Welcome Guest! To enable all features please Login or Register.

Notification

Icon
Error

Phùng Há
Phượng Các
#1 Posted : Monday, July 25, 2005 4:00:00 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
[img]http://i3.photobucket.com/albums/y99/gactro/NamPhi-PhungHa.bmp[/img]

Năm Phỉ và Phùng Há





Phượng Các
#2 Posted : Thursday, July 28, 2005 9:21:14 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
Phượng Các
#3 Posted : Sunday, August 7, 2005 8:06:06 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
Gần 100 tuổi, nghệ sĩ tiền phong Phùng Há nói gì về cải lương?
Friday, July 22, 2005


Triều Giang

Một cây cổ thụ trong làng cải lương, tên tuổi vang lừng, được mọi ngừời trong giới nể nang kính trọng và gọi bằng “Má Bảy”, đã tiết lộ với chúng tôi nhiều vấn đề liên quan đến hoạt động cải lương trong suốt chiều dài lịch sử của bộ môn nghệ thuật nầy. Cuộc tiếp xúc gần hai tiếng đồng hồ tại Chùa Nghệ Sĩ, cũng đồng thời là trụ sỡ Hội Nghệ Sĩ Ái Hữu Tương Tế ở Gò Vấp.

Ký giả Triều Giang trong dịp về thăm quê hương đã đến viếng thăm vấn an sức khỏe nữ nghệ sĩ tiền phong Phùng Há, và được “Cụ Bà” tiếp tại nhà riêng trong khuôn viên Chùa Nghệ Sĩ, cũng là nơi có nghĩa trang mà nhiều nghệ sĩ từng vang bóng một thời an nghỉ tại đây, trong đó có Ba Vân, Hoàng Giang, Út Trà Ôn, Hà Triều Hoa Phượng, và cả nữ nghệ sĩ Thanh Nga.

Với tuổi đời đã 96 gần đất xa trời, Má Bảy vẫn còn hoạt động xã hội và hầu như lúc nào cũng nghĩ đến vấn đề khôi phục lại bộ môn nghệ thuật cải lương, và đề ra đường hướng của cải lưong trong tương lai.

Là người hoạt động cải lương hơn 8 thập niên, bà Phùng Há đã chứng kiến bao sự thăng trầm của bộ môn nghệ thuật nầy. Nhận định về “người nghệ sĩ” thuộc thế hệ của bà và các thế hệ sau đó có những đều nào cần sửa đổi, cũng như “người nghệ sĩ trong tương lai” phải như thế nào.

Hơn 80 năm phục vụ nghệ thuật và gần 100 tuổi đời, nữ nghệ sĩ tiền phong Phùng Há đã nói gì với chúng tôi và loạt bài nầy sẽ khởi đăng vào kỳ tới, mời quý vị theo dõi.
.Gặp gỡ nghệ sĩ tiền phong Phùng Há: Gần 100 tuổi, Má Bẩy nói gì về cải lương?

Friday, July 29, 2005


Triều Giang

(Ký sự)

Lái chiếc xe hai bánh Honda Dream chạy trên đường Hai Bà Trưng, nối liền với đường Võ Di Nguy, Phú Nhuận sau khi vượt qua Cầu Kiệu dẫn đến Bệnh Viện Cộng Hòa ngày xưa, mà ngày nay gọi là Bệnh Viện 175 và đường Nguyễn Kiệm. Chiếc xe của chúng tôi chen lẫn giữa rừng xe gắn máy, mà hầu như lúc nào cũng nơm nớp lo sợ có thể bị gây tai nạn dễ dàng, do bởi không biết bao nhiêu chiếc xe đồng loại chạy đâm vào mình mỗi khi họ muốn băng ngang đường, và chỉ trong gang tấc là sẽ đụng nhau, nhứt là ở các giao điểm ngã tư, ngã năm, ngã sáu.... Nhưng rồi không sao cả, bởi lúc sắp sửa chạm vào nhau thì những chiếc xe kia đã nhanh nhẹn né tránh được, và chúng tôi tới đã chợ Hạnh Thông Tây, nơi có con lộ nhỏ dẫn vào Chùa Nghệ Sĩ, tọa lạc tại một khu đất rộng trên nửa mẫu tây, thuộc quận Gò Vấp, cách trung tâm Sàigòn khoảng 10 cây số.

Vừa vào cổng chùa, chúng tôi gặp một người ở cánh tay mang băng vải có chữ “bảo vệ”, thì biết chùa nầy có tổ chức đàng hoàng, chớ không phải như nơi tu niệm thông thường của vị sư nào đó tự thành lập. Sau khi biết được ý định của chúng tôi muốn gặp Má Bảy Phùng Há thì người bảo vệ nói ngay là Má Bảy đi khám bác sĩ, có nghĩa là không có mặt ở đây, và ông ta nói thêm rằng Má Bảy đã 96 tuổi, bệnh hoài!

Chúng tôi thất vọng nhưng chưa vội ra về mà ở lại thêm một lúc quan sát cây cảnh rất đẹp quanh chùa, cố ý chờ Má Bảy khám bệnh xong trở về sẽ gặp được bà, nhưng vài phút sau thì có một người phụ nữ từ trong chùa đi ra phân bua với người bảo vệ điều gì đó, mà trong câu chuyện của họ vô tình chúng tôi được biết rằng Má Bảy Phùng Há hiện đang có mặt trong chùa chớ không phải đi bác sĩ hay đi đâu cả. Và để tránh chúng tôi nghe được chuyện đang nói nên hai người cùng đi xa ra một khoảng cách, tiếp tục trao đổi sự việc.

Thấy vậy chúng tôi kiếu từ ra về và ghé vào một quán nước cạnh chùa kêu thức uống, đồng thời hỏi thăm người chủ quán về việc muốn gặp bà Phùng Há, thì người nầy cho biết không dễ gì gặp được Má Bảy đâu, bởi có nhiều người đến đây phải đành ra về, kể cả báo chí muốn gặp phỏng vấn cũng khó mà gặp được. Bà chủ quán nói thêm rằng bác sĩ căn dặn Má Bảy cần tịnh dưỡng, không được tiếp xúc nói chuyện nhiều sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe tuổi thọ... đồng thời cũng cho biết thỉnh thoảng thấy bà Phùng Há rời chùa đi đâu đó bằng xe du lịch, do người tài xế của ông bầu Xuân lái, và hầu như lần nào cũng thấy ông bầu Xuân ngồi bên cạnh Má Bảy.

Chúng tôi nghĩ bụng năm nay Má Bảy đã 96 tuổi, có thể ra đi bất cứ lúc nào, nếu lần nầy không tiếp xúc được, rủi không còn cơ hội thì sao? Ngày hôm sau chúng tôi nghĩ ra phương cách và trở lại đây một lần nữa, và lần thứ hai nầy chúng tôi đổi chiến thuật bằng cách viết sẵn một mảnh giấy ghi rõ nghề nghiệp ký giả kịch trường, đồng thời ghi luôn chức vụ đang hoạt động trong tổ chức văn hóa cổ nhạc cải lương ở hải ngoại. Người bảo vệ mang giấy vào chùa và vài phút sau ông ta trở ra vui vẻ mời chúng tôi vào nơi làm việc của ông Bầu Xuân, hội phó thường trực Hội Nghệ Sĩ Ái Hữu Tương Tế (Má Bảy là hội trưởng).

Giữa cái nóng nực oi bức của mùa Hè ở Sài Gòn, nơi phòng làm việc của ông Bầu Xuân có máy lạnh nên rất thoải mái khi đàm luận, và ông Bầu Xuân cho biết Má Bảy tuổi cao sức yếu, đôi lúc bị lẩn nên thời gian gần đây bà ít tiếp xúc với mọi người. Nhưng đặc biệt đối với chúng tôi là người đang hoạt động cổ nhạc cải lương ở hải ngoại, ông sẵn sàng đưa vào tiếp xúc với Má Bảy Phùng Há.

Trong lúc chờ đợi để được ông Bầu Xuân đưa vào gặp Má Bảy Phùng Há, chúng tôi không bỏ lỡ dịp phỏng vấn chớp nhoáng ông bầu Xuân về hoạt động và vai trò của ông tại Chùa Nghệ Sĩ. Chúng tôi được biết ông nguyên là giám đốc đoàn hát Dạ Lý Hương nổi tiếng thời kỳ trước 1975, các nghệ sĩ tên tuổi như Hùng Cường, Bạch Tuyết, Dũng Thanh Lâm, Út Trà Ôn từng cộng tác với đoàn hát của ông, đồng thời trước đó ông cũng là chủ nhân hãng sản xuất giấy vệ sinh hiệu Kiss Me. Sau 1975 ông bị cho đi học tập cải tạo vì tội “Tư Sản Văn Hóa”. Sở dĩ ông đang điều hành tại chùa nầy là do thời kỳ còn làm bầu đoàn hát Dạ Lý Hương, ông từng bỏ tiền ra trả nợ cho chùa để ngôi chùa được tồn tại.

Người bên trong đi ra báo tình trạng của Má Bảy Phùng Há, ông Bầu Xuân đích thân đưa chúng tôi vào gặp bà tại phòng khách nhà riêng ở phía sau chùa, và vài phút sau một người phụ nữ khoảng tuổi 40 dìu bà Phùng Há ra phòng khách, chứng tỏ sự đi đứng của Má Bảy đã khó khăn. Vừa nhìn thấy bà, chúng tôi không khỏi bàng hoàng xúc động một vài giây, bởi trước mặt tôi là một lão bà tay yếu chân run, và chúng tôi liên tưởng thời thập niên 1950 từng nhìn thấy bà oai dũng trong vai tráng sĩ Kinh Kha, múa kiếm thích khách Tần Thủy Hoàng, cũng như uy nghiêm trong vai Lữ Bố, tuồng Phụng Nghi Đình.

Sau khi hỏi thăm về sức khỏe, Má Bảy bắt đầu kể cho chúng tôi biết hoạt động của bà trong suốt nhiều thập niên ở lãnh vực cải lương, và cho biết tổng quát về thân thế sự nghiệp của bà như sau:

Tên thật của bà là Trương Phụng Hảo, và tên Phùng Há là nghệ danh. Bà sinh ngày 30 tháng 1 năm 1911 tại Làng Điều Hòa, Tổng Trương Thị, Tỉnh Mỹ Tho, cha là người Hoa: Ông Trương Nhơn Từ, người Hạt Sơn, Quảng Đông di cư sang Việt Nam lập nghiệp, cưới vợ và sinh được cả thảy 7 người con. Bà là người áp út, tức thứ bảy theo như cách gọi của người miền Nam (người con đầu là thứ hai).

Năm 13 tuổi, từ một “con xẩm lai ca hay”, bà được ông Hai Cu chủ gánh hát Tái Đồng Ban mời về làm đào chánh, đóng cặp với những nghệ sĩ đương thời tên tuổi như Năm Châu, Ba Du... Hai năm sau đó, bà nghỉ hát cho Tái Đồng Ban qua gánh của Thầy Năm Tú, Trần Đắc, Huỳnh Kỳ, Phước Cương.

Với hàng trăm vai diễn từng làm say mê người hâm mộ , với các vở tuồng: Lưu Kim Đính giải giá Thọ Châu, Phụng Nghi Đình, Kiều Nguyệt Nga, An Lộc Sơn, Tô Ánh Nguyệt, Đời Cô Lựu, Sân Khấu Về Khuya, Đoạn Tuyệt..., trong các vai ấy, vai Lữ Bố trong Phụng Nghi Đình trải qua thời gian hơn nửa thế kỷ, người hâm mộ vẫn còn nhắc đến.

(còn tiếp kỳ sau)


.



Gặp gỡ nghệ sĩ tiền phong Phùng Há
Friday, August 05, 2005


Triều Giang ghi

Gần 100 tuổi, Má Bảy nói gì về cải lương?



Từ những năm đầu thập niên 1950 có nhiều lần đi ngang vùng phía sau chợ Cầu Muối ở đường Cô Giang, Cô Bắc chúng tôi có nhìn thấy căn nhà khá rộng đề bảng Hội Nghệ Sĩ Ái Hữu (thời đó chưa có chữ Tương Tế), và thắc mắc không biết chỗ nầy có liên quan gì đến cải lương không?

Cũng cần nói rõ con đường Cô Giang và Cô Bắc có tên từ thời Pháp thuộc, là hai con đường nhỏ ăn thông ra đường lớn Kitchener, nơi có nhà sách Yểm Yểm Thư Trang mà chúng tôi thường vào đây nếu không mua sách thì cũng coi cho đã mắt. Ðến khoảng 1957 hầu hết các con đường ở Ðô Thành Sài Gòn, Chợ Lớn được đổi tên và không biết do cố ý hay vô tình trùng hợp, mà con đường lớn Kitchener lại được đổi tên Nguyễn Thái Học và đường Cô Giang đương nhiên nằm bên cạnh.

Vốn đam mê cải lương nên thấy chữ “nghệ sĩ” là chúng tôi liên tưởng đến các gánh hát, cùng đào kép hằng đêm diễn tuồng trên sân khấu ở các rạp hát trong đô thành, và tìm hiểu thì được biết đây là trụ sở của một tổ chức hoạt động xã hội, mà số người tham gia thuộc thành phần nghệ sĩ cải lương. Ngoài ra chúng tôi cũng được biết bà Phùng Há đào chánh gánh hát Phụng Hảo hội trưởng, và hội đã có từ bao giờ, đã làm được những gì chúng tôi không rõ.

Rồi những thập niên sau thỉnh thoảng chúng tôi vẫn nghe đề cập đến Hội Nghệ Sĩ Ái Hữu và bà Phùng Há vẫn là hội trưởng, có nghĩa không ai thay thế Má Bảy ở chức vụ nầy. Mãi cho đến bây giờ đã 96 tuổi, Má Bảy vẫn là người đứng đầu của hội, như thế thì đâu có ai rành hơn bà về tổ chức cũng như hoạt động của Hội Nghệ Sĩ Ái Hữu Tương Tế.

Hôm nay sẵn dịp được Má Bảy Phùng Há tiếp tại Chùa Nghệ Sĩ, chúng tôi không quên hỏi Má Bảy về Hội Nghệ Sĩ Ái Hữu, vì đây là một tổ chức được coi như lâu đời, mà qua các triều đại chính quyền vẫn tồn tại. Sau đây là những câu hỏi của chúng tôi, ký giả Triều Giang (TG) được Má Bảy Phùng Há (MB) trả lời.


- TG: Kính thưa Má Bảy, được biết Má Bảy là hội trưởng Hội Nghệ Sĩ Ái Hữu Tương Tế rất nhiều năm, vậy xin Má Bảy cho độc giả biết hội được thành lập từ bao giờ, mục đích là gì và những ai đã đứng ra thành lập?


- MB: Tôi theo nghiệp cầm ca từ lúc còn rất nhỏ tuổi, nhờ Tổ đãi đã thành danh rất sớm trên sân khấu cải lương, năm 30 tuổi thì sự nghiệp nghệ thuật đã vững vàng, nhưng tôi nhận thấy cuộc đời nghệ sĩ đi theo gánh hát, gạo chợ nước sông, rày đây may đó cuộc sống lênh đênh không nơi định cư nhứt định, khi về già sẽ không nơi nương tựa, do đó tôi nghĩ rằng mình phải làm cái gì đó để giúp đỡ giới nghệ sĩ cải lương khi không còn đi hát được. Vào năm 1947 trong một buổi họp mặt với các nghệ sĩ cùng thời như Năm Châu, Năm Phỉ, Duy Lân, Bảy Nhiêu, Tư Trang, Bảy Nam, Năm Nở, Từ Anh..., chúng tôi đã bàn bạc vấn đề trên, kết quả là đưa đến việc thành lập một tổ chức xã hội, từ thiện trong giới nghệ sĩ: Hội Nghệ Sĩ Ái Hữu ra đời năm 1948.


- TG: Thưa Má Bảy, như vậy thì Hội Nghệ Sĩ Ái Hữu có từ thời Pháp, nghe nói thời đó rất khó xin được giấy phép để thành lập hội nầy, hội nọ, vậy khi thành lập Hội, Má Bảy và các nghệ sĩ có gặp khó khăn nào không?


- MB: Cậu nói không sai, thời đó dễ gì được cho giấy phép lập hội, Tây nó sợ lập hội rồi chống lại sự cai trị nên đâu có cho, tôi phải chạy lo đủ thứ giấy tờ, nhờ vả hết người nầy đến người khác mới được.


- TG: Xin Má Bảy cho biết cụ thể nhờ đâu mà Hội Nghệ Sĩ Ái Hữu được thành hình, ai đã vận động xin được giấy phép? Nếu có xin Má Bảy cho biết cụ thể?


- MB: Chuyện dài lắm, nếu kể hết té ra tôi khoe khoang sao, thôi biết như vậy được rồi, có dịp khác tôi nói rõ hơn.


Má Bảy Phùng Há chỉ đại khái trả lời như vậy, và do sự tế nhị của vấn đề, cũng như tôn trọng ý của bà, chúng tôi không hỏi thêm sự việc từng được nghe kể như sau:

Thời thập niên 1960, trong một buổi mạn đàm giữa nghệ sĩ Năm Châu và ký giả Trần Tấn Quốc tại một tiệm cà phê gần Ngã Tư Quốc Tế. Năm Châu nói rằng Hội Nghệ Sĩ Ái Hữu được thành lập là nhờ bà Phùng Há tài sắc, nếu không có bà chắc cũng không có hội, ông nói rằng thời người Pháp còn cai trị xứ nầy, chánh quyền thời đó không hề muốn có một tổ chức nào hoạt động, có thể trở thành mầm mống chống đối, do đó vấn đề thành lập Hội Nghệ Sĩ Ái Hữu cũng gặp phải khó khăn. Thế nhưng, bà Phùng Há và các nghệ sĩ vẫn thành lập được, là do lúc bấy giờ bà Phùng Há là trang tài sắc, rất nhiều chàng trai để ý đeo đuổi, trong số có cậu công tử con của vị Ðốc Phủ Sứ đương kim Tỉnh Trưởng Mỹ Tho. Cậu công tử nầy du học từ Pháp về mang quốc tịch Pháp tên Phước George đã theo sát cô đào Phùng Há. Không biết có phải vì mê cải lương (có lý nào học bên Tây về mà lại mê cải lương) hay mê cô đào đóng vai Lưu Kim Ðính, mà sau khi xem xong tuồng Lưu Kim Ðính giải giá Thọ Châu thì công tử Phước George đến sau hậu trường xin chữ ký cô đào vừa đóng xong vai Lưu Kim Ðính, tức nghệ sĩ Phùng Há.

Sau đó Phước George đến rạp hát mỗi ngày, kết thân với Má Bảy và bỏ tiền ra thành lập gánh hát Huỳnh Kỳ, giao cho bà quản lý toàn bộ, và còn vận động chính quyền Pháp cho phép thành lập Hội Nghệ Sĩ Ái Hữu, đồng thời cũng bỏ tiền ra giúp bà mua căn nhà lớn ở đường Cô Bắc làm trụ sở của hội.

(còn tiếp kỳ sau)

nguoi-viet.com
Phượng Các
#4 Posted : Sunday, August 21, 2005 6:42:27 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
Triều Giang
Nhờ có trường đua Phú Thọ, mới có tiền mua đất xây Chùa Nghệ Sĩ

(tiếp theo kỳ trước)


Ðó là sự việc nói về sự hình thành của Hội Nghệ Sĩ Ái Hữu mà trước đây chúng tôi từng được nghe kể qua và nhân tiện đây xin nói ra luôn, chớ Má Bảy Phùng Há không có tiết lộ như vậy. Chúng tôi tiếp tục phỏng vấn Má Bảy vấn đề khác cũng liên quan đến hoạt động của Hội, mà ngay cả nhiều nghệ sĩ không theo dõi vấn đề cũng không biết.


TG: Thưa Má Bảy, Hội Nghệ Sĩ Ái Hữu hoạt động liên tục từ hơn nửa thế kỷ nay, thời gian dài như vậy dĩ nhiên thành tích phải có nhiều mới được sự ủng hộ, tồn tại và phát triển. Xin Má Bảy cho biết Hội đã làm được những điều gì đáng kể, cũng như thành quả nào được coi như nổi bật nhứt của Hội từ trước đến giờ?


MB: Trước hết phải nói đến trụ sở của Hội Ái Hữu Nghệ Sĩ ở đường Cô Bắc, là nơi hội họp sinh hoạt của giới nghệ sĩ cải lương, hát bội, nhiều vấn đề liên hệ đến nghệ sĩ đã được họp giải quyết tại đây. Trụ sở cũng từng có tổ chức những lớp học dạy ca, dạy hát, dạy đờn, ngoài ra hằng năm Ban Tuyển Chọn Giải Thanh Tâm cũng họp tại đây để xét trao giải.

Còn về phần hoạt động của hội thì phải nói rằng có rất nhiều công việc, như tổ chức những buổi hát giúp nghệ sĩ nghèo, hát lấy tiền giúp chi phí các đám tang của nghệ sĩ, có những nghệ sĩ cải lương hát đêm nào lãnh tiền ăn bữa nấy mà còn mắc nợ, khi chết thì không có hòm chôn! Hội cũng đã từng tổ chức hát gây quỹ giúp nhạc sĩ Sáu Lầu, cha đẻ bản vọng cổ, bởi khi về già cuộc sống của ông vô cùng thiếu thốn, bi đát! Nhưng điều đáng nói, đáng ghi hơn hết là vận động tiền mua đất xây cất Chùa Nghệ Sĩ và Nghĩa Trang Nghệ Sĩ trong khu đất này.


TG: Nghe nói Chùa và nghĩa trang đã do chính Má Bảy vận động tài chánh để tạo dựng, vậy xin Má Bảy cho biết tiền vận động được từ đâu và những ai, những tổ chức nào đã giúp?


MB: Ngày nay giới nghệ sĩ cải lương có Chùa Nghệ Sĩ để tu niệm, có nghĩa trang để chôn là nhờ... ngựa chạy đó!

Câu nói kể khá vui, mới nghe thật tức cười, chúng tôi tưởng đâu Má Bảy nói chuyện vui nào đó, hoặc là nghĩa bóng “ngựa chạy đường dài mới biết ngựa hay”, nói lên sự kiên trì, bền bỉ, đóng góp lâu dài nên mới có chăng? Thế nhưng chuyện “ngựa chạy” đem lại việc có Chùa, có nghĩa trang là có thật trăm phần trăm, nhờ những con ngựa “chiến” ở trường đua Phú Thọ hàng tuần chạy đua giúp vui cho thiên hạ mà Má Bảy có được điều kiện tốt để xây cất Chùa, lập nghĩa trang cho giới nghệ sĩ. Và câu chuyện được tiếp tục như sau:


TG: Tại sao chuyện ngựa chạy lại dính vô vấn đề, là việc đáng ghi của hội, chắc là có điều gì rất đặc biệt xin Má Bảy nói rõ hơn?


MB: Sự thiệt nó là như vậy đó, nhờ có đua ngựa ở trường đua Phú Thọ nên tôi mới có tiền mua miếng đất trên nửa mẫu tây nầy để cất Chùa, lập nghĩa trang, hay nói đúng hơn là nhờ tiền lời đua ngựa của một ngày Chủ Nhật đã giúp tôi mua. Nhưng không phải khi không chẳng có gì hết mà trường đua ngựa nó giúp tôi đâu, cải lương đâu có ăn nhập gì với ngựa đua, mà cũng nhờ có trước có sau mới được, “hòn đất ném đi, hòn chì ném lại” đó!

Trước khi tiếp tục câu hỏi và câu trả lời chi tiết của Má Bảy có liên quan đến trường đua Phú Thọ, chúng tôi xin đề cập sơ qua về một địa điểm vừa giải trí lại vừa có tính cách cờ bạc, mà có lẽ những người miền Nam, đặc biệt là những cư dân từng sinh sống ở Ðô Thành Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Ðịnh nếu chưa từng vào xem cũng có nghe qua. Thật vậy, trong chúng ta nếu có lần xử dụng các con đường Lê Ðại Hành, Trần Quốc Toản, Nguyễn Văn Thoại, Lữ Gia sẽ nhìn thấy chạy dọc một bên của các con đường nầy là hàng rào tường bao bọc khu đất rộng hơn cả chục mẫu Tây, đó là: Trường Ðua Phú Thọ, tọa lạc tại xã Phú Thọ Hòa, do người Pháp thành lập xây dựng trên cả trăm năm nay, với mục đích dùng làm nơi giải trí cuối tuần của giới hâm mộ đua ngựa. Ngoài việc coi ngựa chạy giải trí, người ta còn đánh cá xem ngựa nào về nhứt, con nào về nhì, mà lúc bấy giờ việc đánh cá ngựa cũng là giải trí thôi, chớ không nhắm vào ăn thua.

