Tác giả hc
Gởi: Fri May 07, 2004 3:52 pm
Huyền Trân công chúa và vương quốc Chiêm Thành
Ngô Kim Khôi
Công chúa Trần Huyền Trân ra lệnh dừng kiệu. Trên đỉnh đèo Hải Vân, gió mây lồng lộng. Nàng vén tấm màn gấm, nhìn ra xa, mây trắng vẫn hồn nhiên bay ngang qua lưng đèo... Lệ Liễu , người hầu thân tín, đưa Huyền Trân ra khỏi kiệu hoa. Gót sen bước xuống, dáng mai lả lướt, vóc liễu thướt tha.
Bóng chiều bảng lảng ánh tà.
Não nùng tự hỏi quê nhà nơi đâu ?
Công chúa dõi mắt nhìn về phương Bắc, cõi lòng bồi hồi, con tim thổn thức. Hỡi ôi, có ai thấu được nỗi lòng nàng !
Chiều chiều gió thổi Hải Vân,
Chim kêu gành đá gẫm thân em buồn .
Ngắm non nước bao la gấm vóc, Huyền Trân nhìn lại mảnh hồng nhan yếu ớt là nàng mà trên đôi vai đeo nặng trách nhiệm nặng nề với tổ quốc.
Ngoảnh lui cố quốc, ngập ngừng gót ngọc,
Mây phủ kín trời thương, ngơ ngẩn bâng khuâng.
Hoa đang độ thanh xuân, dập vùi, cứu nạn muôn dân,
Không sánh đặng Chiêu Quân, cho trọn đạo thần quân thần.
Vẻ chi một đóa yêu kiều, diễm lệ,
Vàng thau trộn bùn nhơ, xót phận hổ lang.
Gẫm thân bẽ bàng, kiếp hồng nhan,
Duyên nợ dở dang, ôi Phụ Hoàng !
Vì nghĩa giao bang, hiếu trung đôi đàng ;
Thân ngọc vàng đem vùi cát bụi,
Cho rảnh nợ Ô Ly, ngậm ngùi, kẻ ở người đi.
Cơn nước lửa phò nguy, nát thân xá gì !
Nàng sẽ đi về một nơi chốn xa lạ, ở bên kia đèo Hải Vân, trao thân vào vùng đất Chàm xa xôi ấy... Huyền Trân ngoảnh lại một lần, sau lưng quê đã mấy tầng cách xa, nàng bồi hồi tương nhớ, gần một trăm năm về trước...
... Vào triều Lý, Huệ Tông có bệnh mãi không khỏi mà lại không có con trai, nên tháng 10 năm Giáp thân (1224) truyền ngôi cho Chiêu Thánh công chúa (tên là Phật Kim), sau đó vào tu ở chùa Chân Giáo. Chiêu Thánh lên ngôi lúc 7 tuổi, tức là Lý Chiêu Hoàng. Được một năm, vào tháng 12 năm Ất dậu (1225), Lý Chiêu Hoàng kết hôn với Trần Cảnh (lúc ấy mới có 8 tuổi, là cháu của Trần Thủ Độ), sau đó truyền ngôi lại cho chồng.
Từ đấy giang sơn nhà Lý vào tay nhà Trần. Ba đời sau truyền đến Trần Nhân Tông. Nhân Tông thành hôn với Khâm Từ hoàng hậu, có được hai hoàng tử là Thuyên và Quốc Chân, một công chúa là Huyền Trân.
Huyền Trân càng lớn, nhan sắc thêm đậm đà. Tiếng cười nói hay giọng ngâm thơ đọc sách như giọng oanh vàng của nàng vẫn vang lên đây đó ở vườn Ngự Uyển trong Tử Cấm thành. Một hôm, Khâm Từ hoàng hậu cho phép Huyền Trân được cùng bà đi dâng hương lễ Phật nơi chùa Trấn Quốc.
Đoàn xa giá rời hoàng cung trong tiếng lễ nhạc. Lần đầu tiên được rời Cấm thành, công chúa Huyền Trân say sưa chìm đắm trong sắc nước hương trời, nàng không để ý đến cái nhìn sâu kín thầm lặng thỉnh thoảng lại gieo xuống vóc liễu dáng mai của nàng một niềm đam mê không thể nào bày tỏ của vị tướng trẻ tuổi, Trần Khắc Chung.
Từ ngày ấy, mối tình thầm lặng như ngàn cân đeo nặng trong lòng Trần Khắc Chung, nhưng Tử Cấm thành gần gũi mà ôi muôn trùng cách trở...
