Welcome Guest! To enable all features please Login or Register.

Notification

Icon
Error

2 Pages<12
Dương Thu Hương
Phượng Các
#21 Posted : Wednesday, January 11, 2006 1:47:54 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,704
Points: 20,055
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
TÔI LÀ PHẬT TỬ THEO CÁCH RIÊNG CỦA TÔI

Dương Thu Hương


Sau khi trả lời ông Đinh Ngọc Ninh bỗng nhiên tôi nhận được một loạt thư, hỏi:
- Bà có phải phật tử không? Chúng tôi thấy nhiều quan điểm trong bài viết của bà rất gần với lý thuyết đạo Phật.
- Nếu điều chúng tôi nghi ngờ là đúng, tại sao một người đấu tranh cho dân chủ lại có thể là phật tử?.....

Câu trả lời của tôi là: Tại sao không?


Đạo Phật không biên giới. Đó là một tôn giáo thẫm đẫm tính đạo đức và triết lý. Đạo Phật cũng như bất cứ tôn giáo nào khác đều tồn tại và phát triển thông qua hằng hà sa số các cá nhân. Bất cứ cá nhân nào cũng có một gốc rễ văn hóa, cũng mang một nhãn hiệu bản thể gọi là quốc tịch. Do đó khi trong một con người cùng tồn tại song song hai tình yêu lớn: tôn giáo và tổ quốc, người đó ắt phải tranh đấu cho hai kỳ vọng, hai niềm tin.
Vì thế, câu trả lời của tôi là: Tại sao không?
Tuy nhiên, tôi chỉ là phật tử theo cách của riêng tôi. Tôi không đi lễ chùa. Chẳng phải là cố tình tìm một cách tồn tại độc đáo nhưng vì tôi không có khả năng thỏa hiệp, cho dù đó là một sự thỏa hiệp dễ chịu nhất.

Cách đây chừng mười bảy mười tám năm một ngày xuân tôi đi viếng cảnh chùa. Ngôi chùa đó nằm gần phủ Tây Hồ. Trên đường tới phủ rẽ tay phải chừng non trăm mét là tới. Tôi không còn nhớ rõ tên chùa mặc dù đó là nơi trước khi xảy ra sự việc năm nào tôi cũng tới, khoảng một hai tháng một lần, siêng năng nhất là mùa xuân và mùa thu. Đó là ngôi chùa cổ còn may mắn sót lại sau những cơn đốt phá đình chùa đền miếu theo chủ trương "tiêu diệt tàn dư phong kiến" của chính quyền cộng sản. Không có gì đặc biệt ở ngôi chùa ấy, ngoài một mảnh vườn nhỏ vừa trồng đào vừa trông mai. Có lẽ cảnh tượng thân ái của những cây đào và cây mai chen vai, thích cánh cuốn hút tôi vào mùa xuân và khi mùa thu đến, đám cành trần trụi khẳng khiu vươn lên trong lặng lẽ cũng mang lại một vẻ đẹp u sầu và nghiêm cẩn, vẻ đep ta thường gặp ở mọi ngôi chùa cổ xứ Bắc.
Trưa hôm đó, tôi qua cổng chùa đi vào ngôi nhà ngang. Vừa đặt chân lên bậc tam cấp tôi chứng kiến một cảnh tượng không tương hợp chút nào với chốn từ bi: Trên tấm phản gỗ mốc, sư cụ bà ốm nằm còng queo, bát cháo ăn dở ở một góc phản khô đét lại. Nhà "sư nữ" ngoại tam tuần mắt long sòng sọc, tay nắm cổ người bệnh lắc, miệng rít lên:
- Mày chết đi, mày chết ngay đi cho người ta nhờ!....
Sư cụ đã quá yếu không động cựa nổi, cái đầu lắc lư ngật ngưỡng như quả bưởi trong tay người đàn bà trẻ hung hãn:
- Mày chết đi.....
Tôi định lui ra nhưng cô ta đã nhìn thấy tôi. Quá muộn cho cả đôi bên. Hẳn cô ta không ngờ có kẻ đột nhập vào "ngang hông" bởi thông thường khách thập phương phải qua sân đi vào chùa chính. Cô ta không biết rằng tôi quen mọi ngõ ngách và thường đi tắt qua nhà ngang vào chùa sau để hầu chuyện sư cụ. Không thể mở miệng "mô phật" như lần trước cô ta ném cho tôi một cái nhìn giận dữ và thách thức rồi ngoay ngoảy quay đi. Tôi ngồi xuống phản với sư cụ. Cụ không mở mắt nổi và giọng nói đã đứt quãng nhưng hoàn toàn minh mẫn. Đó là người đã xuống tóc từ thời chính quyền 1945 chưa thiết lập, đã duy trì và tu tạo ngôi chùa này qua mọi thăng trầm của thời gian. Nhưng cụ không có mảy may quyền hành để lưu giữ các chân tu ở lại, thay cụ chủ trì. "Nhân sự" do "bên trên" đưa xuống.
Vậy cái gì là "bên trên"?
Quyền lực nào áp chế những người tu hành và thả lũ lợn bẩn thỉu vào khắp chùa chiền xứ sở? .... Chẳng có gì bí mật cả, "bên trên" là A 25 Cục bảo vệ văn hóa thuộc Tổng cục 1 Bộ Nội vụ. A 25 có nhiệm vụ đào tạo sư sãi để "yểm" Hội Phật giáo Việt Nam, để trấn giữ hệ thống chùa toàn quốc. Không ai quên rằng chính nhà nước cộng sản đã dấy lên cơn bão kinh hoàng nhằm tàn phá đình chùa, đền miếu thậm chí đào mồ hốt mả chúng sinh, tiêu diệt tất cả những gì mà họ cho là "tàn tích của chế độ phong kiến". Trong một thời gian dài, những người cộng sản muốn xóa sạch tất cả các tôn giáo, bắt chúng sinh thờ vị thần duy nhất mắt xanh mũi lõ tên là Karl Marx và đám tông đồ của ông ta. Nhưng để xóa đi một đức tin và thay thế vào một đức tin khác không dễ dàng như họ tưởng. Và không phải bất cứ lúc nào họng súng cũng đem lại những kết quả mong muốn. Thời gian không ủng hộ họ. Bức tường Berlin sụp đổ và Lénine vĩ đại của họ sụp đổ theo. Dân Nga xích cổ tượng ông ta kéo lê trên bùn. Đám tín đồ phương Đông đứng chơ vơ không biết từ nay "người cầm lái vĩ đại" của họ sẽ là ai? ... Trong lúc đó dân chúng ào ào dựng đình, cất chùa. Khắp nơi miếu mạo, đền chùa, lăng tẩm dựng lên theo trí nhớ. Chính quyền cộng sản có thể truy bức tàn sát chúng sinh, cướp bóc phá hủy tài sản của họ, nhưng trí nhớ và niềm tin là những thứ không thể bắn thủng bằng các loại đạn. Và như thế, giờ đây dân chúng đã xây lại tất cả những gì đã từng bị họ tàn phá, nếu không nói là còn nhiều hơn. Nhu cầu tâm linh hóa ra cũng là một nhu cầu sinh tử của kiếp người. Trước tình hình này A 25 trở nên quan trọng hơn trong vai trò "bảo vệ nền chuyên chính". Nhiệm vụ của họ là "khống chế hội phật giáo" biến chùa chiền toàn quốc thành hệ thống pháo đài của quyền lực, rình mò theo dõi tư tưởng dân chúng và ....điều này nữa, các tín đồ của Marx không quên: tận thu nguồn lợi béo bở từ đám chúng sinh "mê tín" kia. Vậy là đội quân "sư nhà nước" được hình thành. Nguồn đào tạo chính là C 500 (đại học ngành an ninh). Thêm nữa, sinh viên tuyển lựa từ các đại học khác như Tổng hợp, Sư phạm, Ngoại ngữ ... có thành phần cơ bản (lý lịch đáng tin cậy) được vũ trang bằng lý thuyết giai cấp của Marx-Lénine và một thứ chủ nghĩa duy vật hạ đẳng. Sau đó, lớp người này được "tráng men" bằng lý thuyết đạo Phật và trước hết các phương pháp niệm kinh, hành lễ để "vào nghề".

Như thế nhà nước cộng sản đã tạo nên một đội ngũ "tôi tớ trung thành" được quyền thỏa mãn mọi nhu cầu vật chất và nhục thể dựa trên sự đầu cơ trục lợi "những khát vọng tâm linh" của dân chúng. Các ông sư bà sư áo quần phấp phới cưỡi xe vù vù đi "họp kín". Họp kín ở đây tức là họp "giao ban" ngành dọc A 25. Họ báo cáo rành mạch mọi thành tích. Riêng những cọc tiền thu được từ các hòm công đức là "không thể rành mạch" vì các sư còn phải mang về quê xây nhà tầng và lo cho các con học đại học trong nước và ngoài nước. Sư hành nghề ở Thái Nguyên, Hà Bắc thường có quê quán gia thất tại Thanh Hóa, Nam Định và ngược lại .... So với các nghề khác trong Bộ Nội vụ, "nghề làm sư" là béo bở, chỉ thua kém "Cục buôn lậu ma túy" thôi.

Cả một bộ máy lừa bịp vận hành nghiễm nhiên và ngang nhiên dưới ánh mặt trời, trước mắt dân chúng.

Dân chúng, tuy thường xuyên phải cúi mặt nhẫn nhục cam chịu, đôi khi cũng vùng lên tranh đấu, đòi đuổi sư nhà nước, giành chùa cho chân tu. Vụ biểu tình của các tín đồ chùa Láng Hà Nội cách đây ba năm là một ví dụ. Trong tối hôm đó, công an đã bắt giam trên một trăm tín đồ.

Vậy tôi xin trở lại lý do khiến tôi không đi lên chùa từ gần hai thập kỷ nay, sau kỷ niệm đau buồn với sư cụ tôi không còn muốn nhìn thấy một lần nữa bọn "thầy chùa đểu".

Nhưng chưa hết.

Tôi không đi lễ chùa cũng còn vì chùa chiền giờ đây đầy rẫy bọn "đao phủ" đi "đánh quả" thần, phật. Gọi là "đao phủ" vì chính lũ người đó trước đây đã ra lệnh phá đình chùa, đuổi sư sãi, vặt cổ vặt tay tượng phật làm củi.... giờ đây chúng lại xì xụp hương khói hơn tất thẩy mọi người.

Vì sao có sự đổi hướng quay chiều? ....
Tôi sẽ trả lời tường tận nhưng trước hết, để tránh rơi vào lối ám chỉ chung chung tôi xin nêu dẫn chứng:

Một là, những người dân Huế cỡ trung niên hẳn chưa quên câu ca này:
Bùi San cùng với Trần Hoàn
Hai thằng ngu ấy phá đàn Nam Giao

Bùi San: bí thư tỉnh ủy. Trần Hoàn: trưởng ty văn hóa. Công trình chung của họ là hủy diệt một di tích lịch sử nơi xưa kia các vua Nguyễn tế Trời Đất và tiên vương. Sau này, ông Trần Hoàn ra làm bộ trưởng Bộ Văn hóa, vợ con ông ta xem bói từ Nam ra Bắc, khấn lễ mọi nơi, đặc biệt lễ hậu là Bia Bà để cầu cho ông được "vững vàng". Riêng tôi, tôi nhìn thấy ông nhiều lần cắp cặp đứng trước cổng nhà các vị "Bộ Chính trị". Quả là một cuộc hiệp đồng tác chiến; vợ con ông đi đút lót "thần, phật" còn ông đi hầu hạ các "thánh sống" để ông được duy trì thêm 4 năm trên ghế bộ trưởng vì ông đã già lại quá nhiều khiếu kiện, cấp trên của ông đã chấm ông "vào sổ hưu".

