Rank: Advanced Member
Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC) Posts: 18,432 Points: 19,233 Location: Golden State, USA Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
|
Phần I: Cuộc đời ly kỳ.
Chương 1: Sanh trong đạo Phật.
"Nào có gì đáng bám níu trên thế gian."
Nani Bala Barua sanh ngày 25 tháng Ba năm 1921, tại một làng thuộc miền Ðông xứ Bengal, gần biên giới Miến điện. Vùng Chittagong có đặc điểm là hoà hợp các truyền thống tôn giáo, tín đồ Ấn giáo, Hồi giáo và Phật giáo chung sống hài hoà bên nhau. Nền văn hóa Phật giáo tại điạ phương nầy có lẽ là di sản còn sót lại từ thời Ðức Phật chưa bị đứt khoảng.
Gia đình của Nani thuộc thị tộc Barua, dòng dõi của những người theo đạo Phật nguyên thuỷ từ Ấn độ. Mặc dầu việc thực tập thiền định đã gần như hoàn toàn phai nhạt ở đây vào thời Nani ra đời, nhưng còn một số gia đình vẫn tiếp tục tuân hành các nghi thức và tập tục Phật giáo; trong số đó có gia đình của Nani, mà người cha là Purnachandra, và mẹ là Prasana Kumari.
Chị cả trong sáu người con trong nhà, Nani rất thân thiện với các anh chị em trong gia quyến và là đứa con được quí mến nhứt trong đại gia đình. Nani và mẹ, cả hai đều tác thấp và nước da mơn mởn, mẹ và con quấn quít cùng nhau thật khắng khít. Nani nhớ lại, mẹ rất âu yếm và trầm lặng, còn cha là một người đàn ông rất nguyên tắc chưa hề chịu nhường bước trước một điều nào mà ông nghĩ rằng sai. Mặc dầu trước thái độ nghiêm khắc của cha, Nani đối với cha cũng có lòng thật trìu mến.
Truyền thống đàn na (bố thí) thường được tuân hành trong gia đình của Nani; cha mẹ Nani thường hiến tặng thực phẩm cho tu sĩ Phật giáo, Bà la môn giáo, và cho tất cả những ai đi khất thực. Chính nhờ nơi hạnh nầy của cha mẹ mà cô gái trẻ Nani đã học được ý nghĩa của sự bố thí: khi đem cho, chẳng nên phân biệt; nên cho khắp mọi người.
Ở tuổi thơ ấu, Nani đã tỏ lòng tôn sùng các nghi thức Phật giáo. Nani thường thích đi chùa và cúng dường chư Tăng. Mặc dầu trẻ con phải đứng nép xa khi có các vị khất sĩ đi qua, nhưng vì lòng quá mộ đạo, Nani được phép dâng thực phẩm lên tu sĩ, rửa chơn quí thầy và đến ngồi gần bên cạnh khi các vị ấy thọ thực.
Nani thích ở một mình, ít khi nô đùa với các trẻ khác. Nani thường chơi với búp bế, nhưng lại say mê việc tạo tượng Ðức Phật. Trong khi trẻ gái Ấn độ lo giả bộ nấu nướng, Nani lại nương theo trí tưởng tượng mà tạo thực phẩm, hoa quả cúng Phật, lau dọn bàn thờ, và quì lạy theo các lễ nghi tôn giáo. Gia đình Barua ở gần hồ nước, ở bên kia bờ lại có một ngôi chùa màu sắc sáng chói mà Nani thường đến viếng thăm hiến cúng. Nani nhớ lại rằng lòng mộ đạo đó đã đến với mình một cách tự nhiên, chớ chẳng hề do sự thúc dục của mẹ cha.
Chẳng những không thích nấu nướng, Nani lại còn ít ăn nữa. Ðã biết bao lần mẹ của Nani dỗ dành Nani ngồi lại để ăn uống trong một bữa cơm thường ngày. Nani trái lại, chỉ muốn dùng một trái cây hay một chiếc bánh bích quy thôi. Nani thường hỏi mẹ: "Mẹ có đói bụng không? Ðói thì ra làm sao, hở mẹ?"