Những năm cuối thập niên 1940 lực lượng võ trang Bình Xuyên chiếm cứ vùng đất bên kia cầu Chữ Y, Bảy Viễn kiểm soát cả vùng Chợ Lớn, khai thác sòng bạc Kim Chung, Ðại Thế Giới và luôn cả trường đua Phú Thọ cũng vào tay lãnh chúa nầy, do đó mà đến năm 1955 xảy ra chiến tranh giữa lực lượng võ trang Bình Xuyên và quân đội Quốc Gia thì Trường Ðua Phú Thọ đương nhiên bị đóng cửa. Thời Bình Xuyên còn khai thác trường đua Phú Thọ thì đánh cá ngựa trở thành môn cờ bạc lôi cuốn con người ta, nhiều người tán gia bại sản cũng vì đánh cá ngựa mà tiếng lóng gọi là “bị ngựa đá”!

Trường đua bị đóng cửa khiến cho dân ghiền đi coi ngựa chạy mỗi tuần mất đi môn giải trí độc đáo, dân chuyên đánh cá ngựa cũng mất nơi ăn thua mỗi cuối tuần. Lúc Bình Xuyên bị đánh đuổi ra khỏi vùng Chợ Lớn, bị tiêu diệt tại Rừng Sát rồi mà trường đua cũng vẫn chưa mở cửa trở lại và có chiều hướng bị dẹp luôn, do bởi vấn đề “đánh cá ngựa”, mà chủ trương của chính phủ thời Ðệ Nhứt Cộng Hòa là cấm cờ bạc dưới mọi hình thức.

Tình trạng này khổ nhứt là những người có ngựa đua, những con ngựa chiến khác với ngựa rẻ tiền dùng kéo xe thổ mộ, kéo xe cá hằng ngày đậu tại bến chợ Cầu Ông Lãnh, chợ Bình Tây và các chợ trong đô thành chờ vận chuyển hàng hóa. Thời đó một con ngựa kéo xe chỉ mua vài ngàn đồng, thì con ngựa đua phải mua mấy chục ngàn, có con trên cả trăm ngàn nếu có lịch sử từng đua thắng nhiều độ. Giờ đây trường đua đóng cửa không lẽ đem ngựa đua cho kéo xe thổ mộ, bao nhiêu vốn liếng đổ vào coi như mất hết sao? Do đó mà sau thời gian cả năm trời cho ngựa nghỉ dưỡng sức dài hạn, các chủ ngựa đua họp lại gián tiếp thành lập “Hội Ðua Ngựa Trường Ðua Phú Thọ” (chỉ nói thôi chớ hội không có trên giấy tờ), và đi vận động nhiều nơi, vận động với các hội từ thiện như: Viện Mồ Côi, Viện Dưỡng Lão, các Hội Ái Hữu v.v..., cùng ký tên trong đơn xin cho trường đua Phú Thọ hoạt động trở lại, và hứa rằng sẽ đặc biệt dành những buổi tiền lời để giúp các hội tự thiện, ái hữu nói trên.

Chúng tôi tiếp tục đặt câu hỏi:


TG: Có phải là nhờ nhiều tổ chức từ thiện, các hội ái hữu ủng hộ mà Hội Ðua Ngựa Trường Ðua Phú Thọ đã được cho phép hoạt động trở lại, và riêng Má Bảy thì với danh nghĩa Hội Trưởng Hội Nghệ Sĩ Ái Hữu, Má Bảy đã cùng ký tên vào đơn xin hỗ trợ cho hội đua ngựa lúc bây giờ?


MB: Ðúng như vậy! Tôi thấy tờ đơn nói rất hợp tình hợp lý nên ký tên ủng hộ, bởi lý luận của Hội Ðua Ngựa khá vững chắc, họ viện dẫn rằng trường đua Phú Thọ là nơi giải trí lành mạnh, là nghệ thuật coi giò coi cẳng con ngựa cũng giống như dân mê đá gà coi dãy, coi cựa vậy thôi! Còn chuyện đánh cá thì chỉ những người nào có máu ham mê cờ bạc thì họ mới đánh cá ăn thua lớn, chớ đa số là đánh cá mua vui, nếu là dân cờ bạc thì ở đâu họ cũng đánh bạc chớ không phải có trường đua ngựa họ mới ăn thua.


TG: Lý luận đó vững quá, vậy đơn xin còn nêu lên vấn đề nào thực tế nữa không mà được rất nhiều tổ chức ủng hộ, như Hội Nghệ Sĩ Ái Hữu của Má Bảy?


MB: Phải! Trong đơn xin phép cũng chứng minh hiện nay nhiều nước trên thế giới có đua ngựa, bên Ăng Lê, bên Tây, bên Tàu, bên Mỹ nói chung Âu Châu, Á Châu, Mỹ Châu đều có đua ngựa giải trí, không lẽ chúng ta có sẵn trường đua lại dẹp bỏ đi sao? Hơn nữa số tiền đánh thuế trường đua Phú Thọ không phải nhỏ!

Cuối cùng thì Má Bảy cho biết trường đua Phú Thọ được phép cho hoạt động trở lại, và năm 1957 bà đã lấy danh nghĩa Hội Nghệ Sĩ Ái Hữu xin Hội Ðua Ngựa Trường Ðua Phú Thọ một ngày tiền lời để mua đất cất Chùa Nghệ Sĩ và nghĩa trang.


Chùa nghệ sĩ Nhựt Quang Tự (1958) giống như cái am cho nghệ sĩ vào cúng bái. Trong hình Má Bảy Phùng Há (chấm đỏ bên trái) đứng cạnh ông bầu Xuân, giám đốc đoàn Dạ Lý Hương.

(còn tiếp kỳ sau)






(tiếp theo kỳ trước)


Tiếp tục phỏng vấn Má Bảy Phùng Há về Chùa Nghệ Sĩ thì được Má Bảy cho biết thêm sau khi Hội Ðua Ngựa Trường Ðua Phú Thọ đồng ý giúp cho một ngày tiền lời đua ngựa thì công cuộc tìm mua đất cất Chùa, lập nghĩa trang được tiến hành ngay. Thế nhưng, không phải có tiền rồi mua được liền, mà phải trải qua nhiều giai đoạn gian nan, chán chường bỏ ra không biết bao nhiêu thì giờ công sức, bởi nhiều khó khăn phức tạp của vấn đề mà mãi đến cả năm sau Hội mới mua được miếng đất.


- TG: Theo như chúng tôi được biết thì vào thời điểm 1957 đất cát ở vùng Gia Ðịnh muốn mua cũng không khó lắm, điển hình là có rất nhiều chùa Phật Giáo được xây cất ở thời gian đó, vậy thì do đâu việc mua đất cất Chùa Nghệ Sĩ phải cả năm sau?


- MB: Nếu chỉ cất Chùa thôi thì dễ dàng mua đất và cũng dễ xin giấy phép, nhưng đằng nầy Hội Nghệ Sĩ Ái Hữu phải thực hiện hai công việc cùng một lúc là vừa cất Chùa, đồng thời lập nghĩa trang luôn, và cũng do tìm kiếm mua đất thích hợp cho cả hai mục tiêu nên mới khó khăn.


- TG: Ðể cho giới nghệ sĩ cải lương sau nầy hiểu rõ công lao của người đi trước, xin má Bảy cho biết một vài khó khăn cụ thể mà lúc bấy giờ Hội đã gặp phải trong vấn đề mua đất?


- MB: Lúc đó ở gần Ðô Thành Sài Gòn thì không có đất rộng, có chăng thì giá cả cũng rất đắt, số tiền của Hội có không thể vói tới (má Bảy không nói rõ là Hội có bao nhiêu tiền và chúng tôi cũng không hỏi việc đó), hơn nữa nếu ở gần Ðô Thành hay Thị Xã Gia Ðịnh thì không thể xin giấy phép được. Như tôi đã nói cất Chùa thì dễ hơn, đất cũng không cần rộng lắm, và giấy phép cũng dễ xin, chớ còn kèm theo nghĩa trang thì việc xin giấy phép là cả một vấn đề, không có xã nào muốn đem thây ma xác chết về chôn ở địa phương mình, thành thử ra khó khăn vô cùng và mất rất nhiều thời gian.


- TG: Gồm chung hai vấn đề gặp khó khăn, thế nhưng tại sao Hội không tách hai vấn đề ra, cất chùa riêng và lập nghĩa trang riêng?


- MB: Theo ý kiến của đa số người trong Hội lúc bấy giờ thì muốn cho giới nghệ sĩ vừa đi Chùa vừa đi thăm viếng chăm sóc mồ mả đồng nghiệp luôn, chớ nghĩa trang riêng thì hiếm có người đi thăm, bởi lúc đó có nhiều nghệ sĩ tuổi đã về chiều, một số đã nằm xuống rồi.


- TG: Còn những gian nan, chán chường, khó khăn trong vấn đề đi mua đất mà má Bảy đề cập khi nãy là những gì vậy?


- MB: Khi đã đi coi vừa ý một mảnh đất, đã thương lượng xong với chủ đất thì liền sau đó tôi và anh Năm Châu phải liên hệ ngay với chính quyền xã ấp địa phương về việc cấp giấy phép, nếu chính quyền đồng ý thì mới tiến hành thủ tục mua bán, chớ như mua đất rồi mà không xin phép được thì làm sao đây? Mục tiêu của Hội là cất Chùa và lập nghĩa trang cho nghệ sĩ, nhưng bất cứ ở xã nào trong tỉnh Gia Ðịnh chúng tôi cũng gặp khó khăn trong vấn đề cho phép, chỗ nào cũng nói: Chờ xét! Mà mỗi lần như vậy là mất đôi ba tuần, có khi mất trên cả tháng và cuối cùng thì nhiều xã ấp đưa ra đủ lý do để từ chối cấp giấy phép.


- TG: Những lý do nào mà các chính quyền ở địa phương đưa ra để không chấp thuận việc cấp giấy phép, xin má Bảy cho biết một vài thí dụ?


- MB: Họ đưa ra cả chục lý do, nói rằng phải chi xin phép lập hãng xưởng, xây dựng cơ sở làm ăn như vừa qua mấy người Tàu xin lập hãng nước đá thì họ cho phép liền mà còn hoan nghinh, chớ đằng nầy xin lập nhị tỳ thì phải xét cho kỹ lưỡng, đem nhị tỳ về đây buồn lắm! Họ viện rất nhiều lý do để từ chối cấp giấy phép mà trong đó có cả lý do... sợ ma nữa, mới thật là buồn cười, thật là vô lý!


- TG: Vấn đề “sợ ma” họ chứng minh thế nào vậy má Bảy, có phản khoa học hay không, có thực tế không hay chỉ nói vu vơ?


- MB: Có lần khoảng gần Tết đầu năm 1958, chúng tôi chọn được miếng đất hơn một mẫu Tây trên miệt Bà Quẹo, giá cả vừa phải, vừa túi tiền của Hội lúc đó và chủ đất cũng mong chúng tôi mua xong sẽ có tiền ăn Tết, đồng thời chia cho con cái số vốn làm ăn, bởi họ đang nghèo mong cho đất có người mua. Thế nhưng, khi đến chính quyền Hội Ðồng Xã địa phương hỏi về việc cấp phép thì xã không chấp thuận với lý do sợ ma, mà tôi còn nhớ lúc bấy giờ ở giữa phòng họp có chiếc bàn lớn, chúng tôi ngồi một bên, viên chức xã ngồi một bên nói chuyện. Bên chúng tôi gồm 5 người và anh Năm Châu được đề cử ăn nói với làng xã, còn 4 người chúng tôi gồm có anh Duy Lân, anh Tư Trang, chị Bảy Nam và tôi thì ngồi nghe nhiều hơn. Bên phía xã thì có thầy Hương Quản, tức Hội Viên Cảnh Sát, ông Hội Viên Kinh Tế, ông Hội Viên Giáo Dục cùng vài viên chức khác của xã, ông Hội Viên Kinh Tế nói trước: Miếng đất mà quý ông bà đào kép hát cải lương mua đó, nó nằm cạnh con đường qua lại làm ăn của dân chúng, họ đi khuya về sớm, những người gánh rau cải, bầu bí cho bạn hàng đem xuống bán các chợ ở Sài Gòn, họ đi ngang miếng đất đó từ 4, 5 giờ khuya và dân đi làm ruộng rẫy, cắt lúa đập lúa cũng đi ngang đó lúc mặt trời chưa mọc, nếu làm nhị tỳ ở đây khiến họ sợ ma không dám đi sớm, ảnh hưởng đến công chuyện mua bán làm ăn của họ.

Viên chức trông coi về Kinh Tế nói đến đây thì ông Giáo Dục nói rằng, ở xã lân cận cho lập nhị tỳ cũng nằm sát con đường học trò đến trường, trẻ con nhát ma với nhau không dám đi học, và có lần bọn chúng chơi trò trốn kiếm trong nghĩa địa, một đứa bị ma giấu (?)tới chừng dẫn chó đi cho sủa thì gặp nó ngồi gần bên cái mả mới chôn, miệng ngậm đầy đất sét! Rút kinh nghiệm nên với tư cách người trông coi về sự học hành của xã tôi chống lại việc lập nhị tỳ! Còn thầy Hương Quản thì thực tế hơn, ông nói rằng lập nhị tỳ tại đây thì là chỗ ẩn náo tốt cho bọn bất lương trộm cướp, chúng sẽ lợi dụng sự vắng vẻ cướp giựt người đi đường, tạo sự bất an trong xã. Là viên chức có trách nhiệm về an ninh ở địa phương, ông cũng không chấp thuận làm nghĩa địa ở đây, xin quí ông bà đi kiếm đất chỗ khác.

Biết là họ không chấp thuận rồi, nói nhiều cũng vô ích, nghệ sĩ Năm Châu mặt mày buồn hiu, cười gượng và nói giả lả trong phòng họp: “Ma nào thì nhát, chớ ma cải lương thì hiền khô, không có nhát ai đâu mà chỉ ca sáu câu vọng cổ thôi! Gặp ma cải lương thì cũng giống như bà con đi coi tuồng Phạm Công Cúc Hoa vậy!”


- TG: Vô lý như vậy sao má Bảy và các nghệ sĩ không khiếu nại ở cơ quan hành chánh cấp cao hơn như quận, tỉnh, chớ xã nào cũng không cho lập nghĩa trang thì người chết chôn ở đâu?


- MB: Khiếu nại cái nỗi gì, không được chỗ nầy thì đi kiếm chỗ khác, hơi sức đâu đi khiếu nại, thưa gởi mất thì giờ rồi cũng chẳng đi đến đâu. “Phép Vua thua lệ Làng” mà!

(còn tiếp kỳ sau)
Trong suốt cuộc tiếp xúc với nghệ sĩ tiền phong Phùng Há, có rất nhiều câu hỏi liên quan đến các sự việc được nêu ra, và những câu trả lời của Má Bảy Phùng Há cũng đã đáp ứng được một số thắc mắc của nhiều người, vốn muốn tìm hiểu về hoạt động của cải lương. Và như chúng ta đã biết một cách khái quát công trình của Má Bảy Phùng Há, của Hội Nghệ Sĩ Ái Hữu đã thực hiện được như: Trụ sở của Hội ở đường Cô Bắc, Chùa và Nghĩa Trang Nghệ Sĩ ở Gò Vấp, Viện Dưỡng Lão ở đường Âu Dương Lân, Quận 8, tất cả đã đi vào hoạt động từ lâu. Má Bảy còn nói thêm rằng trên thế giới chưa có nước nào có “Chùa Nghệ Sĩ”, và bà mong sao các thế hệ sau này ráng mà gìn giữ, cũng như phát triển để không phụ lòng người đi trước.

Chúng tôi tiếp tục phỏng vấn:


- TG: Thưa Má Bảy, ngoài kho tàng vô giá văn hóa nghệ thuật của những người đi trước đã để lại, cùng những cơ sở vật chất phụng sự xã hội như đã thấy, vậy trong tương lai thì thế nào, Má Bảy có làm gì thêm nữa hay đã dưỡng già?


- MB: Có chớ, chừng nào nằm xuống thì thôi, chớ còn ăn uống được, đi đứng được là vẫn có chuyện để làm, còn sống ngày nào là tôi phục vụ cho đời ngày nấy, nhiều người khuyên tôi nên dưỡng già nhưng tôi thì không muốn.


- TG: Nếu chưa dưỡng già, tiếp tục làm việc thì công việc hiện tại của Má Bảy là gì, có đề án nào nữa không?


- MB: Hiện tại tôi và anh chị em ở đây đang đặt trọng tâm vào vấn đề thực hiện Ký Nhi Viện Nghệ Sĩ, tôi mong Tổ nghiệp độ trì cho tôi làm được cơ sở quan trọng này trước khi nằm xuống.


- TG: Thực hiện Ký Nhi Viện Nghệ Sĩ là nhắm vào mục đích gì, động lực nào làm cho Má Bảy đặt trọng tâm vào vấn đề trên?


- MB: Nhắm vào sự học hành cho giới nghệ sĩ kế thừa, và phải ráng làm cho bằng được, chớ không thôi thì các thế hệ sau cũng không hơn gì thế hệ trước.


Má Bảy tiếp tục nói về ký nhị viện, và lời giải thích của bà làm chúng tôi khâm phục người nghệ sĩ tiền phong lão thành nầy, vì bà đã dám nói lên sự thật, một sự thật hiển nhiên rất nhiều người biết, mà hầu như người nghệ sĩ cải lương nào cũng muốn che giấu, không muốn một ai đề cập đến, và nếu như ai đó nói thẳng ra thì lại bị phản ứng, bị giận hờn, v.v...

Má Bảy nói rằng cổ nhạc cải lương xuất phát từ trong lòng dân tộc, trong dân gian, người nào có giọng ca trời cho thì sau đó được thành danh, thành thử ra cái khuyết điểm lớn của cải lương là đa số đã không có trình độ tương đối để ăn nói với bên ngoài. Có những người xuất thân từ bồi bàn, gánh nước mướn, cạo mủ cao su, làm ruộng chăn trâu, làm thuê làm mướn, nói chung là các thành phần ít ăn học, trình độ thấp kém, thậm chí có những người tên tuổi nổi như cồn mà lại dốt, chẳng hạn như nghệ sĩ U. (do tế nhị chúng tôi không nêu tên, mặc dù Má Bảy nói rõ là người nào) trên sân khấu thì lời lẽ văn hoa bóng bẩy, nhờ role tuồng viết thế nào thì nói thế nấy, viết sao ca vậy, chớ khi hết tuồng vãn hát rồi thì ai trở về nấy, nghĩa là lời ăn tiếng nói chẳng thay đổi gì hết. Do đó mà vấn đề thành lập ký nhi viện rất cần thiết, cũng như cấp thiết để cho các nghệ sĩ rày đây mai đó, có nơi gởi con cái ăn học. Quan niệm của Má Bảy là người nghệ sĩ sau nầy ngoài vấn đề ca hay diễn giỏi, mà phải biết nói chuyện với người ngoài. Chúng tôi hỏi tiếp:


- TG: Thưa Má Bảy, nếu thực hiện ký nhi viện thì làm ở đâu, gần hay xa, có thuận tiện cho vấn đề ăn học của con em nghệ sĩ?


- MB: Lúc nầy chớ không phải như hồi xưa, hồi đó đi tìm mua đất cũng đã khó khăn rồi, huống chi hiện giờ nhà cửa thiên hạ ở chật hết, không thể tìm đâu ra địa điểm tốt, còn như nếu đi xa thì bất tiện, do đó mà công trình ký nhi viện phải thực hiện ngay tại Chùa Nghệ Sĩ này, nghĩa là phải lên lầu, ký nhi viện ở trên, Chùa ở dưới, chớ làm ở chỗ khác thì kinh phí không có để làm.

(Còn tiếp kỳ sau)

Phượng Các
#5 Posted : Tuesday, December 13, 2005 12:34:15 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)



Gặp gỡ nghệ sĩ tiền phong Phùng Há (Tiếp theo kỳ trước)
Friday, August 26, 2005


Nghệ sĩ cải lương thời Năm Châu: Mai mốt chết có chỗ chôn rồi!

Triều Giang ghi

(Tiếp theo kỳ trước)


Tiếp tục câu chuyện “mua đất” của má Bảy Phùng Há để cất Chùa và lập nghĩa trang cho nghệ sĩ cải lương, thì má Bảy nói đất ở gần thì không có chớ còn như ở xa thì đất trống, đất rộng có nhiều, xin giấy phép lập nghĩa trang cũng dễ, người chết nằm đâu cũng được nhưng lại khó cho người sống, là khi có ai nằm xuống thì phải di chuyển đi xa, tốn kém nhiều, trở ngại cho người đi đưa đám. Cũng như việc cất Chùa, nếu như Chùa ở gần thì nghệ sĩ cũng siêng đi cúng hơn, có thể mỗi ngày rằm, ngày vía họ đều đi, chớ ở xa thì cả năm chưa chắc họ đi cúng Chùa một lần.

Má Bảy nói thêm rằng việc mua đất có khó khăn, gian nan chán chường thật, cũng như tốn rất nhiều công sức thì giờ nhưng không thấy buồn mà đôi lúc còn thấy vui trong lòng, bởi dầu sao thì cũng bỏ công để làm việc nghĩa, việc từ thiện. Thế nhưng cái khổ tâm nhứt cho bà là bị “hỏi thăm” đất đã mua chưa? Hầu như chẳng có ngày nào mà không bị hỏi thăm về miếng đất trong tương lai mà số tiền Hội đã có trong tay.

Biết được Hội đã có tiền rồi thì giới nghệ sĩ hỏi, Hội Ðua Ngựa Trường Ðua Phú Thọ hỏi, và cả những người ngoài không ăn nhập gì với Hội, với cải lương cũng hỏi tại sao lâu quá mà chưa mua đất? Tiền có còn đủ hay đã xài việc khác hết rồi? Thậm chí có người còn kể lại rằng ai đó đã nói: “Tới Tết Chà Và mới mua, của Tào đem đổ Âm Ty hết rồi! Tiền đua ngựa chắc đi đánh cá ngựa trả lại cho trường đua Phú Thọ rồi!”

Trời ơi, thiệt là khổ! Má Bảy than như vậy và nói phải chi biết trước có vấn đề bị nghi ngờ thế nầy thì chắc chẳng bao giờ bà dám dấn thân làm chuyện xã hội cho bị tai tiếng! Chúng tôi hỏi:


- TG: Bị tai tiếng như vậy sao má Bảy không lên tiếng cho người ta biết rằng tiền vẫn còn đủ, nếu cần trưng ra làm bằng cớ, bởi tham gia vào việc nầy còn có các người khác như nghệ sĩ Năm Châu, Ba Vân, Duy Lân, Tư Trang, Bảy Nhiêu...?


- MB: Thật ra thì trong nhóm đi mua đất ai cũng biết tiền còn đủ chớ có mất đi đâu đồng nào, chính họ cũng bực tức như tôi nhưng mỗi người một suy nghĩ khác, riêng tôi thì muốn đem tiền trả lại cho Hội Ðua Ngựa cho xong, nhưng anh Năm Châu nói rằng đã lỡ cỡi trên lưng cọp rồi, nếu nhảy xuống sẽ bị cọp vồ, dù có đem tiền trả lại cho trường đua thì có mấy người biết chớ! Chi bằng ráng mua cho được miếng đất thì mọi sự nghi ngờ sẽ tan biến hết.


- TG: Ý kiến của nghệ sĩ Năm Châu rất thực tế, chắc lúc đó mọi người đã theo ý kiến của ông?


- MB: Ðúng vậy! Theo ý anh Năm Châu ai nói gì thì nói, việc mình mình làm, ráng chịu đựng thêm thời gian nữa, riêng tôi van vái Tổ nghiệp thì một ngày nọ có người điềm chỉ hướng dẫn đến cuộc đất nầy đây. Mua được đất rồi, giấy tờ xong xuôi rồi coi như cái gánh nặng từ một năm nay đã trút bỏ xuống, thiên hạ không còn ai nói ra nói vô, không còn nghĩ bậy cho Hội cũng như cho cá nhân tôi, kể cả Hội Ðua Ngựa Trường Ðua Phú Thọ nghe nói mua đất xong họ cũng gởi giấy chúc mừng.


- TG: Lúc đó chắc Hội tổ chức ăn mừng, và má Bảy có mời những người trước đó đã loan tin thất thiệt đến dự để cho họ biết không?


- MB: Cần gì, mua xong là thiên hạ biết ngay, hôm bữa đó buổi sáng chồng tiền trước mặt Hội Ðồng Xã, thì buổi chiều ở hậu trường mấy rạp hát họ bàn tán xôn xao như ong vỡ tổ, có người nói rằng: “Mai mốt chết có chỗ chôn rồi!”

