Welcome Guest! To enable all features please Login or Register.

Notification

Icon
Error

Phương Oanh
Phượng Các
#1 Posted : Tuesday, February 15, 2005 4:00:00 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,686
Points: 19,998
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
Phương Oanh

Phương Oanh là một nữ nhạc sĩ nhạc cổ truyền, tốt nghiệp trường quốc gia âm nhạc Saigon, dạy đàn tranh cho trường Hoa Sim (một nhóm giáo sư nhạc cổ truyền trẻ do nữ nhạc sĩ Phạm Thuý Hoan điều khiển. Phạm Thuý Hoan vẫn ở Saigon sau 75. Ngọc Dung, một thành viên của Hoa Sim, chuyên đàn tranh theo truyền thống miền Nam, di tản sang Hoa Kỳ, cư ngụ tại Cupertino, Cali từ 1975.
Quỳnh Hạnh, một thành viên khác, sang Pháp vào đầu thập niên 90, chuẩn bị luận án tiến sĩ về đàn bầu tại Université de Paris 4- Sorbonne, và dạy đàn tranh, đàn bầu, dân ca tại Paris, chùa Linh Sơn ở thành phố Joinville le Pont - ngoại ô Parịs Phương Oanh, một thành viên khác của Hoa Sim , sang Pháp năm 1976 với chồng, tạo lại nhóm Phượng Ca, phát triển nhạc dân tộc với các lớp đàn tranh tại Pháp, Bỉ, Thuỵ Sĩ, vv... và đậu bằng Diplome d' Etát nhạc đàn tranh của Pháp năm 1997 và hoạt động tích cực tại Pháp với nhiều lớp đàn tranh tại trường âm nhạc Louis Kervoern tỉnh Sevran, trường âm nhạc Darius Milhaud tỉnh Antony, Espace de Quartier Olympiades Paris quận 13.

theo Trần Quang Hải
Việt Dương Nhân
#2 Posted : Wednesday, February 16, 2005 10:29:17 AM(UTC)
Việt Dương Nhân

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 1,837
Points: 0

Nữ Nhạc Sĩ Đàn Tranh Phương Oanh
"Ban Nhạc Phượng Ca"



Vũ Thị Thiên Thư
#3 Posted : Wednesday, February 16, 2005 12:14:50 PM(UTC)
Vũ Thị Thiên Thư

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 5,033
Points: 2,430
Woman
Location: Thung Lũng Lá Rơi

Thanks: 231 times
Was thanked: 87 time(s) in 84 post(s)




Âm nhạc dân tộc ơi, đâu là chỗ đứng của người?

Phương Oanh

Tôi yêu tiếng nước tôi , từ khi mới ra đời người ơi
Mẹ hiền ru những câu xa vời,
à a ơi, tiếng ru muôn đời.
Tiếng nước tôi, bốn nghìn năm ròng rã buồn vui
Khóc cười theo mệnh nước nổi trôi, nước ơi.
Tiếng nước tôi, tiếng mẹ sinh từ lúc nằm nôi
Thoắt nghìn năm thành tiếng lòng tôi, nước ơi.
Tôi yêu tiếng ngang trời, những câu hò giận hờn không nguôi
Nhớ nhung hoài mảnh tình xa xôi, vững tin vào mộng đẹp ngày mai.
ÐK.
Một yêu câu hát truyện Kiều lẳng lơ như tiếng sáo diều ư diều làng ta.
Và yêu cô gái bên nhà, miệng xinh ăn nói mặn mà ừ mà có duyên.
Tình Ca (Phạm Duy)

Sống xa xứ lâu năm, tình tự dân tộc in hằn nét trong tâm tưởng chúng ta. Muốn giới thiệu cho người bạn bản xứ biết tới cái hay cái đẹp của văn hóa mình, trước tiên, hầu như chúng ta hay cho họ thưởng thức qua các món ăn như cơm chiên, chả giò, phở, bánh cuốn, những món ăn thuần túy...Từ các món ăn thực tế trên, đi xa hơn một chút nữa, qua những buổi văn nghệ với những bài hát và phần nhiều họ rất thích được xem các màn múa với y phục dân tộc, rồi thêm một bước nữa, là cho họ thưởng thức âm nhạc truyền thống Việt Nam.
Trong bài này, tôi xin đặt ra ba phần như sau:
- Làm cách nào để âm nhạc dân tộc đến với mọi người?
- Âm nhạc dân tộc hội nhập vào xã hội minh sống.
- Phân tách một bài nhạc cổ, dân ca.

Tôi hy vọng những lời nói chân tình , những thao thức này, không phải của riêng tôi, mà là của chúng ta, và có được như thế, tôi tin chắc rằng, cuộc sống của chúng ta có được ý nghĩa của nó tại nơi này.


Nguồn nhạc Việt Nam.
Nói đến nhạc cổ Việt Nam, ngay trong nước, âm nhạc cổ đã không có được một chổ đứng tốt đẹp như tân nhạc. Tân nhạc thành hình do những người Việt Nam tân học đầu tiên đã hấp thụ văn minh tây phương, học nhạc cổ điển tây phương. Nét nhạc tây phương đã xâm nhập thật nhanh vào tâm hồn mọi người và tân nhạc đến như một làn gió mới quét hết những gì vướng bận chung quanh thật nhanh, để trở nên một nền âm nhạc canh tân và tồn tại cho đến ngày nay.

Âm nhạc Việt Nam có hai nguồn nhạc - bác học và dân gian.
- Nguồn nhạc bác học là của giới trí thức, thượng lưu vua quan, môi trường rất giới hạn. Thú vui tao nhã này được thành hình khi các nhà nho họp mặt trong dịp trăng sáng, hoặc một dịp chờ hoa nở, họ đã sáng tác những bài thơ để ca tụng cái đẹp của hoa, của đêm trăng thanh gío mát v.v..., rồi lại xướng họa với nhau. Hứng thú này đã để lại nhiều bài thơ nổi tiếng, và họ đã thưởng thức những bài thơ của mình lúc đầu đọc cho nhau, sau cảm thấy thơ phải đọc bằng giọng nữ mới hay, rồi dần dần chính những người đọc đã cảm hứng ngân nga, luyến láy giọng để tạo thành lối ngâm thơ đặc biệt, rất cổ đó là ca trù. Từ đó về sau, các điệu ngâm thơ sa mạc bồng mạc, xuất hiện. Khi lan rộng đến dân chúng, thì từ những làn điệu cổ này đã biến thể để hôm nay mới có các điệu ví , viã, đò đưa hoặc các điệu dân ca khác.

- Nguồn nhạc dân gian là của dân chúng, trong những lúc làm lụng ở đồng ruộng hoặc ở những nơi công cộng, để thời gian trôi qua và để quên mệt nhọc, họ đã cất giọng hát của mình ứng đối tại chỗ những câu hát câu ví, trêu ghẹo nhau trong không gian mênh mông, với thời gian vô định. Họ vui hát quên mệt, quên thời giờ qua, say mê hát, mãi mê làm, chỉ ngừng lại khi công việc đã xong xuôi. Những điệu lý , câu hò được sáng tác, phần đông theo thể thơ lục bát, nên âm điệu nhẹ nhàng và có vần có điệu. Ví dụ như một điệu ví ở miền Bắc :

Hởi anh đi đường cái quan,
dừng chân đứng lại, em than đôi lời,
chứ đi đâu vội mấy anh ơi!

Và đây là một điệu hò ở miền Nam:
Nam hỏi nữ : Cô kia cắt cỏ một mình
Cho anh cắt với, chung tình làm đôi
Cô còn cắt nửa hay thôi
Cho anh cắt với làm đôi vợ chồng.

Hoặc một sự đối đáp như sau :
Nam hỏi nữ : Cô kia, gánh nước đường xa,
Còn bao đôi nữa, để qua gánh dùm.
Nếu gặp người hiền lành, thì chuyện sẽ không có gì để nói, nhưng xin nghe câu trả lời của nữ như sau :

Tủi thân con khỉ ở rừng,
Cuốc không lo cuốc, lo dùm cho ai!
Thì anh chàng không còn câu hát nào có thể thêm được, mà chỉ còn cách đi thẳng mà thôi.

Từ khi Việt Nam được tiếp xúc với tây phương, một số người ít người sống ở thành thị đã thay đổi hay cảm thấy cần văn minh hơn và xem thường những gì của dân tộc. Tôi không dám nói quơ đủa cả nắm, nhưng phần đông đã không để ý đến sự tồn tại của âm nhạc dân tộc. Khi học nhạc thì phải học piano, violon, thì mọi người mới trọng, mới thán phục. Còn nói học đàn tranh, đàn nguyệt thì có vẻ coi thường. Ngay trong nước đã có ý vọng ngoại và không có vốn liếng căn bản dân tộc thì làm sao vốn liếng đó được bành trướng rộng ở xứ người? Tuy nhiên, trong tim mỗi chúng ta, đều có một chỗ cho tình tự dân tộc. Cho nên, ráng gìn giữ những gì có được và những ý tưởng này đã lôi kéo chúng ta đến cùng nhau.
Lúc đầu, chỉ một số ít trí thức người Việt trong nước sống như tây, mặc dù da vàng mũi tẹt, nhưng nói tiếng tây coi ta đây như một ông tây bản xứ, nên học đòi những gì của ngoại quốc đem tới, mà người Pháp âm nhạc là nghệ thuật cao trọng. Do đó, qua sự tiếp xúc này, họ mới được thưởng thức âm nhạc, bài hát Pháp, rồi sau đó lại viết lời Việt trên các bản nhạc ấy.
Dần dần, vì nhu cầu trường học bảo hộ đòi hỏi, những bài bản ngắn được viết ra để dạy cho học trò. Những bài hát Hồ Quảng, Xuân Phong Long Hổ là tác phẩm đầu tiên mà bây giờ đã trở thành các bài bản gốc trong ca Huế. Ngày xưa, lời ca thật đơn sơ mộc mạc, nếu không nói
về phong cảnh cỏ cây, thì là những lời khuyên nhủ, dặn dò.
ví dụ như:
lời của bài Hồ Quảng
Rốn ngồi lúc canh thâu
Trăng dọi trăng xế lầu
Bận lòng bận vàng đá tình sâu
Ðâu dám đâu ôm cầu chuyện lo chuyện sầu có nhau cùng nhau.
Nghĩ không nghĩ cho nhau mặc dầu há sầu.

Hay bài Xuân Phong Long Hổ
Lòng dặn lòng,
Ai mặc ai,
Thương cứ thương
Thôi đừng thôi
Chuyện vui cười
Người ở đời
Ðừng đem dạ đem dạ từ chối,
Ai mà cho khỏi vô vòng nợ duyên.
Rứa cũng nên,
Muốn cho bền
Lòng chớ phiền
Lữa càng đượm dám xin giữ gìn
Khuyên cùng ai,
Ðừng phai hương nguyền.

Càng về sau những sáng tác này rất được nhiều người ưa chuộng, rồi các tác phẩm được viết kỹ lưững hơn do những người được học hành đúng trường lớp, ảnh hưởng bởi trường phái lãng mạng, những bài hát trử tình, thất tình, buồn tình du dương tràn ngập.
Các nhạc sĩ Võ Ðức Thu, Dương Thiệu Tước, Văn Cao, Phạm Duy, Trần Văn Khê, Lê Thương , Nguyễn Hữu Ba, Lê Văn Tý v.v.. là những nhạc sĩ tiền phong đã viết những bài tân nhạc đầu tiên vào khoảng năm 1940-1955. Ví dụ như bài Cô hái mơ, Thiên thai, Trăng mờ bên suối, Giọt mưa thu, Buồn tàn thu, Lửa rừng đêm v.v... đã thấy rõ giai điệu nhạc tây phương. Bên cạnh đó cũng có những bài còn ảnh hưởng dân tộc như Bản Ðàn Xuân, Cô hàng nước, Cây đàn bỏ quên, Trăng sáng vườn chè..., những bài thơ phổ nhạc cũng rất được thịnh hành, như bài:
Tiếng Thu của Lê Trọng Lư :

Em không nghe mùa thu
DướI trăng mờ thổn thức
Em không nghe rạo rực,
hình ảnh kẻ chinh phu trong lòng người cô phụ?
Em không nghe mùa thu
Lá thu rơi xào xạc,
con nai vàng ngơ ngác, đạp trên lá vàng khô.

Ngoài ra còn có những bài hát nói lên cái hiện trạng xã hội như bài Cái áo the thâm của Canh Thân nói lên tâm trạng có mới nới cũ, của sự thay đổi của xã hội.
Tân nhạc đã được khởi xướng, cùng lúc phong trào chữ quốc ngữ đã phổ biến khắp ba miền nên tân nhạc đã được mọi người đón nhận một cách nồng nhiệt, dần dần tạo nên những làn sóng, những trường phái khác nhau. Cái hay của nhạc mới đã đem tân nhạc đến với mọi người một cách dễ dàng, nhưng cái dở của tân nhạc là làm loảng đi cái làn điệu dân tộc đặc biệt của Việt Nam. Tân nhạc dể sáng tác vì khi đã biết nốt nhạc, biết cách phân chia nhịp điệu, có ý cho lời hát, là ta có thể sáng tác được một bài nhạc. Trong thời gian đầu, phần lớn những bài hát rất trong sáng, hùng hồn, nung chí người thanh niên trước vận mệnh đất nước, hoặc bài nhạc nói lên cái đẹp của quê hương, của phong cảnh v.v..., nhưng càng về sau, nhạc có chiều hướng nói về tình yêu, chia ly. Trong tình yêu, giai điệu lê thê, ra rít của sự buồn chán, của sự đổ vữ. Mười bài nhạc viết về tình yêu thì hầu như đã có chín bài nói lên sự ly cách của hai người yêu nhau. Nếu anh không phụ em, thì em cũng vì một lý do nào đó mà xa anh v.v...
Anh đường anh, tôi đường tôi , Tình nghĩa đôi ta có thế thôi...
Hoặc :
Thôi, em đường khóc nữa mà làm gì..., hoặc em ơi, nếu mộng không thành thì....sao?
Tuy nhiên cũng có những nhạc sĩ đã biết khai thác âm giai ngũ cung này trên các sáng tác của mình. Nhưng sáng tác nhạc theo âm hưởng dân tộc, đòi hỏi người nhạc sĩ phải có tấm lòng tha thiết với dân tộc, có xa cách nơi chôn nhau cắt rún, mới thấm thía nỗi nhớ nhà, nhớ quê này.. Cũng như phải là người am tường nét nhạc dân tộc, biết cách xử dụng âm giai ngũ cung, thuộc nhiều làn điệu dân ca địa phương, thơ phú, ca dao. Những bài nhạc này đã còn lưu lại cho đến ngày nay, giá trị của nó đã vượt thời gian, không gian và đã trở thành bất hũ với những bài
ca dao được phổ nhạc.
Sao tua chin cái ối a nằm kề
Thương em từ thuởi mẹ về với cha...
Hay :
Khăn thương nhớ ai, khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai, khăn vắt trên vai

... Ðèn thương nhớ ai, mà đèn không tắt
Mắt thương nhớ ai, mắt ngủ chẳng sâu.

Trường ca Con đường cái quan của Phạm Duy, trường ca Hội Trùng Dương của Phạm đình Chương, các sáng tác của Hoàng Thi Thơ hay thánh ca của các cha Ngô Duy Linh, Hoàng Kim, Hải Linh, Ðào Kim, hoặc các nhạc sĩ Viết Chung, Y Vân, Trầm Tử Thiêng v.v... bên cạnh đó còn biết bao nhạc sĩ cũng đã đóng góp rất nhiều cho kho tàng tân nhạc thêm phong phú, cũng đã làm âm hưởng dân tộc gắn liền với tân nhạc.