Ngược lại, Nani thèm khát về hiểu biết thật là chẳng có bờ bến. Mặc dầu phong tục trong làng chẳng gởi con gái đến trường học tập, nhưng với Nani chẳng có gì cầm giữ lại được. Ngay cả khi đau yếu, được dặn phải ở nhà hôm đó, Nani vẫn lẽn trốn đến lớp học. Chiều chiều, Nani ngồi bên bàn với cha, nhờ cha chỉ dạy thêm các bài vở trong trường, trong khi các đứa trẻ khác chẳng buồn mang sách về nhà. Vào thời đó ở Ấn độ, tuổi thiếu niên của các cô gái được chấm dứt rất sớm. Những em may mắn được đến trường cũng chẳng được phép tiếp tục học sau lớp năm. Theo đúng tập tục thời đó, Nani phải lấy chồng khi vừa có kinh nguyệt lần đầu. Thế nên, vừa lên mười hai, Nani đã bị kéo ra khỏi lớp học và được kết hôn với một người đàn ông tuổi đã hai mươi lăm. Vị hôn phu của Nani là Rajani Ranjan Barua, kỹ sư, ngụ tại làng Silghata gần bên. Ðúng theo phong tục, sau lễ cưới, Nani liền đưa ngay sang nhà chồng, để sống với gia đình bên chồng. Nani nhớ nhung cha mẹ vô vàn. Lại còn thảm thương hơn nữa, người chồng lại rời sang bên Miến điện làm việc. Nani sống trơ trọi một mình nơi gia đình chồng với những người khó tánh mà Nani ngán sợ. Ðôi khi được trở về thăm cha mẹ, nhưng người bên chồng đã vội quay sang bắt lại.
Sau hai năm buồn bã, vừa lên mười bốn, Nani được đưa xuống thuyền đi sang Rangoon (nay là Yangon, thủ đô của Miến điện), để bắt đầu cuộc sốngtạimột nước mới, với người chồng, chỉ được quen biết nhau chẳng quá một tuần lễ. Vừa bước ra khỏi thuyền, người con gái quê mùa nhút nhát đã bàng hoàng trước khung cảnh mới chung quanh. Rangoon là một đô thị ồn ào, xa lạ với biển người mặt mũi chưa hề quen thân, với một ngôn ngữ mà Nani chẳng thể nào hiểu được. Buổi đầu, Nani cảm thấy hết sức bơ vơ, luôn khóc nhớ đến quê hương và gia đình.
Cuộc sống lứa đôi cũng có nhiều thử thách. Mặc dầu Nani được mẹ và các cô dì chỉ dạy cho rất tận tình tỉ mỉ công việc nội trợ, nhưng chẳng ai nói tiếng nào về vấn đề tình dục. Ðược chồng, chính là người thứ nhứt đã nói về vấn đề ấy với mình, phản ứng của Nani là cảm thấy xúc động mạnh, bối rối và hết mực thẹn thùng. Trong năm đầu chung chăn gối, Nani rất khiếp sợ chồng. Cùng thời gian đó, Rajani lúc nào cũng tỏ ra ân cần mềm mỏng và săn sóc đến vợ, chẳng bao giờ ép vợ theo ý dục của mình. Rồi từ từ, niềm tín cẩn được nẩy nở giữa hai người, Nani bấy giờ xem chồng như là một người hiếm có. Cùng với năm tháng trôi qua, cả hai cảm thấy yêu nhau tha thiết. Vào những năm về sau, Nani thường nói mình đã kính trọng Rajani như một vị thầy đầu tiên của mình.