(Còn tiếp kỳ sau)
Ký sự: gặp gở nghệ sĩ Phùng Há
Friday, September 02, 2005


Triều Giang


Gặp gỡ nghệ sĩ tiền phong Phùng Há

Thầy Thanh Tao tụng kinh mùi như ca vọng cổ

(Tiếp theo kỳ trước)


Má Bảy Phùng Há nói rằng mua đất được rồi coi như đã giải quyết được hai phần ba công việc, bà và các nghệ sĩ cùng thời trong nhóm mừng vui ra mặt, tổ chức cúng đáp lễ Tổ nghiệp, ăn mừng rất lớn và tin trên bay đi thật xa, chỉ mấy ngày là tất cả các đoàn hát đang hoạt động ở các tỉnh đều biết.

Miếng đất vừa mua có diện tích 6,080 thước vuông, tọa lạc tại xã Hạnh Thông Tây, Quận Gò Vấp, tính ra thì không gần cũng không xa, cũng như về mặt giấy tờ xin phép cũng dễ, do lúc bấy giờ quanh đây là căn cứ quân sự của quân đội viễn chinh Pháp. Sau Hiệp Ðịnh Genève 1954, Pháp rút về nước giao lại cho quân đội Quốc Gia, lực lượng còn yếu kém chẳng bao nhiêu lính tráng hiện diện nên vùng nầy vắng vẻ, con đường từ chợ Hạnh Thông Tây đi vô miếng đất là đường mòn, ít người qua lại, nhà cửa dân chúng thưa thớt, nhờ vậy mà vấn đề xin phép lập nghĩa trang không gặp khó khăn.

Ðất mua xong, giai đoạn kế tiếp là lo cất Chùa để giúp nghệ sĩ lúc sống có cơ hội tu hành, khi chết có mồ yên, mả đẹp và chúng tôi hỏi tiếp về giai đoạn này:


- TG: Thưa má Bảy, mua đất lắm gian nan và gặp nhiều khó khăn, vậy khi cất Chùa có dễ dàng không hay cũng khổ sở như mua đất?


- MB: Cái nào cũng khó khăn hết, mỗi cái khó một cách và việc cất Chùa, Hội đồng ý giao cho ông Lê Minh Công, khi xưa vốn làm nghề quản lý các đoàn hát, về sau đi tu pháp danh là Tỳ kheo Thích Quảng An, ông đã cùng với các vị Phật Tử phát tâm từ thiện xây dựng một ngôi Chùa nhỏ. Với sự giúp đỡ của Phật Tử và Mạnh Thường Quân, cùng với sự chịu đựng gian khổ và tâm quyết của thầy Thích Quảng An, ngôi Chùa nhỏ đã được thực hiện, nhưng khổ nỗi ngôi Chùa chưa xây xong mà đã mắc nợ nên ngưng lại một thời gian.


- TG: Rồi giải quyết bằng cách nào, có ai giúp đỡ lúc đó mà ngôi Chùa được hình thành?


- MB: Nhận thấy không thể tiếp tục chương trình, nên Thầy Thích Quảng An đề nghị giao Chùa cho Hội Nghệ Sĩ Ái Hữu và xin thanh toán món nợ, nhưng Hội không chấp thuận, vì không có tiền. Cuối cùng thầy Thích Quảng An và nhóm Phật Tử đến cầu cứu ông bầu Xuân, giám đốc đoàn hát Dạ Lý Hương, tức ông Diệp Nam Thắng là chủ nhân xưởng giấy vệ sinh hiệu Kiss Me để lấy tiền trả nợ. Ông bầu Xuân đồng ý trả nợ và nhận Chùa năm 1971, rồi ông giao cho các nghệ sĩ tổ chức cơ cấu quản trị và xây dựng, còn ông chịu trách nhiệm ủng hộ tài chánh.

Năm 1972, Chùa xây cất xong với tên Nhựt Quang Tự và thành lập Hội Chùa Nhật Quang và Nghĩa Trang, bầu ra một Ban Trị Sự tạm thời đầu tiên để quản trị chùa và được ban chấp hành Hội Nghệ Sĩ Ái Hữu chấp thuận với thành phần gồm: Ông bầu Thới - Chủ Hội kiêm Phó Chủ Hương; nghệ sĩ Thanh Tao - Chánh Chủ Hương; ông Nam Hưng - Phó Chủ Hội; ông Năm Anh - Tổng Thư Ký; ông Nguyễn Kim Khánh - Thư Ký; nghệ sĩ Duy Chức - Trưởng Ban Bảo Trợ; ông Tư Liêm - Phó Ban Bảo Trợ; ông Trần Văn Ðáng - Thủ quỹ kiêm Trưởng Ban Nghi Lễ; và hai vị Cố Vấn kiêm tiếp khách là ông Hứa Nam Thành và Hề Lập. Ðặc biệt ông bầu Xuân được bầu Chủ Hội Danh Dự.

Một chi tiết khá buồn cười má Bảy kể lại rằng nghệ sĩ Thanh Tao là danh ca ngang ngửa với Út Trà Ôn, năm 1953 ông thuộc thành phần “nghệ sĩ đi xe hơi”, có chiếc xe Peugeot 203 màu xanh xám, nhưng có điều là ít ăn khách hơn Út Trà Ôn. Thanh Tao từng đóng vai Ðiệp, đóng cặp với đào Năm Phỉ vai Lan, cũng như từng vô nhiều dĩa hát. Lớn tuổi ông giải nghệ vào tu ở Chùa Nghệ Sĩ lấy pháp danh là Thích Quảng Minh, nhưng các Phật Tử gọi ông bằng thầy “Thích Thanh Tao”, hễ mỗi lần có ông tụng kinh thì người ta đi cúng Chùa rất đông, đặc biệt là các nữ Phật Tử từng là khán giả cải lương, họ nói: Thầy Thanh Tao tụng kinh mùi như ca vọng cổ, nghe ông tụng kinh mà tưởng chừng như đang nghe dĩa hát “Hoàng Tử Lưng Gù vậy!”

(Còn tiếp kỳ sau)

Chùa và nghĩa trang nghệ sĩ được coi như công trình văn hóa

(Tiếp theo kỳ trước)


Tiếp tục câu chuyện với má Bảy Phùng Há về Chùa và Nghĩa Trang Nghệ Sĩ, chúng tôi được biết thêm là từ năm 1972, sau khi thành lập Ban Trị Sự thì Hội Chùa Nhật Quang, tức Chùa Nghệ Sĩ hoạt động mạnh với sự nhiệt tình đóng góp của xưởng giấy Kiss Me mà chủ nhân là ông bầu Xuân, tổ chức hát gây quỹ xây dựng nới rộng Chùa và nghĩa trang, nhờ đó mà Chùa đã được phát triển mạnh, từ một cái am nhỏ đã trở thành một ngôi Chùa tương đối lớn, được tổ chức có nề nếp.

Từ năm 1972 việc quản trị Phật sự, có các vị trụ trì Chùa sau đây:

Thầy Thích Quảng Tường (bầu Thới) trụ trì từ 1972 đến 1977. Thầy Thích Quảng Minh, tức nghệ sĩ Thanh Tao trụ trì từ 1978 đến 1982. Thầy Thích Huệ Trí, tức nghệ sĩ Bảy Bá trụ trì từ 1983 đến 1987, và Thầy Thích Thượng Niệm (nghệ sĩ Ba Cẩn) trụ trì từ 1988 đến 1983. Từ năm 1996 đến nay, quản sự do Ðại Ðức Thích Hồng Minh phụ trách.

Ban trị sự đầu tiên kéo dài đến năm 1978 mặc dù có thay đổi thành viên, và đến năm 1979 nghệ sĩ Phùng Há giữ chức Chủ Hội (thay ông Bầu Xuân), cùng Phó Hội là bà Như Mai tiếp tục đảm đương quản lý Chùa cho đến năm 1994.

Tháng 9/1994, Hội Nghệ Sĩ Ái Hữu ra quyết định cải tổ cơ cấu tổ chức, thành lập Hội Ðồng Quản Trị Chùa và Nghĩa Trang Nghệ Sĩ, không có thầy trụ trì mà chỉ có Hội Ðồng Quản Trị điều hành toàn bộ.

Thành phần Hội Ðồng Quản Trị gồm có: Bà Trương Phụng Hảo, tức má Bảy Phùng Há (hội trưởng). Bà Như Mai và các ông Diệp Nam Thắng, tức ông bầu Xuân, ông Nguyễn Văn Hiếu, tức Tư Hiếu (phó hội trưởng). Ông Thanh Cao và nghệ sĩ Ðinh Bằng Phi (hát bội) làm ủy viên thư ký. Nghệ sĩ Kim Hoàng, thủ quỹ. Các nghệ sĩ Trường Xuân, Nam Hùng, nghệ sĩ Dũng Minh Sang và bà Lê Thị Tâm, tức bà Bê (ủy viên kiểm soát). Nghệ sĩ Huỳnh Nga và các ông Việt Thường, ông Nguyễn Văn Chức, tức ông Út và ông Lê Quang Anh tức Năm Anh (cố vấn).

Sau một thời gian ngắn, bà Như Mai, nghệ sĩ Kim Hoàng, nghệ sĩ Nam Hùng xin từ chức. Ông Nguyễn Văn Hiếu kiêm chức thủ quỹ. Sau đó nghệ sĩ Trường Xuân và ông Lê Quang Anh cũng lần lượt qua đời.

Sau khi thành lập, Hội Ðồng Quản Trị mới đã hoạt động hăng say tích cực, cải tổ, chỉnh trang, với chủ trương miễn tất cả các chi phí chôn cất, giúp đỡ phương tiện chôn cất và nhận giữ cốt. Tất cả mọi hoạt động trên đã đem lại hiệu quả đáng kể là làm đổi mới toàn bộ Chùa trong những năm gần đây.

Sự việc mà chúng tôi ghi lại mấy kỳ vừa qua trong việc hình thành Chùa và Nghĩa Trang Nghệ Sĩ đã cho thấy sự hy sinh, nhẫn nại kiên trì của lớp người đi trước, của những nghệ sĩ tiền phong, và của những người tuy không phải nghệ sĩ, nhưng đã hết lòng với nghệ thuật như ông bầu Xuân, mà các thế hệ nghệ sĩ cải lương sau này có quyền tự hào hãnh diện. Chùa Nghệ Sĩ với lịch sử hình thành và nghĩa trang, nơi nằm nghĩ của những người nghệ sĩ thuần túy dân tộc, đã ra đi để lại cho đời một công trình văn hóa nghệ thuật, mà chắc những ai tha thiết với nền văn hóa nước nhà cũng đều muốn lưu lại di tích lịch sử văn hóa nghệ thuật nói trên.

(Còn tiếp kỳ sau)

Nhà Dưỡng Lão Nghệ Sĩ cũng phải canh chừng ăn trộm

Triều Giang ghi

(Tiếp theo kỳ trước)


Về vấn đề nghệ sĩ ở hải ngoại, Má Bảy Phùng Há nói thêm rằng hầu như giới cải lương người nào về nước cũng đều có đến viếng Chùa Nghệ Sĩ, thăm Má Bảy kể lại sinh hoạt cải lương, đời sống của giới nghệ sĩ ở nước ngoài, ở Mỹ, Pháp, Úc..., do đó mà ở trong nước cũng hiểu khá nhiều về hoạt động của từng người, ai có thu nhập nhiều nhờ đi sô, hoặc chỉ trông cậy vào tiền già tiền bệnh thì ở bên nhà cũng biết. Tóm lại dù ở trong nước hay hải ngoại, “hệ thống thông tin” của giới nghệ sĩ cải lương cũng khá tốt, nên mỗi khi cần phải xét việc gì, như thu nhận vô Viện Dưỡng Lão chẳng hạn thì cũng có cơ sở để xét. Chúng tôi tiếp tục đặt câu hỏi:


- TG: Thưa Má Bảy, vào Viện Dưỡng Lão coi như sống tập thể, dĩ nhiên phải có nội quy, kỷ luật, nếu vi phạm thì biện pháp nào được áp dụng, có bị đuổi ra khỏi viện hay không?


- MB: Trừ những trường họp vi phạm năng nề kìa, như đánh lộn u đầu chảy máu, gây thương tích cho người khác, hoặc tổ chức cờ bạc buôn bán ma túy trong viện thì mới áp dụng biện pháp trục xuất, phạm pháp là bị bắt rồi! Chớ còn vi phạm nhỏ như cãi vả, lời qua tiếng lại thì chỉ cảnh cáo thôi, nói chung chưa có trường hợp vi phạm nặng.


- TG: Ở trong viện có bị gò bó gì không, có được tự do tiếp xúc với người ngoài như nhà của mình, và có phải làm công việc gì cho viện không?


- MB: Ðâu có gò bó gì, muốn tiếp ai thì tiếp, viện không có cấm và những nghệ sĩ về già được vào ở trong Viện Dưỡng Lão Nghệ Sĩ Sân Khấu coi như cũng có được nơi tạm là “nhà”, không phải lo gì nữa, chỉ còn chờ ngày đi theo Tổ nghiệp mà thôi. Ở đây mấy ông bà nghệ sĩ già không phải làm công việc gì cả, chỉ có cái là chia nhau canh chừng... ăn trộm.


- TG: Những ông già bà lão được cho vào ở nhà dưỡng lão đều là những người nghèo xơ nghèo xác, ăn trộm vào đây lấy được cái gì chớ?


- MB: Vùng nầy có rất nhiều con nghiện, xì ke ma túy để hở cái gì ra cũng bị lấy, nồi niêu xoong chảo, thau chậu, sô múc nước cũng lấy, giày dép, quần áo giặt phơi cũng lấy, nói chung cái gì xài được là có thể mất dễ dàng.

Nhà Dưỡng Lão khá khang trang, hai từng trông giống như biệt thự lầu (xem hình), quanh nhà là khu vườn, đường đi có trồng cây hai bên rất đẹp, chiều chiều các cụ đi dạo quanh vườn, ca lai rai vài câu vọng cổ, hoặc ngồi băng đá tâm sự, kể lại thời vàng son đi hát được khán giả ái mộ. Những người mà nay được vào ở trong Viện Dưỡng Lão họ ghi khắc trong lòng, nhớ ơn Má Bảy Phùng Há, nếu không có tấm lòng của Má Bảy chắc tới bây giờ họ cũng còn ở dưới gầm cầu chữ Y.

Ngày nay Má Bảy không còn mạnh khỏe như 8, 9 năm về trước, đau yếu bệnh tật, thế nhưng tâm trí luôn nghĩ đến vấn đề phục vụ xã hội và tuy đã 96 tuổi Má Bảy vẫn có những câu nói “rất là nghệ sĩ”, rằng con tằm nhả tơ đến chết thì người nghệ sĩ cũng vậy, nếu còn hơi hám chút ít thì cũng hát chớ không thôi ngứa nghề, nghe đờn dạo lên là ngứa cổ, già yếu đi không nổi vẫn muốn lên sân khấu, do đó mà theo định kỳ cứ đúng đêm Rằm thì tại sân Nhà Dưỡng Lão có tổ chức trình diễn ca cổ nhạc, ngoài mấy ông bà già nghệ sĩ đang ở đây, còn có các nghệ sĩ đương thời cũng vào tham gia giúp vui, mỗi lần hát là bà con quanh vùng đến coi rất đông, không có bán vé ai vào coi cũng được riết rồi thành thông lệ.

(Còn tiếp kỳ sau)
Ðề án tương lai: Ký Nhi Viện Nghệ Sĩ

Triều Giang ghi

(Tiếp theo kỳ trước)


Trong suốt cuộc tiếp xúc với nghệ sĩ tiền phong Phùng Há, có rất nhiều câu hỏi liên quan đến các sự việc được nêu ra, và những câu trả lời của Má Bảy Phùng Há cũng đã đáp ứng được một số thắc mắc của nhiều người, vốn muốn tìm hiểu về hoạt động của cải lương. Và như chúng ta đã biết một cách khái quát công trình của Má Bảy Phùng Há, của Hội Nghệ Sĩ Ái Hữu đã thực hiện được như: Trụ sở của Hội ở đường Cô Bắc, Chùa và Nghĩa Trang Nghệ Sĩ ở Gò Vấp, Viện Dưỡng Lão ở đường Âu Dương Lân, Quận 8, tất cả đã đi vào hoạt động từ lâu. Má Bảy còn nói thêm rằng trên thế giới chưa có nước nào có “Chùa Nghệ Sĩ”, và bà mong sao các thế hệ sau này ráng mà gìn giữ, cũng như phát triển để không phụ lòng người đi trước.

Chúng tôi tiếp tục phỏng vấn:


- TG: Thưa Má Bảy, ngoài kho tàng vô giá văn hóa nghệ thuật của những người đi trước đã để lại, cùng những cơ sở vật chất phụng sự xã hội như đã thấy, vậy trong tương lai thì thế nào, Má Bảy có làm gì thêm nữa hay đã dưỡng già?


- MB: Có chớ, chừng nào nằm xuống thì thôi, chớ còn ăn uống được, đi đứng được là vẫn có chuyện để làm, còn sống ngày nào là tôi phục vụ cho đời ngày nấy, nhiều người khuyên tôi nên dưỡng già nhưng tôi thì không muốn.


- TG: Nếu chưa dưỡng già, tiếp tục làm việc thì công việc hiện tại của Má Bảy là gì, có đề án nào nữa không?


- MB: Hiện tại tôi và anh chị em ở đây đang đặt trọng tâm vào vấn đề thực hiện Ký Nhi Viện Nghệ Sĩ, tôi mong Tổ nghiệp độ trì cho tôi làm được cơ sở quan trọng này trước khi nằm xuống.


- TG: Thực hiện Ký Nhi Viện Nghệ Sĩ là nhắm vào mục đích gì, động lực nào làm cho Má Bảy đặt trọng tâm vào vấn đề trên?


- MB: Nhắm vào sự học hành cho giới nghệ sĩ kế thừa, và phải ráng làm cho bằng được, chớ không thôi thì các thế hệ sau cũng không hơn gì thế hệ trước.


Má Bảy tiếp tục nói về ký nhị viện, và lời giải thích của bà làm chúng tôi khâm phục người nghệ sĩ tiền phong lão thành nầy, vì bà đã dám nói lên sự thật, một sự thật hiển nhiên rất nhiều người biết, mà hầu như người nghệ sĩ cải lương nào cũng muốn che giấu, không muốn một ai đề cập đến, và nếu như ai đó nói thẳng ra thì lại bị phản ứng, bị giận hờn, v.v...

Má Bảy nói rằng cổ nhạc cải lương xuất phát từ trong lòng dân tộc, trong dân gian, người nào có giọng ca trời cho thì sau đó được thành danh, thành thử ra cái khuyết điểm lớn của cải lương là đa số đã không có trình độ tương đối để ăn nói với bên ngoài. Có những người xuất thân từ bồi bàn, gánh nước mướn, cạo mủ cao su, làm ruộng chăn trâu, làm thuê làm mướn, nói chung là các thành phần ít ăn học, trình độ thấp kém, thậm chí có những người tên tuổi nổi như cồn mà lại dốt, chẳng hạn như nghệ sĩ U. (do tế nhị chúng tôi không nêu tên, mặc dù Má Bảy nói rõ là người nào) trên sân khấu thì lời lẽ văn hoa bóng bẩy, nhờ role tuồng viết thế nào thì nói thế nấy, viết sao ca vậy, chớ khi hết tuồng vãn hát rồi thì ai trở về nấy, nghĩa là lời ăn tiếng nói chẳng thay đổi gì hết. Do đó mà vấn đề thành lập ký nhi viện rất cần thiết, cũng như cấp thiết để cho các nghệ sĩ rày đây mai đó, có nơi gởi con cái ăn học. Quan niệm của Má Bảy là người nghệ sĩ sau nầy ngoài vấn đề ca hay diễn giỏi, mà phải biết nói chuyện với người ngoài. Chúng tôi hỏi tiếp:


- TG: Thưa Má Bảy, nếu thực hiện ký nhi viện thì làm ở đâu, gần hay xa, có thuận tiện cho vấn đề ăn học của con em nghệ sĩ?


- MB: Lúc nầy chớ không phải như hồi xưa, hồi đó đi tìm mua đất cũng đã khó khăn rồi, huống chi hiện giờ nhà cửa thiên hạ ở chật hết, không thể tìm đâu ra địa điểm tốt, còn như nếu đi xa thì bất tiện, do đó mà công trình ký nhi viện phải thực hiện ngay tại Chùa Nghệ Sĩ này, nghĩa là phải lên lầu, ký nhi viện ở trên, Chùa ở dưới, chớ làm ở chỗ khác thì kinh phí không có để làm.

(Còn tiếp kỳ sau)
Phượng Các
#6 Posted : Tuesday, December 13, 2005 12:35:10 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)



Gặp gỡ nghệ sĩ Phùng Há
Saturday, October 08, 2005


Mở đầu sự nghiệp cầm ca: Bị đuổi học

Triều Giang ghi

(Tiếp theo kỳ trước)


Xong phần phỏng vấn Má Bảy Phùng Há về những công trình xã hội, văn hóa đã thực hiện được, chúng tôi chuyển sang vấn đề nghệ thuật với những câu hỏi gợi ý để Má Bảy ngược dòng thời gian trở về quá khứ từ lúc mở đầu sự nghiệp cầm ca, cũng như những đột biến trọng đại liên quan đến quãng đời đi hát của người nghệ sĩ đã có hơn 80 tuổi nghề và gần 100 tuổi thọ.

Như đã biết năm nay Má Bảy đã 96 tuổi, định luật sanh lão bệnh tử của con người, Má Bảy có thể ra đi bất cứ lúc nào, thành thử ra được dịp phỏng vấn chúng tôi đã hết sức khéo léo đặt những câu hỏi mà lời giải đáp của Má Bảy sẽ rất cần thiết đối với công cuộc sưu tầm sử liệu cho nghệ thuật cải lương sau nầy, chớ không thôi khó có cơ hội để phỏng vấn thêm.

Nếu như vấn đề xã hội hoạt động không ngừng nghỉ, thì công cuộc xây dựng nghệ thuật cũng liên tục từ thuở xuân xanh cho đến lúc bạc đầu, Má Bảy kể rằng thời son trẻ rất hiếm đêm nào bà vắng mặt trên sân khấu, chỉ những lúc đau bệnh nặng, bất khả kháng mới chịu nằm tịnh dưỡng, chớ còn đi đứng nổi thì không bỏ sắm tuồng một suất hát nào. Tuy đau bệnh nằm đó mà tâm trí luôn hướng về rạp hát, cứ sau mỗi buổi chiều mặt trời lặn là bắt đầu nhớ đến ánh đèn sân khấu, liên tưởng đến màn cảnh và nhứt là hình dung lại những lúc hé tấm màn nhung nhìn xuống khán giả xem những hàng ghế ngồi đầy không còn chỗ trống, cùng âm thanh rộn rịp ồn ào của người đi coi hát vọng lên cho biết rất đông. Những hình ảnh đó là liều thuốc quí, là động lực để người nghệ sĩ mau lành bệnh trở lại sân khấu, và do vậy mà nghiệp cầm ca vương vấn suốt đời.

Má Bảy cho biết thuở nhỏ bà học trường Nhà Dòng do các bà Sơ giảng dạy, mà ham thích nhứt là giờ học hát, đó là giờ học có thể hát to được, chớ ngoài ra không thích học môn nào hết, chỉ mong cho thời gian đi mau. Kế đó sang học trường École des Jeunes Filles, và do hoàn cảnh nghèo được học miễn phí, nhưng rồi cũng không khác gì lúc ở trường Dòng, môn học ham thích vẫn là ca hát. Lúc bấy giờ trường không có nội trú nên tự do, những ngày nghỉ là họp bạn bè ca hát, và bài học ôn, sách vở thì bỏ qua một bên không ngó ngàng gì tới.

Học được một thời gian thì nổi tiếng, không phải nổi tiếng học giỏi mà là hát hay, lôi cuốn quyến rũ người hâm mộ, trong số có cả bà giáo Kỳ, giáo viên của lớp. Rồi cũng do đam mê ca hát mà đã xảy ra một đột biến lớn, dẫn đến khúc quanh quan trọng trong cuộc đời. Sau đây là câu hỏi tiếp của chúng tôi.


- TG: Ðột biến đó là gì mà lại dẫn đến khúc quanh quan trọng trong cuộc đời? Có liên quan đến sự nghiệp cầm ca của Má Bảy không?


- MB: Có chớ! Số là một ngày nọ, lợi dụng cơ hội bà Ðốc học có việc đi Sài Gòn, và câu ngụ ngôn “vắng chủ nhà gà mọc đuôi tôm” được thể hiện ngay tại trường mà đến giờ nầy trải qua hơn 80 năm vẫn còn nhớ. Ðược sự tán trợ của bà giáo Kỳ, cô học trò ham hát hơn học đã tổ chức ca hát có hòa nhạc ngay tại lớp, khiến cho tất cả học trò, cô giáo các lớp khác cũng ngưng học đổ dồn đến coi chật nức cả lớp học của bà giáo Kỳ. Không những trong lớp mà thiên hạ ngoài đường cũng đứng lại xem, và mỗi lần cô học trò Phùng Há ca dứt bản thì tiếng vỗ tay vang rần lên. Nhưng cái xui rủi là hôm bữa đó vị thanh tra của Sở Học Chánh Tỉnh đến thanh tra trường học, xe vừa vô cổng thì được báo động ai về lớp nấy, và ông đi xem xét từng lớp chẳng thấy có dấu vết gì hết, học trò đang lắng nghe dạy và cô giáo vẫn giảng bài bình thường.


