Welcome Guest! To enable all features please Login or Register.

Notification

Icon
Error

2 Pages12>
Mai Ninh
Niem Nhien
#1 Posted : Wednesday, October 27, 2004 4:00:00 PM(UTC)
Niem Nhien

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 34
Points: 0

Mai Ninh



tên thật Trần thị Mai Ninh sinh năm 1950.
Bố mẹ gốc Bắc, sinh trưởng ở Sài Gòn.
Sang Pháp du học từ năm 18 tuổi (1968), sinh sống ở Pháp đã 35 năm và làm việc trong một ngành tưởng chừng rất xa văn học: chị là một nhà khoa học, ngành Vật lý trong Trung tâm Nghiên cứu khoa học Quốc gia Pháp từ năm 1978 đến nay. Hiện định cư và làm nghiên cứu khoa học tại Normandie.

Cộng tác với các tạp chí :
Kiến Thức Ngày Nay (Sài gòn), Diễn đàn (Pháp), Hợp Lưu, Văn, Văn Học, Thơ (Hoa Kỳ), Việt (úc)

Tác phẩm đã xuất bản:

Ðời Tôi (dịch từ Ma Vie của Marc Chagall nhà xuất bản Ðà Nẵng ấn hành 1997)

Hợp Âm Trong Vùng Sân Khuất (truyện, Thời Mới, Toronto Canada 2000)

Ảo Đăng (tập truyện -- 12/2003)

Trong Lời giới thiệu tập truyện Ảo Đăng, nhà văn Nguyên Ngọc đã viết: có lẽ điều đầu tiên chị khiến ta ngạc nhiên một cách thích thú là sự nhuần nhị, đến độ thật điêu luyện của chị trong sử dụng ngôn ngữ văn học Việt, cứ như suốt hơn 30 năm ấy chị vẫn sống thấm đẫm trong lòng ngôn ngữ đó, hằng ngày nghe âm vang của nó và hít thở bầu không khí tinh thần do nó tạo nên; cứ như suốt hơn ba mươi năm ấy công việc chính của chị là hằng ngày nhào nặn ngôn ngữ đó, nâng niu, ưu tư và nghiền ngẫm về nó. Hay chính vì ở xa Tổ quốc, xa và lâu quá nên chị mới càng quý ngôn ngữ ấy đến thế, thao thức nghiền ngẫm về nó, và ráo riết , và chăm chút, và tinh vi khai thác đến rốt ráo các khả năng tiềm ẩn của nó,vừa trân trọng gìn giữ, vừa đổi mới nó không ngừng.”

Còn những vấn đề mà Mai Ninh quan tâm thì sao? Cũng theo nhà văn Nguyên Ngọc: ”Những vấn đề của Mai ninh rất “tây”, là những vấn đề của đời sống hiện đại phương tây. Nhưng ở Mai Ninh, tất cả những vấn đề ấy đều được cảm nhận bởi một tâm hồn rất Việt, một tâm hồn rất phụ nữ và rất phụ nữ Việt Nam “

Mỗi truyện ngắn của Mai Ninh đều nói lên nỗi niềm của những kẻ tha hương như Hợp âm của những vùng sân khuất, thế giới của những kẻ đồng tính và nghị lực vượt lên định kiến của người đời trong Ẩm ướt những cơn mưa, thế giới hư ảo của những người đàn bà phải nếm trải nhiều đau khổ nhưng khao khát hạnh phúc, giàu linh cảm về tình yêu trong Ảo đăng, Đi tìm, Biển đầm và một thế giới vắng mặt con người luôn hiện lên khắc khoải và không ngừng tìm kiếm sự thật về chính nó trong Vách mận trắng, Ngồi mãi bóng đêm. Những nhân vật sống động, những câu chuyện khá bất ngờ trong phần kết, những phần tâm lý ẩn khuất được đem ra mổ xẻ tinh tế... Trên tất cả là một giọng văn thôi miên có khả năng xâu kết các truyện ngắn bằng một văn phong có phần cũ trong cách dùng từ nhưng giàu hình ảnh và cảm giác.

Mai Ninh tâm sự: "Người viết cần một không gian vô hình rất riêng tư, nên rất khuất. Trong vùng khuất lấp ấy, âm thanh lẫn hình ảnh, ý tưởng, từ trí và tâm cùng trỗi dậy, so chạm, chọn lựa để tìm ra một nhập trùng, kết thành hợp âm trên mặt chữ". Có được hợp âm giữa ý và lời, giữa tâm trạng và cảnh đời, đó là sức mạnh trên con chữ của cây bút này.

Truyện ngắn Ẩm Ướt Những Cơn Mưa, theo lời tác giả là truyện ngắn khai bút của Mai Ninh(1), đã xác định một phong cách viết: hướng về những niềm đau sâu khuất của con người. Từ truyện ngắn này, chớm nở những mảnh puzzle Mai Ninh như những mẩu cô đơn mọc lên trong trời đất: đó là những phận người, cùng yêu, cùng sống, nhưng không thể "đột nhập" vào nhau, vào bề dầy tâm thức của nhau; như cậu tóc dài và chàng họa sĩ, một cặp tình trai mở quán ăn có cái tên rất lạ "Vali tham ăn"; như Lise và cô bạn, một cặp tình gái; như M., người xưng tôi trong truyện, đan đậm những cô đơn và bí mật gầngụivócdángtácgiả.

Mai Ninh dường như muốn khai mở phần đất cô đơn trong hồn mình, hồn người, như một vùng bí mật, thẳm sâu, đầy chông gai trở trắc, đầy huyết mạch thông lưu, nhưng đồng thời cũng lại muốn rắc lên nó một lớp sương mù, muốn vọng về nó như một tuyệt vọng. Nỗi cô vọng Mai Ninh

Những nhân vật Mai Ninh gặp nhau, thử yêu thương, thử tìm hiểu, thử tình bạn, thử tình yêu, nhưng rồi tất cả đều chỉ là sống "thử". Những khối cô đơn ấy không thể tan nhập vào nhau, dù họ có thay đổi cách kết hợp cuộc sống từ đồng tính trở sang lưỡng tính cho vừa lòng xã hội lắm điều hay vừa ý lương tâm cổ hủ của mình.

Những cá nhân "mất hướng", "lệch trục sống" ấy, dù có muốn tìm một hướng mới "chính trục" hơn cũng là không tưởng bởi họ chỉ tìm được những kết hợp tạm thời, chờ lần tan rã sắp tới. Từ Mai Ninh, người đọc tiếp nhận những nỗi đau của cuộc sống hợp âm trong một tấu khúc nghiệt oan, rồi tất cả lịm dần, chìm đi, tắt ngấm như những nỗi chết của tâm hồn. Tình trai, tình gái cùng chết trong tình người.

Truyện ngắn Hợp Âm Trong Vùng Sân Khuất (2) là một khúc tứ tấu cho nỗi cô đơn, nỗi chết đó. Bốn thân phận chia nhau một khoảng sân: Một ông già, một cô gái, một cậu thanh niên, một gã trung niên. Gã trung niên chủ quán, cỡ 40 tuổi, người gốc Ý, ưa huýt sáo bản Come back to Sorrento buổi chiều; ông già tối nào cũng nghe bản Concerto thứ 26 của Mozart. Cậu thanh niên chừng 20 tuổi, hình như người Bắc Âu, hình như học Beaux Arts, có biệt danh B.A, ưa bạn trai và nhạc Jazz và cô gái rơi xuống như một fausse note: nhân vật xưng tôi, sống một mình, nàng ưa giọng Barbara, Brel, Beattles, Baez...

Họ chia nhau một cái sân, cùng tấu với nhau một đoản khúc. Dạo đầu là lạ lẫm, gắt gỏng, trống đánh xuôi, kèn thổi ngược. Nhưng khi đã quen với những giờ giấc và tập tính trái khoáy của nhau đã "hợp âm" rồi thì bắt đầu khuất biệt. Chủ quán Sorrento về Ý tang mẹ. Anh chàng đẹp trai BA thưa dần bạn trai và ít xuống lầu. Ít lâu sau BA chết. Hợp Âm Trong Vùng Sân Khuất giao hưởng âm thanh, màu sắc, hương thơm... của những mẩu đời cô đơn lạc lõng ấy.

Spaghetti đi, đem theo hương chanh, hương cam, hương bưởi về Sorrento gập ghềnh thơ mộng. Bắc Âu phóng đãng đem về cõi chết nỗi bí mật trong nếp sống Beaux Arts tự do buông thả của mình, còn lại cô gái và ông già tóc trắng với những giọt nước mắt khô rơi trên những "cảnh sống âm thầm trượt qua nhau" (trang 51), không bắt được nhau, và cũng không nhập được vào dòng sống.

Mười truyện ngắn, mỗi truyện như cời thêm vào vết thương thắm đỏ, khơi rách mãi ra. Mỗi nhân vật Mai Ninh vừa đơn âm nỗi buồn, vừa hợp âm những đợt sóng đời xô đẩy. Họ là những vết hư ảo cuộc đời, tình cờ gặp nhau, chạm nhau, trong một không gian mù sương bất định. Những buổi hẹn trước, thường lỗi hẹn, người được chờ thường không đến, như Luân, trong truyện ngắn Ðêm Rượu Ðợi, đợi bóng mình. Mà cũng lại như có một khoảng cách vô hình và vô tình nào đó luôn luôn sẵn sàng ngăn trở người gần lại với người, cũng lại như có một phép màu nào khác làm những nhân tố, chẳng hẹn, chẳng định trước, xích lại gần nhau:
"Không ngờ, giữa không gian hư ảo sương mù nửa đêm, trên cõi sông nước, đá cổ mơ hồ này tôi lại đứng bên nàng, thật gần, cơ hồ chạm cả vào vuông khăn trắng cứ chực bay theo làn gió nổi đưa từ biển. Tôi định nói một câu gì thật nhẹ, lại thôi. Nàng lặng yên, quay người xuống cầu, tà áo lụa cuốn theo bước chân thăn thoắt. Thoáng chốc bóng tím như biến như hiện chấp chới giữa các ngõ ngách đường đi lẩn khuất. Tôi có thể đi nhanh để bắt kịp nàng nhưng tôi chậm lại, bỗng thấy nàng như con bướm đêm trở về giữa gạch đá ẩm đục của biển đầm để tìm một nhụy hoa đã mất" (Biển Ðầm, trang 87)

Những nhân vật Mai Ninh, ít nhiều đều là những cánh bướm đêm, như Mélisa, như Luân, như G, như M, như N, họ vần vũ trong một không gian nhục cảm thiên nhiên nửa hư, nửa thực:
"Thành phố này mọc từ biển lên núi, vừa nhấp nhô khép mình ẩn náu lại chĩa đứng sỗ sàng. Biển xanh dưới chân chừng hoang mang, cứ chực men lên, hớp lấy những màu tường hồng đủ gam đậm nhạt"
(Vách Mận Trắng, trang 116)
Hình như Mai Ninh đang cầm bút lông vẽ một bức tranh chuyển động bằng lời khiến người đọc có thể hình dung một Sorrento, hay một Le Mont Saint Michel... mọc lên từ biển. Những thành phố này có những giác quan dị lạ:
"Có những trưa nằm im, chim chóc ngủ. Tôi leo lên thành cửa sổ rộng, ngồi đó, chông chênh ngó nắng. Tháp chuông nhà thờ trắng trinh vượt rời những lớp nhà gợn hồng lên xuống. Biển bình an hút tôi về chân trời, giao tuyến của thực và ảo. Mênh mông đấy nhưng vẫn là hình ảnh một khoảnh khắc. Trời vừa kéo sang xuân, cây cối lửng lơ màu tươi non. Mái ngói đỏ cũng nhòa đi trong ánh sáng. Chỉ có vách núi mang mãi một sắc thẫm sâu, nặng chùng của đá. Hàng mận mọc cao trước núi đã báo mầm thức giấc cùng tôi, bồn chồn.
Váng vất chưa qua bỗng đâu cơn gió quạt tới bất ngờ. Khi tôi quay trở lại căn nhà, những nụ hoa mận mọng búp mà tôi nổi hứng phác chơi trên tấm bố trước khi đi bỗng nhiên bị nở tung bềnh bệch."
(Vách Mận Trắng, trang 121)
Nhân vật xưng tôi, trong đoạn văn trên đây có thể là một người, cũng có thể là một con mèo hay bất cứ một vật thể nào khác "chông chênh ngó nắng". Và những vật thể như cây mận, chưa chắc đã là mận thật hay chỉ là mận trong tranh. Mai Ninh lồng không gian thực vào tranh, rồi nhấc chúng từ tranh ra như một sinh vật sống. Ở chỗ đó, người viết đã phù ảo hóa những vật thể quanh mình, làm tĩnh cái động, làm động cái tĩnh để tạo thành một thế giới Mai Ninh đẹp, lạ, liêu trai và bí mật.

Mây Một Ngày là một chuyện hóa thân. Hai nhân vật nữ, cùng ẩn một bóng tên: Mây và Vân, sống một ngày trọn vẹn với nhau trong xác và hồn, giữa mơ và thật. Có thể gọi là fantasme, gọi là liêu trai. Gọi là gì cũng được nhưng trước hết là một phân thân: "Mây bây giờ đẫm mùi quen thuộc, mùi của chính tôi 3 của kem thoa da và nước hoa táo xanh tôi ưa thích." (Mây Một Ngày, trang 15)
Sự phân thân này dẫn đến một hóa thân toàn bích: "Tôi, trong quần jean và áo thun ngắn, khác Mây, với bộ bà ba vàng nhạt. Tôi vắt chanh vào hai tô phở, Mây lùa đũa vài ba lần, liếc gã đàn ông mắt dài làm tôi đâm bực, giục ăn đi. Mây bỗng đẩy ngay bát phở qua bên, giọng gọn lỏn. Không ngon bằng phở bà Lùn. Tôi bật cười. Sao không bằng. Mây chẳng đáp, cúi xuống mân mê cọng giá trắng muốt. Ðột nhiên nàng nói to. Phở bà Lùn năm trăm một tô, mẹ bảo Vân gửi cho Mây một ngàn, Mây ăn năm trăm, còn để dành cho cu Tuấn. Rồi tự dưng Mây trợn mắt giận dữ. Mấy người nói láo, lường gạt, ta biết nó chết, nó chết lâu rồi phải không? Người đàn ông răng vàng không cười nữa..." (Mây Một Ngày, trang 16)
Ðó là không khí Mai Ninh, một vùng thực ảo chắp nối, một vùng sống chết kết hợp. Chú ý đến những cử chỉ của Tôi và Mây: rõ ràng có hai "người": "Tôi, trong quần jean và áo thun ngắn, khác Mây, với bộ bà ba vàng nhạt." Nếu tôi và Mây là hai người thực, thì tại sao lại phải có chữ "khác" ở đây? Chính cái chữ "khác" ấy, đã nói lên tính "chối", tính "lừa", lừa mình (tác giả) và lừa người khác (độc giả), về thực chất của không khí Mai Ninh: Một mà hai, hai mà một. Những động tác nối tiếp sau đó là của một người mặc dù với hai chủ thể:
"Tôi vắt chanh vào hai tô phở, Mây lùa đũa vài ba lần... Mây bỗng đẩy ngay bát phở qua bên ... Mấy người nói láo, ta biết nó chết..."
Có một chủ thể chính đang ngồi trước bát phở, nhưng động tác và suy nghĩ của người này lại bị chi phối bởi một "chủ thể" khác, như một thứ "lệnh" phát ra từ tâm linh, từ ý thức hay tâm thức của cái thể xác kia. Ðồng thời, hợp âm của cái linh và cái xác kia lại cùng bừng tỉnh một lúc để nhận thấy "mình" tức là "nó" đã chết rồi, chết lâu rồi.
Sự "ngộ" này cho thấy ít nhất có hai "mơ" chùng chập. Một kẻ xé hai: cô đơn nói chuyện với cô đơn, sống nói chuyện với chết. Tạo nên một cách "vọng" mới: vọng hồn, vọng xác. Một thế đồng thiếp trong tâm hồn, có thể xẩy ra cho bất cứ ai mà không để lại dấu vết "hiện hữu". Chỉ một mình mình biết, một mình mình hay. Mai Ninh tạo ra thế giới đó, một thế giới: Chỉ mình mình biết. Mình mình hay.

Ở một khía cạnh hiện thực vật chất hơn, hầu như tất cả những chất liệu biển, đá, mưa, nắng, cô đơn, nỗi buồn, cái chết... kết hợp nhau trong chữ nghĩa để tạo thành những nhân vật của Mai Ninh. Cái mà tác giả gọi là hợp âm, chính là hợp âm của những chất liệu này: Chất liệu đầu tiên là biển với hai thành tố nước và sóng, chúng chao đảo trong toàn bộ truyện ngắn của Mai Ninh như một từ trường nguyên thủy. Và chất liệu sau cùng là cái chết, cái chết ở đây là lối mở, mở vào cái ảo, cái không biết, cái vô cùng.
Biển và chết, tự khởi thủy đã là nguồn cội của những giấc mơ. Bachelard có những dòng thật hay về biển và chết: "Như thế, sự vĩnh biệt ở bờ biển vừa là vĩnh biệt đau đớn nhất và cũng văn chương nhất trong những vĩnh biệt. Chất thơ của nó khai thác cái đáy sâu, xưa của hào hùng và mơ mộng. Nó đánh thức trong ta những vang âm đau thương nhất. Tất cả khía cạnh tâm hồn đêm tối của chúng ta được giải thích bằng huyền thoại của cái chết, xây dựng như một cuộc khởi hành trên nước. Ðối với người mơ mộng, khởi hành và cái chết sẽ chuyển hóa không ngừng. Với một số trường hợp mộng mơ khác, nước là một chuyển động mới mời gọi vào những chuyến đi chưa thực hiện bao giờ. Cuộc khởi hành hữu hình này kéo ta khỏi cuộc sống hữu hình trên trái đất. Cao thượng, dị kỳ biết bao, câu thơ sau đây của Baudelaire, chứa đựng một hình ảnh bất ngờ, như muốn đột nhập vào hồng tâm của mỗi bí mật trong ta:
Hỡi thần chết! Thuyền trưởng cố tri, giờ đã điểm! Hãy nhổ neo!" (4)
Thâm ngôn của Bachelard dường như được viết ra để giải thích nhiều trạng thái phức tạp của tâm hồn liên quan đến giấc mơ và biển cả.
Biển và chết đã là nền tảng cho bản giao hưởng của Mai Ninh trong Mưa Ðá Âm Dương, tạo nên những nét nhạc bấp bênh, bên bờ vực thẳm của tử thần, bên bờ vực sâu của trời đất, trong cái vũ bão của sóng, gió và mưa... Cuộc đi trẩy từ một vùng biển hữu hình nào đó -sao chẳng Normandie?- dữ dội, sóng luôn luôn gầm thét thịnh nộ, những cơn bão sóng, những cơn gió hú vọng về từ vực sâu trầm khuất dưới đáy đại dương hay đến tự trời như những cơn mưa tận thế.
"Phượng đứng chết rũ trên mặt cát cuốn xoáy. Nước dâng lên ào ạt rồi rút đi tức khắc thành luồng chảy xiết. Mưa như chưa bao giờ mưa thế, như biển sắp cạn khô nên trời đất nổi cơn cứu độ. Mưa táp tơi bời cùng gió. Phượng dang hai cánh tay, chiếc poncho ròng nước phần phật tung bay. Cánh vẫy thành dơi, dơi hoang từ núi khuất chỉ xuất hiện giữa ban ngày khi mặt trời bị dìm chết trong mưa ủng xám. Phượng mở miệng đón những hạt nước rớt từ trên không, nhỏ dòng từ đầu mũi và cuốn chùm tóc vắt qua môi. Nước có vị mặn chát của sự rã rời và của những ruộng muối trải dài trên con đường nàng đã đi qua. Hai cánh dơi chao đi trong ngọn gió bỗng chuyển chiều, vật xoài Phượng úp mặt vào lòng cát."
(Mưa Ðá Âm Dương, trang 106)
Ai đã từng đặt chân đến Le Mont Saint Michel, đến thăm gió, sóng với những bí mật của vùng này sẽ thấu được nỗi buồn trong Mưa Ðá Âm Dương. Không chắc gì Mai Ninh đã có chủ đích viết về vùng biển này, hay về một Sorrento u tịch và trắc trở khác, nhưng biển, nơi Mai Ninh, như phát tự tâm, từ hồng tâm bí mật của con người. Từ biển, phát xuất một từ trường, bào ảnh của một cuộc đi, một cuộc tình dữ dội giữa đá và biển, giữa Phượng và Kình, giữa âm và dương.
Như bước vào cõi nguyên khai, như đi thẳng từ truyền thuyết, Phượng Hoàng được Kình Ngư đẩy vào "cuộc hành trình đi tìm cửa nguồn khởi từ đêm ấy".
Cuộc chạy tìm này cũng là cuộc đuổi bắt giữa con người và định mệnh. Ngư, kình cá chạy trốn định mệnh của mình. Ðịnh mệnh ác nghiệt của một ngày, một giờ, một phút, một giây đã chao đảo cuộc đời Ngư, đã chia rẽ anh em Ngư, đã tuyệt tình Ngư-Phượng. Ngày ấy, hai anh em Ngư còn trẻ, chạy chơi trên vùng biển núi hoang dại. Thằng em dương nỏ bắn chim, người anh đứng trên đồi chênh vênh ngắm nhìn trời nước và vực thẳm.
Một con phượng hoàng lướt qua, bay về phía người anh, em giơ nỏ bắn "viên đạn đá nhọn hoắt lao đi. Chỉ một giây thôi, một tiếng kêu thất thanh rớt đi từ trên đồi, rút xuống vực, rồi tắt ngấm. Cùng lúc ấy, con chim may mắn thoát đạn đập cánh hoảng hốt bay vút lên ngọn cây." (Mưa Ðá Âm Dương, trang 113)
Người bắn chim là Ngư và con chim là Phượng.
Sự gặp gỡ xé thân, bất thần và xuất thần dữ dội như mũi tên hòn đạn giữa Phượng và Ngư mở đầu cuộc tình, một tìm kiếm những vết thương, khởi thủy những bí mật của cuộc đời. Sau phút trao thân đớn đau "Phượng xõa tóc, hai cánh tả tơi bay về phía mặt trời lóe sáng." (trang 113) và "Ngư đột ngột bỏ đi, cơ thể cuộn dài như thân cá, duỗi theo dòng nước rút ra biển" (trang 106).

Mưa Ðá Âm Dương là một thể nghiệm bút pháp rất mới mà nhiều hình thức tư tưởng huyền thoại triết lý Ðông Tây gặp gỡ trong một bài thơ hội họa dài: Hai nhân vật chính, Phượng và Ngư là những ảo vật, luôn luôn biến dạng, thoát thân, từ hình này sang hình khác, từ thân này sang thân khác, lúc họ là chim, là cá, lúc họ là đá, là sóng, lúc họ là cát, là biển, lúc họ là đêm, là ngày, là núi cao, là vực thẳm.

Bản tình ca tha thiết của nhục thể, quằn quại, chênh vênh quyến rũ mê hoặc đưa nhau vào cõi chết. Họ gặp nhau trong hành động hủy diệt đầu tiên: Ngư cầm súng bắn Phượng và hai kẻ cô đơn, thương nặng ấy tìm nhau trong hủy diệt cuối cùng: sự nhập hồn giữa tình yêu và cái chết.
Paris tháng 3/2001


Chú thích:
(1) in trên Hợp Lưu số 36, tháng 8 và 9 năm 1997
(2) trong tuyển tập Hợp Âm Trong Vùng Sân Khuất, Thời Mới, Toronto, Canada 2000.
(3) tôi là Vân
(4) trích và dịch L'eau et les rêves, Bachelard, Biblio Essais - Poche 1998, trang 90

Nguồn:
(1) Thụy Khuê
(2)Bích Hương
@ VN Express and @ ThanhNienOnline
PC
#2 Posted : Thursday, October 28, 2004 5:31:17 AM(UTC)
PC

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 5,668
Points: 25
Woman

Was thanked: 4 time(s) in 4 post(s)
Tác giả PC
Gởi: Sat Jul 17, 2004 5:23 am

nỗi cô vọng của mai ninh

thụy khuê

Truyện ngắn Ẫm Ướt Những Cơn Mưa, theo lời tác giả là truyện ngắn khai bút của Mai Ninh(1), đã xác định một phong cách viết: hướng về những niềm đau sâu khuất của con người. Từ truyện ngắn này, chớm nở những mảnh puzzle Mai Ninh như những mẩu cô đơn mọc lên trong trời đất: đó là những phận người, cùng yêu, cùng sống, nhưng không thể "đột nhập" vào nhau, vào bề dầy tâm thức của nhau; như chàng tóc dài và chàng họa sĩ, một cặp tình trai mở quán ăn có cái tên rất lạ "Vali tham ăn"; như Lise và cô bạn, một cặp tình gái; như M., người xưng tôi trong truyện, đan đậm những cô đơn và bí mật gần gụi vóc dáng tác giả.

Mai Ninh dường như muốn khai mở phần đất cô đơn trong hồn mình, hồn người, như một vùng bí mật, thẳm sâu, đầy chông gai trở trắc, đầy huyết mạch thông lưu, nhưng đồng thời cũng lại muốn rắc lên nó một lớp sương mù, muốn vọng về nó như một tuyệt vọng. Nỗi cô vọng Mai Ninh

Tất cả những nhân vật này gặp nhau, thử yêu thương, thử tìm hiểu, thử tình bạn, thử tình yêu, nhưng rồi tất cả đều chỉ là sống "thử". Những khối cô đơn ấy không thể tan nhập vào nhau, dù có thay đổi cách kết hợp cuộc sống, từ đồng tính trở sang lưỡng tính, để làm vừa lòng một xã hội lắm điều, hay để làm vừa ý cái lương tâm cũ kỹ của mình.

Những cá nhân "mất hướng", "lệch trục sống" ấy, dù có muốn tìm một hướng mới, "chính trục" hơn, cũng là không tưởng bởi họ chỉ tìm được những kết hợp tạm thời, chờ lần tan rã sắp tới. Từ Mai Ninh, người đọc tiếp nhận những nỗi đau của cuộc sống hợp âm trong một tấu khúc nghiệt oan, rồi tất cả lịm dần, chìm đi, tắt ngấm như những nỗi chết của tâm hồn. Tình trai, tình gái cùng chết trong tình người.

Truyện ngắn Hợp Ấm Trong Vùng Sân Khuất(2) là một khúc tứ tấu cho nỗi cô đơn, nỗi chết đó. Bốn thân phận chia nhau một khoảng sân: Một ông già, một cô gái, một cậu thanh niên, một gã trung niên. Gã trung niên chủ quán, cỡ 40 tuổi, người gốc Ý, ưa huýt sáo bản Come back to Sorrento buổi chiều; ông già tối nào cũng nghe bản Concerto thứ 26 của Mozart. Cậu thanh niên chừng 20 tuổi, hình như người Bắc Ấu, hình như học Beaux Arts, có biệt danh B.A, ưa bạn trai và nhạc Jazz và cô gái rơi xuống như một fausse note: nhân vật xưng tôi, sống một mình, nàng ưa giọng Barbara, Brel, Beattles, Baez...

Họ chia nhau một cái sân, cùng tấu với nhau một đoản khúc. Dạo đầu là lạ lẫm, gắt gỏng, trống đánh xuôi, kèn thổi ngược. Nhưng khi họ đã quen với những giờ giấc và tập tính trái khoáy của nhau, đã "hợp âm" rồi, thì bắt đầu khuất biệt. Chủ quán Sorrento, về Ý tang mẹ. Anh chàng đẹp trai BA thưa dần bạn trai và ít xuống lầu. Ít lâu sau BA chết. Hợp Ấm Trong Vùng Sân Khuất giao hưởng âm thanh, màu sắc và mùi hương của những mẩu đời cô đơn lạc lõng này.

Spaghetti đi, đem theo hương chanh, hương cam, hương bưởi về Sorrento gập ghềnh thơ mộng. Bắc Ấu phóng đãng đem về cõi chết nỗi bí mật trong nếp sống Beaux Arts tự do buông thả của mình, còn lại cô gái và ông già tóc trắng với những vết thương của những "cảnh sống âm thầm trượt qua nhau" (trang 51), không bắt được nhau, và cũng không nhập được vào dòng sống.

Mười truyện ngắn, mỗi truyện như cời thêm vào vết thương thắm đỏ, khơi rách mãi ra. Mỗi nhân vật của Mai Ninh vừa là đơn âm của nỗi buồn, vừa là hợp âm của những đợt sóng đời xô đẩy. Họ là những vết hư ảo của cuộc đời, tình cờ gặp nhau, chạm nhau, trong một không gian mù sương bất định. Những buổi hẹn định trước, thường lỗi hẹn, người được chờ thường không đến, như Luân, trong truyện ngắn Đêm Rượu Đợi, chờ đợi bóng mình. Mà cũng lại như có một khoảng cách vô hình và vô tình nào đó luôn luôn sẵn sàng ngăn trở người gần lại với người, cũng lại như có một phép màu nào khác làm những nhân tố, chẳng hẹn, chẳng định trước, xích lại gần nhau:

"Không ngờ, giữa không gian hư ảo sương mù nửa đêm, trên cõi sông nước, đá cổ mơ hồ này tôi lại đứng bên nàng, thật gần, cơ hồ chạm cả vào vuông khăn trắng cứ chực bay theo làn gió nổi đưa từ biển. Tôi định nói một câu gì thật nhẹ, lại thôi. Nàng lặng yên, quay người xuống cầu, tà áo lụa cuốn theo bước chân thăn thoắt. Thoáng chốc bóng tím như biến như hiện chấp chới giữa các ngõ ngách đường đi lẩn khuất. Tôi có thể đi nhanh để bắt kịp nàng nhưng tôi chậm lại, bỗng thấy nàng như con bướm đêm trở về giữa gạch đá ẩm đục của biển đầm để tìm một nhụy hoa đã mất" (Biển Đầm, trang 87)

Những nhân vật của Mai Ninh, ít nhiều đều là những cánh bướm đêm, như Mélisa, như Luân, như G, như M, như N, họ vần vũ trong một không gian nhục cảm thiên nhiên nửa hư, nửa thực:

"Thành phố này mọc từ biển lên núi, vừa nhấp nhô khép mình ẩn náu lại chĩa đứng sỗ sàng. Biển xanh dưới chân chừng hoang mang, cứ chực men lên, hớp lấy những màu tường hồng đủ gam đậm nhạt" (Vách Mận Trắng, trang 116)


Hình như Mai Ninh đang cầm bút lông vẽ một bức tranh chuyển động bằng lời khiến người đọc có thể hình dung một Sorrento, hay một Le Mont Saint Michel... mọc lên từ biển. Những thành phố này có những giác quan dị lạ:

Có những trưa nằm im, chim chóc ngủ. Tôi leo lên thành cửa sổ rộng, ngồi đó, chông chênh ngó nắng. Tháp chuông nhà thờ trắng trinh vượt rời những lớp nhà gợn hồng lên xuống. Biển bình an hút tôi về chân trời, giao tuyến của thực và ảo. Mênh mông đấy nhưng vẫn là hình ảnh một khoảnh khắc. Trời vừa kéo sang xuân, cây cối lửng lơ màu tươi non. Mái ngói đỏ cũng nhòa đi trong ánh sáng. Chỉ có vách núi mang mãi một sắc thẫm sâu, nặng chùng của đá. Hàng mận mọc cao trước núi đã báo mầm thức giấc cùng tôi, bồn chồn.