- Hai là, thời kỳ Lê Khả Phiêu làm tổng bí thư Đảng, ngoài chiến dịch "Thanh Hóa hóa bộ máy cầm quyền" ông ta đã tranh thủ đào bới ngân khố quốc gia để xây dựng lại, mở mang hoành tráng đền thờ Lê Lai, tin tưởng đó là tổ tiên trực tiếp, là thần hộ mạng cho mình.

- Ba là, vài năm gần đây nhiều người họ Trần vênh vang tuyên bố rằng họ Trần sắp sửa bước vào thời kỳ "đại phát" vì Trần Đức Lương vừa cho xây khu mộ cổ họ Trần tại Thái Bình. Khu mộ này sẽ được xây theo thế "rồng phục" sao cho ít nhất, chín đời họ Trần sẽ liên tục "làm vua" ...v v.. và ...v v..
Theo logic, ngày nào chế độ độc tài này còn tồn tại thì tất thảy bọn cầm quyền họ Miêu họ Thử họ Ngưu họ Mã .... sẽ lần lượt vét ngân khố quốc gia để xây dựng mồ mả đền miếu cho riêng dòng tộc của chúng với một chủ đích hoặc ngụy trang hoặc lộ liễu: Duy trì quyền lực.

Quyền lợi, đó là căn nguyên sự quay chiều đổi hướng của kẻ cầm quyền. Marx và Lénine hết sài được thì quay sang ?đầu tư, đánh quả? thần, phât. Hạng người ti tiện, lòng tham ngùn ngụt như vậy làm gì có "tâm hồn tôn giáo"?..., nhất là một tôn giáo có quá nhiều yêu cầu đạo đức, cấu trúc trên tinh thần khắc kỷ như đạo Phật? ... Không phải vô cớ mà so với đạo Hồi và Thiên Chúa giáo, đạo Phật có ít tín đồ hơn. Con đường dốc khó trèo.Con đường dốc ấy làm sao tương hợp được với bọn cởi áo đao phủ khoác áo cà sa điềm nhiên như diễn viên thay trang phục sân khấu, không một chút ngượng ngùng, không mảy may hối tâm, không một lần thành khẩn trước tha nhân?
.,..

Lẽ ra, chính quyền Việt Nam phải xin lỗi dân chúng một cách công khai, một cách thanh thật, một cách nghiêm khắc vì tội ác phá đền chùa lăng miếu, đào bới san ủi mồ mả tiền nhân của chúng sinh. Nếu họ cải tâm họ đã phải làm điều đó trước khi đặt chân lên thềm những đền chùa mà dân chúng gom góp xây dựng lại.
Nhưng cái ngã mạn của kẻ cầm quyền khiến lương tâm họ mù tối. Họ không cần xin lỗi ai bởi vì họ tự nhận là "Đảng thần thánh và vĩ đại". Và vì "thần thánh và vĩ đại" họ đã thản nhiên làm cái việc mà cổ nhân từng cảnh báo:

"Thế gian có mặt mũi nào
Đã nhổ lại liếm làm sao cho đành."

Tôi chuyển sang mục thứ hai: Tôi là phật tử theo kiểu của riêng tôi.Không đi lễ chùa đã đành, tôi cũng không tin tuyệt đối vào lòng từ bi. Đối với tôi, lòng từ bi không thể độc hành. Lòng từ bi phải bước song song với một trí tuệ sáng suốt và khả năng chiến đấu chống lại điều ác.

Khi lòng từ bi không được rọi chiếu dưới ánh sáng trí tuệ, nó dễ dàng đưa ta đến tai họa. Chỉ cần nhớ lại tích "Đường Tam Tạng đi lấy kinh" là đủ. Đã bao nhiêu lần vị sư phụ này mắc lừa bọn yêu quái, niệm chú để xiết chặt vòng kim cô làm Tôn Ngộ Không đau đớn vật vã điên cuồng. Và cũng chớ nên quên rằng bao nhiêu lần ông ta mắc lừa, bấy nhiêu lần Tôn Hành Giả đi giải cứu.

Khi thiếu khả năng chiến đấu chống lại cái ác, lòng từ bi của chúng ta biến thành chất dầu nhờn, bôi trơn cỗ máy nghiền của loài ngạ quỷ và chính cỗ máy này sẽ nghiền nát chúng sinh. Một dân tộc hiền hòa như dân tộc Tây Tạng đã mất nước vì thiếu khả năng chiến đấu. Quân lính Trung Quốc không chỉ xâm chiếm, tàn phá đất nước Tây Tạng mà còn đổ than hồng vào đầu vào họng các nhà sư và tra tấn họ bằng tất cả những hình thức tra tấn thời Trung cổ.

Thêm một ví dụ nữa:
Ai cũng biết ở Khơ-me đạo Phật là quốc giáo. Vậy mà chính tại xứ sở này nạn diệt chủng đã xảy ra. Hơn hai triệu người bị giết dưới chính quyền Khơ-me đỏ. Thê thảm thay, rất nhiều cuộc tán sát man rợ lại xảy ra chính tại các chùa. Nơi thờ cúng linh thiêng biến thành địa ngục và giờ đây, thành một thứ bảo tàng lưu giữ đầu lâu của các nạn nhân.
Với nghiệm sinh, tôi xin góp một dẫn dụ nhỏ. Năm 1991, trong gần tám tháng tù, tôi nhớ nhất câu này:

- Chị sẽ được ra tương ớt! Chị sẽ được nghiền ra tương ớt!
Không phải vì câu nói được lặp đi lặp lại mà vì thái độ của những người nói. Họ có một vẻ hài lòng đáng sợ, một sự điềm nhiên đáng sợ. Tôi không thù ghét họ: một đại tá, một đại úy, một trung úy. Có lẽ về bản chất họ không phải người ác người xấu. Nhưng họ đã được đào tạo để làm cái việc "nghiền người khác ra tương ớt". Vì thế, đối với họ, việc nghiền ai đó ra tương ớt là phận sự, là phương tiện sinh tồn, giống như người thợ phay bào một con ốc thép hoặc người đầu bếp xào món rau.
- Chị sẽ được nghiền ra tương ớt!
Mỗi lần nghe câu nói đó, tôi đọc thấy trên gương mặt họ niềm hạnh phúc thanh thản của "Gã nông phu vừa cày xong thửa ruộng, Ngả mình trên nếp cỏ ngủ ngon lành".
Đương nhiên, họ chuẩn bị mọi sự để cho tôi ra "tương ớt". Nhưng không may cho họ, một tuần sau cuộc đảo chính ở Nga thất bại, thành trì của chủ nghĩa xã hội sụp đổ tan tành, cả ê-kíp ba người hỏi cung tôi tái xanh tái xám, mặt họ hiện lên nỗi hoang mang thê thảm, không còn chút tự tin.

Họ phải dừng tay, không dám cho tôi ra "tương ớt".... Và rồi, với 95 triệu franc viện trợ không hoàn lại của chính phủ đảng Xã hội Pháp, nhà nước cộng sản đã thả tôi ra....
Hơn một thập kỷ trôi qua, tôi vẫn không quên hình ảnh "tương ớt". Vì cỗ máy nghiền con người ra tương ớt vẫn tồn tại. Và nó tiếp tục nghiền những người khác. Cả một đội ngũ "thợ nghiền" tiếp tục nuôi sống bản thân cũng như vợ con họ bằng nghề nghiệp này. Liệu các vị có thể dùng lòng từ bi hỉ xả như vũ khí tối hậu và duy nhất để làm thay đổi cỗ máy nghiền này chăng? ....

?....?....

Tôi không tin.
Vì thời gian hữu hạn, khả năng con ngừoi cũng hữu hạn.
Vì sự tập nhiễm là bản năng thứ hai có sức mạnh ghê gớm mà chỉ riêng lòng tốt không đủ để đổi thay.

Vì lẽ đó, cuộc đấu tranh của phật tử cũng như của giáo dân không thể chỉ tựa trên sức mạnh của lòng từ ái. Cuộc đấu tranh nào cũng phải có chiến lược và chiến thuật, tùy cơ ứng biến. Và dù đứng dưới bóng Phật hay bóng Chúa, con người cũng cần có một bộ óc phán đoán phân tích sắc bén cộng với một khả năng đủ cho việc chống lại cái ác, bên cạnh lòng hỉ xả từ bi,

Tôi là phật tử theo kiểu của riêng tôi vì tôi không bao giờ chủ trương đạo Phật trở thành "quốc giáo", tôi đấu tranh cho một nền dân chủ đích thực mà nền dân chủ đích thực chỉ cho phép tồn tại một nhà nước thế tục trong đó tất thảy các tôn giáo đều được bảo vệ một cách bình đẳng nhưng trước hết mọi tín đồ đều có nghĩa vụ làm công dân xứng đáng.
Với tôi, chỉ có một nền dân chủ đích thực cho phép thay đổi thường xuyên các chính phủ thối nát, lạm nhũng mới cho phép các tôn giáo tồn tại đúng với tư cách tôn giáo, đền chùa và nhà thờ mới tồn tại như những chốn thiêng liêng nhằm thỏa mãn nhu cầu tâm linh của cõi người mà không bị biến thành đồn bốt bảo vệ cho quyền lực nơi đám cường hào trá hình ức hiếp người tu hành và bóc lột chúng sinh.

Bây giờ, là một câu hỏi có tính riêng tư:

- Cơ duyên nào đưa bà đến cửa thiền?
Tôi xin trả lời:
- Sự đưa dẫn của số phận.
Đúng như vậy. Tất cả những ngả rẽ lớn trên đường đời, tôi không trù tính. Tất cả, đều xảy ra như những ngẫu nhiên. Nói một cách bóng bẩy hơn suốt phần đời tôi đã trải qua là tạo phẩm dưới bàn tay vô hình của số phận. Tuổi thơ, tôi không mơ ước làm nghề viết văn. Trưởng thanh tôi cũng không hình dung được có ngày tôi trở thành kẻ thù số 1 của chế độ này. Tương tự như thế, chưa bao giờ tôi cố ý đi tìm đọc giáo lý nhà Phật.
Sau cái chết của cha tôi 1992 trong tôi bỗng nảy sinh nhu cầu siêu hình. Vì sao, chính tôi cũng không rõ. Có điều, tôi biết chắc chắn rằng đời người thường chưa chất những ngộ nhận, những nhầm tưởng, những bí ẩn, những che giấu.... tất cả những gì mà ta thường gọi là ?bờ lú bến mê?. Trong quan hệ giữa con người với con người, những mê lú thường đem lại khổ đau, hờn oán. Thâm tình càng sâu, khổ đau càng lớn. Bởi vì, chỉ những người ta yêu thương mới có khả năng làm cho ta đau đớn. Phật tổ Như Lai dạy: "Con cái là những sợi xích bằng vàng". Với tôi, sự thật dạy thêm vế đối: "Cha mẹ là những chiếc cùm bằng ngọc". Trong gia đình tôi, tồn tại một nguyên tắc "Gia pháp cao hơn quốc pháp". Vì lẽ đó, trong hơn một thập kỷ cha tôi đã áp dụng với tôi mọi hình thức kỷ luật quân đội để ép tôi sống với người chồng cũ, vì "bỏ chồng là điếm nhục gia phong".....Có lẽ vì những ẩn ức đó tôi bỗng có nhu cầu siêu hình sau cái chết của ông, dù người âm kẻ dương chúng tôi vẫn là cha con và vẫn có nhu cầu trò chuyện. Cũng chính vì những ẩn ức đó cuộc gặp gỡ và thờ phụng Phật bà Quan Âm đối với tôi là một hạnh duyên, một may mắn vĩ đại và thần bí.
Là người viết văn tôi biết rằng với thời gian và qua thời gian tất thảy các nhân vật lớn thuộc mọi tôn giáo đều được thần thoại hóa. Nhưng cho dù tước bỏ mọi chi tiết huyền hoặc, mọi sợi chỉ óng ánh thêu dệt chân dung tôi vẫn thấy Phật Bà là một nhân cách vĩ đại tỏa sáng. Bị chinh phục hoàn toàn vì nàng công chúa từ bỏ cuộc đời xa hoa của hoàng cung, chạy trốn sự truy đuổi của quân lính triều đình, cưỡi hổ về phương Nam tu hành, tôi đi tìm đọc giáo lý nhà Phật.