- TG: Như vậy thì ông thanh tra chẳng thấy gì hết, không bằng chứng thì có sao không, êm xuôi hay bị khiển trách?


- MB: Nếu êm xuôi thì đâu phải nói, đằng nầy trước khi vô cổng ổng thấy rõ cảnh thiên hạ đứng ngoài đường nhìn vô phòng lớp của bà giáo Kỳ, cùng tiếng vỗ tay của họ, do đó ông cho mời tất cả cô giáo đến lớp của bà giáo Kỳ. Ông Thanh Tra này là người Pháp thông thạo tiếng Việt, có tiếng là nghiêm khắc, yêu cầu nói rõ những gì mới xảy ra. Lúc đầu chẳng ai chịu hết, ông hăm rằng sẽ đổi các cô đi nếu không nói ra sự thật, nhưng các cô giáo cũng cứng rắn nhứt định không chịu khai ra gì hết.


- TG: Thế rồi thì sao, ông có điều tra cách khác để nắm vững vấn đề?


- MB: Ông chưa áp dụng cách nào hết thì tôi, cô học trò Phùng Há từ ngoài hành lang bước vào nhận tất cả. Mấy ngày sau đứa học trò Phùng Há nhận được tờ giấy: Quyết định đuổi học. Lý do làm mất trật tự trong trường, làm ngưng trệ buổi học, làm gương xấu cho học sinh.

Thế là buổi ca hát hòa nhạc đầu tiên của Phùng Há tại trường cũng là buổi ca hát cuối cùng, và tiếng vỗ tay là tiếng pháo tiển đưa cô học trò Phùng Há rời khởi ghế nhà trường, chấm dứt cuộc đời học sinh, nghỉ học luôn không trở lại trường nào hết.

(Còn tiếp kỳ sau)

Phượng Các
#7 Posted : Tuesday, December 13, 2005 12:54:07 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)


Nghệ sĩ tiền phong Phùng Há. Hình chụp trong dịp lễ mừng thọ cách đây 10 năm, lúc Má Bảy còn mạnh khỏe



Triều Giang ghi

(Tiếp theo kỳ trước)


Bị đuổi học, tâm trạng của cô học trò Phùng Há lúc bấy giờ buồn vui lẫn lộn, nhưng nếu biết trước được hậu quả lớn lao đến thế chắc có lẽ không dám “vắng chủ nhà gà mọc đuôi tôm”, tổ chức ca hát tại trường ngay trong giờ học.

Cái vui lúc đó là từ nay được tự do ca hát, không còn bị sự học hành bị ràng buộc, với nhiều môn học mà chẳng hề ham thích, còn buồn là mặc cảm “bị đuổi học” mang tiếng mang tăm, nhưng bù lại là được mời đi hát liên miên. Tiếng đồn trong thiên hạ lúc bấy giờ: “Phùng Há do hát hay mà bị đuổi học”, thì nó lại là một quảng cáo hữu hiệu cho tên tuổi Phùng Há, được nhiều nơi mời đi hát, kể cả đi ra ngoài tỉnh, và coi như sự nghiệp cầm ca bắt đầu vào thời gian đó.

Ðến những năm cuối thập niên 1920, sang qua đầu thập niên 1930 thì tên tuổi nghệ sĩ Phùng Há đã vang lừng, đóng nhiều tuồng trên sân khấu cùng các nghệ sĩ đương thời như: Năm Châu, Tư Út, Năm Nở, Duy Lân, Từ Anh... Cuộc đời đi hát thì phải rày đây mai đó, đoàn hát dọn đi đâu cũng phải đi theo, người nghệ sĩ cải lương có mặt cùng nơi khắp chốn, hết các tỉnh trong Nam thì ra ngoài Trung, thời kỳ trước 1954 đất nước chưa chia đôi, nghệ sĩ Phùng Há từng đi xe lửa ra Hà Nội hát nhiều nơi ngoài Bắc.

Thời những năm của thập niên 1940-1950 và luôn cả thập niên 1960 mỗi khi có gánh cải lương dọn đến nơi nào là người ta tập trung ở rạp hát hỏi han này nọ, nhứt là xem mặt nghệ sĩ, và trong suốt thời gian đoàn có mặt tại địa phương, chỉ trừ những người có phận sự trông coi đồ đạc của gánh hát thì họ thường trực ở rạp, chớ còn phần đông nghệ sĩ đều được rước đi ăn nhậu hết nhà này đến nhà khác, dù rằng sự quen biết chẳng bao nhiêu, có khi chẳng quen gì cả mà người ta cũng mời, cũng thỉnh về nhà.

Chúng tôi tiếp tục đặt câu hỏi:


- TG: Trong nhiều thập niên đi hát, kinh nghiệm dẫy đầy, vậy theo như Má Bảy thì khán giả ủng hộ cải lương đến mức nào để gánh hát có thể sống được?


- MB: Tùy theo gánh hát lớn nhỏ, gánh lớn thì mỗi đêm khán giả phải từ nửa rạp trở lên mới sống còn, nếu có dưới thì chỉ vài hôm thôi chớ không thể kéo dài quá một tuần mà chịu nổi. Còn các gánh nhỏ thì nhờ chi phí ít, trên dưới 100 khán giả vẫn sống được, có thể nằm chờ thời một thời gian rồi hát trở lại.


- TG: Căn cứ trên yếu tố nào để biết được sự ủng hộ của khán giả địa phương đối với gánh hát của mình, để thời gian sau đó trở lại vẫn được sự ủng hộ?


- MB: Nếu nói về khán giả ái mộ thì ở đâu cũng có, chỗ nào thiên hạ cũng ham thích cải lương chớ nếu không thì gánh hát làm sao sống được chớ, chỉ hai đêm bị trống rạp là không khá rồi, phải mau mau dọn đi chỗ khác, nhưng trường hợp đó rất hiếm, chỉ khi gánh hát hết thời, nội bộ lủng củng thì mới đưa đến tình trạng đó. Mấy chục năm đi hát kinh nghiệm cho thấy hễ gánh dọn đến nơi nào mà bà con náo nức hân hoan mừng rỡ, thì đêm đầu tiên luôn luôn chật rạp cả đứng lẫn ngồi, trừ trường hợp bị mưa gió bất ngờ. Hai ba đêm sau khán giả có kém hơn những vẫn giữ mức không còn ghế trống thì coi như đánh giá được sự ủng hộ của khán giả tại địa phương, không riêng gì đối với bảng tên của gánh hát, mà cá nhân của từng nghệ sĩ cũng lưu lại cảm tình, do đó có thể thời gian ngắn sau là đáo trở lại được.


- TG: Nếu nói về cảm tình của người dân địa phương đối với gánh hát, đối với nghệ sĩ thì cụ thể của nó là gì, có thực tế không?


- MB: Muốn biết gánh hát hay đào kép có gây được cảm tình ở địa phương hay không thì rất dễ, bởi mỗi lần gánh dọn đến đâu mà khi rời khỏi đào kép nghệ sĩ người nào cũng có quà mang theo. Tùy theo địa phương, nếu như ở miền lục tỉnh thì khi dọn đi ai cũng mang theo nào là mắm, gạo nếp, chuối khô, bánh tráng, bánh phồng... Ôi thôi, đủ thứ để chật hết cả xe, nói chung họ có gì tặng nấy. Có lần gánh Phụng Hảo hát ở Phan Thiết, đến lúc cuốn màn dọn đi thì mỗi nghệ sĩ đều mang theo mấy tĩn nước mắm quà tặng, xe giằn bể tĩn báo hại hôi hết cả xe, nghệ sĩ la làng, phải ngừng lại xách nước rửa sạch rồi mới đi tiếp (ngày xưa nước mắm đựng trong tĩn bằng sành). Tóm lại địa phương có đặc sản nào thì người ta làm quà thứ nấy, đó là chưa kể các chàng kép hát đa tình, khi rời khỏi họ để lại đó một, hai bà vợ là chuyện thường.


- TG: Nghệ thuật cải lương thì hầu như vùng nào, tỉnh nào người ta cũng mến mộ, vậy theo nhận xét của Má Bảy thì khán giả ở đâu được coi như ái mộ cải lương nhứt, Nam, Trung, Bắc tỉnh nào, địa phương nào?


- MB: Như tôi đã nói nơi nào cũng có khán giả cải lương, chỗ nào cũng được sự ủng hộ, nhưng nếu nói về lâu, về dài thì phải nói rằng khán giả ở Nam Vang ái mộ nhứt, hơn bất kỳ ở đâu.


- TG: Căn cứ vào đâu để kết luận như vậy, thưa Má Bảy?


- MB: Ở trong nước nếu tính từ miền Trung đổ vào thì coi như tỉnh nào tôi cũng có mặt trình diễn, còn ngoài Bắc thì Hà Nội, Hải Phòng và một vài nơi gánh hát cũng dọn đến, nhưng dù ở tỉnh nào thì sự ủng hộ cũng chỉ một hai tuần, nơi nào nhiều lắm thì một tháng là cùng, rồi cũng phải dọn đi chớ không ở lâu hơn được, bởi không còn người đi coi. Thế nhưng ở bên Miên thì lại khác, gánh hát nằm một rạp gần 5 năm vẫn còn khán giả, đào kép nhiều người còn muốn ở lại hát thêm.

Má Bảy kể tiếp rằng thời kỳ 3 nước Ðông Dương còn xài chung một thứ tiền (Banque de L'indochine) việc đi lại giữa 3 nước dễ dàng, nên cuối năm 1945 đêm chót hát tại Tân Châu, Châu Ðốc bà cho dọn gánh Phụng Hảo xuống ghe (có tàu máy kéo) ngược dòng sông Cửu Long lên Nam Vang hát tại rạp Kim Phụng. Lúc đầu dự tính hát vài tháng rồi trở về, nhưng hễ bớt người đi coi sắp sửa dọn về thì khán giả đông đảo trở lại quá mức thì hết cả gánh đâu còn ai muốn về nữa, cứ như thế mà lần lựa mãi đến gần 5 năm. Người ta nói “Nam Vang đi dễ khó về, trai đi có vợ gái về dẫn con” thì quả đúng như vậy đối với gánh Phụng Hảo lúc đó. Có mấy cô đào đóng vai phụ, vai tỳ nữ lên đây hát thời gian rồi có chồng ở Nam Vang, lúc về chỉ để thăm nhà rồi trở lại đất Miên. Còn kép hát thì mấy người có vợ bên đó rồi ở luôn không về. Lần đó gánh Phụng Hảo đóng trụ luôn một rạp Kim Phụng cho đến 1950 mới đáo trở về Sài Gòn, như vậy kể như gần 5 năm mà đêm nào cũng có khán giả, người mình ở bên đó ham thích cải lương vô kể.

(Còn tiếp kỳ sau)
Phượng Các
#8 Posted : Tuesday, December 13, 2005 12:55:07 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
Gặp gỡ nghệ sĩ tiền phong Phùng Há
Friday, October 21, 2005


Nam Vang đi dễ khó về...

Triều Giang ghi

(Tiếp theo kỳ trước)

Về vấn đề kiều bào ta ở Nam Vang hâm mộ cải lương, chúng tôi có đặt những câu hỏi và được Má Bảy Phùng Há trả lời với nhiều điều lạ như sau:

- TG: Thưa Má Bảy, kiều bào ta ở Nam Vang phần đông là những người gốc từ các tỉnh Miền Nam, qua bên đó lập nghiệp rồi ở luôn, có người thuộc thế hệ thứ 2, thứ 3 và có thể thứ 4, thứ 5 mà tổ tiên của họ đã rời đất nước Việt Nam từ lâu đời, như vậy không thể nói là họ thấm nhuần cải lương hơn ở các tỉnh Bạc Liêu, Sóc Trăng, Long Xuyên, Rạch Giá vốn là những cái nôi của cải lương cổ nhạc. Thế nhưng do đâu mà họ lại mến mộ cải lương một cách mạnh mẽ, ủng hộ bộ môn nghệ thuật nầy còn nhiều hơn ở trong nước, dám “nuôi” một đoàn hát nằm một chỗ đến những 5 năm trời?


- MB: Trước hết phải nói rằng kiều bào ở bên Miên tâm trạng chung của họ là buồn vì xa nhà, xa quê, xa bà con thân thuộc xóm giềng, nỗi buồn viễn xứ luôn luôn canh cánh bên lòng, mà nguồn an ủi của họ lúc bấy giờ không có gì hơn là cứ chiều chiều gom lại rạp hát cải lương gặp người đồng hương tâm sự chuyện trò. Ban ngày họ tỏa ra đi làm ăn tứ tán, tối đến thì tập trung ở rạp Kim Phụng là rạp hát duy nhứt ở Nam Vang có hát cải lương. Không khí ở đây làm cho họ bớt nhớ nhà, bởi ngoài rạp hát ra còn có cả tiệm cơm Việt Nam, tiệm cà phê hủ tiếu, tiệm tạp hóa buôn bán những món hàng từ Việt Nam đem sang, coi như ở đây là địa điểm sinh hoạt của kiều bào ta vậy. Lâu ngày chày tháng thành thói quen, hôm nào không đến đây là coi như thiếu cái gì đó, và do số người tập trung đông đảo thì dĩ nhiên số người muốn coi hát cải lương cũng không ít, họ rủ nhau đi coi, không tiền mua vé thì có người thân bạn bè bao cho, bữa khác bao lại, cứ như thế mà gánh hát luôn luôn có khán giả.


- TG: Má Bảy có biết tại sao mà “Nam Vang đi dễ khó về”, có thật như vậy cho nhiều người không và câu nói đó có từ bao giờ?


- MB: Câu nói đó có trong dân gian từ lúc nào đâu ai biết, nhưng rất nhiều người nhìn nhận như vậy, họ chứng minh bằng trường hợp của người nầy, hoàn cảnh của người kia. Người ta nói đất địa Nam Vang linh thiêng, nếu đã ăn cơm ở đó, làm ăn được ở đó thì không thể rời khỏi được, không chuyện nầy thì chuyện khác xui khiến cho không rời khỏi được mà phải ở lại thôi. Có người còn chỉ cho cách nếu muốn về thì cứ âm thầm đừng nói ra, đừng tuyên bố gì hết, rồi bất ngờ ra xe xuống tàu thì về được, chớ còn nói ra, từ giã bạn bè thân hữu trước khi đi thì coi như bị trở ngại gì đó bắt buộc phải ở lại.

Ðó là đối với những người bỏ xứ lên Nam Vang làm ăn, còn cải lương thì tình trạng khác với người lên đây lập nghiệp, người ta khi kiếm được số vốn thì muốn về thăm quê hương, còn gánh hát cải lương thì ngược lại, ngày nào có tiền vô là ngày đó còn muốn ở lại hát, càng đông người coi thì càng muốn ở lại hơn, chỉ khi nào ít khán giả thì mới tính đến chuyện rời khỏi, vậy mà cũng Nam Vang đi dễ khó về.

Má Bảy thuật lại rằng, người nọ làm ăn có dư tiền, dự tính về Việt Nam cả mấy tháng trước, đồ đạc quần áo vô sẵn vali, chỉ chờ ngày lên đường, nhưng vào giờ chót thì bị bệnh bất ngờ phải ở lại điều trị, đến khi hết bệnh thì tình hình đã đổi khác, công chuyện làm ăn phải ở lại giải quyết, thế là hết về! Một ông khác làm ăn khá, dành dụm được nhiều tiền dự tính về Việt Nam cất nhà cho rỡ mặt với bà con xóm làng. Sửa soạn đâu đó xong xuôi đi từ giã bạn bè thì gặp sòng bài, lúc đầu định chơi vài ván cho vui, tới chừng thua thì muốn gỡ, càng gỡ lại càng thua, cuối cùng thì bao nhiêu tiền kiếm được ở Nam Vang phải trả lại đất Miên mà còn thêm nợ. Ðó là nói sơ qua một vài trường hợp, chớ còn hằng trăm hằng ngàn trường hợp khác tùy theo hoàn cảnh riêng của mỗi người đâu thể kể hết được.


- TG: Còn vấn đề con số khán giả bị vơi, gánh hát chuẩn bị dọn về nước thì tự nhiên đông đảo người đi coi hát khiến cho phải ở lại tiếp tục hát, do đâu lại có hiện tượng trên, Má Bảy có tìm hiểu không?


- MB: Vấn đề nầy đa số người trong gánh hát đều cho rằng đất Nam Vang linh thiêng giống như thiên hạ đồn đãi, nhưng riêng tôi thì một phần cũng tin nơi vô vi huyền bí, nhưng phần khác thì cũng tìm hiểu thực tế như thế nào, và đã tìm ra căn nguyên của vấn đề. Số là kiều bào ta ở Nam Vang rất nhạy cảm với cải lương, lúc gánh hát mới dọn đến là thiên hạ rủ nhau đi coi, hầu như ai cũng muốn coi qua vài tuồng, ít nhứt cũng một lần thưởng thức hương vị quê hương. Họ không nhứt thiết phải coi đêm đầu mà mấy đêm sau cũng được, không bữa nầy thì bữa khác, bởi họ biết gánh hát còn ở đây lâu, chớ không lẽ mới lên lại dọn về. Thế nhưng, đến khi nghe đồn gánh hát sắp sửa dọn về nước thì thiên hạ lại ùn ùn đi coi, người ta có ý tưởng khó còn dịp, bởi một khi gánh hát quay về Việt Nam rồi thì khó mà lên đây trở lại, một hai năm sau chưa chắc có gánh hát nào dọn lên, do đó mà họ thu xếp công việc đi coi, chớ không thôi thì không còn dịp. Không riêng gì bà con ở Nam Vang mà kiều bào đang sinh sống ở những nơi xa xôi như Cần Ché tức tỉnh Kratié, trong đó có nhiều người gốc ở Long Xuyên lên đây làm nghề thợ mộc, mở trại mộc. Những người có nghề chài lưới họ tập trung ở Biển Hồ, cả những người ở Siêm Riệp và tận Battambang gần biên giới Thái Lan, cũng về Nam Vang mà mục đích là coi cải lương, thành ra suốt hơn hai tháng trời rạp hát Kim Phụng khán giả chật ních.

Sau đợt đó, người coi hát vừa giảm bớt thì lại gần Tết, mà Tết đến thì dù ở đâu gánh hát cũng hốt bạc, dọn đi làm chi cho tốn kém. Ở Nam Vang người Việt mình ăn tới hai cái Tết: Tết Nguyên Ðán và Tết Miên, mùa nước ở Miên thì ai nấy cũng đều nghỉ xả hơi, người Miên lẫn người Việt nghỉ ăn chơi cả tháng, bỏ tiền ra ăn xài, ở Miên dễ làm ăn họ xài tiền không biết tiếc. Ðối với gánh hát cải lương thì Tết ai cũng được, miễn là có người đi coi là mình bán vé, bán càng nhiều càng vui vẻ cả làng.


- TG: Hát một rạp từ năm nầy sang năm khác thì vấn đề tuồng tích có đủ hay không, lúc đó gánh Phụng Hảo của Má Bảy có bao nhiêu tuồng?


- MB: Ðây là vấn đề lo lắng nhiều, lúc bấy giờ có bao nhiêu tuồng cũng đem ra xài hết, kể cả những tuồng ít ăn khách đã bỏ qua một bên từ lâu cũng được chiếu cố. Gánh Phụng Hảo chuyên hát tuồng Tàu, các tuồng Lữ Bố Ðiêu Thuyền, Lưu Kim Ðính giải giá Thọ Châu, Thần Nữ dưng Ngũ Linh Kỳ, Ðào Tam Xuân, Trảm Trịnh Ân, Mộng Hoa Vương, Kinh Kha thích khách Tần Thủy Hoàng, Tiết Ðinh San cầu Phàn Lê Huê, Tái Sanh Duyên, Mạnh Lệ Quân thoát hài... nói chung tuồng nào cũng hát qua trên cả chục lần, khán giả đã nhàm chán, chưa biết xoay trở ra sao để giữ khán giả thì một bữa nọ vợ chồng nghệ sĩ Năm Châu, Kim Cúc từ Sài Gòn lên thăm, ông nói gánh Phụng Hảo ở Nam Vang lâu quá không về nên lên thăm tôi, thăm anh chị em anh nghệ sĩ, và sẵn dịp thăm bạn bè người thân ở bên đó. Khi đi ông mang theo một số tuồng như Sân Khấu Về Khuya, Chàng Ði Theo Nước, Vợ Và Người Tình, Khi Người Ðiên Biết Yêu, Ðoạn Tuyệt... anh Năm Châu đề nghị với tôi hát tuồng xã hội. Tôi đồng ý bởi lý do gánh hát đã cạn tuồng, phải thay đổi khẩu vị cho khán giả, đồng thời cho anh Năm Châu có số tiền chi phí, và các vai thì anh Năm Châu chia vai với kép chánh Tư Út, đào Kim Cúc cũng có vai trò.

Thay đổi tuồng tích khán giả đi coi đông không thể tưởng, chỉ nội tuồng Ðoạn Tuyệt do anh Năm Châu phóng tác theo cuốn tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nhất Linh, mà hát suốt ba tuần vẫn còn đầy nghẹt khán giả. Lên thăm Nam Vang lần đó Năm Châu dự tính có một tháng, mà ở luôn ba tháng, làm cho gánh Phụng Hảo tiền vô như nước, đào kép đi chợ Nam Vang mua sắm phủ phê và vợ chồng Năm Châu, Kim Cúc cũng ra về nặng túi.

(Còn tiếp kỳ sau)

Phượng Các
#9 Posted : Tuesday, December 13, 2005 12:55:54 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
Gặp gỡ nghệ sĩ tiền phong Phùng Há: Nam Vang cũng có cầu Sài Gòn
Saturday, October 29, 2005


(Tiếp theo kỳ trước)


Triều Giang ghi


Vấn đề “Nam Vang đi dễ khó về” câu chuyện được tiếp tục với má Bảy Phùng Há như sau:

TG: Thưa má Bảy, thời gian 5 năm ở Nam Vang các nghệ sĩ có nhớ nhà ở Việt Nam, có về thăm không?

MB: Dĩ nhiên là ai cũng có về thăm nhà, người có nhà cửa sự nghiệp ở Nam Vang họ còn muốn về huống chi là gánh hát nơi nào cũng là tạm hết, mà một chỗ ở tới 5 năm trời thì họ cũng sắp xếp để về thăm, đặc biệt là họ về vào ngày giỗ ông bà cha mẹ.

TG: Các nghệ sĩ về thăm nhà, trung bình họ ở bao lâu, đào kép hát nào cũng có vai trò, vậy khi họ về Việt Nam thì đoàn hát giải quyết ra sao, vai trò của họ có trở ngại gì cho gánh hát không?

MB: Lúc đi thì bằng ghe phải mất mấy ngày mới tới, nhưng khi về thăm nhà thì chẳng ai đi ghe tàu cả, mất thì giờ, mà đi bằng xe đò chỉ một buổi là tới nơi. Hồi đó có xe đò chạy đường Sài Gòn - Nam Vang, sáng khởi hành tại dốc cầu Sài Gòn, và khoảng 12 giờ trưa là đến bến xe Chợ Lớn.

Má Bảy nói rõ rằng ở Nam Vang có chiếc cầu không biết do ai đặt tên, mà lại mang tên “Cầu Sài Gòn”, người Việt cư ngụ ở đây khá đông nên xe đò đậu bến ngay ở chỗ dốc cầu, mỗi ngày đưa hành khách về Việt Nam và ngược lại. Nhờ đi xe đò dễ dàng, mau tới, nên trừ một số ít là họ không về hoặc cần về, chớ phần đông anh chị em đào kép công nhân thì năm nào cũng về thăm quê hương, có người một năm về Việt Nam tới mấy lần, và khi đi như vậy thì vai trò nhờ người khác thay thế, những người không vai trò hát thay cho, hoặc một người đóng hai vai. Các vai phụ người ta ít chú ý, hơn nữa trang phục tuồng Tàu mang hia đội mão rất khó phân biệt đào kép thủ hai vai. Riêng tôi là đào chánh nếu không có mặt là khán giả biết ngay, do đó mà không lần nào về thăm Việt Nam mà tôi ở quá hai đêm, có khi ở Sài Gòn một đêm thôi là phải trở lại Nam Vang ngay, vậy mà tôi cũng về cả chục lần.