"Váng vất chưa qua bỗng đâu cơn gió quạt tới bất ngờ. Khi tôi quay trở lại căn nhà, những nụ hoa mận mọng búp mà tôi nổi hứng phác chơi trên tấm bố trước khi đi bỗng nhiên bị nở tung bềnh bệch." (Vách Mận Trắng, trang 121)

Nhân vật xưng tôi, trong đoạn văn trên đây có thể là một người, cũng có thể là một con mèo hay bất cứ một vật thể nào khác "chông chênh ngó nắng". Và những vật thể như cây mận, chưa chắc đã là mận thật hay chỉ là mận trong tranh. Mai Ninh lồng không gian thực vào tranh, rồi nhấc chúng từ tranh ra như một sinh vật sống. Ở chỗ đó, người viết đã phù ảo hóa những vật thể quanh mình, làm tĩnh cái động, làm động cái tĩnh để tạo thành một thế giới Mai Ninh đẹp, lạ, liêu trai và bí mật.



Mây Một Ngày là một chuyện hóa thân. Hai nhân vật nữ, cùng ẩn một bóng tên: Mây và Vân, sống một ngày trọn vẹn với nhau trong xác và hồn, giữa mơ và thật. Có thể gọi là fantasme, gọi là liêu trai. Gọi là gì cũng được nhưng trước hết là một phân thân: "Mây bây giờ đẫm mùi quen thuộc, mùi của chính tôi(3) của kem thoa da và nước hoa táo xanh tôi ưa thích." (Mây Một Ngày, trang 15)

Sự phân thân này dẫn đến một hóa thân toàn bích: "Tôi, trong quần jean và áo thun ngắn, khác Mây, với bộ bà ba vàng nhạt. Tôi vắt chanh vào hai tô phở, Mây lùa đũa vài ba lần, liếc gã đàn ông mắt dài làm tôi đâm bực, giục ăn đi. Mây bỗng đẩy ngay bát phở qua bên, giọng gọn lỏn. Không ngon bằng phở bà Lùn. Tôi bật cười. Sao không bằng. Mây chẳng đáp, cúi xuống mân mê cọng giá trắng muốt. Đột nhiên nàng nói to. Phở bà Lùn năm trăm một tô, mẹ bảo Vân gửi cho Mây một ngàn, Mây ăn năm trăm, còn để dành cho cu Tuấn. Rồi tự dưng Mây trợn mắt giận dữ. Mấy người nói láo, lường gạt, ta biết nó chết, nó chết lâu rồi phải không? Người đàn ông răng vàng không cười nữa..." (Mây Một Ngày, trang 16)

Đó là không khí Mai Ninh, một vùng thực ảo chắp nối, một vùng sống chết kết hợp. Chú ý đến những cử chỉ của Tôi và Mây: rõ ràng có hai "người": một người mặc quần jean, áo thun khác với một người mặc bộ bà ba nhạt. Nhưng nếu đã là hai người thực, thì tại sao lại phải có chữ "khác" ở đây? Chính cái chữ "khác" ấy, đã nói lên tính chất "chối", tính chất "lừa", lừa mình (tác giả) và lừa người khác (độc giả), về thực chất của không khí Mai Ninh: Một mà hai, hai mà một. Những động tác nối tiếp sau đó là của một người mặc dù với hai chủ thể:

"Tôi vắt chanh vào hai tô phở, Mây lùa đũa vài ba lần... Mây bỗng đẩy ngay bát phở qua bên ... Mấy người nói láo, ta biết nó chết..."

Có một chủ thể chính đang ngồi trước bát phở, nhưng động tác và suy nghĩ của người này lại bị chi phối bởi một "chủ thể" khác, như một thứ "lệnh" phát ra từ tâm linh, từ ý thức hay tâm thức của cái thể xác kia. Đồng thời, hợp âm của cái linh và cái xác kia lại cùng bừng tỉnh một lúc để nhận thấy "mình" tức là "nó" đã chết rồi, chết lâu rồi.

Sự "ngộ" này cho thấy ít nhất có hai "mơ" chùng chập. Một kẻ xé hai: cô đơn nói chuyện với cô đơn, sống nói chuyện với chết. Tạo nên một cách "vọng" mới: vọng hồn, vọng xác. Một thế đồng thiếp trong tâm hồn, có thể xẩy ra cho bất cứ ai mà không để lại dấu vết "hiện hữu". Chỉ có một mình mình biết, một mình mình hay. Mai Ninh tạo ra thế giới đó, một thế giới: Chỉ có mình mình biết. Mình mình hay.



Ở một khía cạnh trần thế hơn, hầu như tất cả những chất liệu biển, đá, mưa, nắng, cô đơn, nỗi buồn, cái chết... kết hợp nhau trong chữ nghĩa để tạo thành những nhân vật của Mai Ninh. Cái mà tác giả gọi là hợp âm, chính là hợp âm của những chất liệu này: Chất liệu đầu tiên là biển với hai thành tố nước và sóng, chúng chao đảo trong toàn bộ truyện ngắn của Mai Ninh như một từ trường nguyên thủy. Và chất liệu sau cùng là cái chết, cái chết ở đây là lối mở, mở vào cái ảo, cái không biết, cái vô cùng.

Biển và chết, tự khởi thủy đã là nguồn cội của những giấc mơ. Bachelard có những dòng thật hay về biển và chết: "Như thế, sự vĩnh biệt ở bờ biển vừa là vĩnh biệt đau đớn nhất và cũng văn chương nhất trong những vĩnh biệt. Chất thơ của nó khai thác cái đáy sâu, xưa của hào hùng và mơ mộng. Nó đánh thức trong ta những vang âm đau thương nhất. Tất cả khía cạnh tâm hồn đêm tối của chúng ta được giải thích bằng huyền thoại của cái chết, xây dựng như một cuộc khởi hành trên nước. Đối với người mơ mộng, khởi hành và cái chết sẽ chuyển hóa không ngừng. Với một số trường hợp mộng mơ khác, nước là một chuyển động mới mời gọi vào những chuyến đi chưa thực hiện bao giờ. Cuộc khởi hành hữu hình này kéo ta khỏi cuộc sống hữu hình trên trái đất. Cao thượng, dị kỳ biết bao, câu thơ sau đây của Baudelaire, chứa đựng một hình ảnh bất ngờ, như muốn đột nhập vào hồng tâm của mỗi bí mật trong ta:

"Hỡi thần chết! Thuyền trưởng cố tri, giờ đã điểm! Hãy nhổ neo!"(4)

Thâm ngôn của Bachelard dường như được viết ra để giải thích nhiều trạng thái phức tạp của tâm hồn liên quan đến giấc mơ và biển cả.

Biển và cái chết đã là nền tảng cho bản giao hưởng của Mai Ninh trong Mưa Đá Ấm Dương, tạo nên những nét nhạc bấp bênh, bên bờ vực thẳm của tử thần, bên bờ vực sâu của trời đất, trong cái vũ bão của sóng, gió và mưa... Cuộc đi trẩy từ một vùng biển hữu hình nào đó,-sao chẳng Normandie?- dữ dội, sóng luôn luôn gầm thét, thịnh nộ, những cơn bão sóng, những cơn gió hú vọng về từ vực sâu trầm khuất dưới đáy đại dương hay đến tự trời như những cơn mưa tận thế.

"Phượng đứng chết rũ trên mặt cát cuốn xoáy. Nước dâng lên ào ạt rồi rút đi tức khắc thành luồng chảy xiết. Mưa như chưa bao giờ mưa thế, như biển sắp cạn khô nên trời đất nổi cơn cứu độ. Mưa táp tơi bời cùng gió. Phượng dang hai cánh tay, chiếc poncho ròng nước phần phật tung bay. Cánh vẫy thành dơi, dơi hoang từ núi khuất chỉ xuất hiện giữa ban ngày khi mặt trời bị dìm chết trong mưa ủng xám. Phượng mở miệng đón những hạt nước rớt từ trên không, nhỏ dòng từ đầu mũi và cuốn chùm tóc vắt qua môi. Nước có vị mặn chát của sự rã rời và của những ruộng muối trải dài trên con đường nàng đã đi qua. Hai cánh dơi chao đi trong ngọn gió bỗng chuyển chiều, vật xoài Phượng úp mặt vào lòng cát." (Mưa Đá Ấm Dương, trang 106)

Ai đã từng đặt chân đến Le Mont Saint Michel, đến thăm gió, sóng với những bí mật của vùng này sẽ thấu được nỗi buồn trong Mưa Đá Ấm Dương. Không chắc gì Mai Ninh đã có chủ đích viết về vùng biển này, hay về một Sorrento u tịch và trắc trở khác, nhưng biển, nơi Mai Ninh, như phát tự tâm, từ hồng tâm bí mật của con người. Từ biển, phát xuất một từ trường, bào ảnh của một cuộc đi, một cuộc tình dữ dội giữa đá và biển, giữa Phượng và Kình, giữa âm và dương.

Như bước vào cõi nguyên khai, như đi thẳng từ truyền thuyết, Phượng Hoàng được Kình Ngư đẩy vào "cuộc hành trình đi tìm cửa nguồn khởi từ đêm ấy".

Cuộc chạy tìm này cũng là cuộc đuổi bắt giữa con người và định mệnh. Ngư, kình cá chạy trốn định mệnh của mình. Định mệnh ác nghiệt của một ngày, một giờ, một phút, một giây đã chao đảo cuộc đời Ngư, đã chia rẽ anh em Ngư, đã tuyệt tình Ngư-Phượng. Ngày ấy, hai anh em Ngư còn trẻ, chạy chơi trên vùng biển núi hoang dại. Thằng em dương nỏ bắn chim, người anh đứng trên đồi chênh vênh ngắm nhìn trời nước và vực thẳm.

Một con phượng hoàng lướt qua, bay về phía người anh, em giơ nỏ bắn "viên đạn đá nhọn hoắt lao đi. Chỉ một giây thôi, một tiếng kêu thất thanh rớt đi từ trên đồi, rút xuống vực, rồi tắt ngấm. Cùng lúc ấy, con chim may mắn thoát đạn đập cánh hoảng hốt bay vút lên ngọn cây." (Mưa Đá Ấm Dương, trang 113)

Người bắn chim là Ngư và con chim là Phượng.

Sự gặp gỡ xé thân, bất thần và xuất thần dữ dội như mũi tên hòn đạn giữa Phượng và Ngư mở đầu một cuộc tình, một cuộc tìm kiếm những vết thương, khởi thủy những bí mật của cuộc đời. Sau cuộc trao thân đớn đau "Phượng xõa tóc, hai cánh tả tơi bay về phía mặt trời lóe sáng." (trang 113) và "Ngư đột ngột bỏ đi, cơ thể cuộn dài như thân cá, duỗi theo dòng nước rút ra biển" (trang 106).

Mưa Đá Ấm Dương là một thể nghiệm bút pháp rất mới mà nhiều hình thức tư tưởng huyền thoại triết lý Đông Tây gặp gỡ trong một bài thơ hội họa dài: Hai nhân vật chính, Phượng và Ngư là những ảo vật, luôn luôn biến dạng, thoát thân, từ hình này sang hình khác, từ thân này sang thân khác, lúc họ là chim, là cá, lúc họ là đá, là sóng, lúc họ là cát, là biển, lúc họ là đêm, là ngày, là núi cao, là vực thẳm.

Bản tình ca tha thiết của nhục thể, quằn quại, chênh vênh quyến rũ mê hoặc đưa nhau vào cõi chết. Họ gặp nhau trong hành động hủy diệt đầu tiên: Ngư cầm súng bắn Phượng và hai kẻ cô đơn, thương nặng ấy tìm nhau trong hủy diệt cuối cùng: sự nhập hồn giữa tình yêu và cái chết.

Thụy Khuê
Paris tháng 3/2001


1. In trên Hợp Lưu số 36, tháng 8&9 năm 1997
2. Trong tuyển tập Hợp Ấm Trong Vùng Sân Khuất, Thời Mới, Toronto, Canada 2000
3. Tôi là Vân
4. L'eau et les rêves, Bachelard, Biblio Essais - Poche 1998, trang 90
PC
#3 Posted : Thursday, October 28, 2004 5:32:16 AM(UTC)
PC

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 5,668
Points: 25
Woman

Was thanked: 4 time(s) in 4 post(s)
Tác giả PC
Gởi: Sat Jul 17, 2004 5:28 am

Nhà văn Mai Ninh
trả lời nhà báo Thượng Văn
(tạp chí Văn số 58 tháng 10-2001)


Tennessee Williams có nói rằng ông có thể viết hay hơn nhiều nếu ông không quá lo lắng về khả năng viết lách của mình. Mai Ninh có nỗi lo lắng này khi bắt đầu cầm bút ?

Có hơi băn khoăn lẫn dè dặt một chút lúc viết hai ba truyện đầu tiên, khởi sự một điều gì cũng thế, nhưng không lo lắng. Mai Ninh chẳng thấy gì phải lo lắng cả, khi đấy không là chuyện thiết yếu cho đời sống của mình. Tuy thế, Mai Ninh không xem viết chỉ là chuyện để chơi. Nếu là chơi, dễ đưa đến cách viết vô ý thức (tất nhiên, chẳng thể nói, cứ chơi là vô ý thức, ‘nghề chơi cũng lắm công phu’), lại đem đăng báo thì hoá ra xem thường người đọc.

Viết lách theo chị có phải là hành động chuyển đạt, chuyện vận những kinh nghiệm cá nhân vào chữ nghĩa ( Thượng Văn)

Với Mai Ninh, trước hết nó khởi đầu bằng nhận thức, sau đó ý muốn truyền đạt những thao thức , cảm nhận và suy nghiệm. đúng thế, suy nghiệm cá nhân nhiều hơn là kinh nghiệm. Nếu chỉ chuyển tải kinh nghiệm thì không mấy người đọc những ngòi viết trẻ tuổi ư ? Trong khi thật ra chung ta có thể bắt gặp, nhận được rất nhiều điều mới lạ trong văn chương chữ nghĩa của họ. Chúng không chuyên chở kinh nghiệm mà chính là những chụp bắt cảm xúc tinh khôi, nhiều khi nhất thời, nhưng là những suy nghĩ và khao khát về cuộc sống.
...đã viết trong lời tựa ‘Hợp âm’, vì tình yêu, nên ‘Hợp âm Trong Vùng Sân Khuất’ là cho những kẻ xa gần đã cho Mai Ninh nhận biết thêm về hạnh phúc và đau khổ, từ tình yêu ‘giữa người và người, giữa tôi và người’. Khi viết, nếu có đối tượng sẽ hứng thú hơn. Mai Ninh không viết cho đại chúng, vì đại chúng này mơ hồ quá.

Chị có một quan niệm chung nào về cách diễn tả nhân vật ? (TV)

Làm thế nào cho con người, tâm tư của nhân vật được thực sự định hình. Xúc cảm của nhân vật là quan trọng, hãy cho phép họ diễn tả tự do, phù hợp với cá tính, con người của họ trong truyện. ở mỗi tác phẩm, các nhân vật phải quyện lại với nhau trong cùng một thế giới. Thế giới ấy có thể tròn trịa, đầy ắp hay méo mó, lệch lạc, ngay cả bất động và đầy lỗ hổng, nhưng mỗi nhân vật là bổ túc cho những nhân vật khác. Sự va chạm giữa họ là một trong những yếu tố quyết định sức cuốn hút của truyện.

Khi viết, tưởng tượng của chị bắt đầu bằng ngôn ngữ hay hình ảnh ?
Rất ít khi bằng ngôn ngữ, thường là hình ảnh nhưng là hình ảnh diễn tả, mở ra tâm trạng của nhân vật hay dẫn đến sự kiện muốn viết.Ngôn ngữ để kiện toàn hình ảnh và câu chuyện.

Mai Ninh không có thói quen hằng ngày cho sự viết lách. Có nhiều ngày không viết gì cả. Rất là tùy hứng, tùy công việc và những thứ lôi cuốn khác. Cũng khổ là dường như bị lôi cuốn bởi nhiều thứ. Trần gian mà. Thường thường, Mai Ninh viết ban đêm, sau khi đi xem một cuộn phim về hay giữa khuya chợt thức. Nếu có một thói quen nào thì đó là viết trong im vắng, không có ai lướng vướng bên cạnh.

Mai Ninh
PC
#4 Posted : Thursday, October 28, 2004 5:33:05 AM(UTC)
PC

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 5,668
Points: 25
Woman

Was thanked: 4 time(s) in 4 post(s)
Tác giả PC
Gởi: Sun Jul 18, 2004 7:04 pm

Mai Ninh, người nhạc trưởng của hợp âm trong vùng sân khuất

Lâm Văn Sang

Trong số những người viết văn ở hải ngoại mới xuất hiện, người ta có thể đã nghe nói đến Mai Ninh, người ta cũng có thể đã đọc qua một đôi truyện ngắn của Mai Ninh trong những năm gần đây nhất, trên một số các tạp chí văn học nghệ thuật. Quyển Hợp Âm Trong Vùng Sân Khuất, một tập hợp của 10 truyện ngắn của chị, đã được nhà xuất bản Thời Mới, ở Toronto, Canada xuất bản cuối năm qua. Trong lời tựa, Mai Ninh viết: "... nếu phần lớn các hành động của con người đều do tình yêu dẫn dắt và chi phối, thì viết, với tôi, cũng vì lẽ ấy." Tình yêu là đề tài muôn thuở của văn chương, viết về tình yêu là chuyện nhiều người đã làm. Nhưng, không khí và chữ nghĩa của truyện ngắn Mai Ninh đã làm mới đề tài, vốn đã cũ này. Đó là những thăm dò, tìm kiếm và khai mở cho nỗi bí ẩn nhiệm mầu của đời sống bằng cái nhìn rất tĩnh, rất lặng. Tất cả phong ba, bão táp của đam mê, cuồng nhiệt đều khởi đi từ cái ban đầu tĩnh lặng và cũng chấm dứt như thế, trong truyện ngắn Mai Ninh. Bài phỏng vấn dưới đây được thực hiện bằng e-mail như một gạch nối ngắn nhất giữa hai bờ Đại Tây Dương.

Hỏi: Mai Ninh là ai?

Đáp: Nếu có một lần bất chợt bị vương vấn hay lãng đãng nghĩ đến điều này thì có lẽ đó là lần đầu Mai Ninh nghe lời hát gì trong một bài nhạc của Trịnh Công Sơn: "Tôi là ai mà còn trần gian thế." Câu ấy vừa hỏi vừa trả lời, phải thế không? Nhưng nếu hiểu câu hỏi này như về một chút thân thế, thì ... Mai Ninh trước kia là một cô nhỏ rời Sài Gòn đi Pháp du học khi đậu Tú Tài. Học xong, làm nghiên cứu viên khoa học, trong ngành vật lý. Cư ngụ ở vùng Normandie, tây bắc nước Pháp, từ hơn 32 năm. Có hai cô con gái, nay lớn hơn mẹ ngày rời quê hương.

Hỏi: Tôi đọc ở đâu đó câu thơ của Jean Géhenno:

"Nous rêvons une vie,
Nous en vivons une autre,
Mais celle que nous rêvons est la vraie."

Đâu là đời sống thật của Mai Ninh: một nhà văn, một nhà khoa học?

Đáp: Rêve là mơ ước. Mai Ninh thường mơ về một trạng thái - un état - sống như thế nào, nhiều hơn là một đời sống - une vie. Đời sống thật chính là cái hiện tại mình đang có mặt, hòa nhập hay bị lôi đi cùng với nó, cả đang chịu đựng. Mai Ninh học và làm việc khoa học đã lâu so với thời gian viết lách và hiện thời vẫn còn trong ngành nghề ấy nên nếu nói về đời sống thật như một hiện tại chiếm hữu thời gian, trí óc mình hằng ngày thì Mai Ninh gần với một người khoa học hơn nhà văn. Nhưng mặt nào đó, Mai Ninh thấy mình "giàu có" nhờ ở chỗ, lúc thì được sống thật trong mẫu người này khi lại với tâm trạng và cái nhìn của người kia. Dĩ nhiên đã nhiều lần hai con người ấy đụng độ nhau, rất vui, bổ túc và bổ ích.

Hỏi: Thói quen viết lách hàng ngày của Mai Ninh ra sao?

Đáp: Mai Ninh không có thói quen hằng ngày cho sự viết lách. Có nhiều ngày không viết gì cả. Rất là tùy hứng, tùy công việc và những thứ lôi cuốn khác. Cũng khổ là dường như bị lôi cuốn bởi nhiều thứ. Trần gian mà. Thường thường, Mai Ninh viết ban đêm, sau khi đi xem một cuộn phim về hay giữa khuya chợt thức. Nếu có một thói quen nào thì đó là viết trong im vắng, không có ai lướng vướng bên cạnh.

Hỏi: Trong Hợp Âm Trong Vùng Sân Khuất, ngoại trừ hai truyện ngắn Bão Cát và Ẩm Ướt Những Cơn Mưa không ghi ngày tháng, những truyện khác được viết trong khoảng từ tháng Giêng, năm 1999 đến tháng Sáu, năm 2000. Lý do nào đã khiến chị viết đều đặn trong khoảng thời gian này?

Đáp: Không biết những người viết khác sáng tác ra sao nên Mai Ninh chẳng hiểu viết như thế nào được gọi là đều đặn. Cộng số tác phẩm ra đời trong một khoảng thời gian nhất định chưa hẳn là cách ước lượng sự đều đặn. Điều này tùy thuộc vào nhịp viết. Riêng Mai Ninh, lắm khi nhiều ngày chẳng được vài dòng, rồi bất ngờ trong ít hôm là kết thúc một truyện ngắn. Còn về lý do đã "sản xuất" khoảng tám truyện trong một năm rưỡi, theo tính sổ của anh, thì chỉ là sự tình cờ. Tình cờ từ một gặp gỡ với người, với cảnh ngộ, bắt gặp một tâm trạng, có khi một phong cảnh đặc biệt cũng làm lay động tư tưởng, đánh thức xúc cảm, khơi mở tưởng tượng để đưa đến ý muốn viết ra thành truyện.

Hỏi: Một số truyện của Mai Ninh (Nến Trong Kẽ Liếp, Mây Một Ngày) có khung cảnh của Việt Nam thời chiến tranh trước năm 1975. Liệu cái khoảng cách thời gian trên dưới 25 năm có giúp Mai Ninh nhìn rõ hơn cuộc chiến này và những hệ lụy của nó trước khi viết?

Đáp: Rời quê hương vào cái tuổi bắt đầu có những thắc mắc, suy tư riêng biệt, định hình và ý thức hơn về thế giới cùng những sự việc xảy ra quanh mình, nên mỗi khi nhớ về Việt Nam thì hẳn nhiên điều hằn sâu, nhớ đời với Mai Ninh vẫn là khung cảnh và cuộc sống cùng con người nơi ấy ở thời sắp đi du học, nghĩa là trước năm 1975.

Người ta thường nói, muốn nhìn rõ sự việc, nhất là những sự kiện lịch sử phải có một khoảng cách thời gian rất dài. Về cuộc chiến tranh cuối này trên xứ sở chúng ta thì 25 năm chưa đủ để nhìn rõ mọi sự kiện. Không chiến tranh nào với tầm cỡ ấy chỉ thuần là nội chiến, rất nhiều yếu tố địa hình, nhân sự, chính trị, kinh tế đến từ bên ngoài mà chúng ta chưa biết hết, mà những guồng máy điều động, tham dự còn giấu kín. Hiện thời, Mai Ninh cảm nhận và nếu có viết ra những gì liên quan đến quê hương và các hệ lụy để lại của cuộc chiến ấy là thuần qua tình người và bằng linh cảm.

Hỏi: Mai Ninh có tin là nhà văn phản ảnh thời đại họ sinh sống? Thời Mai Ninh cầm bút có khác gì so với trước kia?

Đáp: Có chứ, nếu không, người ta cần gì đọc sách báo. Ngay cả những tác phẩm viết về quá khứ cũng là viết bằng tâm trạng và với cái nhìn của người đang sống giờ phút hiện tạị Vũ trụ lúc nào cũng vận chuyển, biến hoá, con người thay đổi cách sinh sống và suy nghĩ, nên thời đại của họ phải khác hơn. Nhiều thứ khác. Hẳn nhiên nhà văn bây giờ viết không giống những người trước họ. Chẳng hạn, văn chương Đức sau bức tường Bá Linh sụp đổ bớt khô cứng, lý luận gò bó. Các nhà văn Đức sau này nghiêng về đời sống hằng ngày, có những cái viết thực tế cởi mở, đôi khi hài hước. Người ta cũng ghi nhận họ viết nhiều về tình dục và đề cập đến đủ các vấn đề "tabou".

Về "thời Mai Ninh cầm bút" mà anh hỏi thì cái khác mà Mai Ninh thấy rõ ràng nhất đó là sự tự do, tự do trong ngôn ngữ, trong cách diễn đạt.

Hỏi: Mai Ninh đọc và chịu ảnh hưởng của tác giả nào?

Đáp: Một câu hỏi tương tự đã được chị Thụy Khuê đặt ra nhân một phỏng vấn trên đài RFI của Pháp. Mai Ninh không nghĩ mình chịu ảnh hưởng của một tác giả nhất định nào, Việt Nam lẫn ngoại quốc. Mai Ninh yêu thích một tác phẩm, nhưng một tác giả, thì không. Một điều chắc chắn, văn hoá của xứ sở Mai Ninh đã sống hơn 30 năm có ảnh hưởng nhiều trên suy nghĩ và cách viết. Về đọc, Mai Ninh đọc đủ loại và xem đó là một sự khám phá, nên thường vào hiệu sách, thấy một cuốn sách trình bày đẹp hoặc cái tựa hay hay thì cầm lên xem, dĩ nhiên nhiều lúc tên tác giả làm mình chú ý. Đọc lướt vài trang, tựa hay kết luận. Với Mai Ninh, vài trang ấy thường đủ để thấy cuốn truyện có thể hấp dẫn mình hay không. Cũng đôi lần thất vọng sau khi đọc, nhưng có sao đâu.

Hỏi: Nhà văn Vladimir Nabokov có nói ông viết cho một nhóm nhỏ người, trong số này đa số là bạn bè. Hợp Âm Trong Vùng Sân Khuất viết cho ai?

Đáp: Đã viết trong lời tựa "Hợp Âm," vì tình yêu, nên HATVSK là cho những kẻ xa gần đã cho Mai Ninh nhận biết thêm về hạnh phúc và đau khổ, từ tình yêu "giữa người và người, giữa tôi và người." Khi viết, nếu có đối tượng sẽ hứng thú hơn. Mai Ninh không viết cho đại chúng, vì đại chúng này mơ hồ quá.

Hỏi: Mai Ninh có một quan niệm chung nào về cách diễn tả nhân vật?

Đáp: Làm thế nào cho con người, tâm tư của nhân vật được thực sự định hình. Xúc cảm của nhân vật là quan trọng, hãy cho phép họ diễn tả tự do, phù hợp với cá tính, con người của họ trong truyện. ở mỗi tác phẩm, các nhân vật phải quyện lại với nhau trong cùng một thế giới. Thế giới ấy có thể tròn trịa, đầy ắp hay méo mó, lệch lạc, ngay cả bất đồng và đầy lỗ hổng, nhưng mỗi nhân vật là bổ túc cho những nhân vật khác. Sự va chạm giữa họ là một trong những yếu tố quyết định sức cuốn hút của truyện.

Hỏi: Khi viết, tưởng tượng của Mai Ninh bắt đầu bằng ngôn ngữ hay hình ảnh?

Đáp: Rất ít khi bằng ngôn ngữ, thường là hình ảnh nhưng là hình ảnh diễn tả, mở ra tâm trạng của nhân vật hay dẫn đến sự kiện muốn viết. Ngôn ngữ để kiện toàn hình ảnh và câu chuyện.

Hỏi: Tác phẩm kế tiếp của Mai Ninh sẽ là gì? Chị có dự định viết truyện dài trong tương lai?

Đáp: Hiện thời đang bận việc, công và tư, Mai Ninh chẳng viết gì nhiều. Về truyện dài, vẫn ở trong dự định, một dự định ám ảnh. Cốt truyện đi theo, nhân vật nhảy múa kêu gọi. Nhưng viết truyện dài cần sự chuyên cần, đều đặn hơn truyện ngắn. Phải hằng ngày sống với nhân vật, nghe họ nói, nhìn họ hành động, chia sẻ và sát cận với họ thì truyện mới có dòng, mới sống động. Nếu viết ngắt quãng, bỏ họ đi chơi, để mình cuộn chìm vào đời sống riêng tư thì truyện dễ bị giống như một tiểu thuyết định kỳ. Vì thế, còn hẹn với mình, một ngày nào đó.


Lâm Văn Sang
Việt Mercury, 11/5/01
PC
#5 Posted : Thursday, October 28, 2004 5:34:08 AM(UTC)
PC

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 5,668
Points: 25
Woman

Was thanked: 4 time(s) in 4 post(s)
Nến Trong Kẽ Liếp

Mai Ninh


Lúc ấy, đầu buổi trưa, sau cửa liếp. Tôi vẫn yêu khoảng tranh tối tranh sáng của căn phòng cài bằng những song cửa gỗ. Chúng để lọt các vạch nắng hắt qua khe, tạo cảm giác một không gian khép, vừa ngăn chia nhưng vẫn còn chút tương giao với thế giới hở tung hỗn độn bên ngoài. Ở đó, hơi nóng nhiệt đới bốc lên hừng hực từ mặt lộ nhão nhựa đường. Cả nhà, anh Vân và chị Hạc, sau bữa ăn trưa hẳn đang thiếp ngủ. Tôi lăn từ tấm nệm giường xuống sàn đá hoa tìm hơi mát, lẩn thẩn sờ tay lên những lằn sáng kẻ vệt trên các ô gạch in đường cong cong mà màu sắc chỉ còn nhờ nhờ khó định. Chiếc quạt máy trong góc phòng lay nhẹ tấm màn chị Hạc đã căng lên hai hôm trước. Bóng màn rọi cùng khe sáng, tôi nhỏm dậy kéo tuột chiếc áo vải phin ra khỏi người. Ðúng lúc ấy, anh Vân đẩy cửa. Anh nhìn sững vào thân thể tôi đang chơi đùa với những vằn nắng vẽ trên da.

