở về nhà, bác buồn. Hễ buồn, rượu hơi nhiều thì lời ra.
Cái “đô” của bác chỉ non xị là say mèm, bước đi chếnh choáng, quờ quạng. Bác bắt đầu nói liên tu bất tận. Một câu chuyện vui buồn nào đó, bình thường bác quên đi. Nhưng khi rượu vào, chuyện tự thuở nào, bác nhớ rỏ mồn một, lôi ra nói tuốt hết. Từng ấy câu, bác nói đi nói lại hoài. Đa số là bác nói chuyện vui.
Bác mở toang điều bí ẩn trong tâm tư, không làm chủ bản thân, lý trí, phơi bày hết “bộ lòng” ra khỏi bụng. Bộc trực bật mí ra hết.
Không phải bác xấu mồm. Do không thể chủ định mà lỡ lời. Tỉnh rượu rồi, nghe vợ con kể lại lời nói, việc làm của mình. Bác xấu hổ, mặt đỏ tía tai, tỏ ra ân hận việc sai quấy. Bác không khác con tốt vứt ra khỏi cuộc chơi, thẳng tay xóa trận đồ, dựng trên bàn cờ, với sự đa dạng của tình huống. Ấy là lúc đôi mắt sáng nhìn về nơi vô định, khuôn mặt và cần cổ đỏ rực, luôn vuốt mái tóc thưa, cất cao giọng hỏi điều nầy điều nọ. Mỗi ngày và mỗi độ say khác nhau, bác cử động, lời lẽ khác nhau.
Vợ con quá quen tính nết bác, hiểu bác sâu sắc đến độ, chỉ cần nghe giọng nói bác “đổi tông”. Họ nháy nhau lũi trốn qua nhà hàng xóm. Bác say sưa đối diện với ảo tưởng phù dung. Bác bực bội gắt gỏng trong bóng tối. Họ để bác muốn dập tắt ưu phiền bằng cách nào, cũng mặc. Không còn ai, không thấy ai để dốc bầu tâm sự. Bác lải nhải một mình. Chẳng được bao lâu, bác lò dò đi tìm chỗ ngủ vùi, ngáy to hết biết. Còn người ngồi "đấu hót”, bác vẫn say sưa nói đến sáng.
Bác Hải gái, là người đàn bà duyên dáng, hiền thục, vui vẻ, dịu dàng, nếu không muốn nói là một thôn nữ, xinh đẹp ở miền Bắc. Các con của họ rất đẹp và ngoan. Hoài không hiểu sao gia đình bác luôn “vui vẻ, ồn ào” - đôi khi túng thiếu tí chút. Mà bác gái chịu đựng tất cả cố tật của chồng, vẫn dịu dàng nhỏ nhẹ rất mực. Sau nầy cao hứng hơn, bác trai kéo thêm cả lô cả lốc. Bạn nhậu ở đâu về, la cà ăn uống suốt tháng (tiền ăn nhậu trên gánh phở dạo, và sức cần lao của bác bỏ ra bao). Bác gái chỉ cười cười, nhỏ nhẹ nói với chồng:
- Gớm. Bố mày ồn ào quá. Để tôi đi “đốt than nướng cá cho vàng. Lấy tiền mua rượu cho chàng uống chơi”.
Bác trai ngà ngà say, cũng đối đáp câu ca dao: “Hiu hiu gió thổi đầu non. Những chàng uống rượu, là con Ngọc Hoàng”.
- Oái giời! Ngọc Hoàng mí ngọc hiếc. Con Ngọc Hoàng thì chả phải ở nhà tranh, nằm manh chiếu rách. Cứ uống đẫy vào. Như hũ chìm ấy. Có ngày vào chuồng ngủ mí lợn đấy.
- Ông bảo cho mà biết, bu mầy chỉ khéo đùa. Ngủ mí lợn thế nào được.