Tình nghĩa đầm ấm của đôi vợ chồng, tuy nhiên, lại bị vẩn đục bởi một vấn đề cực kỳ đau khổ: sự kỳ vọng nơi người đàn bà Ấn độ, có được một đứa con, con trai càng quí, một năm sau khi lấy chồng, đúng theo phong tục bổn xứ; thế mà hết năm nầy sang năm nọ, Nani vẫn chưa có thai. Nani đi thăm nào bác sĩ, nào y sĩ, nhưng chẳng ai tìm ra được nguyên nhân của sự hiếm hoi chẳng sanh đẻ đó cả. Ðiều nầy khiến cho Nani cảm thấy tủi hổ và đau khổ. May thay, Rajani lúc nào cũng âu yếm, ân cần và nhẫn nại, chưa bao giờ thúc hối Nani hay phàn nàn sao chẳng sanh con.
Dẫu rằng Rajani chấp nhận việc chẳng có con cái, nhưng gia đình bên trong và các láng diềng bên ngoài, lại chẳng chịu như vậy. E rằng vì Nani mà tông đường chẳng người nối dõi, họ lấy cớ nhà có người bị bịnh, gạt gẫm Rajani phải về Chittagong để kịp thăm. Về đến nơi, Rajani được thông báo rằng có người vợ mới đang chờ chàng và mọi việc đã được dàn xếp để làm lễ cưới ngay. Rajani từ khước. Chàng bảo với các thân nhân: "Khi tôi kết hôn với Nani, tôi chẳng hề nói với nàng phải có con, bằng không tôi sẽ bỏ nàng. Ðó chẳng phải là một điều kiện trong hôn ước của chúng tôi. Thế nên cưới vợ khác là bất công, nên nay tôi chẳng thể nào lìa nàng được."
Rajani trở qua Miến điện và bảo Nani chớ có bao giờ lo lắng về việc phải có con nữa. Chàng gợi lên trong trí Nani, hãy đối xữ với mọi đứa trẻ mà nàng gặp được như là chính con mình sanh ra -- một lời khuyên quí báu mà Nani sẽ thực hiện được bằng nhiều cách rất đặc sắc những năm về sau nầy.
Vào năm mười tám tuổi, Nani hay tin mẹ đã từ trần một cách đột ngột. Dầu đã có điềm báo trước trong giấc mộng, Nani cũng rất bàng hoàng khi được tin buồn. Kể từ khi sang Miến điện, Nani chỉ về thăm mẹ có hai lần. Nỗi khổ tâm nầy vì mất mẹ vẫn còn ghi đậm nhiều năm trong tâm hồn của Nani. Rồi tiếp theo liền sau cái chết của mẹ, Nani bị bịnh thương hàn quật ngã. Bịnh tình lại được chẩn đoán sai, trị liệu lầm, khiến cho Nani phải nằm bịnh viện nhiều tháng.
Mẹ của Nani để lại một đứa bé trai mười tám tháng, tên là Bijoy. Người cha chẳng thể nào săn sóc chu đáo, nên đã hiến cho Nani và Rajani một cơ hội tốt được nuôi đứa em trai út như con ruột của mình và Bijoy liền được gởi sang Rangoon để sống với họ.
Nani và Rajani tham gia hoạt động rất tích cực trong cộng đồng Phật giáo. Ngoài việc giữ đúng năm giới của người tại gia -- chẳng sát sanh và làm tổn hại, chẳng lấy của không cho, chẳng tà dâm, chẳng nói dối, chẳng dùng các chất say -- họ còn đọc Kinh hằng ngày, bảo trợ hai cuộc lễ hằng năm của cộng đồng, dâng hiến thực phẩm cho các vị sư điạ phương đi khất thực. Họ còn được mọi người biết đến vì tấm lòng quảng đại, cấp học bổng cho trẻ con nhà nghèo và để cho những kẻ không nhà đến trú ngụ tại nơi họ ở. Ngay từ khi mới đến Rangoon, Nani đã mong muốn thiết tha được tập thiền. Mặc dầu các cô gái chẳng ai học thiền, nhưng Nani cứ nhiều lần xin phép Rajani được theo học. Mỗi lần Nani hỏi xin, Rajani đều đề nghị hãy đợi khi nào Nani đã lớn tuổi sẽ học, theo như tục lệ của người Ấn là phụ nữ gát việc học thiền lại mấy năm về sau, khi các phận sự của người nội trợ đã làm xong.