Chiếc trực thăng thả tôi xuống phi trường quân sự. Tên phóng viên Mỹ ngồi cạnh từ thành phố ra, lăm lăm chiếc Nikon kềnh càng, giơ lên bấm lia lịa khi tôi bước xuống ba bực thang sắt. Gió từ cánh quạt thổi bay những sợi tóc tôi cố nắm lại, vạt áo dài trắng bật tung quấn cả vào chiếc xách tay mà người phụ tá của anh Vân đến đón đang cầm hộ. Tôi xấu hổ cuống quít kéo gỡ, tự trách mình sao chẳng mặc quần jean cho tiện. Gã phóng viên đã đứng sau lưng, to lớn chừng đổ xuống là lấp kín cả tôi nhỏ bé, lại lách tách cố thâu khuôn mặt tôi vào ống kính. Tôi vội vàng quay đi, hắn cười: - Sorry, tại cô em đẹp quá. Tôi cáu giận muốn nói câu gì, nhưng chẳng tìm ra chữ. Thì ở trường tôi nào học đủ ngoại ngữ để thốt ra những lời lẽ cọc cằn. Anh chàng phụ tá liến thoắng giọng Ðà Nẵng nhiều âm chữ a và e, giúp tôi trèo lên xe jeep và bảo: - Trung úy chờ cô bên kia cầu. Bên kia cầu? Tôi mừng rỡ tưởng rằng anh Vân sẽ đưa đến gặp Ðăng ngay. Màu xi măng xám ngắt của phi đạo chợt sáng nắng trong lòng mắt tôi mong đợi.

Không như tôi nghĩ, anh Vân mặc thường phục, trẻ và đẹp trai hơn Ðăng đã tả. Hai hàng mi cong cười cùng với hàm răng trắng. Nhưng anh nhìn lơ đãng, chỉ một cái gật đầu. Tiếng nói miền trung của anh trài trại, không ấm và lai giọng bắc như Ðăng, cũng chẳng giống anh hạ sĩ phụ tá.

- Ðăng bất ngờ bị hành quân. Tôi đưa Miên về nhà trước.

Câu nói ngắn đủ làm mắt tôi cay cay. Những háo hức mê muội lúc chân trước chân sau rời nhà, lúc ngại ngùng dối mẹ đi thăm con bạn tận Nha Trang, lúc gom những tờ thư luôn viết dở chừng cả tháng qua đem đi cho Ðăng, bỗng chốc loà đi với nắng trưa trải loang trên mặt nước con sông dưới chân cầu. Vậy mà Ðăng réo gọi, vậy mà Ðăng hứa: -Anh sẽ có mặt ngay, khi anh Vân cho biết em đã tới. Dãy núi trọc bên kia bờ sông chắn ngang tầm mắt, cắt cái nhìn gãy gọn với chân trời xanh băn bẵn. Làm sao tôi có thể tưởng tượng ra vùng đồi núi mù sương mà Ðăng từng kể trên những hàng chữ chăm chút dưới bunker. Ðành lững thững theo chân anh Vân, lại trèo lên xe jeep băng qua cổng trại lính kiên cố, chung quanh hàng rào chất đầy bao cát chắn đạn. Phố phường lèo tèo hàng quán, không gian khô rang. Tôi đảo mắt tìm vài bóng cây xanh, chỉ bắt gặp những ống quần bà ba rộng dưới quang gánh, mấy tấm áo bông hoa của người con gái đạp xe mệt mỏi và dăm cặp mắt thiêm thiếp của cụ già ngồi dựa cột bờ hiên. Ở góc phố, rạp chiếu bóng tường vôi vàng đất hiện ra với tấm tranh che gần hết nửa mặt tiền, vẽ ảnh đôi trai gái màu mè rực rỡ nhưng mặt buồn rười rượi, lại cảnh chia ly. Bọn Mỹ mang sang đầy phim cao bồi trinh thám mới mẻ để chiếu xem trong trại, nhưng nhiều lần anh đã vào rạp xi-nê này, chỉ để nghe tiếng ghế kéo, và được ngỡ đang ngồi bên em, ở Rex. Ðăng đã bảo như thế, chàng đã kể bao nhiêu về cái tỉnh lỵ nhỏ này, về những buổi chiều cuối tuần từ trên đồi cao trở xuống tìm một tách cà-phê bên bờ sông. Tiếng đại bác lúc ấy chỉ còn là âm thanh mơ hồ rơi rớt như những giọt mưa đầu thu trên thành phố xa lắc. Ðã bẩy tháng hơn, sau những ngày Tết khủng khiếp, Ðăng chưa được về phép. Tin Ðăng khi có khi không, lo âu, nhớ chàng điên dại, tôi gọi anh Vân, anh thu xếp chỗ trực thăng cho tôi liều lĩnh đi tìm Ðăng. Sự liều lĩnh của cô gái thành thị, mười bảy tuổi.

Ð

Anh Vân vừa chỉ cho tôi căn phòng nhìn ra sân thì chị Hạc về. Chị reo vui như từng thân thuộc, tiếng Huế mềm không chờ đợi từ một dáng người khô gầy và mái tóc cắt ngắn. Nhưng cặp mắt chị to sâu đến nỗi tưởng rằng không bao giờ chúng khép lại và người đối diện có lúc không chịu đựng nổi, sẽ phải cúi nhìn thuần phục. Thế mà ai biết được điều gì gạn đục đời người đàn bà ấy, ít nhất trong lúc tôi có mặt trên thị trấn này vào những ngày hè nung đốt, tiếp nối một mùa xuân rực lửa. Dắt tôi vào phòng, chị khoan thai mở to hai cánh cửa, khí trời còn hừng hực cuối chiều ập vào càng làm long lanh hai đồng tử đen nhánh. Những giọt mồ hôi ứa rịn mấy sợi tóc mai bên thái dương, chị Hạc mỉm cười nhìn ngắm tôi rồi chặc miệng :

- Yêu chi cho khổ ri trời. Sao mà gan dữ rứa, tiểu thư yểu điệu như thếá ni, dám bỏ nhà bỏ cửa ra đây, rủi mệnh hệ nào.

Lời than khiến tôi rùng mình. Bóng nắng sau lưng chị nhập nhoà với gương mặt nghiêm khắc và bàn tay thoăn thoắt búi lọn tóc chặt chẽ của mẹ tôi. Tôi ấp úng định trả lời, chị Hạc đã đưa hai tay ôm eo tôi kéo sát gần. Vẫn đôi mắt rút cuốn ấy, chúng đang nở lớn hơn nữa, choàng áp, bao phủ cả mặt tôi, chiếm cứ. Tôi cố gượng tránh né, chị bỗng buông ra, quay ngoắt nhìn ra sân, chỉ vào cái chòi lợp tôn sơn xanh dưới cây chuối hột, giọng thản nhiên :

- Ðó là phòng tắm. Tắm nước mưa da mềm hơn nước máy.

Tôi ngẩn ngơ, nơi đây có đủ mưa để tắm ư với từng bãi cỏ vàng cháy trên con đường vừa đi qua.

Ðêm hôm ấy tôi nằm co trên chiếc giường trải ra xanh mướt. Chị Hạc kêu với anh Vân: - Con bé cứng đầu không chịu giăng mùng, ngày mai da dẻ mịn như xu xoa ối, cất tiếng ngần ngừ:

- Hay đợi Miên đã ngủ, em vào treo mùng lên.

Lạ, anh Vân học ai, cứ gọi tôi bằng tên như người đồng hàng, vừa xa cách lại như cố tình gần gũi. Anh chỉ là người chỉ huy trung đội cũ của Ðăng, từng giúp chàng chuyển thư từ về Saigòn cho tôi được nhận nhanh chóng, sẽ sần sùi đậu đỏ! Anh Vân, vẫn ít nói trong suốt buổi tmà sao họ quan tâm đến tôi nhiều thế. Tôi để cửa mở nhìn lên trời đen, nghe ngóng. Không có ‘‘đại bác ru đêm’’, không cả ánh hỏa châu, chỉ tiếng oàm oạp, vo ve côn trùng, thỉnh thoảng ré lên chu chéo bọn mèo đang rượt đuổi tìm tình. Ở cõi này mà bình yên thế sao, trong khi nơi thành phố, chẳng đêm nào không bị những tiếng nổ chẳng đoán được xa gần đánh thức. Có lúc chừng như mơ hoang đường, thế mà vẫn lo âu. Sáng mai vào lớp, tên đứa bạn nào sẽ bị xoá sổ vĩnh viễn trong gạch ngói tan tành đêm qua, một cái chết vô thường.

Gần sáng, tôi choàng thức với hơi thở ngắt dồn dập và chuỗi kêu sảng vọng qua từ bên kia vách tường mỏng. Vội tìm chiếc gối ôm đã rơi xuống đất, tôi xiết vào lòng, che chặt vành tai. Rộn ràng nhớ Ðăng xa xót. Hai bàn tay chàng cuống quít nhưng cuối cùng âu yếm vào cần cổ, có xa hơn chỉ là khoảnh da thịt thật nhỏ bé bên hông, hé giữa hai vạt áo dài tôi, thiếu nữ. Bao giờ Ðăng hành quân về, khi nào tôi nhìn thấy Ðăng. Rồi những lúc được có nhau chúng tôi sẽ đi đến đâu, có dám bung toang tất cả những rào chắn, như Ðăng đã điên cuồng khao khát trong những tờ thư gần kề cái chết, như tôi ngây thơ tội tình tự hứa sẽ cho đi nếu Ðăng sống sót. Hai chân quặp chặt chiếc gối, người và giường bên phòng anh Vân vẫn không ngừng gây tiếng động rập rình bỡn cợt, lấp cả mấy con chim cu đang rúc lên gọi sáng.

Ð

Ba bốn ngày đợi Ðăng khắc khoải. Từng sáng anh Vân vào trại rồi chị Hạc lên xe máy đến trường dạy học. Nhìn vòng mông chị hẹp, xiêu trên yên với hai vai nhô xếch thân áo dài màu thiên thanh, tôi tự hỏi, với sức lực nào chị đã hò hét, van vỉ trong đêm. Chị vuốt dọc theo sống lưng tôi rồi lên mái tóc, sau đó nheo mắt cười, xong đủng đỉnh dắt xe ra ngoài đường cái. Vợ chồng họ giống nhau ở hàm răng đẹp lạ lùng. Nhưng nếu chị Hạc luôn nhìn tôi thẳng suốt bằng đôi mắt trong thì anh Vân thường ngó qua rồi quay đi lẩn tránh. Ðiều đó đã xảy ra, ngay cả trước giấc trưa ấy, sau cửa liếp.

Khi họ đi, tôi bước ra phố thị, chỉ vài con đường là hết. Dần dà tôi tìm thấy mấy cây phượng còn sót ít lá xanh và vài cành vớt vát chùm hoa đỏ. Trên thân thỉnh thoảng đen xịt dấu vết trái nổ hay vệt đạn trụi cành. Từ đầu con đường chính đổ xuống bến tàu, quán phở, cơm bình dân rồi đến tiêäm may âu phục với nửa hình nhân bằng nhựa không đầu, không tay, vải áo vét bạc nhếch dưới tia mặt trời chiếu xuyên tủ kính. Người đàn ông duy nhất mặc quần đùi, ở trần, che tay ngáp bên tấm bàn gỗ rộng và cao. Tuy thế, bỏ qua hai căn nhà đóng cửa im ỉm là gặp ngay những mảnh áo phụ nữ đầy hoa treo lủng lẳng ngay trên vỉa hè, chúng phất phới như reo cùng giọng cười rúc rích của dăm cô thợ may. Có cô chúi đầu đạp máy, cô quì trên tấm phản, cong chồm ra trước gần như bò theo đường kéo cắt vải. Một bà nhiều tuổi hơn, ngồi ngay cửa vào, chẻ từng lọn rau muống xoắn xít, sau làn vải mỏng tanh hai vệt vú chảy dài xuống tận chiếc ghế đẩu bé con. Bên kia đường, một cửa tiệm quan tài lớn choáng hai mặt tiền, và cạnh nó một mái nhà lụp xụp bán vàng mã. Chỉ bán thôi mà chẳng hiểu sao mới sáng đã mùi khói hương sực nức. Giấy tiền vàng bạc bày trong thúng, những khung tre dán giấy bồi hình xe gắn máy, nhà cửa, tivi, máy hát, xếp từng chồng. Dưới tấm bạt che mưa nắng chìa ra hẳn lề đường, móc đầy quần áo, sơ-mi trắng quần tây đen, thêm vét-tông, gi-lê, cà-vạt hẳn hoi. Cả những bộ binh phục với sao bạc sao vàng, hoa mai, cứng ngắc giấy hồ. Ðặc biệt, hàng mã ở thị trấn này toàn vật dụng đàn ông. Chợt vài chiếc xích lô và xe gắn máy đỗ xịch, thắng rèn rẹt, mấy người ùa xuống vội vã, kẻ vô tiệm hòm, người vào hiệu bên cạnh. Ðám đàn bà của tiệm may cùng ngửng lên, nhìn sang. Cô trẻ nhất xì xào:

- Lại ở trong đó ra.

Cô cắt vải phụ vào:

- Thì mấy bữa trước đụng độ dàng trời, chết biết bao nhiêu.

Người đàn bà già chẻ rau nhếch nửa miệng:

- Cha mẹ nó, thời này chỉ bán quần áo cho ma là có lời. Cúng kiếng chi gấp gáp. Ðem xác về trỏng, rồi cúng cũng được mà.

Chợt thấy tôi lóng ngóng trên vỉa hè, bà ta không biết nghĩ gì mặt hiền hẳn, hướng cái nhìn thương hại. Tôi lạnh người vội bước đi. Bỗng nghe mình bật khóc. Tôi quay trở về cùng lúc với hai người lính Mỹ từ đầu đường đi đến, phút chốc đã có mấy đứa trẻ từ đâu ào ra lẹ làng, xì xồ với những bàn tay ngửa.

Ð

Anh Vân khép cửa lại khi tôi vội vàng kéo tấm áo đậy người. Nằm im rất lâu trên nền gạch, tôi nghe anh nói nhỏ với chị Hạc:

- Ðêm nay anh cấm trại.

- Chừng nào Ðăng nó xuống?

- Chưa biết, em cố giữ Miên lại thêm vài ngày.

Tiếng chị Hạc thở dài, rồi gọi to hơn:

- Mai anh nhớ về sớm.

Chẳng hiểu khi tôi thức dậy là mấy giờ, chị Hạc để tờ giấy trên bàn bảo đi công việc. Tôi ôm áo quần ra nhà tắm sân sau. Mấy cụm vạn thọ vàng đáu của chị Hạc trồng làm tôi lại rùng mình tưởng đến bàn thờ hương khói. Nắng chiều nhạt đi trên nóc tôn của những căn nhà thấp thoáng sau bụi chuối. Lu nước mưa nổi váng nhưng tôi đã quen, múc dội ào ào. Nhớ vành trăng gần rằm tối qua óng ánh những bọt xà phòng bong trắng trên nửa thân người thẳng dẹp và chiếc quần đen thõng ướt. Chẳng hiểu sao chị Hạc thích mặc quần để tắm ngoài sân. Nhưng đâu ngờ, hai trái ngực đàn ông màu sữa, chỉ đoán được nhờ hai núm nổi rất hồng, nghiêng ngiêng đường rãnh lưng không đủ trũng, cùng phần sa tanh đen bóng của mảnh vải ấp cặp chân dài, lại vương vương liêu trai, kích thích lạ lùng. Không rõ chị nhìn thấy tôi sau khung cửa chăng mà thỉnh thoảng chị quay về phiá ấy, mỉm cười.

Tắm vào, tôi mở toang hai cánh cửa gỗ song, mắt bắt ngay vùng đất trống bên kia con đường. Chính giữa trỏng trơ chòi gác bằng gạch xây vội vã. Vòng kẽm gai quấn dưới chân, lăn thênh thang trên mặt bãi lơi khơi từng chụm cỏ khô vàng. Một lần, anh Vân thản nhiên:

- Dấu tích của những ngày chiến tranh chưa tràn tới thị trấn. Người ta chỉ cần cái chòi này để thỉnh thoảng leo lên ngồi ngó trời là đủ. Bây giờ, Miên sẽ thấy dàn súng phòng vệ trên đồi, oai lắm.

Chị Hạc lúc ấy đang dọn cơm trong nhà, nói với ra, mai mỉa:

- Không chỉ dàn súng, còn nhiều thứ khác, em bảo anh Vân chỉ cho coi, ở bến tàu đó, ảnh rành lắm.

Anh Vân nghiêm ngay nét mặt, ném điếu thuốc hút dở ra mặt đường rồi bước mạnh, thẳng lên con lộ dẫn về phía tiệm may. Tôi ngồi xuống trước đĩa cá nục hấp và những cọng rau thơm xanh bồng. Bỗng thấy no ngang, hơi lợm mùi mắm nêm đáng lẽ phải bốc thơm cùng ớt chín đỏ nhừ. Chị Hạc long lanh khoé mắt, nhếch miệng:

-Ăn đi em, kệ ảnh.

Không rõ chị Hạc đi đâu giờ này, lũ trẻ con mấy nhà bên cạnh đã đi học về, xúm xít búng đạn đánh bài, tiếng la hét cãi cọ ồn ĩ chen với giọng cải lương từ đài phát thanh trung ương toang toang, lên bổng xuống trầm não nuột. Tự nhiên tôi xót nhớ căn gác nhìn ra cây gòn và vườn chùa im vắng. Mới mấy ngày tôi bỏ nó đi thế mà hình ảnh đã loang theo ánh sáng trống trên bãi đất cằn trước mặt. Trong căn gác ấy, còn lật nửa chừng trang truyện Kim Dung. Anh chàng Dương Quá đương tuyệt vọng gục xuống vực sâu gào gọi, nhưng Tiểu Long Nữ không đáp trả cái hẹn mười sáu năm, làm cô bé Miên quặn nấc. Vẫn trên chiếc giường đầy gối cuốn văn phạm Pháp mà con Miên phải ôn lại cho kịp ngày phỏng vấn đi du học, mẹ bảo vậy. Có cả tấm màn voan mong manh vuốt ve trang thư Miên viết cho Ðăng, gọi chàng về gặp trước khi Miên buộc phải nghe mẹ đi xa. Chuông mõ buổi kinh chiều lóc cóc boong boong từ dưới chùa ngân lên hoà lẫn với tiếng mưa Ðăng thì thầm kể chuyện. Mấy hôm rồi không tiếng súng, họ chạy đâu chẳng biết trong mưa lũ chợt đổ trắng núi rừng này em ạ. Hình như cả hai bên đều mỏi mệt, đều thèm thuồng một chút dừng nghỉ. Một khoảnh khắc chỉ để bình an trông mưa, ngửi nắng, nghe thiên nhiên động tĩnh hiền hoà. Nhìn, nghe và thương nhớ. Ðể thấy không phải chỉ toàn mùi tử khí mà còn hương sự sống và màu sắc tươi sáng lẫn nghẹn ngào của ước mơ. Chiều hôm nọ anh xuống làng chân đồi. Mấy cụm nhà lèo tèo còn ươm khói. Ðám trẻ con lếch thếch chạy theo, tranh nhau nhặt bất cứ cái gì của mấy người lính Mỹ lẫn Việt từ trên xe vứt xuống. Bao tử anh dội chất chua nhờn lẫn cay xé. Nhưng sau những khuôn mặt choắt khô, những bàn tay đen đủi, anh đã bắt gặp một đôi mắt tròn mở sáng và nụ cười đồng tiền rạng thắm của cô gái mặc áo bà ba trắng đứng bên vách tường của ngôi trường duy nhất. Cô giáo làng ấy chừng không hơn em bao tuổi, nhưng cao lớn bởi phong thái điềm đạm, săn sóc ngọt ngào với lũ trẻ. Thằng trung sĩ Mỹ vung xuống hộïp kẹo, một đứa nhỏ chụp được. Cô gái gọi lại để phát chia cho cả đám. Tên trung sĩ thấy vậy nhảy xuống xe, hề hề đến gần giơ tay vuốt má cô ta. Không ngờ bị nàng quất mạnh hộp kẹo vào trán. Hắn lạng quạng, ôm mặt rít: ****! Bọn lính còn lại trong xe cười ngặt nghẽo. Hắn cáu, đưa chân đá tung đám bàn ghế gẫy chất ở gốc cây. Chợt tiếng đại bác 155 ly dội toang từ phiá đồi. Cả bọn tức khắc rút súng, nhào xuống đất. Cạnh mái hiên trường, người thiếu nữ giang hết cả cánh tay như muốn ôm trọn những đứa bé nằm dẹp trên sân. Ðấy em, một chiều trời trong và thanh bình với những dòng mây mỏng tanh của thứ hồn người không được quyền mơ ước một thực tế lành lặn. Anh trở lên đồi khi tràng nổ chỉ còn là âm vang mơ hồ. Nhưng khuôn mặt cô giáo trẻ càng lúc càng rõ nét trong đêm. Xin lỗi em Miên ạ, lần đầu tiên, anh cảm thấy một người đàn bà gần cận đến độ có thể chia sẻ cả bóng tối của núi rừng thẳm hoặc.

Tiếng nấc ức nghẹn buồn tê điếng dồn trong ngực tôi. Nơi Ðăng đóng quân xa mù với thành phố tôi sống, với căn gác tôi nằm. Làm sao tôi đến với Ðăng để núm má lõm đồng tiền kia đừng thay thế mình trong giấc mơ hoảng của chàng. Tôi đau đớn di ngòi bút trên trang giấy, thương cảm và hờn giận. Những tiếng súng đoàng đoàng rầm rầm vang bên tai tôi như một bản nhạc nền. Thỉnh thoảng có hợp âm đập bùng bùng, tưng bừng ngời sáng ánh hỏa châu. Lằn đạn rít qua đồi trại của Ðăng thốt lẫn với giọng mẹ tôi gọi từ lầu dưới:

- Con Miên làm gì chưa đem cháo sang cho bà kẻo muộn.

Con Miên vội bỏ tờ thư, rớt hẫng khỏi giấc mơ đại bác, chực nhớ tới bà nội nằm ngay ngắn trên chiếc giường kê gần cửa sổ trông ra cây trứng cá đỏ hỏn trái quanh năm. Bên cạnh đó, bà cô lỡ thì gục gặc mân mê mũi kim thêu những bông hồng nhỏ tươi thắm như nhan sắc ấy, một thuở nào.

Lần này, tôi bước qua tiệm bán áo quan và đồ mã, đi dọc theo dăm quán nước vắng tanh thả xuống bờ sông. Vẫn tấm biển vẽ cặp trai gái hoen lệ choáng ngợp rạp chiếu bóng thấp tè, đám học trò mút kem và cắn hạt dưa lau chau đợi giờ mua vé. Dẫu sao chỗ này cũng sống động hơn vùng đất khô bụi trước căn nhà anh Vân. Nhưng làm sao tưởng được Ðăng từng vào đây để tìm ảo cảm? Gió sông chiều nay nổi mát, tôi đi xa hơn và bấy giờ nhìn thấy những quán ba nhấp nháy ánh đèn. Tiếng nhạc ngoại quốc rần rật chen giọïng tình ca tiền tuyến hậu phương sướt mướt. Mặt trời ngả đỏ trên đỉnh núi đen bên kia khúc sông mở rộng để sẵn sàng tìm biển.Ðôi thuyền đánh cá thả cảm giác an bình trên mặt nước lánh bạc. Tôi tìm chỗ ngồi trên đúm cỏ khuất sau võm bàng rộng lá. Vài đốm sáng lóe lên rồi vụt tắt từ núi trọc, chắc chắn đó không phải nơi Ðăng đóng quân. Ðồi núi chàng cây cỏ mù đường, vây nhìn thung lũng có ngôi trường làng và cô giáo trẻ, mà mortier có thể bay qua hay rớt xuống phá tung bất cứ lúc nào. Sau lưng tôi, bắt đầu xuất hiện những người lính marine Mỹ, bộ binh Ðại-Hàn và cả đàn ông xứ tôi cười nói cùng các cô gái váy ngắn, nủng nỉnh mấy câu ngoại ngữ vô tội. Dĩ nhiên lũ trẻ con như ruồi bu tới với thùng đánh giầy, khay kẹo và thuốc lá, không kể những bàn tay lật ngửa xin tiền. Anh Vân đã dặn dò đừng đến bờ sông mà tôi chẳng nghe. Anh nào nghĩ rằng những cảnh tương tự cũng có mặt giữa trung tâm thành phố, tôi từ đó ra đây. Nhạc ở mấy quán ba đập ồn lên theo bóng tối đổ. Mây từ núi chùng xuống, phủ thảm mặt nước đang ngả sắc thạch đen. Tôi đứng dậy đi về, nhìn qua lòng đường chợt bắt gặp dáng anh Vân ôm lưng một người đàn bà đầy đặn, tóc quấn dài che nửa khuôn mặt bày cặp môi cam đỏ .

Chị Hạc chờ cơm dưới ngọn đèn nê-ông xanh rợn. Tôi vẫn ghét thứ ánh sáng lột trần này. Tối nay nó càng làm bộ mặt và thân hình gầy guộc của chị Hạc tóp lại như những cọng cải luộc lọp xọp, lạnh ngắt trên bàn. Tôi rùng mình nhưng chị Hạc vui, giục:

- Ăn đi em, cả nguội hết chừ. Anh Vân cấm trại tối nay.

Tôi nhìn mắt chị, đờ đẫn nhai những hạt cơm rời rạc. Ðến đêm bất ngờ đổ mưa, bức nồng khí đất, chị Hạc bước vào nằm cạnh hít hà:

- Người thơm như vầy sao muỗi không thịt hè? Chẳng lẽ không đánh hơi ra mùi trinh nữ.

Tôi bật cười:

- Sao chị biết?

- Răng không biết. Nè, ráng giữ nghe, đừng có vội cho đi. Chắc chi thằng Ðăng xứng đáng. Mi ngu rứa Miên ơi.

- Chị Hạc à, chị khôn hay dại?

- Khôn ba năm, dại một giờ cũng đủ. Hồi xưa dù đâu hấp dẫn bằng em nhưng chị không dẹp lép như ri, cũng mông đùi đầy đặn. Lấy nhau sáu năm rồi mà chẳng có con. Ðàn bà không con, khô đét thành mắm.

- Tại chị hay anh Vân? Tôi tò mò.

Mưa đã nhẹ đi, nhưng nặng tiếng thở chị dài:

- Chị thèm con lắm, anh Vân còn hơn nữa. Chị vào tận Saigòn chữa trị nhưng mô hiệu quả. À, sáng mai em đi với chị tới chỗ ni, thôi chừ ngủ đi.

Tôi muốn hỏi thêm nhưng lặng lẽ gật đầu, nằm nghe chị Hạc trăn trở. Chốc sau, một bàn tay rờ rẫm lên vai tôi rồi luồn xuống tìm lật tà áo ngủ, giật mình tôi nhích ra, quay mặt vào tường. Chị Hạc xoay người, đâu lưng thở hắt. Những con mối đục gỗ lục cục rầm rì cùng mưa nhỏ đều trên ngói dường đưa chị vào giấc ngủ. Ngoài đường vẫn còn xe gắn máy thỉnh thoảng rồ ngang, không có đèn hay trăng rọi qua song cửa. Cũng những tiếng đạn nổ đâu từ xa, mơ hồ trong đồi núi, chẳng khác gì nằm trên căn gác nghe pháo kích và chiếc L19 lượn vòng mấy vùng ngoại ô thành phố. Mưa như đêm mẹ khêu đèn thầm thì với ảnh bố. Gió kêu tiếng rên đau của bà nội khô queo cứ kéo tấm chăn che kín hai bàn chân bó chặt chỉ bằng nắm tay nhỏ thó. Luôn luôn thế, dù giữa tháng hè nóng bức. Bà không muốn ai nhìn thấy chúng, ngoài mấy người con gái của mình. Thỉnh thoảng bà đòi đỡ dậy đi ra phòng khách, nhìn lên bàn thờ bày toàn ảnh đàn ông. Ở giữa là ông nội áo mũ cân đai, chung quanh là ba đứa con trai yểu mệnh của bà. Ba khuôn mặt đàn ông trẻ tươi, bác, ba và chú tôi đều qua đời trên dưới tuổi ba mươi. Bà run rẩy cầm mấy nén hương khấn khứa, cầu giải một lời nguyền, bằng thứ ngôn ngữ mà tôi không hiểu nổi, rồi gục xuống tủ thờ. Người bà cao dài, nên miệng ngang tầm những tấm hình, bà hôn dễ dàng lên ảnh các đứa con. Trong khi tôi phải kiễng chân mới chạm được ánh mắt người cha chết quá sớm, chẳng hề biết mặt. Chẳng biết mặt đã đành, tôi phải thay người gánh vai trò đứa con trai trong dòng họ, vì những thằng bé cháu nội và cả ngoại của bà cũng qua đời non nớt. Tôi tự hỏi lời nguyền bí hiểm khủng khiếp, mà theo bà đã đưa đến sự yểu tử của tất cả con trai và những thằng cháu ấy, có phải chỉ tuyền là sự tưởng tượng huyễn hoặc trong trí óc một người đàn bà vương giả nhưng bị bức uất bởi định mệnh cay nghiệt. Hay lời nguyền đó xuất phát từ một thảm kịch nào? Bà chẳng nói cho tôi hiểu đã đành, mà ngay cả mẹ tôi là con dâu cùng những người con gái đẹp và yểu điệu còn lại của bà ngày ngày ra vào, ẩn hiện như bóng ma cô độc. Mẹ tôi thì thào lập lại:

- Bà nội bảo: Ðừng cho con Miên để tóc dài, cắt ngắn đi. Con Miên học giỏi, cho nó đi du học, nó phải đỗ đạt thành danh như ông nội hồi xưa.

Rồi mẹ rướm nước mắt:

- Con cứ để tóc nhưng gắng học rồi bay đi, nhất quyết phải thoát cảnh bà cô già của mày ngồi chong ngọn nến.

Ð

Sáng sớm anh Vân về, cởi chiếc áo mang hai hoa mai máng lên cột gỗ. Tôi thốt nhớ màu vải ca-rô xanh anh mặc tối qua ở bờ sông. Chị Hạc đã dắt hai chiếc xe đạp ra ngoài hiên, giục tôi xỏ giầy. Xoay người, tôi chạm ánh mắt bám chặt của anh Vân. Anh không quay tránh như mọi lần, tiếp tục nhìn chăm vào dáng tôi cắt trên nền cửa sáng. Khi chúng tôi đã ngồi lên yên, anh mới chạy ra hỏi:

- Hai chị em đi đâu?

Chị Hạc cười đáp gọn:

- Nhà thương. Chút về em sẽ kể.

Tôi chẳng thèm ngạc nhiên, cố gắng đạp sau xe chị. Chị ngồi lưng thẳng tắp, lái thật khéo qua con đường đất đá ngược hướng con sông. Tôi suýt ngã mấy lần vì bận ngó nhìn những con người lăng quăng vật vờ dưới các mái che bằng lá hay tôn dựng vội vàng. Trận mưa đêm qua đọng vũng sình lầy lội. Người lớn và con nít chạy đi chạy lại hai bên đường cùng với mấy con heo đen nhớp và bọn gà lúc túc xòe cánh dưới bánh xe tôi. Chị Hạc đạp chậm lại để nói nhỏ:

- Họ từ trên núi xuống tránh pháo kích.