Bài Tình hoài hương (Phạm Ðình Chương)
Quê hương tôi, có con sông đào xinh xắn.
Nước tuôn trên đồng vuông vắn
Lúa thơm cho đủ hai mùa,
Dân trong làng, trời về khuya vẳng tiếng lúa đê mê.
Quê hương tôi, cò con đê dài ngây ngất,
lúc tan chợ chiều xa tắp, bóng nâu trên đường bước dồn
lửa bếp nồng vòm tre non làn khói ấm hương thôn.
Ai về về có nhớ, nhớ cô mình chăng ?
Tôi về, về tôi nhớ, hàm răng , răng cô mình cười (ơ ớ)
Ai về, về mua lấy lấy miệng cười,
Ðể riêng tôi mua lại, mảnh đời thơ ngây thơ ( ơ ớ...)
Quê hương ơi, bóng đa ôm đàn em bé,
Nắng trưa im lìm trong lá, những con trâu lành trên đồi, nằm mộng gi ?
Chờ nghe tôi thổi khúc sáo chơi vơi...
Quê hương ơi, tóc sương mẹ già yếu dấu
Tiếng ru nỗi niềm thơ ấu, cánh tay êm tựa mái đầu
Ôi bóng hình từ bao lâu còn ghi mãi sắc mầu...
Tình hoài hương (2), khói lam vương tâm hồn chìm xuống
Chiều xoay hướng (2), Sống vui trong mối tình muôn đường
Tình ngân phương (2), Biết yêu nhau như lòng đại dương
Người phiêu lãng (2), nước mắt có về miền quê lai láng...
Xa quê hương ..., Yêu quê hương...

Những người đặc biệt như các anh Trịnh Côn Sơn, Nguyễn Ðức Quang, Nguyễn Hữu Nghĩa, Nguyễn Quyết Thắng, mỗi người mỗi vẽ, mỗi người mỗi phong cách đã đem tiếng hát, sự suy nghĩ của mình đến cho mọi người. Hiện nay, công việc tìm kiếm phong cách sáng tạo lan rộng khắp nơi. Với phương tiện giao thông dể dàng, họ đã đi đến những xứ xa xôi tìm các điệu nhạc, tiết nhịp cổ xưa của xứ đó, để làm cảm hứng cho tác phẩm của mình trở nên độc đáo. Do đó, các sáng tác ngày nay, ta thấy có sự pha trộn giữa cách phối nhạc, nên có khi nghe thấy câu nhạc có pha lẫn tiết nhịp dân da đen cùng với giai điệu dân da vàng. Cũng như càng ngày càng có chiều hướng trở về nguồn của các nhạc sĩ sáng tác hơn. Các nhạc sĩ đã dùng âm giai ngũ cung trong nét nhạc của mình. Do đó, âm hưởng Huế, âm hưởng nhạc miền Nam thấy rõ trong cách diễn tả của các ca sĩ biểu diễn, và các bài nhạc này cũng đã được mọi người yêu thích...

Tại sao người ta có thành kiến xướng ca vô loại?
Người xưa không có xem trọng âm nhạc. Phần vì các cụ nho ta đã quá mê say các cô đào, bỏ bê gia đình bê tha trụy lạc. Lại thêm các thú vui đèn đóm khiến con người thân tàn ma dại, nên gia đình tan nát. Và đó cũng là ý định của thực dân pháp khuyến khích tổ chức những nơi vui chơi đồi trụy để làm lung lay tin thần người trai trẻ, để họ có thể cai trị nước Việt dễ dàng. Ðể cảnh cáo và giữ gìn hạnh phúc gia đình, các nơi tổ chức giải trí như thế đều bị coi thường, nên mới có câu 'xướng ca vô loại'. Nhà nào có con cái theo nghề ca hát là cả một sỉ nhục cho gia đình. Các con cái của ca nhi không được đi thi, không được tham dự một tổ chức nào cả trong xã hội.
Ðất nước ta thời đó đã phân chia ngôi thứ như sau : Sĩ, Nông, Công, Thương. Bốn nghề chính của xã hội.
Trí thức, học trò được ở ngôi vị cao quí nhứt. Nhưng vì các ông tú nhà ta cứ lấy cớ học hành, nên bỏ bê công việc, không chịu giúp đở và còn hành hạ các bà vợ phải lo lắng hầu hạ cực nhọc vì mình. Hở ra thi đe ... ngày mai ông thành quan lớn thì... Mà các cô vợ thì cứ cắn răng phụ tùng ông chồng học trò của mình để hy vọng một ngày nào đó, người ta chiếm lấy bảng vàng, thì mình sẽ là bà nghè bà cống như ai...
Người dân đa số làm nghề nông, chân lấm tay bùn, quanh năm suốt tháng làm lụng vất vã ngoài đồng ruộng, cả một sự bất công. Nên dã có câu thơ rằng :

nhất sĩ, nhì nông,
hết gạo chạy rong,
nhất nông , nhì sĩ.

Chỗ đứng của âm nhạc dân tộc rất khiêm nhường?
Vào những năm đầu, khi miền Nam vừa có đài phát thanh, chương trình âm nhạc được phân chia không đồng đều. Tân nhạc chiếm 3/4 trên tổng số giờ phát thanh về văn nghệ, số giờ còn lại được chia đều cho các ban cổ nhạc Bắc, Trung , Nam.

Những người hát tân nhạc thì được chuyên viên thu thanh tiếp đón lịch sự. Còn người hát nhạc cổ thì bị coi thường. Tôi nhớ rõ hình ảnh ấy vì chính mắt tôi chứng kiến sự việc xảy ra tại đài phát thanh Saigon, khi tôi đi thu cho ban ca Huế Hương Bình. Người ca sĩ đâu có muốn hát sai để phải thu đi thu lại. Vậy mà chuyên viên thu thanh có vẽ bực mình gay gắt, do đó, mỗi khi bước vào phòng thu, người ca sĩ hát cổ nhạc có vẽ không được thoải mái như ca sĩ tân nhạc...
Tình trạng trọng nhạc tây hơn nhạc ta này, ngay tại nhạc viện Saigon cũng giống nhau. Số nhạc sinh học nhạc tây phương đông hơn nhạc sinh học quốc nhạc. Phần lớn nhạc sinh học tây phương là thành phần con nhà khá giả, học trường đầm, đi học bằng xe hơi, nghênh ngang, ngổ ngáo. Nói như thế, quí vị cũng đã hiểu chổ đứng của âm nhạc dân tộc như thế nào.
Ngay trong nước mà tinh thần vọng ngoại của người Việt Nam đã vậy, chính phủ thì không chú trọng, nâng đở, gìn giữ các bộ môn nghệ thuật cổ truyền, thì dân chúng làm sao noi gương ? Trong Nam, phần lớn các gánh cải lương, các ban cổ nhạc Nam phần là do tư nhân tổ chức, do đó họ có một môi trường biệt lập không bị sự điều khiển của chình phủ...

Làm cách nào để âm nhạc dân tộc đến với mọi người?
Nếu các nước Nhật Bản, Ðại Hàn, Trung Hoa đã hướng dẫn trẻ con hát những đồng giao, những điệu dân vũ thuần túy ngay từ lúc mới bắt đầu học mẫu giáo, để trẻ em lớn lên trong tình tự dân tộc. Ðược nuôi nấng như thế, tinh thần dân tộc đã ăn sâu vào tim óc tự nhiên. Mỗi khi một bài dân ca được bắt giọng là hầu như cả xứ đều có thể cất cao giọng hát.

Nhìn người rồi lại nhìn mình, trẻ em Việt Nam có được nuôi dạy như thế chăng ?
Người dân Việt Nam có bao nhiêu người có thể hát được một số các bài dân ca căn bản ?
Ngày xưa, mỗi khi con trẻ ngủ, còn được nghe những lời ru nhẹ nhàng, những lời dạy bảo khuyên răn của bà, của mẹ hay của chị. Lần lần, còn được bao nhiêu người có thể ru được, thuộc được những lời ru con đó ? Tôi nhớ hoài một bài ru con mà mẹ tôi đã hát để ru chúng tôi, con cháu của mình, rồi ru luôn con cái hàng xóm, lời ru như sau :

Con ơi con bú đã vừa ,
Ðể con vô võng, mẹ ru hữi hời.
Con nằm con nín , con chơi
Ðừng la cho rối nghe lời mẹ ru.
Sanh con nào quảng công phu
Thai hai trăm tám mươi ngày sinh ra
Lọt lòng nhe tiếng tu oa
Rồi sau khôn lớn, mới nên con người.
Trai thời trung hiếu làm đầu
Gái thời đức hạnh là câu răn mình

Làm cách nào để có thể đưa âm nhạc dân tộc đến với mọi người ?

Muốn làm được việc này, trước nhất chúng ta phải giữ cho con em nói được tiếng Việt, hiểu được tiếng Việt. Biết quí trọng và yêu thích âm nhạc dân tộc.
Nhưng làm cách nào để giữ cho con em nói được tiếng Việt ?
Làm cách nào để hướng dẫn con em biết yêu thích âm nhạc dân tộc trong khi mình có yêu thích âm nhạc dân tộc không ? Những thao thức trên đây không nhằm mục đích cùng suy nghĩ làm cách nào để đem âm nhạc dân tộc đến với mọi người. Nhất là tại đây, nơi đất nước chúng ta đang sống, không phải quê hương của mình. Nếu mình có thể gìn giữ được nét đặc thù dân tộc, như vậy chúng ta không sợ bị mất dân, mất gốc.
Ðể học tiếng Việt, với phương pháp mới bây giờ, các em có thể học được tiếng Việt dễ dàng. Những bài hát ngắn, lời hát đơn giản, dể thuộc sẽ làm các em ưa thích, các em sẽ hát hoài , và nhất là chính mình cũng phải hát với các em.

Nhưng, một điều thao thức cho chúng ta là làm sao giữ cho các em có thể nói, viết đọc một cách suông sẽ và không bị quên tiếng Việt khi bắt đầu lớn lên.

Xin các bạn cùng suy nghĩ với tôi !

Âm nhạc dân tộc hội nhập vào xã hội mình sống.

Ðây là vấn đề thao thức của phần lớn người Việt Nam định cư ở hải ngoại.
Một câu nói lưu lại từ xưa 'Truyện Kiều còn là tiếng ta còn, nước ta còn' khi phong trào cổ động cho việc dùng tiếng Việt làm quốc ngữ. Tôi xin được lấy ý trên để nói rằng : Nhạc truyền thống còn là tình tự dân tộc còn, và nước ta còn.

Âm nhạc cổ truyền là nét nhạc tiêu biểu của một dân tộc. Qua âm nhạc, người ta có thể hiểu cá tính, phong tục tập quán và cả sự hưng thịnh của dân tộc. Nước ta bị quá nhiều tai nạn, khó khăn. Nhìn lại quá khứ, có bao nhiêu năm Việt Nam được thanh bình thật sự ?

Hơn ngàn năm bị tàu đô hộ, cả trăm năm nô lệ tây, khỏi ách thống trị cường quốc này lại khoác vào mình cái ách khác, chê chế độ này không xứng đáng đón lấy nguồn máy nô lệ kia. Hết học tiếng tàu, sống như tàu, lại hấp thụ văn minh tây, rồi đổi đời không 'nô' thi 'nhíét'bgbg loạn xạ. Người dân thật khổ sữ trăm chiều. Lịch sử nước Việt còn đó, tiền nhân đã trãi qua bao cam go, có những người thật sự đấu tranh cho dân tộc, nhưng cũng có người đấu tranh cho dân tộc để cho mình.
Hậu quả đó, trách nhiệm đó, chính tự người đã gieo giống sẽ nhận lãnh lấy trách nhiệm đối với tổ quốc, đối với quê hương.

Nếu năm 1954, người miền Bắc không di cư từ Bắc vào Nam, thì không có ngày hôm nay, các nước đã biết đến người Việt Nam ở khắp mọi nơi. Nếu năm 1975, không có làn sóng vượt đại dương của người Việt, thì không có ngày nay, người dân Việt Nam đã nói đũ thứ ngôn ngữ trên thế giới. Ðiều này không biết nên buồn hay vui. Ðiều này không biết đó là sự xui hay là sự hên của dân tộc ?
Nếu không có chuyện người Việt tung bay khắp nơi để tìm tự do, thì ngày nay, những lúc khó khăn vì tai ưöng trong nước, đã không có sự trợ giúp đắc lực của chính người dân Việt từ khắp nơi gửi về. Hơn 26 năm, chúng ta bị tách rời cái nôi dân tộc, để sống xứ người, trong cuộc di dân bất đắc dĩ này, chúng ta chưa được chuẩn bị như người Do Thái, người Trung Hoa, nhưng với trí thông minh sẵn có của người Việt, chúng ta đã học hỏi rất nhiều về cách sống ở các quốc gia đã đón nhận chúng ta. Như các bạn đã biết tôi không cần kể lể mất công.
Ngày hôm nay, dân Việt đã có hai, ba thế hệ đã sống qua ở xứ người.
Thế hệ thứ nhứt của những người vượt biên khoảng 50, 60 tuổi, với những người con đã đem theo được trong lứa 20, 30. Họ đã phải tranh đấu vất vã để tạo lại cuộc đời. Ngày nay, thế hệ trẻ con sinh ra tại đây cũng đã được trên dưới 20, thành phần này không được sống trong chiến tranh và được sống cuộc sống đầy đủ của dân một xứ giàu. Thế hệ thứ ba được sinh ra tại đây bây giờ. Ta có thể thấy được diển tiến cách sống của các gia đình đó.

Hơn 26 năm ở hải ngoại, người Việt Nam đã có cuộc sống vững chắc về nơi ăn chốn ở, không ít thì nhiều cũng quen phong tục tập quán của nơi này, liệu có còn giữ được phong tục, tập quán của mình như người Do Thái hay người Trung Hoa không ?
Mới có đến thế hệ thứ hai là đời con cái đem theo được khi còn bé, hay được sinh ra trong thời gian chạy loạn này, tôi đã thấy có cái gì hơi khác rồi. Phần đông ở bên Pháp này, con cái hay nói chuyện với nhau bằng tiếng Pháp, có nhiều em lại không nói được tiếng Việt. Rồi sự liên hệ của gia đình không được chặc chẽ vì không có thì giờ, mỗi người mạnh ai mấy lo chuyện của mình, hầu như chỉ gặp nhau trong giờ ăn tối , may ra.
Qua những lần tham dự các đại hội văn hoá tổ chức chung của các nước, hầu như Việt Nam luôn luôn chiếm được cảm tình của mọi người qua y phục, dáng điệu nhẹ nhàng, nét xinh xắn duyên dáng của mái tóc, dáng người.
Nhưng các người bạn địa phương hay nói là người Việt Nam rất dể thương, nhưng không có chịu tham dự các buổi họp mặt chung, ít khi chịu hoà mình với các tổ chức bạn. Người Việt Nam hay tựu họp ăn uống riêng rẽ và sống tách rời, hoặc nếu có làm cái gì chung thì cũng không có hoà mình hết lòng. Ðó là sự nhận xét của các người bạn bản xứ hay các sắc tộc khác.
Những năm đầu, mới tốt nghiệp nhạc viện, trong những buổi văn nghệ tất niên, tôi đã đem dân ca đến với các phân khoa đại học. Xuất hiện trên sân khấu với cây đàn ghitar với những bài dân ca, mà lúc đó, thiên hạ nghe như những bài hát lạ. Ðó cũng là một điều khác lạ với bè bạn cùng lứa.

Phượng Ca Dân Ca Quốc Nhạc là gì ?
Ðược thành lập tại Việt Nam từ năm 1969 tại Saigon.
Phượng Ca là một lớp nhạc qui tụ được khá đông học trò thời 69 -75.
Mục đích của Phượng Ca bảo trì, phát huy và phổ biến dân ca quốc nhạc đến thanh thiếu niên qua các sinh hoạt trẻ,học đường.
Phượng Ca đã khơi lại mạch sống phong trào về nguồn đến với thanh niên học sinh và tạo ra các ban đàn tranh cho các trường trung tiểu học tại Saigon.

Châm ngôn của Phượng Ca là ''Một truyền thống đang được tiếp nối''.
Công việc mà Phượng Ca đã hoạt động từ năm 1969 tại Việt Nam. Trong khi các bạn bè chuyễn hướng, hát tân nhạc, tôi vẫn tiếp tục lội ngược giòng sông văn hóa để tìm về nguồn.