Khu đất đồi của các bà dòng Domain de Marie, rộng hàng ngàn hecta, bỏ hoang từ bao năm nay. Các bà thấy mấy căn nhà trong xóm cần lao, dựa lưng vào khuôn viên rào đất. Cứ năm ba tháng, vào chiều thứ bảy đến sáng thứ hai, các bà đi ngang qua. Lại thấy từ đâu “mọc trồi" thêm một căn nhà be bé xinh xinh. "Nẩy nở" lên chớp nhoáng. Người đâu dọn vào ở từ lúc đêm khuya đông đúc. Nhanh như chớp.
Ở yên rồi, họ lại có cái màn nâng hàng rào kẽm gai của dòng, dời lùi sâu vào bên trong. Lấn chiếm thêm phần đất sau nhà. Cứ thế, đất của dòng như có chân bò đi rỏ xa. Còn đất tại xóm cần lao ngày càng phình to ra.
Thấy sợ! Các bà dòng vội thuê xe máy cày đến. Cho ủi khu đất sát hàng rào dân cư xuống khá sâu. Thành một đường hố, chạy dọc theo chu vi đất, cao trên năm mét. Hầu chấm dứt tình trạng lấn chiếm đất đai bất hợp pháp.
Mấy bà soeur bà cố ơi! Nghĩ cho cùng, cũng tội cho dân lao động ở mé lề đường, sát lằn ranh giới đất của quý bà. Đất là đất của quê hương người Việt Nam ta. Giàu đẹp và phì nhiêu kinh khủng. Thế mà mình không biết thừa hưởng, tận dụng. Thì hoài của quá! Trời không vì thế, làm cho đất nghèo nàn, cạn kiệt, hao mòn đi.
Các bà có đất tư ở đâu ra. Ai cho không biết, cứ bỏ hoang phế. Chả ai trồng tỉa, cỏ mọc um tùm. Chính phủ có đất không khá. Mà các bà cũng chả giàu. Kể cả giàu lòng nhân ái, từ thiện. Thế thì gọi là có lòng nhân, lòng mến, bác ái, coi cũng... tạm được!
Họ dựa vào đất đai, làm cái “nhà chòi” chui ra chui vào, đỡ tấm thân một nắng hai mưa. Nào dám mong nhờ đất bao la, hoang vu, để trồng tỉa hoa màu, kiếm cái ăn độ nhật qua loa. Cầu Trời cho mấy ông Thương Phế Binh, còn một mắt, không thấy tỏ tường, dòm ngó vào khu đất mênh mông nầy, đừng đến đây lấn chiếm, đốn cây, phá rãnh, xây nhà, mở tiệm bán buôn. Như nhiều chỗ mấy ông đã làm.
Từ ngày bác Hải “rước” thêm ông Sáu Tu, ở khu số Bốn, nhà bác càng “nhộn”. Khu xóm yên tĩnh, bỗng phức tạp kinh khủng. Bố mẹ ông Sáu Tu thật sáng suốt, nhìn xa thấy rộng, biết trước tương lai cuộc đời con. Họ đặt cho tên Tu, con thứ Sáu. Xứng đáng vô cùng.
Không vì gì hết, mà vì dòng máu nóng, đam mê chất cồn, sôi sục trong huyết quản. Không ai hiểu ông Sáu, qua tiếng cười gàn khàn đục, say khướt. Làn môi thâm tím, cục yết hầu nhô lên quá cao, chạy lên chạy xuống. Mũi lân. Mắt xếch. Da mặt sạm đen, sần sùi như mụn cóc. Áo ca rô không cài nút, hở bộ lưng, phơi ra mấy chiếc ba sườn. Quần đùi màu cháo lòng, lôi thôi lếch thếch.
Ông Sáu Tu không nhâm nhi rượu như bác Hải. Ông ngửa cổ lên trời “tu” cả lít. Ông Sáu nốc chén rượu chỉ trong thoáng chốc. Con mắt giả trừng trừng bên con mắt thật, nhìn đáy chén khô. Con mắt giả bất động, bất nhã kia, nó đã tật nguyền. Vì ông say rượu, té vào cây cọc cắm sau hè. Khiến người đối diện càng khó chịu.