Sau khi đi đánh Ai Lao trở về, vào năm Quí tị (1293), Nhân Tông truyền ngôi cho Thái tử Thuyên tức là vua Trần Anh Tông. Nhân Tông trị vì được 14 năm, về làm Thái Thượng hoàng, đầu tiên đi tu tại chùa Võ Lâm (phủ Yên Khánh, Ninh Bình), sau về tu tại núi Yên Tử (huyện Yên Hưng, Quảng Yên).
Theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục : "Tháng ba năm Tân sửu (1301), hiệu Hưng Long thứ 9, đời vua Trần Anh Tông, lúc bấy giờ đức Thượng hoàng là Trần Nhân Tông đã truyền ngôi cho con, đi tu ở núi Yên Tử, thường muốn lịch lãm núi sông trong thiên hạ, nên mới du phương, rồi sang Chiêm Thành".
Thái Thượng hoàng ngao du sơn thủy, gót chân viễn du đến phía Nam, ngài dừng bước tại vương quốc Chiêm Thành hoang sơ, hoa ngàn cỏ nội nhưng không kém phần tráng lệ hùng vĩ. Trong nét uy dũng của đền đài ảnh hương nền văn minh Ấn độ, Thượng hoàng không khỏi bồi hồi nghĩ đến trang quốc sắc thiên hương đất Chàm, nàng Vương phi Mỵ Ê.
Mỵ Ê là Hoàng hậu Chiêm quốc vào thời vua Sạ Đẩu (Hari Varman III), kinh đô là Phật Thệ (Vijaya) . Vào đời nhà Lý, Chiêm thành và Đại Việt thường dấy loạn can qua. Năm 1044, vua Lý Thái Tông (1028 1054) ngự giá đánh Chiêm, thúc quân tràn vào Phật Thệ, chiếm kinh đô Chàm, bắt được hơn 5000 người và 30 con voi . Tướng Chiêm là Quách Gia Gi chém đầu vua Sạ Đẩu xin hàng . Lý Thái Tông ca khúc khải hoàn, bắt Vương phi Mỵ Ê và các cung nữ đem về. Khi vương thuyền xuôi theo sông Đáy đến sông Lý Nhân, Thái Tông cho lệnh đòi Mỵ Ê sang hầụ Mỵ Ê than rằng "Vợ mọi quê mùa, khôn sánh những bậc Cơ Khương, nay nước mất nhà tan, chỉ còn một thác mà thôị.." Nàng tắm rửa, xông xạ hương rồi quấn chăn gieo mình xuống sông mà chết. Lý Thái Tông cảm kích lòng trinh tiết, phong nàng Mỵ Ê là "Hiệp chánh hộ thiện phu nhân", nay ở phủ Lý Nhân (Phủ Lý, Hà nam) còn có đền thờ .
Từ khi nhà Trần lên ngôi, giữa Đại Việt và Chiêm Thành đã có phần yên ổn. Tại kinh đô Phật Thệ, Hoàng tử Hari Jit lúc ấy đang ở ngôi, tức là vua Chế Mân (Jaya Simha Varman III ). Theo Đại Việt sử ký toàn thư, vua Chế Mân là người ở Tượng Lâm,thành Điễn Xung, đất Việt Thường.
Biết được người khách viễn phương mang tấm áo cà sa vẫn thường ngày đây đó thưởng lãm nét hùng vĩ của các ngọn Tháp Đồng hay Tháp Bạc ấy là Thượng hoàng nước Đại Việt, Chế Mân bèn tiếp đại nồng hậu trong lễ địa chủ và tình bang giao, ngoài ra còn đưa Thượng Hoàng đi thưởng lãm các Tháp Vàng hay Tháp Ngà ... Cảm kích tấm lòng vị vua trẻ, Thượng hoàng ước gả Huyền Trân cho Chế Mân.
Tiếng đồn về nhan sắc của Huyền Trân làm bồi hồi trái tim người vua Chiêm quốc. Dù Mân Quân đã lập gia thất với nàng con gái xứ Java, Hoàng hậu Tapasi, nhưng vẫn sai bầy tôi là Chế Bồ Đài dẫn theo bộ hạ hơn 100 người, tiến về Thăng Long cống dâng đồ trân quí làm lễ cầu hôn, những mong được người ngọc.
Cả triều đình Đại Việt đều hoang mang, hoàng thân quốc thích lên tiếng phản đối. Làm sao có thể gả nàng công chúa yêu quí nước Việt về xứ Chàm man rợ ? Nhưng Thái thượng hoàng đã trình bày rõ ràng ý định của mình với Trần Anh Tông. Việc gả Huyền Trân về đất Chiêm là một đường lối chính trị có tầm vóc quan trọng ảnh hưởng đến sự tồn vong của Đại Việt.