Vậy là con đường tôi đi ngược chiều với nhiều người khác. Tuy nhiên phương Tây có câu: "Mọi con đường đều dẫn đến Roma".
Tôi tin rằng có nhiều con đường khác nhau dẫn đến tôn giáo nói chung cũng như cửa Phật nói riêng. Tùy theo duyên phận từng người, họ có thể dấn thân vào hành trình đó sớm hay muộn, lâu dài hay ngắn ngủi, sâu hay nông, thành thực hay chiếu lệ ...v ..v...
Đối với tôi, đạo Phật đem lại nhiều chân lý vĩnh hằng: Tính vô thường của Tồn Sinh, luật ly hợp của con người, vòng quay Sinh Diệt ...v..v...Nhưng trước tất thảy mọi triết thuyết, đạo Phật dạy ta xử lý ra sao trong các mối mâu thuẫn nan giải của đời người. Lịch sử cá nhân của Quán Âm Bồ Tát đem cho tôi một sức mạnh mới mẻ và sự thanh thản triệt để trong tâm hồn. Tôi hiểu là từ ngàn xưa những con người vĩ đại đã giải quyết ra sao mối mâu thuẫn giữa các thế hệ đặt trong bối cảnh tình huyết nhục.


Tôi hiểu rằng ngoại trừ ngày cha mẹ đặt ta vào cõi đời, con người phải tự mình sinh đẻ ra mình, và lần sinh trưởng thứ hai này mới thực sự quyết định cho nhân cách cũng như sự nghiệp.
Tôi hiểu rằng không phải vinh quang cũng không phải chiến thắng mà chính là Tình Yêu và sự Hy Sinh nâng con người lên cao.
Và tất thảy những ý tưởng ấy được chắt lọc ra khi tôi đọc "Chuyện Quan Âm". Cho nên tôi như được hồi sinh khi tẩy xóa mọi ẩn ức, thanh lọc tâm hồn. Tôi cúi đầu trước vong linh cha tôi vì hiểu rằng chính ông và chỉ ông mới tạo ra tôi nhưng tôi vẫn đi đúng con đường tôi đã chọn, không mảy may nao núng. Tôi cũng không bao giờ ép duyên hay can thiệp vào đời tư của các con tôi. Và bài học lớn lao ấy tôi học được từ Phật bà Quan Âm. Ngài chính là cơ duyên đưa tôi đến cửa Thiền.
Cuối cùng, để cảm ơn tất cả những ai đã quan tâm hỏi tôi, nhất là các Phật tử tôi xin phép nói rằng:

Tôi vẫn mơ ước có một ngày, khi lũ lợn bẩn thỉu bị đuổi khỏi đền chùa, mọi nơi thờ cúng linh thiêng đựoc trả lại cho các chân tu những người mà mệnh và nghiệp gắn kết họ với tôn giáo... Ngày ấy, nếu Trời còn cho sống tôi sẽ lại "vãn cảnh chùa", để thưởng thức mùi hương thuần khiết, thanh cao của hoa mộc hoa sói hoa lan.... những loài hoa chỉ được phép trồng nơi thiêng liêng hương khói.

Dương Thu Hương

bienchet
#22 Posted : Wednesday, April 12, 2006 8:56:51 AM(UTC)
bienchet

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 1,452
Points: 0



Dấu hiệu tốt của dân tộc
Nhà văn Dương Thu Hương: “Vụ tàn sát đẫm máu các cựu chiến binh nổi dậy tại Thái Bình là lý do khiến tôi gọi lũ cầm quyền là dòi bọ”.

LTS: Bắt nguồn từ những cuộc phỏng vấn thời còn làm cho Ðài Á Châu Tự Do năm 1997 và do cảm phục thái độ can cường và tấm lòng của Dương Thu Hương đối với con người và đất nước Việt Nam, Ðinh Quang Anh Thái đã xem nhà văn nữ này như một người chị tinh thần. Trung tuần tháng Hai vừa qua, do lời mời của nhà xuất bản Sabine Wespieser Editeur, bà Dương Thu Hương đến Paris để ra mắt tác phẩm đã được in bằng Anh ngữ, cuốn “No man’s land”, nay được dịch sang Pháp ngữ là “Terre Des Oublis”. Khi được tin này, Ðinh Quang Anh Thái đã lập tức sang Paris thăm bà Dương Thu Hương và được bà dành cho một loạt cuộc phỏng vấn liên quan đến nhiều vấn đề tại quê nhà chúng ta. Năm bài đã được đăng trên Việt Tide và sau đây là bài thứ bẩy. Những bài kế tiếp sẽ được tiếp tục đăng trên Việt Tide vào những tuần sắp tới, mời quý độc giả đón đọc.

Việt Tide: Trong thời gian vài tháng qua, nhiều cuộc đình công của công nhân đã bùng nổ ở một số tỉnh miền Nam Việt Nam nhằm chống lại chính sách đối xử bất công của giới chủ nhân người ngoại quốc. Bà nhận định như thế nào về phong trào đình công này?

Dương Thu Hương: Tôi nghĩ rằng đó là dấu hiệu tốt của dân tộc. Cái nhà nước này nó luôn luôn nói rằng chủ nghĩa Mác dựa trên giai cấp công nhân, nhưng đó là lối lừa bịp rẻ tiền nhất, ngu xuẩn nhất. Bởi vì Việt Nam làm gì có đội ngũ công nhân đủ để trở thành một giai cấp như Mác nói. Hơn thế nữa, chủ nghĩa Mác là một thứ ảo tưởng lớn nhất và một nửa nhân loại đã phải trả giá cho nó. Cho nên cái đảng cộng sản Việt Nam thực chất cũng chỉ là đảng của đám chánh tổng cường hào ác bá.

Bây giờ, những công nhân nổi lên như vậy có nghĩa là dân tộc Việt Nam đang phát triển nên công nhân bắt đầu ý thức được quyền lợi của mình. Ðó là những mầm mống, những bài tập để hướng tới một nền dân chủ. Công nhân bây giờ không còn tin đảng cộng sản và họ ý thức được rằng, đảng cộng sản chỉ là đảng của một bọn lừa bịp và bóc lột liên kết chặt chẽ với các nhà đầu tư nước ngoài để làm tiền trên xương máu của công nhân.

Tôi nghĩ rằng các cuộc đình công là dấu hiệu đáng mừng. Vì xưa nay đất nước chúng ta là của những người nông dân chân đất mắt toét cúi rạp lưng xuống và khi nào đói khổ quá thì chỉ có thể làm giặc được thôi, chứ họ chưa biết đấu tranh, chưa biết những quyền lợi đáng nhẽ họ được hưởng, chưa biết đến một cuộc sống xứng đáng. Người Việt Nam xưa nay mới chỉ tồn tại thôi chứ chưa bao giờ có được cuộc sống xứng đáng. Tôi cho rằng những cuộc đình công là những bài tập đầu tiên của nền dân chủ; những bài tập đầu tiên của một dân tộc bắt đầu biết đấu tranh cho quyền sống của mình; và thế hệ bây giờ nhìn rõ hơn về quyền lợi của mình so với lớp cha ông của họ.

Việt Tide: Lý do nào các cuộc đình công chỉ giới hạn ở miền Nam mà chưa thấy xẩy ra ở miền Bắc, thưa bà?


Nhà nước Việt Nam đã tiến hành một vụ Thiên An Môn trong bóng tối ở trong các trại giam


Dương Thu Hương: Ngoài Bắc cũng có đấy, nhưng không nhiều lắm. Tôi có thể nêu thí dụ là những vụ tự thiêu ở vườn hoa Mai Xuân Thưởng; những vụ biểu tình ở Quảng Ninh; những vụ biểu tình ở Hưng Yên. Nhưng tôi xin nói với ông là cuộc biểu tình lớn nhất là cuộc biểu tình của nông dân Thái Bình và sau đó, nhà nước Việt Nam đã tiến hành một vụ Thiên An Môn trong bóng tối ở trong các trại giam, bằng cách dùng bàn tay bọn tù hình sự tiêu diệt những cựu chiến binh cầm đầu phong trào chống đối đó. Sự việc này tôi đã từng viết, từng tố cáo không phải một lần mà là nhiều lần.

Sở dĩ phong trào đình công bùng phát ở miền Nam, vì miền Nam có nhiều nhà máy hơn miền Bắc, cho nên lực lượng công nhân ở đó lớn mạnh hơn miền Bắc. Ngoài ra, một yếu tố nữa, là những bài tập về dân chủ thì dân chúng miền Nam đã từng làm ngay dưới thời chính quyền cũ, cho nên họ thành thục hơn, so với dân miền Bắc. Cuộc sống là một sự tập dượt, và người miền Nam đã từng diễn tập sinh hoạt dân chủ, nên bây giờ họ thực hành bài học đó một cách dễ hơn người miền Bắc. Những người miền Bắc, trong lãnh vực diễn tập dân chủ, họ như những người thợ mới tập việc, mới chỉ là phu trộn hồ thôi, chứ chưa bao giờ làm thợ nề. Cần phải có quá trình thì mới từ thợ phụ lên thợ chánh được. Người miền Nam thì đã quen với cơ chế dân chủ; tất cả khái niệm sống dân chủ họ đã mơ hồ hiểu dù chưa thật rõ ràng. Nền dân chủ trong Nam thời trước, dù chập chững, nhưng ít nhất đã tạo cho dân chúng biết khái niệm về dân chủ và những quyền sống của người dân.

Việt Tide: Bà vừa đề cập đến một vụ tàn sát Thiên An Môn tại Việt Nam khi xẩy ra các cuộc chống đối của nông dân ở Thái Bình vào khoảng cuối năm 1997. Những tin tức về cuộc nổi dậy đó, đồng bào chúng ta tại hải ngoại có biết đến, nhưng những vụ tiêu diệt trong bóng tối những người cầm đầu cuộc nổi dậy thì ngoài này không rõ lắm. Bà có thể thuật lại được không ạ?

Dương Thu Hương: Cuộc đấu tranh của nông dân Thái Bình chống tham nhũng, chống quan lại trong tỉnh xẩy ra cuối năm 1997. Lúc xẩy ra cuộc nổi dậy đó, anh Trần Ðộ và tôi đều bị công an giám sát một cách chặt chẽ, vì chúng tôi quê quán ở Thái Bình nên bị nghi là có liên hệ với những nhóm cựu chiến binh ở Thái Bình. Nhưng thật ra anh Trần Ðộ và tôi không hề biết tý gì về cuộc nổi dậy. Mãi sau này chúng tôi mới biết. Vì có một số người lên Hà Nội đi tìm con cái của họ và họ gặp chúng tôi .