Rất nhiều lần say mèm, không còn lý trí, ông cỡi phăng hết quần áo, nằm tô hô ngoài đường cái, khóc la dữ dội. Chân thấp chân cao, ông cười như điên như dại, tổn hổn vào trước sân nhà bác Hải, múc nước dội xối xả. Cái “thú tính” của ông, khi nốc rượu cho thật “đã”, là ông đi quậy phá. Ông bẻ cành cây, kẹp vào giữa háng, làm con voi múa vòi.
Những lúc ông dỡ trò khốn nạn thế, đàn bà con gái, trẻ nhỏ, chạy trốn thật kỹ. Sao có người thô bỉ, quái đản đến thế không biết! Mất tư cách, bê bối, bệ rạc hết sức. Rỏ khỉ! Thảo nào mấy bà dòng, đã không chịu cho xóm mình xích lại gần. Ở gần. Chung rào chung đất. Thì phải mà.
Rượu vào khỏi mồm, ấy là lúc ông dữ dằn, ưa gây sự, đánh nhau “tưng bừng”. Lúc nầy, cả khu xóm không phút nào yên. Mấy bợm nhậu ngồi đấu hót, lý sự chả ra môn khoai gì. Bất ngờ “nhộn” lên. Họ “choảng” nhau túi bụi. Ồn ào kinh khủng. Bợm say như chiếc bong bóng lờ lững, xoắn chặt lấy, đẩy lui đẩy tới, nhào lộn mấy vòng. Có người chảy máu đầu, máu mũi là thường. Nhiều lần họ vát dao, vát liềm ra, đâm chém nhau, máu me lênh láng.
Vợ con biết tin ông Sáu “quậy”, từ trên phía số Bốn chạy xuống. Họ chửi bới, la mắng, khóc lóc, lôi kéo ông về. Ông đã chột mắt nay lủng bụng, gãy chân. Ông nằm liệt trên giường suốt năm. Rồi một ngày xấu trời kia, ông từ bỏ cuộc chơi, rên la đi vào cửa tử.
Ấy thế mà, bác Hải vẫn không sợ. Do tấm lòng từ bi nhân hậu, bác Hải trai luôn mở toang cửa ngỏ, đón nhiều vị khách lạ không mời. Họ cũng đến nhậu. Người uống rượu rất thảo, gặp ai cũng mời chào, lôi kéo. Không như người ghiền thuốc phiện. Bác chấp nhận cho thêm vợ chồng Lập “rất hân hạnh mời” vào ở chung.
Nhà rộng, không có giường trống, bác trai bắt vợ, bốn con gái, nằm chung một phòng. Nhường giường trống lại cho bạn nhậu. Nhiều lần, Lập sai thằng con mười ba tuổi, đi mua lít rượu đế, và thức nhắm.
Thằng bé khoái tỉ, vụt chạy rỏ nhanh. Mua rượu bên quán xong. Nó tìm nơi vắng khuất, lén ngồi xuống. Nó dáo dác nhìn quanh, mở nút chai ra. Nó tợp mấy hớp. Rồi mở bọc ni lông ra. Nó cắn khúc dồi chó, (hay miếng ruột heo phá lấu). Vài bận “cao hứng”, nó tu gần một phần tư xị. Thế là “xỉn goắt cần câu", nó nằm dạng háng, dựa đầu vào gốc cây. Mặt nó đỏ như gấc, miệng há hốc, bọt mép xùi ra, ngáy khò khò. Chả biết trời trăng mây gió, bão bùng ra sao. Thế là ở nhà, Lập to chuyện.
Đang ngủ say, mọi người trong xóm bỗng thức giấc. Nghe tiếng la:
- Hả! Cái gì?
- Cứ sai thằng nhỏ đi mua rượu. Chưa có tiền trả nợ. Gạo cơm hết rồi. Chớ sao?