Ðịnh cư tại Pháp. Sau thời gian để ổn định cuộc sống. Thấy nhu cầu bảo tồn phát huy âm nhạc truyền thống càng quan trọng hơn. Tôi đã suy nghĩ, phương pháp hoá cách học đàn tranh, tạo môi trường, để lôi cuốn các con em, thanh thiếu niên Việt Nam. Trong hơn 10 năm đầu, tôi chỉ nghĩ đến Việt Nam, trẻ con Việt Nam, cuộc sống Việt Nam mà quên rằng mình đang sống trong đất Pháp.
Nhân dịp được cha Ngô Duy Linh mời sang dạy cho các em thiếu nhi trong 1 tháng ở New Orleans. Tôi mới có dịp thoát ra cái chỗ ở của mình bên Pháp, để nhìn người Việt sống bên Mỹ. Sau 1 tháng ở Mỹ trở về Pháp. Tôi mới thấy, mình đang sống ở xứ người mà mình không chấp nhận hội nhập vào xã hội người là điều rất sai, thiếu sót lớn. Mà hầu như mình không cần để ý hay không cần biết đến.
Thay đổi các làm việc, học nói tiếng Pháp, rồi cơ duyên đưa đến , tôi được dạy môn âm nhạc Việt Nam tại nhạc viện Pháp.
Nhờ hội nhập vào xã hội Pháp, thì người bản xứ mới thấy được cái đẹp của âm nhạc, văn hoá Việt Nam. Những năm sau này, tham dự các chương trình văn hoá tổ chức hằng năm trên toàn Âu châu. Phượng Ca đã được coi như đại diện cho Việt Nam, để nói lên cho thế giới biết rằng bên cạnh chiến tranh mà thế giới đã biết đến Việt Nam, thì ngày nay, qua văn hoá, người ta lại thấy được một dân tộc có một nguồn văn hóa thuần túy và một nguồn nhạc truyền thống luôn luôn còn được lưu truyền.

Phương Oanh


Nguồn : . Du Ca Viet Nam .
Phượng Các
#4 Posted : Saturday, March 5, 2005 8:06:01 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,686
Points: 19,998
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
Viết Về Du Ca,
Phong Trào Sinh Hoạt Văn Nghệ Trẻ Của Việt Nam
.

Phương Oanh


Năm 65, tôi cùng nhạc sĩ Phạm Duy, nhạc sĩ Nguyễn Ðình Nghĩa đã lên Dalat, tham dự đêm Tâm Ca do sinh viên viện đại học Dalat tổ chức tại giảng đường Thụ Nhân.
Trời Dalat sương mờ, tôi co ro trong chiếc áo padesuis mà chị Khánh Tuyết cho mượn, đang gật gù vì vừa tới Dalat sau 2 giờ bay mà tôi chưa quen di chuyển bằng máy bay lúc đó.
Vào đến viện đại học, được ban tổ chức đón tiếp, nghỉ ngơi và chuẩn bị chương trình cho đêm hát. Trong thời gian này, tôi đã tốt nghiệp được giữ và đã dạy tại trường nhạc không bao lâu, bắt đầu xuất hiện trước học sinh, sinh viên qua các buổi thuyết trình giới thiệu dân ca, âm nhạc truyền thống với giáo sư Nguyễn Hữu Ba, Lê Thương, tại các trường trung học, đại học, cũng như mới bắt đầu trình diển trước công chúng qua các chương trình có tính cách từ thiện, hoặc trong giới sinh viên vào những dịp tết.
Khi còn học ca cổ ở trường Quốc Gia Âm Nhạc, tôi được các thầy cô cho đi thu thanh với các ban ca Huế, ban chèo Phụng Minh trên đài phát thanh Saigon, Quân đội, hay đài tiếng nói tự do, tôi vẫn thường gặp mặt các ca sĩ, do đó, hầu như mọi người đều biết mặt nhau, từ ban hợp ca Thăng Long, đến Ban Tiếng Tơ Ðồng v.v... Sau này, đến trình diễn trong chương trình tiếng nói học đường của Trung Tâm Học Liệu với thầy Hùng Lân ở đài phát thanh hay ở đài truyền hình trong đề tài tìm hiểu dân nhạc Việt Nam, thì lại được làm việc chung với các chị Tuyết Hằng, Thu Hà, Hồng Vân của tam ca Ðông Phương. Mặc dù vẫn thường xuyên liên lạc với các văn nghệ sĩ, nhưng tôi đã chọn chỗ đứng của mình trong môi trường nghệ thuật là dạy học. Nên trình diễn chỉ là muốn góp mặt với bè bạn, cũng như để có dịp làm quảng cáo cho âm nhạc dân tộc mà thôi.
Từ lúc gặp ban Trầm Ca tôi thấy đường lối hoạt động của các bạn hợp với mình, nên "nhảy" vào. Ban Trầm Ca lúc đầu chỉ có năm anh chàng, bây giờ có thêm một giọng nữ nữa là sáu ( Nguyễn Ðức Quang, Trần Trọng Thảo, Hoàng Kim Châu, Ðinh Gia Lập, Hoàng Thái Lĩnh, Nguyễn Quốc Văn và Phương Oanh ). Sau khi Quang và các bạn "di dân" từ Dalat xuống Saigon, lúc đó, thật sự chúng tôi đã đến sinh hoạt thường xuyên với các sinh viên, học sinh và trong môi trường này, tôi thường gặp Khánh Ly với Trịnh Công Sơn.
Hai lối trình diễn, hai lối suy nghĩ khác nhau giữa Quang và Sơn, và hai cách xuất hiện trước công chúng khác nhau giữa tôi và Khánh Ly, đã làm sinh viên từ Saigon đến Huế thích thú, say mê. Tình bạn chúng tôi đến bây giờ cũng vẫn như những ngày đầu gặp gỡ.
Một lối viết nhạc, nói lên tâm trạng bi quan, về quê hương, cuộc đời, xã hội, ủy mị tìm quên qua ly càfê, qua ly rượu đắng.
Một lối viết nhạc, nói lên cái thao thức của một dân tộc bị chia xẻ, bị người ta điều khiển giống như con tốt trên bàn cờ, dù bị trị, nhưng lời hát vẫn bộc lộ sự can cường, ung đúc tinh thần để cùng đứng lên, lo cho tương lai đất nước.
Trong lúc nhạc của Sơn được phổ biến rộng rãi tại các phòng trà, quán nhạc, thì ngược lại, nhạc của Quang đã được giới sinh viên, học sinh biết tới, qua các trại làm công tác xã hội. Một số lớn nhạc của Sơn và Quang được giới trẻ đón nhận và xử dụng trong các dịp sinh hoạt chung, tạo nên bầu không khí lành mạnh. Bộ thanh niên thấy được điều này, nên đã tổ chức các khoá sinh hoạt 'Thanh Ca Tác Ðộng' để muốn gầy dựng một tầng lớp người trẻ lành mạnh và đầy sức sống trên toàn đất nước.
Năm 1969, cùng với Khánh Ly , Quang và tôi lại có dịp đi Âu Châu trình diễn, nên lại càng đến gần nhau hơn nữa, trong lúc này Phong Trào Du Ca thành hình vững mạnh tạo nên một làn sóng tươi trẻ mới trong xả hội, Phong Trào phát động thật rộng rãi, có rất nhiều toán du ca khắp nơi trên toàn quốc, đặc biệt lại thu hút được rất nhiều phái nữ tham dự.
Tôi không còn đến thường xuyên với các bạn nữa, mà trở về vị trí của mình, lo duy trì lớp đàn tranh - Phượng Ca. Nhưng mỗi khi Phong Trào Du Ca tổ chức sinh hoạt, thì lúc nào Phượng Ca cũng có mặt để góp chung tiếng đàn, tiếng hát của mình.
Sau khi rời Việt Nam đầu năm 75, tưởng là sẽ không bao giờ được gặp lại bè bạn thân yêu. Thời gian trôi qua, nhưng rồi cũng bắt lại được liên lạc, người còn người mất, nhưng tình thân ái vẫn tràn đầy, đối với nhau như anh em trong gia đình. Tinh thần Du Ca còn đây, nhưng những người Du Ca nay nơi đâu ..? Càng sống xa quê hương, càng cần sự có mặt của Du Ca ở đó. Vì Du Ca là hình ảnh của người thanh niên Việt Nam sống cho xã hội, cho quê hương dân tộc. Càng xa Việt Nam bao nhiêu, chúng ta càng cần tìm đến nhau bấy nhiêu để giữ vững tinh thần dân tộc cho con cái và cho thế hệ trẻ sau nàỵ Phải cám ơn một số Du Ca Viên tâm huyết đã cố làm sống dậy phong Trào Du Ca trong những năm đầu tiên khi định cư nơi xứ người, thật khó lòng giữ cho tinh thần Du Ca không bị lệch lạc nếu không có những người thật sự được uốn nắn bởi Phong Trào.
Bây giờ, người khởi xướng phong trào đã chịu xuống núi, đi reo rắc lại niềm tin, sức sống, tinh thần Du Ca từ Mỹ sang Úc, đến Pháp (?) v.v...Ðiều này làm tôi rất vui và phấn khởi. Nhưng có một trở ngại là sống ở xã hội có đầy đủ tiện nghi, nhưng có những cái mình muốn mà không thể làm được, vì chúng tôi bây giờ tuổi tác cũng đã bắt đầu lên lão, thì các bạn trẻ phải tiếp tay, phải lăn xả để cột trụ Phong Trào có thể đứng vững tiếp nối việc làm của mình bị bỏ dở trong những tháng năm dài vừa qua.
Các trưởng Nguyễn Quyết Thắng, Nguyễn Thiện Cơ, Ngô Mạnh Thu, Fa Thăng ..và nhiều trưởng Du Ca khác nữa mà tôi chưa được biết tên cũng nên bắt tay nhau lại, để mong một ngày, Ðại hội Du Ca được tổ chức ỏ đâu đó, anh chị em được gặp nhau, cùng nắm tay mà hát vang những bài ca xây dựng trên đất nước của chính mình hay ngay tại đất nước mà chúng ta gọi là tạm dung nàỵ


Phương Oanh.
7/10/02
Phượng Các
#5 Posted : Saturday, March 5, 2005 8:08:41 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,686
Points: 19,998
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
Mẹ của em ơi

Phương Oanh


Thế là từ giờ trở đi, con không còn được nói chuyện và xưng em với mẹ nữa rồi, cũng như con không còn tìm dịp, tìm cách để về Việt nam thăm mẹ nữa. Thoát một cái thời gian trôi qua nhanh quá, mới hôm nào nghe điện thoại trong nước gọi sang báo tin mẹ mất, 11h sáng ngày 4/7/2001, nhằm ngày mười bốn, rằm tháng 5 năm Tân Tỵ. Khi nhận được tin, lòng con chơi vơi, lâng lâng như vừa uống ly rượu mạnh. Tâm trạng con lúc này thật khó mà diễn tả được vì vừa mừng lại vừa buồn chen lẫn.

- Mừng cho mẹ được giải thoát cơn bệnh ngặt nghèo, phải nằm một chỗ mấy năm trời không tự xoay trở được.

- Buồn vì biết rằng từ giờ trở đi có muốn về thăm cũng không được ôm mẹ trong tay, giỡn đùa như những năm vừa qua con còn được diễm phúc về với mẹ.

Nghe báo tin, bên nhà đã chuẩn bị chỗ nằm cho mẹ bên bố, vì hai ngày sau, mẹ đã nằm yên dưới lòng đất lạnh. Con đã khóc rất nhiều, nghĩ đến ngày bố mất, lúc đó hoàn cảnh chiến tranh xáo trộn, chúng con đã không có mặt, giờ đây mẹ nằm xuống, mẹ cũng không gặp mặt được các con gái của mẹ... Con vẫn thì thầm nói chuyện với mẹ trong tâm tưởng, lúc nào cũng cầu mong có cơ hội về,? để thăm nơi mẹ nằm ngủ giấc ngủ ngàn năm có được tươm tất không.

Tết đến rồi đi, hai năm trôi qua thật nhanh, con vẫn chưa đũ can đãm cầm bút để viết về mẹ, mặc dù có nhiều chuyện về mẹ mà con rất muốn ghi lại cho các con các cháu biết thêm về ngoại.

Mẹ biết không, cách đây mấy hôm, có một người mời con làm một buổi hoà nhạc để mừng thượng thọ bố mẹ cùng kỹ niệm 50 năm đám cưới của ông bà. Người con gái đã nói với con, mẹ tôi người Hà nội, bố tôi người đảo Corse, chúng tôi có 6 anh chị em. Buổi tiếp tân này, tôi muốn tặng cho mẹ tôi món? quà bất ngờ, đó là buổi trình diễn nhạc truyền thống Việt Nam.

Mẹ ơi, khi nghe cô ấy nói thế, nghĩ đến bố mẹ, mừng cho người bạn có diễm phúc còn đũ bố mẹ, con nhận lời, đây là điêù rất đặc biệt vì không bao giờ con đi đàn ở tiệm ăn cả. Cảm hứng về tình gia đình đã tạo ý cho con soạn một chưong trình với chủ đề về tình yêu và bổn phận đối với cha mẹ. Trong buổi tiệc rất đông người đến từ các nước, nhưng chỉ có bốn người Việt duy nhất đó là em trai và em gái của bà. Khi bắt đầu chương trình, con xin phép mọi người, được nói với bà bằng tiếngViệt, mà những lời con nói, giống như con đang nói với bố mẹ. Buổi tiệc mừng thượng thọ này, con đã nghĩ đến bố mẹ qua ông bà cụ, do đó con gái con đã cùng hoà đàn với con, mục đích này để Như Lan được thấy cái hạnh phúc gia đình người ta làm tiệc mừng ông bà.

Nhìn đầu tóc trắng phau, dáng người vẫn còn mạnh khoẻ của hai ông bà dù đã trên tám mươi tuổi, con đã hát và đàn những bài hát nói về công đức sinh thành, tình yêu thương giữa bố mẹ cho con cái và bổn phận con cái đối với cha mẹ. Ở xã hội ngày nay, tìm được những hình ảnh này thật là hiếm có với cuộc sống quá bận rộn chạy đua với thì giờ, tiền bạc, con người mất hết tình cảm dành cho bố mẹ, gia đình, con cái.

Sau khi trình diễn xong, họ đã mời chúng con ở lại dự tiệc, nhưng con từ chối vì muốn cho gia đình họ có được những giây phút riêng tư, con đã rủ con gái và người bạn đi cùng đến một tiệm ăn khác để ăn vì lúc đó cũng đã chín giờ tối rồi. Về tới nhà cũng đã khuya, con có hứng để ngồi ghi lại vài dòng như thường lệ. Con cố thu hết can đãm để viết cho mẹ, nước mắt con tuôn rơi, vì con vẫn không dám chấp nhận sự thật về sự ra đi của mẹ ... Hai năm nay, trong ngày lễ cha mẹ, mỗi lần được cài hoa trắng trên ngực, là con lại khóc vì biết rằng con đã không còn bố mẹ trên đời. Những lúc đó, Như Lan luôn luôn ở bên cạnh ôm con trong đôi tay của cháu, vỗ về con như con vẫn ôm và vỗ về mẹ mỗi khi được về gần bên mẹ.

Mẹ ơi, ngày con về nhà chồng, tóc mẹ vẫn còn xanh, mẹ đã hơn 60 tuổi, hình ảnh này vẫn luôn luôn sống trong tim con. Ðến năm 89, khi làm bảo lãnh để mẹ sang chơi, thăm con cháu. Con vẫn nhớ thái độ thông dong, nhàn hạ của một bà cụ tóc trắng từ trong bước ra nơi cửa đến của phi trường, con không nhìn ra, vì mẹ đã khác xưa. Mẹ gầy quá, trong chiếc áo dài nhung đen bông kép, choàng trên vai quành khăn san màu thẩm, có một cái ơ trầu là món ăn mà mẹ nói nếu không có nó thì mẹ không thể yên được trên tay. Con nghẹn ngào vì con không nhìn ra được hình ảnh ngày xưa trước ngày con xa rời quê nhà. Nhưng có một cái gì đó trong con đã cho con biết bà cụ này là mẹ. Mặc dù trên 80, mẹ vẫn còn mạnh khoẻ, đi đứng dể dàng, tuy nhiên mẹ đã có cái lưng hơi gù gù rồi. Chúng con muốn giữ mẹ ở lại Pháp, nhưng mẹ không chịu vì cuộc sống bên này không giống như bên nhà, mẹ không được đi hàng xóm, không được đi ăn quà những khi mẹ thích, suốt ngày ở trong nhà, không được nói to (giọng nói mẹ rất mạnh, mẹ hát rất hay) và mẹ nói ở đây, mẹ bị ?chồn chân chồn cẳng?, buồn quá.