Quả nhiên, từ khi Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn tại Vạn Kiếp và trên sông Bạch Đằng đã hai lần, năm 1285 và 1287, đánh tan 800.000 quân Mông cổ của Hốt Tất Liệt (Qoubilai Khan) do con trai là Trấn Nam vương Thoát Hoan (Toghan) cầm đầu , thì Trung quốc vẫn dòm dõ Đại Việt, chỉ chờ khi Đại Việt và Chiêm Thành dấy loạn can qua, sẽ thúc quân tràn sang giữ thế ngư ông thủ lợi. Trong khi Huyền Trân về nước Chiêm, hai nước sẽ có tình hòa hiếu, không còn lo ngại trước cường lực của Trung quốc.
Trước lời khuyên của Thái Thượng hoàng và sự phản đối của triều thần, Trần Anh Tông vẫn còn do dự chưa quyết ý.
Chờ đợi 5 năm trời mà vẫn không thấy tin vui, đến tháng 6 năm Bính Ngọ (1306) niên hiệu Hưng Long thứ 14, vị vua trẻ đa tình Chiêm quốc dâng sính lễ bằng hai châu Ô và Lý. Lúc bấy giờ Trần Anh Tông mới quyết định gả em gái là Huyền Trân công chúa cho Chế Mân.
Huyền Trân công chúa thấy cõi lòng tan nát. Riêng về Trần Khắc Chung nghe tin như sét đánh ngang màỵ Hỡi ôi, giữa con tim của nàng công chúa và vị tướng trẻ đất Đại Việt, ai buồn hơn ai ?...
Trên đèo Hải Vân, một lần nữa Huyền Trân đứng ngẩn trông về Bắc, nhưng nàng chỉ thấy mây trôi chứ có thấy gì đâu ! Từ trong con tim dâng lên một nỗi niềm riêng khôn tả, nàng thổn thức cất lên giọng hát điệu Nam Bình buồn áo não :
Nước non ngàn dặm ra đi.
Cái tình chi !
Mượn màu son phấn,
Đền nợ Ô Ly,
Xót thay vì,
Đương độ xuân thì,
Độ xuân thì,
Số long đong, hay là duyên nợ gì ?
Má hồng da tuyết,
Quyết liều như hoa tàn, trăng khuyết.
Vàng lộn theo chì.
Khúc ly ca,
Sã còn mường tượng nghe gì ?
Thấy chim hồng nhạn bay đi,
Tình lai láng,
Hướng dương hoa Quì.
Dặn một lời Mân Quân :
Như chuyện mà như nguyện,
Đặng vài phân,
Vì lợi cho dân,
Tình đem lại mà cân,
Đắng cay trăm phần...
Nợ nước nặng hơn tình nhà, Huyền Trân cúi đầu, gạt nước mắt, nén lòng sầu oán, quay mình bước lên kiệu hoa, ôm phận lưu lạc đến một nơi chốn muôn trùng không đường về...
Theo nhà cổ học E. Aymonier trong quyển "L''Inscription chàme de Po Sah", công chúa Huyền Trân khi về Chiêm quốc được phong mỹ hiệu Paramecvari.
Chúng ta chỉ biết một cách không rõ ràng về đất nước Chiêm Thành dù vương quốc này đã đóng một vai trò rất quan trọng trong quá trình hình thành lịch sử Việt Nam. Các sử liệu Trung Hoa và Việt Nam, cùng những cuộc khai quật của các nhà khảo cổ thuộc trường Viễn Đông Bác Cổ đã rọi nhiều chùm tia sáng rực rỡ vào vùng quá khứ xa xăm quên lãng ấy, giúp chúng ta biết được đôi điều quí giá về lịch sử của dân tộc Chàm.
Sau khi Hai Bà Trưng gieo mình tự trầm ở sông Hát, Giao Chỉ trở thành phủ quận của nhà Đông Hán (25 - 220) thì theo Khâm định Việt sử : "Năm Nhâm Dần (102), đời vua Hòa Đế nhà Đông Hán, ở phía nam quận Nhật Nam ( Đại Việt tương lai ) có huyện Tượng Lâm, người huyện ấy cứ hay sang cướp phá, bởi vậy vua nhà Hán mới đặt quan cai trị. Cuối đời nhà Hán ( khoảng năm 192 ) có người huyện Tượng Lâm tên là Khu Liên, giết huyện lệnh, nổi lên chống quân Trung Hoa, dựng ra một nước độc lập, tự xưng làm vua".