- Bà nói nghe hay quá chừng.
- Ông cứ nốc cho đẫy vào. Tiền mua thuốc, cho con Lan đâu rồi?
- Tôi sai thằng cu Ly, đi mua rượu rồi. Lỵ! Ly! Thằng Ly về chưa? Mầy lại nốc rượu của bố đấy phỏng? A! Cái thằng nầy. Con nhà tông không giống lông, cũng giống cánh. Cứ nốc cho đẫy vào. Rồi cũng ghiền, đau khổ vì cái nợ đời, “đợ vợ, nợ con”. Như bố mày thôi. Con ơi!
Ngừng một lát, giọng Lập lè nhè cất lên:
- Chưa có tiền. Hư! Thây kệ bà. Bà mắc nợ tôi. Thì bà phải trả.
- Nợ gì? Hả?
- Nợ chồng, nợ con. Bà nói thằng cu Ly giống tôi lắm mà.
- Giống. Giống cái đồ chết toi.
- Trời chu đất diệt, chưa chết a bà. Cuộc đời phú quý của tôi. Tôi sang cả cho bà. Tôi không tiếc. Chứ không à? Có vài xị rượu, mà bà cũng hà tiện với tôi. Bà nói cho sướng miệng. Ông không nghe nữa.
Nhưng vài phút im lặng sau. Họ nghe sao chướng tai gai mắt quá chừng. Dần dần lời qua tiếng lại. Đôi co. Đánh lộn rần rần. Đinh tai nhức óc xóm làng.
Nửa tháng sau, bé Lan sáu tuổi, âm thầm đến nơi chuyên cấp giấy phép, qua cửa khẩu tử thần. Em không từ biệt ai. Ông chồng thời trai trẻ phong lưu, ưa hút xì gà, thích rượu chè, cờ bạc và gái ghiếc, đã “xoáy” cho bằng được tiền mua thuốc của con, để say túy lúy. Con bé xinh đẹp nhắm mắt. Trút hơi thở cuối cùng, bước vào hốc cửa tối đen, không buồn quay trở lại. Lòng đất đã đón em về yên ngủ, với đám người dị nhân ngoại tộc lạnh lùng.
Con bé xinh xắn, khôn ngoan lạ, phảng phất mùi trẻ thơ thơm thơm. Thế mà qua cơn cảm sốt, tưởng là xoàng, không thang thuốc. Bé đã ra đi vĩnh viễn. Gia đình bác Hải bỗng dưng “rước nợ” vào thân, lại “nhộn” lên đủ điều.
Trên thế gian nầy có quá nhiều chuyện đắng cay, đau khổ, phiền muộn và bất hạnh. Sự tĩnh mịch và khác thường quá lâu. Khác hẳn tháng ngày cũ. Lập tỉnh rượu, khàn khàn giọng, lâu lâu la lớn một câu:
- Lá vàng còn ở trên cây. Lá xanh rụng xuống. Trời ơi là trời.
Đứa bé nằm trong cổ áo quan sơ sài, không đèn nến bông hoa. Khuất dần sau lớp đất khô, phủ kín góc ván cuối cùng. Bước chân chao đảo của người mẹ bất hạnh, khiến xóm làng càng thêm mũi lòng.
Hoài nhìn trừng trừng vào lòng đất. Như muốn tìm lại hình ảnh bé thơ yêu kiều. Cô gặp bé lần đầu tiên. Cũng là lần cuối cùng, trong cơn đau thắt.
Từ nay, không ai còn nhìn thấy em. Và bé không nghe tiếng ồn ào, huyên náo đinh tai nhức óc, nhộn lên ở trên thế trần. Lao xao lá cỏ...