Mẹ có biết là trước khi quyết định đón mẹ sang, bốn chị em chúng con đã thu xếp với nhau, chia nhau thì giờ để chăm sóc mẹ, lúc nào cũng có một đứa bên cạnh vậy mà mẹ còn than buồn, thử hỏi những người lớn tuổi khác ở đây sẽ chơi vơi thế nào, khi con cái đến tuổi trưởng thành, không chịu ở chung và vì không thể chăm sóc được nên buộc lòng phải cho bố mẹ mình vào viện dưỡng lão?

Ba tháng trôi qua thật nhanh, ngày mẹ trở lại Việt Nam, thì mẹ lại muốn ở lại, nhưng khi định xin gia hạn visa, thì mẹ lại nhớ anh Minh rồi lại đòi về. Chúng con đã hẹn với mẹ, sẽ về thăm mẹ thường xuyên như mẹ muốn...

Năm 95, lần đầu tiên sau hơn 20 năm xa nhà, con mới trở lại Việt Nam vì tin mẹ ốm nặng. Trong gần 1 tháng, mỗi đêm, mẹ ngủ gối đầu trên cánh tay con, lúc đó mẹ vẫn còn khoẻ, vẫn còn ăn được vì còn răng, mặc dù có cái long lay, có cái xiên xẹo. Ðêm đêm, Như Lan lúc đó mới 11 tuổi, con gái ?thèm? được nằm kề sát bên ngoại, để nghe ngoại ?ngáy? và quạt cho ngoại ngủ yên. Rồi mỗi năm, con đã tìm một cái gì đó làm trong nước,? đặng có cớ để về với mẹ, được ôm mẹ trong vòng tay cứng cáp của mình, dỗ dành ?em bé mẹ? ?bắt phải ngoan? thì mới được con cưng chìu.

Mỗi năm, tuổi mẹ càng cao, thể xác mẹ càng suy yếu, mẹ không còn nhớ gì, chỉ một câu chuyện, mẹ có thể lập đi lập lại cả mấy mươi lần trong ngày, mà vẫn chưa hết. Về sau, mỗi khi mẹ mở miệng là các cháu chắc của mẹ đã đứng chung quanh, đồng lập lại câu nói đó để được nghe mẹ cười thích thú, mắt nhắm tít, miệng nhe hàm răng đã rụng gần hết.

Mẹ ơi, con còn nhớ rỏ những năm xưa, khi con vừa mười lăm, mười sáu, sống với bố mẹ ở Quang Trung. Mỗi sáng, mẹ dậy thật sớm, nấu cơm, chiên cá chan nước mắm pha chanh cho chúng con ăn sáng trước khi đi học. Ðứng bên cạnh nhìn mẹ nấu cơm, nét mặt thật dể thương với nước da rám nắng vì vất vả lo cho heo ca gà vịt cả ngày, mẹ đã không quản khó nhọc, lo lắng cho chúng con với cả lòng thương yêu. Ngồi nhìn con với chị Tâm ăn, sau đó mẹ còn gói phần ăn để chúng con đem theo, vì từ Quang Trung đạp xe ra Saigon đi học. Buổi trưa, hai chị em ngồi ăn cơm với nhau ở công viên Tao Ðàn, những giờ phút đó con chỉ ước ao ?giá nhà mình đừng xa quá?. Sau đó một thời gian cực khổ, tìm được ngôi nhà ở đường Phan Ðình Phùng quận ba, chúng con mới hết làm cua rơ xe đạp chặn đường ?Quang Trung Saigon? mỗi ngày...

Trở lại chuyện xa xưa hơn nữa, khi con, anh Phát và em Ðạt mới chừng 6, 7,8 tuổi, mẹ không có ở nhà thường vì mẹ bận đi buôn bán xa, chúng con đã được chị Cúc thay mẹ chăm sóc, con nhớ hoài, cả tuổi trẻ chúng con không được có mẹ bên cạnh, mỗi buổi chiều, sau khi đi học về, tắm rữa xong, trước khi ăn cơm tối, ba anh em dắt nhau ra đường cái, nhìn xe qua lại, cứ cầu mong mẹ ngồi trên một chiếc xích lô nào đó về với chúng con, nỗi nhớ mẹ khi con còn bé đã ám ảnh, ray rức con cho tới bây giờ...

Lập gia đình, ở bên này, con cũng thường vắng nhà vì đi trình diễn, nhưng bây giờ phương tiện thông tin quá tiện lợi nên cũng rất tốt. Những năm trước, khi chưa có điện thoại cầm tay, mỗi khi đi diễn xa, con vẫn gọi điện về cho gia đình để các cháu của mẹ được nghe tiếng con, được nghe con kể mọi việc làm con hằng ngày. Có những nơi, trung tâm nghĩ hè cho trẻ em ở trong rừng, hoặc ở bờ biễn không có điện thoại, thì hôm đó, con buồn vì mình không nói chuyện được với gia đình. Con tin chắc các con của con cũng mong mẹ chúng như khi con còn nhỏ chờ mong mẹ vậy.

Có một lần, khi Như Lan mới có 1 tuổi, con phải đi qua tiểu bang New Orléans 1 tháng để dạy học, chị Cúc lại thay con chăm sóc các cháu cũng giống như ngày xưa khi con còn bé, chị Cúc đã thay mẹ để lo cho con. Bây giờ thì chị Cúc lại phải thay con mà chăm sóc cháu. Mỗi ngày lúc con gái vừa thức dậy cũng như trước khi con gái đi ngủ, con phải gọi điện thoại về cho cháu, chị Cúc nói mỗi khi nghe tiếng con gọi, lúc đầu cháu đưa mắt tìm xem mẹ ở đâu. Sau đó thì biết rằng chỉ được nghe tiếng mẹ qua ống điện thoại mà thôi, nên mỗi khi chuông reng, cháu đã bò tới chỗ điện thoại cầm ống nghe mà để lên miệng ?cắn? vì nghĩ rằng mẹ đã đến với mình...

Con nhớ rất rõ nỗi nhớ mẹ, thiếu mẹ khi mình còn bé nên con rất thông cảm cho những đứa bé bị xa cha mẹ khi còn thơ ấu. Lúc Như Lan được ba tuổi, nói sõi hơn, con cũng đang chuẩn bị để đi dạy bên tiểu bang Texas, những lúc phải đi xa nhà lâu, con hay chuẩn bị tư tưởng các cháu bằng cách nói cho chúng biết mẹ sẽ đi vắng trước nhiều ngày, Như Lan hốt hoảng ôm chặt lấy con mà nói với gịong nói cuống quýt như sắp bị tra tấn ?mẹ ơi , mẹ ơi, mẹ đừng bỏ con?, con trai con thì buồn thỉu buồn thiu, không nói không rằng, ôm em không cho quấn chân mẹ.

Hình ảnh Long ôm em gái đang la khóc vì không chịu xa mẹ, làm con nhớ tới khi con còn bé, mẹ cũng ?đã lén bỏ? để đi, vì chúng con không muốn, mà mẹ cũng vẫn đi mà không một lời dặn dò, trước khi rời nhà. Không biết mẹ có biết rằng, chúng con nhớ mẹ ray rức biết chừng nào mỗi khi chiều tối không? ...

Con đã từ chối chuyến đi này. Trong bốn năm kế tiếp, con không nhận lời đi dạy xa để được ở nhà với các cháu và mới tiếp tục trở lại với điều kiện có cái đuôi con gái bên cạnh...

Mẹ ơi, hai năm trôi qua, nếu còn sống thì mẹ đã được 98 tuổi rồi. Bây giờ mỗi khi muốn gặp mẹ, con chĩ biết cầu nguyện và nói chuyện thầm với mẹ trong tim mà thôi. Hình bố mẹ chụp khi đám cưới con, con đã phóng ra to và chưng ở phòng khách, như thế, con được thấy bố mẹ cười với con mỗi ngày, mỗi phút giây và trong lúc này.

Bây giờ, mẹ không còn nữa, nhưng mẹ vẫn sống mãi trong tim con. Con không còn háo hức mỗi năm khi hè tới, bây giờ, có dịp để đi Việt nam nữa hay không, đối với con không còn quan trọng nữa. Con cũng đã không ân hận vì con đã tạo dịp để mẹ được gặp các cháu ngoại, cũng như con đã được ôm mẹ trong tay, đêm đêm ngủ bên cạnh và nâng giấc khi mẹ mỏi mệt trong những năm cuối của tuổi già sức yếu dù không được nhiều nhưng có cũng còn hơn không. Hôm nay hát lại bài Lòng Mẹ mà nhạc sĩ Y Vân đã sáng tác, từng chữ, từng câu, từng giòng nhạc như mật rót vào lòng con, mới cảm thấy nhạc sĩ đã để lại một bài ca vinh danh Lòng Mẹ tuyệt vời. Nhất là giờ đây, con cũng đã là mẹ, cũng đã trong vai mẹ nên con rất hiểu lòng bố mẹ lo lắng thương yêu con cái như thế nào...

Lòng mẹ bao la như biễn Thái Bình dạc dào.

Tình mẹ tha thiết như vầng trăng tròn ngọt ngào.

Lời mẹ êm ái như đồng lúa chiều rì rào.

Tiếng ru êm đềm theo dần năm tháng mẹ yêu...

Thương con, thao thức bao đêm trường.

Con đã yên giấc, mẹ hiền vui sướng biết bao.

Thương con, khuya sớm bao tháng ngày

Lặn lội treo neo, nuôi con tới ngày lớn không.

Dù cho mưa gió không quản tháng ngày mẹ hiền

Dầm mưa giải nắng cho bạc mái đầu buồn phiền...

Khi con gái con còn nhỏ, mỗi lần đi dạy xa, trên xe lữa, con viết nhiều bài thơ cho cháu. Có một lần, trường cháu trình diễn, con lại vắng nhà. Con đã nhờ chị Cúc đi với cháu thay con. Lúc con về, con gái thủ thỉ :

- Mẹ ơi, hôm nay trình diễn, trường đông lắm, có rất nhiều mẹ, nhưng con không có mẹ.

Nghe con gái ngây thơ nói, tim con se thắt , thật tội nghiệp cháu gái của ngoại, phải không mẹ.

Con thật hư phải không mẹ, vì mãi tới hôm nay, con mới dám viết đôi dòng gửi mẹ, mẹ đừng có la con nhé, thỉnh thoảng, con sẽ nhắc lại những kỹ niệm, những hình ảnh mà khi mẹ còn sống mẹ đã cho chúng con sau mẹ nhé.

Con hôn mẹ và mong rằng bố sẽ đọc ké thư? này với mẹ, mẹ nhé.

Phương Oanh.
Phượng Các
#6 Posted : Wednesday, May 4, 2005 2:25:44 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,686
Points: 19,998
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
Chơi Với Cây Đàn

Tiểu Quyên


Phương Oanh, con chim đầu đàn của ban nhạc dân tộc Phượng Ca từ Pháp trong chuyến sang thăm bạn bè tại vùng Tiểu Saigon, đã làm cho họ ngạc nhiên không ít về phương pháp dạy đàn tranh mới mẻ của cô. Dáng người vẫn nhanh nhẹn, tiếng cười nói vẫn ríu rít như chim, Phương Oanh cho biết cô có thể dạy một em bé khoảng 3-4 tuổi cũng như các cụ già trên 70 "chơi với cây đàn" một cách tài tử, ngay từ buổi học đầu tiên. Kẻ viết bài này, chưa bao giờ cầm tới cây đàn dân tộc ấy, đã xin được thực nghiệm ngay với cô bạn để coi cô dạy dỗ cách nào mà học trò lại có thể chơi đàn mau như vậy được. Ai cũng biết âm nhạc nghe thì dễ nhưng muốn tấu lên một khúc đàn không phải là công trình có thể làm ngay được như kiểu mì ăn liền, trà uống gói. Trong vòng nửa giờ, Phương Oanh đã làm cho người học trò mới mến cây đàn tranh, yêu thanh âm của 16 dây đàn mỏng manh đó. Phương Oanh còn gẩy vài khúc nhạc theo ngẫu hứng tự do, tiếng đàn như nước chảy mây trôi, khiến cho người nghe thoải mái vô cùng. Cô nói: "Bạn cứ gẩy theo cái tâm của mình, muốn khoan muốn nhặt, thấy làm sao thích hợp nhất là cứ làm". Theo phương pháp "chơi với cây đàn" một cách tự do, người dạo đàn chưa cần học theo bài bản, chưa cần chú ý gì tới cung bậc thứ trưởng chi hết. Họ chỉ gẩy những dây đàn cho thanh âm phát ra theo cảm hứng trong tâm họ mà thôi. Chơi với cây đàn tranh lần đầu, quả là một kinh nghiệm hứng thú và đặc biệt.

Buổi sáng hôm sau, trời cuối Hè đã mát mẻ, chúng tôi lại được tham dự buổi chơi với cây đàn của một em bé 4 tuổi tên là bé Trúc. Chỉ cần dăm ba phút làm quen với bé, Phương Oanh đã rủ được cô học trò nhỏ ngồi xuống nghe cô giáo đàn một khúc nhạc ngắn vui tươi. Mấy phút sau đó, bé Trúc chịu để cho cô giáo Phương Oanh đeo móng (để gẩy đàn) vào hai ngón tay cái và trỏ của bàn tay phải của em. Sau đó, cô giáo đặt cây đàn tranh lên đùi em, và rủ em bắt đầu chơi với cây đàn. Em bé xúng xính trong bộ áo đầm màu đỏ, chỉ ngần ngừ một chút xíu lúc đầu, sau đó bắt đầu chơi với cây đàn em mới thấy lần đầu với chút ngần ngại, e dè. Cây đàn phát ra những âm thanh non nớt rụt dè: Sòn-La-Đô-Rê-Mí... Sol-La-Do-Re-Mi... Sau đó, bé Trúc bắt đầu thấy tự tin hơn, bắt chước cô giáo gẩy hết 16 dây đàn theo những mẫu âm thanh mà cô giáo đã làm. Tiếng đàn bắt đầu rõ nét hơn, em bé cảm thấy tự tin hơn... Ông bà nội của bé sung sướng ngồi nghe em học bài học vỡ lòng đàn tranh với người bạn từ thuở còn niên thiếu của họ: Phương Oanh vẫn như thuở nào, trẻ trung và có tài dụ con nít rất hay.

Buổi học đầu để cho người học trò "chơi với cây đàn" đúng ra chỉ là một buổi sơ giao làm quen giữa "cô giáo và học trò", giữa "người và đàn". Phương Oanh muốn giới thiệu cây đàn với người muốn học, để cho trò thấy mến cây đàn, không sợ sệt, không bị mặc cảm yếu kém, mà có niềm tự tin rằng mình có thể học để chơi đàn tranh được. Ai cũng biết âm nhạc nghe thì dễ nhưng muốn tấu lên một khúc đàn không phải là công trình có thể làm ngay được như kiểu "mì ăn liền". Tuy nhiên, nhờ công phu nhiều năm học hỏi trong các khóa tu nghiệp của nhạc viện Pháp, Phương Oanh đã có sáng kiến để giới thiệu cây đàn tranh với những người học trò mới tinh, hay những người muốn chơi đàn nhưng không có nhiều năng khiếu về âm nhạc. Đó là một phương pháp khá thành công, giúp người học, cho dù còn rất nhỏ (từ 3 tuổi) hay đã khá lớn ( trên 60-70 tuổi), trò nào cũng có hứng khởi và yêu thích việc tập đàn.

Nổi tiếng tại miền Nam Việt Nam trước 1975, Phương Oanh hiện vẫn đang tiếp tục hướng dẫn nhóm Phượng Ca mà cô sáng lập từ năm 1969 tại Saigon. Sang tỵ nạn xứ Pháp cùng gia đình từ năm 1975, Phương Oanh đã bắt đầu lập lại nhóm dân ca quốc nhạc Phượng Ca sau khi gặp lại Khánh Ly trong buổi cô qua Paris hát (năm 1976). Ngoài Khánh Ly, cha Ngô Duy Linh, nữ sĩ Minh Đức Hoài Trinh và nhiếp ảnh viên Hà Phong là những người thúc đẩy, khuyến khích Phương Oanh rất nhiều trong bước đầu ở đất Pháp.