TG: Ði Nam Vang lần đó gánh Phụng Hảo có khá hơn không, dư được bao nhiêu tiền Ðông Dương, cũng như nghệ sĩ có ai làm giàu nhờ chuyến đi Nam Vang không?

MB: Chỉ đỡ thôi chớ làm gì có dư nhiều, không mắc nợ là phước đức lắm rồi, bởi khi hát có tiền vô thì xây xài, mua này sắm nọ, may thêm đồ hát, mua thêm dụng cụ cho gánh hát. Còn đào kép cải lương thì cũng như lính vậy, “tiền lính tính liền” hát bữa nào trang trải bữa nấy, không thiếu nợ ắp lẫm là mừng rồi.

TG: Năm nào thì gánh Phụng Hảo, và khi về rồi có trở lại Nam Vang lần nào nữa không?

MB: Năm 1950 dọn gánh hát xuống tàu đò Nam Vang về nước (tàu chạy Nam Vang - Tân Châu), bà con đưa tiễn khá đông, nước mắt cũng khá nhiều, bởi ở lâu ngày ai cũng có kỷ niệm, người đi kẻ ở ai buồn hơn ai? Về lần đó coi như là về luôn, gánh Phụng Hảo và tôi không có trở lại Nam Vang lần nào nữa. Về nước hát ở quê nhà đào kép ai cũng mừng, khán giả cũng mừng, xa vắng thời gian lâu gánh Phụng Hảo về Sài Gòn rất đông khán giả đi coi, một năm sau mới bắt đầu đi lưu diễn. Các tỉnh miền Tây trước, kế đó là miền Ðông rồi miền Trung, miền Bắc, lúc bấy giờ có xe lửa chạy từ Sài Gòn ra Hà Nội, mướn nguyên một toa vừa chở đồ đạc gánh hát vừa cho người ngồi luôn. Bận về tỉnh nào cũng dừng lại hát nên đi bằng tàu biển, có chỗ đi bằng xe, như vậy mà đi giáp vòng cũng hết cả năm trời.

Hát được vài năm thì khán giả hằng đêm giảm xuống khá nhiều, tôi xin giấy tờ đi Nam Vang lần nữa, nhưng chưa đi thì Hiệp Ðịnh Genève 1954 ra đời, hòa bình lập lại trên đất nước chỗ nào cũng yên, dân chúng nông thôn đổ ra thành thị coi hát đông quá nên chuyện đi Miên gác lại. Chừng một năm sau thì nhiều gánh hát mới ra đời chia bớt khán giả, tình trạng tài chánh khó khăn, tôi lại lo giấy tờ đi Miên thì lúc bấy giờ tình hình đã đổi khác. Trước đây ba nước Ðông Dương cũng như một, cùng một chính quyền thuộc địa, giấy tờ do Tây cấp đi lại dễ dàng. Giờ đây nước nào cũng có chủ quyền riêng, đi Nam Vang phải có thông hành. Kế đó Việt Nam và Miên đoạn giao, coi như không còn vấn đề đi Nam Vang nữa.


(Còn tiếp)

Phượng Các
#10 Posted : Tuesday, December 13, 2005 12:56:47 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
Gặp gỡ nghệ sĩ cải lương Phùng Há
Friday, November 04, 2005


Triều Giang ghi

(Tiếp theo kỳ trước)


Ðối với một người mà tên tuổi gắn liền với nghệ thuật cải lương như Má Bảy Phùng Há thì dĩ nhiên trong đời đi hát không biết bao nhiêu là kỷ niệm vui buồn, nếu kể hết ra từng sự việc xảy ra trong hơn tám thập niên phục vụ nghệ thuật thì chắc phải viết thành cuốn nhựt ký nhiều trang. Do đó chúng tôi chỉ xin Má Bảy kể lại kỷ niệm nào đáng ghi nhớ nhứt, ăn sâu vào tâm khảm nhiều nhứt, thì câu trả lời của Má Bảy là: Sanh nghề tử nghiệp!

Câu chuyện sanh nghề tử nghiệp đã ám ảnh Má Bảy suốt nhiều thập niên mà cho đến nay đã gần đất xa trời rồi, mà khi nhắc tới cũng tưởng chừng như mới gần đây thôi, như vậy cho thấy rằng câu chuyện phải có gì đặc biệt lắm, chớ nếu không thì đâu có vương vào tâm trí lâu dài.

Số là trong thời gian đoàn Phụng Hảo đóng trụ tại rạp Kim Phụng ở Nam Vang suốt 5 năm như đã nói qua ở mấy kỳ trước, mà lúc bấy giờ thành phần nghệ sĩ hầu hết đều còn trẻ, kể cả Má Bảy cũng còn ở tuổi thanh xuân, thì một chuyện đau buồn đưa đến không những làm rúng động trong đoàn hát, mà luôn cả khối người Việt đang làm ăn sinh sống ở Nam Vang cũng xúc động bàng hoàng, đó là nghệ sĩ kép chánh Tư Út chết trên sàn diễn, trong lúc đang hát đóng cặp với nghệ sĩ Phùng Há trong tuồng Mộng Hoa Vương.

Năm 1948 một đêm nọ trước mấy trăm khán giả, gánh Phụng Hảo đang diễn tuồng Mộng Hoa Vương, tức Một Ðêm Trăng Trong Vườn Ngự Uyển, nghệ sĩ Phùng Há đóng vai Mộng Hoa Vương và kép Tư Út trong vai sứ giả Ngô Trung Cảnh. Sân khấu với cảnh trí một đêm trăng huyền ảo, Mộng Hoa Vương uyển chuyển dịu dàng xuất hiện như một nàng tiên, lộng lẫy bên cạnh Ngô Sứ Giả oai phong lẫm liệt.

Hát được nửa tuồng khán giả đang theo dõi cảnh Vườn Ngự Uyển đẹp tợ thiên thai, với Mộng Hoa Vương hương trời sắc nước, sóng tình xao động. Men tình say hon men rượu, bỗng nhiên Ngô Sứ Giả đột biến ngã quỵ vào người Mộng Hoa Vương.

Tưởng đâu kép chánh Tư Út quên tuồng hát cương cho qua lớp, đào chánh Phùng Há do phản ứng tự nhiên vội vàng đỡ lấy ôm chặt Ngô Sứ Giả vào người chớ không thôi té ngã, đồng thời kêu:

- Ngô Sứ Giả chàng đã say rồi à!

Không thấy trả lời, Mộng Hoa Vương kêu tiếp:

- Ngô Sứ Giả chàng đã say rồi sao, thôi để thiếp đưa chàng vào trướng gấm.

Vẫn không thấy Ngô Sứ Giả động tịnh gì hết, Mộng Hoa Vương mới cuống cuồng lên kêu các nhạc sĩ ngưng lại, nhưng do kêu tiếng nhỏ nên mấy ông thầy đờn có nghe gì đâu, vẫn tiếp tục hòa nhạc trổi khúc giao duyên.

Mộng Hoa Vương day vào trong nói lớn:

- Thôi đi mấy ông ơi, đờn cái gì nữa, anh Tư Út chết rồi đây nè!

Giờ đây thì mấy ông thầy đờn mới buông đờn chạy ra tiếp cứu, còn về phía khán giả thì chẳng ai biết ất giáp gì cả, tưởng đâu lớp tuồng là như thế, đến chừng nghe Mộng Hoa Vương tức đào chánh Phùng Há kêu như vậy thì mới biết có chuyện chẳng lành, và rạp hát bắt đầu xôn xao hỗn loạn. Tuy vậy khán giả vẫn ngồi lại theo dõi, chớ chưa ai đi về dù là bức màn nhung đã được buông xuống.

Trong số những người coi hát hôm bữa đó có bác sĩ Nguyễn Văn Minh, rời hàng ghế khán giả nhảy lên sân khấu làm ngay công việc của một bác sĩ, ông định bệnh cho rằng kép chánh Tư Út bị đứt gân máu.

Bác sĩ Nguyễn Văn Minh sinh quán ở Miền Nam Việt Nam, du học tốt nghiệp y khoa ở Pháp, cùng thời với bác sĩ Trương Ngọc Hơn, Trần Quang Ðệ. Về nước ông qua Miên làm việc trong bệnh viện lớn ở Nam Vang, đồng thời mở phòng mạch tư. Ông có quốc tịch Pháp và ở luôn bên Nam Vang, đến lúc bên Miên “cáp duồn”, Má Bảy có hỏi thăm nhưng chẳng biết tin tức gì cả, không biết ông có thoát được bàn tay đẫm máu của Pon Pot, chủ trương tiêu diệt các nhà trí thức theo chính sách của Khờ Me Ðỏ hay không.

Nghệ sĩ Tư Út nổi tiếng cùng thời với Năm Châu, Năm Phỉ, Tư Chơi, Tư Sạng, Kim Thoa, Phùng Há, Hề Tỵ... ông từng đóng vai Ðiệp và Năm Phỉ vai Lan trong tuồng Hoa Rơi Cửa Phật. Trong tuồng Tái Sanh Duyên thì Tư Út đóng vai Hoàng Phủ Thiếu Hoa, Năm Châu vai Lưu Khuê Bích và Phùng Há vai Tô Ánh Tuyết.

Tư Út đầu quân gánh Phụng Hảo, theo đoàn đi Nam Vang hát tại đây suốt mấy năm liền, và là kép chánh đóng cặp với nghệ sĩ Phùng Há nên khá nhiều người biết mặt. Tin nghệ sĩ Tư Út chết trên sàn diễn được loan ra nhanh chóng, bất cứ nơi nào có người Việt cư ngụ là có bàn tán, và có quá nhiều câu chuyện kỳ bí được tung ra, không biết những nguồn tin thất thiệt xuất phát từ đâu mà người ta đồn đãi rằng tại vì kép hát diễn không đúng, bị nhân vật trong truyện về “bắt đi”, hoặc là do hát hay qua nên bị Tổ nghiệp “đem về” hát cho Tổ coi ở bên kia thế giới, v.v...

Lúc bấy giờ khán giả ở Nam Vang rất ái mộ Tư Út qua vai trò Nhữ Nam Vương, trong tuồng Ðào Tam Xuân Báo Phu Cừu, tức Trảm Trịnh Ân. Cái trung của Tư Út đã làm rơi lệ khán giả, và do yêu cầu của số đông khán giả nên tuồng nầy diễn đi diễn lại nhiều lần.

(Còn tiếp kỳ sau)

Phượng Các
#11 Posted : Tuesday, December 13, 2005 12:57:46 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
Gặp gỡ nghệ sĩ tiền phong Phùng Há
Saturday, November 19, 2005


Cuộc tình nghệ sĩ Tư Chơi-Phùng Há

Triều Giang ghi

(Tiếp theo kỳ trước)


Sau phần phỏng vấn Má Bảy Phùng Há về những công trình văn hóa xã hội đã thực hiện được, cùng những vấn đề nghệ thuật sân khấu cải lương khi thăng lúc trầm, cũng như các sự kiện liên quan đến tinh thần phục vụ của người nghệ sĩ, đời sống của họ khi tuổi trở về chiều ra sao? Ðồng thời ước vọng trong tương lai của người nghệ sĩ tuổi gần 100 là gì, bà còn muốn thực hiện công trình nào nữa cho thế hệ nghệ sĩ mai sau?

Phần sau cùng trước khi chấm dứt loạt bài “Ký sự gặp gỡ nghệ sĩ tiền phong Phùng Há” là những câu hỏi liên quan đến cuộc đời tình cảm của người nghệ sĩ “ nổi danh tài sắc một thời,” mà có lẽ rất nhiều quý vị muốn biết nghệ sĩ Phùng Há thời còn trẻ vấn đề tình cảm như thế nào, “hồng nhan bạc phận” có hay không?

Nổi danh rất sớm, đi tới đâu cũng được người người ái mộ, tài sắc nghệ sĩ Phùng Há đã chinh phục hàng triệu con tim của khán giả, đã không biết bao nhiêu chàng công tử chạy theo ngày đêm cầu cạnh, hằng bao nhà trí thức khổ công đeo đuổi, và hằng bao chức quyền cao trọng săn đón mời chào, nhưng rồi cũng chẳng đi đến đâu cả, và khi về già Má Bảy cô độc, vui với sinh hoạt của Chùa Nghệ Sĩ.

Người viết bài này từng đứng ra tổ chức các kỳ thi cổ nhạc Giải Phụng Hoàng, trong buổi lễ phát giải năm 2002, có mời Ðại Tướng Nguyễn Khánh tham dự, và lúc được mời lên phát biểu ông nói: “Nghệ sĩ dân tộc Phùng Há là kế mẫu của tôi” (nguyên văn). Như vậy thân phụ của Ðại Tướng Nguyễn Khánh đã có một thời kết duyên với Má Bảy. Và trong lúc tiếp xúc với Má Bảy tại Chùa Nghệ Sĩ, chúng tôi có đề cập đến đại tướng thì bà nói rằng: “Nó muốn về thăm tôi, nhưng tôi nói nó xin với chính quyền trước đi.”

Nếu như quý vị có theo dõi bài tình sử cải lương Cuộc Ðời Thanh Nga đăng lâu nay trên trang báo này thì thấy rằng cuộc đời tình cảm của Nữ Hoàng sân khấu Thanh Nga đã tách rời với nghệ thuật, còn Má Bảy thì cuộc đời tình cảm lại đi đôi với nghệ thuật. Trong trái tim Thanh Nga không có hình bóng nào của người trong giới cải lương, kể cả kép hát, soạn giả, nhạc sĩ bầu gánh, chủ rạp hát đều rơi đài, thì ngược lại các mối tình chính thức của Má Bảy lại là những người liên quan mật thiết với nghệ thuật cải lương.

Người chồng đầu tiên của má Bảy là nghệ sĩ Tư Chơi, tức soạn giả Huỳnh Thủ Trung, một nhà Nho học lẫn Tây học, ông từng dịch những kịch bản Pháp văn, Hán văn sang lời Việt trình diễn trên sân khấu cải lương thời thập niên 1930. Ngoài ra ông cũng là một nhạc sĩ đờn kìm với ngón đờn độc đáo như chim kêu, và từng là bầu gánh của nhiều gánh hát lớn. Nhưng về sau không biết do đâu mà ông trở thành đệ tử lưu linh hạng nặng, nhậu say như hũ chìm, ngày nầy qua tháng nọ suốt năm chẳng bữa nào mà không nhậu. Lúc bấy giờ nhiều người đã nói, trung bình mỗi ngày ông ngủ chỉ bốn tiếng đồng hồ thôi, 20 tiếng còn lại là say với ngà ngà.

Cuộc tình của Má Bảy với nghệ sĩ Tư Chơi, kết quả bà hạ sinh một người con gái: Cô Lý Bửu Trân, tức Bửu Chánh, và người ta thắc mắc tại sao Má Bảy tên là Trương Phụng Hảo, chồng bà tên Huỳnh Thủ Trung mà con gái lại tên là Lý Bửu Trân, đây là điều mà nếu như không có sự giải thích rõ ràng cặn kẽ của Má Bảy thì khó có ai mà đoán được.

Thật ra thì Bửu Chánh có tên là Trương Phụng Huê (mang họ mẹ), và có lẽ do uẩn khúc nào đó, có thể không phải là vợ chính thức có hôn thú chăng, hoặc cuộc tình chấm dứt từ lúc Bửu Chánh chưa ra đời. Vấn đề Má Bảy không nói rõ, chớ sau ngày Bửu Chánh ra đời thì mối tình của bà với soạn giả Huỳnh Thủ Trung đã không còn.

Số là do nghề đi hát rày đây mai đó, nên lúc Bửu Chánh mới vừa bập bẹ học nói, còn đi chập chững thì được gởi cho người dì thứ Ba, tức chị của Má Bảy tên là Trương Ngân Hảo đem Bửu Chánh về Huyện Hạc Sơn bên Trung Quốc, tỉnh Quảng Châu. Bà Trương Ngân Hảo làm dâu nhà họ Lý (ông Lý Huy) một vọng tộc ở Hạt Sơn, đã lập khai sanh cho Bửu Chánh với cái tên Lý Bửu Trân để đi học, do đó mà Bửu Chánh mang họ Lý trên giấy tờ.

(Còn tiếp kỳ sau)

Phượng Các
#12 Posted : Tuesday, December 13, 2005 1:01:18 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)


Khi về Việt Nam, cô Lý Bửu Trân-Bửu Chánh học ở Sài Gòn


Cô Bửu Chánh từ Trung Quốc về Việt Nam sum họp với mẹ, nghệ sĩ Phùng Há


Triều Giang ghi

(Tiếp theo kỳ trước)


Sống với người dì ở Hạc Sơn bên Trung Quốc, cô Bửu Chánh học đến gần hết Trung Học thì trở về Việt Nam, và đó là ý nguyện từ lâu của người con vì hoàn cảnh phải xa mẹ. Hơn 10 năm xa cách mẹ con trùng phùng, niềm vui khôn tả, chớ trước đó đêm nào Má Bảy cũng khóc thầm vì nhớ con, người nghệ sĩ mà trên sân khấu làm rơi lệ khán giả, và khi tấm màn nhung buông xuống thì Má Bảy tự khóc cho mình.

Thế nhưng, có một điều mà chúng tôi cũng như nhiều người thắc mắc từ lâu, là tại sao một nghệ sĩ nổi danh như Má Bảy Phùng Há, đam mê ca hát đến đỗi bị đuổi học, mà nghe nói người con của bà là cô Bửu Chánh lại không có học ca hát gì hết. Sẵn dịp tiếp xúc với Má Bảy, chúng tôi hỏi vấn đề này, và cũng nhờ đó mà biết thêm rất nhiều về mặt trái của cải lương, với những câu nói rất là vui của Má Bảy.


- TG: Thưa Má Bảy, nghe nói chị Bửu Chánh chỉ lo học hành mà thôi, chớ không được dạy ca hát gì hết, có phải vậy hay không?


- MB: Rất đúng, lúc Bửu Chánh mới từ bên Trung Quốc về, tôi cũng tính dạy cho nó nghề hát để nối nghiệp tôi sau này, nhưng thấy nó học giỏi quá, thông minh quá, nói thông thạo bốn thứ tiếng Anh, Pháp, Tàu và Tây Ban Nha, nên tôi tiếp tục cho nó ăn học rồi thủng thẳng sẽ tính.


- TG: Trong nghệ thuật cải lương, Năm Nghĩa là dưỡng phụ của Thanh Nga, là bầu gánh hát Thanh Minh, ông đã đào luyện Thanh Nga từ lúc nhỏ, 15 tuổi đã nhận vai trò đứa con hai dòng máu, coi như vai chánh và từ đó đã trở thành đào hát nổi tiếng luôn. Còn Má Bảy cũng là nghệ sĩ nổi danh còn hơn cả Năm Nghĩa, lại là bầu gánh hát Phụng Hảo, thế sao Má Bảy không uyển chuyển vừa cho chị Bửu Chánh đi học, vừa cho học hát cải lương, biết đâu chị cũng nổi tiếng như Thanh Nga?


- MB: Mỗi thời kỳ mỗi khác, Bửu Chánh lớn lên trong thời kỳ Pháp thuộc, tệ đoan xã hội lan tràn, ngay trong rạp hát khán giả coi cải lương nhìn lên sân khấu thấy những cái hay cái đẹp của nghệ thuật, nhưng đàng sau bức màn nhung thì lại không tốt đẹp gì hết. Phía trong cánh gà, sát bên vách là mâm đèn hút á phiện, lúc nào cũng có vài người nằm đi mây về gió, giới nghệ sĩ cải lương nhiều người mang bệnh ghiền cũng là do đó. Có những anh kép vừa hát xong một cảnh là nhào vô kéo ro ro, mấy ông thầy đờn cũng vậy, màn vừa bỏ xuống thay cảnh là buông đờn chạy vô làm một cặp (tiếng lóng của hút á phiện) rồi trở ra đờn tiếp. Mấy bữa hút nhiều mùi khét nghẹt bay ra ngoài khán giả chịu không nổi, người ta la lên phải quạt cho khói bay phía sau rạp.


- TG: Má Bảy là bầu gánh mà lại cho đặt cái thứ đó ở ngay trong hậu trường, sao không bảo họ đem đi chỗ khác?


- MB: Ðâu phải quyền của mình, mà của chủ rạp hát, hút bao nhiêu cũng được miễn là trả tiền đủ cho họ mà thôi, rạp nào cũng vậy nếu mình không chấp nhận thì đừng mướn, mà thời đó rạp nào cũng có cái thứ đó hết. Mà đâu phải chỉ mâm đèn á phiện thôi sao, lại còn thêm đánh bài, hát ở trên đánh bài ở dưới, chủ rạp lấy xâu, đào kép vừa hát xong lãnh lương là họ ngồi tại đó thu tiền liền, chạy đâu cho khỏi.

Má Bảy nói thời đó sân khấu nào cũng vậy, ở trên treo màn treo cảnh, còn ở dưới là chỗ ở của đào kép công nhân, chỉ một số ít ở nhà ngoài, đào kép chánh lương nhiều họ mướn nhà, mua nhà nên không ở rạp, chớ phần đông thì ở dưới cái sân khấu, tức hậu trường rạp hát. Rạp nào phía trong cũng có chừa khoảng trống nền lót gạch tàu, chỗ đó là sòng bài hoạt động suốt ngày đêm, chửi thề nói tục không ngớt. Ðào kép tới vai trò thì lên hát, mà chưa tới thì chạy xuống đặt vài tụ, để nguyên râu ria áo mão dài thượt ngồi vô chia bài, Quan Công, Lưu Bị cũng đánh bài, cha con Tiết Nhơn Quý, Tiết Ðinh San cũng ăn thua nhau cãi vã rùm beng.

Bà nói tiếp có một hôm gánh Năm Châu hát tuồng Lan và Ðiệp, vừa hết cảnh Lan cắt đứt dây chuông rồi ngất xỉu, và Ðiệp thì khổ sầu, người coi hát ai cũng cảm thương, vậy mà màn vừa bỏ xuống thì cả Lan lẫn Ðiệp chạy xuống sòng bài kéo dà dách. Lúc ông hòa thượng đang hát ở trên thì ở dưới Ðiệp kéo bài ăn gian sao đó, sẵn cái dĩa kéo dà dách Lan đập cho Ðiệp xụi tay. Chừng tới vai trò ra sân khấu trở lại, ông hòa thượng đưa áo cà sa cho mặc để vào hậu liêu cho Lan trao gởi nổi niềm tâm sự thì đưa tay lên không được, ông hòa thượng phải mặc giúp cho. Rồi tới lúc Lan sắp chết, lúc này phải cởi áo cà sa thật mau để chạy tới ôm Lan thì tay đau quá cởi áo không được, phải làm bộ lui trở vô tấm cánh gà nhờ chú tiểu Huệ Thông kéo ra giùm.


- TG: Rồi khán giả có phản ứng gì không, họ có biết lý do tại sao không?


- MB: Người ta nói chắc kép hát bữa nay say rượu nên quên tuồng, hát quờ quạng chớ đâu có biết do đánh bài kéo dà dách, bởi vậy nên lúc nào cũng mắc nợ, hát bữa nào xào bữa nấy. Do cảnh sa đọa như vậy nên tôi đâu dám cho con Bửu Chánh tới hậu trường rạp hát, sợ bị nhiễm những thứ đó thì tiêu đời.


- TG: Chớ còn Thanh Nga thì thế nào, tại sao cô không bị nhiễm tệ nạn đó, Má Bảy có biết không?


- MB: Như tôi đã nói hồi nãy đó, Bửu Chánh lớn lên nhằm thời Tây, còn Thanh Nga nó lớn lên nhằm thời ông Ngô Ðình Diệm, tứ đổ tường bị cấm, sòng bạc Kim Chung, Ðại Thế Giới bị đóng cửa, tiệm hút cũng dẹp luôn, mâm đèn ống hút bị đem ra đốt ở bùng binh chợ Sài Gòn, làm dân đi mây về gió, tiên ông, tiên bà tiếc hùi hụi. Nhờ rạp hát không còn cái tệ đoan của thời trước nên Năm Nghĩa mới dám cho Thanh Nga đến rạp hát tập luyện, chính tôi cũng từng rèn luyện cho Thanh Nga tập diễn ở rạp.

Lời giải thích của Má Bảy thật là chí lý, chúng tôi rất khâm phục bà, đã không bị ảnh hưởng câu nói “ở bầu thì tròn, ở ống thì dài” hay là “gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”, đối với Má Bảy phải nói rằng “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn” vậy!

(Còn tiếp kỳ sau)
Phượng Các
#13 Posted : Tuesday, December 13, 2005 1:02:11 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
Gặp gỡ nghệ sĩ tiền phong Phùng Há: Ngày đau khổ nhất của má Bẩy
Saturday, December 03, 2005


Triều Giang ghi

(Tiếp theo kỳ trước)


Má Bảy Phùng Há nói tiếp rằng cũng do một số hiện tượng tệ đoan xã hội hay xảy ra ngay trong hậu trường sân khấu, nên cô Bửu Chánh từ ngày ở Trung Quốc về suốt mấy năm trời bà không cho cô đến đó, nếu có coi hát thì bác Tư tài xế đưa đến rạp ngồi ở hàng ghế khán giả, mà thường là đợi khi gần tới giờ mở màn mới đưa tới, chớ không sớm hơn sợ rằng chưa hát cô sẽ đi ra phía sau rạp.