_ * _
Ái Ưu Du
#19 Posted : Sunday, October 29, 2006 8:15:04 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

TÌNH TRI NGỘ
Khí hậu ở Dalat thật dễ chịu. Không khí thoáng mát, trong lành ấm dịu khôn tả. Tia nắng hoàng hôn nhuộm thắm mặt hồ, thành màu vàng óng, sang sáng như tráng bạc. Những con đường rất rộng, len lỏi qua những đồi thông ngút ngàn. Mang dáng dấp sang trọng, thấp thoáng nhiều ngôi biệt thự xinh xắn, muôn vẻ, muôn hình dáng yêu kiều, đứng riêng trong từng thổ cư. Bao chiếc xe nhà bóng loáng, đi về lả lướt, càng tô điểm cho bộ mặt thị thành nên thơ, quyến rũ hơn.
Mọi chuyện đã khởi sự bắt đầu, cũng như chấm dứt từ đây. Phải! Từ thành phố Hoa Đào duyên dáng thơ mộng nầy. Từ con đường mòn uốn khúc dưới rặng thông xanh ngút ngàn, dẫn đến ngôi trường thân quen, suốt năm niên khóa. Phiến trời xanh xanh lộ ra dưới kẽ lá rì rào. Bóng râm trên đỉnh núi dài hẳn ra, báo hiệu một ngày nữa: Hoàng hôn sắp lụi tàn. Quỳnh thấy quắt quay niềm nhớ nhung. Dù rằng cô còn đứng trên con đường thân thuộc, và sẽ do dự bùi ngùi lúc chia xa.
Con đường dốc bên cạnh rừng, đầy lá thông khô, được sương đêm rửa sạch trơn, láng mướt, ve vuốt đôi chân êm ái, mát lạnh khi mình dẫm lên. Khiến Quỳnh muốn ngã lưng nằm trên thảm nhung nâu nâu, mượt mà, mơ màng nhìn lên trời cao, xao xuyến nghĩ về...
Mặc dù các cô gái ở cạnh nhà nhau, nhưng dạy khác buổi, nên cô nầy đi dạy, thì cô khác ở nhà, kể như ít gặp mặt nhau, để tỉ tê chuyện trò. Hoài dạy buổi sáng. Quỳnh dạy buổi chiều. Hai cô chung một phòng học, cùng sử dụng bàn, ghế, tủ. Mỗi lớp trang trí một bên tường, treo thời khóa biểu, tranh ảnh riêng. Có hai chìa khóa lớp, và chìa khóa tủ riêng, để đựng dụng cụ thính thị chung.
Việc đầu tiên khi vào lớp, Hoài cất xách tay, dù, trong tủ, cô đem sách dạy trong ngày, vở soạn giáo án, dụng cụ thính thị cần trong buổi dạy. Những cuốn tập học sinh làm bài ngày hôm trước. Tất cả bưng lên bàn cô giáo. Hoài mở quyển “Bút Ký của Chúng Mình”, chỉ có hai người đọc và viết cho nhau. Chẳng hạn như:
- Quỳnh ơi! Ngày 28/9 Hội Thuyết Giáo Khoa. Lần nầy, Quỳnh phải dạy mẫu cho giáo chức toàn Tỉnh và Thị Xã xem đó. Sau khi đi Hội, Họp xong, Quỳnh nhớ kêu Thu, Hạ, Cúc, đến nhà mình ăn bánh xèo, bánh căn nhe. Ngày mai dạy xong, là mình lên xe “chuồn” về Dalat trước. Về sau vui vẻ nhe. Bồ tèo! Hoài.
Đôi khi đọc chuyện Quỳnh viết, Hoài vui hoặc buồn bã bâng khuâng thế nào ấy. Một hôm, Hoài đọc lời tâm tình của bạn như sau:
*{Tháp chuông nhọn hoắt của ngôi giáo đường đâm thủng nhiều tảng mây trắng, xôm xốp, bồng bềnh, vở thành triệu giọt nước, hòa vào sương giá, và tiếng chuông càng thánh thót, ngân nga, báo thức bình minh bừng dậy. Quỳnh nao nao nghĩ về… mối tình của mình, Quỳnh bắt đầu thân quen Long Bá vào một ngày tháng Bảy mưa phùn gió bấc ở Đàlạt. Mưa hoài mưa mãi không chịu tạnh. Mưa Ngâu! Quỳnh và Long có các câu đối thoại:
- Anh là sĩ quan cao cấp, chỉ huy trưởng trên thượng nguồn, đóng trong rừng sâu, toàn thác nước và suối ngàn. Ở đó, chỉ có chim, khỉ, cọp và voi. Làm gì có trường học, dân cư, mà anh nói với Quỳnh là: “Anh xin phép mẹ Quỳnh, cho em lên đó dạy học ?”