Đêm trình diễn đầu tiên năm 1978 của nhóm Phượng Ca tại hội trường sinh viên quận V, Paris, nhóm có 15 người, đa số là các sinh viên Việt tại đại học Paris 7. Buổi trình diễn được giáo sư Trần Văn Khê và cha Ngô Duy Linh chủ tọa, với hơn 100 khán giả rất nhiệt tình ủng hộ.

Phương Oanh sanh tại Đà Lạt năm 1945. Là con út trong gia đình 8 anh chị em, cô được chị thứ tư (chị Cúc) cưng chiều và chăm sóc như người mẹ thứ hai vậy. Học trong trường Quốc Gia Âm Nhạc Saigon với thầy Nguyễn Hữu Ba, Nguyễn Cầu, Hùng Lân, Trịnh Chúc, cô Tuyết Hương và Phạm Duy, cô tốt nghiệp năm 1963 về đàn tranh và ca xướng cổ truyền (đặc biệt nhạc miền Trung). Phương Oanh trở thành phụ giáo rồi giáo sư tại trường nhạc đó cho tới năm tới năm 1975. Có lẽ khả năng tiếp xúc dễ dàng với trẻ em của Phương Oanh, cũng như hoàn cảnh luôn được sinh hoạt với giới trẻ đã khiến cho cô giữ được vẻ tươi vui hiếm có. Sau hơn ba thập niên làm đầu đàn cho các cánh phượng, làm giám đốc trường nhạc Phượng Ca, Phương Oanh vẫn có dáng vẻ nhí nhảnh, xinh xắn của cô thiếu nữ thập niên 1970. Hiện cô tuy bận bịu với công việc giảng dạy tại các nhạc việc, Phương Oanh vẫn tiếp tục dạy cho các thanh thiếu niên Việt Nam và hướng dẫn họ trong các sinh hoạt chung của nhóm Phượng Ca.

Phương Oanh đang sống tại ngoại ô Paris (Pháp Quốc) cùng chồng và hai con. Từ năm 1990, kỷ niệm 25 năm di trú trên đất Pháp, Phương Oanh đã có sáng kiến tổ chức chương trình Á Châu cùng với hội đoàn các bạn xứ khác cũng di cư sang Pháp, những ngày văn hóa làm bó hoa cảm ơn cưu mang của dân tộc Pháp đối với họ. Năm 1997, Phương Oanh tổ chức ngay tại quận Antony, do Hội Người Việt đỡ đầu, có sự tham dự của các nhóm văn hóa Cao Mên, Ai Lao, Ấn Độ, Trung Hoa, Nam Dương và Đại Hàn, Nhật Bản. Từ các sinh hoạt đó, Phương Oanh được nhiều thành phố chú ý nên họ đã mời cô giảng dạy về nhạc Việt và đàn tranh trong hai nhạc viện: Darius Milhaud vùng Antony (phía Nam Paris, từ năm 2001) và Sevran (phía Bắc Paris, từ năm 1987). Ngoài ra cô thường sang Oslo (Na Uy) và Thụy Sĩ giảng dạy theo lời mời của các nhóm dân ca quốc nhạc địa phương. Phương Oanh cho biết lần này qua Cali là để thăm các thầy, các bạn cũ của trường Quốc Gia Âm Nhạc Saigon, các bạn cùng làm việc trong Sở Chính Huấn trước năm 1975, và nhất là các bạn đã từng sinh hoạt chung thời thanh niên sinh viên như nhóm anh chị em báo Người Việt, và nhất là gặp lại gia đình người bạn rất thân: Nguyễn Đức Quang và Minh Thông. Nhiều người chắc còn nhớ ban nhạc sinh viên Trầm Ca thời 1965, gồm 6 nhân vật: Nguyễn Đức Quang, Trần Trọng Thảo, Hoàng Thái Lĩnh, Đinh Gia Lập, Nguyễn Quốc Văn, Hoàng Kim Châu và sau đó thêm Phương Oanh. Hầu như Trầm Ca là nhóm ca nhạc sĩ tiền phong trong lối trình diễn các bài hát trong cộng đồng thanh niên. Phương Oanh và Nguyễn Đức Quang thường hát song ca với nhau và bản dân ca Đèn Cù có lẽ là bản được nhiều khán thính giả ưa thích nhất.

nguồn: Du Ca Việt Nam
Phượng Các
#7 Posted : Monday, October 17, 2005 11:24:45 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,686
Points: 19,998
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
Trở lại Cali

Phương Oanh


Nhận lời thầy Nghiêm Phú Phi sẽ sang dự ngày họp mặt Trường Quốc Gia Âm Nhạc Saigon. Tôi trở lại đây lần thứ hai, sau hơn 10 năm xa cách. Một cảm giác thân thiết khi máy bay đáp xuống phi trường, khung cảnh thật quen thuc, trời mát mẻ chứ không nóng bức như ở bên Pháp. Chung quanh tôi những khuông mặt Á châu với mắt đen, da vàng, (có lẽ là người Tàu, người Nhựt, hay người Việt ?) tóc không đen. Tuy không biết họ là ai, nhưng tôi cảm thấy gần gủi vô cùng. Từ nơi phi cơ đậu, theo hành khách đi lần vào trong, tai tôi nghe tiếng Tàu, rồi tiếng Việt phát ra từ máy phóng thanh, để chỉ dẫn hành khách phải đổi chuyến bay đi nơi khác. Tới nơi nhận hành lề, tôi có cảm tưởng như mình đang đứng ở chỗ lấy hành lề của phi trường Tân Sơn Nhứt ngày nào khi tôi rời quê hương trước ngày mất nước.
Gần 30 năm sống tại Pháp, tôi đã có vài dịp sang Mỹ, lần nào cũng vậy đều do Cha Ngô Duy Linh tổ chức, để dạy cho các em thiếu nhi. Cha luôn luôn tha thiết muốn các em được học đàn tranh khi thì ở New Orleans , có lúc sang Arlington -Texas. Những lần đi này cha ‘bắt’ đi, chứ thật tình tôi không muốn tí nào. Vì mỗi khi phải đến toà sứ quán Mỹ tại Paris để xin chiếu khán, đó là cả Một cực hình đối với tôi, trong lòng tôi có cái gì ấm ức, tức tối mà không bc l ra được . Thấy người lính cầm súng đứng gác giữ trật tự qua mỗi cổng, là tôi đã bực mình, tự nhiên trong đầu tôi hình ảnh chiến tranh Việt Nam và cuộc di dân vĩ đại chưa từng có trong lịch sử nước nhà hiện ra thật rõ ràng. Khi tới những tiểu bang đã đón nhận người tị nạn, tôi lại có mặc cảm người ăn nhờ ở đậu, rồi thái đ của Một số người Việt lúc đó, kênh kiệu ra vẻ ta đây, sống như Mỹ, hưởng thụ như Mỹ mà không nghĩ đến cái thân phận tầm gữi của mình. .. Tôi rất buồn, vì chưa quên được cái nhục mất nước.
Mùa hè 93, đi dạy ở Arlington, trước khi trở lại Pháp, tôi có ghé ngang Quận Cam vài ngày để thăm bè bạn. Khung cảnh người Việt lúc đó không giống như bây giờ. Như đã nói, cách sống rất Mỹ của Một số người Việt tị nạn đã làm cho tôi thất vọng. Gia đình không giữ đưọc nếp sống của mình, trẻ con thì chỉ nói tiếng Mỹ, ăn mặc thì không có chút gì Việt Nam. Trong thời gian lưu tại đây, ra ngoài đường chỉ thấy người Việt mà không gặp Một người Mỹ nào. Lúc trở về Paris, tôi đã nghĩ rằng, chẳng bao giờ Mỹ lôi cuốn được tôi.
Thời gian trôi, năm nay, nếu không sợ mất chữ tín, không nghĩ đến sự mong đợi của thầy Nghiêm Phú Phi thì chắc tôi cũng không ‘thèm’ đi Mỹ... Hứa với thầy và giữ ngày trước cả năm, vậy mà tôi chĩ quyết định lấy vé đi Cali chỉ có hai tuần cuối.
Từ Paris, lấy máy bay của hảng hàng không Anh Quốc, tôi đã tới Los theo hành trình Paris -Londres - Los Angeles. Chuyến bay thật nhẹ nhàng và nhanh chóng, mặc dù ngồi trong máy bay suốt 12 tiếng từ Londres.
Khi lấy xong hành lề, tôi đang lay hoay tìm đường đi ra, trong bụng cũng hơi lo Nguyễn Đức Quang có đi đón đúng giờ không ? Chung quanh tôi, như đã nói, toàn là người da vàng, khi tới cửa ra, phải trình giấy khai đã nhận được trên máy bay, thì lại thiếu đi Một tờ giấy khai báo về tiền bạc, vật dụng đem theo... Nhân viên hải quan hỏi đến Mỹ làm gì, đi nghỉ hè phải không, tôi gật đầu đồng ề. Nhờ thế mà êm suôi mọi chuyện, tôi đi ra cửa nhanh chóng.
Đang lay hoay tìm xem Quang ở đâu, ngưòi đi đón thật nhiều, cũng toàn là người Việt. Nhìn mãi, tìm mãi mới thấy Một ông mập mập cười cười, tôi chưa nhận ra, thì Quang đã nhìn ra tôi trước. Quang nói là đang tìm xem Phương Oanh như thế nào, có chống gậy đi ra không, té ra, Phương Oanh không già nua như Quang tưởng. Vẫn hình dáng đó, vẫn dí dõm và nhanh nhẹn mặc dù tuổi cũng tròm trèm 60. Phần tôi thì cũng hồi hp không ít vì lạ nước lạ cái, nếu Quang không đến thì mình sẽ ra sao, vì tôi để quên địa chỉ và số điện thoaị của Quang ở nhà !
Khoảng cách từ phi trường về nhà Quang xa cũng như từ Paris về nhà tôi, xe chạy mất 40’ mới tới. Thông đi làm đã về tới nhà, đang chuẩn bị ăn cơm chiều. Quang bắt điện thoại nói chuyện với cháu ngoại, làm tôi bật cười.
- Thằng cu có đến ăn cơm với ‘ông ngoại’ không ?
Nghe Quang xưng ông ngoại, tai tôi tưởng như nghe nhầm, vì không bao giờ tôi nghĩ, bạn mình đã lên chức. Sực nghĩ lại mình, con cái cũng đã lớn khôn, vã lại các con của Quang cũng đã trưởng thành từ lâu. Do đó, Quang lên chức ông là đúng rồi.
Cất đồ đạc, ăn cơm tối xong, Hùng, em trai của Minh Thông đưa tôi đến trình diện thầy cô Nghiêm Phú Phi. Tới nơi, đã thấy có Trần Lộc (giáo sư vĩ cầm ở Saigon), Khuê (guitar) Hồng cũng là giáo sư vĩ cầm rất có uy tín ở Quận Cam và vợ chồng anh Trần Kim Quề có biệt danh là thần Kim Quy bên kịch nghệ. Thầy nói mọi người muốn ăn gì, để thầy đi chợ. Tôi ngạc nhiên vì đã chín giờ tối, chợ nào còn mở để mà mua với bán? Té ra, ở bên này, mọi người muốn ăn , chỉ có việc điện thoại đặt xong ra tiệm lấy món ăn đem về, chả phải cần nấu nướng gì cả. Ÿ xứ tân tiến thật tiện lợi... Vì mới tới , giờ giấc đão ln, tôi chưa quen, nên ngồi trên ghế mà có cãm tưởng như đang ngồi trên mây, lâng lâng bay bỗng, phải xin phép về, mặc dầu thầy cô cũng đã chuẩn bị chỗ ở cho tôi như đã định.
Sáng thứ tư, Quang dắt tôi đi ăn phở gà ở Một tiệm trong phố, tôi ngạc nhiên vì gà người ta không cho vào tô phở mà lại để trên đĩa riêng cùng Một chén nước mắm pha, giống như gà luc. Tôi đang ngạc nhiên thì Quang nói là tiệm ngon nhất mà cách đây 10 năm, Quang đã mời ăn khi tôi đến lần trước... Sau đó, lại lẽo đẽo theo Quang ra quán cà phê mà tôi chẳng nhớ tên. Vừa ngồi xuống là đã gặp bè bạn báo chí của Quang đi đến cười nói vui vẻ. Thật cũng vui, lâu lắm rồi, tôi mới có dịp làm ‘em bé’ đi theo ‘ông ngoại’ ăn sáng ở ngoài đường.
Có hai ông cũng chưa có già lắm từ từ đi tới, à thì ra anh Ngô Mạnh Thu và anh Hoàng Quốc Bảo của tờ báo Người Việt. Hơn 30 năm, tôi được gặp lại anh Thu, anh trưởng du ca và cũng là trưởng ban văn nghệ của ban nhạc tôi hát ở đài phát thanh, khi tôi mới 15, 16 tuổi.
Kể lại chuyện xưa, tôi không ngờ anh Bảo là người đã cùng tổ chức đêm văn khoa cùng với Vũ Thành An năm 63 tại sân trường Đại học Văn khoa, mà đêm đó, lần đầu tiên tôi đã làm khán giả say mê những bài dân ca do tôi vừa đệm guitar lấy để hát. Rồi từ đó, phong trào hát dân ca bành trướng rng trong giới học sinh, sinh viên tại Saigon. Thời đó, chưa có cô gái nào tự đệm đàn cho mình trên sân khấu, nên sự xuất hiện của tôi đã làm mọi người ngạc nhiên, cng thêm những bài dân ca mà hình như, mọi người cũng chưa được biết tới...Ngồi nghe các anh kể chuyện ngày xưa, cả Một trời kỷ niệm sinh hoạt, hiện về trong trí tưởng, mà tôi không hiểu tại sao lúc đó mình có thể ‘tung hoành’ được như vậy.
Sau đó, Quang đưa tôi đến thăm toà soạn báo Người Việt, tôi như đứa bé con, được ông ngoại cho về quê thăm họ hàng, vì vừa vào tới, tôi đã được gặp anh chị Đỗ Ngọc Yến, anh chị Đỗ Quí Toàn, và Một số bè bạn khác. Thật vui và thật cảm đng vì tình cảm bè bạn vẫn dành cho tôi tràn đầy. Điều làm tôi vui nhất là gặp lại Minh Phú, cánh Phượng Saigon ngày nào, và Hồng Vân, cánh Phượng Paris tại đây. Các em đã ngạc nhiên vì thấy tôi Một cách quá bất ngờ. Từ lúc gặp lại Minh Phú, thế là Quang bị thất nghiệp (tôi đã sang xe đi chỗ khác), nhưng mỗi ngày vẫn điện thoại cho Quang, cũng như phải đến chào thầy Phi để biết tôi làm gì và ở đâu, chỗ nào...vì Quang phải cho anh Tùng (ông xã tôi) biết diễn tiến mỗi ngày của tôi ở đây.
Ngày hôm sau, được chị Quyên vợ anh Toàn đưa đi thăm Lộc Uyển, nhìn thấy núi rừng bao la bát ngát. Từ dưới chân núi đi lên thiền đường chính thật xa. Đường đi rng với những tàng cây rợp mát, thiền hành như thế quả là tiên, tôi nghĩ rằng các vị ở đây quá hạnh phúc, tôi có cảm tưởng như Cali bây giờ không giống như 10 năm trước, Một Cali hiền hoà, thoát tục vì các bạn tôi, phần lớn ăn chay, đi chùa, đi nhà thờ rất đều đặn cả. Mỗi người có Một cách tu ‘khác nhau’ nhưng tựu chung, lối tu nào cũng tạo cho con người hiền lành và nhân ái. Có lẽ nước Mỹ có phước lắm mới đón được người Việt sang tị nạn. Và nhờ được sang đây, người Việt đã đem cái tâm tu chuyễn hoá nước Mỹ. Nhất là đất Cali chắc có duyên với người Việt. Nên hầu như ngườI Việt nào, khi đã tới thăm Cali, cũng muốn dọn nhà lại đây.
Thật là: Cali trời đất mênh mông
Ai mà đã đến, thì không... muốn về.
Đến thăm các bạn, nhà nào cũng có cây ăn trái, đất rng thì trồng cả vườn thanh long, xá lị, nhãn, hồng. Đất ít thì cũng thấy bưởi bòng đầy cây treo tòng teng trước mắt. Ÿ nhà Quang Thông, phía sau phòng tôi có Một cây táo tàu sai trái, mỗi sáng thức dậy, tôi hái vài quả ăn rồi mới làm gì thì làm. Vì ở Paris, làm gì có diễm phúc được hái trái trên cây để ăn như ở đây. Nhà cửa bên Paris làm gì mà rng rãi như ở đây. Hẹn với Minh Thông, lúc về, sẽ hái Một ít đem về cho các chị tôi...
Suốt mấy ngày liên tiếp, cứ mở mắt ra, chào bác trai (bố vợ Quang) xong, là tôi chạy mất, nhiều khi đi không về, nên mỗi lần gặp, bác hay hỏi tôi ‘cháu không biết mệt hả’? Lúc đó, vì quá vui gặp bè bạn, tôi chỉ cười mà chẳng đáp vì có thấy mệt mõi gì đâu. Nhưng từ từ, anh hùng cũng thấm mệt. Do đó, bác gặp tôi thường hơn, lúc sau này, bác hết hỏi tôi câu hỏi đó, tôi phải về để nghỉ ngơi. Nhất là hai ngày cuối cùng, theo chị Quyên đi tập khí công. Thức dậy từ 6g sáng, đến phòng tập Hồng Khí Quyền, thời gian tập mất 1tiếng rưởi, có lẽ vì chưa biết cách hít thở, nên tôi cảm thấy chân tay bắt đầu rung khi tập tới đng tác thứ năm thứ sáu của bài học...
Trưa thứ bẩy, các bạn củ làm việc chung ngày trước đến thăm tôi. Gặp lại Hùng Trọng, Hồng A cùng ông xã, Hồng B, các anh Nghiêu, Ruy, Đức, Tiến và vài người bạn nữa, nếu không có Quang giới thiệu thì chắc tôi không nhận ra...Thật cảm đng, được ăn món bún chả Thông làm rất ngon, lần đầu tiên ở đây, tôi đã ăn thật nhiều, vừa thức ăn, vừa tình bạn xưa, nên no cả cái bụng và đầy cả trái tim. Gặp nhau rồi mới thấy, ai cũng lên chức chứ không phải Một mình Quang, người thì ông ni, kẻ thì ông ngoại om xòm... Cùng lúc hay tin Hoài, Một người bạn, cũng là chú rể phụ khi đám cưới tôi, vừa qua đời mới có 1 ngày, khi tuổi còn quá trẻ. Anh mới ngoài 50 sau vài năm bệnh nằm liệt giường.
Tôi cũng được anh chị Ruy, đón đi lễ 6giờ ở nhà thờ chiều thứ bẩy. Vào nhà thờ rng lớn quá, tôi cảm thấy mình thật bé nhỏ. Thánh lễ cũng khác hơn Paris, mặc dù cũng những bài kinh đó, nhưng diễn tiến khác, tôi thấy mình không giống ai cả. Sau đó, anh chị đưa tôi đến nhà anh chị Hồng Lộc để giao trả tôi lại cho ‘ông ngoại’ Quang...
Chị Quyên muốn nhìn thấy phương pháp dạy đàn tranh cho người lớn tuổi và cho trẻ em dưới 3 tuổi, thế là tôi phải hướng dẫn ngay chính chị cũng như cho bé Trúc, để chị thấy tận mắt việc tôi đã nói. Chị thích lắm và muốn phổ biến rng rãi hơn. Tôi từ chối vì không có nhiều thì giờ. Nhưng dù không có nhiều thì giờ, tôi cũng đã ‘được’ ngồi làm mẫu cho Một buổi thực tập chụp hình tại trụ sở Người Việt của các phóng viên tờ báo, do Một phóng viên Mỹ đã được giải hình ảnh đẹp hướng dẫn, nhờ thế mà tôi đã có những tấm hình đẹp do những người chuyên nghiệp chụp để đem về Paris, thế là hết Một buổi sáng.
Chiều chúa nhựt, ngày họp mặt của Trường nhạc, tôi đã gặp lại Thơ, Quỳnh Giao, Mai Hương, Châu, chị Mai, và Một số giáo sư cũng như bè bạn củ nhạc viện, Thầy cô Phi rất vui. Cảm đng nhất là bàn thờ mà thầy cô đã chuẩn bị, chúng tôi lần lượt thắp nhang cho những người đã mất, nhất là thầy Phạm Gia Nhiêu vừa tạ thế không lâu. Trên trang giấy đơn sơ, ghi tên những giáo sư, những anh chị cùng học ngày nào, giờ đây đã đi qua bên kia thế giới, tôi bồi hồi nhớ lại trường xưa. Nếu thầy Phi không có ề lập hi, thì chắc chắn không bao giờ chúng tôi có giây phút gặp gỡ này để ôn lại kỷ niệm xưa cũng như nhắc nhở đến những người thầy xưa hiện nay còn sống trong khổ cực vì đói nghèo nơi quê nhà...Chắc chắn sẽ có Một ngày nào đó, Paris cũng sẽ được vinh dự đón tiếp quí thầy cô và bạn hữu nhạc viện Saigon vì cũng có Một số thầy cô, bè bạn ở bên Pháp và vài nước lận cận.
Tối thứ hai, trước khi đi Monterey Park, Gia đình Quang đã dắt tôi đi ăn cơm Nhật. Nhìn thức ăn bày la liệt trên các quầy mà tôi chới với vì không biết ăn cái gì. Thông nói cứ từ từ chọn cái gì thích, nhưng tôi ăn không nhiều thật là phí cả tiền. Thôi thì cứ từ từ như Thông nói, tôi cũng chọn lấy món cá sống, tôm lăn bt chiên, cua ram và vài thứ khác đặc biệt của Nhật. Bên Pháp cũng có những tiệm ăn Nhật, nhưng không rng như bên này. Phải nói xứ Mỹ to lớn, nên cái gì của Mỹ cũng to lớn, đến nỗi trẻ con Việt Nam ở Mỹ cũng to lớn luôn. Cháu ni anh Ruy vừa 4 tuổi, mà Trúc có dáng dấp đứa trẻ lên 6, lên 8 bên Pháp. Hỏi các bạn nuôi con bằng gì, thì anh chị cười nói chúng uống nhiều Coca...Sau ăn tối, anh Thu đã hẹn Quang và Thông đưa tôi đến thăm thiền thất Sùng Chính của các sư cô. Một cuộc viếng thăm bất ngờ. Tôi không kịp chuẩn bị gì, nhất là đến thăm buổi tối như thế, tôi rất ngại. Mình chưa quen mà đến như thế này, kỳ quá. Định bụng đến chào và đi ngay vì chắc chắn là chi Thân chờ. Nhưng đến thì dễ, ra về thì khó, vì các sư cô đã chuẫn bị thiền trà cho khách đến từ phương xa. Ngoài tôi, còn có vợ chồng Diễm Chi đến từ Texas và Một số bạn khác nữa. Thế rồi cũng xong, tôi được con gái út anh Thu đưa đi trong khi tôi như người say rượu vì quá mệt bởi ham vui bè bạn và nhất là thời gian để cho quen giờ giấc quá ít.
Ngồi trên máy bay trở lại Pháp, tôi đã cố ru giấc ngũ, vì biết rằng về tới nhà, công việc đầy ấp, tựu trường, trình diễn, hội họp, chuẩn bị chương trình trình diễn cho năm, nhất là giưã tháng 9, Phượng Ca sẽ đi diễn ở Hoà Lan. Bao nhiêu dự án cứ quay mòng trong đầu, tôi cãm thấy ngất ngư vì tính ham hoạt đng của mình mà quên mất lời ‘ông ngoại’ dặn :
- thôi nhé, lớn tuổi rồi, không được làm tùm lum, phải nghĩ đến sức khoẻ, kỳ sau có sang, tôi không cho chạy nhảy nhiều như thế...