Theo nhà cổ học L. Aurousseau , người Tàu gọi Tượng Lâm là Siang Lin (nôm na là Rừng Voi), là chữ viết tết của Siang Lin Yi (Tượng Lâm Ấp). Trong vòng 6 thế kỷ (192 - 758), biên niên sử Trung Hoa gọi tên nước ấy là Lin Yi (Lâm Ấp, Chiêm Thành tương lai), tả người Lâm Ấp "da ngâm đen, mắt sâu, mũi lớn và tẹt, môi dày, tóc quăn, xỏ lổ tai... Họ ăn ở rất sạch sẽ, tắm rửa một ngày nhiều lần rồi chà sát lên người hương liệu long não hoặc dầu cẩm quì mùi xạ hương (musc). Đàn ông cũng như đàn bà mặc một loại khăn dệt bằng bông vải (coton) được xông bằng khói các loại gỗ hương, quấn từ trái qua phải phủ từ eo đến chân. Người cã quí mang giày da, thường dân đi chân đất ".
Theo nhà khảo cổ học Jean Yves Claèys, vương quốc Lâm Ấp trải dài từ Đèo Ngang đến Thuận Hải, chia làm bốn vùng : Amarâvatỵ, từ Quảng Bình đến Quảng Nam, Quảng Ngãi Vijaya, từ Bình Định đến Phú Yên. Kauthàra, Khánh Hòa và Panduranga, Phan Rang, Ninh Thuận. Hai vùng phía trên là miền Bắc nước Chiêm (septentrionale), thuộc thị tộc Cau (Kramukavamsa), tiếng Chàm là Pi năng, hậu duệ người miền núi (atâu Chơk). Hai vùng dưới là miền Nam (méridionale), thuộc thị tộc Dừa (Narikelavamsa), tiếng Chàm là Li u, hậu duệ người miền biển (atâu Thik) .
Các nhà ngôn ngữ và dân tộc học xếp người Chàm vào nhóm ngôn ngữ vùng Châu đại dương (Malaỹ Polynésien), thuộc ngữ hệ Nam Đảo (Austronésien). Nước Lâm Ấp ảnh hưởng sâu nặng văn minh và tôn giáo Ấn Độ, chính vì vậy mà tên các triều đại Lâm Ấp vừa là tiếng Phạn (sancrit) vừa là tiếng Chàm, và chữ viết đến nay vẫn còn sử dụng .
Sưu tìm từ nhiều nguồn tài liệu, những dữ kiện lịch sử mà chúng tôi nêu ra sau đây được sắp xếp theo thời gian để việc nghiên cứu về lịch sử Chiêm Quốc có phần dễ dàng hơn, hầu xin cống hiến quí độc giả một cái nhìn sơ khởi về vương quốc Chiêm Thành. Do giới hạn của một bài báo, chúng tôi không đi sâu vào chi tiết và luôn mong đón nhận ý kiến xây dựng.
Khu Liên không có con trai, truyền ngôi cho cháu ngoại là Phạm Hùng. Trong đời Tam quốc (220 - 265) tại Trung Hoa, con Phạm Hùng là Phạm Dật nối ngôi, hay sang quấy phá quận Nhật Nam và quận Cửu Chân. Theo J.Y Claèys, phải công nhận rằng người Chàm không được khôn khéo trong cách sử thế, họ có một thói quen là hay giam sứ và không chịu triều cống. Chính vì vậy mà dân tộc Chàm thường hay bị trừng phạt và không được bảo trợ bởi sự hùng mạnh của Trung quốc. Người Chàm còn nổi tiếng về nghề hải khấu trong khắp vùng biển Đông Nam Á, đã lừng danh trong các trận cướp các tàu buôn ngọc, ngà, gỗ quí hay đồi mồi .
Phạm Dật mất, người gia nô là Phạm Văn cướp ngôi, sau đó truyền cho con là Phạm Phật .
Khoảng năm 400, vị vương Lâm Ấp çri Bhadra Varman (Phạm Hồ Đạt, con trai của Phạm Phật ?), dựng kinh đô ở Trà Kiệu (Simhapura), đã xây tại thung lũng Mĩ Sơn (Quảng Nam) những tháp đền bằng gạch đỏ hùng vĩ, vinh danh thần Siva Bhadreçvara, với lối kiến trúc Chàm đặc biệt. Tiếng Chàm gọi những tháp này là kalan. Theo sử liệu, người Trung Hoa cho rằng người Chàm từ thời ấy đã là bậc thầy trong nghệ thuật xây dựng và điêu khắc với kiến trúc bằng gạch đỏ.