- Á! Vấn đề là nơi đó có đồng bào, dù tận rừng sâu nước độc thật. Em sẽ là hoàng hậu rừng xanh, của các em bé thơ ngây, chất phác, hiền lành và giản dị nhất. Nhe!
- Rừng sâu nước độc, chỉ có sốt rét. Ai dám ở.
- Anh sẽ cố gắng quy tụ dân cư, đem lại bình an cho từng thôn, xóm. Rồi thì… sau khi bình định, em sẽ ở nhà, dạy dỗ cho chính đàn con nhỏ xinh xinh của em, tạo thành một lớp học.
- Ô! Anh ví em như bà Âu Cơ, làm mẹ trăm con. Anh đùa dai thế.
- Anh không đùa. Anh nói rất thành thật.
- Ơi! Nhưng tháng nầy mưa Ngâu. Quỳnh sợ lắm! Quỳnh không muốn mình làm Chức Nữ. Càng không muốn anh trở thành Ngưu Lang đâu.
- Sao lại thế! Đến Ngưu Lang và Chức Nữ, mỗi năm vẫn có quạ Ô soãi cánh, nối nhịp cầu tơ duyên mà em! Còn thời buổi bây giờ, anh nhớ em, thì mình tự lái xe, hay đáp phi cơ về thăm em.
Hoài ơi! Quỳnh nghẹn lời vì xúc động. Sự ấm dịu bất chợt không có gì cưỡng nỗi, khiến Quỳnh điếng lặng và lịm người. Biết trả lời thế nào? Tiếng hót tình yêu đầy tình âu yếm đã đến. Mình đưa tay ngắt cánh lá vàng màu vương giả, không cảm giác đau nhức nơi bàn tay, bị gai hồng đâm chảy máu, mà cảm thấy vết thương sâu đậm rưng rưng ở trong lòng.
Như nhà địa chất đào bới lớp chert, ngọc thạch lựu, kim cương… Quỳnh luôn hoài tưởng, mơ mộng, mong bắt gặp hình ảnh thân yêu, ngọt ngào xiết đỗi, đã một thời làm chao đảo lòng ta. Quỷnh có muốn yêu người đã có vợ đâu. Có muốn buồn nhớ và tủi hờn. Tự nhiên định mệnh run rủi, lại yêu say đắm và khổ lụy .
Dòng suy nghĩ miên man, choáng váng liên miên, giờ Quỷnh hiểu dưới lớp vỏ trai mong manh, còn ẩn dấu sự sống thực, là cuộc chạy trốn bản ngã mình, trốn nhân sinh quan ẩn dấu trong lớp vỏ số phận. Nó gỏ trong tim Quỷnh đau nhức khốn cùng, không sao tả xiết.
Khác nào Quỷnh tự buộc chặt với chàng, như con tằm nhốt mình trong kén để nhã tơ, ấn tượng trong ký ức bỗng sống động, xúc động, vì đường nét hòa nhập thân quen, vang dội lại lòng mình muôn vàn yêu thương, kiều diễm một thời. Kể ra cũng cần đem cuộc đời vô duyên, đen bạc và hờn tủi của mình, đã kết tụ thành một hình hài bé nhỏ trong bụng.
Bây giờ, Quỷnh muốn quên, muốn dùng tất cả tình cảm cho con và học sinh. Nói thì dễ, không có nghĩa là quên ngay cuộc tình buồn, không hy vọng, là hết yêu, quên sự ra đi, trở về, đi về chua chát, phũ phàng dường bao trong hồi ức.