Qua lời kể lại của những người này, chúng tôi biết được rằng, khi xẩy ra sự việc hàng chục ngàn nông dân Thái Bình đứng lên đòi lại những khoản tiền bị bọn quan lại địa phương chấn lột, thì lúc đó các nhà báo ngoại quốc từ Hà Nội đổ về Thái Bình. Công an đã làm đủ mọi biện pháp để ngăn chặn các nhà báo này. Biện pháp của công an là tiếp đón các nhà báo rất tử tế; mời các nhà báo nghỉ lại khách sạn, mời ăn uống rồi đưa các cô gái xinh đẹp ra để chiêu dụ những anh chàng nào thích của lạ, v.v... và đó là kế hoãn binh của công an. Kế hoãn binh nhằm mục đích mua thời gian, một tuần hai tuần ba tuần, các nhà báo ngoại quốc bắt đầu nản, họ bỏ sang Hongkong, sang Bangkok để chờ săn tin tức ở những điểm nóng khác trên thế giới.

Các nhà báo rời khỏi Việt Nam, đó là bước thắng lợi đầu tiên của nhà cầm quyền Việt Nam. Khi các nhà báo đi rồi, dư luận thế giới, những ôáng kính của giới truyền thông đã chĩa sang các góc khác của thế giới, Bosnia chẳng hạn, hay Afghanistan (A Phú Hãn) v.v., thì lúc đó, nhà nước ra lệnh bắt tất cả những người cầm đầu cuộc nổi dậy. Bởi vì mỗi một xã có một vài người cầm đầu. Những vụ bắt giữ đó được tiến hành trong bóng tối, không có lệnh lạc gì cả, chỉ có lệnh miệng thôi. Lực lượng bắt giữ người được điều từ các tỉnh khác về và số người bị bắt lên đến nhiều ngàn.

Những người bị bắt bị đưa đến những trại giam nào thì chính gia đình họ cũng không biết đích xác. Gia đình nộp đơn kiện thì công an chỉ những trại tù rất khác nhau; thí dụ họ giam con người ta Quảng Ninh thì họ chỉ cho thân nhân vào Nghệ An tìm; họ giam con người ta ở Thanh Hóa thì họ chỉ thân nhân lên Vĩnh Phú tìm; họ giam con người ta ở Vĩnh Phú thì họ nói là giam ở tận Ðắc Lắc v.v. Như thế có nghĩa là để cho những nông dân nghèo khó, ngu ngơ không biết đường biết xá, đi tìm thân nhân vài lần là hết tiền nên đành phải bỏ cuộc.

Trong các nhà tù, thì chúng nó ra lệnh cho những thằng tù muốn lập công với công an, là bọn tù hình sự, những thằng tàn ác nhất, tìm cách gây sự với những nông dân và cựu chiến binh cầm đầu cuộc nổi dậy; rồi bọn hình sự này thủ tiêu những nạn nhân bằng cách dùng đũa nhọn đóng vào tai lúc người ta đang ngủ. Nạn nhân chết ngay tức khắc, không thể kêu một tiếng nào cả. Chính thân nhân những người chết kể lại cho tôi nghe chuyện đó.

Ðó là cuộc tàn sát trong bóng tối một cách hèn hạ, cực kỳ khôn khéo, cực kỳ hèn hạ, cực kỳ đểu cáng và chúng nó là những đao phủ số một nên mới nghĩ ra hình thức thủ tiêu dã man như thế.

Một vài năm sau vụ thảm sát này, cha mẹ các nạn nhân từ Thái Bình lên Hà Nội tập trung tại số 15 Trần Bình Trọng (trụ sở Bộ Nội Vụ cũ) để khiếu kiện, nhưng không có người nào tiếp họ cả. Chúng nó không đàn áp, không làm gì cả. Chúng nó cứ để họ đói lả ra, và chỉ cho mỗi người một ổ bánh mì giá 1 nghìn Việt Nam (khoảng chưa tới 10 cent Mỹ kim), sau đó xúc họ lên xe quân đội, chở họ đến những cánh đồng rồi thả họ ở đấy. Người dân phải đi bộ hoặc tìm cách thuê những chiếc xe ở dọc đường để về nhà.

Chúng nó làm như thế khiến người nông dân cạn hết tiền, mỏi mệt kiệt sức và rốt cuộc khiếu kiện của họ không hề được giải quyết. Cuối cùng, dân chúng chỉ còn biết giữ nỗi căm hờn trong lòng thôi.

Tôi cho rằng, đó là vụ Thiên An Môn kinh tởm nhất và đó là một trong những lý do khiến tôi gọi cái lũ cầm quyền là giòi bọ. Chúng nó giòi bọ về mặt nhân cách, chúng nó là rắn độc, cực kỳ độc ác xảo quyệt. Khi chúng nó làm như thế, chúng nó đã đẩy người khác vào cái thế bất dung đối với chúng nó. Sau vụ đàn áp đó, tôi nói với anh Trần Ðộ rằng, nếu trước vụ đó, tôi còn chút gì nghĩ chúng nó là người, thì sau vụ này, tôi nghĩ chúng nó hoàn toàn là dòi bọ, hoàn toàn là một lũ đao phủ kinh tởm nhất và không thể nào tôi nhân nhượng với chúng nó được”.

Việt Tide: Ðồng bào mình tại Việt Nam có nhiều người biết về vụ tàn sát mà bà vừa thuật lại không ạ?

Dương Thu Hương: Ðồng bào trong nước tất nhiên biết rõ vụ tàn sát này hơn là người Việt ở hải ngoại. Nhưng mà họ sợ và nói chung họ chỉ có thể quan tâm đến người khác được một vài ngày vì người ta phải kiếm sống nữa chứ. Họ phải nghĩ đến nồi cơm, đến con cái gia đình họ nên họ đành phải im lặng.

Việt Tide: Nhiều tổ chức đấu tranh cho nhân quyền trên thế giới hằng quan tâm đến tình trạng nhân phẩm của người Việt Nam bị chà đạp, thành ra nếu có được những bằng chứng và hình ảnh cụ thể của vụ tàn sát, thì chắc chắn các tổ chức này sẽ lên tiếng kết án nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam. Có cách nào chúng ta thu thập được những bằng chứng tội ác của chế độ trong vụ tàn sát đó?


Chính quyền Hà Nội đã từng thú nhận rằng, nếu nhà tù Pháp ngày xưa mà giống nhà tù cộng sản bây giờ thì không một chiến sĩ cách mạng nào có thể sống sót được


Dương Thu Hương: Ðiều đó là một chuyện ảo tưởng. Chúng ta nên nhớ rằng, chính quyền Hà Nội là chính quyền cực kỳ thông minh trong tất cả những cuộc giết người trong bóng tối. Ông nên nhớ rằng tất cả những người trong chính quyền Hà Nội đã từng thú nhận rằng, nếu nhà tù Pháp ngày xưa mà giống nhà tù cộng sản bây giờ thì không một chiến sĩ cách mạng nào có thể sống sót được; không người nào có thể thoát được để làm cuộc Cách mạng Tháng Tám. Ðấy là một thực tế.

Không cứ gì hình ảnh vụ tàn sát Thái Bình, mà chỉ riêng hình ảnh nông dân đốt đồng mía ở Ðà Nẵng, hình ảnh nông dân chống đối hợp tác hóa ở lục tỉnh miền Nam, hình ảnh của những bộ đội sau cuộc chiến tranh bị nhốt tại trại giam Tân Kỳ; tất cả những hình ảnh ấy đều bị chế độ ra lệnh tiêu hủy.

Riêng hình ảnh trại giam Tân Kỳ, khi tôi làm cuốn phim Thánh Ðường Của Những Nỗi Tuyệt Vọng, tôi đến Tân Kỳ lần thứ nhì là họ đã dọa cho người giết hoặc hãm hiếp tôi trong rừng. Lúc đó, Nguyễn Văn Linh đã ra lệnh tiêu hủy những hình ảnh của trại Tân Kỳ, thì làm sao bây giờ họ không tiêu hủy những hình ảnh của những cựu chiến binh trong vụ nổi dậy ở Thái Bình năm 1997.

Ai quay phim, chụp ảnh? Ai dám?

Khi tôi làm cuốn phim Thánh Ðường Của Những Nỗi Tuyệt Vọng, tôi phải bỏ tiền túi của tôi ra mua những hình ảnh đó (chỉ có duy nhất một cuốn phim thôi). Người dân quay trộm và họ hy vọng bán cho người nước ngoài thì tôi đã mua lại. Nhưng sau đó Nguyễn Văn Linh ra lệnh tịch thu và tiêu hủy tất cả các thước phim đó.

Cho nên, những hình ảnh vụ tàn sát nông dân và các cựu chiến binh ở Thái Bình thì chỉ có Giời mới quay được thôi. Tôi vẫn hy vọng có Giời-Phật chứng thì một ngày nào đó những thằng đao phủ Việt Nam ấy sẽ phải trả cái hậu quả mà chúng đã gây ra.


Phượng Các
#23 Posted : Saturday, May 13, 2006 3:09:31 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,704
Points: 20,055
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
Nhà văn Dương Thu Hương ở lại Pháp
Friday, May 12, 2006







Nữ văn sĩ Dương Thu Hương trong cuộc hội luận văn học ở New York cuối Tháng Tư 2006


SAN JOSE, CA. 12-05 (TH) - Nhà văn nữ Dương Thu Hương, tác giả của nhiều tiểu thuyết và tập truyện nổi tiếng, quyết định ở lại Pháp để viết văn thay vì trở về Việt Nam, đài phát thanh công cộng KQED ở Bắc California cho hay như vậy trong buổi phát thanh ngày Thứ Năm 11 Tháng Năm năm 2006.

Ông Nguyễn Khoa Thái Anh, một giáo chức tại đại học UC Berkeley, cũng là một cộng tác viên của Nhật Báo Người Việt, cho hay bà Hương chính thức loan báo tin này ở thủ đô Pháp ngày Thứ Sáu 12 Tháng Năm năm 2006.

Thái Anh cũng từng trao đổi trực tiếp với bà Dương Thu Hương khi hai người gặp nhau trong chương trình sinh hoạt văn học quốc tế ở New York vào những ngày 25 đến 30 Tháng Tư năm 2006 vừa qua với chủ đề Pen World Voices.

“Bà không xin quy chế tị nạn chính trị với chính phủ Pháp và cũng không đón nhận bất cứ một sự trợ cấp tài chính hay bổng lộc, lòng tốt của một cá nhân, đoàn thể hay cơ quan nào.” Thái Anh viết như thế trong một bài viết sẽ được đăng tải nguyên văn trên báo Người Việt.

Nhà văn nữ Dương Thu Hương, 59 tuổi, sang Pháp từ Tháng Mười Một năm ngoái. Mục đích khởi đầu là muốn ở lại đây để hoàn tất một cuốn tiểu thuyết mới. Nay bà có ý định ở lại lâu hơn thời gian của thời hạn chiếu khán, một điều không xác định rõ rệt là sẽ ở lại luôn ngoại quốc hay không, theo những tin tức khởi đầu.

Năm 1994, viên chức Tòa Ðại Sứ Ý ở Hà Nội đã phải tới tận nhà bà để làm những thủ tục và vận động để bà xuất ngoại. Năm ngoái, viên chức Tòa Ðại Sứ Pháp ở Hà Nội cũng phải tới nhà bà để làm mọi thứ thủ tục và vận động với nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam cho bà xuất ngoại. Bà bị cấm sử dụng Internet và bị cấm tiếp xúc trực tiếp với các tòa đại sứ ngoại quốc.

Bà tự nhận là một kẻ “làm giặc” còn nổi tiếng với nhiều bài tiểu luận đả kích chế độ Cộng Sản Việt Nam với những lời lẽ cay độc nặng nề phổ biến trên Internet.