Thế là tôi hốt hoảng nhìn kỹ hơn những bộ mặt đăm đăm cằn cỗi. Chăm chăm tìm ở đó một núm đồng tiền và đôi mắt to tròn của cô giáo trẻ, cho Ðăng.

Nhà thương dân y cách trung tâm chừng ba cây số. Kẻ ra người vào, gấp gáp lằm bằm hay lệt bệt thẫn thờ. Chị Hạc ra dấu dừng xe trước một hàng rào đầy người ngồi dưới đất, rồi dẫn ngay tôi đến một người đàn bà mù ôm đứa bé độ ba tháng trên tay. Chị sà xuống vạch cái mũ rơm rách che mặt đứa trẻ trầm trồ nựng nịu:

- Coi nì Miên, con nhỏ dễ thương không. Cỡ này được sữa đầy đủ thì phải biết.

Xong chị quay sang người mẹ:

- Hộp sữa hôm qua hết chưa? Còn gói xôi?

Bà ta nhướng nhướng hai tròng mắt trắng dã, làn da sạm tái không đoán nổi tuổi:

- Cô cho bao nhiêu thì ló dí ngộ ăn hết dồi.

Giật mình, tôi nhận ra mái tóc thường cắt bum bê của những người đàn bà Tàu, giọng nói lớ ngọng đã từng nghe đâu đó. Chị Hạc gỡ gói bánh mì và hộp sữa buộc ở cần xe đặt vào tay bà ta, rồi nâng đứa bé lên:

- Tui ẵm nó chút. Có mấy trăm nữa đó, bà giữ kỹ kẻo bị giựt mất.

- Cô ui, đem ló đi đi. Ngộ không cần liềng đâu. Cô cho ló ăn, sương ló như con là đủ dồi.

Chẳng thể chịu đựng hơn, tôi quay đi, ngửng nhìn những vệt nắng ứa trên màu ngói cũ của bệnh viện. Tôi nhịn hơi thở, tôi chặn đứng những sợi thần kinh, tôi bít chặt hai tai để đừng cảm, đừng nghe, đừng nhìn thấy khung cảnh quanh mình.

Sốt trưa tôi nằm vật vờ trong căn phòng khép cửa chấn song, người hâm hấp nóng. Chị Hạc bỏ dậy học, ló đầu vào hỏi han, đưa thuốc và nước cam ép uống. Chị lại leo nằm cạnh, nhưng lần này thuỗn người ngay ngắn, tay vắt qua trán:

- Chị đem con nhỏ về nuôi Miên ơi, em thấy sao. Bà Tàu đó tội quá, mang thai mà bỏ Chợ Lớn ra đây thăm chồng rồi bị trúng mìn mù mắt, nghe tin chồng tử trận trước đó mấy tháng. Chẳng hiểu sao không ai trong nớ ra đây đưa bả về.

Tôi không đáp trả, chị ngỡ tôi ngủ, bỏ đi ra. Có biết đâu tôi chỉ muốn gào lên: - Ðừng nói tới bà Tàu. Ðừng đụng đến máu huyết tôi. Ðừng dựng lại trong trí não tôi hình ảnh người đàn bà Trung Quốc, từ xa xưa, vì tình yêu bỏ lìa xứ sở và cuộc sống nhung lụa, phải làm dâu, bị hành hạ trong một gia đình phong kiến Việt Nam. Người đàn bà còn xuân sắc đã sớm mất chồng, chỉ ngọng nghịu vài câu nói nước người. Bằng hai vai gầy và đôi bàn chân còn bó chặt thời công nương, dẫn dắt sáu đứa con trên đường di tản từ bắc vào nam. Ðể rồi mất dần, mất hết những hòn máu thừa tự quí giá nhất. Quên cả mình trốn mẹ ra đến tỉnh lẻ cháy thiêu cỏ vàng này để làm gì, tôi lịm đi trong những ý nghĩ nhức đau bừng bừng, giữa buổi trưa hè oi đến sủi nhựa trên người.

Ðầu chiều anh Vân ở trại về. Tôi tỉnh dậy với tiếng hát Thái Thanh từ bên hàng xóm, xé tim: Em hỏi anh, em hỏi anh bao giờ trở lại. Anh trả lời mai mốt anh về. Anh trở về trên đôi nạng gỗ, anh trở về dang dở đời em… Tôi lại định bịt tai nhưng thoáng nghe tiếng chị Hạc phòng ngoài:

- Con nuôi mà mình thương thì cũng như con ruột. Ba nó cũng lính như anh. Tội nghiệp, nó dễ yêu lắm anh à.

Anh Vân gắt:

- Tự dưng nuôi con Tàu lai, ăn xin ngoài phố. Ðiên.

Chị Hạc phản đối ngay:

- Mô phải ăn xin, anh đừng đổ oan cho người ta.

Rồi hạ giọng, thẫn thờ:

- Thế thì… không bao giờ mình có con.

Chẳng ngờ anh Vân tàn ác:

- Vấn đề là ở cô. Tinh trùng tôi tốt, tại sao phải xin con!

Chị Hạc gào lên:

- Chẳng biết ai hơn ai. Mấy mụ đàn bà anh hẹn hò ở bến sông, anh gặp gỡ trong thành phố mỗi lần đi phép, đã ai cho bằng chứng là tinh trùng anh tốt!

Không tiếng anh Vân trả lời, chỉ tiếng xe rồ máy ào đi. Tôi vuốt lại tấm áo nhàu nát, bước ra. Chị Hạc gục đầu trong cánh tay nơi thềm cửa ra vào. Bụi trên đường cái bay mù với mấy chiếc xe vận tải và xe đò chạy qua. Tôi cảm tưởng chúng tung lên rồi sẽ tỏa thành sương phủ xuống thân hình gầy hao đi vì những chịu đựng âm thầm của chị Hạc. Thì ra chị đã biết mọi điều. Có thể chị thấu hết tất cả bản chất và thân phận đàn bà mà không nói ra. Goá bụa đơn độc như mẹ, các cô Châu, Phượng của tôi, đau đáu như mấy cô thợ may hằng ngày ngóng sang cửa tiệm đối diện để đếm từng người đi mua hòm đón xác. Can cường, hiền hậu như cô giáo làng vùi nhốt tuổi xuân trong thung lũng rì rầm bom đạn. Và cả bà nội già của tôi cùng người mẹ mù, hai người đàn bà Tàu một đời lạc bước. Tôi ngồi xuống bên chị, nhìn sang bãi đất. Những vòng kẽm gai dưới chân chòi gác chạy tròn tròn, thoáng chốc rủ nhau vượt qua mặt đường, ùa đến quấn xoắn lấy tôi và chị Hạc.

Nhưng chúng tôi mệt nhoài, không vùng vẫy, lặng im như thế cho đến lúc anh Vân lái xe jeep trở về. Anh chẳng thấy gì, cử chỉ lại nhẹ nhàng thường lệ, đỡ chị Hạc dậy và nói với tôi:

- Ðăng đã hành quân về nhưng có lệnh cấm trại.

Ðầu óc tôi mù mịt, chẳng còn một khái niệm về thời gian, ngay cả sự thương nhớ, đợi chờ. Chị Hạc ngập ngừng:

- Hay... anh đưa Miên lên đó gặp Ðăng.

Anh Vân chớp mau cặp mắt nãy giờ vẫn đậu trên vai tôi:

- Nếu Miên muốn, mình đi ngay.

Tôi vội vàng bước theo anh Vân. Chiếc xe jeep bỏ nhanh đường phố, băng qua đồng ruộng héo hắt cạn queo để leo lên đồi núi ấy. Chiều buông rất nhanh, vài đọt sáng sắp rút đi sau rặng cây. Chẳng biết lũ chim lạ đang xúm xít rỉa rói gì trên những đám đất bắn tung giữa vùng cỏ dại. Thật sự tôi cũng không muốn ngó nhìn kỹ lưỡng, đôi mắt chập chờn, khờ đi vì những sợi thần kinh bị căng chùng đột ngột bởi bao điều vượt quá tâm hồn tôi mười bảy. Quên cả mơ ước được nhìn thấy không gian Ðăng sống thở, chỉ còn quay quắt một điều mau lên đến dãy trại trên ngọn đồi, choàng lấy cổ Ðăng, oà khóc. Anh Vân lẳng lặng suốt từ lúc lên xe, thỉnh thoảng ném cái nhìn lên tôi lọt tỏm vịn cứng hai vành ghế. Chiếc jeep tưng lên dội xuống theo những vũng hố lỗ chỗ cày suốt con đường. Chúng tôi đi qua vài khu nhà dưới chân hay lưng chừng đồi. Chẳng nhà nào nguyên vẹn, thưa vắng như bỏ hoang dù vài sợi khói và mùi củi rạ vương thơm. Bầy quạ vụt bốc bay từ một hốc đá, quang quác, hỗn loạn. Tôi co rúm người cùng lúc với máy truyền tin của anh Vân báo hiệu. Anh Vân nhấc nghe rồi vội quặt tay lái:

- Báo động, chúng ta phải quay lại.

Xe vừa trở ngược đầu đã đùng đùng mấy tiếng nổ rất gần. Chúi người ra trước tôi đưa tay ôm lấy mặt. Anh Vân dừng xe nghe ngóng, nhưng sau đó lại thinh lặng, chẳng một tiếng quạ kêu. Tôi chưa kịp ngước lên đã thấy một bờ môi mềm áp trên cổ, vòng tay bện qua vai. Một vài giây chao đảo mông lung, không phản ứng, rồi tôi vụt ngồi thẳng dậy, xô anh Vân ra. Tôi nghe rõ giọng mình chững chạc đến chẳng ngờ:

- Về mau, không chết cả.

Anh Vân ngồi ngay lại, anh nuốt gì mà trái táo Adam trồi thụt dồn dập. Xa xa, từ lưng đồi bên phải, cột khói bốc lên mang theo ánh lửa. Nhưng lặng im chẳng bao lâu, lại rầm một phát nổ toang vỡ đầu óc, tôi níu chặt lấy thành xe, để đừng bắn tung với cột gỗ mái tôn đang bung xuống từ xa trên trời. Anh Vân vừa nhấn ga lao về phía trước vừa cuống quít:

- Ðừng sợ Miên, Miên. Anh sẽ đưa em về đến nơi an toàn.

Ð

Ngọn nê-ông đã sáng trưng trên lưng chị Hạc đang mân mê mấy cuộn len màu hồng. Tôi kêu mệt bỏ ngay vào phòng. Hình như hai vợ chồng nhủng nhẳng vài câu và anh Vân lại lên xe. Rồi chị Hạc đẩy cửa, sờ tay lên trán tôi la hoảng:

- Úi chà, nóng ri trời. Cởi áo ra, chị cạo gió.

Tôi ngần ngừ, nhưng chị không tha:

- Ta cạo bằng gừng, có đụng tới da thịt mi đâu, nằm sấp lại.

Chất dầu Nhị Thiên Ðường ran rát trên da, chắc đang trở đỏ mấy dọc sườn từ vai xuống cạn lưng. Chị Hạc vừa đẩy cục gừng vừa nói:

- Chị quyết định rồi, anh Vân không chịu kệ ảnh. Ngày mai chị lấy con bé về, em đi với chị nghe. Cùng quá, thì nuôi một mình. Chị mới mua len đan áo cho nó, coi vậy cứ mưa là con nít dễ bị lạnh. Nì, để yên yên vài bữa, rồi thế nào Ðăng cũng xuống.

Tôi úp sấp cứng đờ cho chị cạo gió, nghe tiếng chị than vãn mang mang trong căn phòng bình yên. Nhưng hồn tôi co quắp, ngửa nghiêng hoảng lạc giữa ruộng đồi bốc cháy. Lần đầu tiên cô học trò thành phố bàng hoàng sát cận chiến tranh đến độ này, dù đấy chỉ là một phần nhỏ trên bề mặt. Chẳng mở miệng nổi để trả lời chị Hạc một câu, dù sao, ngày mai tôi cũng tìm cách trở về thành phố, tôi không chờ, không tìm Ðăng nữa. Thoáng chốc, thấy mình nhỏ nhoi, bất lực, lạc đàn. Chắc chi giữa bom đạn này Ðăng còn nhớ tôi, sự sống chết của cô giáo trẻ đáng thương kia mới là quan trọng. Tôi không hờn giận Ðăng, mà lao đao dằn vặt. Ðúng như khi về đến giáp giới tỉnh lỵ, anh Vân đỗ lại chỗ khúc sông cạn lờ, vắng vẻ, để ngó đăm một ánh mắt trĩu bóng chiều. Lần này giọng anh trầm, nặng chát:

- Tại sao Miên ra đây? Tâm hồn và thân thể tươi mát của Miên không dập nổi lửa khói súng đạn, chẳng hề tưới sống một cọng cỏ khô. Chúng chỉ khơi bừng trong chúng tôi, những thằng đàn ông trên đất cát nơi này, ngay cả cho Ðăng, nếu hắn được về, khát bỏng cồn cào, thèm thuồng sự sống, tuổi trẻ, bình an lành lặn. Ðể làm gì, làm gì? Ðây không phải là chỗ của Miên. Ðừng hành hạ chúng tôi bằng sự có mặt của em.

Có phải chính lời Ðăng đang cảnh cáo: Ðây chẳng phải là chỗ của em. Lặng nhìn bóng núi tím lịm, tôi cố hình tượng nơi Ðăng đang trú quân lần cuối. Máy bay và trực thăng ồn ồn cất cánh, những mắt đèn điên của loài dã điểu rực đỏ từ phi trường quân sự. Chất bọt đắng ngắt ở đâu nghẽn cổ họng, mới vài bữa trước tôi hớn hở liều thân bước xuống nơi ấy. Quay mòng một ý nghĩ học đâu lãng mạn ‘‘Nhụy đào thà bẻ…’’, trong khi thơ ngây vụng dại, có đâu một khái niệm rõ rệt nào về những gì có thể xảy ra.

Bây giờ hơi thở gấp, lưỡi hôn xoáy của Ðăng trong Rex hay trước cổng tối nhà tôi đã mơ hồ như chưa từng hiện hữu. Có áp vào ngực chàng, chắc khác gì mùi ngai ngái trộn nắng và mồ hôi trên cổ áo anh Vân đã cúi sát mặt mình. Cả núi rừng mưa lũ nắng ngàn, Ðăng từng dựng lên đổ ngập trải dài trong hồn tôi bằng những dòng thư, cuối cùng cũng vô cùng xa lạ. Lạ như dãy phố với những bán buôn ảo dị nơi này. Nhưng làm thế nào để xoá chúng đi trong trí nhớ? Vì dù muốn dù không, chúng đã trở thành một phần đời tôi, bất ngờ, ám ảnh, cứa đau.

Ðêm ấy, trăng mười bảy đứng lâu ở hướng tây, chiếu qua song gỗ. Chị Hạc vắt tay qua người, thỉnh thoảng mân mê hai núm ngực tôi ngửng sau làn vải. Tôi thương xót để yên cho chị ú ớ một cơn mê, rồi cũng chìm lịm đi, rời rã. Dường như tôi đã trở về nhà bà nội. Chẳng còn thân người nằm ngay ngắn trên giường với tấm chăn mỏng đắp che chân, hai ngọn bạch lạp đang lập loè bên tấm áo quan chưa đậy nắp. Những nén hương thấy tôi, chợp bùng tia lửa. Mấy bà cô mặt trĩu dài hơn năm tháng, cặm cụi cắt may áo khăn sô trắng. Trí óc tôi sao còn sáng suốt để tự hỏi thầm: người Tàu có mặc thứ này ngày đại tang, hay bà tôi đã khép mình làm người...
PC
#6 Posted : Thursday, October 28, 2004 5:35:03 AM(UTC)
PC

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 5,668
Points: 25
Woman

Was thanked: 4 time(s) in 4 post(s)
Vách mận trắng

Mai Ninh


Nhà xoay lưng với những tiếng sấm rền ra từ vách đá. Cơn giông đã qua đây, băng suốt dãy núi cao để thẳng thừng đập xuống cả thành phố mấp mênh gần mặt biển. Căn nhà ấy, giờ này, cũng quay lưng lại với quãng thời gian không biết ngắn hay dài, yên ấm hay bão tố, mà tôi vừa cố tình đoạn tuyệt.

Hôm đầu tiên khi thuyền ghé bến, tôi còn loay hoay với chiếc vali và cây dù dài thì một cô gái cao, da nâu, môi đỏ tới gần chào hỏi. Tôi nhận ra ngay giọng nói đã trao đổi vài lần qua điện thoại để tìm căn nhà cho thuê. Càng nhớ hơn tiếng cười rung rúc của cô nàng lúc tôi hỏi liệu có thể chia thời gian thuê nhà với một người nào khác, và tiếp liền, ngay cả một người đàn ông. Cô ta vẫn cười như có tôi trước mặt :

- Già hay trẻ ?

Tôi giễu :

- Vừa vừa

- A, cỡ đó hấp dẫn nhưng tính nết hay khó chịu đấy !

Rồi lại khanh khách chào từ giã. Tôi cũng thầm cười, hẳn cô này tưởng tôi có ý đồ riêng. Nhưng kệ, việc gì trả tiền cả tháng khi mình chỉ đến ở phân nửa thời gian.

Cô gái đã một tay nhấc bổng chiếc vali, tay kia hớt lấy cây dù trên tay tôi, quay quay vài vòng, chỉ vào mặt nước dập dềnh dưới bến:

- Ở đây ba tháng mới mưa một lần, tôi vứt nó xuống đây nhé. Nói vừa dứt lời, cô nàng liếc tôi cười to rồi quay người bước đi. Cặp mông tròn đánh nhịp với bờ vai đầy bưng mắt, giữa cổ áo buộc nơ và vành tóc búi cao. Tôi lững thững theo sau, hơi ngợp giữa đám đông, người đi người đến ở bến tàu. Nhưng ngửng nhìn xa hơn, bắt gặp nửa vành nắng khoanh trên đọt cây nghiêng xuống những mái ngói đỏ au, lại thoáng lòng thanh thản. Tự dưng tôi linh cảm, những ngày qua đây làm việc sẽ xảy ra điều gì đó, lạ, mới. Sao không cho được, khi trước mắt là cả một khung cảnh khác hẳn nơi tôi ở. Thành phố này mọc từ biển lên núi, vừa nhấp nhô khép mình ẩn náu lại chĩa đứng sỗ sàng. Biển xanh dưới chân chừng hoang mang, cứ chực men lên, hớp lấy những màu tường hồng đủ gam đậm nhạt.

Sau khi leo gần mấy chục bực đá mòn trũng, tôi đã theo cô gái bước vào một căn nhà rạng nắng chiều như thế. Cô ta mở tung những cánh cửa với cử chỉ mau mắn, khỏe mạnh. Tôi yêu ngay phòng khách rộng nhìn xuống sân vườn có các cây cao trơ trụi mùa đông chen chúc với những đám lá xanh ngọc suốt năm. Sau đó là vách núi. Nơi đây đất hiếm, cây cối hoa lá mọc lẫn với nhà cửa và len lấn vào đường đi ngõ ngách quẩn quanh, nhỏ hẹp. Cô gái đang huyên thuyên khoe căn nhà của bà mẹ dành cho thuê, chợt tiếng trẻ con gọi ới dưới cầu thang, vội chồm ra cửa trả lời rồi chạy xuống. Tôi chưa kịp hỏi thăm điều gì, đành tiếp tục khám phá chốn trọ mới một mình. Căn phòng ngủ gọn hơn, nhìn ra biển cùng hướng với ngăn bếp nhỏ. Ðẩy toang cửa sổå, tôi rơi mình trên tấm nệm trần, nằm hít một hơi dài. Không khí xanh bốc từ biển đang bay vào phòng như một bức họa Chagall.

Hai tuần thuê nhà đầu tiên mang mang trôi đi trong hơi sương tỏa từ núi sớm, trên những bước chân vọng đường lát đá ô vuông, đi và về đến chỗ làm việc mới, lẫn lang thang phố biển. Tôi chỉ gặp cô gái đôi lần vội vã, nhưng lần nào cô cũng để lại con mắt dài đong đưa. Chiều tối thường có tiếng cô ròn rã cười đùa với thằng bé trai. Lắm khi một bản nhạc nhịp điệu tây ban nha rộn ràng uà lên từ tầng lầu dưới, nơi cô ở với đứa con. Tôi ló đầu ra, thằng bé ngồi trên tảng đá xám trong vườn, hai tay nghiêm chỉnh trên đùi, chiêm ngưỡng người mẹ trẻ đang nâng cao gấu váy, xoay tròn.

Chưa ở bao nhiêu ngày, thế mà lúc ngoảnh trông căn nhà đến hạn trả tôi đã mong chóng được trở về đây. Nhà ít đồ đạc, trong phòng ngủ, tủ quần áo ẩn vào tường, để thênh thang chiếc giường rộng. Gần cửa sổ phòng khách, lung linh mặt bàn kính trong suốt trên chân sắt uốn xanh hồ thủy. Những khi nắng trưa rưng lên từ vách núi, cây cao ngoài vườn ngả lên đó tất cả hình hài. Hai chiếc ghế bành vàng anh đối mặt nhau trước lò sưởi gạch thẫm, vật duy nhất đậm màu trong không gian nhẹ nhàng với bàn tủ ghế giường bằng gỗ thông thanh nhạt. Cô gái đã nhìn tôi chăm đẵm từ đầu đến chân và chặc lưỡi :

- Ðã mấy người thuê, nhưng căn nhà này dường như để dành cho cô.

- Tại sao ?

Cô không đáp thẳng:

- Ở dưới lầu, tôi chẳng chắc nghe cả tiếng chân cô trên sàn gỗ.

Rồi tự nhiên nện gót giầy thật mạnh bước rầm rầm xuống cầu thang. Tôi nhìn theo, nghĩ : - Lạ.

Nửa tháng sau quay lại, căn nhà vẫn chênh vênh trên cao đón nắng. Cô gái tỏ ra ân cần giúp tôi mua sắm những thứ cần thiết, màn voan trắng, khăn bàn, thức ăn… Thêm tấm thảm xanh trải giữa phòng. Tôi luôn ngại hơi lạnh, dù mùa đông nơi này chỉ đủ se người vào sớm mai. Buổi trưa có hôm tôi về, buông mình thiếp giấc trong giọng cô ta hát rất trầm. Không hiểu ban ngày, khi đứa con đi học cô làm gì. Hầu như chỉ tung tăng lên xuống những bực thang đá, ra vào phơi phóng mớ quần áo, rồi ngồi chơi nắng bên bệ cửa. Lần thứ nhì tôi trả nhà, cô nhất định tiễn ra bến thuyền. Tôi chực nhớ, hỏi có tìm được ai thuê nhà trong hai tuần vắng mặt, cô nheo mắt, lửng lơ : - Vội gì, đợi người tương hợp.

***

Lần ấy tôi trở về sớm hơn những kỳ trước. Ngang qua lầu dưới, cửa nhà cô gái khép kín. Vừa bước vào phòng khách, tôi nhận ra ngay có sự khác thường dù hầu hết vẫn ở nguyên vị trí. Chỉ lạ là bức màn trắng lơ lửng vén sang bên và một mùi hương hoà trong không khí ẩm. Buông xách tay, tôi chạy vào phòng tắm. Tấm gương trên tường và kính cửa sổ trông ra vách núi sau nhà còn mờ những giọt nước trải sương. Mùi xà phòng nồng hơi như ai vừa tắm gội. Tôi nhìn quanh, chẳng có gì khác ngoài những vật dụng của mình để lại. Quay sang phòng ngủ, nệm vẫn trần như trước khi đi tôi đã tháo ra giường. Chợt thấy trên bàn ngủ một mảnh giấy nhỏ. Một tên đàn ông, một số điện thoại bằng nét chữ cứng cáp, đẹp. Ðã có người chia thuê nhưng lạ lùng, chẳng lẽ vừa rời khỏi đây chừng mấy phút? Chưa kịp xem kỹ hơn, chân cô gái bước về, hát nho nhỏ trên những bực thang mòn. Cứ ngỡ cô sẽ leo lên khoe với tôi về người trọ mới, nhưng không tiếng động nào sau đó. Khi tôi vào bếp pha cà phê thì sự có mặt kia được xác định bằng chiếc bình còn lưng nửa một màu đen nguội đặc. Cầm lên bao thuốc lá vỏ xanh chữ vàng lạ lẫm, lúc lắc vài điếu không đầu lọc. Lại ngạc nhiên, sao chẳng một tàn thuốc trong nhà.

Không đừng được, tôi mở tung mọi ngăn tủ bếp. Các lọ gia vị bày hàng vàng nâu đen đỏ, nồi niêu bát điã xếp lớp ngăn nắp như tôi đã sắp đặt theo ý hôm nào. Rồi trở ra phòng khách, hai chiếc ghế bành bọc vải vàng tươi vẫn châu vào nhau trước lò sưởi trống vì chưa kiếm được củi về. Tấm màn voan kéo ra nhưng có lẽ vì tôi quên không khép lại? Sau nửa tháng, mấy chuốt tử đinh hương tím đã nhạt màu sao mà lá còn xanh và mực nước trong lọ khá đầy. Chợt nhớ ra, lại vào phòng ngủ mở tủ. Quần áo tôi treo một bên chẳng có gì thay đổi, ngăn còn lại trống vẫn trống. Tôi ngả nằm xuống giường, dang tay thập tự bật cười. Mình mới kỳ khôi, nhà mình đâu mà thắc mắc lục tìm như của riêng tư. Nhưng nửa đêm, cùng hương biển xa xa len vào qua cửa sổ hé mở tôi còn nghe mãi một hơi người. Có thể chỉ là cô gái đã lên đây cùng với người đàn ông nào đó. Căn nhà dù sao vẫn phân nửa thời gian thuộc quyền cô ta. Tôi mỉm cười trong bóng tối.

Cho đến cuối tuần, cô gái im lìm. Thằng con trai nghịch một mình cạnh hồ nước nhỏ dưới gốc cây mận vươn cành khô ngang cửa gác tôi. Mỗi lần tôi về qua, cậu ta ngước đôi mắt rậm lông mi cong nhoẻn miệng. Thằng bé ít nói, ngay cả với cô gái. Tôi thường bắt gặp nó ngồi yên nhìn mẹ. Tuy thế, chắc chắn nó ngóng nghe tất cả vì vẻ mặt linh động và đôi môi chúm lại chăm chú. Thành phố biển miền nam vốn tấp nập, nhà cửa leo lơ lửng lại san sát vào nhau. Vậy mà tầng lầu dưới với mảnh vườn khuất của mẹ con cô ta tựa một chốn vắng tách rời. Không phải nhà họ hoàn toàn thiếu người lui tới. Tôi từng thấy loáng thoáng nhiều người ghé qua, từng vọng lêân tiếng đàn ông chào hỏi phóng túng hay thì thầm mơn trớn. Cô đáp lại bằng giọng cười có khi rúc rích, lúc vang cao một chuỗi chuông ồn ả. Nhưng lạ lùng, tôi vẫn nhận ra thỉnh thoảng có những ngừng bặt đột ngột, bất thường của một giòng nhạc bị bất thần cắt ngang. Ðàn vụt đứt dây trên tay người nhạc sĩ sau khi cố sức rung lên đến cung bậc tột cùng.

Trời thứ bảy cao trong, từ trên gác nhìn xuống, biển nhẵn một vệt cọ xanh phẳng lịm cố tình. Trái lại không khí bỗng căm lạnh cơ hồ rút nốt cái rét cuối đông. Tôi choàng thêm áo, định lần này phải vào sâu trong núi nhặt ít củi khô về nhóm lò sưởi đêm nay. Mẹ con cô gái đang bày mấy trái bí đỏ lên thành cửa. Mùa Halloween qua đã lâu rồi. Thằng bé xúng xính trong bộ đồ người dơi. Thấy tôi, nó hí hửng phơi hai cánh rộng, lần đầu tiên nói hồn nhiên :

- Quà mới của cháu, đẹp không ?

Người mẹ chợt sa sầm níu tay con, cáu kỉnh :

- Cởi ra đi, mặc mãi thứ quỉ quái.

Thằng bé không bằng lòng, vớt vát :

- Mấy lần trước toàn đem cho đồ chơi, con thích cái này!

Tôi định xen vào, cô gái vụt nói sang chuyện khác, muốn cùng vào núi, rồi thay ngay quần áo, quần bó sát chùm áo len rộng. Trông khác hẳn mọi ngày, trẻ trung hơn, một cô sinh viên ngoài đường phố. Càng lên cao, những nấc thang đá thay dần bằng các đòn gỗ to chèn đất. Con đường leo quanh co, cỏ cây chen lấn. Cô gái săn sóc, dừng lại giơ tay kéo đỡ tôi thật dịu dàng. Những lúc ấy, cô ta khác hẳn ngày thường, mất hết vẻ chế giễu lắm khi khiêu khích. Tôi không ngừng ngạc nhiên trước sự tường tận của cô về thảo mộc và các loại đá miền núi, cả về những hiện tượng thiên nhiên. Nét thông minh không hề tương phản mà lại đằm thắm hơn cặp mắt đuôi dài, bờ môi và dáng đi khêu gợi.

Lúc quay về chúng tôi vòng qua con đường đổ thẳng xuống bãi đá. Phiá bên ấy ít nhà cửa, cây leo chằng chịt và chim muông láu cháu suốt vách dốc dài. Gần đến chân biển, cô ta kéo tôi vào mảnh sân sỏi một cửa hiệu thủy tinh. Những con thú trong muốt, các khung ảnh, chụp đèn lung linh màu sắc. Một người đàn ông đang dọn dẹp trong góc quay ra. Gương mặt nâu nắng, nụ cười vạch đuôi khoé mắt. Ông ta mừng rỡ ôm hôn cô gái, âu yếm nhìn theo cô chạy vòng qua những bóng thú, sờ mó nâng lên đặt xuống, cười nói khen chê bằng giọng đùa nhí nhảnh hồn nhiên. Người đàn ông tỏ vẻ ngạc nhiên, còn tôi càng thấy bâng khuâng lạ lùng trước hai con người khác biệt trong cô. Trên mặt bàn giữa hiệu, hòn đá vân biển nâng đứng một chiếc đĩa to vạnh trăng rằm. Trong lớp thủy tinh óng suốt những đốm bọt không khí rơi rắc như sao. Cô gái ghé sát mặt vào đó, vẫy gọi tôi đối diện. Qua khuôn trăng đôi mắt mở to rạng sáng. Bàn tay bỗng đưa ra nắm nhẹ những ngón tay tôi, nụ cười rọi sang xao xuyến. Người đàn ông đứng sau lưng chẳng biết nghĩ gì, cất tiếng:

- Mày được thế này ta mừng lắm cháu à. Ừ, quên đi. Phải quên…

Lời nói ông ta như làn mây xám vụt kéo về che lấp mặt trăng đang rực rỡ. Mọi ánh sáng tự nhiên tắt lịm. Trong khoảnh khắc ấy, đôi mắt thơ trong khép lại. Lúc chúng từ từ mở ra, hai hạt nước ở ngấn mi lăn rơi giữa những bọt sao lấp lánh.