Tựa như sự có mặt của Bá bên bờ nhánh sông không tên, khi thuyền tình ghé lại. Mất hết rồi bao thi vị, và ý nghĩa từ chiếc bóng yếu ớt, lung linh như nụ cười méo mó nở trên mặt nước xô sóng. Chiếc bóng chập chờn lúc trời choạng vạng tối, thành lớp mạng nhện, phủ chụp lên mình sự mù lòa buông thả.
Khi tưởng tượng Bá sống với vợ, (dù anh bảo gia đình không hạnh phúc. Quỳnh đồng ý không hạnh phúc. Nhưng anh đã tạo ra gia đình đó. Anh phải có trách nhiệm bảo vệ và vun đắp. Không vì lý do gì anh chối bỏ, để cao chạy xa bay) Tuy nhiên, Quỳnh nghĩ đến hoàn cảnh mình, sự so sánh khiến Quỳnh không thể vô tư, nhất là sau nầy, Quỳnh biết Bá không chỉ có bà vợ bé, và nhiều cô bồ nhí khác. Quỳnh không thể vô tư, bình thản. Tuyệt vọng dường bao! Mà, Hoài có thấu hiểu cho Quỳnh khơng? Suốt đời Quỳnh nguyện sẽ không lập gia đình. Nhưng Quỳnh phải có một đứa con của chính mình sinh ra. Con sẽ là niềm hạnh phúc vẹn toàn, thay vào chỗ trống quá tàn nhẫn của số phận mình.
Thiên kiến tình cảm đầy ngang trái. Con thuyền yêu không làm bằng ván ghép, che nắng che mưa, chống chọi lại bão táp phong ba cuộc đời, mà như chiếc bóng bay giữa trời, hết chất thơ và trí tưởng tượng lãng mạn. Quỳnh âm thầm rút lui, ra khỏi đời anh. Cuộc tình như bong bóng đã mọc thêm hai cánh bay vút đi, quá đỗi là nhanh. Chẳng nên tiếc nhớ, mà phải ngậm ngùi, điếng lặng. Thôi.}*

Hoài đọc lời tâm sự trong “Bút ký của chúng mình”, rồi xếp tập lại, để trong hộc bàn. Vào giờ ra chơi, cô ngồi trong lớp, hồi âm cho Quỳnh:
**(Xuân Quỳnh, bạn thân mến!
Hoài chúc mừng bạn có những suy nghĩ chính xác. Không ai có lỗi cả, trong viêc để lại một góc tâm tư mình, chút ước nhớ luyến mong, về thời vàng son xa xưa. Số phận đã tước đoạt trên tay ta niềm hạnh phúc bé xíu, mà định mệnh đã an bài vào mùa thu năm kia, cho hai người gặp nhau, như trong câu chuyện thần thoại, và yêu nhau. Chính vì biết: Không phải là chuyện thần thoại, nên con người ai cũng có đôi ba lần vấp ngã.
Ngưu Lang và Chức Nữ, mỗi năm còn có một ngày hạnh phúc, nhờ quạ Ô làm cầu chắp cánh nối hai bờ, cho anh chị tương phùng tri ngộ. Họ sung sướng có diễm phúc ngồi dưới những cơn mưa Ngâu tầm tã ấy, quấn quít mừng vui trong nước mắt ân tình, thủ thỉ hàn huyên, khóc than, cho bỏ những ngày trống vắng, xa rời nhau. Rồi họ mòn mỏi hy vọng chờ đợi thời gian sẽ đến. Còn Quỳnh, chả còn gì để trông chờ. Phải thế không?