Bà Hương trở nên nổi tiếng khi xuất bản quyển truyện đầu tiên “Bên kia bờ ảo vọng” năm 1987 rồi kế đến là “Những thiên đường mù” (1988). Tác phẩm Bên Kia Bờ Ảo Vọng ấn hành 100,000 bản và cuốn Những Thiên Ðường Mù phát hành được 40,000 số ở trong nước thì bị tịch thu. Những tiểu thuyết sau đó của bà phải in và phát hành ở ngoại quốc.

Bà đã có lần bị bắt bỏ tù một thời gian ngắn mà không có xét xử hồi năm 1991 vì đả kích chế độ. Trước đó, bà bị đuổi ra khỏi đảng Cộng Sản Việt Nam, năm 1989. Khi bà bị bắt, nhiều tổ chức quốc tế đã lên tiếng đả kích chế độ Hà Nội là muốn bịt miệng những người đối kháng.

Bà từng được đề nghị sang Pháp định cư nhưng từ chối.

nguoiviet online
Phượng Các
#24 Posted : Monday, May 15, 2006 5:26:25 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,704
Points: 20,055
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
Khi bà Dương Thu Hương Quyết Định ở lại Pháp
Saturday, May 13, 2006






Nguyễn-Khoa Thái Anh


Ðược tin bà Dương thu Hương sẽ ở lại Pháp không về Việt Nam nữa làm tôi bùi ngùi, thảng thốt. Bà sẽ không xin quy chế tị nạn chính trị với chính phủ Pháp và cũng không đón nhận bất cứ một sự trợ cấp tài chánh hay bổng lộc, lòng tốt của một cá nhân, đoàn thể hay cơ quan nào. Ngày mai bà sẽ chính thức tuyên bố từ Paris như thế.

Ðây không phải là một quyết định đột ngột đối với một người gắn bó với vận nước nổi trôi như bà. Sáu mươi năm cuộc đời tranh đấu cho lý tưởng của dân tộc, dù đã có lúc sự hy sinh của bà và đồng đội quả là oan uổng, nhưng bà vẫn vùng lên cưỡng lại phần số oan uổng của tuổi thanh xuân, để tiếp tục đấu tranh cho sự thật và lẽ phải, không chịu làm ngơ, quay mặt với ngang trái để đổi lấy bã lợi danh hay hưởng một cuộc sống thanh nhàn. Bất kể những khổ đau hay ruồng rẫy của của cuộc đời và lòng người, bà vẫn đấu tranh không ngừng, hứng chịu những oan khiên ập xuống đời mình. Thế là từ nay, một người yêu quê hương, xem mảnh đất quê hương là nguồn sống của dân tộc phải chọn một quyết định đau thương rời xa quê hương như bà.


“Tôi nghĩ rằng trong tôi có một người đàn bà, một người sống sót từ thời xa xưa, một người đàn bà nhuộm răng đen, như một ngọn cỏ bám víu vào mảnh đất mẹ, tồn tại qua mọi cơn giông bão và thảm họa của cuộc đời.” (Dương thu Hương, 2004).


Bà Hương chọn ở lại nước Pháp cũng dễ hiểu, ngoài chuyện nói tiếng Pháp thông thạo, bà đã quen thuộc với lối sống ở đó. Trong buổi nói chuyện trên đài phát thanh Pacific Times với Nguyễn quí Ðức hôm qua bà cho biết nước Pháp là nơi thích hợp cho bà làm việc và bà ngao ngán với sự đố kỵ của một số phần tử ở hải ngoại. Có lẽ đây là một bước cản trong việc tìm đến dân chủ cho Việt Nam và từ đó ta có thể nghiệm chuyện sang Mỹ của bà vẫn còn xa.

Ðến hôm nay những lời nói của bà hôm Chủ Nhật 30 Tháng Tư như một điều linh ứng trở về rõ mồn một trong tâm khảm báo trước cho một điều gì chưa thông suốt.

Bà nói với tôi: “Chưa bao giờ tôi muốn một cái gì cả. Tôi không bao giờ có muốn. Trong ý con người của tôi, tôi chỉ hoàn thành công việc của tôi, từng ngày một, từng công việc một.

Chuyến đi này (sang New York dự Ðại hội Pen World Voices, từ 24-30 Tháng Tư vừa qua) là để đáp lễ, hoàn toàn do những người làm sách của tôi và PEN mời, và tôi phải đi để đáp lễ ông Salman Rushdie vì ông mời tôi quá nhiều lần và lần này tôi có cơ hội sang chào họ và cảm ơn họ, tôi không và tôi không có kế hoạch gì trong đầu cả. Không bao giờ có kế hoạch gì trong đầu cả.”

Tôi hỏi: Nếu chị có thì giờ thì có bao giờ chị nghĩ đến chuyện đi qua bang Cali không ạ?

Bà trả lời: “Tôi là người theo đạo Phật cho nên tôi không bao giờ nghĩ đến chuyện gì trước cả, vì ngày mai không biết cái gì (sẽ) đến với chúng ta. Không bao giờ tôi trả lời là ngày mai tôi biết được cái gì cả, vì sống theo đạo Phật là chỉ biết mình sống trong ngày hôm nay. Bởi vì là người, mà ngưỡng mộ đạo Phật, chỉ sống trong ngày hôm nay, biết ngày hôm nay, chứ không biết đến ngày mai vì ngày mai là ngày Trời, Phật định, thành ra là tôi... Câu hỏi đó nó nằm ngoài sự suy nghĩ của tôi.”

Tôi hỏi: Có một số người họ cảm mộ chuyện chống nhà nước của chị. Họ nghĩ họ có một số đường lối giống chị. Họ muốn được theo chị hoặc giả được chị nhập bọn. Chị thấy thế nào?

Bà Hương: “Tôi không muốn dính líu đến ai cả, vì bản chất của tôi là một mình. Tôi hành động một mình và vì lương tâm của tôi. Cuộc đấu tranh của tôi cho dân chủ là hoàn toàn không vụ lợi. Tôi không bao giờ có tham vọng. Con cái, tôi cũng không cho tham gia con đường chính trị. Cho nên tôi không có nhiệm vụ làm vừa lòng và không có nhiệm vụ tham gia bất kỳ bè nhóm và đảng phái nào.”


Bà Hương, một con người đã chọn con đường làm giặc, đến nay lại bước vào thế giới mới, an bình hơn hay khắc khoải hơn? Chuyện làm giặc sẽ mất đi ý nghĩa của nó nay bà đã chọn cuộc sống ở nước ngoài. Nhưng chắc chắn chọn lựa này đã đem lại cho nhà nước ít ra một tiếng thở phào nhẹ nhõm và gia thế bà một ít an vui. Ít ra có lẽ con cái và thân nhân sẽ không bị phiền nhiễu từ phía cầm quyền, họ sẽ không bị áp lực trong chuyện kềm chế bà. Ðương nhiên bà phải trải qua một sự xung đột mãnh liệt trong tâm hồn để đi đến quyết định và chấp nhận như thế.

Tôi chợt bồi hồi nhớ đến bản Tình Ca của nhạc sĩ Phạm Duy - một người mà con đường tranh đấu hoàn toàn trái ngược, khác với Dương thu Hương và đã chọn quê hương là nơi dung thân cho quãng đời còn lại của ông, nhưng với quãng đời còn lại của bà, biết đâu Dương thu Hương sẽ sớm tìm được trọn vẹn hạnh phúc ở quê nhà?


Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mời ra đời

Mẹ hiền ru những câu xa vời

À à ơi tiếng ru muôn đời

Tiếng nước tôi, tiếng mẹ sinh từ lúc nằm nôi

Thoát nghìn năm thành tiếng lòng tôi

Nước ơi!

Tiếng nước tôi bốn nghìn năm ròng rã buồn vui

Khóc cười theo mệnh nước nổi trôi

Nước ơi!


Tôi chợt nhớ lại đêm Thứ Tư ở thính đường Town Hall, New York khi tôi thấy Dương thu Hương lần đầu và hình ảnh sống động tối hôm đó quay về trong tâm tưởng tôi như một đoạn phim màu:


Cô Nina McPherson ra giới thiệu nhà văn Dương thu Hương mà có lẽ nhiều khán thính giả chưa biết đến khiến cả thính đường chợt yên lặng nghe ngóng. Cô Nina cho biết sẽ đọc phần chính bài viết của bà Hương bằng tiếng Anh, rồi sau đó chính tác giả sẽ ra mắt trình diện khán giả và sẽ đọc phần kết luận. Với giọng đọc trong trẻo, thanh thoát, trầm bổng, diễn tả, đầy thuyết phục làm cử tọa đã sôi động lên như được chích một liều thuốc hồi sinh. Khi bà Hương bước ra sân khấu thì tiếng vỗ tay đang còn vang dội tán thưởng bài diễn văn vừa đọc, bỗng trở nên rầm rộ, vang vọng và chấn động hơn lên. À thế ra đây là con người bằng xương bằng thịt đây à? Bà gục đầu cười chào đáp lễ, và không mất thì giờ, khi tiếng vỗ tay vừa lắng xuống, đã trỗi giọng Hà Nội truyền cảm lên, thánh thót và tự tin. Bà chấm dứt phần mình trong vòng hai phút, tiếng vỗ tay một lần nữa lại vang dội.


Bà, một con người tranh đấu truân chuyên, không chịu khuất phục cường quyền hay bị mua chuộc bởi danh vọng, đã tự gán cho mình vai trò của một người đàn bà nhà quê đã chú tâm, đặt tim óc trong một bài giảng thuyết quá đích xác và hùng hồn. Bà dùng con tim nhân ái của mình để thốt lên những lời từ ái. Bà kêu gọi con tim và lòng hy sinh quả cảm của loài người, nhắn nhủ:


“Nếu một ngày nào đó hành tinh này còn tồn tại thì chắc chắn không phải nhờ ơn các chức sắc tôn giáo hay các nhà kỹ thuật gia mà chắc chắn là nhờ ơn phước của những con người từ ái, cao thượng, những người có trái tim vàng.”


Rồi bà mượn lời Nguyễn Du, nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam, kết thúc:


Ngẫm hay muôn sự tại trời,

Trời kia đã bắt làm người có thân.

Bắt phong trần phải phong trần,

Cho thanh cao mới được phần thanh cao.

Có đâu thiên vị người nào,

Chữ tài chữ mệnh dồi dào cả hai,

Có tài mà cậy chi tài,

Chữ tài liền với chữ tai một vần.

Ðã mang lấy nghiệp vào thân,

Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa.

Thiện căn ở tại lòng ta,

Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ tài.


Tôi lại nhớ câu hỏi: Như vậy thì chị sẽ về lại Pháp chứ không trở lại Việt Nam?

“Không, tôi gia hạn chiếu khán và sẽ ở lại Pháp cho đến cuối năm để viết sách...” Không ngờ chuyện “cuối năm” đến nay đã trở nên một điều vô hạn định.

Giờ đây nếu tôi là ca sĩ, tôi xin hát tặng bà bản Tình Ca:

...

Tôi yêu tiếng xa mờ

Những câu hò sưởi tình bơ vơ

Khóc thương hoài mảnh tình đơn sơ

Khóc chi hoài mộng đẹp ngày mơ...


Nguyễn-Khoa Thái Anh

PC
#25 Posted : Saturday, August 4, 2007 11:14:23 AM(UTC)
PC

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 5,668
Points: 25
Woman

Was thanked: 4 time(s) in 4 post(s)
Nhân danh Đức Thế Tôn


Dương Thu Hương
(Bài viết nhân ngày sinh của Phật tổ Như Lai năm Đinh Hợi), Aug 01, 2007

Người ta có quyền làm gì khi nhân danh Đức thế Tôn?