***

Qua lần lên núi ấy cô gái thu kín hơn cùng với sự hiện diện đã rõ ràng của người thuê chung căn gác. Những khi tôi hỏi, cô ta trả lời quanh quất : - Một người bình thường, chắc chẳng ở lâu. Có khi cố làm như không quan trọng: - Nào có gì đáng để ý. Nhưng mỗi lần ra đi rồi trở lại, linh cảm đàn bà vẫn đem đến cho tôi những thắc mắc hay bực mình lẫn bâng khuâng liên tưởng vu vơ. Dần dần những đồ vật của người đàn ông ấy xâm chiếm không gian tôi. Trước kia là bình cà-phê bỏ dở với bao thuốc lá, sau này là những đĩa nhạc bày tung đây đó. Ra giường cuộn đống vất trong tủ áo với những cánh cửa mở lưng chừng. Lại hay chuyển dịch đồ vật, một trong hai chiếc ghế vàng anh lôi đến gần cửa sổ, bàn kính bị đày ra xa hơn, mất đi bao nhiêu hình cây nghiêng ngả. Nhưng không thể chối rằng đôi lần trở lại đây đúng buổi chiều có sương ẩm lạnh, mùi củi núi cháy thơm mà ông ta hay chàng ta, tôi nào biết, đã đốt còn vương lại khắp căn nhà, ươm ấp quanh tôi bao nhiêu ấm áp. Từ dạo đó tôi thích nhóm lò sưởi, ngồi ghế bên này gác chân bên kia đọc sách. Hình như người đàn ông đã cố tình khuân lên cho tôi những khúc củi to để giữ lửa lâu hơn. Bao diêm, cành khô và tờ giấy báo vo tròn sắp sẵn. Cũng tự lúc nào chẳng biết, cả hai cùng bắt đầu trang trí căn gác chung. Tôi thay chụp đèn vải thô trong góc phòng bằng vòng lá bắp ép mỏng của thổ dân bên kia đảo. Ông ấy treo lên tường lò sưởi tấm gương to mà tôi biết chỉ tìm thấy ở những hiệu đồ cổ trên miền bắc. Hôm đầu tiên, tôi đã dừng lại bôi thêm son môi và mỉm cười qua tấm kính trước khi ra khỏi nhà, bâng khuâng. Một người đàn ông dù trẻ, già hay vừa vừa cũng đâu cần gương to, có phải. Qua bậc thang ngang lầu dưới, cô gái đang phơi quần áo trong sân, tôi cất tiếng chào vui vẻ. Cô nhìn theo lặng lẽ khiến nắng ngày từ đấy tan loang. Nhiều câu hỏi lẩn quẩn, về cô gái, về người đàn ông chưa thấy mặt nhưng thực sự có đó. Và cả về tâm trạng mênh mang vô định của chính mình.

Có những trưa nằm im, chim chóc ngủ. Tôi leo lên thành cửa sổ rộng, ngồi đó, chông chênh ngó nắng. Tháp chuông nhà thờ trắng trinh vượt rời những lớp nhà gợn hồng lên xuống. Biển bình an hút tôi về chân trời, giao tuyến của thực và ảo. Mênh mông đấy nhưng vẫn là hình ảnh một khoảnh khắc. Trời vừa kéo sang xuân, cây cối lửng lơ màu tươi non. Mái ngói đỏ cũng nhòa đi trong ánh sáng. Chỉ có vách núi mang mãi một sắc thẫm sâu, nặng chùng của đá. Hàng mận mọc cao trước núi đã báo mầm thức giấc cùng tôi, bồn chồn. Váng vất chưa qua bỗng đâu cơn gió quạt tới bất ngờ. Khi tôi quay trở lại căn nhà, những nụ hoa mận mọng búp mà tôi nôåi hứng phác chơi trên tấm bố trước khi đi bỗng nhiên bị nở tung bềnh bệch. Tôi buông ngay sắc hành lý xuống sàn, cáu bực cầm tấm tranh lên, úp ngược :

- Vô duyên, dám tự tiện bôi bác tranh người ta !

Nhưng sau, tôi lại lật lên, đến gần cửa sổ. Sững sờ nhận thấy vài chấm sơn tưởng như thô như vụng ông ta đã quệt lên lại làm những đóa hoa trắng sáng rưng rưng, tựa đang mở bung dưới nắng. Tôi đem đặt vào giá vẽ, bấy giờ mới để ý tới mẩu giấy dán bên. Hai chữ ‘‘xin lỗi’’ gọn lỏn trong nét chữ đẹp tôi đã thấy hôm đầu.

Trên đường từ chỗ làm ra, tôi ghé qua phố chợ. Như đa số thành phố ấm miền nam, sự sống bùng lên khi chiều xuống. Con người sau giấc ngủ ngày choàng dậy, sẵn sàng bỏ hết sinh lực để tưng bừng cuộn vào cơn thức đêm. Sóng cũng thích cuống quít, lộng lên ồn ào khi ngày tắt. Suốt dọc đường lên đèn chong sáng, đầy cửa tiệm chưng bày rau trái xanh tươi đủ màu, cá tôm cong đuôi sáng bạc. Tôi vào mua khúc cá hồi hồng lịm, vài trái cà chua đỏ chót và quả ớt tây xanh. Với thêm lọ ô liu đen mọng trên quầy. Ở bực thềm bước ra, vừa ngước lên bỗng chạm thẳng đôi mắt bên kia lề con đường hẹp. Tôi dừng đứng. Người đàn ông, điếu thuốc trên môi quay bước, một tay vất vật gì vào thùng rác dưới cột đèn. Tôi muốn băng ngay qua, nhưng dòng xe vừa ào tới. Cái vỏ bao thuốc lá màu xanh chữ vàng nhãn hiệu khác thường còn nằm ngửa trên rác vụn, giấy báo, chai lọ linh tinh. Tôi định nhặt lên nhưng ngại ngần. Biết đâu chỉ là ngẫu nhiên trùng hợp. Tuy thế vẫn loay hoay gom góp trong trí nhớ khoảnh khắc không ngờ ấy, cố tượng hình một khuôn mặt, một dáng người. Nhưng không tạo ra được, giữ lại được gì ngoài ánh mắt xoáy sâu như thể đã theo tôi tự lâu rồi. Nỗi buồn dềnh lên với sự tổn thương. Sao người đàn ông ấy biết tôi mà tôi thì không. Sao bấy lâu thầm lắng kiêu bình, vậy mà bây giờ tôi thờ thẫn nôn nả kiếm tìm. Tìm gì? Một hiện hữu. Thực và hư. Thân thiết cùng xa lạ. Dù cố tình cưỡng lại nhưng cuối cùng tôi vẫn bị lôi hút vào cánh rừng có bao cảnh vật biến ảo, đứng đó, hoang mang. Cũng chẳng hiểu do đâu, tôi muốn tự mình tìm biết dù có thể hỏi ngay cô gái rõ hơn về người chia nửa thời gian. Một phần nào, thái độ hờ hững gần như che dấu lẫn mỉa mai của cô ta làm tôi khó chịu chạnh lòng. Biết bao thắc mắc xoay vần. Ông ta hay chàng ta. Làm gì. Ra sao. Giải đáp chỉ vỏn vẹn trong căn gác mấy chục thước vuông. Thế mà, rõ ràng rồi lẫn lộn. Thứ cụ thể, thứ hư ảo. Tôi từng vuốt lên dáng dấp vừa tầm của mấy bộ quần áo veste treo trong tủ, vải mềm lòng tay. Những chiếc T-shirt, sơ-mi nếu không đen hay xám thì nhã nhặn. Tuy thế có lần mở cửa tủ, rơi tung xuống sàn vài cái lạ, màu mè rộng cỡ XL. Người đàn ông đem về rất nhiều sách báo, vật dụng riêng tư vung vãi nhưng không có gì đủ cho tôi biết về ông ta hơn dù cùng một không gian. Chẳng nhìn thấy mà cứ mang mang vướng vất. Trên những con đường đang vờn dốc rồi bất chợt lại đổ thẳng xuống một khúc quành lấp bởi bụi hoa đậu tiá ngả cành, tôi cứ cảm tưởng có cặp mắt dõi theo. Ðôi khi một tiếng giầy nửa mạnh nửa ngập ngừng thoáng nghe đằng sau cũng làm tôi hồi hộp.

***

Ngày hôm qua mây đen đổ xuống từ bên kia núi, trời hầm hập oi ả. Biển trở xám, lớp hơi dầy chùng trên mặt nước chẳng thể bốc lên vì không khí nặng từ trên đè xuống. Cây cối đứng im, không gợn gió. Từ sáng sớm, côn trùng, sâu bướm ở đâu bay về vật vã lao vào cửa kính như không chịu nổi áp suất ngoài trời. Ðầu óc tôi căng cứng, thân thể bứt rứt. Vài giọt mưa đồm độp rồi ngừng bặt càng làm không khí nóng hực, quay cuồng. Cuối chiều, chẳng ngờ cô gái lên, đem theo chiếc quạt máy. Tôi đang ngồi ở bếp nghe đài khí tượng báo tin cơn giông hãn hữu sẽ ào qua đây và kêu gọi thuyền bè trở về bến. Cô khoác áo mong manh trên chiếc váy tuột luôn hàng nút. Gương mặt hay cười giễu bấy giờ có vẻ bồn chồn. Nhưng vừa tìm chỗ cắm quạt cho tôi cô vừa nói rất ân cần:

- Ôi dào, có gì mà rộn lên, vài tiếng đồng hồ là qua. Cô chỉ cần ở yên trong nhà, đừng mở cửa để sâu bọ bay vào.

Tôi rót mời tách cà- phê, cô ta đứng dựa thành tủ bếp, rút điếu thuốc lá của người đàn ông vẫn có thói quen để đấy, châm lửa hút. Không tỏ chút ngạc nhiên về cái bao khác lạ, như tôi đã từng. Ðôi mắt cô theo tôi trong mỗi cử chỉ nhưng không phải ánh nhìn dò xét mà dịu và buồn. Tôi có cảm tưởng cô ta đang nghĩ về điều gì khác, thả theo cuộn khói chữ o tròn bay lên. Mãi hôm nay tôi mới biết được thế nào là mùi thuốc lá thân thuộc của ông ta. Cô gái giơ một chân gác lên ghế, vạt váy mở khuy vẹt hẳn sang bên bày tất cả vuốt đùi dài trần mịn. Bắt gặp tôi nhìn cô cười, mắt hơi nheo lại, sự hóm hỉnh của những ngày đầu tiên. Tôi hỏi lảng :

- Cô nói ở đây ba tháng mới mưa, nhưng cơn giông này…

- Thật đấy, thường chỉ giông gió vào mùa hè, giữa xuân như vầy rất hiếm.

Rồi cô ta đứng xuống vòng ra phòng khách, tôi bước theo. Cả hai ngước về phiá núi. Tôi chắc miệng :

- Tội nghiệp, hoa mận đang trắng đẹp quá…

Cô gái không cho tôi dứt lời, buông ngay một câu:

- Tinh nguyên bao nhiêu cũng tiêu ngay trong giây phút.

Ngạc nhiên trước sự gay gắt, tôi quay lại. Cô ta đang cầm bức tranh trên tay, biết tôi nhìn nhưng vẫn xoay lưng, nói tiếp:

- Cô nhẹ nhàng giống mẹ tôi…ngày còn sống, bà cũng yêu hoa mận.

Bỗng dừng ngang, đổi thái độ bất ngờ, đặt mạnh tấm tranh, mở cửa đi một mạch ra ngoài. Tiếng gót giầy nện trên đá vang lên trong khi tôi còn ngơ ngẩn. Tiếp ngay lúc đó, tràng sấm ùng ùng nổ rền trong khôâng, gió bắt đầu từ biển quạt vào lồng lộng. Tôi chạy về cửa phòng ngủ nhìn ra xa, sóng đang nhào lên lộn xuống như những thân rồng vẫy vùng cuồng giận. Mấy chiếc tàu trở về neo bến đảo theo, nghiêng ngửa chừng sắp đập nát vào bờ. Những chiếc xe còn trên đường đang cố chạy thoát tìm đến nơi ẩn trú, nhưng đang bị sức gió khủng khiếp kìm hãm, hùng hục như trâu cái nặng nề. Vụt nhiên điện tắt ngấm. Cả thành phố đen sầm trước mắt tôi, chỉ còn đỉnh cao nhà thờ vươn lên một màu xám quái dị. Tôi thấy mình rùng lạnh. Lạnh giữa cơn giông bức sốt oi nồng. Vội vào giường, kéo chăn cao. Tôi nằm đó, nghe gió vờn hú đuổi nhau quay bốn hướng, nghe sâu bọ không ngừng tiếp tục điên cuồng tự sát trên các ô kính. Co ro trong chăn, tôi cố giương mắt nhìn đồ vật trong phòng, như thể muốn tìm sự trấn an ở những hình ảnh quen thuộc. Không gian thơ mộng Chagall đã thẫm đi, chỉ còn thoáng màu áo trắng ma trơi lất phất. Mấy cây cyprès trên tấm tranh Van-Gogh mà người đàn ông treo đối diện đang oằn đen tang tóc. Không. Tôi chồm dậy, trong lúc này tôi chỉ nên nhìn cành mận nở hoa trong sáng. Lần mò ra phòng khách, thắp được ngọn lửa trên hai chân nến Hy Lạp vòng xanh rắn lục mà ông ấy đã ân cần bày lên một ngày lập xuân, mang tấm tranh để lên bệ lò sưởi. Ánh nến chảy trên những nụ hoa mong manh. Tôi đã nhầm, chúng chẳng còn rực sức sống như mới đây, từng cánh trắng muốt kia sắp bị rung đứt, bứt rụng khỏi cành. Gió gào rú tứ bề, nhưng không khí trong căn gác nặng im, ngạt thở. Cảm giác có điều gì khác thường và đe dọa sẽ xảy ra làm thân thể đang run rẩy bỗng dậy cồn bứt rứt, bừng bực. Ðưa tay kéo cao chiếc áo lanh dài gót chân, tuột hẳn ra khỏi đầu. Vươn vai, chạm mắt trên hai mọng ngực trần trong gương. Thời gian ở đây đủ dài thế mà thân thể chưa hong nổi nắng, lại nhớ màu da thắm trên đùi cô gái. Như có lực vô hình cử động hộ bàn tay, tôi cởi nốt mảnh vải cuối người. Lâu lắm mới nhìn mình toàn diện, trong thứ ánh sáng mờ ảo mông lung, để khám phá trên hình hài đằm thắm kia còn vương đọng một nỗi buồn, từ đáy mắt xuống những đường cong rồi qua bóng sẫm. Mặt gương chợt chao đi, có cặp mắt sau lưng cũng mở to đang cùng nhìn tôi từ cửa sổ. Vội vàng quay lại, không có ai ngoài bóng mờ những cành cây vật vã trong gió và gần hơn, xác côn trùng bám đầy khung kính. Tôi cuống cuồng chạy đến khép chặt mấy tấm màn, trở lại giường, nằm im trong bóng tối. Hai ngọn nến vẫn tiếp tục cháy trên lò sưởi ngoài kia.

Mưa bắt đầu đập, rào rào rầm rập. Các khuôn cửa đã đóng chặt, cô lập căn gác với thế giới bên ngoài, nhưng tôi biết rằng cơn mưa đá đang dội xuống cả thành phố nhỏ bé bấp bênh, chừng như chỉ dựa chênh vênh vào vách núi. Sự sợ hãi vụt tràn đầy không gian tối, cùng với nó nỗi cô đơn từ đáy vực trồi lên. Cả hai bùa chú giao nhau trên thân thể tôi trần truồng tê dại. Tại sao mình không giữ cô gái ở lại trong cơn giông yêu quái này? Chàng ta hay ông ta bây giờ đang ở đâu, có biết chăng những đoá hoa lung linh đang tả tơi ngoài mưa gió? Những giọt lêä nối nhau, tôi chết cứng trên giường, không thể đưa tay chùi nước mắt. Cuối cùng rồi cũng thiếp đi trong cuồng phong vần vũ.

Chập chờn màn cửa phất phơ. Không khí đặc im trong căn phòng kín đang chuyển mình để bốc hơi, đang từ từ nâng tôi lên khỏi mặt giường. Chừng cả gió nữa đã len qua khe cửa, dịu dàng vuốt trên da thịt từng liếm ấm. Ðầu óc mê man, thân thể mê muội, tôi cong người chĩu theo một lực đỡ êm ái, mộng mị dưới lưng. Thấp thoáng ống tay áo vải mềm tím đậm tôi đã thấy trong ngăn tủ người đàn ông. Muốn mở mắt ra nhưng hai mi tại sao vẫn khép. Lâng lâng, chơi vơi. Cảm giác rạt rào ứa dưới bụng nhưng có gì như thực như hư, không đạt được. Bỗng đâu hai núm ngực tê cứng, rõ ràng vật gì vừa đụng tới rồi vụt buông ra. Tôi bật choàng ngồi dậy, bàng hoàng nghe tiếng chân người chạy qua phòng khách. Ánh sáng vàng của ngọn nến thoáng bị che đi rồi trở lại. Tôi chết điếng một lúc cho đến khi cánh cửa ra vào đập thình thình với gió. Thu cả can đảm, chụp lấy chiếc áo khoác vẫn để ở chân giường, vừa xỏ tay vừa chạy ra ngoài. Mưa đã ngừng, nhưng trời đất cây cối vẫn hú gào cuồng nộ. Sấm rền ùng ục trên không, cành cây bay rụng chắn hết lối đi nhưng chẳng thể cản trở tôi. Phải xuống tìm cô gái, tôi chỉ còn cô ở lúc này. May thay, ánh đèn nhạt chờn vờn trong nhà cô ta. Nhưng đến bực thang có thể nhìn vào thì tôi dừng sững lại. Cô gái mặc áo ngủ trắng mong manh, tóc vệt sang bên, đứng dựa vào thành chiếc thang gỗ dẫn lên căn gác lửng. Cô đang nói gì với một dáng đàn ông ngồi mép ghế đối diện, khuất ánh cây đèn dầu để trên đầu tủ. Hoá ra cô ta không một mình đêm nay. Tôi thất vọng định quay lên thì cánh cửa vào nhà cô, chẳng đóng như nhà tôi, đã bật ra cùng với giọng nói gay gắt :

- Tại sao anh còn quay về đây?

Tiếng người đàn ông ấm, chừng hơn cô gái vài tuổi, có vẻ chán nản :

- Có những điều không phải vì ngẫu nhiên...Dù sao thì chỉ còn chúng ta với nhau.

- Ðừng biện hộ! Anh thừa hiểu tại sao, anh thừa biết điều gì xảy ra sau ngày anh bỏ đi.

Người đàn ông im lìm. Có gì hút tôi mãnh liệt, men gần tới bờ tường đá sát cửa, nép mình vào đó để chống đỡ trận gió quật ngang ngửa. Mưa lại đổ xuống ào ào, chảy xối xả trên thân thể, mảnh áo khoác ướt đẫm dính chặt da thịt. Cô gái ngừng một lúc rồi nói sẵng:

- Bây giờ anh đã về, tôi đi, giao lại nhà cho anh.

- Ðừng, anh làm gì với cái nhà này. Chàng ta cuống quít.

- Bán đi, chia tay.

- Không được ! Còn cô ấy nữa.

Tôi giật mình trước thái độ chợt bùng lên giận dữ :

- Này, tôi lập lại, cấm anh từ giờ không được đụng tới cô ta. May tôi lên kịp. Mà...mà anh là thứ người gì ? Tôi...tôi không hiểu được. Tên bạn vẫn đi về với anh đâu rồi?

Hoá ra ông ta, chàng ta đó. Tôi tưởng mình sắp ngất đi, hơi thở vừa bị chặn đứng, một vòng dây chợt xiết qua cổ, một quả tạ vừa bung vào ngực. Trong kia, chàng thanh niên chợt nghiêng mặt ra ngoài ánh sáng ngọn đèn. Tôi vội nhỏm người, cố nhìn nhưng chẳng kịp. Tôi muốn thấy mặt người đàn ông đã ngang nhiên đi vào đời tôi trong những ngày tháng vừa qua. Ðã dám chạm tới da thịt tôi, không báo trước. Ðã tàn nhẫn đùa cợt với hồn tôi quay quắt. Những mảnh quần áo lạ màu khác cỡ đang từ ngăn tủ bay ra khỏi cửa sổ, ào ào trong gió đáp xuống mặt tôi, phất phới trêu ngươi. Nhưng chàng ta đứng dậy rất nhanh và càng lùi hơn vào bóng tối. Tôi nghe tiếng nói vẫn ấm, chậm nhưng mai mỉa :

- Hình như em đâu khác gì anh. Ðừng tưởng anh chẳng thấy. Không dưng đối đãi hết sức dịu dàng với cô ta.

Cô gái hực một tiếng cười nhạo :

- Nhầm, nhầm to, tôi chẳng hề giống anh chút nào. Còn anh, anh tìm gì nơi cô ấy?

Vọng từ khoảng tối :

- Những thu hút... không hiểu được. Bất chợt, chẳng ngờ, người ta khám phá ra mình khi bắt gặp rung động lạ lùng như thế. Ðâu đó, có nét cười, ánh mắt dịu dàng của em…ngày xưa.

Tôi nghe tiếng chân người xê dịch, có phải chàng ta sắp đến dưới ánh đèn. Nhưng không, chỉ có cô gái nghèn nghẹn:

- Những điều tôi bị cướp mất khi mới mười sáu…

Câu nói chưa kịp dứt đã có tiếng đứa bé trai thảng thốt hét:

- Mẹ, mẹ. Giữ lấy, giữ chặt lấy, gió tốc nhà mình.

Tôi đứng vụt dậy, thằng bé có lẽ từ gác lửng chạy xuống, mặc áo ngủ thụng dài. Không hiểu sao trong không gian lập lòe mái tóc nó sáng loá bạch kim như thiên thần nhỏ. Cũng ngay lúc ấy, lằn sét buốt màu lửa nung nham thạch xẹt ngang dọc trên bầu trời. Ánh sáng rợn người của khoảnh khắc lóe lên chiếu thẳng vào căn nhà. Nhưng tôi chẳng nhìn ra ai ngoài gương mặt trắng nhợt và hai tròng mắt hút sâu sợ hãi của đứa bé. Nó dang hai cánh tay áo rộng, vụt lao ra cửa như bị gió cuồng cuốn đi. Hai người lớn kêu thất thanh.

- Dừng lại. Ðừng sợ, đừng sợ, cháu.

Ðèn dầu vụt tắt ngấm, cánh cửa đập bung tưởng vỡ toang cùng tiếng người con gái khản đặc:

- Cháu gì ! Sao không nói cho đúng, nó là em anh. Anh biết cả mà, tôi đã nhìn thấy anh hé cánh cửa phòng. Rõ ràng hai con mắt anh cũng trợn trừng thao láo. Tôi ú ớ cầu cứu. Bố chặn miệng tôi và quay đầu lại. Nhưng…anh đã sợ hãi, vội vàng khép cánh cửa sau lưng anh.

Chàng thanh niên cuống cuồng đáp trả nhưng tôi không còn nghe ra gì được nữa, cả người run bần bật. Sấm nổ tung xẻ đôi trời đất, rầm rầm ồ ạt. Bao nhiêu luồng điện phẫn nộ choé những lằn sét xanh rực kim khí, điên loạn chém ngang dãy núi. Trước mắt tôi cả vách mận trốc gốc quay cuồng với đất đá đang từ núi cao đổ sập xuống cõi trần, vùi phủ căn nhà tôi đã đến thuê. Thế rồi, một lúc sau, không gian đêm đen bỗng trắng rưng huyền ảo. Muôn triệu cánh hoa lộng lên trong gió. Tôi thả người rơi xuống, bập bềnh như mảnh thuyền vừa vỡ tan giữa sóng.

Mai Ninh

Tháng sáu, hai ngàn.
PC
#7 Posted : Thursday, October 28, 2004 5:35:58 AM(UTC)
PC

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 5,668
Points: 25
Woman

Was thanked: 4 time(s) in 4 post(s)
Tác giả PC
Gởi: Fri Jul 23, 2004 1:30 am

Đọc ‘‘Tấm Ván Phóng Dao’’ của Mạc Can

Mai Ninh

Không hẳn thói quen, nhưng đôi khi đọc một cuốn sách tôi đánh dấu vài trang đặc biệt thích thú trong ý định sẽ đọc lại lúc đi hết truyện. Nhận từ đạo diễn Việt Linh tiểu thuyết Tấm Ván Phóng Dao của Mạc Can, trên chuyến tàu Paris về nhà tôi đã mở ra và không ngờ lúc gần xuống bến nhìn lại, những trang đánh dấu nhiều đến thế, hiếm khi.

Tấm Ván Phóng Dao (TVPD), truyện dài đầu tiên của một ngòi bút xuất hiện chưa bao lâu trong văn giới Việt Nam nhưng chỉ với đôi truyện ngắn đã tạo được tiếng vang hiếm có. Cốt truyện quay quanh một gánh xiếc gia đình lưu diễn từ miền tây sang miền đông Nam Bộ, trong những năm năm mươi. Ông chủ gánh là một người đam mê nghệ thuật sân khấu, nhưng nóng nảy, thấy chuyện bất bằng chẳng tha. Con người vô lo lại may mắn lấy được bà vợ gốc Miến Điện lai Hoa vui vẻ, biết xoay sở. Buổi đầu, ông đưa vợ con trôi giạt làng này qua làng nọ trên chiếc ghe ngược xuôi sông nước, hành nghề bán thuốc dán và làm ảo thuật ở những phiên chợ quê. Sau đó, nhờ tiền dành dụm của vợ, ông Trần lập được gánh hát xiệc lưu diễn trên đất liền bằng xe tải, với diễn viên chính là ba đứa con của mình. Đó cũng là bộ ba nhân vật của bi kịch. Người kể lại vở kịch, cậu Ba, đứa con trai thứ nhì oặt ẹo, giữ nhiệm vụ đứng sau đỡ tấm ván cho cậu Hai, người anh cả dáng vóc hào hoa biểu diễn trò phóng dao mà "vật thí thân" đứng trước tấm ván không ai khác hơn cô Tư, đứa em gái bé nhỏ của họ.

Người anh, với tài phóng dao ngoại hạng, là một thanh niên mà các cô gái đã gặp khó quên, tính trầm tĩnh, quen chịu đựng nỗi khổ dù vẫn ước mơ thoát khỏi cảnh đời lang thang và có được một cuộc tình đẹp. Nhưng cuối cùng, chính tình yêu đã hoàn tất bi kịch của gia đình anh ta. Cô em gái hiền lành ít nói, lúc còn nhỏ cô không biết sợ khi đứng cho anh mình biểu diễn, xem những lưỡi dao phóng toả quanh thân như chùm hoa làm vui người đời, cho đến một hôm cô bắt gặp bà mẹ làm cá với con dao thép sắc. Từ đấy, cô thường cô độc trong một góc với xâu chuỗi quyển kinh, lấy tay che mắt. Nỗi sợ làm thân hình thiếu nữ mười bốn mưới lăm khô cằn, bất động. Chỉ có đôi mắt muốn cất lên tiếng nói. Tuy thế, chúng không thể bật thành lời, mãi mãi ẩn nhẫn nhận chịu số mệnh nghiệt ngã.

Cuộc sống của họ nghèo nàn chật vật, những buổi hát tùy thuộc vào cơn mưa đêm đổ xuống ngăn cản khách đến xem: ‘‘Ai có tới một chợ quê, trong cảnh tha phương cầu thực với các gánh hát nghèo mới biết, mưa cầm chân người mua vui ở nhà, mưa làm cho sân khấu phông màn buông rủ buồn hiu. (…) Tiếng mưa rơi hoài, não nuột suốt canh thâu, tôi thao thức mòn mỏi cho tới khi thiếp đi, bàn tay lạnh vô tình đưa lên khuôn mặt không thể nào gột sạch dấu phấn trắng, chì đen, son đỏ. Đôi mắt sâu thăm thẳm lấy đêm làm ngày, trong mưa, từ cõi nào vẳng lại tiếng cầu kinh hoang mang, dàn đồng ca của kiếp côn trùng nơi bùn lầy nước đọng không khác gì cuộc đời những người hát rong!’’. ‘‘Tôi’’ sợ mưa, ‘‘tôi’’ mang gương mặt nhoè nhoẹt son đỏ dấu phấn vệt chì ấy là con trai thứ hai của ông Trần, vừa giữ vai hề vừa là thằng bé đánh trống quảng cáo trước cửa rạp, cũng là người điên cuồng lo âu cho số mạng của em gái, ở mỗi màn phóng dao mà khán giả chờ đợi thích thú nhất. Từ lúc sinh ra trên một dòng sông, cùng cha mẹ anh em nổi trôi bờ bãi, đi bán niềm vui cho thiên hạ đến tuổi biết yêu thầm, cậu thiếu niên luôn cõng trên mình tấm ván định mệnh. Đứng vịn đằng sau, nhìn qua kẽ hở, cậu canh cánh nỗi lo hiểm họa không biết lúc nào sẽ xảy ra, rồi suy nghĩ ray rứt về cái vô lý của trò xiếc đầy bạo lực. Đau lòng nhất là người đứng cam chịu bao lưỡi dao sáng loáng ném về phiá mình lại là đứa em gái u buồn. Cậu thấy nó là con cá tội nghiệp nằm trên tấm thớt, còn đám khán giả đang hồi hộp, kích động chờ đợi những lằn dao xoáy là bầy cá biết vỗ tay, cá trơn và cá có vảy, biết nhảy chồm lên lưng ghế, lên sân khấu gánh xiếc.

Tấm ván nặng dầy làm bằng thứ gỗ đóng áo quan quá cứng nên cậu phải thường xuyên vác nó trên thân hình còm cõi, vốn mang dị tật do chính sự khuân vác quá sức này, đem ngâm dưới sông hay ra bờ giếng tưới nước làm mềm mặt gỗ. Nếu không, ván chẳng ăn dao. Ngoài buổi diễn, nó trở thành manh chiếu, nệm giường cho cậu nhỏ đặt nằm trên mui xe hay dãy ghế, nhìn lên trần rạp thao thức và mơ tưởng tới một lớp học mà đời sống lưu động không cho phép. Miếng ván là tri kỷ nhưng cũng là nợ đời oan khiên: "Tôi lo cả ngày lẫn đêm, tôi muốn tấm ván oan nghiệt này biến mất đi cho rồi, tôi lo cho em gái tôi. Càng lo hơn, vào một buổi trưa trong nhà lồng chợ vắng người, tôi thấy anh tôi ngồi tỉ mỉ chùi thật bóng bộ dao bén, gia tài của anh". Hằng ngày đứng trên sân khấu, cậu theo giõi từng cử chỉ của anh trai, hồi hộp sợ hãi nếu người phóng dao phân tâm thì chỉ trong tíc tắc tâm thần không tập trung, có thể gây tử thương cho cô đào thí mạng.