Khoảng năm 446, đời vua Phạm Dương Mại (con trai Phạm Chư Nông), kinh đô Trà Kiệu và đền đài tại đất thánh Mĩ Sơn bị thiêu hủy hoàn toàn bởi tướng Tàu là Đàn Hòa Chi (Tán Hézhi). Cùng thiêu hủy với đền đài là muôn ngàn tài liệu viết về lịch sử Chiêm quốc. Đàn Hòa Chi còn cướp đi một tượng bằng vàng (đem nấu đúc được hơn mười vạn cân), và vô số những đồ vật quí hiếm. Từ đấy người Tàu biết đất Chàm giàu có nên hay sang cướp phá.
Cho đến cuối thế kỷ thứ VI, chúng ta không biết gì hơn về lịch sử Lâm Ấp ngoại trừ những cuộc chiến tranh triền miên với Trung quốc.
Vua çambhu Varman (Phạm Phạm Chí, khoảng 572 - 692, con trai Rudra Varman , 530 570) lại tiếp tục xây những ngôi tháp tại vùng đất thánh Mĩ Sơn, nhưng những ngôi tháp của çambhu Varman cũng không để lại vết tích gì vì vào năm 605, vị tướng tàu Lưu Phương (Liu Fang) tấn công Lâm Ấp, đã tiêu hủy hoàn toàn những đền đài tại Mĩ Sơn. Mãi đến đời vua Prakasadharman (khoảng 653 - 686), những tháp đền tại Mĩ Sơn còn tồn tại cho đến ngày nay , dù chỉ là những phế tích, đã là những biểu tượng hùng hồn chứng minh cho chúng ta thấy nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc điêu luyện của người Chàm.
Vẫn theo " Khâm định Việt sử ", vào thế kỷ thứ VII, vua Lâm Ấp là Phạm Đầu Lê qua đời, con trai là Phạm Trấn Long bị giết nên dân trong nước lập người bên họ ngoại tên là Chư Cát Địa lên làm vua. Chư Cát Địa đổi quốc hiệu là Hoàn Vương.
Vào đời vua Indra Varman II (875 - 898), dưới sức tấn công của người Trung quốc, dân nước Hoàn Vương phải dời đô từ Trà Kiệu về Đồng Dương (Indrapura, Quảng Nam ). Năm 875, xuất hiện lần đầu tiên trong biên niên sử Trung Hoa cái tên Chiêm Thành, viết theo tiếng phạn là Champapura, nôm na là "Thành của người Chàm".
Tại đây, cho đến đời Indra Varman III (918 - 960), dân tộc bất hạnh Chàm luôn bị sự tấn công của người Java, người Khmers và người Trung quốc từ mọi phía.
Vào cuối thế kỷ thứ X cho đến thế kỷ thứ XIII là khoảng thời gian đen tối trong lịch sử vương quốc Chiêm Thành. những cuộc chiến tranh triền miên với Đại Việt và Khmers đã đưa đất nước Chàm vào những đổ nát hoang tàn.
Châu Á vào thế kỷ thứ IV .
Tại An Nam phủ, vào năm 939, Ngô Quyền (897 - 944) dành được độc lập từ tay người Tàu, xưng vương và dựng đô ở Cổ Loa. Năm 968, Đinh Tiên Hoàng dẹp xong loạn Nhị Thập Sứ quân, dựng nước tự chủ, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt. Mãi đến đời nhà Lý (1010 1225) mới đổi tên là Đại Việt và nhà Tống bên Tàu mới công nhận là An Nam quốc.
Năm 982, vì vua nước Chiêm là Parameçvara Varman I đã giam sứ nước Đại Việt nên Lê Đại Hành tiến quân chiếm Đồng Dương, bắt Chiêm quốc phải triều cống. Hari Varman II (988 - 998) lên ngôi, dời kinh đô về Phật Thệ (Chà Bàn).
Bắt đầu từ thời ấy, vương quốc Chiêm Thành không ngừng thối lui trước những tấn công (Nam tiến) liên tiếp của người Việt. Sự hao mòn tổn thất của Chiêm quốc không phải do đất nước kém văn minh mà do thiếu một nền móng kinh tế vững chắc, trong khi Đại Việt có một đồng bằng sông Hồng phì nhiêu.
Sau chuyện bi thảm của nàng vương phi Mỵ Ê trong thời vua Sạ Đẩu (Hari Varman III ), thấy quan quân chém giết người Chàm, máu chảy thành suối, vua Lý Thái Tông ra lệnh cấm không được giết người Chiêm Thành.