Câu chuyện về cái góc thiên đường của Quỳnh và Bá, thật là kỳ. Quỳnh như con chim non, vừa bay ra khỏi tổ, cuộc sống tưởng bình yên phẳng lặng, nào ngờ đã khắc ghi vào lòng quá đỗi buồn phiền. Nó vẫn ngấm ngầm theo mình sát nút, kèm những tiếng hót tuyệt vời, đầy tình âu yếm, ngọt ngào hương vị mùa xuân, đầy quyến rũ. Quyết định "nên hay không", vẫn do lòng ta, tùy ở cường độ yêu thương, và sự cứng rắn mỗi người.
Tiếng hót ân tình vẫn lách qua kẽ lá rì rào, vang lên giữa đám lá xanh, tình yêu theo không gian và thời gian, sẽ xuất hiện trở lại tươi xanh hay úa vàng? Màu vàng lá thu phong, có khác với màu hoa mimosa. Có ai nói hai màu vàng khác nhau, sẽ không cùng một mùa làm rụng hoa lá chia phôi?)**

Đôi bạn thường say sưa viết trao đổi đủ thứ chuyện, về kinh nghiệm nghề nghiệp, bản thân, chuyện đời phức tạp, viết cả những tập tục kỳ lạ của nguời kỳ lạ, nơi xa xôi kỳ lạ. Đó là những giờ phút ấm lòng, tuyệt diệu. Mình đến với nhau trong tình tri ngộ ngọt ngào, sống động và chân tình nhất: Hầu an ủi nhau, để bạn vơi đi nỗi muộn phiền đau đớn.
Kỷ niệm dịu êm từ thuở thiếu thời, lúc tóc còn chấm ngang vai, kiều diễm một thời con gái, khi bước chân bẽn lẽn, nhưng đầy hân hoan, cùng bạn rảo bước từ nhà lên trường Bùi thị Xuân. Tan trường, Quỳnh cùng bạn thong dong thả gót, trên đồi cỏ may nâu vàng, hoặc lượn bước dưới hàng thông xanh, bóng mịn và sạch trơn. Trời chưa rắc hoa tim tàn lên nấm mồ tình yêu. “Hoa tim tàn”. Phải, hoa tim tàn!
Qua một phần tư thế kỷ, đầy biến động hãi hùng, chua chát cay đắng dường bao, đã thay đổi tâm tư, tình cảm con người. Đến nỗi, bây giờ “người ấy” có muốn gặp cô, nối chiếc cầu tình bạn tri âm đơn thuần, thăm hỏi xã giao, Quỳnh vẫn không dám. Như cô và Bá trở thành hai người xa lạ, chưa từng quen biết, chưa yêu thương nhau. Hụt hẫng kinh khủng.
Dù, trong tiềm thức, đôi mắt cô vẫn thấy bóng hình chàng, qua kỷ niệm hồi ức xa xưa man mác, cảm động vô ngần.
*
Ưu Du
_ * _
(trích trong truyện dài CON ĐƯỜNG CẢO THƠM, tác giả Ưu Du)

Ái Ưu Du
#20 Posted : Monday, October 30, 2006 3:35:34 PM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

Chào VIET HOAI PHUONG,
Hahaha! Cưng khg biết nay chi đã quá già sao hỉ??!!! ráng trả lời TINH TRI NGO dây:
1.- Tri: là nhận biết rỏ về ai (chắc chắn)
Ngộ: hữu duyên lý thú, hay hay, cảm tình sâu sắc
2.- Nói khái quát là: Biết giá trị đặc biệt sâu sắc - Coi trọng - giúp đỡ - thú vị đối đãi xứng đáng (với những người, hay 1 người nào đó) mà người đời ÍT biết đến.
Chúc em vui. Cảm ơn bài viết đã gửi bên uudu60 nhe. Nè cưng, gủi ở đâu, thì nói trước đi...
Users browsing this topic
Guest (12)
2 Pages12>
Forum Jump  
You cannot post new topics in this forum.
You cannot reply to topics in this forum.
You cannot delete your posts in this forum.
You cannot edit your posts in this forum.
You cannot create polls in this forum.
You cannot vote in polls in this forum.