Tôi không rõ đã từng có ai đặt ra câu hỏi ấy hay chưa?....

Tôi cũng không hiểu các Phật tử chính thức có quan tâm đến vấn đề này hay nó chỉ làm băn khoăn những ai đứng bên ngoài cánh cửa nhà chùa và tìm hiểu đạo Phật theo cách thức không chuyên nghiệp?....

Tuy nhiên, tất thảy mọi nghi vấn đều chẳng mảy may quan trọng. Chúng ta, những con người tự do, có quyền biểu đạt suy nghĩ của mình một cách tự do....Tôi, một người viết văn, ngưỡng mộ đạo Phật và các đấng sáng tạo ra tôn giáo này theo cách thức riêng, ứng dụng các giáo lý cũng theo mục tiêu riêng, với một niềm tin riêng, một tình yêu riêng biệt, tôi tự thấy câu hỏi này là một trong những băn khoăn cốt lõi của nhân sinh, trước hết của những ai đang đứng chơ vơ giữa một bùng-binh, nơi giao thoa các ngả đường của các tôn giáo lớn.

Câu hỏi này không nảy sinh một cách ngẫu nhiên. Nó là hệ quả của một thời gian suy ngẫm trước các hiện tượng tôn giáo khác. Từ năm 1994, khi bắt gặp ngày hội “Bánh Mới” trên đất Pháp, tôi đã tự đặt ra một nghi vấn ảm đạm trước khái niệm: Niềm tin. Những ai có chung nghiệm sinh này ắt hẳn hiểu được tâm trạng hoang mang, bấn loạn của tôi khi thấy những người cùng thờ chung Đức Chúa có thể tiến hành một cuộc chiến tranh tàn khốc đến như thế, một hình thức nội chiến trong thế giới những người có đức tin.

Trước mắt chúng ta, hiển nhiên là cuộc sống của những người theo đạo Tin Lành thời đó không dễ dàng. Những kẻ bị dồn lên núi cao, sống trong những pháo đài hơn là những ngôi nhà với các bức tường dày một thước, cửa sổ hẹp chỉ vừa đủ để chĩa súng bắn trả đối phương, quanh năm ăn bánh mì khô vì các lò bánh mì không thể hoạt động thường xuyên trước sự tấn công của những người Catholic.Vì lý do ấy, năm một lần, người ta tự chúc mừng nhau khi được hưởng một thứ hạnh phúc hiếm hoi: Ăn bánh mới! Chỉ căn cứ vào chi tiết này, với phương pháp liên tưởng, chúng ta có thể hình dung ra phần còn lại trong cuộc sống của dân Tin lành. Họ phải kéo dài cuộc sinh tồn trong chiến tranh liên miên, cuộc chiến tranh ấy kéo dài hàng thế kỉ.

Không hiểu rằng Đức Jesus ở trên các tầng trời thăm thẳm có thấu cho cuộc huynh đệ tương tàn này chăng? Hoặc ngài thiếu phương tiện để truyền đạt những ý tưởng của mình tới đám con chiên, hoặc ngài tự thấy bất lực trước họ? Hoặc những người Tin lành và Catholic chỉ mượn ngài làm cớ để biện minh cho lòng hiếu thắng và các tham vọng trần tục khác giấu mặt che hình sau niềm tin tôn giáo? Hoặc là ý chí độc tôn “Chúa của tao xịn hơn Chúa của mày” khiến hai giáo phái khác nhau quyết làm cho máu chảy đầu rơi nhằm áp đặt “phương thức cắt nghĩa và tôn vinh Chúa” của họ lên những người đồng loại?

Dù lý do nào chăng nữa người ta cũng nhìn thấy một cảnh tượng đau lòng diễn ra dưới bóng cờ tôn giáo. Rằng nếu Chúa răn dậy các con chiên rằng họ phải thương yêu những người đồng loại như thương yêu chính bản thân mình thì những lời giáo huấn của ngài đã bị gió cuốn bay và trên cõi nhân sinh, xung quanh các nhà thờ mà hình ảnh ngài bị đóng đinh câu rút được treo ở vị trí quan trọng nhất như Người cứu rỗi bất tử và vĩnh cửu, các cuộc chém giết vẫn xảy ra dưới cái nhìn buồn thảm của ngài. Ban ngày và ban đêm, các cuộc truy kích, bắt cóc, hãm hiếp, cướp bóc, phóng hoả đốt trang trại và rừng cây, giết ngựa, đầu độc cừu bò, v.v... tất thảy những hành động man rợ đó xảy ra giữa những con chiên của hai giáo phái. Tất cả đều Nhân danh Chúa lòng lành...

Để có cái nhìn rành rẽ và đầy đủ hơn về vấn đề này, tôi không cần liệt kê những cuộc chiến tranh tôn giáo mà các vị mũ cao áo dài ở thành Rome đã tiến hành trong lịch sử. Tôi cũng không muốn nhắc lại sự kiện Giáo hội đã tra khảo, hù doạ, kết án để buộc Galilée phải khuất phục. Cũng chính Giáo hội đã thiêu sống Bruno, người đồng thời với Galilée, chỉ vì con người can đảm này khẳng định trên mạng sống của ông rằng trái đất hình cầu... Những sự kiện quan trọng ấy luôn luôn là những ngọn đèn pha rọi sáng đêm đen lịch sử khi con người hiện đại nhìn lại phía sau lưng. Chúng cũng là những bằng chứng thuyết phục khiến nhân loại khẳng định và tiếp tục khẳng định lại giá trị căn bản của nhà nước thế tục (lạque). Bởi có quá nhiều đầu rơi và máy chảy, có quá nhiều cuộc chém giết si cuồng đã được chế tạo bởi cỗ máy khổng lồ vận hành theo nguyên lý: Niềm tin.

Cái gì là niềm tin?....

Khó thay cho ai muốn trả lời câu hỏi oái oăm này...

Tôi quay lại với một nhận xét của Phật tổ Như Lai: Thế giới hiện diện theo cảm thức của con người. Con người tin ở những điều họ muốn tin. Thế kỉ XX là thế kỉ rõ ràng nhất minh chứng cho lý thuyết đó. Một nửa nhân loại đi dưới bóng cờ Karl Marx, người Cứu rỗi vĩ đại mới. Lần này, thay vì cuộc tranh chấp giữa Tin Lành và Catholic , là cuộc chiến tranh giữa hai ý thức hệ trái chiều. Hành tinh chia đôi. Những hoạt động gián điệp và lật đổ xuyên lục địa thay cho các cuộc đầu độc gia súc hoặc cướp phá. Vũ khí nguyên tử được sử dụng như phương tiện hăm doạ hiệu lực nhất thay cho giàn hoả thiêu của Giáo hội La mã thời xưa. Người ta không thể chọn vị thế trung dung trong cuộc Chiến tranh lạnh vĩ đại nhất lịch sử nhân loại, hoặc ở bên này hoặc ở bên kia, muốn hay không họ cũng buộc phải gia nhập cuộc chiến tàn khốc đó. Sau rốt, khi ông thánh rậm râu Karl Marx ngã ngựa cùng lúc bức tường Berlin sụp đổ, các nhà thống kê học có thể hoàn thành bản liệt kê vô tiền khoáng hậu: Số người bị tàn sát trong các trại tù Staline và quần đảo Goulag nhiều hơn tổng số người toàn thế giới chết trong đại chiến II. Riêng Trung Hoa, số người chết trong cuộc Cách mạng văn hoá lên đến gần bốn mươi triệu. Việt nam, tiểu quốc được dùng làm bình phong thịt cho hệ thống ưu việt Xã hội chủ nghĩa, đã tự nguyện nướng một chục triệu dân con của mình trong cuộc đối đầu với Đế quốc Mỹ, để làm vui lòng các đấng đàn anh, và để được vinh danh: Tiền đồn của chủ nghĩa cộng sản...

Bởi những trải nghiệm đau đớn và những mất mát trong tuổi thanh xuân của chính mình, tôi buộc phải nhìn cho rõ tấn kịch bi thảm của dân tộc Việt trộn lẫn trong tấn bi kịch chung nhân loại. Khi người ta nhân danh một Niềm tin, người ta không dừng tay trước bất cứ hành vi tàn nhẫn nào, người ta có thể chế tác mọi loại hình tội ác dưới ánh sáng huyền ảo của đền đài, nơi thờ phụng những ông thánh có da có thịt (như Karl Marx) hoặc các đấng toàn năng siêu hình. Nếu ông thánh vô hình hài, nhân diện của ông ta sẽ được chính các môn đồ sáng tạo. Theo nguyên lý chung, mọi tạo phẩm của nhân loại đều phản chiếu gương mặt lẫn tâm hồn của chính bản thân họ. Nếu ông thánh ấy có da có thịt, người ta sẽ cố quên đi phần người của ông để siêu phàm hoá phần giáo lý, bởi giáo lý là tiếng vang, là tấm gương phản chiếu những ước muốn thầm kín trong con tim họ. Đó là trường hợp đã xảy ra với Karl Marx. Tên tuổi ông thánh này được nối dài bởi tên tuổi những Lénine, Staline, Mao trạch đông, Hồ chí Minh... tuỳ theo sự khác biệt địa lý và những bức xúc của nòi giống. Chuỗi tên tuổi này, tới lượt chúng, được chế tác bởi muôn ngàn những nguỵ tạo, những lớp lang dối trá, những tấn tuồng lịch sử mà cho đến tận lúc này bóng tối dày đặc vẫn bao phủ hậu trường.

Chỉ cần lùi lại một quãng cách thời gian, chỉ cần suy ngẫm lại với đôi chút tinh thần khách quan những gì đã xẩy ra trong thế kỉ XX, chúng ta có thể lật đi lật lại vấn đề xung quanh danh từ đầy huyễn hoặc và có tính chất dối lừa định mệnh: Niềm tin!

Nhưng tiếc thay, điều đó có vẻ như quá khó khăn đối với đám đông. Nhu cầu có một niềm tin luôn luôn mạnh hơn tất thảy những nhu cầu khác trong kiếp người. Sức mạnh này, đôi khi dẫn đến sự đánh mất mình, sự u mê không thể cắt nghĩa, sự độc ác vô lý do... nói cách khác, một sự tàn hoại đạo đức vô ý thức vô trách nhiệm bởi nó được biện minh bởi niềm vui: Nhân danh Thượng đế! Để minh chứng cho Sự hoan hỉ tội lỗi này, tôi xin quay trở lại một sự kiện đã xảy ra trên đất Ấn Độ, một quốc gia lớn, dân chủ, phát triển mạnh sau ngày thoát khỏi chế độ thuộc địa Anh. Người ta cho rằng Ấn Độ là một cường quốc khả thể cạnh tranh với phương Tây cũng như với Trung quốc ngày nay.

Vào tháng 2 năm 2002, những người cuồng tín Hindou đã hãm hiếp và giết hàng nghìn người Muslim. Tổ chức quốc tế ONG (Internation initiative for Justice in Gujarat) đã liệt kê khoảng 2000 người chết. Tổ chức này, bất chấp những cản trở của chính quyền đương thời ở Gujarat đã gặp gỡ 180 người đàn bà và 136 người đàn ông theo đạo Hồi, trong bảy khu vực khác nhau, để có thể nhận biết được một cách thực sự những gì đã xảy ra trên một xứ sở được coi là văn minh và dân chủ.