Mặc dầu chẳng nói được tiếng Miến điện,Naniđã tìmra được một phương cách học Phật pháp ngay tại quê hương mới nầy. Bất cứ lúc nào gặp được một cuốn sách đạo bằng tiếng Bengal, Naniliền đọc và tự học lấy một mình. Còn các sách khác, Nani nhờ đứa cháu trai mười ba tuổi, tên Sunil, dịch các bài Kinh căn bản Phật học từ tiếng Miến sang tiếng Bengal. Cău Sunil ngạc nhiên đến kinh dị nhận thấy sự chăm học và trí nhớ của Nani nhớ chẳng sót những gì mà cậu đã đọc cho nghe. (Các năm về sau, khi Nani trải qua các cuộc trắc nghiệm tâm lý, người ta thấy trí năng của bà vượt lên trên cả hàng nhơn tài).
Năm 1941, khi Nani được ba mươi tuổi, Miến điện bị quân đội Nhựt bổn tấn công và xâm chiếm. Bấy giờ là một thời kỳ lo âu, khan hiếm và khổ cực cho dân chúng. Ðến khi chiến tranh chấm dứt, Bijoy đã khôn lớn, trở về Ấn độ và lập gia đình riêng. Với ngôi nhà quạnh hiu và cha mẹ đều chết cả, Nina nghĩ: "Ðây là lúc nên học Thiền."
Rồi một phép mầu lại hiện đến, sau hai mươi năm chờ đợi, Nani khám phá ra mình mang thai. Vàotuồi ba mươi lăm, Nani sung sướng hân hoan sanh được một bé gái. Tuy nhiên, ba tháng sau, đứa bé bịnh nặng rồi chết. Tràn ngập chìm trong đau khổ, Nani vướng phải bịnh tim.
Bốn năm sau đó, phước lành lại đến với Nani, thọ thai lần nữa. Và chuyến nầy, cũng sanh gái, Nani đặt tên là Dipa. Và từ đó, Nani được gọi dưới biệt hiệu là Dipa Ma, hay là "Má của Dipa". Vì chữ Dipa có nghĩa là ánh sáng, nên cái tên mới của Nani cũng có nghĩa là Dipa Ma, Mẹ của Ánh sáng.
Dipa là một đứa bé khoẻ mạnh, vừa biết đi lẫm đẫm, thì mẹ lại có thai lần nữa; kỳ nầy được một "quí tử" hằng trọng vọng. Nhưng đứa bé vừa sanh ra đã chết, và điều vô phúc nầy đã khiến mối u sầu của Dipa Ma chẳng gì làm nguôi ngoai được. Trong cơn tuyệt vọng, Nani đòi hỏi được quyền học Thiền để làm nhẹ bớt nỗi đau lòng. Nhưng chồng bà, lại một lần, bảo rằng bà vẫn còn quá trẻ. Bà doạ sẽ trốn nhà ra đi, khiến cho Rajani và nhiều người láng diềng phải canh chừng bà luôn.
Nhưng sự canh pòng của họ chẳng còn cần thiết nữa. Bị chứng áp huyết cao, Dipa Ma trong nhiều năm, chẳng đủ sức để ra khỏi giường, nói chi là bỏ trốn. Trong thời gian nầy, bà hoàn toàn trông đợi cái chết đến bất cứ giờ phút nào. Chỉ có một mình mà Rajani phải săn sóc vợ, nuôi dạy con, vẫn tiếp tục làm việc trọn ngày với tư cách kỹ sư. Áp lực của hoàn cảnh đè nặng lên, làm tràn ngập Rajani. Một đêm trong năm 1957, ông đi làm về, than thở với vợ rằng mình đang đau bịnh. Vài giờ sau, ông chết vì cơn đau tim bộc phát.
|