Phương Oanh
Paris đầu thu 2003.
Việt Dương Nhân
#8 Posted : Wednesday, August 2, 2006 9:43:28 PM(UTC)
Việt Dương Nhân

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 1,837
Points: 0


Nữ Giáo Sư Phương Oanh nhạc Cổ Truyền Việt Nam
Việt Dương Nhân
#9 Posted : Wednesday, August 2, 2006 9:47:29 PM(UTC)
Việt Dương Nhân

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 1,837
Points: 0

Phượng Ca
35 năm tiếp nối âm nhạc truyền thống dân tộc



Trong bản sắc văn hóa có mt khía cạnh cũng mang tính cách quan trọng không kém gì các b môn khác, đó là âm nhạc truyền thống đã có mt giá trị cao về nghệ thuật và phương diện lịch sử.
Tiếp nối âm nhạc truyền thống dân tc tại hải ngoại, cách đây 35 năm, giáo sư Phương Oanh đã thành lập Nhóm Phượng Ca Dân Ca Quốc Nhạc, "mt truyền thống đang được tiếp nối" và phát triển trên các quốc gia : Pháp - Thụy sĩ - Hòa Lan - Úc, v v ...(xin ghi thêm ....)
Nhân dịp kỷ niệm 35 năm thành lập Trường âm nhạc Phượng Ca Dân Ca Quốc Nhạc sẽ tổ chức tại Salle des Fêtes de Taverny - Place Charles de Gaulle - 95150 Taverny, vào ngày 26 tháng 6 năm 2004. Để đc giả cùng đồng hương biết rõ thêm về những sinh hoạt của Phượng Ca Dân Ca Quốc Nhạc, Ngày Mới mời quý vị theo dõi bài tiếp chuyện với giáo sư Phương Oanh.

1/ Ngày Mới : Chào chị Phương Oanh và xin thành thật cảm ơn chị, chị Mai cùng các học viên nhóm Phượng Ca đã có nhã ý cng tác với Ngày Mới trong buổi văn nghệ "tình thương không biên giới" tại Antony. Để bắt đầu buổi nói chuyện hôm nay, xin chị cho đôi dòng tiểu sử về mình.

Giáo sư Phương Oanh : .. tốt nghiệp nhạc viện Saigon niên khóa 1962/1963 về đàn tranh và Ca xướng. Giáo sư tại nhạc viện từ 1964 đ ến 1975. B ằng gi áo s ư qu ốc gia Pháp về âm nhạc truyền thống Vi ệnam n ăm 1996. Giáo sư nhạc viện Sevran từ năm 1987 đến nay, giáo sư nhạc viện Antony từ năm 2000.

2/ Ngày Mới : Cách đây 35 năm, đng cơ nào đã thúc đẩy chị thành lập Nhóm Phượng Ca Dân Ca Quốc Nhạc?

Gs. Phương Oanh :
..Sau khi tôt nghiệp ở nhạc viện Saigon. Lúc đó, đàn tranh, dân ca chưa được nhiều người biết tới và được ưa thích. Tôi đã bắt đầu hát dân ca tự đệm cho mình bằng đàn ghi ta trong các chương trình của sinh viên, bắt đầu là khuôn viên đại học văn khoa năm 1963 do Vũ Thành An và Hà Quốc Bảo tổ chức. Thấy những bài dân ca được học ở nhạc viện đã đem lại một không khí đặc biệt cho các đêm hội tết, rồi sau đó, cùng với chị Phạm Thúy Hoan (hiện là chủ nhiệm câu lạc bộ Tiếng Hát Quê Hương , mẹ của nhạc sĩ Hải Phượng) đi trình diễn cùng với giáo sư Nguyễn Hữu Ba tại các trường trung học, phong trào lan mạnh, chúng tôi có thêm chị Quỳnh Hạnh , Ngọc Dung (ở San josé) , Huyền Trân (ở Texas) tạo nên nhóm dân ca quốc nhạc Hoa Sim mở lớp dạy đàn tranh. Lúc đó dạy nhờ ở trường âm nhạc Bach do phong trào Duy Linh của cha Nguyễn Định tổ chức tại đường Tú Xương. Song song việc dạy đàn, chúng tôi cùng đi diễn với nhạc sĩ Phạm Duy khắp nẽo đường đất nước cũng như trên đài truyền hình. Khi trung tâm học liệu tổ chức chương trình phát thanh học đường, gia đình bác Tám do giáo sư Hùng Lân phụ trách, tôi đã làm việc với thầy cùng với ban tam ca Đông Phương (Hồng Vân, Thu Hà, Tuyết Hằng) cũng như chương trình tìm hiểu dân ca dân nhạc Gió Khơi trên đài truyền hình... Năm 1969, Sau khi đi trình diễn một vòng Âu châu trở về , Phượng ca được thành lập trong mục đích bảo tồn phát huy âm nhạc dân tộc.

3/ Ngày Mới : Chị cho biết cảm tưởng của mình khi có những học viên đầu tiên đến với Nhóm Phượng Ca.

Gs Phương Oanh : ...Những học viên đầu tiên của Phượng Ca ghi danh và chờ mở lớp trong vòng 1 năm, cho nên các bạn ấy rất vui được học đàn tranh với tôi, ngược lại tôi cũng rất vui có được những học viên thật lòng và tha thiết đến nhạc cổ truyền.

4/ Ngày Mới : Trong suốt 35 năm điều khiển Phượng Ca chị có trải qua những bước thăng trầm nào không ?

Gs. Phương Oanh : ...Phượng Ca bị ngưng hoạt động một thời gian từ lúc Saigon mất. Trong lúc chuẩn bị để ổn định cuộc sống của mình tại Pháp, tôi biết rằng việc tái lập Phượng Ca là điều cần thiết cho mình và cho người Việt tại đây. Phải bắt đầu lại với hai bàn tay và khối óc tự tin, Phượng ca đã được giới trẻ Việt Nam theo học rất nhiều. Và nhờ người bạn rất tốt, anh Phạm Gia Liêm đã cho Phượng Ca mượn nhà để làm lớp học ở Paris 5 trong suốt một thời gian dài. Bây giờ, Phượng Ca đã có trụ sở tại Paris 13, nơi tập trung nhiều người Á Châu, nhất là người Việt Nam cư ngụ.

5/ Ngày Mới : Hiện nay Nhóm Phượng Ca Dân Ca Quốc Nhạc đã có được bao nhiêu chi nhánh trên các quốc gia khác ?

Gs. Phương Oanh .. Chi nhánh của Phượng Ca ở các quốc gia khác có nơi còn tiếp tục ,có nơi tạm ngưng, nhưng vẫn liên lạc với nhau, như Bruxelles, Thụy Sĩ, Hoà Lan và hiện nay, ở Na uy có 2 lớp ở 2 tỉnh Oslo và Jesshem mới bắt đầu được 3 năm.

6/ Ngày Mới : Xin chị cho biết hệ thống tổ chức của chị để Phượng Ca có thể bành trướng rng rãi hầu bảo tồn và phát huy nền Dân Ca Quốc Nhạc ở các quốc gia khác.

Gs. Phương Oanh ... Mục đích của Phượng Ca vẫn là truyền thông âm nhạc cổ Việt Nam bằng giáo dục và huấn luyện. Từ khi rời khỏi Việt Nam tới Pháp năm 1975, âm nhạc cổ Việt Nam không được chú trọng. Ngay khi đó, Phượng Ca đã đặt rất nặng vấn đề giáo dục âm nhạc cổ. Với sự tham dự của rất đông sinh viên Việt Nam, Phượng Ca đã có một chương trình nghiên cứu dài hạn về giáo dục âm nhạc và hội nhập vào nền giáo dục âm nhạc Pháp. Kết quả là Phượng Ca đã có một số nhạc sinh tốt nghiệp đệ tam cấp môn đàn tranh trong nhạc viện Sevran và Antony. Hai nhạc viện duy nhất tại Pháp có môn âm nhạc truyền thống Việt Nam và được bộ văn hoá Pháp công nhận.
Vào thời buổi này (2004) Phượng Ca đang sửa soạn hai thí sinh dự thi văn bằng giáo sư quốc gia Pháp về môn đàn tranh.
Hệ thống tổ chức của Phượng ca nhằm một mục đ ích duy nhất : tạo mọi đi èu kiện dễ dàng để âm nhạc cổ Việt Nam có thể phát triễn các nơi theo khuôn mẫu chi nhánh Phượng đa tại Pháp. Nói tóm lại Phượng ca có hai hệ thống quản trị :
- thứ 1 mỗi chi nhánh tự tr ị vấn đ ề hành chánh và tài chánh.
- Thứ 2 Phượng ca trung ương có nhiệm vụ hướng dẫn các chi nhánh trong vấn đề huấn luyện và giáo dục âm nhạc cổ. Điều này có nghĩa là tất cả mọI phương pháp và bài bản các chi nhánh đều phảI thống nhất. Trên vấn đề thi cử, thì mỗI chi nhánh tổ chức thi cử lấy dướI sự giám khảo của các giáo sư và chỉ khi thi tốt nghiệp mớI qua Pháp để thi lấy bằng tốt nghiệp của nhạc viện Pháp. Đã có những thí sinh đến từ Việt Nam, Canada, Mỹ, Thụy Sĩ, Bỉ thi lấy bằng tốt nghiệp hoặc tương đương đệ tam cấp.