Nhưng rồi một bữa nọ do tính tò mò, cô nói với bác Tư đưa tới sớm hơn để đến hậu trường rạp hát xem mẹ cô trang phục đóng tuồng. Bác Tư ngần ngừ không chịu vì có lệnh của Má Bảy, nhưng cô nói rằng nếu không đưa đi thì cô đi xích lô cũng vậy, do đó mà buộc lòng là bác Tư phải chiều ý, và cô đến hậu trường rạp hát lúc đào kép còn đang giặm mặt phấn son trang điểm.

Thấy cô đến, Má Bảy giựt mình, bà ngạc nhiên hỏi:

- Sao con tới đây chi vậy?

Cô Bửu Chánh ngả vào lòng bà, cố ý cho người mẹ hiểu rằng đừng lo ngại gì hết, cô đã biết lý do vì sao bà không muốn cho cô đến đây, bởi trước khi lên cầu thang để gặp bà thì phải đi ngang qua đám bạc ở phía dưới. Và sau khi đã thấy cảnh cờ bạc, hút xách ở hậu trường rạp hát rồi, thì cô Bửu Chánh cũng không tới đó nữa làm chi, có gì cần thiết lắm mới tới mà thôi, chớ bằng không thì cũng chờ bà về nhà.

Hồng nhan đa truân, má hồng phận bạc, Má Bảy tưởng đâu khi tuổi về chiều cũng có đứa con làm nguồn an ủi, nhưng ông tạo chẳng thương tình, đã không cho bà được như vậy. Cuối thập niên 1950 do chứng bệnh ung thư máu hiểm nghèo, cô Bửu Chánh qua đời tại nhà thương Ðồn Ðất (Grall), năm đó mới 33 tuổi.

Ðây là cái ngày đau khổ nhứt của Má Bảy, niềm vui cuối cùng mất đi, bà bỏ cả tháng không hát xướng gì hết. Tinh thần đâu mà hát nữa và kể từ đó bà cũng ít lên sân khấu, bỏ thì giờ ra làm chuyện xã hội nhiều hơn.

(Còn tiếp kỳ sau)

Phượng Các
#14 Posted : Tuesday, December 13, 2005 1:02:43 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
Mối tình nghệ sĩ Phùng Há và Bạch Công Tử (tiếp theo kỳ trước)
Friday, December 09, 2005


Triều Giang ghi

(Tiếp theo kỳ trước)


Thuở xưa đất Nam Kỳ Lục Tỉnh có hai chàng công tử nổi tiếng trong thiên hạ thời bấy giờ, mà trong dịp tiếp xúc với Má Bảy Phùng Há, chúng tôi đã thu thập khá nhiều sự kiện có liên quan đến một trong hai chàng công tử nói trên.

Trước hết xin nói về chàng công tử Bạc Liêu, mà cho đến nay thỉnh thoảng trong những câu chuyện người ta vẫn còn nhắc đến, nhứt là ở các tỉnh miền Tây thì nhiều người biết hơn, do những di tích còn lưu lại như nhà cửa, vườn đất, tài sản, v.v... cũng như trong sử sách của tỉnh Bạc Liêu cũng có đề cập đến chàng công tử này.

Cái biệt danh “Công Tử Bạc Liêu” đã nói lên nơi sinh trưởng của chàng công tử ở một tỉnh được coi như vựa lúa miền Tây, và cũng nhờ sự trù phú của tỉnh đã đem lại cho Tổ Phụ của cậu công tử nhiều tài sản ruộng vườn, để rồi đến đời của cậu thì tung ra xài tiền như nước, không biết bao nhiêu mà kể. Công Tử Bạc Liêu, cũng có người gọi là “Hắc Công Tử” (có lẽ do nước da không được trắng), để phân biệt với chàng Bạch Công Tử ở Mỹ Tho, cũng con nhà giàu, ruộng đất cò bay thẳng cánh và cũng nổi tiếng ăn chơi không kém Hắc Công Tử nhưng với hình thức khác.

Thế nhưng, Bạch Công Tử là ai, liên hệ như thế nào với Má Bảy Phùng Há? Cái điều đáng ghi ở đây là Bạch Công Tử liên hệ nhiều đến Má Bảy cả về tình cảm lẫn nghệ thuật. Về tình cảm thì Má Bảy chung sống với Bạch Công Tử đến 7 năm và có hai mặt con (cả hai đều chết khi còn nhỏ nên sau này ít được nói đến). Còn về nghệ thuật thì Bạch Công Tử là bầu gánh hát Huỳnh Kỳ, một gánh hát lớn thời đó, mà toàn bộ nghệ thuật do Má Bảy điều khiển.

Bạch Công Tử tên thật là Lê Công Phước, biệt danh là Phước George, sinh tại Mỹ Tho vào khoảng đầu thế kỷ 20 hoặc trước đó vài năm, tức khoảng 1896-1897, thiên hạ đã căn cứ vào những người đồng chạng cùng đi học để định tuổi chớ không ai biết chính xác. Có người nói rằng do lớn hơn Má Bảy nhiều tuổi, sợ rằng Má Bảy mặc cảm nên ông giấu tuổi (lớn hơn khoảng 15 tuổi).

Công tử Phước George du học từ bên Pháp về, ăn chơi khét tiếng đất Mỹ Tho (Má Bảy cũng sinh trưởng tại Mỹ Tho), và mê mệt cô đào cải lương Phùng Há nên bỏ tiền ra lập gánh hát, để có cơ hội chiếm con tim của cô đào trẻ đẹp lúc bấy giờ. Người ta nói mục tiêu lập gánh hát của Phước George vì nghệ thuật thì ít, mà vì cô đào làm nghệ thuật thì nhiều.

(Còn tiếp kỳ sau)

Việt Dương Nhân
#15 Posted : Wednesday, January 18, 2006 8:50:45 PM(UTC)
Việt Dương Nhân

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 1,837
Points: 0

Cô Bảy Phùng Há đã từng làm… luật sư


Đến năm nay, cô Bảy Phùng Há đã 95 tuổi. Trọng đời cô đã cống hiến hết mình cho nghệ thuật cải lương. Vai diễn nào trong bất cứ vở tuồng nào cũng được cô thể hiện với tất cả tâm hồn và trí tuệ. Vai diễn mà cô gây ấn tượng nhất cho tôi là vai luật sư trong Đoạn tuyệt - một luật sư xuất sắc tuyệt với khiến 45 năm qua tôi không thể nào quên.

Đoạn tuyệt là một cuốn tiểu thuyết của Nhất Linh, được soạn giả Duy Lân chuyển thể thành kịch bản cải lương. Đoàn cải lương Thanh Minh – Thanh Nga đã đưa vở này lên lên sân khấu rạp Nguyễn Văn Hảo vào năm 1960. Dàn nghệ sĩ tài hoa của đoàn gồm Thanh Nga (vai Loan), Vịêt Hùng (vai Ấm Thân), Năm Sa Đéc (vai Phán Lợi), Ngọc Nuôi (vai Bích)… Kịch bản được viết ra từ lâu nhưng đoàn chưa đưa lên sân khấu vì thiếu một người thủ vai nữ luật sư. Đến năm 1960, đoàn mời được cô Bảy Phùng Há thủ vai này. Cô Bảy đồng ý, học tuồng, nhập vai. Lúc đó, đoàn mới dám đưa vở tuồng lên sân khấu.

Theo kịch bản, Loan ở tư thế tự vệ khi bị chồng cầm chiếc bình sứ, định đánh mình. Cô nói lớn: “Anh mà tiến đến đánh tôi, tôi sẽ tự tử chết”. Trên tay cô đang cầm chiếc rao rọc giấy. Ấm Thân nhào đến đánh vợ và trượt chân, lưỡi dao xuyên vào ngực anh ta. Vậy là đã hình thành một vụ án hình sự, trong đó, Loan bị kết tội là đã giết chồng. Phiên toà được mở ra, xét xử theo luật hình sự thời thuộc Pháp. Cô Bảy Phùng Há – lúc bấy giờ đã 55 tuổi, mặc bộ áo thụng đen của lụât sư, trước cổ đeo cái diềm trắng, tiến ra sân khấu trong tiếng vỗ tay vang dội của khán giả. Cô đứng vào sau bục dành cho luật sư, Thanh Nga ngồi trên chiếc ghế dành cho bị cáo bên tay trái cô.



Bằng một giọng nói dõng dạc, cô Bảy Phùng Há đã phân tích tất cả những khái cạnh dẫn đến cái chết của cậu Ấm Thân. Cô vừa ca, vừa diễn, nhập vai một cách kỳ diệu đến nỗi khiến mọi khán giả đều có cảm giác mình đang tham sự một phiên toàn đại hình thời thuộc Pháp trong một toà án thực sự. Bên nguyên cáo (gia đình bà Phán Lợi) không mời luật sư, chỉ khăng khăng kết tội Loan đã “cố sát” chồng. Bên bị cáo, có nữ luật sư bào chữa. Cô Bảy Phùng Há hoàn toàn làm chủ sân khấu, nét mặt khi bi thương để diễn tả những ngày tháng tủi nhục của Loan, khi công phẫn lên án những lề thói lạc hậu, xấu xa, xem con dâu như người ở đợ trong gia đình phong kiến. Khi cô vịn vào vai của Thanh Nga và hùng hồn nói: “Bị cáo không phạm tội cố sát, chính nạn nhân đã trượt ngã và vướng vào lưỡi dao oan nghiệt. Chúng tôi đề nghị quý toà tuyên bố đây là một trường hợp ngộ sát đáng tiếc, tha bổng cho thân chủ của chúng tôi” thì khán giả đứng lên vỗ tay vang dội. Họ cảm thấy thoả mãn khi luật sư đã biện hộ hết mình vì quyền lợi, nhân phẩm và sinh mạng chính trị của Loan. Và trên hết, họ tán thưởng tài năng diễn xuất tuyệt vời của cô Bảy Phùng Há.

Phiên toà diễn ra trong 20 phút với phần thẩm vấn của các biện lý, nhưng lời thẩm vấn gay go. Thế nhưng “lụât sư” Bảy Phùng Há đã vượt qua mọi lời buộc tội thiếu căn cứ, bảo vệ cho Loan. Khi chánh án phiên toà tuyên bố tha bổng cho Loan, mọi người lại đứng lên vỗ tay. Công lý đã thắng sự xuyên tạc, bịa đặt.

Sau này, khi tôi hỏi cô Bảy rằng trong hàng trăm vai diễn của cô, vai diễn nào cô tâm đắc vnhất, cô bảo: “Đó là vai luật sư trong vở Đoạn tuyệt”. Cô cắt nghĩa: “Người phụ nữ trong chế độ thực dân phong kiến rất đau khổ. Tôi đóng vai luật sư trên sân khấu mà cứ nghĩ đến cuộc sống thực tế trong đời. Cho nên tôi nhập vai, quên mất mình là… Phùng Há, để làm một luật sư – dù chỉ là luật sư trên sân khấu, nhằm góp phần bảo vệ nhân phẩm và danh dự người phụ nữ”.

HUỲNH CÔNG MINH
(ST)
Phượng Các
#16 Posted : Thursday, March 22, 2007 12:27:40 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
Cháu được biết là nữ nghệ sĩ tiền phong Phùng Há, năm nay đã hơn chín mươi tuổi và nghe nói là bà vẫn còn khoẻ mạnh, bà đang sống trong chùa nghệ sĩ ở Gò Vấp. Xin bác cho cháu biết về ngày sinh, quê quán và những bước đầu khởi nghiệp của nữ nghệ sĩ Phùng Há được không ạ ?

Ðáp : Chào cô Giáo Hiếu. Tôi xin cám ơn cô đã có nhã ý muốn biết về tiểu sử của nữ nghệ sĩ Phùng Há, một danh tài mà giới nghệ sĩ cải lương chúng tôi rất kính mến, xem bà là một trong những người đầu tiên có công khai sơn phá thạch xây dựng nên nền nghệ thuật sân khấu cải lương Việt Nam.

Bà Phùng Há tên thật là Trương Phụng Hảo, sanh ngày 30 tháng 4 năm 1911 ( Tân Hợi) tại làng Ðiều Hòa , tổng Thuận Trị, quận Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho. Tính đến nay thì bà đã được 95 tuổi dương lịch. Bà đã phụng sự sân khấu hơn 80 năm kể từ vai hát đầu tiên năm 13 tuổi, đó là vai Giả Thị trong tuồng Hoàng Phi Hổ Qui Châu của soạn giả Nguyễn công Mạnh.

Phụng Hảo họ Trương, gốc tích của dòng họ Trương là ở làng Phú Lạng, huyện Hạc Sơn, tỉnh Quảng Ðông Trung Quốc. Ông Trương Nhân Trưởng, cha ruột của nữ nghệ sĩ Trương Phụng Hảo vì chơi quấn pháo vào bím tóc của một người bạn, pháo nổ văng mất bím, sợ bị tù tội nên ông mới bỏ trốn sang Việt Nam. Ông Trương Nhân Trưởng đã có vợ bên Tàu, nhưng vì đang trốn chạy nên không mang vợ theo được.

Ông Trưởng đến Mỹ Tho làm nghề bán thịt bò, ông cưới bà Lê thị Mai, người làng Ðiều Hòa. Hai ông bà có được với nhau 7 người con: Trương Tích Kỳ,( con trai trưởng), Trương Ngân Hảo ( nữ), Trương Liên Hảo( nữ), Trương Tích Huy( nam, đã chết lúc nhỏ), Trương Tích Trung( nam), Trương Phụng Hảo( nữ) và Trương Nguyệt Hảo( nữ).

Bà Lê Thị Mai thường gọi Trương Phụng Hảo là Phùng Há, theo cách gọi của người làng quê Trung Quốc nên Trương Phụng Hảo lấy nghệ danh là Phùng Há để tưởng nhớ mẹ của mình.

Hỏi: Theo lời của bác, nữ nghệ sĩ Phùng Há là gốc người Hoa, vậy thì trong trường hợp nào, do cơ duyên nào mà bà trở thành người nghệ sĩ tài danh của sân khấu cải lương Việt Nam?

Ðáp : Hồi đó tôi cũng hỏi cô Bảy Phùng Há như vậy đó. Cô Phùng Há cho là do sự an bày của Tổ nghiệp! Cô Phùng Há cho biết là Ba cô làm ăn ở Việt Nam rất phát đạt, khi ông mất thì mẹ cô và các anh chị em cô đưa ông về an táng ở huyện Hạc San Trung Quốc, gia sản ở Việt Nam trao cho người anh cả là Trương Tích Kỳ quản lý.

Khi mẹ cô và cô trở về Việt Nam thì anh TrươngTích Kỳ muốn chiếm đoạt cả gia sản nên định mua vé tàu đưa hai mẹ con cô trở về Hạc San chớ không cho ở chung một nhà như khi Ba cô còn sống. Mẹ cô không muốn trở về Tàu, sống trong thân phận của người vợ lẽ, một thân phận chẳng khác gì con sen hay người ở đợ, nên mẹ cô dẫn cô về ở nhà với bà ngoại của cô trên chợ Giòng Nhỏ.

Bà ngoại mù lòa, mẹ cô đau yếu liên miên, Trương Phụng Hảo phải đi mò lạch, kiếm cá, kiếm tép để làm thức ăn nuôi bà và mẹ. Bà Tư trong xóm thương tình dẫn Phụng Hảo tới làm công in gạch trong lò gạch của ông Bang Hoạch ở xóm cầu đúc. Tiền công in một trăm viên được ba xu. Phụng Hảo làm không quen nên vừa làm vừa ca nghêu ngao cho đở buồn. Không ngờ những người cùng làm công trong lò gạch nghe thích quá, mới bảo cô ca cho họ nghe, họ phụ in gạch để cho cô có tiền nuôi mẹ.

Lúc đó ông Bầu Hai Cu, chủ gánh hát Tái Ðồng Ban, nghe đồn có con nhỏ xẩm lai ca hay lắm nên ông tìm tới. Nghe giọng ca của cô Phụng Hảo, ông thấy có thể đào tạo cho cô hát trên sân khấu Tái đồng Ban nên ông ký hợp đồng với cô, do mẹ cô đại diện. Ông cho mượn trước 50 chục đồng để lo thuốc thang và dưởng nuôi bà ngoại cô, lương của cô được 8 cắc mỗi suất diễn, hai mẹ con theo gánh hát được nuôi cơm và có chỗ ở. Lúc đó cô làm ở lò gạch, vừa làm vừa ca mà chỉ được có một cắc mỗi ngày thôi.

Thầy tuồng Nguyễn Công Mạnh và nghệ sĩ Năm Châu dạy cô hát, nhạc sĩ Tư Chơi dạy cô ca. Phụng Hảo siêng năng, sáng dạ nên chỉ trong một tuần lễ học là cô có thể đóng tuồng chung với kép Năm Châu. Học xong tuồng nào thì hát tuồng đó. Ông Bầu bảo lấy tên Phùng Há làm nghệ danh cho cô. Ðó, bước đầu khởi nghiệp của nữ nghệ sĩ Phùng Há là như vậy đó.

Hỏi : Thưa bác, xin bác cho biết thành phần nghệ sĩ và những tuồng tích của gánh hát Tái Ðồng Ban trong lúc đó ra sao ?

Ðáp: Thành phần nghệ sĩ gánh Tái Ðồng Ban, bên đào thì có : Phùng Há, Ba Nhàn, Ba Liên, Năm Phụng, Hai Quờn. Hai Quờn về sau là vợ của anh Ba Du.

Bên kép có : Năm Châu, Tám Mẹo, Ba Du, Tư Út, Từ Anh, Hai Bông, Năm Tỵ. Nhạc sĩ Tư Chơi tức là Huỳnh Thủ Trung, lúc đó đờn đoản, anh Tư Chơi cũng có viết tuồng hát nữa.

Tuồng hát : có các vở Hoàng Phi Hổ quy Châu, của soạn giả Nguyễn Công Mạnh, vở tuồng Thôi Tử Thí Tề Quân, Mổ Tim Tỷ Can, Anh Hùng Náo Tam Môn Nhai của soạn giả Nguyễn Thành Châu, vở tuồng Khúc oan vô lượng, Tội của Ai của soạn giả Tư Chơi. Phùng Há đóng cặp vớì anh Năm Châu được khán giả khen là rất xứng đào xứng kép.

Lý Bửu Trân, ai nữ của nghệ sĩ Phùng Há


Hỏi :Thưa bác, có phải chăng là từ Tái Ðồng Ban này nẩy sanh ra mối tình Năm Châu - Phùng Há?

Ðáp: Theo tôi biết thì mối tình đầu của nữ nghệ sĩ Phùng Há là với nhạc sĩ kiêm soạn giả Tư Chơi. Nghệ sĩ Tư Chơi là người chồng đầu tiên của nữ nghệ sĩ Phùng Há. Họ có chung với nhau một đứa con gái, đặt tên là Lý Bửu Trân. Lý Bửu Trân sanh năm 1927 và mất năm 1959 tại Saigon.


Hình của Soạn giả Nguyễn Phương.


Bửu Trân mang họ Lý thay vì họ Huỳnh của cha là Huỳnh Thủ Trung vì khi cô được ba tuổi, cha mẹ cô ly dị nhau, mẹ cô gởi cô về huyện Hạc San bên Trung Quốc cho dì của cô là bà Trương Liên Hảo, nuôi dưỡng và vì vậy mà Bửu Trân lấy theo họ của dưỡng phụ là phú hào họ Lý.

Lý Bửu Trân học rất giỏi, cô thông thạo năm thứ tiếng : Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Quan Thoại, Quảng đông và Việt Nam. Trong những năm 1957, 1958, khi tiếp xúc với các phái đoàn nghệ thuật Ấn Ðộ, Mỹ quốc, Trung Hoa Dân Quốc và đoàn nhạc gỏ Pháp Quốc, Lý Bửu Trân là thông dịch viên của Hội Nghệ Sĩ Ái Hữu khi Hội tiếp xúc với các đại diện và nghệ sĩ của các phái đoàn nước bạn. Lý Bửu Trân bị bịnh ung thư máu, mất tại nhà thương Grall vào tháng 12 năm 1959.

Nữ nghệ sĩ Phùng Há có nhiều vai tuồng hát để đời, riêng vai Lữ Bố trong tuồng Phụng Nghi Ðình, khi bà Phùng Há hát vai Lữ Bố, cố nữ nghệ sĩ Thanh Nga hát vai Ðiêu Thuyền, có một nhà thơ đã tặng cho nghệ sĩ Phùng Há mấy câu thơ : mời quí thính giả nghe nghệ sĩ Phùng Há đọc mấy câu thơ nầy :

Ấy mới tài! Ấy mới duyên!
Lẵng lơ Lã Bố Hí Ðiêu Thuyền
Ai hay Lã Bố là cô ã
Ðã quyết tao…Phùng…Há dám quên!

Minh họa tiếng hát của cô Phùng Há trong vai Lựu tuồng Ðời cô Lựu. Thưa quí thính giả vừa rồi là tiếng hát của cô Bảy Phùng Há trong vai Lựu tuồng Ðời Cô Lựu của soạn giả Tư Trang.

Hỏi : Thưa bác, để tìm hiểu về nữ nghệ sĩ tài danh Phùng Há, ngoài những giai thoại về cuộc đời tình cảm của người nghệ sĩ tài năng Phùng Há, cháu hy vọng bác kể về một giai thoại nào đáng nhớ của nữ nghệ sĩ Phùng Há liên quan tới nghệ thuật sân khấu hoặc chuyện tình giữa hai tài năng lớn : Năm Châu, Phùng Há,… có như lời người đời dồn đãi hay là không có? Cháu cũng muốn được biết trong thời gian dài gần 80 năm, nghệ sĩ Phùng Há đã cộng tác với những đoàn hát nào ?

Tại sao khi giới thiệu nghệ sĩ tài danh Phùng Há, bác lại khởi đầu bằng cách kể những đoàn hát nào mà bà Phùng Há đã cộng tác?
Ðáp: Cô Hiếu vừa hỏi một câu rất hay, Thưa quí thính giả, khi tôi kể tên những gánh hát mà cô Bảy Phùng Há từng cộng tác tức là tôi đã lược thuật lại một phần cái quá trình hình thành và phát triễn của nghệ thuật sân khấu cải lương, một nghệ thuật sân khấu độc đáo của dân tộc Việt Nam.

Cô Bảy Phùng Há là người phụ nữ Việt Nam sống gần 100 tuổi mà đã cống hiến tám mươi năm của cuộc đời mình để góp phần xây dựng một nền nghệ thuật sân khấu cải lương, cô Bảy Phùng Há đã đào tạo được hàng trăm nghệ sĩ tài danh trong ba thế hệ nghệ sĩ.

Cô Phùng Há được người trong giới khen tặng là một bực minh sư, một cây đại thọ của cải lương, được phong là Nghệ sĩ Nhân dân, cô Bảy nhận được những huy chương, những bội tinh của vua Bảo đại, của quan toàn quyền Pháp ở đông Dương, của vua Miên, vua Lào, vua Thái Lan, của đại sứ Trung Hoa Dân Quốc ở Việt Nam, của chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa và của chánh phủ Việt Nam sau nầy.

Cô Phùng Há đã được tặng nhiều bằng khen, bằng tưởng niệm, huy hiệu danh dự của các nước mà cô có dịp đến biểu diễn tài nghệ như ở Pháp, Anh, Tây Ban Nha, Bồ đào Nha, Maroc, Sénégal, Thụy Diển, Thụy Sĩ, Thái Lan và Liên Xô cũ.

Cô Phùng Há cũng là người phụ nữ Việt Nam duy nhứt, không phải là người có quyền thế hay có gia tài sự nghiệp của cha mẹ để lại, nhưng cô đã thực hiện được nhiều việc từ thiện giúp cho rất nhiều

cho rất nhiều nghệ sĩ nghèo yếu neo đơn và đồng bào nạn nhân thiên tai bão lụt. Cô đã vận động quyên tiền, tổ chức hát Hội để có ngân qủy xây dựng chùa Nghệ sĩ tức là chùa Nhựt Quang, xây một nghĩa trang nghệ sĩ ở kế bên chùa.
Xin mời quí thính giả nghe nghệ sĩ Kim Cương nói với bà Phụng Há khi bà lo xây dựng nghĩa trang nghệ sĩ.