Đến đời vua Lý Thánh Tông (1054 - 1072), người Chàm lại sang quấy phá. Năm 1069, Thánh Tông tiến ra Ô Long hải khẩu (cửa Tư Hiền), sáu ngày sau đến Thị Nại (Thị Lị Bì Nại, Cri Banoy, Qui Nhơn), tiến vào đánh tiêu hủy hoàn toàn Phật Thệ, bắt được vua Chiêm là Chế Củ (Rudra Varman III ). Chế Củ dâng ba châu Địa Lý, Bố Chính và Ma Linh để chuộc tội.
Vua Hari Varman IV (1074 - 1080) lên ngôi đã đem lại cho đất Chàm một khoảng thời gian yên bình.
Năm 1103, vua Chế Ma Na (Jaya Indra Varman II, 1081 - 1113) sang đánh Đại Việt đòi lại ba châu Địa Lý, Bố Chính và Ma Linh. Năm 1104, vua Lý Nhân Tông (1072 - 1127) sai Lý Thường Kiệt đi dẹp loạn Chiêm Thành. Chế Ma Na thua trận, trả lại ba châu và xin triều cống như xưa.
Tiếp theo đó là cuộc chiến tranh đẫm máu với người Khmers trong vòng hơn một thế kỷ (1112 - 1220) đã làm Chiêm quốc yếu dần trong mòn mỏi.
Năm 1145, vào đời vua Jaya Indra Varman III (1139 - 1145), nước Chiêm Thành sa vào quyền đô hộ của người Khmers.
Jaya Hari Varman I dành được độc lập từ tay người Khmers, đã xây dựng tháp Po Nagar nổi tiếng tại Nha Trang.
Năm 1177, Jaya Indra Varman IV (1167 - 1190) tiến quân đánh Khmers để trả thù, hỏa thiêu Angkor. những cuộc chiến triền miên giữa hai nước chỉ đem lại những tiêu hủy và tàn phá.
Vào đầu đời nhà Trần, tuy chịu triều cống nhưng quân Chiêm vẫn sang quấy nhiễu để đòi lại đất xưa. Năm 1252, Thái Tông ngự giá đánh Chiêm, thắng vua Chàm là Jaya Parameçvara Varman II, bắt vương phi Bố Gia La và rất nhiều dân quân.
Đến thời Huyền Trân công chúa sang đất Chàm thì Chiêm Thành không còn là một cường quốc.
Huyền Trân ở tại đất Chàm chưa được một năm thì Chế Mân qua đời, Chế Chí (Chế Đa Đa, tức là hoàng tử Hari Jilat Maja) lên nối ngôi. Các biến cố lịch sử dồn dập xảy đến. Năm 1311, vì Chế Chí không giữ những điều giao ước với Đại Việt nên Trần Anh Tông (1293 - 1314) sang đánh Chiêm Thành, bắt được Chế Chí và phong cho em là Chế Đà A Bà lên ngôi.
Đến đời vua Trần Dụ Tông (1372 - 1377), vua nước Chiêm là Chế A Na từ trần, con trai là Chế Mộ và con rể là Bồ Đề tranh ngôi. Chế Mộ sang cầu cứu Đại Việt. Dụ Tông sai Trần Thế Hưng và Đỗ Tử Bình đi đánh Chiêm Thành. Tại Quảng Nam, phục quân Chiêm quốc đã chiến thắng vẻ vang.
Từ đó, người Chiêm thấy binh thế quân Nam suy nhược, nước Chiêm lại có vị vua trẻ tuổi anh hùng là Chế Bồng Nga (1360 - 1390), muốn trả những thù xưa với người Nam. Chế Bồng Nga dời đô về Đồ Bàn (huyện Tuy Viễn, Khánh Hòa).
Tháng giêng năm 1377, Trần Duệ Tông (1372 - 1377) ngự giá cùng Lê Quí Ly kéo quân đánh thành Đồ Bàn. Chế Bồng Nga vẫn nuôi hận trả thù nên ngày đêm luyện tập binh hùng tướng mạnh. Trước cường binh của Chiêm quốc, Duệ Tông tử trận. Tháng sau Chế Bồng Nga kéo quân vào cửa Thần Phù, tiến lên cướp phá Thăng Long.
Vào đời Trần Hiễn (Trần Phế Đế, 1377 - 1388), Chế Bồng Nga bốn lần tiến đánh Thăng Long vào những năm 1378, 1380, 1383 và 1389, đốt cung điện, bắt đàn bà con gái, lấy đồ châu ngọc, làm cho người Nam vô cùng khiếp sợ. Có thể nói rằng trong khoảng thời gian này, Đại Việt hoàn toàn nằm dưới sức mạnh của Chiêm quốc.