7/ Ngày Mới : Hiện tại, Phượng Ca đang thực hiện những sinh hoạt như thế nào ?

Gs. Phương Oanh : ...Ho ạt đ ộng ch ính c ủa Ph ư ợng ça v ẫn là gi áo d ục âm nh ạc c ổ, đi ều này ph ải hi ểu r ằng Ph ư ợng ça là m ột tr ư ờng â m nh ạ c ch ứ kh ông ph ải là m ột ban nh ạc nh ư r ất nhiều người hay tưỏng lầm. T ại sao ?
V ì ngoài ho ạt đ ộng gi áo dục, Ph ư ợng đa c ũng tham d ự r ất nhi ều ho ạt đ ộng v ăn ho á c ủa c n ộg đ ồng ng ư ời Vi ệt ho ặc c ác c ơ quan c ủa ch ính phủ.
Gi á o d ụ c th ì r â ấ t â m th â ầ m và tr ư ơ ờ ng jy, c ò n v ă n ngh ê ệ th ì r â ấ t r â ầ m r ô ộ và nh â ấ t th ơ ờ i. Ch ính v ì nh ững l ý do đ ó mà nhi ều ngươì v ẫn đ ặt c âu h ỏi t ại sau Phượng Ca không ‘đánh’ nhạc mới ,không theo mốtẨNếu hi ểu r ằng Phượng Ca là một trường âm nh ạc c ó quy c ủ, c ótruy ền th ống t ừ 35 n ăm qua, thì ắt hiểu là t ất c ả m ọi bi ến đ ổi tro,ng khu ôn m ẫu tổ ch ức kho ặc k ỹ thu ật đ ều phải có s ự suy nghĩ và nghi ên c ứu kỹ càng.
Tại Paris, ngoài việc học đàn tranh là sinh hoạt căn bản, các em nhỏ sẽ được học tiếng Việt qua các bài hát, điệu múa dân tộc. Các em bé tuổi từ 3 đến 9 được chăm sóc rất kỹ. Các bà mẹ được khuyến khích tập đàn với con mà học phí không tính đắc hơn (chỉ đóng tiền cho 1 người). Với các bạn người Pháp, họ được biết tới văn hoá Việt Nam qua các buổi sinh hoạt trình diễn âm nhạc với y phục Việt Nam, thức ăn Việt Nam và làm quen với tiếng nói Việt Nam qua các danh từ chuyên môn trong âm nhạc cũng như hội nhập vào môn trường Việt Nam qua cách cư xử như anh em trong nhà với nhau.. .

8/ Ngày Mới : Chị có những dự tính gì cho Phượng Ca trong tương lai ?

Gs. Phương Oanh : ..Tình trạng giáo dục âm nhạc cổ tại Pháp hiện giờ hơi hổn độn. Thật vậy, có rất nhiều giáo sư không chính thức giảng dạy mỗI ngườI một phương pháp khác nhau. Hơn nữa, các hoạt động n ày đ ôi khi kh ông h ợp ph áp. T ình tr ạng này cho chúng ta nhớ lạI thờI kỳ nhạc viện Saigon mớI thành lập ph ân khoa nh ạc cổ (1957-58). Và vì lý do đó một trong những quan tâm của nhạc viện là th ống nh ất c ác ph ư ơng ph áp gi ảng dạy và bài bản. TạI Pháp một trong những hoạt động tương tự là vấn đề giảng dạy các môn võ thuật đều bắt buộc phảI có bằng giáo sư quốc gia. Điều này cá c tổng đoàn võ thuật Pháp trực thuộc bộ thanh niê n đã làm cách đây hơn 20 năm.
Phượng Ca mong mõi trong những năm tớI các phương pháp giảng dạy và các bài bản được thống nhất thì nhạc sinh theo học nhạc cổ đở hoang mang vì không biết đâu là bài bản gốc.

Phượng Ca là trường nhạc cho nên mọi chuyện đã có nếp sẵn, chuyện gì tới sẽ tới, mình không thể làm gì khác hơn. Ví dụ như thi cuối năm, trình diễn của nhạc sinh trong trường hay các dịp hội hè đã được ấn định sẵn. Phượng Ca cũng tham dự nhiều buổi hoà nhạc được tổ chức bỡi các hội đoàn bạn hoặc do các cơ quan văn hoá các tỉnh tổ chức. Các buổi tham dự tại các địa phương, Phượng Ca đã giới thiệu văn hoá, âm nhạc truyền thống Việt Nam đến người bản xứ. Cho nên Phượng Ca không tổ chức họp mặt thường xuyên, mà phải cần thời gian 2 hay 3 năm mới có một lần. Ví dụ Phượng Ca 30 năm, 32 năm và lần này 35 năm.

9/ Ngày Mới : Về âm nhạc, theo chị có biên giới không giữa những nhạc sĩ, ca sĩ ở quốc ni và hải ngoại ?

Gs Phương Oanh : ...Vấn đề này rất tế nhị, có biên giới hay không là do nhạc sĩ , ca sĩ hai bên có cùng quan điểm với nhau không ? Về vấn đề dạy học , thì tôi bắt buộc phải so sánh chương trình của nhạc viện trong nước với nhạc viên tại Pháp (Paris - qua học trò củ), vì bằng tốt nghiệp của nhạc sinh bên này môn đàn tranh phải tương đương với chương trình học với nhạc viện bên nhà.

10/ Ngày Mới : Ở thời điểm bây giờ, chị nghĩ gì về "giao lưu âm nhạc" giữa hải ngoại và trong nuớc ? Trong tương lai, sẽ ra sao ?

GS Phương Oanh : ...Rất khó và rất tế nhị.

11/ Ngày Mới : Hiện nay, đã có mt số "nhạc sĩ, ca sĩ tỵ nạn" trở về nước không chỉ thăm quê hương mà còn xin phép trình diễn trước công chúng. Chị có dự định sẽ đưa các học viên của Phượng Ca về trình diễn cho khán giả ờ trong nước thưởng thức và cũng để cho đồng bào thấy rằng mặc dầu sống xa quê, truyền thống âm nhạc của người Việt vẫn được bảo tồn và phát triển tại hải ngoại ?

Gs Phương Oanh : ...Xa Saigon gần 30 năm, lòng tôi luôn hướng về quê hương, và tôi cảm thấy trách nhiệm của mình đối với âm nhạc dân tộc tại đây. Mặc dù không ai bắt buộc, nhưng tự mình cảm thấy cái trách nhiệm , cái bỗn phận làm được cái gì cho văn hóa dân tộc.Việc này, mỗi chúng ta tự thấy lấy và làm với tin thần tự nguyện chứ không phải làm để cho ‘cái tôi mình’ được sáng chói. Nhưng ở trong nước, mình không có chỗ đứng thì không nên mơ mộng.

12/ Ngày Mới : Để kết thúc buổi nói chuyện hôm nay, chị có nghĩ rằng ngày mai của Âm Nhạc Truyền Thống Việt Nam Hải Ngoại có thể hi nhập vào dòng Âm Nhạc chính ở quốc ni hay lại biến thể thành mt nhánh của âm nhạc truyền thống VN ở quê người ?

Gs Phương Oanh : ...Cái lo của tôi là sự biến thể của dòng nhạc truyền thống trong nước. Mình ở ngoài nước, mình vẫn giữ được cái gì căn bản đã mang theo. Tôi vẫn hy vọng bản thể căn bản không bị mai một, thì âm nhạc truyền thống vẫn là căn bản cho những ai học nhạc cổ, và âm nhạc truyền thống ở hải ngoại hay ở trong nước cũng chỉ là một, mặc dù có những biến thể, đó chỉ để làm dồi giàu, phong phú cho âm nhạc dân tộc mà thôi.
Sự biến thể này không thể không có, nhưng phải biết phân biệt những biến thể trên hình th ư ừ c (cách ăn mặc, c ách tr ình di ễn v.v..) và nh ững bi ến th ể c ơ b ản (bóp méo bài bản, lai căng làm bi ến m ất n ét nh ạc ch ính). Riêng đối với Ph ư ợng Ca, trải qua 35 n ăm kinh nghi ê ệ m gi áo d ục âm nh ạc, Ph ư ơ ợ ng ça đ ã c ó nh ư ữ ng nh â ậ n đ ị nh sau và á p d ụ ng cho ch í nh m ì nh :
- Phượng Ca cũ ng đ ã c ó những biến thể hình thức .
- Ngược lại Phượng Ca tuyệt đối không có một biến thể cơ bản nào trong vấn đề giáo dục.
- Đối với Phượng đa khi nắm vững cơ bản, thì tự nhi ên nhạc sinh có đ ủ khả n ng để biến đổi cách trình diễn mà không bị lai căng, mất gốc. Một trong những ví dụ điển hình là trong chương trình tân nhạc Thúy Nga tại Pháp có các em Kim Dung , Nhu Lan đã từng cộng tác cộng v ới c ây đàn tranh.

Thay mặt ban biên tập và đc giả Ngày Mới, thành thật cảm ơn chị Phương Oanh và chúc Phượng Ca gặt hái được thành quả tốt đẹp nhân dịp kỷ niệm 35 năm thành lập tại hải ngoại.

Diễm Thy

Phuong Ca
Présidente : Mme Phuong Oanh 06 10 34 68 81
Directeur artistique : Mme Phuong Oanh 06 10 34 68 81
Chargée de communication : Cyril CA
Orchestre et costumes : Mme NGUYEN Dai Ngoc Dung 01 48 58 70 02
Organisation et projet : M. VO Nhu Lan

Siège social : 28 ter rue des Mallets
Tel 01 39 95 28 53 Fax 01 34 18 11 15
Email : info@ phuongca.org http://www.phuongca.org
Việt Dương Nhân
#10 Posted : Wednesday, August 2, 2006 9:55:24 PM(UTC)
Việt Dương Nhân

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 1,837
Points: 0


(?) - Phương Oanh

Việt Dương Nhân
#11 Posted : Wednesday, August 2, 2006 9:58:34 PM(UTC)
Việt Dương Nhân

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 1,837
Points: 0


Thư gửi bạn.

Tìm hiểu Cải Lương
của Ban Kịch ARCHIPEL INDIGO
từ ngày 6 đến 20/1/2002

Quang ơi, tôi vừa trở lại Pháp sau hơn 2 tuần đi quan sát, nghiêng cứu Cải Lương với mt ban kịch Pháp từ Strasbourg đến Saigon. Được Minh Ngọc giới thiệu, tụi này đã đến thăm và được tham dự những buổi tập cải lương của nhà hát Trần Hữu Trang (nơi đào tạo và trình diễn và gìn giữ b môn cải lương duy nhất tại Saigon) và được dự các buổi tập tại nhà hát Trần Hữu Trang để xem các em tập tuồng, từ lúc bắt đầu coi kịch bản, đến lúc ráp vỡ với diễn xuất, sau đó là lên sàn diễn thật.
Nếu không có nhà hát, có lẽ, cải lương cũng sẽ bị mai mt (giống như nhạc cổ) vì hiện tượng chạy theo nhạc mới, nhạc ngoại, đã ăn sâu vào tiềm thức mọi người. Thậm chí, cải lương cũng bị tân nhạc đồng hoá luôn.

Ban kịch gồm ba người : Emmanuelle, Geraldine (diễn viên kịch), Dominique Hardy (người kể chuyện) và tôi, được ngân khoản tài trợ của chính phủ Pháp, đi Saigon để nghiên cứu và sẽ tổ chức mt vở ‘kịch + cải lương’ với thành phần diên viên Pháp+Việt phối hợp.
Tới Saigon trưa 6/1, trong không khí ấm áp, tôi như quên mất cái lạnh của Paris mù sương, để bắt tay vào việc lập chương trình làm việc, vì trước khi đi, tôi đã liên lạc với các nghệ sĩ, nhưng không nhận được thư trả lời.
Đang loay hoay tìm địa chỉ, điện thoại để gọi, thì Dominique về tới, nói rằng vừa gặp Minh Ngọc ở hi trao đổi văn hoá Pháp Việt. Tôi được nghe tiếng Minh Ngọc diển viên kịch từ Paris. Nhưng những lần Minh Ngọc sang Paris diễn, thì những lúc tôi đi diễn xa, do đó, không có dịp để gặp người nghệ sĩ này. Dominique đưa cho tôi xem mt tờ chương trình buổi diển của Minh Ngọc ở ngoại quốc và nói Minh Ngọc cũng muốn gặp tôi. Tôi có linh cảm, mình đã gặp được ‘quới nhân’, vì Minh Ngọc là giảng viên của trường cao đẳng điện ảnh-sân khấu Saigon. Mừng quá, mời Minh Ngọc đến ngay, mặc dù lúc đó cũng đã 10 giờ đêm. Trong lúc chờ Minh Ngọc, tôi gọi Kim Cúc, ký giả báo Thanh niên, người bạn được quen từ 95, và chị cũng vừa đi dự đại hi ở Avignon với ban Kịch này trong mùa hi diễn vừa qua.
Cũng rất may có Minh Ngọc và Kim Cúc giúp đở giới thiệu đến các nơi diễn kịch, cải lương, nếu không thì không thể học hỏi, trao đổi với nghệ sĩ tại Saigon được tới nơi tới chốn.
Trong hai tuần, tôi đã đưa các bạn đi xem kịch ở Trung tâm văn hóa Pháp Việt (IDCAF), sân khấu nhỏ 5B Võ Văn Tầng, rạp Hưng Đạo.
Tụi này cũng được dự mt buổi giổ trong gia đình nghệ sĩ. Hôm đó, nhóm đã đi Củ Chi, nhà của anh chị Quốc Hùng- Thoại Miêu (giám đốc nhà hát THT) để dự buổi giổ ba anh, nhân ngày này, dân trong làng đã được thưởng thức mt đêm hát ca nhạc tài tử Nam b, và những trích đoạn cải lương mà họ đã từng được xem qua các băng vidéo hay trên truyền hình, cũng như được nhìn tận mặt các đào kép trẻ của nhà hát Trần Hữu Trang.. Mà đã thành thông lệ hằng năm, sau khi các nam nghệ sĩ đá banh giao hữu với dân làng buổi trưa, đến chiều, mt bửa tiệc cho khoảng 200, 300 khách mời, toàn là nghệ sĩ.

Khi trời vừa tắt nắng, chương trình ca nhạc bắt đầu. Dân trong làng và các làng khác đã đến nghe, đứng đông nghẹt cả sân cỏ, yên lặng thưởng thức mt chương trình đặc biệt mà anh chị Quốc Hùng đã ưu ái dành cho họ. Cử chỉ này của anh chị đã làm cho dân chúng giữ được truyền thống ca nhạc tài tử. Cải lương miền Nam luôn luôn sống gần với sinh hoạt nông thôn và ăn sâu trong lòng người dân. Các nghệ sĩ Vũ Linh, Thoại Miêu, Thoại Mỹ, Tấn Giao, Tấn Beo... (và còn nhiều nghệ sĩ nữa mà tôi không nhớ hết tên..) đều đến dự. Có những người đến từ Long An, Cần Thơ hoặc từ nơi xa xôi nào đó, đã nhớ ngày truyền thống để đến chung vui và góp mặt.
Đây là mt đêm ‘Vọng Cổ’ rất đặc biệt mà không bao giờ tôi quên. Vì suốt chương trình, điệu Vọng Cổ đã được các nghệ sĩ hát xen kẻ với các điệu ca khác, mà mỗi lần xuống hò, là không thể thiếu được tiếng vỗ tay táng thưởng.