Nhân loại kinh hoàng khi được biết rằng hàng nghìn người đàn bà Muslim đã bị hãm hiếp với phương thức thú vật không thể diễn tả bằng lời, các bộ phận sinh dục của họ bị cắt xẻo bằng các dụng cụ thô sơ nhất và với cách thức tàn độc chưa từng nghe thấy trong lịch sử nhân loại, rằng những đứa bé vừa sinh ra và những đứa trẻ khác buộc phải chứng kiến những màn hãm hiếp, tra tấn man rợ ấy và sau đó, đa phần những đứa bé ấy bị giết ngay trước mắt cha mẹ chúng. Trong lúc thực thi loại sân khấu bẩn thỉu khủng khiếp này, những người Hindou nhân danh “Một Thượng đế toàn năng – Au nom de Dieu tout-puisant”, và họ nhấn từng lời vào tai các nạn nhân: “Cút về Pakistan, vì cớ gì chúng mày ở trên đất của người Hindou?”. Tổ chức ONG cũng cho biết thêm: Vị thủ tướng Narendra Modi chính là kẻ kích động và bao che những người Hindou cực đoan, chính quyền của ông ta đã gây ra mọi ngăn trở cho các tổ chức quốc tế khi tiến hành điều tra tội ác này, trơ trẽn yêu cầu các nhà báo hãy quên đi và nhắm mắt lại....

Nhân danh một Thượng đế toàn năng để xẻo vú và băm nát cửa mình những người đàn bà?

Nhân danh Tính ưu việt và sự thiêng liêng của một Thượng đế để ném những đứa bé vào lửa hoặc bắt chúng phải chứng kiến những màn hãm hiếp tra tấn rùng rợn như vậy?

Có lẽ mọi trí tưởng tượng đều thua xa hiện thực. Và sự tàn khốc của cuộc sống luôn luôn vượt qua khả năng của các nhà văn. Trong trường hợp này, những người Mulsuman, một thiểu số phải chịu đựng sự đàn áp của một đa số Hindou. Luật pháp quay lưng đi đối với họ. Thượng đế, nếu có thật, không mỉm cười với kẻ yếu! Đáng buồn thay!

Tuy nhiên, không phải tất thảy những người Musulman đều có chung thân phận với các nạn nhân ở Gujarat. Cùng thời điểm đó, những người anh em Musulman của họ trên hành tinh cũng gây ra không biết bao nhiêu cuộc chiến tranh, không biết bao nhiêu cuộc khủng bố, không biết bao nhiêu cuộc tra tấn tàn khốc và man rợ, những hành vi không thể diễn tả được bằng lời, mà nạn nhân là những kẻ ngoại đạo: Những kẻ ngoại đạo, phải giết chúng đi! Với chỉ thị này, mọi thứ tội ác đều được biện minh bởi quà tặng của Thánh Allah. Mọi hành vi man rợ nhất đều được phép bởi con người mong chờ những đền bù xứng đáng, những phần thưởng hậu hĩ trên thiên đường. Như thế, con đường dẫn đến nơi ấy quả là không sạch sẽ.
Trong một cuộc điều tra do tổ chức Pew Global Atitudes Projectthực hiện năm 2002, 91% dân Nigéria và 76% dân Bangladesh mong muốn sự tham dự của các quan chức tôn giáo trong quyền lực chính trị. Cũng vậy, một cuộc điều tra khác năm 2004 cho biết tuyệt đại đa số hoặc một đa số tương đối người Marocains, Saoudiens, Jordaniens, Emirats arabes coi Islam như yếu tố đầu tiên trong nhân cách của họ. Nói một cách thành thực, những con số này quả là đáng lo ngại cho nền hoà bình của hành tinh. Quyền lực tôn giáo là thứ quyền lực vượt ra mọi khuôn khổ lý trí. Điều này đã được lịch sử chứng minh. Đa số những cuộc nội chiến ở phương tây đều bắt nguồn bởi nguyên nhân tôn giáo. Sự thiếu vắng một quyền lực tuyệt đối trong thế giới tâm linh của những người theo đạo Islam đã dẫn đến 34 cuộc nội chiến (trong số 42 cuộc nội chiến xảy ra trên toàn cầu kể từ năm 1940 – tài liệu của Courrier international- Hors série-avril-mai 2007). Trong số 34 cuộc chiến tranh này, có 9 cuộc chiến tranh ngay giữa những “Anh em Musulman”, những người cùng đứng dưới bóng cờ của Thánh Allah, cùng coi kinh Coran như bảng chỉ dẫn sinh tồn duy nhất. Khi đọc những con số này, tôi liên tưởng tới những năm đã lùi xa, những năm mà nửa phần nhân loại phất cao ngọn cờ hồng, bước lên đường thánh chiến vì chủ nghĩa Marx. Tôi hình dung lại cái nửa phần nhân loại mà tôi đã từng hiện diện ở trong đó, hiện diện một cách bắt buộc, bởi sinh ra trong một xứ nghèo nàn, bị nguyền rủa và đày đoạ. Tôi rùng mình khi nghĩ đến Niềm tin. Liệu có ích gì khi những niềm tin dẫn con người bước thẳng xuống địa ngục? Phải chăng, định mệnh con người là lầm tưởng, và mọi niềm tin chẳng qua chỉ là thứ trang sức đẹp đẽ để nguỵ tạo những gì người ta đòi hỏi cho chính bản thân họ, một thứ lợi ích hoặc vật chất hoặc tinh thần, hoặc cầm nắm đo đếm được tức khắc như những thoi vàng hay những xếp tiền hoặc được hứa hẹn bù trả vào một ngày nào đó trong tương lai? Cuối cùng, căn do của mọi niềm tin đều tựa trên hai yếu tố: Cung và Cầu. Nhân loại cầu xin, và Thượng đế hứa sẽ cung cấp cho họ thứ mà họ cần, với điều kiện là...

Đây mới là vấn đề cốt lõi: VỚI ĐIỀU KIỆN....

Thượng đế vô hình hài. Thánh thần ẩn hiện trong mây mù hoặc sương núi. Không ai nhìn rõ các vị ấy. Không ai có thể nghe rõ lời họ. Còn các điều kiện cụ thể lại được các quan chức trong các bộ máy tôn giáo quy định. Quyền lực trung gian này xô đẩy nhân loại vào bất cứ ngả đường nào họ muốn. Đó là kịch bản cổ xưa. Đó cũng vẫn là kịch bản bây giờ. Chỉ nhìn vào những cuộc tàn sát liên miên giữa người Chiites và người Sunnites ở Irak là đủ hiểu.

xxx

Bây giờ, trở lại với vấn đề của chúng ta: Nhân danh Đức Thế Tôn, chúng ta có thể làm được những gì?...

Dường như quá đỗi khó khăn để mà so sánh.

Bởi nếu như coi tôn giáo là một sức mạnh siêu tuyệt chinh phục con người, có thể điều khiển con người một cách vô điều kiện thì đạo Phật chắc chắn sẽ đứng bên lề của sự thông tục ấy. Bao nhiêu năm đã qua, nhưng những người theo phái Tiểu thừa không thể cầm gươm đao chống lại phái Đại thừa, bởi Như Lai cấm sát sinh. Cùng một nguyên lý, những người theo phái Mật Tông không thể chỉ trích hay bài bác phái Thiền Tông vì giáo lý nhà Phật coi Ngã mạn là một trong những duyên cớ gây ra đau khổ cho bản thân con người cũng như đồng loại, cần phải tiêu diệt. Có thể coi chính Như Lai là tấm gương triệt để về sự loại bỏ Ngã mạn này. Ngài không bao giờ đề cập đến một Thượng đế toàn năng siêu hình, hoặc sự Sáng thế. Ngài từ chối tự xưng là bậc Lãnh đạo tâm linh và chỉ định người nối ngôi sau khi qua đời cho dù có muôn vàn đệ tử. Ngài cũng không bao giờ yêu cầu các Phật tử phải giữ lòng “Trung thành với đấng bề trên – allégeance” của mình, điều mà các tôn giáo khác coi như điều kiện tiên quyết. Đức Thế Tôn cương quyết chống lại sự tư biện siêu hình về tâm linh con người cũng như về thế giới. Phải chăng ngài đã lường trước những tai hoạ có thể xảy ra khi con người nhân danh một vị thần vô hình vô diện để thực thi tất thảy những dục vọng thế tục ; cái thực tế buồn thảm suốt hai ngàn năm qua đã được chứng nghiệm trên hành tinh?

Như thế, chúng ta chẳng thể nhân danh Đức Thế tôn để hành hạ những người khác, để hãm hiếp họ, tàn sát họ... tóm lại, để thoả mãn cái bản năng hiếu chiến, thứ bản năng xa xưa từ thời hồng hoang đã tồn tại trong chúng ta và là kẻ đồng hành tiềm ẩn có thể thức dậy bất cứ lúc nào một khi chúng ta lơ là cảnh giác.
Như thế, chúng ta cũng không thể nhân danh Đức Thế Tôn để thực thi cuộc ganh đua với các tôn giáo khác, để chứng tỏ tính ưu việt của đạo Phật, và qua sự tranh giành thắng bại ấy, thoả mãn cái Ngã mạn của chính bản thân mỗi chúng ta, bởi chúng ta thuộc về một “Tôn giáo xịn, một tôn giáo vượt bực...”. Bởi vì, mọi sự ganh đua đều xuất phát từ Ngã mạn hoặc Đố kị. Và Đố kị, theo giáo lý nhà Phật cũng là một trong các nguồn gốc gây đau khổ cho con người, cần loại bỏ.

Tóm lại, chúng ta chẳng thể nhân danh Như Lai để làm điều gì tổn hại đến tha nhân. Ngược lại, ngài yêu cầu chúng ta quay lại nhìn vào chính mình, nhìn một cách kiên trì, bình tĩnh, dùng phép thiền định để trợ giúp, nhìn một cách chăm chú, tận tâm tận lực cho đến thời khắc thấu hiểu thân phận của chính mình: Con người thường xuyên là tù nhân của các ảo giác. Con người là nạn nhân của mọi sự lầm tưởng. Thế giới vây quanh họ cũng như bản thân họ chỉ là những vật thể mong manh, quay đảo không ngừng, biến đổi vô hạn độ. Phía sau ngoại diện của những vật thể tưởng chừng như chắc chắn, vĩnh cửu chỉ là sự lắp ghép các hình bóng và tất thảy đều có thể tan rã trong giây phút như các quân bài trong trò chơi puzzle.

Đức Thế Tôn cũng dạy rằng nếu cần so sánh, chúng ta có thể tự ví như con ruồi khốn khổ mắc trong tấm lưới dục vọng, chúng ta giãy dụa trong bể tình ái, kiêu mạn, thù hận hay ghen tị. Những xúc cảm của chúng ta vô hình vô ảnh nhưng chúng nghiền nát chúng ta như tấm bê-tông của cỗ xe lăn nghiền nát những viên cuội nhỏ trên mặt đường. Rằng thế giới vật chất bao quanh con người cũng như con người tồn tại trong một dòng chảy triền miên, trong sự phụ thuộc ràng rịt lẫn nhau và trong sự đổi thay không ngưng nghỉ. Rằng con đường dẫn đến sự giải thoát (au détachement suprême – nirvana) của mỗi cá nhân phải do chính họ chọn lựa và thực thi, nhưng không ngoài nguyên tắc tự giải phóng khỏi những thứ cảm xúc và ý nghĩ tiêu cực như lòng tham, sự thù ghét và những ước vọng lừa dối. Một khi chúng ta thoát khỏi những cảm xúc tiêu cực ấy, chúng ta cũng thoát khỏi sự thất vọng, sự sợ hãi, sự hờn oán, sự buồn tủi... tất thảy những chiều kích của khổ đau.

xxx

Để kết luận cho bài viết này, tôi cần nhắc lại rằng tôi không phải một Phật tử theo nghĩa cổ truyền hay chính thức. Tôi là người tranh đấu cho nền dân chủ của dân tộc. Tôi không từ bỏ mục đích ấy. Tôi không nương thân trong cửa chùa và không làm công việc tuyên truyền cho đạo Phật. Nhưng trên tư cách một nhà văn, tôi trình bày, cố gắng trình bày một cách khách quan nhất những gì quan sát được. (Cần phải cố gắng vì một khi yêu đạo Phật, tôi sẽ dễ dàng sa chân vào sự kì thị các đạo khác, có cái nhìn thiên lệch với các tôn giáo khác. Con người luôn luôn là kẻ thù của chính mình. Tôi tự nhắc để không quên nguyên lý đó !).