Trong nghĩa trang đó hiện đang chôn cất hơn 400 ngôi mộ nghệ sĩ cải lương và giữ trong chùa 380 hũ hài cốt nghệ sĩ trong nước và ở hải ngoại đem về, như là hũ hài cốt của danh ca Hữu Phước, danh tài Hùng Cường, của nghệ sĩ Tư Ut, người đã chết ở thành phố Nam Vang, những nghệ sĩ miền Bắc di cư 54 như Túy định, Phúc Lai……

Nghĩa trang nghệ sĩ cải lương


Hỏi: Thưa bác, theo cháu nghĩ thì có lẽ nghĩa trang nghệ sĩ cải lương ở Việt Nam là cái nghĩa trang duy nhứt ở trên thế giới, có một đặc điểm nổi bậc là nơi đó chỉ có những phần mộ của những nghệ sĩ cải lương, không có những người ngành nghề khác được chôn chung. Phải vậy không bác ?

Ðáp: Tôi nghĩ là ở Pháp, ở Hoa Kỳ, ở Canada, và nhiều nơi khác trên thế giới, nghĩa trang là nơi an táng những người đã khuất, thân nhân của người chết có đủ tiền nong để lo việc mai táng thì ai cũng có thể có một mộ phần trong nghĩa trang đó. Riêng giới nghệ sĩ cải lương ở Việt Nam, khi về già thì đa số đều nghèo khổ, khó mà có tiền mua được một miếng đất nhỏ để gởi nắm xương tàn.

Cô Phùng Há là người hơn tám mươi năm theo nghề hát, cô hiểu cái nổi khổ tâm đó nên cô lo trước giúp cho những người nghệ sĩ nghèo yếu neo đơn. Thêm nữa khi sống thì nghệ sĩ sống quây quần bên nhau, ăn quán ngủ đình, vầy đoàn hiệp lũ thì khi mất, ở chung một nghĩa trang thì cũng thật là ấm cúng.

Khi tôi về thăm quê hương, tôi có vô chùa và nghĩa trang nghệ sĩ, quây phim, chụp ảnh, tôi nghĩ là bất cứ ai muốn tra cứu về một nghệ sĩ nào đó đã được chôn cất tại nghĩa trang nầy, có thể vào chùa và văn phòng nghĩa trang, xem các sổ sách. Trong đó có ghi nơi sanh, ngày sanh, nơi mất và ngày mất, khi sinh tiền người nghệ sĩ đó hát ở đoàn hát nào chót hết và số phone cùng địa chỉ của gia đình của thân nhân của cố nghệ sĩ đó để mình có thể liên lạc, tiện cho việc tra cứu của mình.

Về việc cứu trợ đồng bào bị thiên tai bão lụt ở miền Trung, miền Tây, đồng Tháp Mười thì cô Bảy đã dành tất cả những số tiền, thuốc men và hiện vật mà những người ái mộ cô ở trong nước và ở nước ngoài đã gởi tặng cô để làm quỷ đi cứu trợ, đồng thời cô Bảy đứng ra hô hào các nhà giàu, các thương gia, các nghệ sĩ có lòng từ thiện, quyên tiền, giúp gạo và thuốc men, cô Bảy cùng các nghệ sĩ đến tận nơi bị thiên tai bão lụt để mà trực tiếp giúp cho đồng bào nạn nhân.

Tôi biết được có hơn 20 chuyến đi cứu trợ của cô Bảy và các nghệ sĩ qua các hình ảnh và các bài báo cắt ra, lưu giữ trong Chùa Nhựt Quang trong vòng 10 năm qua nghĩa là từ khi bà được trên 80 tuổi.

Soạn giả Nguyễn Phương thăm mộ Soạn giả Hoa Phượng.

Cô Bảy Phùng Há vận động quyên góp, quyên tiền lập ra Nhà Dưỡng Lão nghệ sĩ, tổ chức hát Hội quyên góp hàng tháng, đồng thời vận động đóng góp hàng tháng của các nghệ sĩ có thu nhập cao và những nhà hàng tâm hàng sản để có tiền nuôi dưỡng thuốc men lo cho các nghệ sĩ không gia đình, không vợ con và già yếu đó.

Trước đó thì bà đã giúp nhiều lần cho các nghệ sĩ đau yếu hay bị nạn trên đường lưu diễn. Xin mời quí thính giả nghe tiếng nói của nghệ sĩ nhân dân Thành Tôn nói về cô Bảy Phùng Há lúc nghệ sĩ Thành Tôn còn sinh tiền. Minh họa một câu nói của cố nghệ sĩ Thành Tôn.



Những đoàn hát từng cộng tác


Hỏi: Dạ, vậy thì xin bác giới thiệu những đoàn hát mà bà Phùng Há đã từng cộng tác.

Ðáp: Thưa quí thính giả, Nguyễn Phương xin giới thiệu những đoàn hát mà cô Bảy Phùng Há đã từng cộng tác.

Thời kỳ 1.- từ năm 1924, khi cô Phùng Há mới bắt đầu đi hát tới năm 1945.
- Thời kỳ 2- từ năm 1946 đến năm 1954,
- Thời kỳ 3.- Từ năm 1955 đến năm 1975.
- Thời kỳ 4.- Từ năm 1976 đến năm 2001.
- Thời kỳ thứ nhứt: từ năm 1924 đến năm 1945.

Năm 1917, ở tỉnh Mỹ Tho đã có gánh hát cải lương đầu tiên của thầy Năm Tú thành lập tại tỉnh. Sau đó, năm 1920 mới có gánh hát Nam đồng Ban của ông Bầu gánh hát tên là Hai Cu, cũng là người quê ở Mỹ Tho. Con trai của ông Hai: kép chánh tên là Hai Giỏi, chồng cô nữ nghệ sĩ tài danh Năm Phỉ. Cô Năm Phỉ lớn hơn cô Phùng Há 4 tuổi.

Khi kép Hai giỏi chết vì bạo bệnh, cô Năm Phỉ mất người chồng và cũng là người bạn diễn ăn ý nhứt của cô nên cô buồn mà bỏ đi nơi khác. Ông bầu Hai vì nhớ con là kép Hai Giỏi nên năm 1924 ông lập gánh hát Tái đồng Ban, ông đã vô lò gạch, mời cô Phùng Há gia nhập gánh hát của ông, lúc đó cô Phùng Há mới 13 tuổi nhưng cô có giọng hát trong trẻo, ông Bầu Hai đã ký contrat, mời cô Phùng Há hát thay cho cô đào chánh Năm Phỉ. Gánh hát Tái đồng Ban khi mới thành lập, tập tuồng ở đình điều Hòa, quân Châu Thành tỉnh Mỹ Tho.


Nhà Dưỡng Lão Nghệ Sĩ.

- Năm 1926 - Phùng Há, Năm Châu, Tư Chơi, Ba Du gia nhập gánh hát Trần đắc của ông Bầu Trần đắc Nghĩa.
- Năm 1929 đến năm 1934 ( 18 tuổi), - cô Phùng Há làm bầu gánh hát Huỳnh Kỳ.
- Năm 1934 đến năm 1935 - cùng với Năm Châu gia nhập lại gánh hát Trần đắc.
- Năm 1935 - 1936 - nhập chung với Phước Cương (đào chánh là Năm Phỉ), lập gánh hát Phi Phụng,
- Năm 1936 - Lập gánh hát Phụng Hảo tại Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh.
- Năm 1939 - gánh hát Phụng Hảo rã.
- Năm 1940 - Lập gánh Phụng Hảo 2
- Năm 1945 - gánh Phụng Hảo 2 rã.

Trong thời kỳ đầu từ 1924 đến 1928, chúng ta thấy rõ là cô Phùng Há chỉ đi hát với tư cách làm làm công, làm diễn viên lãnh lương từng xuất hát do ông bầu gánh hát trả.

Trong bốn năm nầy cô Phùng Há hát các tuồng xã hội như Khúc Oan Vô Lượng, Lở Tay Trót đã Nhúng Chàm, đời Cô Lựu, tuồng dã sử Giọt Máu Chung Tình, tuồng Tàu, Anh Hùng Náo Tam Môn Nhai, Thôi Tử Thí Tề Quân, Phụng Nghi đình…

Từ 1929 trở về sau, cô Bảy vừa là đào chánh vừa là bầu gánh, tự mình chăm lo phần nghệ thuật trình diễn của toàn đoàn. Từ vai trò bầu gánh và là đào chánh, cô Bảy Phùng Há không lệ thuộc vào sự phân bố vai tuồng của chủ gánh hát hay của thầy tuồng mà chính là ông thầy tuồng phải đo ni đóng giày, nghĩa là tùy theo phong cách diễn xuất hay nhứt của cô Phùng Há để mà viết tuồng đúng theo sở trường của cô.

Phụng Hảo, cô gái lai Tàu nên ngay trong tiềm thức, cô Phùng Há vẫn thích hát những vở hát có cốt truyện Tàu, có lối ca như ca Quảng và có lối múa bộ, có trống có mõ, đồng lố như các dàn nhạc Quảng. Gánh hát mang tên Phụng Hảo là gánh hát chuyên hát tuồng Tàu như Phụng Nghi Dình, Mạnh Lệ Quân thoát hài, Xử án Bàng Quí Phi…

Hồi đó, người ta gọi là gánh hát, ghe hát vì đường bộ ít mở mang, xe camion cũng ít có nên đoàn hát phải di chuyễn bằng ghe chài trên sông rạch để đi từ Saigon xuống tỉnh Mỹ Tho và các tỉnh miền Hậu Giang như Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Trà Vinh…

Bạch công tử Lê Công Phước tục gọi là cậu Hai Phước Georges , bầu gánh hát Huỳnh Kỳ, chồng của cô Phùng Há, đã sắm bốn chiếc ghe chài lớn, ba chiếc để chở diễn viên, dàn cảnh và công nhân. Một chiếc ghe chài lớn khác được trang trí sang trọng như một cái villa di động để riêng cho Bạch Công Tử và cô Phùng Há ở. Tàu sà lúp kéo các ghe chài đi, không phải do trạo phu chèo chống.



Viếng thăm nghệ sĩ tiền phong Phùng Há
2007.02.24
Soạn giả Nguyễn Phương

Vừa rồi Nguyễn Phương đi du lịch qua nhiều nước, thăm viếng những nghệ sĩ cải lương Việt Nam đang định cư để tìm thêm các tài liệu cổ nhạc và tìm hiểu tiểu sử và hoạt động của các nghệ sĩ cải lương thế hệ đồng thời với Nguyễn Phương và các thế hệ sau để giới thiệu với quí thính giả.

Các nghệ sĩ Tú Trinh, Kiên Giang, Viễn Châu, Thanh Cao, ông Bầu Xuân, nhiếp ảnh viên Huỳnh Công Minh và ông Ngọc Anh, chủ trương trang Web Cải Lương Việt Nam, đã hướng dẫn Nguyễn Phương đi thăm viếng nhiều bạn nghệ sĩ cũ của Nguyễn Phương.
Hôm nay ông Ngọc Anh, chủ trang Web Cải Lương Việt Nam điện thoại qua Montréal thăm hỏi sức khoẻ của Nguyễn Phương và có mấy câu phỏng vấn. Tôi nghĩ là ông Ngọc Anh muốn giới thiệu với 15.000 thành viên của trang Web của ông về việc ông đã cùng với Nguyễn Phương viếng thăm các nghệ sĩ.

Tôi nghĩ rằng khi trả lời các câu phỏng vấn của Ngọc Anh là tôi được trực tiếp tường trình cùng quí thính giả của Đài RFA về tin tức của các nghệ sĩ mà tôi đã viếng thăm.

Những câu hỏi của ông Ngọc Anh chia ra hai vấn đề : phần một là hỏi về tình hình sức khoẻ và hoạt động của các nghệ sĩ quen biết cũ của Nguyễn Phương. Phần hai là hỏi về nhận xét các chương trình Vầng Trăng Cổ Nhạc, Làn Điệu Phương Nam và tuồng cải lương hát ở rạp Hưng Đạo mà Nguyễn Phương đã được xem. Xin mời quí thính giả nghe phần 1 của cuộc đối thoại nầy.

Ông Ngọc Anh: Thưa bác Nguyễn Phương, bác về Việt Nam thăm quê hương, chắc là thế nào bác cũng đi tìm thăm các bạn nghệ sĩ cải lương, bạn cũ của bác. Hai bác có đến thăm bà Bảy Phùng Há và viếng chùa nghệ sĩ không? Bà Bảy có khoẻ không ?



Tiêu biểu cho nghệ thuật và nghệ sĩ cải lương

Tủ kiếng trưng bày những tặng vật, những huy chương, médailles mà bà đã nhận được trong hơn 80 năm theo nghề hát cải lương và dạy hát. Hình của Soạn giả Nguyễn Phương

Nguyễn Phương: Thưa quí thính giả, ông Ngọc Anh thân mến, Lần nào về thăm quê hương, vợ chồng Nguyễn Phương cũng viếng thăm bà Bảy Phùng Há trước tiên. Bà Bảy Phùng Há là người tiêu biểu cho nghệ thuật và nghệ sĩ cải lương, người cao niên nhất trong giới nghệ sĩ mà cũng là người có ảnh hưởng sâu rộng trong giới nghệ sĩ về đạo đức nghề nghiệp.

Bà Bảy đã đào tạo hàng trăm nam nữ nghệ sĩ tài danh trong các thập niên 60, 70, Bà khuyến khích và tự mình làm gương trong việc tương thân tương ái giữa các nghệ sĩ và nêu gương làm việc từ thiện trong nhiều chục năm qua.

Các nghệ sĩ thế hệ thứ hai, thứ ba noi theo gương bà Bảy, nổi danh về việc làm từ thiện như Út Bạch Lan, Lệ Thủy, Kim Cương, Tú Trinh, Kim Hoàng - Như Mai, ông Bầu Xuân, nhà tổ chức đại nhạc hội Duy Ngọc, nhạc sĩ Ngọc Sơn, Ngọc Anh trang Web cải lương.

Rất nhiều nghệ sĩ khác thế hệ thứ hai, thứ ba, thứ tư, các bác sĩ trong các bệnh viện thành phố và rất nhiều nhà thương buôn ở các chợ An Đông, Chợ Bến Thành, chợ Cầu Ông Lãnh, các công ty thương nghiệp đã hưởng ứng theo lời kêu gọi cứu trợ nạn nhân bảo lục và đồng bào già, nghèo yếu neo đơn của bà Bảy Phùng Há mà đã thường xuyên góp tiền của và công sức mỗi khi Bà Bảy Phùng Há và Chùa Nghệ Sĩ tổ chức việc làm từ thiện kể trên trong hơn một chục năm gần đây.

Mấy lần đến thăm bà Bảy, tôi đều có nghe tiếng hát ca của Bà. Thấy tôi có vẻ ngạc nhiên, ông Bầu Xuân giải thích : “Chúng tôi thỉnh thoảng cho hát băng một số tuồng hay trích đoạn mà bà Bảy hát khi còn trẻ, hay những băng tiếng hát khi Bà dạy diễn xuất cho các học viên sân khấu. Bà nghe Bà rất vui vì Bà thường hay nhắc đến các vai tuồng đó.”

Đây là một sáng kiến giúp cho Bà nhớ những người bạn diễn, nhớ sân khấu, tránh tình trạng mất trí nhớ của người già. Nhà của Bà Bảy cất sau chùa nghệ sĩ, gồm có một phòng khách mỗi bề độ bốn thước, phòng ngủ độ chừng 36 thước vuôn và một phòng vệ sinh. Trước cửa phòng khách là đường ra bên hông chùa và nghĩa trang nghệ sĩ.



Một bảo tàng viện nhỏ


Phòng khách của bà Bảy Phùng Há được trang trí như một bảo tàng viện nhỏ ghi dấu cuộc đời hoạt động nghệ thuật của Bà. Phía trên kệ cao là bàn thờ đức phật bà Quan Âm, tầng kế thờ hai vị Hòa Thượng trụ trì chùa Nghệ Sĩ trước tiên (ông Năm Công nguyên quản lý hánh hát và danh ca Thanh Tao, tôi không biết Pháp danh của hai vị nầy).

Kế bên dưới là tủ kiếng trưng bày những tặng vật, những huy chương, médailles mà bà đã nhận được trong hơn 80 năm theo nghề hát cải lương và dạy hát.

Có 9 médailles bà được tặng thưởng trong thời kỳ Pháp thuộc( từ năm 1930 đến năm 1954): médaille của chánh phủ Pháp bên chánh quốc tặng, của quan toàn quyền Pháp ở Đông Dương, của quan thống đốc Nam Kỳ, của Vua Bảo Đại, Vua Miên, Vua Lào, Chánh phủ Trung Hoa Dân Quốc, Vua Thái Lan và huy chương của chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa, nhiều huy chương và kỷ niệm chương ngoại quốc khi bà qua Pháp sinh sống (sau khi chánh phủ Nguyễn Khánh đỗ) từ năm 1964 đến năm 1967, bà và nữ nghệ sĩ Kim Cương được mời biểu diễn ở nhiều nước Hung Gia Lợi, Ba Lan, Mạc Tư Khoa và nhận được những huy chương nghệ thuật trong các buỗi biểu diễn ở Budapest, Prague, Moscou; ngoài ra Bà còn có huy hiệu Nghệ sĩ nhân dân và nhiều huy hiệu khác sau 1975.

Trên vách phòng khách treo nhiều ảnh chụp của Bà trong vai Lữ Bố, ảnh 8 Lữ Bố môn sinh của Bà, ảnh của Bà chụp với các ban chấp hành Hội Nghệ Sĩ Ái Hữu, ảnh Bà chụp với Kim Cương khi diễn Lữ Bố - Điêu Thuyền ở nhà hàng Table des Mandarins ở Pháp, ảnh chụp với anh Năm Châu trong tuồng Hồn Bướm mơ tiên, tuồng Vợ và Tình, ảnh chụp với nữ nghệ sĩ Đổ Quyên, và nhiều khuôn hình chụp những chuyến Bà đi cứu trợ đồng bào nạn nhân bão lục ở Đồng Tháp Mười, ở tỉnh Tiền Giang, ở Cai Lậy, ở miền Trung.

Vợ chồng tôi, bầu Xuân, Tú Trinh vào phòng ngũ của Bà để thăm Bà vì Bà không được khoẻ. Bà ngồi trên giường tiếp chuyện chúng tôi, có mặt hai cô thiện nguyện viên túc trực chăm sóc bên Bà.



Nguyện vọng


Bà Bảy Phùng Há đã 96 tuổi, sức yếu nhưng tinh thần vẫn còn minh mẫn. Khi gặp tôi, bà nhớ ngay Nguyễn Phương là soạn giả đoàn Phước Chung, đoàn Thanh Minh Thanh Nga. Bà nói chuyện với vợ chồng tôi, vẫn thường gọi là anh chị, vì theo bà thì soạn giả là thầy tuồng, phải gọi bằng anh mới đúng.

Bà cầm tay vợ tôi, nói : “Chị Ba về, lần nào cũng ghé thăm tui. Trước khi về bễn, chị Ba ráng tới thăm tui lần nữa nghe. Sợ, lâu quá, chị hõng gặp tui được nữa.” Vợ tôi đã khóc rất nhiều khi nghe câu nói đó của bà Bảy.

Bà nói mỗi sáng Bà được cô Kim Hà và cô Hường, hai thiện nguyện viên dìu bà và theo bà đi bộ một vòng nhỏ trong khuôn viên chùa hay nghĩa trang nghệ sĩ, sau đó vô nhà Bà dùng cháo rồi ngồi đọc kinh hoặc thiền, Bà tiếp khách khi có người đến viếng. Buổi chiều và tối, Bà ngồi trên giường đọc kinh. Hai cô thiện nguyện viên Hường và Kim Hà thay phiên nhau, lúc nào cũng có một người túc trực bên bà Bảy để giúp đỡ khi cần.

Ông Bầu Xuân cho biết là các bác sĩ thiện nguyện thường xuyên chăm sóc sức khoẻ của bà Bảy, lo về chế độ ăn uống và thuốc men cho bà Bảy.


Nữ nghệ sĩ Phùng Há trong vai Lữ Bố. Hình của soạn giả Nguyễn Phương

Bà nói với tôi : “Nguyện vọng của tôi là làm sao quyên tiền để lập một ký nhi viện cho các con em nghệ sĩ. Tôi đã lo cho giới nghệ sĩ được một cái chùa, một nghĩa trang, một viện dưỡng lão. Bây giờ nếu lo được một cái ký nhi viện cho con em nghệ sĩ nữa thì tốt quá. Tôi mãn nguyện rồi.” Tôi chỉ dạ dạ, không thể nói rõ là sân khấu cải lương xuống dốc thê thảm, nghệ sĩ kiếm sống còn quá khó khăn, không còn cảnh nghệ sĩ gánh hát sống tập trung như xưa, làm sao có con em nghệ sĩ để gỡi vô ký nhi viện?

Trong phòng ngủ của Bà, ngoài tủ đựng quần áo của Bà, có một cái bàn dài để nhiều tặng vật của khán giả ái mộ, trên vách phòng treo hai câu đối và bài thơ của soạn giả Viễn Châu tặng :

Đất nghệ sĩ bình an, Lao xao lá rụng bên thềm, ngỡ nhạc khúc bi hùng nơi hí viện,
Chùa Nhựt Quang thanh tịnh, Phảng phất hương bay trước gió, nghe hồi chuông cứu khổ giữa thiền môn.


Chín mấy lần xuân bạc mái đầu
Trọn đời giữ vẹn nghĩa tình sâu
Đói nghèo xót trẻ nhiều cơ cực
Lụt lội thương ai lắm dãi dầu
Muôn nỗi đoạn trường sao kể xiết
Chút tình nghệ sĩ thắm vào đâu!
Đêm đêm qùy trước ngôi Tam Bảo
Nước mắt tràn theo tiếng nguyện cầu.



Suốt đời làm việc thiện


Trên vách còn treo thủ bút của họa sĩ Vũ Hối, và bài thơ Kiếp Tầm và Nợ Dâu của thi sĩ Kiên Giang, ngoài ra còn rất nhiều thi văn của các nghệ sĩ, thi sĩ, nhạc sĩ sáng tác ca ngợi 70 năm phục vụ sân khấu của Bà( năm 2001)

Đón cái Tết Đinh Hợi năm 2007 (bà sinh năm Tân Hợi năm 1911), Viễn Châu lại tặng bà 4 câu thơ :

Tuổi già lụm cụm thấy mà thương,
Đâu quản gần xa mấy chặng đường
Quà tặng trao tay người khốn khổ
Đẹp đời nghệ sĩ, đẹp quê hương.

Vợ chồng tôi biếu Bà một triệu đồng, cúng một triệu đồng để góp phần nhang đèn cho chùa nghệ sĩ và cho cô Kim Hà một trăm đô CAN để cô chăm sóc cho bà Bảy, sau đó chúng tôi vô chùa, thắp nhang, lạy phật rồi ra nghĩa trang thắp nhang cho các ngôi mộ của các bạn Út Trà Ôn, Ba Vân, Tư Chơi, Hoàng Giang, Hà Triều, Hoa Phượng, Hoàng Việt, Thanh Nga, Phạm Duy Lân, nhạc sĩ Năm Cơ, Chín Trích (phụ thân của nghệ sĩ Tú Trinh)…

Ra về, lòng tôi cứ miên man suy nghĩ : Trọn đời Bà cống hiến cho nghệ thuật, trọn đời giúp đỡ cho đồng nghiệp mấy thế hệ, giúp trong việc đào tạo tài năng và cứu trợ khi gặp nạn hay nghèo yếu neo đơn, trọn đời bà làm việc từ thiện giúp đồng bào kém may mắn hơn mình và đã nêu gương, khuyến khích các nghệ sĩ và các nhà hằng tâm hằng sản theo bà làm công tác xã hội, làm việc từ thiện…, trên thế giới nầy có người nghệ sĩ nào như bà Bảy Phùng Há không?

Mời bạn tham gia mục Cổ Nhạc do Soạn giả Nguyễn Phương phụ trách. Mọi email xin gửi về Vietweb@rfa.org



© http://vietsciences.free.frhttp://vietsciences.org P







PC
#17 Posted : Tuesday, August 7, 2007 7:43:15 PM(UTC)
PC

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 5,668
Points: 25
Woman

Was thanked: 4 time(s) in 4 post(s)
1928-1929. Núp cánh gà xem đít mọc râu.

Tôi đổi đi Sa-Đéc làm thơ-ký phát ngân tại Tòa-bố. Cô Bảy Phùng Há xuống diễn. Cậu Tư Phước Georges, chủ gánh Huỳnh-kỳ có nhã ý mời hai tôi đến xem hát. Đây là vì cảm tình riêng chớ thuở ấy có đủ cách hối lộ, một thông lệ vẫn còn tồn tại nhiều nơi là mỗi gánh đến hát tại tỉnh phải có thứ giấy mời đặc biệt ông thông ngôn đứng bàn ông chánh, thay mặt cho sở kiểm duyệt, đề phòng trong khi hát có nói lời xúc phạm chánh-phủ chăng. Mà hễ mời thầy thông ngôn thì phải mời đủ cặp, có khi ông bà mắc đậu chến thì con vú bác tài đưa nhau đi xem thế, không cho vào cửa có môn* dọn đi. Mời rồi bên Tòa-bố lại phải mời thầy ký làm việc Sở Cẩm, đề phòng lính tráng đâm chém làm khó không cho hát.