Năm 1390, Chế Bồng Nga lại đem quân sang đánh, vua Trần Thuận Tông (1388 - 1398) sai Đô tướng là Trần Khát Chân đem binh chống giữ tại sông Hải Triều (sông Luộc, địa phận tỉnh Thái Bình và Hưng Yên). Một biến cố lịch sử mà trong vòng một ngày đã làm thay đổi vận mệnh của dân tộc Chàm : Trong khi giao chiến, được báo trước bởi một kẻ bội phản, Trần Khát Chân dùng súng dồn quân lực bắn đích thuyền của Chế Bồng Nga, vị vua anh hùng nước Chàm tử trận bởi một viên đạn vô tình.
Quân Nam chặt đầu Chế Bồng Nga mang về Thăng Long trình với Thái Thượng hoàng Trần Nghệ Tông. Được đánh thức giữa đêm khuya, Thượng hoàng hoảng sợ, tương rằng một lần nữa Chiêm Thành lại tiến đánh kinh đô. Khi nhìn thấy chiếc đầu của kẻ thù, Nghệ Tông nói rằng "Ta và Chế Bồng Nga đã trông chừng dòm dõ nhau từ lâu nhưng đây là lần đầu tiên chúng ta gặp nhau ", rồi tự ví mình như Hán Cao tổ lấy đầu Hạng Vũ.
Từ khi Chế Bồng Nga qua đời thì Chiêm quốc càng ngày càng lâm vào sự suy nhược. Tướng La Khải chiếm lấy ngôi vua. Hai người con của Chế Bồng Nga chạy sang đầu hàng An nam, được phong tước Hầu.
Vào đời nhà Hồ (1400 - 1407), Hồ Hán Thương (con Hồ Quí Ly) sai tướng là Đỗ Mãn sang đánh Chiêm Thành vào năm 1402. Vua Chiêm là La Đích Lại (con La Khải) dâng đất Chiêm Động (phủ Thăng Bình, Quảng Nam) và Cổ Lụy (Quảng Ngãi) cầu hòa.
Dưới đời vua Lê Nhân Tông (1443 - 1459), vua Chiêm là Bí Cai (Maha Vijaya) hai lần cướp phá Hóa Châu vào năm 1444 và 1445 nhưng đều thất bại. Năm 1446, triều đình nước Nam sai Lê Thụ và Lê Khả sang đánh Chiêm quốc, lấy thành Đồ Bàn, bắt Bí Cai và các phi tần, lập cháu vua Bồ Đề là Mã Kha Qui Lai lên làm vua.
Năm 1470, vua Chiêm là Trà Toàn cầu viện nhà Minh, sang đánh phá đất Hóa Châụ Năm 1471, vua Lê Thánh Tông (1460 - 1497) tiến chiếm Đồ Bàn, giết 60.000 người, bắt Trà Toàn và hơn 30.000 tù nhân. Tướng Chiêm là Bô Trì Trì sai sứ vào cống xin xưng thần. Thánh Tông muốn cho Chiêm quốc yếu đi, mới chia đất Chàm ra làm ba nước là Chiêm Thành, Hóa Anh và Nam Phan, rồi đặt quan cai trị.
Từ từ, những phần đất nhỏ bé còn lại của Chiêm quốc lần lượt rơi vào tay người Nam. Năm 1611, Chúa Tiên Nguyễn Hoàng tiến chiếm Phú Yên rồi chia ra làm hai huyện là Đồng Xuân và Tuyên Hòa. Năm 1653, Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần đánh vua Chiêm là Bà Thấm, lấy phủ Diên Khánh (Khánh Hòa) làm biên giới và đặt dinh Thái khang cho tướng là Hùng Lộc làm thái thú. Năm 1693, vua Chiêm là Bà Tranh không tiến cống, Quốc Chúa Nguyễn Phúc Chu sai Tổng binh Nguyễn Hữu Trấn sang đánh tan Chiêm quốc, bắt dân chúng thay đổi y phục như người Nam. Từ đó, vương quốc Chiêm Thành vĩnh viễn biến mất trong lịch sử nhân loạị..
Về số phận nàng công chúa Huyền Trân của nước Đại Việt, một năm sau khi về đất chàm, Mân Quân dựng xong tháp Po Kloong Girai tại Phan Rang thì qua đời vào mùa hạ, tháng 5 năm 1307. Theo Khâm định Việt sử, tháng 9, thế tử là Chế Đa Đa sai bầy tôi là Bảo Lộc Kê sang dâng voi trắng để cáo việc tang.
Theo tục lệ Chiêm quốc, vua mất thì các cung phi phải lên hỏa đàn để tuẫn táng. Trần Anh Tông sai quan Nhập nội Hành khiển Thượng thư Tả bộc xạ Trần Khắc Chung cùng An phủ sứ Đặng Vân đi điếu tang.