Điều lạ lùng là hơn một thập kỉ qua, dấn thân trong cuộc đấu tranh, tôi đã nương nhờ giáo lý nhà Phật để tự cứu mình, để có đủ sức mạnh bước trên con đường gai góc, để không ngã gục vì khiếp sợ hay cô đơn. Nói một cách chân thành, tôi là người chịu ơn Đức Thế Tôn cũng như các tông đồ của ngài cho dù tôi đi chệch khỏi con đường chính thống. Đức Phật dạy thiền chứ không khích lệ con người tranh đấu. Tôi luôn luôn là con người tranh đấu, nhưng tâm hồn tôi nương dưới bóng cây cờ phướn nhà chùa.

Cũng trên con đường tranh đấu ấy, tôi hiểu rằng Đức Thế Tôn chính là Người Đau khổ, một trong những người đau khổ nhất của lịch sử nhân loại. Đau khổ, không chỉ vì những khó khăn trên đường tìm chân lý, ví như giai đoạn tu khổ hạnh, khi ngài ở trần và chỉ ăn một lần mỗi tuần lễ, không cạo râu và không tắm, ngủ trong các nghĩa trang, nằm trên các bộ xương khô khiến thân thể queo quắt suy nhược, những đứa bé chăn bò nhổ lên mặt ngài, đái lên thân ngài, đẩy ngài ngã xuống đất và ngoáy các cọng cỏ cứng vào lỗ tai ngài...

Không! Không! Không! Tôi không đánh giá quá cao những đau đớn thân xác. Nhưng tôi tin rằng sức tàn phá ghê gớm nhất thuộc về những đau khổ tinh thần. Những giằng co, xung đột của suy tưởng, cuộc chiến không ngưng nghỉ của các ngờ vực, băn khoăn, day dứt. Các dòng ý nghĩ tuôn chảy như nước lũ, bốc cháy như lửa, xé rách óc não với thứ răng nhọn của loài sói... Những luồng suy tưởng ấy hành hạ ngài. Thứ đau đớn bất khả diễn đạt. Đức phật Như Lai, trong hành trình tìm đường cứu nhân loại thoát khỏi nỗi đau khổ, chắc chắn đã phải chịu muôn lần nỗi đau khổ ấy. Ngài là một trong những người đau khổ vĩ đại nhất của hành tinh. Thứ đau khổ siêu việt. Đau khổ vì nỗi đau của người khác!

xxx

Từ ngày sống trên đất Pháp, không biết bao lần tôi nghe nói câu này: “Ồ, đạo Phật hay ho thật nhưng đó không phải là tôn giáo. Nó chẳng mang lại những ích lợi cụ thể... Phải chăng đó là một thứ triết lý sống hoặc đạo đức?”

Triết lý hay đạo đức học? Quan trọng chi? Biên giới giữa các danh từ thường nhù nhoà bất khả phân định. Các danh từ không giống như những khu vườn trồng xoài hay trồng táo để chúng ta có thể dùng cột gỗ hay dây thép gai mà chia cắt rạch ròi. Một hệ thống tư tưởng, dù dưới hình thức nào cũng có sức mạnh trợ giúp con người nếu nó thực sự là nguồn sáng.

Có thể vào một ngày nào đó, có người sẽ nói với các bạn như họ đã từng nói với tôi: “Nếu đạo Phật là một tôn giáo, tôn giáo của các vị thuộc về thiểu số”.

Vâng, quả thực số tín đồ của đạo Phật chỉ là một thiểu số so với tín đồ các đạo khác. Theo thống kê gần nhất, số tín đồ Catholic chiếm 17% dân số hành tinh, Hindu là 13,3%, trong khi tín đồ đạo Phật chỉ là 5,9 %.

Nhưng nếu lấy số lượng để cân đong, đo đếm, tôi xin phép được đặt lại một câu hỏi: “Vào những năm đen tối của cuộc đại chiến II, khi nước Pháp bị quân Hitler xâm chiếm, một bộ phận người Pháp đã lập chiến khu kháng cự lại phát-xít, gương mặt tiêu biểu của những người trung kiên yêu nước này là tướng Charles de Gaulle. Vậy những người kháng chiến Pháp cộng với tướng De Gaulle chiếm thiểu số hay tuyệt đại đa số trên tổng số dân Pháp, nếu đơn thuần thực hiện phép thống kê?”

Không, tôi không ca ngợi đạo Phật để tìm vinh danh vì “bấu vào một tôn giáo xịn”, nhưng tôi hiểu căn nguyên khi những cái đầu vĩ đại của phương Tây như Nietsche, Schopenhaueur, Spinoza... quay nhìn Buddha với sự ngưỡng mộ. Tôi cũng không tin rằng vì buột miệng, vì một phút bốc đồng bất khả kiểm soát mà Albert Einstein tuyên bố rằng:

“Nếu có một tôn giáo xứng đáng với thế kỉ XXI, tôn giáo ấy là đạo Phật”.

Paris, ngày 21/05/2007
(Trích đăng lại từ DCVOnline)


viethoaiphuong
#26 Posted : Tuesday, January 22, 2008 5:05:43 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
xóa bài
viethoaiphuong
#27 Posted : Friday, March 14, 2008 5:40:40 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
xóa bài
viethoaiphuong
#28 Posted : Thursday, June 5, 2008 6:51:24 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
xóa bài
PC
#29 Posted : Thursday, December 11, 2008 5:04:51 PM(UTC)
PC

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 5,668
Points: 25
Woman

Was thanked: 4 time(s) in 4 post(s)
Ra mắt tiểu thuyết của Dương Thu Hương

Christine Nguyễn
Gửi đến BBC từ Paris







Tác phẩm mới của nhà văn Dương Thu Hương với nhân vật chính là Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa được giới thiệu trong buổi họp báo tại Paris trước khi phát hành vào đầu 2009.
Được xuất bản bằng tiếng Pháp với gần 800 trang, 'Đỉnh cao chói lọi' mang tựa là Au Zénith do Đặng Trần Phương, một Việt kiều Pháp dịch và sẽ được phát hành vào tháng 01/2009.

Trong họp báo 8/12 do nhà xuất bản Sabine Wespieser và Le Livre de Poche tổ chức tại Centre National du Livre ở Paris, Dương Thu Hương nói cái chết của nghệ sĩ Lưu Quang Vũ thúc đẩy bà viết cuốn tiểu thuyết này.

Au Zénith được kết cấu theo hình thức poupée Nga gồm 6 chương, trong đó có chương 2 “Le village des bucherons” và chương 4 “Le compatriote inconnu” vừa mang tính độc lập tách rời vừa là một thành tố tạo nên tác phẩm.

Đỉnh cao và đời thường

Nhân vật chính của tiểu thuyết này là Chủ tịch, với nhiều nét giống ông Hồ Chí Minh trong các chuyện “đời thường” nhưng vẫn là đề tài cấm kỵ ở Việt Nam.

Bản tiếng Việt 'Đỉnh Cao Chói Lọi' cũng đã được lưu truyền trong giới quan tâm.

Hồ Chí Minh trong 'Au Zénith' của bà Dương Thu Hương được miêu tả như một người mất quyền lực vào những năm cuối đời, và bị khống chế bởi các nhân vật gợi lại hình ảnh hai ông Lê Đức Thọ và Lê Duẩn.

Nhân vật 'Chủ tịch' đã trải qua những giây phút khắc khoải nhớ người vợ tên Xuân và hai con Trung, Nghĩa, mong mỏi được sống một cuộc sống bình thường nhưng không thể tách khỏi bóng ma của quyền lực luôn đeo bám.

Dành 10 năm để hoàn thành tác phẩm, Dương Thu Hương ghi trong 'Au Zénith' lời đề “Pour Luu Quang Vu et tous les innocents qui sont morts dans ce silence noir” -'Tặng Lưu Quang Vũ và những nạn nhân vô tội bị chết trong sự im lặng đen tối'.

Tại buổi họp báo, tác giả cũng đã kể lại lý do viết tác phẩm, kể lại những hiện tượng bà ghi nhận được trước cái chết của nghệ sĩ Lưu Quang Vũ và vợ con.

Nhân chứng lịch sử



Tôi viết để trả thù cho Lưu Quang Vũ.




Dương Thu Hương đã phải sang Pháp để yên ổn hoàn thành 'Au Zénith', và tác phẩm này chỉ được bà và nhà xuất bản Sabine Wespieser công bố sau khi đã hoàn tất khâu in ấn.

Tác giả sẽ không giữ bản quyền phiên bản tiếng Việt và phiên bản này sẽ được phát hành trên mạng Internet.

Trong buổi họp báo, tác giả cũng đã cho công bố một số ít tư liệu gồm có cả một vài thư từ trao đổi với những nhân chứng lịch sử có liên quan đến tác phẩm.

Bên cạnh đó, bà cũng đưa ra chứng cứ bác bỏ thuyết rằng ông Hồ Chí Minh đã "bán đứng nhà chí sĩ Phan Bội Châu cho thực dân Pháp" là không có cơ sở.

Được biết có những người chống lại kế hoạch vinh danh ông Hồ tại UNESCO như một danh nhân nhân 100 năm ngày sinh của ông ta, gồm nhà báo Olivier Todd hồi năm 1990.

Tại buổi họp báo, Dương Thu Hương đã nêu ra vấn đề này và nói rằng “ông Olivier Todd đang còn sống, ông này phải đưa ra chứng cứ, nếu không ông ta là kẻ xuyên tạc lịch sử”.

Bà nhận định: “lời lẽ của ông ta cũng giết người như súng đạn, không phải giết một con người đang sống mà là phá huỷ nhân cách một người đã chết, tức là người hoàn toàn không còn khả năng tự bảo vệ”.

Dương Thu Hương khẳng định rằng không chấp nhận việc bôi nhọ và sỉ nhục nhân vật Hồ Chí Minh, gán tất cả mọi điều xấu xa lên đầu ông ấy mà hoàn toàn không tìm hiểu hoàn cảnh lịch sử cũng như sự thật về cuộc đời riêng.

“Sử dụng biện pháp “cứu cánh biện minh cho phương tiện” là không chấp nhận được”, bà nói, “ và dù kết quả có lớn đến đâu cũng sẽ là một thứ boomerang.

Những lời lẽ này của bà Dương Thu Hương đã làm cho không khí họp báo trở nên căng thẳng.

Đã có nhiều tờ báo Pháp như Elle, Le Point, l’Express, nhà xuất bản CNL đến tham dự buổi họp báo.


Phượng Các
#30 Posted : Sunday, July 5, 2015 6:00:27 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,704
Points: 20,055
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
Cuộc trò chuyện với nhà văn Dương Thu Hương tại thư viện New York



http://www.rfa.org/vietn...rary_GMinh-20060503.html
Users browsing this topic
Guest
2 Pages<12
Forum Jump  
You cannot post new topics in this forum.
You cannot reply to topics in this forum.
You cannot delete your posts in this forum.
You cannot edit your posts in this forum.
You cannot create polls in this forum.
You cannot vote in polls in this forum.