Quang có thể tưởng tượng mấy tiếng đồng hồ trôi qua, vọng cổ là điệu nhạc chính trong đêm như thế nào không? Thật là đặc biệt, nghe hoài, nghe mãi mà không biết chán. Mỗi người đã hát mt phong cách của riêng mình, có bài với nói lối vô đầu, có bài được hát với bài bản nhỏ, có bài xen với tân nhạc (gọi là tân cổ giao duyên) do đó, chĩ mt điệu vọng cổ, mà rất linh đng, khi diễn tả tâm trạng buồn, vọng vổ được hát với Lý con sáo, khi tỏ niềm vui, vọng vổ được hát với Thiên Bất Túc, hay mt điệu nhạc hùng v.v.. nghe không chán.
Tụi này cũng đóng góp mt chút những bài dân ca do ‘đầm’ hát tiếng Việt, tôi cũng đã mời mọi người hát chung bài cò lả, trống quân. Chưa có buổi diễn nào làm tôi xúc đng như ở đây, vì đã được hát và rủ người Việt trong nước (tỉnh Củ Chi) hát với mình trong đêm ca nhạc tài tử miền Nam. Chương trình ca nhạc kéo dài tới 23g đêm cũng chưa dứt, mà khán giả cũng như đang ở trong mt thế giới thơ mng chỉ có lời ca tiếng nhạc, yên lặng đứng nghe không chen lấn, xô đẩy ôn ào như tính thường lệ của mình.

Rồi lại còn được dự mt buổi thu cải lương của đài truyền hình nữa. Chưa hết, chúng tôi cũng đã đến chùa nghệ sĩ thăm cô Phùng Há, năm nay, cô đã 92 tuổi, (theo lẽ phải gọi bằng bà mới phải, nhưng nghệ sĩ thì lúc nào cũng ‘trẻ ‘ nên tôi vẫn dùng chữ ‘CÔ’ để nói về cô). Được mời ăn cơm với cô tại chùa, cùng với ông bầu Xuân (đoàn Hương mùa Thu ngày trước), hiện nay giữ trách nhiệm ‘trù trì’ chùa. Và cùng các bạn, chúng tôi đã viếng thăm bàn thờ để thắp nhang cho các nghệ sĩ, hiện đang có mặt tại chùa: Thầy Năm Châu, nghệ sĩ Ba Vân, Thanh Nga, Hùng Cường, Hữu Phước, cùng những nghệ sĩ khác...rồi đi viếng m những nhân tài đang nằm yên ổn trong khuôn viên chùa Nghệ Sĩ (tôi sẽ viết mt bài khi được ngồi tiếp chuyện với cô Phùng Há sau).

Trong 2 tuần chạy theo các đào kép trẻ tại nhà hát Trần Hữu Trang, theo chân Minh Ngọc đến Trường Nghệ Thuật Sân Khấu tại đường Cống Quỳnh để được xem các diễn viên kịch trẻ đang tập dượt.

Gần 30 năm xa Saigon, lần này, tôi được quan sát các buổi tập của nhà hát Trần Hữu Trang, sân khấu kịch 5B, Idcaf, thấy khả năng của các diễn viên trẻ rất đa diện, không như ngày xưa, mt người diễn cải lương cũng là mt kịch sĩ có tay nghề vững chắc. Các em đã tung hoành trên sàn diễn thoải mái, chứ không ‘đóng kịch’. Điều này rất mừng, duy có điều, âm thanh, ánh sáng, có lẽ theo thói quen, hoặc không được đặt vào phần quan trọng, nên có phần không được đàng hoàng. Các nghệ sĩ đã quá lệ thuc vào micro, nên đã không ‘chịu’ xử dụng giọng nói trung thực của mình, thêm nữa, âm thanh mở quá lớn, cùng các tiếng vang, ‘êcho’ quá nhiều đã làm cải lương bị ‘mất đi’ cái hay, cái chất lượng của mình.

Dominique, Manu cứ hỏi tôi, các nghệ sĩ có thể diển không cần hệ thống âm thanh không? Tôi luôn luôn nói rằng, ở đâu quen đó, mỗi nơi đều có cách làm việc của mình. Bên Pháp này, mt ban kịch khi lên sân khấu diễn, vỡ kịch hay là phải trung thực, có giá trị về nghệ thuật, khả năng diễn viên, nhất là phải diễn tự nhiên, có nghiã là phát âm không cần đến hệ thống khuếch đại. Người nghệ sĩ muốn đạt được tiêu chuẩn này, phải học hỏi, tập dượt rất cực khổ, chứ không phải muốn lên sân khấu là lên dể dàng như đi chợ...đâu.

Sau khi được xem kịch, cải lương. Các bạn Pháp rất cảm đng, vì không bao giờ nghĩ rằng họ sẽ có được mt chương trình làm việc rất linh đng này, cũng như được gặp tất cả những người cùng tâm huyết muốn gìn giữ cải lương được nguyên vẹn.

Nhưng điều làm tôi suy nghĩ, cũng như là niềm thao thức chung của những người có tâm huyết với nghệ thuật cổ nói chung, cải lương nói riêng, làm cách nào để bảo tồn, phát huy và giữ cho cải lương vẫn còn chất lượng còn đất sống, không bị mai mt?? ... thật là mt điều khó nghĩ đó Quang.

Sau 75, người Việt Nam tung ra khắp nơi trên thế giới, đây là mt điều rủi cho quê hương, nhưng cũng là điều may cho nghệ thuật. Có đi xa, mới thấy được mọi điều hay dở của xứ người ta trong lãnh vực sân khấu. Tôi lại được tiếp tục làm công việc gieo rắc âm nhạc dân tc tại đây, nên cái nhìn của mình cũng có học hỏi được phần nào của môi trường mình sống. Tôi luôn luôn nhìn lại mình, để mình còn thấy được mình, chứ không, mình sẽ bị thay đổi lúc nào không hay, rồi theo thói quen, chỉ cho phần mình làm là đúng thì đáng buồn.

Tôi rất mong muốn các bạn nghệ sĩ trong nước có điều kiện thuận lợi có thể đi diễn ở nước người, để trao đổi, giao lưu với nghệ sĩ bạn, như vậy vừa tiếp thu được những điều mới lạ và cũng là dịp để định giá khả năng của mình. Có được như vậy, tinh thần vọng ngoại sẽ ‘ít’ đi, vì có đi xa, mới thấy quê hương là nơi mình thương yêu và đẹp nhất. Nhất là được thấy nghệ thuật cổ truyền luôn luôn được mọi ưu ái quí trọng. Vì âm nhạc cổ truyền là tinh hoa, là tình tự dân tc, cần được gìn giữ và phổ biến, để cho thế hệ sau này còn biết đến.
Nếu chúng ta có thể trao truyền lại cho con cháu những làn điệu dân ca nguyên thể, để con cháu hảnh diện với những gì gọi là văn hoá xứ mình với 4 hay 5000 năm văn hiến.

Tôi không hiểu tại sao bây giờ ở Saigon, người ta nói lớn quá, nhạc mở nghe mạnh quá. Tôi chịu không nỗi khi âm thanh, tiếng đng quá lớn ở đây, vì nó được trn lẫn đủ loại tiếng đng và âm thanh. Trong hai tuần ở Saigon, mỗi khi đi xem cãi lương là phải lấy theo gòn để nhét lổ tai để tiếng đng mạnh được giảm bớt nếu không sẽ bị đau tai. Tôi không hiểu vì xa nước đã quá lâu, nên tôi đã bị méo mó cách thưởng thức hay cách thưởng thức trong nước bây giờ thay đổi khác mình?

Sẽ kể Quang nghe tiếp...

Trong chuyến đi này, nhờ gặp Kim Cúc, người bạn ký giả báo Thanh Niên và Minh Ngọc, đạo diễn và là thầy dạy hát ở nhà hát Trần Hữu Trang, thì đã không làm được mọi việc như mong muốn.
Trong hai tuần lễ làm việc với tốc đ 300km/g để có thể hoàn tất những gì đã chuẩn bị từ trước ở bên Pháp cho hai cô nàng Domi +Manu, mà cũng vừa cho mình, cho gia đình mình. Đây là điều hết sức quan trọng cho tôi đó Quang. Bắt đầu từ năm 95, tôi đã cố gắng mỗi năm về Saigon mt lần để được gần mẹ tôi, dù chỉ trong hai tuần lễ ngắn ngủi, để được sống bên mẹ như ngày nào còn trẻ, mà giờ đây, mẹ tôi đã ngoài 90 tuổi rồi.
Nhìn mẹ gầy yếu trong cơ thể chỉ còn da bọc xương, tôi xót xa trong lòng. Mỗi đêm, xin phép chị dâu để được ngủ với mẹ. Khi mình bé thì tay mẹ rất êm cho con gối đầu, giờ đây ngược lại, mẹ nằm trong tay tôi, ngủ ngoan như em bé. Vì bán thân bất toại, mẹ không thể xoay trở mỗi khi mõi mệt, mt tiếng rên xiết cũng đũ làm cho tôi tỉnh giấc, biết rằng mẹ muốn đổi thế nằm. Tôi đã nhẹ nhàng nói khẻ cho mẹ biết rằng con đã biết mẹ đau nhức thân mình vì xương cốt rã rời và bồng mẹ thật nhẹ, nâng giấc mẹ như bồng em bé, vì sợ mẹ đau để xoay trở thế nằm. Sau khi đổi vị trí, mẹ lại ngủ ngon trong tay con. Tôi lại nhắm mắt để tiếp giấc ngủ, vì ngày mai lãi phải chạy lo công việc của người liên lạc, thông dịch cho ban kịch mọi việc ở Saigon.
Mỗi năm, vì đã có mục đích đi Saigon, tôi đã tranh thủ để làm mt việc gì đó, vừa có lợi cho văn hoá, xã hi tại quê nhà, vừa có được chuyến đi được đài thọ bởi ban tổ chức bên này, như thế đở tốn tiền cho gia đình, lương thầy giáo thì không có rng rãi lắm. Vì mỗi lần về Việt Nam, tốn lắm Quang à. Nhưng ít có ai nghĩ đến điều này. Người Việt ở ngoài nước, quen cách sống tại đây, đi làm cả năm, đến hè thì phải đi chơi, nên họ chuẩn bị tiền đi du lịch. Chi tiêu trong nước thấp hơn bên Pháp, nên tha hồ phung phí và được mọi điều mà họ không thể có bên này.
Chuyến đi tìm hiểu cải lương rất tốt đẹp là nhờ hai người bạn đã nhiệt tình giúp đỡ. Tôi rất biết ơn Kim Cúc và Minh Ngọc, vì nếu không có Cúc yễm trợ tinh thần, không có Ngọc lo lắng, chắc là tôi không thể có được chương trình như thế này.

Cũng trong chuyến đi này, tôi rất vui vì Thảo, con gái thứ hai của anh tôi đã xin cô Oanh mt cây đàn tranh để tập. Thảo ở trong ban văn nghệ quận, lo tổ chức và dàn dựng chương trình văn nghệ của quận Tân Thới Hiệp. Qua lời xin của Thảo, mà tôi có ý giúp cháu mở lớp đàn tranh cho Thư (chị của Thảog) dạy. Vì Thư có học đàn tranh, trình đ cũng rất khá, tiếng đàn thật hay và có thể dạy được những người mới bắt đầ u học.

Từ mt ý định đơn giản, làm lớp đàn tranh ở nhà này, Thảo đã trình bày với ‘xếp’ trong sở, và được biết Cung thiếu nhi quận 12 sễ xây xong sang năm. Ông ấy muốn Thảo tổ chức trường dạy âm nhạc dân tc tại đây. Tôi rất mừng vì đây là cơ hi để cho cháu mình đi làm công việc văn hoá tốt đẹp cho trẻ em và cho chính bản thân cháu. Tôi đã đến thăm các ngườI bạn mà mình tin là họ có thể giúp Thảo vừa tổ chức vừa có tín nhiệm. Tôi đã bàn với anh Hoàng Cơ Thụy, nhạc sĩ rất hay về các nhạc cụ dân tc làm thầy để cháu tiếp tục học thêm, cũng là người trách nhiệm về giáo trình các b môn, duy môn đàn tranh thì sẽ do hai chị Thư và Nga (Phượng Ca Saigon) dạy.

Tôi rất vui, như vậy Phượng Ca (trường âm nhạc dân tc Việt Nam tại Pháp) sẽ có chi nhánh trong nước. Cũng như đã tìm được việc làm cho bè bạn, cho con cháu mình. Hiện tại, mở lớp đàn tranh ở nhà trước, tới ngày khai giảng sang năm, sẽ có buổi biểu diễn đàn tranh ra mắt mọi người và khai giảng trường nhạc..

Quang biết không, ngồi trước m bố mẹ, tôi đã nói là con rất mừng được dịp về thăm bố mẹ, mặc dù phải làm việc rất cực nhọc cho tinh thần, nhưng đây là cơ hi để đi, nếu không thì chẳng biết bao giờ con mới được về gặp bố mẹ.

Thật tình mà nói, tôi rất sợ ma, sợ tới nghĩa trang, vậy mà trong thời gian ở Saigon, những lúc có thể về được nhà anh, ngủ trong nhà thờ ngay trước bàn thờ gia tc, tôi lại cảm thấy ấm lòng và có cảm tưởng như mọi người trên bàn thờ rất thương yêu mình. Đêm đêm, tôi ngủ rất ít, chừng 2,3 giờ khuya là thức giấc, lấy chương trình làm việc ra để suy nghĩ, chuẩn bị cho ngày mai. Nhìn hình ảnh bố mẹ, các anh em, các người đã mất, tôi không có cảm giác sợ hải gì cả.

Bà chị dâu tôi, vì không thuận với mẹ lúc sống, nhưng từ khi mẹ chồng mất, đã nằm mơ thấy mẹ. Nhưng lần nào cũng vậy, toàn là cảnh bị mẹ chồng đuổi xô, không cho ở trong nhà, trong giấc mơ chị ấy bị rược chạy mệt thở...(tính ra từ lúc mẹ tôi mất đến giờ mới có 7 tháng mà thôi) làm chị ấy mỗi ngày phải gọi mẹ về ăn cơm như lúc sống thì mới được yên thân.

Tôi đã nắm tay Đức thật lâu trong tay mình và khấn mẹ có linh thiêng thì xin tha thứ cho, và xin mẹ giúp mình lo cho các cháu đang cần sự phù h của bà. Ngày trước, chị dâu tôi không có chú trọng săn sóc mẹ chồng, bây giờ thì rất siêng dọn dẹp mồ mả (vì bố mẹ cùng những người trong gia đình được chôn tại đất nhà). Thấy chị ấy mỗi sáng ngủ dậy sớm đi tưới hoa, mỗi chiều đi quét vườn tược sạch sẽ, tôi tin rằng bố mẹ tôi cũng đã tha thứ cái tính gàn bướng của cô con dâu duy nhất. Hy vọng sự tỉnh ng của chị dâu sẽ tốt đẹp cho các cháu tôi về sau.

Hy vọng sẽ được gặp lại gia đình Quang trong tháng năm, bây giờ, tôi đang suy nghĩ làm sao để giúp Domi gặp xếp air VN tại đây để xin vé đi miển phí, hay được bớt phần nào cho ban kịch, vì có thể, ban kịch sẽ sang Việt Nam diễn trong đại hi văn hoá ở Huế..

Thân mến,

Phương Oanh.
Việt Dương Nhân
#12 Posted : Wednesday, August 2, 2006 10:01:27 PM(UTC)
Việt Dương Nhân

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 1,837
Points: 0


Lớp Nhạc Phương Ca

Kính quí ACE xem hình ảnh thêm trong link này.... RoseRose
http://www.phuongca.org/...004%20paris%2013/fq.htm
Users browsing this topic
Guest
Forum Jump  
You cannot post new topics in this forum.
You cannot reply to topics in this forum.
You cannot delete your posts in this forum.
You cannot edit your posts in this forum.
You cannot create polls in this forum.
You cannot vote in polls in this forum.