Khi thấy Trần Khắc Chung tới, các cung nữ của Huyền Trân hát rằng :
Đàn kêu tích tịch tình tang,
Ai đem công chúa lên thang mà ngồi.
Ngụ ý công chúa sẽ phải lên hỏa đàn. Trần Khắc Chung nói với thế tử Chiêm Thành rằng : "Sở dĩ bản triều gả công chúa cho quốc vương vì hai nước cõi đất liền nhau, nên yên phận để cùng hưởng thái bình hạnh phúc, cũng vì thương dân, chứ không phải mượn má phấn để giữ trường thành. Nay Quốc vương từ trần, nếu đem công chúa tuẫn táng ngay thì việc tu trai không người lo liệu. Theo tục lệ bản quốc, trước hãy đưa công chúa ra bãi bể chiêu đón linh hồn, rồi mới vào hỏa đàn sau".
Người Chiêm Thành nghe theo lời. Khi thuyền công chúa ra giữa bể, Trần Khắc Chung đem thuyền cướp Huyền Trân. Theo Khâm định Việt sử, Trần Khắc Chung cùng Huyền Trân tư thông quanh quất trên bể hơn một năm mới về đến kinh sư. Hưng Nhượng vương Quốc Tăng rất ghét chuyện ấy, hễ trông thấy Khắc Chung thì mắng rằng "Họ tên người này không tốt, có lẽ nhà Trần mất vì hắn chăng !" Bởi vậy Khắc Chung khi trông thấy Quốc Tăng thì tránh mất.
Huyền Trân công chúa về đến Thăng Long ngày 18, mùa thu năm Hưng Long 16 (Mậu Thân 1308), từ đấy sống trọn đời trong hiu quạnh bẽ bàng.
Riêng về mối tình giữa Huyền Trân và Khắc Chung, theo Đại Việt sử ký toàn thư, khi Chế Mân dâng lễ cầu hôn thì "...triều thần nước ta đều nói là không nên, duy một mình Văn Túc vương Đạo Tái chủ trương việc gả ấỵ Trần Khắc Chung thì tán thành". Theo đó, mối tình lãng mạn giữa nàng công chúa và vị tướng quân nước Đại Việt phải chăng chỉ là những gấm thêu huyền thoại ?
Chúng tôi xin trích bài thơ của Hoàng Cao Khải để kết thúc bài biên khảo về Huyền Trân công chúa và vương quốc Chiêm Thành :
Đổi chác khôn ngoan khéo nực cười,
Vốn đà không mất lại thêm lời,
Hai châu Ô Lý vuông nghìn dặm,
Một gái Huyền Trân của mấy mươi !
Lòng đỏ khá khen lo việc nước,
Môi son phải giống mãi trên đời.
Châu đi rồi lại châu về đó,
Ngơ ngẩn nhìn nhau mấy đứa Hời.
Les Lilas, 25/06/2000
Ngô Kim Khôi
------
Thư mục và tài liệu tham khảo :
- Minh họa " Huyền Trân công chúa " do NgKimKhôi phỏng theo tranh của
Phi Hùng trong Bulletin des Amis du Vieux Huế (BAVH, tập san Đô thành
Hiếu cổ), số 2, tháng 4 6/1942.
- Indochine, carrefour des arts, Bernard Philippe Groslier, nxb Albin Michel,
Paris 1961.
- Introduction à l''étude de l''Annam et du Champa, J.Ỵ Claèys, BAVH, năm
thứ XXI, số 1 2, tháng 1 6/1934, trang 1 144.
- Histoire du Việt Nam des origine à 1858, Lê Thành Khôi, nxb Sudestasie,
Paris 1987.
- Huyền Trân công chúa và ảnh hương Chàm Trung hoa trong nền ca
nhạc cổ điển Việt nam, Thái văn Kiểm, nxb Pháp Á, Sài gòn tháng
3/1950.
- La princesse Huyền Trân et sa complainte, chantée sur l''air Nam Bình,
Ưng An, BAVH, năm thứ XXIX, số 2, tháng 4 6/1942, trang 223 228.
- Le Champa, Léopold Cadière, BAVH, năm thứ XVIII, số 2, tháng 1 6/1931,
trang 107 111.
- Littérature Chame, Paul Mus, đăng trong Indochine, Sylvain Lévi, Triển
lãm Thuộc địa, Paris 1931.
- Việt nam sử lược, Trần Trọng Kim, bộ Giáo dục, trung tâm Học
liệu, Sài gòn 1971.