Một ngày, điều dự đoán ám ảnh ấy đã xảy ra. Chính sự hiện diện của tình yêu, của Phương, cô thiếu nữ xinh đẹp con ông chủ rạp hát đã đưa đến thảm hoạ. Anh Hai đã phóng trúng cô Tư trong đêm diễn vốn báo trước nhiều điềm hỗn loạn. Uất ức căm hờn, cậu Ba đã xông vào đâm anh trai nhưng may mắn có người ngăn kịp. Gánh xiệc từ đấy tiêu tan, người anh bị tù, ông cha thất cơ nghiện ngập trở về bán thuốc dạo và lao vào cờ bạc, cô thiếu nữ đẹp trót mang thai với anh Hai rồi cũng qua đời năm 19 tuổi. Chỉ còn lại cuối cùng, bao nhiêu năm sau, trên khoảnh sân căn nhà heo hút, một bà Tư xơ xác thất thường mưa nắng, khi tỉnh khi không với vết thương trên đầu và một ông Ba đạp xích lô thỉnh thoảng ghé về thăm em gái, để chia một giấc ngủ trong ánh lá: ''…khói trắng bay lơ lửng chung quanh căn nhà nhỏ, khói len lỏi qua các cành lá, chỉ có lá và lá. Rốt cuộc ông cũng thiu thiu ngủ, nơi này gần như không có nổi một tiếng chim hót, chỉ có vậy, một lúc thật lâu, lúc này không biết là trưa hay chiều, không gian, thời gian lại như ngủ quên. Bà Tư mỉm cười nhưng không phải vì thấy ông Ba, bà vẫn còn ngủ, một người nằm ngủ, một người ngồi ngủ cho…tới khi chung quanh nắng bỗng vàng rượm, lần hồi tắt hẳn, nắng nhạt nhoà đàng xa, trên con đường nhỏ cũng không một bóng người, lúc đó màu lá chung quanh khu vườn nhỏ chìm dần, Cứ như vậy không có gì khác, cho tới tối. Một ánh lửa bé xíu như chiếc lá, in bóng bà Tư chập chờn trên nền gạch, bước tới gần ông Ba, ông đang cười như lời xin lỗi…'' Cả hai người họ đều cô độc, cả hai chẳng hề được biết tình yêu.

*

Thực ra không thể bảo rằng cốt truyện TVPD đặc biệt, bí ẩn li kỳ. Ngay sau một đôi chương, người đọc tinh ý sẽ đoán trước ít nhiều những điều diễn tiến. Nhưng nếu những trang tiểu thuyết này tạo được hấp lực, lôi đọc giả đi theo không ngừng từ đầu đến cuối là do những tình tiết và tâm lý nhân vật đã mật thiết lồng vào nhau trong một bố cục, một hình thức văn phong thu hút. Trước khi cầm cuốn truyện trên tay, tôi đã nghe nói đến và đọc vài bài tường thuật trên mạng hay báo chí về tác giả Mạc Can. Quá khứ của ông rất trùng hợp với truyện đã vô tình hướng dẫn cái đọc của tôi ở những trang đầu, không nhiều thì ít tôi ngỡ đang nghe tác giả kể lại đời mình, một anh hề gánh xiệc đam mê chữ nghĩa. Nhưng dần dần, cách dựng truyện với pha trộn giữa thực tại và hồi tưởng khéo léo, cùng cách hành văn nhiều đoạn huyền ảo đã trả lại cho tôi cảm giác là đang đọc một tác phẩm văn chương thật sự, xứng đáng.

Trong bi kịch, nhân vật chính, tôi, dưới tài điều khiển của Mạc Can đã lột tả hoàn hảo nỗi đau sâu buốt nhất của con người. Mặc cảm về hình dáng dị tật, mối lo âu xa xót thương em cùng những ước mơ vượt ra khỏi sự kém cỏi, nghèo hèn, và cả nỗi uất ức bất lực không dám xin cha chấm dứt cách kiếm ăn bằng trò chơi liều sinh mạng đã đông kết thành tảng đá đè trên lưng cậu nhỏ, cũng nặng không kém tấm ván nợ đời. "Tôi thấy thật rõ điều mọi người lấm lét né tránh, hột cơm xấu hổ mà mọi người (thuộc gánh xiếc **) ăn hằng ngày phải chăng từ máu của em tôi, nếu như một ngày nào đó cái chết sẽ tới như tôi dự đoán, điều này nào có phải là tưởng tượng thái quá, nó đã cận kề, một sự thật hiển nhiên nhãn tiền. (…)Ác nghiệt thay máu chảy ruột mềm, chính tôi cũng bị số phận đóng đinh, vì chính tôi cũng đã dự phần trong cái trò chơi bạo lực có vay có trả này". Những suy tư chiêm nghiệm, dằn vặt ẩn ức đưa đến phán xét gắt gao đầy uất hận với người đời, với anh trai và cả ông cha. Dưới ngòi bút Mạc Can, nhân vật tôi vừa dữ dội trong suy nghiệm (dù là một thiếu niên) vừa nhạy cảm trong trái tim, nhưng trên tất cả, ‘‘tôi’’ ấy hiển hiện như một con người thực. Các xoáy sâu cảm xúc kèm theo những phân bày tâm trạng tinh tế khiến người đọc khó thể bàng quan xem đó là một nhân vật hoàn toàn tiểu thuyết: "Hai con người này trong tôi không hoà thuận, một trầm tư sám hối, còn một có cơ phá phách, hỗn loạn, bất kham. Chúng như một con gà chọi nhốt chung với một con vịt, một kẻ hung hăng thích xung đột, kẻ khác ngây thơ và hoàn toàn thụ động".

Nhưng nào phải chỉ có vai chính của vở kịch - giá là một vở kịch để mọi nỗi đau của kiếp nhân sinh sẽ cùng khép lại với tấm màn khi tuồng bế mạc - mới xuất thần trong vai diễn. Đọc xong TVPD, tôi lại thấy không chỉ đời cậu Ba/ ông Ba là chính, mà kiếp sống, niềm đau của từng thành viên trong gia đình gánh xiếc cũng gây ấn tượng không kém. Mỗi người một phần mệnh nhưng điều họ có chung là nỗi bất lực và cô đơn trong tâm hồn. Ông cha "chầm chậm bước ra khỏi nhà lồng chợ, điếu thuốc đen trên môi ông cháy đỏ lập loè", bà mẹ "coi con heo đất nầy là quới nhơn hộ mạng cho đủ thứ việc trên đời, đau ốm, hoạn nạn mưa gió, bà còn cái bùa hộ mệnh khác là con bồi rô trong bộ bài tây, với thật nhiều ảo ảnh". Đứa em gái bất hạnh ôm ấp một nỗi đau đã ‘‘không còn là chuyện bị sát thương da thịt, nỗi đau lớn hơn nhiều, nó ở đâu nơi sâu thẫm như những hạt cát tội nghiệp dưới lòng biển, nơi mà ngàn năm trước triệu năm sau, có khi nào ánh mặt trời soi rọi tới, nó là một cõi im lặng trầm ngâm vĩnh hằng’’. Rồi đến người anh trai thủ diễn vai trò oái oăm tàn ác nhất ấy, tuy bị xem là một kẻ lạnh lùng thụ động nhưng nào ngờ đã có lần buột miệng hỏi thằng em: ‘‘Làm cách nào mà người ta tìm được một vài giấc chiêm bao?’’.

*

Tấm Ván Phóng Dao là một tiểu thuyết quá bi thương, nhưng nhờ cách dựng truyện chen lẫn chuyện quá khứ do cậu Ba thuật lại và lời kể của một người thứ ba ngoài cuộc (tác giả) về ông Ba, bà Tư bây giờ luống tuổi, khiến cho người đọc bớt đi cảm giác triền miên nặng nề. Nó cũng giúp dòng chuyện không đơn điệu mà trở nên lôi cuốn, đem lại ít nhiều chất lửng lơ, hồi hộp; độc giả đang chờ đợi sự kiện xảy ra thì người viết lại nhảy sang một chuyện đời khác. Đặc biệt hơn nữa, Mạc Can đã đợi đến những trang gần cuối mới tiết lộ gốc gác của gia đình gánh xiếc với một ông nội từng làm ‘‘thảo khấu’’ sát nhân, nhưng lại là người thương yêu thằng cháu vác ván, cho nó được cơ hội cắp sách đến trường trong ba năm đầu đời.

Qua các bài báo về Mạc Can, tôi tưởng tượng ra ông, và tôi gặp Mạc Can ấy nhiều nhất trong văn phong TVPD. Tôi nghe nói ông say mê viết, cái say mê này đã thể hiện rõ rệt suốt cuốn tiểu thuyết. Ông viết với tất cả ý, tình, tràn lan tùy theo tâm cảm từng lúc. Chắc vì thế mà có khi ngòi bút nhà văn Mạc Can ngự trị nhân vật một cách hết sức văn chương, không thiếu các đoạn văn thật đẹp: về giấc ngủ của ông Ba, bà Tư từ buổi chiều nắng rượm cho đến lúc màu lá chìm trong đêm tối đã trích dẫn ở trên, hay văn ấy vương chất huyền ảo như về ngày ‘‘tôi’’vừa sinh ra đã biết cười và mở mắt ngắm nhìn một điểm sáng: ‘‘Bỗng trước mắt tôi chợt có một điểm sáng ngời, ngộ nghĩnh. Nó rất thu hút, làm cho tôi biểu lộ sự…ngạc nhiên, vì vậy mà Mẹ tôi mới nói tôi ‘‘ngộ’’. Tôi bắt đầu lớn lên trong một không gian nho nhỏ cũng lại chật hẹp, tôi lật bò, đứng lên, trên sàn ván ẩm ướt của khoang chiếc ghe hát rong, sân khấu đầu tiên của tôi. Bắt đầu cho một cuộc phiêu linh dài. Khi tôi lớn hơn một chút, tôi mới biết : điểm sáng chiều nào làm tôi quan sát chính là cây đèn bão, cây đèn dầu này Cha tôi vẫn thường treo trước mũi ghe. Mỗi khi chiều xuống Mẹ tôi lại đốt lên ngọn lửa nhỏ, trên nền những dòng sông tối. Nói những dòng sông, bởi chiếc ghe, mái nhà của gia đình chúng tôi luôn chuyển bến, trong mịt mờ khói sóng’’. Nhưng rồi có khi lời văn chợt bình dân thoải mái, y câu nói của một thiếu niên Nam Bộ chân quê, chẳng hạn đoạn về cô thiếu nữ con chủ rạp hát:‘‘Chị khóc, chỉ là một cách để cho trôi qua mùa hè nhàm chán đơn điệu, như vài cô gái nhà giàu ưa đọc tiểu thuyết khác thôi mà, như vậy sẽ thú vị hơn nhiều vì có chút đớn đau, tuyệt vọng. Trái cựa với cảnh sống luôn được nuông chiều, muốn gì được nấy, tất cả những chuyện nhiêu khê này trộn lại thành một món cóc tai tạp pín lù khổ cho tôi…’’. Hai giọng văn đối nghịch đó cùng có mặt khiến cho tác phẩm hơi bị mất đi chất thuần nhất. Nhưng chắc gì người đọc lại không hài lòng với điều ấy, nếu đọc là để đi tìm con người qua tác phẩm.

Dù sao khi gấp cuốn sách, trong nỗi ngậm ngùi tôi có chút niềm vui. Tôi nhớ đoạn văn Mạc Can viết về mong ước được học, được viết chữ đã đeo đẳng cậu Ba từ thuở ấu thơ cho đến thời tóc bạc: ‘‘Ngón tay trỏ của bàn tay mặt ông Ba có thói quen viết vào khoảng không, lúc nhỏ ông hay viết những chữ cái để học đánh vần, ông cũng hay thấm nước để viết trên mặt bàn, ông không nhớ rõ nó đã như vậy từ lúc nào, ông không nhớ ông viết bao nhiêu chữ trong khoảng không, nó có ý nghĩa gì, viết vào nơi mà thời gian cứ thổi phăng đi muôn triệu dòng chữ vô hình’’. Giờ đây, những con chữ ngày nào cậu nhỏ bất hạnh ngồi vẽ, trên cát ẩm hay trong khoảng không, chẳng còn thất lạc nữa giữa phông màn rạp hát, hay rơi vào các giấc chiêm bao đầy những đôi mắt cá. Chúng đã được thong dong đến với cuộc đời, với chúng ta, trên mặt giấy.

Mai Ninh
(Tháng 3, 2004)
Phượng Các
#8 Posted : Friday, November 26, 2004 7:18:55 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,704
Points: 20,055
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
Con Đường Đồi Cát

Mai Ninh



Tôi rời Hà Nội vào Huế đem theo hơi sương sớm và hình ảnh màu sắc hương hoa của mấy ngày vô tình được sống một thời tiết dịu dàng như sang thu, giữa mùa hè lẽ ra nóng gắt. Phi trường Phú Bài tháng bảy đổ nắng trên đầu, những lằn nắng rực rỡ thiêu huỷ trong chốc lát không gian tươi mát quấn quanh cành lá hồ Tây hai bên đường, chị PQ đã chở tôi đi vòng một lần cuối, đôi giờ trước khi lên máy bay. Hôm ấy Hà Nội đầy hoa dành thắp hương đầu tháng âm lịch. Bao gánh hoa chạy rong đường phố, sen hồng sen trắng cúc vàng và cả hoa trang mà tôi ngỡ ngàng khi biết người xứ Bắc gọi là mẫu đơn, thật khác loài hoa đài các yêu quí của nàng vương phi họ Dương thời Đường.

Một giờ đồng hồ, chỉ đủ từ Phú Bài về nhà anh chị bạn ở Nam Giao, thay vội quần áo rồi lên đường đi ngay Quảng Bình. Trên xe, chợt nghĩ mình lại trở ngược ra Bắc, ra Bến Hải, địa danh huyền thoại của ngày thơ thiếu. Đây là chuyến đi tôi biết trước sẽ không dễ dàng gì, chẳng dễ dàng cho chính tôi, không phải do con đường đưa đến đó. Dù thế, khi chị bạn hỏi mọi thứ sẵn sàng chưa, tôi đáp gọn : « Có gì đâu, em chỉ có gói này là phải đem theo ». Gói tiền hơn mười bảy triệu đồng VN đóng góp của các bạn giao cho cầm về, đem tới huyện Lệ Thủy - Quảng Bình.

Thả người trên nệm xe, tôi chập chờn trong tiếng anh Thái Ngọc San từ tốn giới thiệu phong cảnh, nơi chốn. Anh San, đại diện báo Thanh Niên ở Huế đã vui lòng tổ chức giùm cho cuộc thăm viếng tôi từng mong mỏi làm được trong chuyến về VN lần này. Trừ một vài đoạn đang sửa chữa, quốc lộ số 1 đã mất những hố lầy, ổ voi của một năm chín ba, chín tư tôi qua đây để đến La Vang, Cửa Tùng. Xe có máy lạnh, quên hơi nóng còn hừng hực trên tàn phượng đỏ, tôi cố giữ hồn thanh thản, ngó ra mặt sông lặng, bóng núi xanh, rừng bạch đàn và nhìn lên những tán cây tìm màu tim tím của hoa bằng lăng giờ đã vào độ cuối. Tuy thế, thỉnh thoảng tôi ngồi bật thẳng dậy như bị chạm vào một lưỡi dao ký ức để hỏi về, động tới các dấu tích chiến tranh. Dẫu sao vẫn không thể quên : mình đang trên quãng đường năm nào được mệnh danh tử lộ. Rồi cố giấu dự cảm buồn nhiều hơn vui về cuộc gặp gỡ ở Lệ Thuỷ sáng sớm ngày mai, tôi cười với câu chuyện người đàn ông ít nhất bảy vợ sống chung đề huề khi xe ngang qua vùng « đất cằn Quảng Trị ». Anh San bảo nói là bảy vợ chứ thực ra hơn nhiều vì số con cái cháu chắt ông ta bây giờ đủ lập thành một ngôi làng, và người đàn ông có phước này luôn luôn được vợ con nuôi nấng. Thế là tôi miên man nghĩ về chuyện đàn ông đàn bà Việt Nam cho đến khi xe dừng lại bên đường, dọc hai bờ là vài quán ăn nhà sàn dựng trên mặt nước. Một bên là sông, một bên hồ nhân tạo nuôi cá. Đặc sản ở đây là cháo cá dọn trên những chiếc bàn thật thấp, thực khách ngồi chiếu. Chàng thanh niên tài xế vội vàng ngả người xuống võng, hai ba chú bé tiến lại bắt đầu làm massage, xoa nắn thành thạo, hai bàn tay chụp vào, vỗ lên sống lưng người khách những nhát kêu răng rắc nhịp nhàng. Suốt một ngày dài di chuyển, tôi cũng thèm được đấm lưng nhưng chỉ có dịch vụ đấm bóp cho đàn ông trong các quán này. Một lần nữa, thấy phụ nữ VN thua thiệt. Tôi ngồi ngó ra bờ sông, không bóng dáng cá tôm, chỉ một ráng trời hoe đỏ của buổi chiều đang là xuống, bàng bạc mặt nước.

Tối hôm ấy chúng tôi đến Đồng Hới, thị xã của Quảng Bình. Đồng Hới, ngày nào tượng trưng một địa danh bom lửa, với tôi, thiếu nữ Saigòn, nó xa tưởng chừng chẳng bao giờ mình đến đó. Đồng Hới trước mặt đèn đuốc đã lên, chiếu sáng những ngôi nhà lầu. Tôi ngạc nhiên khi biết mấy con đường trong thị xã trồng đầy cây hoa sữa, loài hoa cứ ngỡ chỉ thuộc về mùa thu Hà Nội, và thêm nữa : dân chúng, chính quyền địa phương đang khổ sở với mùi thơm đã đi sâu vào âm nhạc, thi ca VN đó. Cây trồng quá nhiều, đến mùa hoa, hương nồng quá độ làm dân hàng phố bị say, khó ngủ, đau đầu.

Trao đổi sơ qua với người đại diện tỉnh đoàn thanh niên Quảng Bình, tôi được biết hiện có độ 10 000 phụ nữ cựu thanh niên xung phong (TNXP) ở đây, trong số ấy khoảng 1 000 chị sinh sống rất khó khăn. Điều chính quyền và các hội đoàn thanh niên địa phương làm được cho họ còn rất giới hạn : xây được trên dưới 200 ngôi nhà tranh (7 triệu đồng/nhà), một số chị được cấp « Kỷ niệm chương » tương ứng với trợ cấp 1 triệu rưỡi đồng, nhưng chỉ một lần duy nhất. Buổi tối, tôi cùng chị bạn ngồi đếm và bỏ vào 8 phong thư, mỗi phong trên hai triệu đồng. Cầm bì thư quá nhẹ trên tay, tôi ngậm ngùi, thật chẳng bao nhiêu. Bảy trong tám người phụ nữ cựu TNXP tôi sẽ gặp sáng mai ở xã Hương Thuỷ, huyện Lệ Thủy (một chị nay ở Hà Tĩnh) là bảy trường hợp điêu đứng nhất, theo thông tin các bạn tôi được biết trước đây.

Con đường Đồng Hới – Hương Thuỷ sáng sớm đã rực nắng, 60 cây số nộn nạo trong ruột, tôi không thể xua đuổi ý nghĩ : mình sẽ gặp, nghe và thấy những gì ? Nhờ sự liên lạc báo tin trước của anh San, tôi mới được chính thức đến đây để có gặp gỡ này. Vừa bước vào căn phòng họp của ngôi trường tiểu học, tôi đã thấy ngay rằng những cảm giác dự đoán trước : sẽ buồn bã, hoá ra chỉ là bèo bọt. Bảy khuôn mặt dáng người khác biệt. Bảy khuôn mặt vô cùng giống nhau ở màu da rạm cháy, ở nếp hằn của hoàn cảnh, đời người đang ngước nhìn tôi. Phút giây, khi chạm phải màn nước long lanh trong trũng mắt người đàn bà nhỏ choắt cheo, cả thân thể run lập cập, hai cánh tay không ngừng giật giật, tôi biết mình sẽ khó nói được ra lời. Tôi vội cúi xuống, tôi là ai mà người đàn bà ấy nhìn tôi bằng cái nhìn chăm chú, sâu thẳm, u buồn đến thế ?

Không ngờ việc thăm viếng mà khởi đầu tôi nghĩ là giản dị lại thành một đón tiếp khá thể thức. Cũng may, sau khi các lãnh đạo và đại diện tỉnh - huyện giới thiệu mục đích buổi gặp gỡ và tôi nói đôi lời về cuốn phim Les oubliées de la piste Hồ Chí Minh, nguyên nhân đưa tôi thay một số bạn trong hội văn hoá Trịnh Công Sơn cùng vài người bạn khác về đây và trao phần quà, tôi đã được chuyện trò với từng chị phụ nữ bị lãng quên ấy. Những gì các bạn tôi đã thấy qua cuốn phim, ở cách lớp học này mười ngàn cây số chỉ là mảng bọt nổi trên bề mặt. Người làm phim đã tế nhị khi đưa ra hình ảnh hay chăng ?

Lần lượt mỗi chị nắm tay tôi và kể chuyện. Trước nhất, người phụ nữ nhỏ bé gầy hao đã rưng lệ nhìn tôi khi mới đến là chị Võ Thị Cúc bị parkinson nặng, 7 năm ra chiến trường từ 1965, bom chấn thương đầu năm 68, muốn đứng phải có người nâng vịn, sống một mình và dù tình cảnh bần cùng như thế chị vẫn còn chờ xin vào chế độ, nghĩa là xin hưởng trợ cấp 1 triệu rưỡi đồng, hay may hơn nếu được công nhận thương binh sẽ có phụ cấp 100 000 đồng hằng tháng. Chị Trần Thị Đương cao lớn hơn tất cả, nhưng chẳng vì thế mà may mắn hơn : nhiễm độc tố da cam 67, 68, không gia đình, liệt chân tay, mất một mắt. Một chị khác, cũng nạn nhân của chất hoá học này là chị Nguyễn Thị Nhạn, nay bị bệnh thần kinh. Chị Võ Thị Cảnh từng lập gia đình nhưng chồng mất đã 20 năm để lại 5 đứa con, chị bảo chúng tôi sống như « hạt gạo trên sàng ». Người phụ nữ mang tên Võ Thị Tình dáng vóc không khoẻ hơn chị Cúc bao nhiêu là người kể chuyện nhiều nhất, chồng chết vì ung thư, họ có 5 con trong đó một đứa bị điên vì trúng độc da cam. Sáu mẹ con không nhà, trú ngụ chân đồi cát, nhưng chị bảo sẽ dùng số tiền hôm nay nuôi súc vật kiếm lời. Người bên cạnh nghe vậy thốt lên : « Trước hết tôi sẽ mua gạo nấu nồi cơm ăn một bữa được no đã ». Chị Tình và chị Nguyễn Thị Liễu có chung chứng đau đầu, chị Liễu từng bị đất phủ trong những lần bom dội nên đầu ê ẩm kinh niên. Mỗi khi có tiếng động mạnh hay tia nắng chói, đầu hai chị đau điếng. Chị Liễu bảo tôi là bom đạn bung bung mãi trong tai, trong óc dù đã bao năm tháng.

Trước mắt tôi, bây giờ là những gương mặt héo hon, mái tóc muối sương khô rang thưa thớt, vành môi tái mím lại như cố kìm hãm không để thoát ra nhiều hơn lời than thở và nỗi lo âu dằng dặc. Nhưng sao trong tôi, ngay lúc này vẫn còn hiện ra các nụ cười sáng rỡ của tuổi trẻ một năm nào, 65, 66 hay 69 của đoàn TNXP mà cuốn phim đã ghi lại. Thời ấy, khi các chị lao ra chiến địa cũng mười bảy mười tám tuổi như tôi ngày nhận học bổng của chính phủ Pháp, rời quê nhà du học. Miền Nam tôi sinh ra và lớn lên khoảng độ đó cũng có các thanh niên xung phong. Bên này hay bên kia vĩ tuyến 17 đều là máu và nỗi đau của những người mà đa số hy sinh mạng sống và tuổi trẻ cho một niềm tin. Tôi viết đa số vì bảy phụ nữ ngồi đây khi trả lời câu hỏi của tôi có người xác nhận : Nếu lịch sử lập lại chị vẫn sẵn sàng tình nguyện ra chiến trường khuân đạn đắp mô, nhưng cũng có chị bảo rằng chỉ do hoàn cảnh đưa đẩy : Lấy chồng vừa hai ngày, anh lên Cao Bằng học tập, ở nhà mẹ chồng hành hạ, thế là chị đi xung phong.

Rồi cuối cùng tôi cũng phải đứng lên. Dù thế nào cũng chẳng thể hỏi han cho đủ về trước kia, về sau này. Lao khổ của các chị trước và sau có khác nhưng họ vẫn phải tiếp tục bước trên con đường không có được một chút bóng râm. Nắng mười giờ chói chang trên sân trường đang vắng bóng học trò. Bỗng dưng tôi thèm nghe đến kỳ lạ tiếng trẻ thơ cười. Chuyến xe trở ra Đồng Hới quành sát chân Trường Sơn để cho tôi biết đoạn đường Hồ Chí Minh mới mở, sau này nó sẽ chia sẻ số lượng xe cộ cùng quốc lộ 1. Xe vào làng Lệ Thuỷ với đồng lúa xanh đầy sông rạch mà chị bạn và anh San không ngớt khoe rằng đây là nơi sơn thuỷ hài hoà, đời sống sung túc so với nhiều nơi khác. Dẫu tôi nghe nói, trong cuộc chiến vừa qua, sau mỗi cuộc oanh tạc máy bay dù ở đâu cũng đảo về dội bom xuống Lệ Thuỷ một lần. Hình như hai người bạn còn kể về con người và quê hương họ nhiều lắm, cả về tục lệ đua thuyền sau mùa gặt mỗi năm vào ngày 2 tháng 9 trên sông Kiên Giang, với người phụ nữ đa mưu can đảm có một không hai, dám làm tất cả để bảo vệ danh dự làng mình nên được thờ trong miếu Bà thuộc thôn Anh Xá. Trong một mùa hội đua xưa, hai làng địch thủ đồng tài đồng sức khó phân thắng bại, nên Bà phải nghĩ mưu kế hạ địch thủ : Bà bèn mặc quần rộng, cột thắt lưng thật lỏng rồi ra đứng giữa sông, quay về hướng thuyền địch, khi thuyền chèo gần tới, liền tháo băng dây quần. Nghe đâu làng Bà chiến thắng vinh quang nên tôi đoán ngày ấy Bà còn xuân sắc lắm. Lại một típ người phụ nữ VN.

Hơn cả bận đi, con đường trở về Huế chao rung trong hơi nóng của ngọn gió Lào, thứ nóng làm cháy cong cả những tàu lá chuối. Lòng mắt tôi lạc đi trên đồng ruộng cây cối. Chẳng còn nhìn ngắm màu phượng, chẳng ngó tìm hoa bằng lăng, không cả thả mắt chạy trên ngọn bạch đàn xanh bạc lung linh, như hôm qua. Nắng lỏng mặt đường, nắng phá hồn tôi, chừng như cơn gió Lào đang hất tung cát bụi vào mặt. Con đường xe chạy không hề ngang qua « chang chang đồi cát nắng trưa Quảng Bình », vậy mà tôi nhìn thấy chị Tình đang gánh chổi gồng người leo dốc, chân lún trong cát xoáy. Chị đã cho biết, mỗi ngày chị gánh chổi dằng dặc băng đồi đem bán, 5 cây thì lời một ngàn đồng, phải bán được 30 cây mới đủ 6 ngàn mua gạo nuôi 5 đứa con. Nhưng chẳng quản gió, không ngại nắng vã trên lưng, chỉ là ánh sáng gắt trên nền cát lại loé cháy vết thương trong cặp mắt mảng đầu vốn chẳng lành lặn của chị.

Khi xưa, tôi thích những bức hình của các nhiếp ảnh gia VN hay chụp người đàn bà quang gánh giữa đồi cát bao nhiêu. Họ bước đi trên những lượn cát uốn vòng mềm mại, bóng in chân trời. Bây giờ tôi sợ, đấy chỉ là nghệ thuật không là thực tế, ít nhất thực tế tôi vừa để lại, sau tôi.

Mai Ninh
Tháng 8, 2004
Phượng Các
#9 Posted : Friday, November 26, 2004 7:28:37 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,704
Points: 20,055
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
Gabriel García Márquez : Thời thơ ấu và Tuổi trẻ

Mai Ninh


Mùa thu ở xứ Tây là mùa của sách. Với kết quả thường niên của các giải văn chương, từ Nobel đến Goncourt, Fémina… sách truyện xuất hiện tưng bừng, màu sắc như lá thu, sống động hơn bất cứ thời điểm nào trong năm. Giữa những cái tựa được quấn vòng thêm một mẩu băng giấy trang trọng quảng cáo là tác phẩm đoạt giải này giải nọ ấy, Vivre pour la raconter [1] (Sống để kể chuyện) giản dị một nền chữ trắng hình xám xanh với tấm ảnh Gabo - vâng Gabo, tên gọi thân mật từ những người bạn đã hơn năm mươi năm của tác giả - chắc chụp hồi chưa biết đi, đã quyến rũ tôi nhất. Hẳn nhiên không phải tấm hình đứa bé, dù Gabo trong chiếc áo đầm con gái tay cầm mẩu bánh bích-qui, lòng ngươi tròn to rất dễ thương, lôi cuốn tôi đến thế. Cũng không thể nói chỉ mỗi cái tên người viết Gabriel García Márquez, mà cả hai yếu tố : tên ông và tựa truyện. Vivre pour la raconter, không thể là gì khác hơn hồi ký của Gabriel Márquez tôi từng chờ đợi, từ một thời đọc Trăm năm cô đơn, Tình yêu mùa dịch tả, Lá trong gió lốc…Ngoài trí tưởng tượng phong phú, nhà văn thường viết dựa vào những kinh qua và từ cảm xúc bắt gặp trong cuộc sống ; tôi nghĩ : cuộc đời Gabriel Márquez không những phải rất giàu có sự kiện thú vị mà ông hẳn là một con người sống hết mình, quấn quyện quay cuồng với nó, tựa trong một cơn bão lốc. Trong ý nghĩ ấy, vô tình tôi đã chờ mong tập hồi ký này.