Nhưng đêm ấy tôi không đi giấy mời mà mua vé đàng hoàng, lại vô buồng đứng sau cánh gà để phỉ tình đàm đạo và góp ý kiến với Cậu Tư. Nhờ vậy mà tôi mục kích một lớp hài-hước không có trong chương trình.

Cô Bảy hôm ấy diễn tuồng võ, diễn được hai ba màn, thấm mệt, nên khi vô buồng, cô tạm ngồi trên chiếc ghế mây mà sơ ý nhè ngồi đại nên không coi trước.

Một anh kép võ hết phiên trước cô vào buồng nằm xả hơi trên chiếc rương lớn, lúc ấy còn xài râu dán bằng keo, nên anh cẩn thận trước khi nằm đã gỡ râu ra cho khỏi vướng. Đến lượt anh xuất hiện, anh ngồi dậy kiếm hoài không thấy bộ râu mình mới để đâu đây, anh chạy giáp buồng hát, miệng lầm bầm "đ.m. thằng nào lấy râu tao!!". Kiếm mãi không có râu và túng quá vì đã đến phiên mình ra tuồng, anh bèn bước đại ra sân khấu, vừa ca hát vừa lấy tay áo rộng che miệng và cằm.

Thoạt tới phiên cô Bảy xuất hiện, bộ râu nhủn nhẳn sau mông cô mà cô không hay, cô vừa xây lưng, anh kép vụt thấy bộ râu mình làm mất, mừng quýnh quýu nhảy một nhảy chụp vào phía hậu cô Bảy mà ráp lẹ vào cằm mình, việc xảy ra mau như chớp nhưng cũng đủ cho một mớ khán giả mấy hàng đầu lanh mắt thấy đủ hết từ đầu chí cuối, không nhịn cười được nên đồng rộ cười lên gần bể rạp.

Khỏi nói đào kép trên sân khấu rán diễn như thường cho lấp chuyện, nhưng trong màn thấy cớ sự "bại hoại ốc trâu cả đám" nên lật đật cho bỏ màn xuống. Pha nầy đã có người nghe lóm và viết nhại tôi, hoặc giả y cũng đồng thấy như tôi, tôi không cần biết, duy chuyện có sao nói vậy, còn tin cùng không là phần của độc giả.

Hồi ký 50 năm mê hát

Vương Hồng Sển

Việt Dương Nhân
#18 Posted : Friday, May 22, 2009 2:20:10 AM(UTC)
Việt Dương Nhân

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 1,837
Points: 0


SINH NHẬT LẦN THỨ 100 - CÔ BẢY PHÙNG HÁ
2009-04-29 22:10:45
VÕ ĐẮC DANH


"......Chồng , con, và cả những người tình cũng lần lượt đi về bên kia thế giới. Theo thuyết giáo của nhà Phật, khi ta sống, cái gì ta cho thì cái đó chính là tài sản, ở lại với ta. Phải chăng, những thứ quý giá mà cô đã cho, đó chính là những vai diễn, những môn sinh mà Cô đã nhọc công đào tạo để làm nên một thế hệ cải lương vàng son, vang bóng một thời...."

TRĂM NĂM NHÌN LẠI

Ông Trương Nhân Trưởng, người làng Phú Lạng, huyện Hạc Sơn, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Những năm cuối thế kỷ XIX, ông đi làm thuê cho một vựa trái cây ở Quảng Tây, một buổi tối, ông nghịch ngợm lấy viên pháo nhét vào bính tóc của một người bạn rồi châm tàn thuốc lên ngòi pháo, pháo nổ, bính tóc bay mất. Chuyện chỉ có vậy, nhưng ông bị nhà chức trách truy nã về tội mưu sát, phải rời bỏ nhà cửa, vợ con và tổ quốc để làm kẻ lưu vong sang ViệtNam. Đến Mỹ Tho, ông làm nghề mua bán thịt bò. Tại đây, ông kết hôn với bà Lê Thị Mai, một thôn nữ đẹp người đẹp nết ở làng Điều Hòa và sinh được bảy người con, bốn trai ba gái.
Câu chuyện về ông sẽ không được ai biết đến, sẽ không có gì để kể thêm. Nhưng chính cái ngả rẽ vô tình của cuộc đời ông lại là cội nguồn của nghệ sĩ Nhân dân Phùng Há. Khác với những người Hoa khác, con cái của ông Trưởng lớn lên đều được ông đưa về cho bà vợ lớn ở cố hương để học ngôn ngữ và lễ nghi Trung Quốc, sau đó muốn ở lại hay trở qua Việt Nam thì tùy theo điều kiện và ý thích của mỗi người. Năm 1915, ông Trưởng qua đời trong khi đang trở thành một người giàu có ở Mỹ Tho: Một lò gạch, một xưởng cưa và một trang trại nuôi bò. Cô Bảy Phùng Há lúc bấy giờ mới lên năm tuổi. Ông Trương Tích Kỳ, con trai đầu của ông Trưởng cùng với chú ruột là Trương Nhân Bá đã lập mưu chiếm đoạt cơ ngơi bằng cách giao cho bà Mai cùng với cô Bảy và người em út là Trương Nguyệt Hảo mang bộ hài cốt hỏa táng của ông Trưởng về Hạc Sơn an táng và ở lại bên ấy để thọ tang. Năm ấy, ở Quảng Đông xảy ra trận dịch đậu mùa, hàng ngàn người thiệt mạng, trong đó có Trương Nguyệt Hảo. Cô Bảy thoát chết nhưng mang trên gương mặt trẻ thơ lớm đớm vết rỗ hoa mè. Sống trong cảnh làm thiếp mà không chồng, bà Mai không chịu nổi những tập tục, lễ nghi phong kiến hà khắc của gia đình Tàu mà mọi quyền hành nằm trong tay bà chánh thất, bà Mai khóc thầm trong đau khổ, muốn trốn về quê mà túi lại không tiền. Hiểu được cảnh ấy, người con gái thứ tư của bà là Trương Liên Hảo, đang làm dâu một nhà hào phú ở Hạc Sơn, đã lén chồng bán của hồi môn để mua vé tàu cho mẹ và em về nước. Trên chuyến tàu Tây hôm ấy, mấy bà đầm phát hiện Cô Bảy Phùng Há mắc bệnh đậu mùa, họ la chóe lên, hành khách xôn xao, thủy thủ đoàn kéo cô quăng xuống biển, mẹ cô lạy lục van xin, những hành khách người Việt và người Hoa đứng ra ngăn cản. Cuối cùng họ đồng ý cho cô đi nhưng hai mẹ con cô phải cách ly, ngồi vào một góc xa phía sau hầm máy.

Về đến Mỹ Tho, bà Mai mới tá hỏa ra rằng mình không còn quyền hành gì trong ngôi nhà cũ, và tất cả cơ nghiệp của ông Trưởng đã thuộc về người em ch?= ??ng và đứa con trai. Sống trong nhà mình mà con trai và con dâu luôn nặng lời chửi em mắng mẹ. Một hôm, Trương Tích Kỳ ném cho bà Mai hai chiếc vé tàu và mấy đồng lộ phí buộc bà và Cô Bảy Phùng Há trở về Hạc Sơn. Bà Mai tức tửi, nghẹn ngào dắt con gái về làng cũ Điều Hòa, tá túc trong căn chòi xơ xác của người mẹ mù lòa. Bà bị suy sụp rồi lâm bệnh. Cô Bảy Phùng Há – cô bé Trương Phụng Hảo lúc ấy – đành phải chạy ra tìm anh Hai để xin tiền lo thuốc thang, ăn uống cho mẹ và ngọai. Trong cơn say sượu và thuốc phiện, ông Kỳ đã không cho tiền mà còn nặng lời trách mắng vì đã không về Hạc Sơn theo ý muốn của ông. Cô chạy sang nhà của cha mình mà bây giờ đã thuộc về tay người chú ruột để khóc than, ông Nhân ném cho một đồng rưỡi, ông hứa mỗi tháng sẽ cấp cho mẹ con cô từ một đồng rưỡi đến hai đồng.

Bà ngoại qua đời, hai mẹ con cô tiếp tục sống trong căn chòi hiu quạnh, xác xơ, bữa rau bữa cháo. Dù trong cảnh nghèo đói, khổ đau, nhưng bà Mai vẫn vắt kiệt sức mình trong một tiệm thêu để cho con gái được đến trường. Một người bạn cũ của ông Trưởng đã giúp Cô Bảy được vào học miễn phí ở trường Ecole Jeunes Filles – một trường tiểu học của Pháp tại Mỹ Tho. Và tại nơi đây, Cô Bảy Phùng Há đã bắt đầu nổi tiếng về năng khiếu ca hát của mình. Nhưng cũng chính vì cái năng khiếu ấy mà Cô đã bị đuổi ra khỏi trường khi chưa học xong chương trình tiểu học. Hôm ấy, bà đốc học La Fuste đi vắng, bà Giáo Kỳ vốn mê giọng hát của Trương Phụng Hảo nên tổ chức cho cô hát trong giờ học của bà. Phòng học nằm cạnh ven đườ= ng nên khi cô hát, người qua đường cũng đứng lại xem, rồi những tràng pháo tay vang lên. Bất ngờ, ông chánh thanh tra Ty giáo huấn ghé qua, ông buộc tội học trò Trương Phụng Hảo làm mất trật tự học đường. Bị đuổi học, Cô Bảy Phùng Há chợt nhớ lời một nữ tu hồi cô còn học bên trường Giồng: “Con hát hay lắm, nhưng chính giọng hát của con sau nầy sẽ làm khổ đời con”.

Thật ra, lúc ấy nếu Cô không bị đuổi học thì cũng không còn điều kiện nào để học. Mẹ Cô vì lao lực lẫn lao tâm mà kiệt sức, nay ốm mai đau. Để có từng bữa ăn cho hai mẹ con, Cô Bảy phải lặn hụp dưới từng con rạch, dòng sông để kiếm từng con cá bống, con tép, con cua, đi móc từng trái dừa thuê cho các chủ vườn để mua cho mẹ từng thang thuốc bắc. Một hôm, có bà láng giềng tốt bụng đã giới thiệu Cô vào làm công cho lò gạch của ông Bang Hoạch. Cứ in một trăm viên gạch, Cô được trả ba xu. Với sức vóc của cô bé lên mười, mỗi ngày Cô kiếm chưa được mười xu, nghĩa là chưa đầy một cắc bạc. Nghĩ mình từng là con của ông chủ lò gạch, bỗng dưng lại trắng tay, giờ phải ngồi in từng viên gạch, chắt mót từng đồng xu ở một lò gạch khác, lòng Cô cứ ngậm ngùi, buồn chán cho thân phận, Cô vừa làm vừa nghêu ngao hát như một sự giải bày. Nhưng mỗi lần Cô hát thì cả nhóm thợ lắng nghe. Tiếng hát của cô đã gieo vào lòng người một niềm cảm xúc đến nao lòng. Mấy chị bảo: “Từ nay em không phải làm nữa, cứ vào đây ngồi hát cho mấy chị nghe, mấy chị sẽ làm thay phần việc cho em”.

Như vậy là, tiếng hát của Cô đã nuôi sống mẹ con Cô từ năm mười một, mười hai tuổi, để rồi từ nơi ấy, từ cái lò gạch ấy, tiếng hát của Cô mỗi ngày cứ vang lên, bay cao và bay xa hơn, khắp mọi miền Tổ quốc, vượt cả không gian và cả thời gian để trở thành cây đại thụ của nền nghệ thuật sân khấu nước nhà.

*
Có những lúc Cô đang hát say sưa thì bất chợt nhìn thấy một người đàn ông đứng trước cửa lò gạch nhìn vào, say sưa nghe cô hát Nhiều lần, khi Cô đang ngồi hát say sưa thì chợt thấy từ phía cửa sổ hành lang lò gạch có một người đàn ông lặng nhìn say sưa nghe cô hát. Rồi cũng bất chợt một buổi chiều khi đi làm về thì thấy người đàn ông ấy đã có mặt trong nhà cô. Mẹ Cô cho biết đó là ông Hai Cu, chủ tiệm vàng kiêm bầu gánh Tái Đồng Ban ở Mỹ Tho. Gánh Tái Đồng Ban đang gặp sự cố, con trai ông, kép hát Hai Gỏi vừa mới qua đời, người tình của anh là Cô Năm Phỉ, đào chánh, đã buồn bã ra đi. Trong khi ông đi tìm đào thay cho Năm Phỉ thì có người nói với ông rằng “Trong lò gạch của ông Bang Họach có con bé xẩm lai hát còn mùi hơn cô Năm Phỉ”.. Ông không tin nhưng vẫn tìm đến để cầu may. Nhưng ngay từ hôm đầu tiên đứng ngòai cửa sổ lò gạch trộm nhìn nghe Cô hát, ông đã bị hốt hồn. Một lần, hai lần, rồi ba lần . . . cứ đứng lặng người nhìn Cô say sưa hát, tiếng hát thanh cao, khi trầm khi bổng, khi quặng thắt lòng người, đôi mắt cứ lững lờ, rười rượi nỗi sầu tư, chơi vơi trong cõi hư vô khiến cho ông Hai như muốn thốt lên rằng, con ơi, con không chỉ là một thiên thần bé bỏng mà là dấu hiệu của một tài năng. Bà Mai không bằng lòng cho con mình đi theo Tái Đồng Ban bởi hai lẽ: Thứ nhất, Cô Bảy chỉ mới mười ba tuổi, thứ hai, mới mười ba tuổi mà đã dấn thân vào con đường “xướng ca vô lọai” thì ắt phải hổ danh trong cái nhìn phong kiến lúc bấy giờ. Nhưng Cô Bảy thì cương quy= ết: “ Con không chịu nổi cái lò gạch, con phải đi hát để có tiền nuôi mẹ, ai cười chê mặc kệ, họ cười chê chớ họ có giúp mình đâu khi mẹ đói, mẹ đau”. Ông Hai ra giá tám cắc bạc cho mỗi đêm hát, ngày nuôi hai bữa cơm. Cô Bảy nghe mà mừng trong bụng khi nghĩ đến cái thực tại ngồi ép gạch suốt ngày chưa được một cắc, cơm thì bữa đói bữa no, mẹ ốm đau không đủ tiền mua thuốc, nợ nần chồng chất không biết trả đến kiếp nào. Cô nói với ông Hai: “Con đồng ý nhưng xin ông hai điều kiện, thứ nhất ông cho mẹ con theo gánh hát để con chăm sóc, thứ hai, ông cho con mượn trước năm mươi đồng để mẹ con trả nợ”.

Từ cái ngả rẽ bất ngờ của buổi chiều hôm ấy, Cô Bảy Phùng Há trở thành đào chánh của Tái Đồng Ban thay cho Cô Năm Phỉ và nổi danh với nhân vật Thúy Kiều, năm ấy, năm 1924, Cô mới tròn mười ba tuổi. Từ một quyết định giản đơn: “Đi hát để kiếm tiền nuôi mẹ”, Cô Bảy Phùng Há đã trở thành ngôi sao sáng rực của bầu trời sân khấu cải lương, và, cũng chính cô là người đã góp sức, góp công, góp cả lòng tâm huyết để nâng niu, nuôi dưỡng nền nghệ thuật nầy từ buổi sơ khai cho đến lúc trưởng thành, đứng trên đỉnh vinh quang. Hơn nửa thế kỷ đắm mình với ánh đèn sân khâu, làm rạng rỡ tên tuổi của hàng chục đoàn hát, từ Tái Đồng ban đến Trần Đắc, Huỳnh Kỳ, Phụng Hảo, Phước Cương, Thầy Năm Tú, Việt Kịch Năm Châu . . ., hóa thân với hàng trăm nhân vật, mà nhân vật nào, dù nam hay nữ, dù danh tướng hay mỹ nhân cũng được Cô Bảy Phùng Há cũng lột tả đến tận cùng tính cánh và số phận. Oai phong, lẫm liệt với Lữ Bố, Phạm Lãi, An Lộc Sơn; đằm thắm, kiêu sa, ngọt ngào, ai oán với Vương Thúy Kiều, với Nguyện Nga, với Dương Quý Phi, với Tô Ánh Nguyệt . . . Phùng Há đã làm nên tất cả những vai diễn, và tất cả những vai diễn ấy đã làm nên một Nghệ Sĩ Nhân Dân Phùng Há.

Những mề-đai, Huân chương, Huy chương của chính phủ Pháp, của toàn quyền Đông Dương, của thống đốc Nam kỳ, của vua Bảo Đại, vua Miên, vua Lào, vua Thái Lan, của Chính phủ Trung Hoa, Hungragri, Ba Lan, Mạc Tư Khoa, Budapest, Prague, Moscou, Anh, Tây Ban Nha, Thụy Sĩ, Thụy Điển, Bồ Đào Nha .. . . chứng tỏ một tài năng sân khấu cải lương đã vượt không gian quốc gia, làm rạng rỡ nền nghệ thuật nước nhà.

Thế nhưng “Hồng nhan đa truân”, cuộc đời bà không có mối tình nào trọn vẹn.. Ngay từ những năm đầu đến với Tái Đồng Ban, sắc đẹp của bà đã làm ngẩn ngơ hai người thầy, một người dạy ca và một người dạy diễn: Huỳnh Thủ Trung và Năm Châu. Khi Năm Châu đang ôm mối tình câm chưa kịp nói ra thì Huỳnh Thủ Trung tuyên bố cưới cô Phùng Há. Năm Châu thất tình ra đi. Cô Bảy Phùng Há sống với Huỳnh Thủ Trung có một người con rồi chia tay vì không chịu nổi người chồng suốt ngày ngồi trong quán rượu, những chuyện ngoại tình, những trận đòn roi. Khi Năm Châu đang lưu lạc với một đoàn cải lương ngoài Bắc, được tin Cô Bảy Phùng Há thôi chồng và chuyển qua đoàn khác. Ông trở về, tìm gánh hát Trần Đắc với hy vọng nối lại tình xưa. Nhưng đò tình thêm một lần lỡ chuyến. Cô Bảy Phùng Há đã làm vợ của Bạch Công Tử và lập gánh hát Huỳnh Kỳ.

Bạch Công Tử - tức Lê Công Phước, còn gọi là George Phước, con trai của Đốc Phủ sứ Mỹ Tho Lê Công Sũng – sau khi chiếm được trái tim của Cô Bảy Phùng Há đã bỏ ra năm trăm đồng trả nợ cho Cô, chuộc Cô ra khỏi gánh Trần Đắc, lập gánh Huỳnh Kỳ cho Cô làm chủ gánh. Thời ấy, giao thông cách trở, các gánh hát lưu diễn phải thuê ghe lườn vận chuyển sân khấu, công nhân và đào kép. Bạch Công Tử đã trang bị cho Huỳnh Kỳ bốn chiếc ghe chài, ba chiếc chở đồ đạc, đào kép và công nhân, một chiếc dành riêng cho đào chánh kiêm chủ bầu Phùng Há với đầy đủ tiện nghi như một tòa lâu đài di động. Có tiền bạc, có phương tiện, Cô Bảy Phùng Há chiêu mộ những đào kép nổi danh, Huỳnh Kỳ thống lĩnh nghệ thuật sân khấu cải lương khắp Nam kỳ lục tỉnh. Nhưng chỉ được bảy năm, Bạch Công Tử sa vào con đường ăn chơi sa đọa, bao nhiêu tiền của ông ném vào sòng bạc, tiệm hút, gái tơ. Huỳnh Kỳ suy sụp, đào kép lần lượt bỏ đi, Cô Bảy ôm hai đứa con đau ốm cùng với bốn chiếc ghe chài nằm chơi vơi dưới chợ cầu Ông Lãnh. Trong cảnh khốn cùng, một người quen giúp cô ẳm con đi tìm chồng thì gặp Bạch Công Tử đang vui sống với một cô gái khác, một giai nhân nổi tiếng tên là Marie Anne Nhị ở khách sạn Minh Tân. Ông không quan tâm đến con mà lại trách mắng cô thiếu lịch sự, làm như thế là mất mặt ông với bạn gái của mình. Cô nuốt nước mắt ra về. Rồi cả hai đứa con lần lượt chết trên tay Cô trong cảnh không tiền chạy chữa, Cô đành phải chia tay với Bạch Công Tử để làm lại cuộc đời.

*
Người chồng thứ ba của Cô Bảy Phùng Há là kiến trúc sư Hoàng Phi, con trai một quan huyện ở Gò Công, cũng là bạn thân với Bạch Công Tử.

Sau năm 1945, Bạch Công Tử vừa bị phá sản, vừa nghiện ngập, vừa lâm bệnh ngặt nghèo không tiền chạy chữa. Nghĩ đến tình xưa nghĩa cũ, Cô Bảy xin phép chồng đem ông về nuôi dưỡng trong nhà tại số 3 đường Ngô Tùng Châu, Sài Gòn.. Năm 1950, Bạch Công Tử qua đời trong cảnh không có đất để chôn. Cô Bảy lại xin phép chồng đưa ông về an nghỉ trên đất nhà chồng ở Gò Công, và nhờ người con riêng của chồng trông coi mộ.

Hỏi vì sao cô chia tay với ông Hoàng Phi, cô không nói. Cô chỉ nói đó là một người trí thức và tử tế.

Với nghệ sĩ Năm Châu, Cô Bảy cho rằng đó là một chuyện tình buồn và đẹp, cứ chập chờn, chập chờn như con đò lỡ chuyến suốt sáu mươi năm. Năm 1953, ngẫu nhiên Cô và Năm Châu đầu quân trở lại gánh Trần Đắc. Vở Mộc Quế Anh đã đưa ngôi vị của Phùng Há-Năm Châu thành đôi bạn diễn ăn ý số một của sân khấu cải lư?= ?ng. Cô cảm nhận đó là tình yêu, cả hai đã trút cạn tình yêu cho nhau qua vai diễn, những điều khát khao mà chưa bao giờ được nói với nhau. Nhưng khi bước ra phía sau bức màn nhung thì cô cảm nhận được ánh mắt chừng như mất vui, chừng như có chút hờn ghen của nghệ sĩ Kim Cúc, bạn Cô, cũng là vợ của nghệ sĩ Năm Châu. Biết lửa gần rơm rồi sẽ cháy. Cô rời gánh Trần Đắc, lặng lẽ ra đi để bảo vệ hạnh phúc của bạn mình. Cô hiểu tình yêu của nghệ sĩ Năm Châu đối với cô càng ngày càng sâu nặng. Ông viết những vở tuồng Nợ Dâu, Men Rượu Hương Tình, Sân Khấu Về Khuya như để gởi gấm, để giải bày, như để hờn trách sự lạnh lùng, bạc bẽo của Cô.

Ngày nghệ sĩ Năm Châu hấp hối, Cô chạy như điên, lê lết trên từng bậc cầu thang trong bệnh viện. Bất chấp sự có mặt của mọi người, Cô ôm chầm lấy ông, Cô gào thét: “Khoan, anh khoan hãy đi, anh hãy nghe em nói rồi mới yên lòng ra đi, em biết anh hận em, nhưng em không phải là kẻ vô tình, em làm như vậy là em hy sinh vì hạnh phúc của gia đình anh, vì vợ con anh. Anh biết không, tới giờ phút nầy em vẫn yêu anh . . .”

Chồng , con, và cả những người tình cũng lần lượt đi về bên kia thế giới. Theo thuyết giáo của nhà Phật, khi ta sống, cái gì ta cho thì cái đó chính là tài sản, ở lại với ta. Phải chăng, những thứ quý giá mà cô đã cho, đó chính là những vai diễn, những môn sinh mà Cô đã nhọc công đào tạo để làm nên một thế hệ cải lương vàng son, vang bóng một thời. Một ngôi chùa nghệ sĩ, một nghĩa trang nghệ sĩ với bốn trăm ngôi mộ và gần bốn trăm bộ hài cốt, Cô như người tự nguyện đi trước về sau, níu kéo thời gian đến tuổi 99 nầy để làm điều đó, làm cho trọn tình trọn nghĩa với thế hệ mình và cả thế hệ cháu con.

Phải, tất cả những gì mà Cô đã cho, tất cả đã và đang ở lại với Cô, bây giờ và mãi mãi.

ST
Users browsing this topic
Guest (13)
Forum Jump  
You cannot post new topics in this forum.
You cannot reply to topics in this forum.
You cannot delete your posts in this forum.
You cannot edit your posts in this forum.
You cannot create polls in this forum.
You cannot vote in polls in this forum.