Tác giả bắt đầu tự truyện bằng chuyến đi của chàng thanh niên 23 tuổi, gốc người Caraïbes – Colombie Nam Mỹ, theo mẹ trở về làng Aracataca để bán căn nhà thừa kế, nơi anh ta sinh ra và sống những năm tháng đầu đời với ông bà ngoại. Căn nhà nằm trong vùng đất mùa nắng nóng hốt hơi kim loại nung, mùa mưa thối trời vữa đất. Nơi đó, Công ti Chuối chế ngự và bóc lột người dân cho đến lúc gây ra biến cố kinh hoàng : một buổi sáng năm 1928, quân lính tàn sát công nhân Công ti Chuối cùng gia đình họ đang tập trung đình công đòi quyền lợi. Cuộc thảm sát trên thực tế vốn sẵn mang tính cách hoang đường còn được huyền ảo hoá hơn nữa trong Trăm năm cô đơn, tác phẩm đã đưa chàng thanh niên ấy lên đỉnh cao nhất của văn chương : Nobel, năm 1982. Hoang đường và huyền ảo vì những chứng nhân ngoài đời chỉ nhớ mông lung về cuộc thảm sát, ngay cả ông ngoại của Gabriel – đại tá Nicolás Márquez – cũng không thể xác nhận số tử thương là trăm người hay ba nghìn. Còn trong tác phẩm, ba ngàn xác chết trên quảng trường đột nhiên biến mất, không dấu tích, nhưng một nhân vật giòng họ Buendía lại thấy mình nằm trên một con tàu chở đầy xác người âm thầm chạy trong đêm tối.

Chuyến về quê bán nhà ấy là khởi điểm của một vòng ngược thời gian, để tác giả kể lại thời niên thiếu của mình với những mô tả thú vị về từng thành viên trong gia đình, từ ông ngoại loay hoay nặn những con cá vàng, bà ngoại đổ những chiếc bánh kẹo hình con thú, hai hình ảnh này đúng là những nhân vật đã lập ra làng Macondo ám ảnh trong tiểu thuyết của G.M. Cha Gabriel, nhân viên sở giây thép thời trẻ và sau đó mở cửa hiệu thuốc, một con người khó hiểu và khó lung lạc. Mẹ, người đàn bà dễ thương thật gần gũi và hy sinh cho các con, bà kiên cường lèo lái một gia đình nghèo túng với 15 đứa con : con mình và con rơi của chồng mà bà tự nguyện đem về nuôi chỉ vì « đã cùng dòng máu với những đứa con tôi thì không thể để chúng sống vất vưởng bất cứ đâu ». Ông bố kỳ vọng Gabriel, đứa con trưởng, phải ít nhất tốt nghiệp đại học, thay cho sự dang dở về học vấn của chính mình, trong khi ngay từ nhỏ con ông đã mơ ước trở thành nhà văn. Nhờ mẹ can thiệp Gabriel đã được phép rời ngôi nhà gia đình ở đồng quê về thủ đô Bogotá tiếp tục trung học.

Tại Bogotá, trong không khí tranh chấp không nương nể giữa phe bảo thủ và đảng tự do, nhất là trên cái nền một xã hội thoái hoá, nghèo khổ, bên bờ vực, cậu học trò chỉ có độc hai bộ quần áo này – mỗi ngày vừa tắm vừa giặt dưới vòi nước – chẳng những được tiếp cận với các khái niệm chính trị xã hội còn tìm ra phương tiện để đọc những tác phẩm văn chương thế giới nổi tiếng, một đam mê lớn suốt đời. Nhưng Gabriel không thích và lười học, ngoài đọc sách, tụ tập bạn bè trong ký túc xá, rủ nhau trốn ra ngoài chơi gái, cậu làm thơ, còn thêm tài đặc biệt là soạn và đọc những bài diễn văn, ngay cả điếu văn, trong những dịp lễ lạc ở trường học. Gabriel cho đó là tài vặt vãnh, nhưng chính nó đã khiến cậu được mọi người nể phục và nhiều lần cứu thoát sự thiếu thốn vật chất cùng nguy kịch. Nó cũng mang lại cho chàng thiếu niên, tuy được hưởng bản chất dí dỏm duyên dáng của mẹ nhưng khá nhút nhát và khiêm nhường, rất nhiều bạn. Trong số đó có người thành danh và rất chân tình. Những người bạn thời ấy nếu gặp chàng thanh niên Gabriel ngoài đường với hàng râu mép, cặp lông mày bừa bộn, đôi dép thầy tu và chiếc áo sơ-mi in bông hoa, có lẽ vì túng thiếu thường xuyên nhiều hơn là do gu ăn mặc của chàng là thế, sẽ thương xót lắc đầu gọi đấy là một trường hợp tuyệt vọng. Sau khi thi đỗ tú tài, Gabriel phải nghe lời bố ghi tên vào đại học luật để được ở lại Bogotá, đây cũng là khoảng thời gian truyện ngắn đầu tiên của Gabriel xuất hiện trên phụ chương văn học của El Espectador tờ báo chọn lọc nhất thời đó, cậu cũng khởi sự tập viết xã luận dù để trám cột vào giờ chót, lại chẳng có quyền ký tên. Và chỉ kiếm được ba đồng pesos mỗi ngày, thời chủ báo đặt chàng viết những bài xã luận, không tính theo số trang giấy mà theo chiều dài bao nhiêu thước tấc.

Ngày mùng 9 tháng tư 1948 quần chúng Bogotá nổi loạn khi một nhà chính trị cấp tiến của đảng tự do được dân tin yêu bị ám sát. Chỉ trong một ngày Bogotá cháy hoang khói lửa, đường phố đầy tử thi. Biến cố này buộc Gabriel phải bỏ thủ đô để về Carthagène des Indes một nơi còn ngoài vòng hỗn loạn, một thành phố hấp dẫn mà « gió biển cùng tiếng tàu hụ vào sáng sớm đã giảm bớt sự huyên náo của những tiếng kèn đồng Caraïbes và sự khiêu khích của mấy cô gái nhảy không mặc quần lót, váy họ hất cao tới thắt lưng cùng gió. Thỉnh thoảng, một nàng chim não nùng từng quen biết bố tôi giữ lại ngủ với cô ta và chia sẻ cho chút tình còn sót lúc rạng đông ». Nhờ bạn bè và chủ biên các báo đã chú ý đến các truyện ngắn của mình giúp đỡ, mời cộng tác, Gabriel bấy giờ vừa hơn hai mươi thực sự đi vào con đường báo chí, mặc dù cậu không ngớt xác định « Tôi đã biết rằng làm báo không phải thiên hướng của mình. Tôi muốn là một nhà văn không giống các nhà văn khác ».

Từ Carthagène rồi di chuyển đến Barranquilla, cùng một số bạn bè rành nghề sáng lập tuần báo Crónica, Gabriel giữ chức chủ bút rất hào hứng dù đồng lương không đủ sống cho chính mình. Chẳng bao lâu, chính phủ Bogotá trong tay đảng bảo thủ đã dùng quân đội khống chế các cuộc nổi dậy của quần chúng, tình trạng giết chóc không an ninh lan tràn khắp nơi, đến cả ngôi làng của gia đình Gabriel. Cuối cùng bố mẹ cậu quyết định đem con cái tản cư, gọi Gabriel bỏ nhóm nhà báo, cùng về Carthagène sinh sống, làm việc trong văn phòng điều tra dân số để kiếm tiền giúp gia đình càng ngày càng túng thiếu. Lợi dụng hoàn cảnh, Gabriel thú tội với bố đã thi trượt năm thứ ba đại học luật và xin bỏ học để vừa đi làm công sở vừa tiếp tục viết báo và hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tiên : « Về sống ở Carthagène là đúng lúc và hữu ích sau kinh nghiệm làm tờ Crónica, và đã cho tôi một không gian thuận lợi để tiếp tục viết cuốn Lá trong gió lốc, nhất là nhờ cơn sốt sáng tạo ngự trị trong căn nhà, nơi tất cả những điều huyễn hoặc hình như đều là khả thể. Tôi chỉ cần kể lại một buổi ăn trưa, bố con tôi đang bàn cãi về những khó khăn của các nhà văn khi họ muốn viết hồi ký mà không nhớ ra được gì. Cuqui [em trai Gabriel] lúc ấy chưa được 6 tuổi, đã lôi ra từ đó một kết luận giản dị bậc thầy : Thế thì, nó nói, ông nhà văn chỉ việc viết hồi ký trước tiên, khi ông ta còn nhớ được tất cả ».

Tuy nhiên, « do vận hạn, không sự tài tình, chịu đựng, không cả tình yêu thương nào đủ để đi đến cùng sự nghèo khốn ». Văn phòng kiểm tra dân số đóng cửa, tiền công làm báo không đủ, Gabriel quyết định trở lại Barranquilla kiếm sống đồng thời « học viết với niềm say mê và nỗi tham vọng điên dại trở thành một nhà văn không giống các nhà văn khác ». Bản Lá trong gió lốc đầu tiên tạm xong, Gabriel đưa cho nhóm bạn văn sĩ của mình đọc. Một người bạn thân đã cho những nhận xét mà cậu thấy thật đúng, « trừ một đoạn mà anh ta thấy gượng gạo, dù tôi đã giải thích đó là một quãng đời niên thiếu thật sự của tôi. Anh ta phá lên cười nói : - Ngay cả sự thật cũng nhầm lẫn một khi cách viết quá dở ». Loay hoay giữa viết báo, viết văn và kiếm sống bằng cách đi bán sách tại tư gia nhưng không đưa đến đâu, cuối cùng Gabriel quyết định quay lại thủ đô Bogotá mà cậu đã bỏ đi từ ngày bạo động khủng khiếp 9 tháng 4.

Lần này, tờ El Espectador, từng được đài BBC thời ấy đánh giá là nhật báo hay nhất thế giới, dành ngay cho Gabriel một chỗ trang trọng trên trang xã luận, và chàng được mời vào ban chủ biên. Buổi đó chưa có trường báo chí, muốn học nghề là phải hít thở mùi mực để học tại chỗ, El Espectador đã cung cấp những bực thầy giỏi giang, sẵn sàng nhất nhưng cũng khó khăn nhất. Cũng tại đây, Gabriel đã thực hiện được mơ ước viết phóng sự, nhờ chủ biên tờ báo « không tha thứ cho tôi khi thấy tôi để mất mình trong mấy trò nhào lộn trữ tình, trong khi xứ sở thiếu phóng sự viên xung kích. Và tôi, lại tưởng rằng phóng sự là cách tốt nhất để tường thuật đời sống hằng ngày ». Bắt đầu từ đây, những phóng sự tôn trọng sự thật và kinh nghiệm nghề nghiệp, chẳng hạn « đừng bao giờ quay mắt khỏi gương mặt kẻ mình phỏng vấn, nó có thể bày tỏ nhiều thứ hơn giọng nói, và đôi khi ngay cả điều ngược lại », đã đưa tên tuổi Gabriel lên hàng đầu. Nhưng chính nguyên tắc chỉ thuật sự thật, hoàn toàn sự thật, không phải được bất cứ ai chấp nhận đó đã gây ra những đe doạ nguy hiểm cho mạng sống của Gabriel. Nên cuối cùng, nhân tờ báo cần đặc phái viên cho hội nghị của bốn cường quốc thế giới tại Thụy Sĩ, Gabriel đã bằng lòng lên đường rời xứ sở. Hồi ký về ba mươi năm đầu của nhà văn Gabriel García Márquez chấm dứt bằng năm dòng thư ông viết trên máy bay đi Genève, cho một thiếu phụ mặc áo xanh, tóc cắt như cánh chim yến, ngồi trước cửa nhà từ bảy giờ sáng mà không biết rằng mình ăn mặc đẹp từ sáng sớm như thế cho ai. Thư ấy cốt để giao hẹn với nàng « Nếu trong vòng một tháng, không nhận được hồi âm cho lá thư này, tôi sẽ ở lại Âu Châu mãi mãi ». Gabriel nào ngờ khi ông đặt dấu chấm cuối cùng cho tập hồi ký cũng là ngày ấy và giờ ấy người mẹ lạ lùng của ông nhắm mắt lìa đời.

Khi gấp lại cuốn sách, tôi biết không phải dòng đời với thân thế và các đoạn đường đưa tác giả đến với sự nghiệp văn chương là những điều quyến rũ tôi nhất mặc dù chúng là cái sườn của tập hồi ký. Chúng cần thiết như rễ và thân cây, nhưng cành và lá với hình thái cùng màu sắc mới là yếu tố tạo nên vẻ đẹp đặc biệt của cây này so với cây khác. Chính những câu chuyện tác giả kể về mình, về những con người, sự kiện xảy ra quanh đời sống ông, và cách ông nhìn cũng như suy tư về chúng mới là những điểm, mà theo tôi, tạo nên hấp lực của Sống để kể chuyện, cũng không thể bỏ qua cái tài kể chuyện hiếm có của Gabriel Márquez. Trong hồi ký, ta nghe được giọng ông miên man, nhưng có lẽ cũng vì thế ở một đôi chỗ nhiều sự việc đa tạp được ông đưa ra cùng một lúc khiến người đọc hơi khó theo dõi. Ngay từ nhỏ G.M. vốn đã là người thích nói, thích thuật chuyện, bản tính hẳn thừa hưởng từ bà ngoại, người đàn bà dễ tin và nhạy cảm đã sáng tạo ra cả một thế giới thần diệu. Thế giới này mê hoặc và có ảnh hưởng sâu xa không những trên các tác phẩm của G.M. trước đây mà ngay cả bây giờ, người đọc cũng bắt gặp chút gì huyễn ảo trong không gian tập tự truyện này, đem đến cho nó sức quyến rũ khác lạ. Thú vị nhờ sự huyền ảo cảm thấy ấy trong hồi ký chính là hiện thực và ngược lại, những sự kiện thực tế lại mang tính chất hoang đường, qua ngòi bút cuả ông.

Từ những câu chuyện với nội dung, nhân vật, hình ảnh khác thường, tưởng chỉ có trong tiểu thuyết, từ những gặp gỡ lạ lùng và một gia đình mà mỗi thành viên đều kỳ cục như gia đình ông, tác giả đã đưa người đọc vào một thế giới hết sức sống động. Độc giả hoà nhập vào với những cảnh đời, tâm trạng đang được người viết thuật lại một cách không chiếm ngự, trong những lời lẽ bình dị nhưng chẳng thiếu ngạc nhiên lí thú và những chấm phá duyên dáng, như đoạn đối thoại giữa Gabriel và mẹ :

« - Mẹ hãy nói với cha là con chỉ muốn mỗi một điều trong đời : là văn sĩ, và con sẽ là thế.

- Cha con không phản đối việc con là cái gì con muốn, nhưng ông ấy ao ước con học hành xong xuôi.

Mẹ nói, không nhìn tôi, giả đò chú tâm đến đời sống bên ngoài cửa sổ hơn là tới cuộc bàn luận.

Tôi nói với bà :

- Thôi khỏi nhọc lòng nài nỉ, mẹ thừa biết là con không nhượng bộ đâu.

Thế là, bà nhìn thẳng vào mắt tôi, ngẫm nghĩ và hỏi :

- Mà tại sao con tin rằng mẹ biết ?

- Tại vì mẹ và con, chúng mình giống hệt nhau. »

Gabriel Márquez làm chủ ngòi bút thật tài tình như Alvaro Mutis, tiểu thuyết gia người Colombie và bạn thân của G.M. đã nhận xét về tự truyện này : « Một trong những khía cạnh đã để dấu ấn sâu đậm trong tôi là thấy làm sao một nhà văn đã suy ngẫm và thông thạo thuật kể chuyện như García Marquez lại chẳng bao giờ can thiệp vào diễn tiến của cuộc đời mình đang kể. Đứa nhỏ anh giới thiệu với chúng ta sống đời sống của nó và khám phá ra thế giới như một đứa trẻ. Cũng y như thế với một thiếu niên, một sinh viên và một nhà văn trên đường đi tới định mệnh của mình »[2].

Bình dị trong cách kể, nhưng chẳng phải vì thế tác giả không chú trọng đến văn phong. Câu chữ ông dùng để tả cảnh tả tình mênh mang và đây đó phù hợp với những không gian ươm chất mông mị phù ảo. Đây là đêm u hoài, già cả trong thành phố cổ Carthagène : « Thực ra, việc không có xe hơi trong thành phố là điều bắt buộc vì chúng ngược chiều với thực tế lịch sử : xe hơi chẳng thể chạy trong những con đường nhỏ hẹp khúc khuỷu mà về đêm, những con ngựa gầy còm gõ vó sắt trên mặt đá. Khi trời nóng hốt, các cửa sổ lan can mở ra khí mát khu vườn, và con đường chứa đầy vọng âm ma quái của những chuyện trò thầm kín nhất. Thiu thiu mơ màng, mấy ông già nghe bước chân lén lút đi về vang trên đường, họ ngóng tai nhưng không buồn mở mắt, đến khi biết đó là ai liền chán nản lầm bầm : « A, thằng José Antonio đi tới nhà Chabela ». Trên thực tế, điều duy nhất làm cho những kẻ mất ngủ ấy bực bội là những cú đô-mi-nô khô khan đập xuống bàn cờ đã vang động khắp phố phường thành luỹ. »

Qua quá trình tự tìm hiểu hay học từ những bạn bè thành danh, G.M. đã đề cập đến vấn đề văn phong, cách viết và cách dựng truyện của một nhà văn trong hồi ký. Độc giả quan tâm đến các khía cạnh này sẽ tìm thấy ở đây nhiều suy nghĩ và nhận xét đặc biệt : « Tôi đã nhanh chóng biết rằng kể cho người khác những câu chuyện song song với chuyện mình đang viết – tuy nhiên không để lộ ra điểm thiết yếu của nó – là một phần quan trọng của ý tưởng và văn pháp trong tiểu thuyết ». Ngoài chuyện viết, dĩ nhiên tác giả cũng nói đến những bài học, những kinh nghiệm sâu xa ông thu lượm được qua việc đọc sách, để áp dụng cho nghề viết văn. Ông hào hứng nhắc đến bao nhiêu tác phẩm từ Ngàn lẻ một đêm ở thời thơ ấu, đến khám phá Ulysse của Joyce, Mrs Dalloway của Virginia Woolf, rồi Kafka… mỗi thể loại là một thí dụ, một so sánh, một rút tỉa kinh nghiệm để thấy sự thành công trong nghề viết không thể hoàn toàn dựa trên thiên khiếu.

Cuốn tự truyện đã đẩy tôi vào một Colombie vừa thơ mộng hoang dã vừa tàn bạo và mê hoặc, nơi mà thiên nhiên, quyền lực, rượu chè, đàn bà và những lối sống khi gần như thánh thiện lúc hoang đàng đã cuộn lại với nhau trong một cơn điên loạn. Và trong đó, thế giới Márquez lung linh sắc thái : đối thoại sống động và giai thoại ý nhị tươi vui không ngừng xen kẽ với những sự kiện trầm trọng ẩn uất, như bao tia nắng bừng lên để thắp sáng chút gì cho không gian u tối của những con người sống trong khung cảnh một đất nước tụt hậu, nghèo nàn, vừa thoát khỏi thống trị của Tây Ban Nha là rơi vào nội chiến. Tác giả cung cấp cho người đọc một số lượng thông tin rất lớn về hoàn cảnh xã hội, tinh thần người dân Colombie ở phần đầu thế kỷ 20 cũng như tình hình chính trị của quê hương ông. G.M. thật tài tình khi dù đã là những trang cuối, ông còn gây được xúc động mãnh liệt và làm cho người đọc bị căng thẳng bằng hai đoạn viết về thảm cảnh cựu chiến binh sau chiến tranh Đại Hàn, và về mấy ngàn đứa trẻ thôn quê bị quân lính rứt lìa khỏi cha mẹ đem bỏ vào viện mồ côi. Sự phân ly tàn nhẫn này đau xót thay là một phương kế của chính quyền trong chiến lược diệt trừ quân du kích : « Chỉ dựa trên các quan sát hậu cần quân sự đơn giản, hơn ba ngàn đứa trẻ thuộc mọi lứa tuổi và mọi hoàn cảnh đã bị tách lìa cha mẹ, chúng bị phân tán đi các trại mồ côi trong toàn quốc. Ba mươi đứa không cha hay không mẹ, có cả những trẻ song sinh mới mười ba ngày. Việc này đã được tổ chức trong vòng bí mật tuyệt đối, dưới sự che đậy của phòng kiểm duyệt, cho tới hôm một phái viên của El Espectador điện báo cho chúng tôi về các hướng tìm tin đầu tiên từ Ambalema, hai trăm cây số cách Villarrica (nơi xảy ra sự việc)…Một số đông trẻ nhỏ này được làm lễ đặt tên hành chính ở trại mồ côi, và để có thể phân biệt người ta đặt cho chúng những tên họ địa phương, nhưng chúng rất đông, rất giống nhau và thật nhanh nhẹn đến nỗi trong giờ ra chơi chẳng thể nhận ra đứa nào với đứa nào ; nhất là khi trời quá lạnh bọn nhỏ phải chạy trên các cầu thang và hành lang để sưởi ấm. »

Bằng giọng văn như thế, G.M. đã trải ra cả thời ấu thơ cùng tuổi trẻ của ông, với miên man chân tình, và trong ý nghĩa của dòng chữ giản dị ông viết ở đầu tự truyện : « Cuộc đời không phải là những gì người ta đã sống, mà là điều nhớ được và nhớ về chúng ra sao ».

Mai Ninh

Cuối tháng 11, 2003

Phượng Các
#10 Posted : Saturday, November 27, 2004 3:33:20 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,704
Points: 20,055
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
Mưa Mùa Xa

Mai Ninh


Mùa ấy tôi về phố phường lao đao giữa những cơn mưa đập nứt mái nhà và trận nắng rươm túa nước nôi dưới manh áo. Nhiều năm qua, nhiều lần đi lại, từng mùa trôi nhưng hình ảnh một mùa ấy hình như là điều gì thuần nhất, keo kết thành biểu tượng bất biến trong tôi khi nói đến một chuyến về. Hóa ra bỗng dưng mùa ở đây bao gồm vừa thời gian, không gian, hình ảnh, âm thanh và kỷ niệm tình cảm nhận được cho đi, từ bao thứ ấy.
Không kể ra cứ ngỡ mình quên, chẳng nhắc lại cứ tưởng trí nhớ đã vỡ bung như bong bóng nước rơi xuống sân sau ngôi nhà đỏ ngói tuổi lên năm lên sáu mỗi lần mưa giạt từ tàn cây gòn ngất ngưởng. Mưa Sàigòn độ nhỏ rất rõ mùa, từ tháng tư dương lịch trở đi bầu trời đang chói nắng chợt đùn lên mây xám. Sấm đùng đùng vài tiếng, gió chẳng biết từ đâu nổi lướt qua đọt cây rồi là xuống hất tung mấy tấm áo quần phơi ngang sợi dây kẽm. Chỉ kịp chạy ra giựt vội vào nhà, thế là độp độp trên mái ngói những hạt nước đầu oi bức. Mưa đe dọa mưa cầm chừng mưa nặng nề như thế một đôi tuần cho tới cuối tháng, bấy giờ mới được ào ào tuôn xuống hả hê. Nhớ về thời thơ nhỏ, tôi luôn thấy khuôn sân gạch tàu đỏ sậm nảy tung tăng những bong bóng nước, chúng nhảy nhót trong mắt đứa bé ngồi chồm hổm trên bệ gạch, tay sẵn sàng chiếc thuyền giấy và cây đũa tre làm chèo. Rồi mưa mạnh hơn, làn nước xối xả tuôn đổ chan hoà. Con thuyền ra khơi, cây đũa đẩy đưa khều chống, nhưng trong tích tắc dòng nước đẩy tuột ra xa, con thuyền vụt vào lòng rãnh cuối sân theo cùng những chiếc lá ngâu chưa tới kỳ đã rụng. Mưa giữ chân tuổi thơ bằng trò chơi như thế cho đến ngày, theo đà xây cất của khu phố sầm uất, căn nhà trệt thấp sau vòm cổng bị đập đi và thay thế bằng lừng lững mấy tầng lầu cao với ban công, sân thượng. Không rõ tôi có vui sướng hơn với ngôi nhà to lớn hẳn ra, nhưng vuông sân gạch với lu sành mẹ hứng nước mưa pha trà cùng các hòn gạch đen đủi dùng luộc bánh chưng vào mỗi chiều hai mươi chín Tết thui thủi một góc, cả mái hiên xoè những viên ngói cũ cho con sẻ non trốn mưa, rúc rúc rỉa lông rỉa cánh xong ngơ ngác nhìn trời là hình ảnh chắt chiu của thời tôi thơ ấu.
Rồi tôi, cô bé mười ba bấy giờ biết những chấn động đầu tiên trong đời qua màn mưa phả suốt đêm giới nghiêm, ngập ngụa những tờ truyền đơn ướt nát, những manh biểu ngữ rách bươm và gậy gộc lẫn nhang đèn vung vãi trên vỉa hè sau cuộc biểu tình tuyệt thực rầm rộ trước nhà, loa phóng thanh rền rĩ niệm kinh suốt buổi chiều. Lẫn trong tiếng nước đập rộn rã vào cửa liếp và những chậu kiểng mẹ trồng thay hàng dâm bụt với gốc tầm ruột xanh từng chùm đã đốn đi, thỉnh thoảng rú lên hụ còi xe quân cảnh tuần tiễu chạy rút giữa lòng đường. Trò tôi chơi thuở ấy là những ván cờ tướng với một anh chàng sinh viên trong phong trào Phật Giáo chống chính quyền. Mẹ cho anh trốn trong nhà một thời gian. Ngoài những khi lén đi đâu rồi về, anh đọc, anh dịch và viết những tờ truyền đơn mà tôi chỉ đọc qua lời lẽ đã vô cùng ngưỡng mộ. Giữa các lúc đó anh dạy tôi đánh cờ. Bàn cờ nhiều lần bất thần bị lùa hất vào gầm giường cùng lúc với thân thể gầy gò của anh, khi chợt vọng lên từ dưới lầu hay trên sân thượng một tiếng động khác thường. Nhưng một buổi chiều giữa cơn mưa rạt xém con đường, tôi đi học về đến cửa thì anh cũng ở đó bước ra, người khoác chiếc áo mưa rộng, mũ chụp giấu gần hết khuôn mặt. Thấy tôi, anh sững lại, giơ vội một bàn tay nhưng rồi hạ xuống nói rất nhanhấ: " Bàn cờ vẫn dưới gầm giường, em giữ lấy " . Sau này tôi mới biết bà cô tôi dọa mẹ, " Cho nó trốn mà lính xét nhà bắt được, hốt cả con bé đi thì cứ gọi là hết đời " . Tối đó tôi ghi một dấu hỏi thật to chồng lên những nét vẽ xước sổ dọc và ngắt quãng, tượng trưng một mảnh mưa vào cuốn sổ bìa xanh gọi là nhật ký.
Sau những năm tháng đó, chiến tranh hiện rõ hơn nhưng vẫn còn mênh mênh mơ hồ, vướng vất chất lãng mạn của các cô học trò thành thị mười sáu mười bảy bắt đầu ngấm ngầm thương vay nhỏ lệ vì " đêm nghe tiếng đại bác " (*), những cô bé mới bước vào tình yêu bằng hai bàn " tay nhỏ che trời rét " (*), dù rét Sàigòn chỉ đủ làm quăn đôi cánh lá. Cho đến bất ngờ súng đêm mùng một Tết giữa mùa khô nổ ran thay tiếng pháo. Tôi ríu người sau cửa sổ căn phòng lầu thượng, những tấm áo quan vội vã chạy ra từ khu xóm đông đúc bùng lửa khói, xế bên kia con đường rộng, lúp thúp mấy kẻ bươn bả theo sau. Bất chợt vang rân tiếng hô hoán, một chiếc quan tài ghép ván thô sơ bị chặn lại đập tung, rơi xuống trên vỉa hè những khẩu súng trường đen đúa, dăm đàn bà và mấy đứa nhỏ đang lếch thếch kêu khóc cùng ba thanh niên khiêng áo quan co chân chạy nhưng không thoát, liền bị thúc súng còng tay, đẩy lên xe nhà binh đã lổn nhổn đứng ngồi một số người mặt mũi áo quần lạ lẫm hỗn độn. Ðoàn người khăn gói chạy loạn tiếp tục lướt qua những căn nhà mấy tầng mặt tiền bê tông đá ốp mà các thanh cửa sắt cao đã kéo kín thành trì. Chiến tranh không ngờ bất thần xuất hiện như đám mây đen sũng giông và gió chụp phủ cả thành phố từ bấy lâu vốn tượng trưng sự bình an cuối cùng của tôi vừa qua năm mười bảy.
Hơn hai mươi năm sau, tôi đặt chân trở lại nền đất quê hương dưới những vạt mưa Ngâu tháng bảy oi nồng. Hành khách khệ nệ tay xách nách mang nặng nề, đi bộ từ chân máy bay vào dãy nhà có bảng ghi nơi đến. Nước nhỏ ròng trên những đầu người và cả trên bím tóc vàng hoe của mấy con búp bê mặc váy voan xòe xanh đỏ thoáng chốc đã ướt mem cụp vào thảm hại. Mấy người đàn bà đi làm hay đi học ở Ðông Âu vừa than trời vừa che chắn bao nhiêu thứ hàng và đồ chơi đem về bán hoặc cho con cháu. Người đàn ông luống tuổi ngồi cạnh trên máy bay đã chẳng ngừng chép miệng khi qua cửa sổ thoáng thấy màu đỏ sông Hồng ngập ngụa. Dù nghĩ rằng mình dư bình tĩnh, ruột tôi vẫn thắt, ngực nặng nề. Câu hát " Trời hành cơn lụt mỗi năm " (**) từng nghe có phải là đây ? Lạy trời, đừng giông bão, đừng gây nạn lụt chặn con đường trở lại làng quê xưa. Tôi, con bé sinh ra ở Sàigòn, gọi hộp quẹt thay bao diêm, hột dịch thay trứng vịt, rời quê hương bố mẹ trên chuyến tàu cuối cùng vào Nam mùa di cư ấy ở bến Hải Phòng. Ông bác giàu có, con đàn cháu đống nhưng vẫn thích đùa ghẹo đứa cháu gái Nam kỳ " đi lấy cho bác cái hộp...hộp ghoẹt để châm thuốc lào " , ở mỗi lần nó từ Sàigòn theo mẹ về quê. Sau 54, tôi thường hỏi mẹ bao giờ mình về thăm bác, dù trí nhớ chỉ còn lờ mờ dáng người chắp tay sau lưng, đủng đỉnh hiền từ, ông chính là hình ảnh xứ Bắc của tôi cùng với hương hoa bưởi toả lan suốt khu vườn. Cũng khu vườn ấy tôi trở về bây giờ thiếu phụ, buổi chiều xanh xanh ánh lá cây ngọc lan tắm mướt sau trận mưa hôm qua. Ngừng lại ở mảnh sân đất nện đọng bùn và loáng thoáng vài viên gạch dấu tích một nền xưa, tôi lặng nhìn gian giữa ngôi nhà người con trai trưởng của bác. Tôi cố mở hết những cánh cửa của từng khoang trí nhớ mà mình vẫn tự hào về khả năng ghi giữ thật lạ lùng các hình ảnh tuổi lên bốn lên ba. Nhưng moi móc bao nhiêu thì tấm phản gỗ nhợt nhạt màu, kê trước cái tủ thờ phủ vải điều cùng những bức ảnh im lìm trên đó, với đôi liễn bạc thếch sổ dọc hai cột nhà cũng không lóe lên sự quen thuộc nào. Nhìn mái ngói chênh chao khấp khểnh tôi chẳng tìm đâu ra dáng mềm mại mà đĩnh đạc của ngôi nhà chính trong khu vườn năm xưa. Căn nhà ấy trong ký ức lớn nhường bao sao bây giờ u tối, bé thấp gần như sắp bò trên mặt đất. Mắt trẻ nhỏ thấy gì cũng to tát hay cái nhìn thiếu phụ hẹp dần theo năm tháng ? Người con của bác nay đã tuổi ông ngày nào nhưng gầy rọm vẫn đứng sau lưng thinh lặng, hình như lúc này hiểu được câu hỏi trong tôi, anh cất tiếng :
" Ðây là nhà anh chị cô ạ, ngôi nhà cô về ngày bé không còn của gia đình mình từ khi bố anh bị đấu tố. "
Hai tiếng ấy cuối cùng đã bật ra trên môi anh, run run như lời mẹ mỗi lần nói tới là tức tưởi xót đau : Bác Chánh bị trói gô ở sân đình, con Ngoan xắn quần xỉa xói :
" Thằng kia, mày có biết tao là ai không ? "
" Dạ thưa chị Ngoan tôi biết, chị là đứa bé sơ sinh người ta bỏ rơi trước cổng nhà, tôi đem về nhận làm con, nuôi chị đến ngày nay " .
Tôi còn đang xúc động, có tiếng chào nhẹ nhàng, một người đàn ông trung niên trông già dặn dắt xe đạp vào sân, mắt nhìn tôi mở lớn, môi nhếch cười. Bỡ ngỡ không nhận ra nhưng tôi đoán ngay chẳng thể là ai khác hơn thằng cháu Q của tôi mấy mươi năm trước. Trong phút giây hình ảnh ba người : tôi, Q thằng cháu nội cưng của ông bác cùng bốn tuổi ngày ấy và chị Ngoan hiện ra trên con đường vào làng này, dưới cơn mưa. Hai đứa bé rủ rê nhau đi đến nhà một người bác họ phải băng qua cánh đồng, nhưng Q vốn sợ bò. Tôi đoan chắc với Q là mình không ngán và bò ở giữa ruộng xa đường đi, lại nữa hai đứa cùng nắm tay nhau thì chẳng còn gì phải sợ. Ðâu ngờ nửa chừng trời đổ mưa, chúng tôi co núp dưới một túp lều chưa được bao lâu bỗng có tiếng bò rống bư bư sau vách rạ. Thế là hai đứa ba chân bốn cẳng vùng chạy. Nhưng thằng bé Q chừng quá hãi, chỉ vài thước rồi không nhấc nổi chân, đứng ì dưới làn nước tuôn đẫm trong khi tôi vẫn cắm đầu băng băng, mặc cho Q gào đằng sau " Bớ cái con cô N, mày bỏ ông ". Bất ngờ một bàn tay to chụp lấy gáy tôi nhấc lên, cùng giọng quen thuộc chị Ngoan ken két " Này, chạy đi đâu con ranh ". Sau đó tôi có dãy dụa thế mấy cũng không thoát khỏi, chị Ngoan kéo lết tôi đi và bế thằng Q đặt vào một bên thúng, chị ta ở chợ về. Mẹ thuật lại, khi vất đụych tôi ướt mèm như chuột trên thềm cửa trước mặt bác, chị lớn giọng kể tội, bác bật cười " Nó con gái bắt nó che chắn thằng con trai là thế nào, Tây nó cười cho " . Dù từ đấy tôi không ưa chị Ngoan, nhưng tôi vẫn không thể tưởng tượng được đe doạ nông nỗi nào khiến chị nhẫn tâm đứng giữa sân đình giật giọng tố khổ một người như bác. Có phải vì người trong làng không ai chịu đứng ra kết án ông là địa chủ tàn ác nên chị bị chỉ định hi sinh làm mồi cho một phong trào đấu tranh giai cấp ? Nghe nói sau đó chị Ngoan bỏ làng đi biệt, rồi mấy năm qua một hôm người ta thấy trên núm đất chôn bác cắm một bó hoa dại. Có người ở sát bên nói rằng đêm ấy vẳng nghe tiếng khóc đàn bà khấn khứa : Con cắt cỏ ngậm vành, xin thầy tha tội. Giờ, chỉ còn lại đây tôi và Q đã hai con, nụ cười mỉm của Q khiến tôi yên lòng về trí nhớ của mình. Hoá ra những kỷ niệm thời nhỏ xíu ấy Q không quên như tôi, những thứ chỉ nói ra rằng mình nhớ đã thấy lạ lùng. Hỏi Q có còn sợ bò, Q đáp nhẹ " Cháu chỉ sợ người ".
Sau bữa cơm với gia đình anh chị, tôi trở về Hà Nội. Trời lại hội cơn vần vũ. Những làng mạc đi qua trũng hơn trong màn nước. Tôi nhận ra mưa càng làm lộ liễu sự khốn khó và mưa ngoài cửa xe cũng đang từ từ dội trôi lớp màng ảo tưởng để tôi thấy rằng cuộc hành hương không những chẳng bốc bay thêm được náo nức chờ đợi ở một chuyến về, không khơi mở được bao uẩn khúc vẫn tụ đọng trong tiềm thức mà trút sâu, thắt thêm vào tâm trí những bận lòng, lấn cấn hơn những câu hỏi bấy lâu vẫn đặt ra cho chính mình. Khi từ giã, da bàn tay sạm khô của Q rạm xước lòng tay tôi. Ðứng lại với nhau ở cái nơi gọi là đầu làng chỉ có giặng cây sắn xoè lá xanh tươi, Q bỗng nói " Bố cháu can đảm lắm mới sống sót được những năm tháng đó và nuôi anh em cháu học hành xong xuôi. Cô học bao năm bên ấy, có nghĩ trở về làm được gì không ? ". Xúc cảm nhất thời bùng dậy, tôi đã mạnh miệng trả lời, tôi sẽ không bỏ Q lại bên bờ ruộng như mấy chục năm về trước. Thế mà, không bao nhiêu cây số, về tới Hà Nội vừa lọt vào thành phố lù mù, người đi người lại loi ngoi bì bõm, tôi đã thấy chắc khó lòng đi đến đầu kia con đường Láng nước dâng trên đầu gối, để chỉ giản dị làm nốt một thăm viếng người thân.
Tôi lên con tàu ở trạm ga Huế khi trời vừa tạm ngưng một đám mưa chạy rạt từ mạn núi ra biển. Mưa giỡn chơi như thế hơi kỳ lạ giữa hạ đang bức nồng trên mặt nước sông Hương. Tấm vé tàu đổ đèo Hải Vân xuống Ðà Nẵng chỉ nhỉnh hơn giá ba tô bún bò đầu con đường ở trọ. Anh chị em bạn bè thân sơ kẻ đạp xe, người xình xịch trên honda cũ mèm kèm hai bên chiếc xích lô đổ tôi xuống cửa nhà ga chộn rộn những người gánh gồng bị túi. Chị bạn Huế mệ vốn quen đi đứng chậm rãi khoan thai thoáng hoảng hốt kéo tay áo, e rằng tôi không chịu đựng nổi năm giờ di chuyển giữa người vật ngổn ngang. Một người đi, năm bảy người đưa tôi lên toa tàu có quạt, đặc biệt dành cho người du lịch không hàng hoá. Tôi hơi ngượng khi đám bạn bè tiễn mình ồn ào leo cả lên xe. Lách trước mặt một ông cụ già ngoài bìa, tôi ngồi xuống cạnh cửa sổ. Băng ghế gỗ cứng trải chiếc chiếu cói vừa vặn. Chưa yên chỗ thì chị bạn vừa xuống tàu đã vội leo lên đưa cho chai nước lọc và chiếc ly giấy ọp ẹp. Những người còn lại tụ dưới cửa sổ dặn dò, đi đường cẩn thận, đừng ăn uống lung tung mà đau bụng, tới nơi cứ đợi ở ga đừng leo xe ôm...Tiếng còi hụ chuyển bánh, một anh còn vội vã mua cho chiếc quạt giấy, biết đâu nhỡ quạt máy hư. Tôi quẹt nhẹ hai giọt nước mấp cuối mi khi bóng họ đã nhỏ dần, mờ đi trong làn mưa lại phun toả không gian ngoài con tàu cũ kỹ.
Hai mươi cây số một giờ, xe lửa bò giữa làng mạc và những mảnh đất nửa đồi nửa ruộng. Trời mưa nhưng không khí hầm bức, và đúng như tiên đoán của anh bạn, chiếc quạt máy gần băng ghế tôi ngồi chao quay vài phút sau khi con tàu khởi hành rồi dừng lại. Tôi mỏi mệt nhắm mắt thiếp đi. Khi chợt thức dậy, một thoáng gió nhẹ qua tai, ông cụ ngồi bên cầm chiếc quạt giấy phẩy cho tôi cử chỉ nhẹ nhàng. Tôi nói cám ơn và ông hỏi " Cháu từ ngoài vô ? ". Chẳng rõ tại sao tôi lúng túng, không muốn nói với ông cụ tôi là Việt kiều, cái âm kiều tôi không thích cả từ ngày bé, chẳng hạn Hoa kiều. Giản dị là thế chăng? Hay cũng vì trực nhớ lời dặn dò của chị bạn Huế " Thời buổi ni cẩn thận, đi đường một mình đừng để người ta chú ý, biết mình ngoại quốc về " . May thay tôi chưa biết phải nói dối hay không thì ông cụ đã tiếp " Lần đầu đi chơi, bạn bè lo lắng nhiều hỉ ". Tôi vui mừng đáp một tiếng Vâng gọn bâng, cũng hơi ngượng ngùng thấy ý chừng ông cụ tưởng tôi là con cháu nhà giàu từ Hà Nội vào Nam du lịch. Nhìn qua cửa định hỏi tàu đã đi đến đâu thì chẳng ngờ khung cảnh ấy hiện ra trước mắt, ngoài tưởng tượng. Hai bên đường rầy ngổn ngang những ngôi mộ chen chúc nằm trong, ở ngoài, chính giữa, bên trái bên phải những nóc nhà sơ sài tường vách. Trời bốn năm giờ chiều u uẩn đã đành nhưng chưa bao giờ tôi thấy mưa phũ phàng tàn nhẫn dội trên trần thế như vầy, dù cơn mưa này nào xối xả bằng bao nhiêu trận đã từng đổ xuống.
Những tia nước làm tan hoang mái lá, làm xiêu lệch mái tôn, làm mảnh vách lở nghiêng muốn sụp nhào lên ụ đất có cây thánh giá cắm leo heo. Mắt tôi chạy theo dòng tóc cô gái đang tắm gội, cô mặc nguyên quần áo ướt sát rạt, ngửa mặt hứng nước toé tươm từ một đòn tre vắt ngang hai nấm mồ cùng châu vào cái cô đang ngồi tựa. Xa hơn, hai ba người đàn ông trần lưng đập đá dưới một miếng tôn. Mấy chị đàn bà hì hục đào mương, các dòng nước chạy lòng vòng quẩn quanh mộ kia sang mộ nọ. Xe lửa trườn đi, dứt tôi từ tụm nhà với mồ này đổ sang tụm khác. Nhấp nhô ngôi mộ xây xi măng mang tấm bia sát cạnh cửa căn nhà, đâm thẳng góc vào một mộ khác chỉ là nấm đất vun vun nằm dọc theo hàng hiên. Sự hỗn độn cho tôi cảm tưởng xác người đã đổ xuống nằm đâu người ta an táng ngay vị trí ấy, không dời đi, không sắp xếp lại. Và bao nhiêu căn nhà như túp lều này, mọc trên chính bãi chôn người cũng thể hiện những cuộc đời tả tơi, không thể tơ hào một xếp đặt nào cho đời sống. Bao câu hỏi tại sao, nào bực bội băn khoăn nào bất mãn từ lúc đặt chân về trên xứ sở này còn nên chăng, còn là quyền của tôi đâu khi tôi không phải là người đang sống lẫn lộn giữa tha ma và trần thế.
Tôi mở mắt thao láo, ngóng về phía trước, ngoái lại đằng sau. Ông cụ bên cạnh lặng thinh từ bấy lâu bất chợt cất tiếng " Ðoạn ni coi như tiếp nối " Ðại lộ kinh hoàng " trước kia đó cháu ". Tôi điếng lặng. Tất cả xác người nằm trong mồ mả vụt phá toang đất phủ nhất loạt vùng đứng dậy, những thân thể thương tích máu me nghiêng ngả, ồn ào tán loạn hoà nhập vào đám người đang đập đá đào mương, vào những đứa trẻ bụng ỏng vào các cô gái tóc dài rũ rượi. Họ dìu nhau bước đi, chạy với theo con tàu. Họ họp thành đoàn đi đòi quyền sống. Trùng trùng một dãy Trường Sơn xương sống nước Việt, vẫn thiên thu lừng lững đằng sau để ngó xuống dưới chân bao nhiêu máu thịt rơi đổ trên cát bỏng ruộng cằn. Những linh hồn chết vướng vất bơ vơ, những linh hồn sống dật dờ xoay sở.
Sàigòn ngày đầu tiên, cảm giác trống hoang dù phố phường ồ ạt người và xe gắn máy túa ra sau trận mưa mau của buổi chiều tháng tám. Tôi đi ngang con đường cũ chõ mắt tìm ngôi nhà thơ thiếu mẹ đã bán đi, những cánh cửa đã đổi màu xanh nhưng chiếc lan can ngày xưa tôi đứng trên nhìn xuống đợi gánh chè khuya xuất hiện đầu con ngõ vẫn đấy, song song dọc dọc mấy thanh sắt đan nhau. Những sợi mưa từng óng ánh xuyên qua đèn đường rồi rớt trên chiếc áo tơi bà cụ già mà giọng rao chè quen thuộc ngân nga ngọt lịm, chẳng biết đã bao năm. Cả con phố xưa nghe nói không còn mấy người ở lại. Năm tôi mười tám, họ đến tiễn con bé sắp đi học bên Tây. Ngay cả cô gái bán ba đường Tự Do thuê một phòng trong căn nhà năm tầng gần cận, tuy chẳng quen biết gì nhưng nghe ai nói nên thoáng gặp tôi ở lề đường cũng nắm cánh tay lắc lắc, chúc mừng " đi Tây rồi ở lại bên í cho nó sướng em ạ, chứ như chị thế này...cả đời cóc dám nhìn ai ". Nhưng nghe đâu, cuối tháng tư 75 cô được ông bồ Mỹ cắp lên máy bay trước cả mọi người và vài năm sau cô đeo vàng trở lại khu phố, cô ghé thăm mỗi nhà xem ai mất ai còn ai đi ai ở và rộng lượng giúp đỡ người này kẻ nọ. Con cháu tôi khoe cô đẹp như tiên cô nói cười rổn rảng, không quên hỏi thăm con bé du học ngày nào có về VN và làm được gì không ?
Tôi, con bé đã về mà chẳng biết nên làm gì để được, đứng trú mưa trước công viên Lê văn Tám. Giọt nước chảy ròng mài miệt đan thành tấm màn lung linh biến ảo, những cái thấy thực tại nhập nhoà quá khứ. Các thân sao già thẳng tắp hai bên con đường dẫn hút vào sâu nghĩa trang Mạc Ðĩnh Chi ẩn kín, đang vút bay lên trời nhường chỗ cho những thân non còn thấp, cây mới được trồng nên khu đất khơi khơi trống trải lạ lùng. Băng đá rải rác cùng cầu tuột trò chơi trẻ em màu sắc vuông tròn chồng chéo lên bia mộ trước kia nhiều chiều tôi vào đấy ôn bài thi, lá đã thả bóng lấp loáng trên các phiến đá hoa cương hay vân thạch. Những ngôi mồ giàu sang thời ấy nghỉ ngơi ngay trung tâm thành phố, lắng yên ngăn nắp trong cây cỏ dù mưa hay nắng, không ngửa nghiêng lận đận như mả và người trên chặng đường tàu tôi mới đi qua. Gương mặt trên các tấm bia trong nghĩa trang Mạc Ðĩnh Chi dẫu già trẻ, Việt hay Tây, với tôi đều an tĩnh. Tôi ngồi giữa họ không sợ hãi, cùng mảnh giấy nguệch ngoạc các công thức, các hàm số phương trình, tôi ngoáy cong cong mái tóc và vành môi chúm chím một cô gái nằm dưới chỗ tôi ngồi đã mười bảy năm. Trên tấm ảnh, cô không cười nhưng cặp mắt lá dăm này quá giống chị Bé ở trong nhà mấy năm về trước.
Chị Bé mười sáu, má chị thường đem gạo từ Sóc Trăng lên Sàigòn đong cho mẹ tôi. Một hôm bà ta bảo tên phường trưởng hiếu sắc chặn đường chị Bé doạ nạt sẽ tố cáo ba chị theo Mặt Trận, nên bà lo ngại xin cho chị lên Sàigòn lánh nạn. Tên là thế nhưng chị không bé, không thấp lùn mà người vừa cao vừa nẩy nở, hai bàn tay con nhà nông thô cứng. Mỗi khi giúp tôi cọ lưng chị xát thật mạnh tưởng tróc da. Ít nhất chị Bé dội nước ba lần một ngày, chị nói ở quê lội sông suốt buổi. Về thành phố chẳng còn sông chị đâm thèm tắm mưa. Bẻ quặt đầu máng xối ra khỏi vại nước, cũng mặc nguyên quần áo như cô gái bên đường xe hỏa xuyên bãi tha ma, chị Bé ưỡn người dưới dòng nước ồ ạt. Ðôi lúc áng chừng thấy vướng víu, chị lột tấm áo bà ba, rồi đảo mắt một vòng quanh khoảng sân, yên bụng chẳng có ai chị tụt luôn chiếc quần, cả tấm thân uốn căng như con cá cong tươi lóng lánh. Hình ảnh ấy làm cho tôi thèm thuồng, chắc chắn chị Bé đang tràn đầy khoái cảm. Với chị, lần đầu tiên tôi được mở mắt chiêm ngưỡng trọn vẹn một thân thể đàn bà, được thấy cái đẹp đầy đặn, sống thật, căng phồng hồn nhiên chứ không phải là những thứ để nhìn lén, tưởng tượng qua lời nói, hình ảnh mập mờ ẩn dụ. Khi nhác thấy tôi chị cười tít cặp mắt lá dăm, vẫy ra tắm cùng. Mới đầu tôi ngần ngại, mẹ bảo rằng tắm mưa rất độc. Thật lạ, bà có thể đi phát truyền đơn, giấu " phần tử phản động " trong nhà, và sau này bà cũng không cực lực phản đối khi tôi, đứa con gái độc nhất, lăm le đòi học nghề phóng viên chiến trường, nhưng lại kiêng kỵ bao nhiêu thứ tỉ mủn liên quan đến phụ nữ, nào là quần áo con gái đàn bà không phơi qua đêm, nào ngày kinh nguyệt không được bước qua tủ thờ hay chõ rượu nếp vừa ủ. Sau này chẳng còn sân gạch tàu, tôi trèo lên sân thượng buổi tối trời mưa. Không có ai ngoài tôi và cây cối mẹ trồng xum xuê như vuông vườn nhỏ. Mọi thứ đều ướt đẫm, đều rũ lả liêu trai. Mặt đất cao hơn và mây thấp xuống, nhưng tôi ở giữa đất trời sung sướng đón những hạt nước tưới tuôn, cảm giác chỉ con người mình sáng long lanh chùm bong bóng nước, thênh thang toàn diện.
Suốt thời gian ngoài xứ sở không còn thấy cảnh tắm mưa, thế mà về đến nơi thì nó đã bầy ra đấy. Vùng ngoại ô An Phú Ðông mất điện lập loè lửa nến, những thân cây gì không biết tên ngả nghiêng hai bên con đường đá trộn với bùn. Dãy nhà viền lộ lợp tôn thấp chũm, chẳng xoè nổi một khúc hiên cho tôi đứng trú, phải co ro dưới tấm bạt của ông già sửa xe đạp. Gió phần phật cơ hồ có thể giật đứt rời những mảnh vải rách của chiếc áo ông ta. Con đường mới đó xe đạp xe ba bánh xích lô người đi người lại chợt trống hẳn, chỉ còn mưa xiên bay tới tấp và mấy đứa bé ở trần vừa tắm vừa chạy đuổi nhau trên mặt lộ. Tấm bạt của ông già vụt thốc lên với gió, kéo sập hai đòn gỗ chống. Thế là trong giây phút nước quật xối người tôi, cùng khắp. Nước tuôn dọc theo những sợi tóc, áo quần đẫm dính vào người. Ông sửa xe lủi đi đâu chẳng biết, hộp keo vá bánh và cái bơm đặt trên mấy hòn gạch, những thứ còn lại lăn lóc trên mặt bùn. Mấy căn nhà và quán lá chung quanh cũng đang vật vã, đám người lao động cùng xe đạp quang gánh đứng lại bên lề ròng ròng nhễ nhãi. Mưa đổ chưa đầy nửa giờ, cả vùng đất trước mắt cơ hồ thụt lún xuống với con người. Thêm một lần, mưa phơi bày rã rượi nhếch nhác. Bao năm thèm tắm lại một trận mưa chẳng được, bây giờ bất ngờ tôi đứng đây giữa trời, trên mảnh đất ngoại ô sũng lầy, bên cạnh những con người nặng nề u uẩn âu lo. Trong không gian nhem nhẻm tối này chắc gì ai nhìn ra ai, và dù áo quần còn dính trên da, tôi lại thấy mình thông thống. Nhưng tôi lấy gì đây che đậyấ? Bao nhiêu con người đang quay lại, mưa lột trần người đàn bà Việt kiều trước mắt họ. Nhưng họ có thấy tôi, con bé năm nào tắm mưa phơi phới, thoả thuê tự do, giờ đây là một thiếu phụ lạc lõng co cụm ngột ngạt. Thông thống mà ngột ngạt. Giữa đám cành lá ôm ấp đồng loã trên sân thượng bất thần mọc những con mắt xoáy. Chúng xoáy vào trống lốc, sục bới vào đặc nghẽn. Cũng vẫn thân thể đẫm ướt ấy đã trở về, nhưng cái phần trần truồng bày ra không phải là hình hài thân xác, nó là những căn nhà, những bức tường trong tâm linh từng được loay hoay đắp bồi xây cất bằng tri thức và ước mơ. Nước cứ thế phũ phàng đập, nhà và tường như cát lở, tuôn tuột từ đầu xuống chân, hòa nhập vào muôn thứ lá cây đất đá rác rưởi đang ùa theo dòng ngập lụt lênh láng, như con thuyền giấy thời bé con cuộn vào cống rãnh.
Tật hay liên tưởng thường lôi tôi đi rất xa, đang ở một nơi tôi bay vụt bao ngàn cây số sang chốn khác. Vì thế tôi từng cảm câu nhạc " Nghe mưa nơi này lại nhớ mưa xa " của anh Sơn đến thẫm lòng. Một chiều leo xe qua vùng núi Pyrénées trời chập choạng tôi đã sợ, tôi vốn sợ khoảnh khắc hoàng hôn nhất của một ngày, nó có thể choáng lên cái đẹp hào quang của mặt trời đỏ rực nhưng vẫn nhuốm phủ một nỗi gì bấp bênh, chia lìa, âm khí. Vậy mà lúc ấy thêm mưa, mưa chẳng dồn dập như người ta thường nói mưa miền núi, một màn khin khít bụi nước li ti. Tôi lại bất chợt bay đi, rớt xuống, ngồi chênh vênh trên chiếc ghế con dưới mái hiên một quán cà-phê Hà Nội. Chiều mùa Giáng Sinh đã lách tách rỉ rả cơn mưa phùn. Cậu sinh viên tên T đến tìm tôi ở khách sạn với cô bạn cùng lớp, tôi vừa có một buổi nói chuyện khoa học với các sinh viên ngành Vật Lý tại đại học hôm qua. Trước lúc bước vào giảng đường, tôi đã đứng lại ở bìa hành lang quất gió, ngó xuống khuôn viên đại học, mắt bỗng ngợp những tà áo dài trắng sáng rưng sân trường Gia Long tôi cũ. Xao xuyến hơn bao giờ, hơn tất cả các lần thuyết trình trong hội thảo đông người, trước mặt sẽ không phải là đồng nghiệp mà những em sinh viên cũng trẻ như tôi ngày nào. Trên đất nước mình, tôi sẽ trực diện với chính tôi của bao nhiêu năm trước. Khi rời bục gỗ tôi bứt rứt bâng khuâng, cảm giác vừa qua một tương phùng ngậm ngùi lẫn ngỡ ngàng xa lạ. Không, không thể quay ngược thời gian. Và càng đặt câu hỏi tôi càng thấy mình trĩu nặng trong bầu trời ẩm ướt.
Cũng may, chiều nay T và cô bạn đã đến đây, mời " cô "đi uống cà-phê, chúng tôi trò chuyện thân tình về đời sống. Khi chia tay, đứng trên vỉa hè nhìn họ chùm áo tơi đạp xe song song rẽ sang con đường cuối phố, tôi chợt hỏi những điều mình đã giảng hôm qua, nào định luật siêu dẫn, nào phản vật chất, nào lỗ đen và vượt thời gian...đem lại được gì cho họ ? Tất cả đều xa vời, không thực tế, chẳng dính dáng gì tới việc chất than củi vào lò nung gạch cậu ta phải vội về giúp bố, tới việc gò lưng đánh máy tài liệu mỗi đêm để kiếm tiền của cô sinh viên bờ vai vốn mỏng. Nhưng chẳng ngờ, gần một năm sau, tôi nhận được email của T. " Em đã tốt nghiệp, đáng lẽ với hoàn cảnh gia đình em phải đi tìm việc nhưng em muốn tiếp tục làm luận án, những đề tài nghiên cứu cô nói hồi nào thật thích. Cô nghĩ sao ? ". Trong phút giây tôi ngẩn người, lấn cấn, với thực tế đời sống bên nhà tôi biết khuyên T thế nào cho hợp tình hợp cảnh. Nhưng lòng lại vui vui ngẫm nghĩ : hoá ra, chẳng phải việc làm nào cũng vô nghĩa. Nhớ đến khuôn mặt lanh lảu, giọng nói rõ không e dè, các câu hỏi tìm hiểu chính xác của T, tự dưng loé lên niềm hi vọng : biết đâu đang khởi đầu một cái gì sẽ khác. Tôi viết cho T những suy nghĩ của mình. Nhiều ngày qua, im hơi lặng tiếng, ngỡ T đã theo hướng đi phù hợp với hoàn cảnh nhất, tôi chỉ mong dù là con đường nào em cũng đi được tới đích. Thế nhưng, một email khác : " Em đã quyết định theo ngành nghiên cứu nhưng chưa biết nên chọn Vật lý ứng dụng hay Vật lý cơ bản. Cô cho em ý kiến ". T lại làm tôi thêm ngạc nhiên, sao trong đời sống ấy em còn có thể phân vân như thế được ? Tôi tức thời bảo T, con đường ứng dụng mới đưa đến cơm áo, T nên thực tế hơn, tuy tôi nhớ ai đó từng nói người khoa học mơ mộng lãng mạn nhất, và dẫu rằng vũ trụ được xây trên những điều cơ bản. Xã hội, văn hóa và con người cũng thế, tôi từng đi tìm điều đó ở mỗi chuyến về.
Viết đến đây nhìn ra ngoài trời, con trăng vừa tròn hai bữa trước đã lên sớm, chênh chếch trên mái nhà hàng xóm cách một vườn bên. Gió đang ngắt đi những cánh lá cuối mùa, chao chao mãi mới rơi chạm vào mặt đất rồi lại bị gió bốc bay. Lá rụng về cội, ngày tôi đi du học mẹ nhắc nhở thế. Hôm tôi trở lại ngồi bên mẹ dăm ngày trước khi bà mất, đã lẫn lắm rồi nhưng vừa nói " Con mới về " thì bà hỏi " Bao giờ con đi ? ". Giọng mẹ quá yếu nhưng bình thản, không vương vấn muốn giữ chân tôi tựa bao lần trước, thể như vốn sẽ là vậy. Trời lúc này không mưa nhưng chạnh thấy những manh lá rơi, lại nhớ. Xứ này bốn mùa thay hoa đổi lá, thiên nhiên chuyển biến ngoạn mục với muôn sắc thái, mà sao lòng mình không cất nổi những mưa xa.

Mai Ninh
(giữa tháng 12. 2002)

(*) Truyện và thơ Nhã Ca.
(**) Lời nhạc Phạm Ðình Chương.
Phượng Các
#11 Posted : Saturday, November 27, 2004 8:20:23 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,704
Points: 20,055
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
Mưa Đá Âm Dương

Mai Ninh



Ngư ơi, mưa đục xoá trời trắng bao nhiêu biển
làm sao em tìm ra được cửa nguồn cuối ngọn cho anh?



Phượng đứng chết rũ trên mặt cát cuốn xoáy. Nước dâng lên ào ạt rồi rút đi tức khắc thành luồng chảy xiết. Mưa như chưa bao giờ mưa thế, như biển sắp cạn khô nên trời đất nổi cơn cứu độ. Mưa táp tơi bời cùng gió. Phượng dang hai cánh tay, chiếc poncho ròng nước phần phật tung bay. Cánh vẫy thành dơi, dơi hoang từ núi khuất chỉ xuất hiện giữa ban ngày khi mặt trời bị dìm chết trong mưa ủng xám. Phượng mở miệng đón những hạt nước rớt từ trên không, nhỏ dòng từ đầu mũi và cuối chùm tóc vắt qua môi. Nước có vị mặn chát của sự rã rời và của những ruộng muối trải dài trên con đường nàng đã đi qua. Hai cánh dơi chao đi trong ngọn gió bỗng chuyển chiều, vật xoài Phượng úp mặt vào lòng cát.

Phượng nằm như thế đã lâu. Mưa nhẹ dần, luồng cát không còn cuồn cuộn mà nhịp nhàng chuyển động, quấn quít. Phượng bỏ rơi mình lâng lâng trong cảm giác rạt rào bất chợt tuôn trào từ bụng, thốn lên co cứng hai đầu ngực. Nàng cọ nửa mặt vào những hạt cát li ti xoay tròn một sắc hồng kỳ diệu, rướn người ủ ấp từng đợt nước dồn rung động dưới thân. Nàng chẳng còn thấy gì ngoài đôi mắt Ngư nửa cười nửa thách thức. Ngư dội lên nàng những dùi chuông chắc nịch dịu dàng. Thế rồi Ngư bỗng hất nàng xuống, đột ngột bỏ đi, cơ thể cuộn dài như thân cá, duỗi theo dòng nước rút ra biển nhanh không ngờ. Mưa tạnh lúc nào Phượng chẳng hay. Hai cánh dơi nằm chết trên mặt cát óng ánh dưới sắc cầu vòng lừng lững góc trời. Phượng hoảng hốt thu cánh, nhỏm dậy nhìn về phiá màu xanh mênh mông đang hiện rõ dần. Thoáng một bóng xám bạc lao thẳng vào ngọn sóng dâng cao.

"Chim hay cá hở Ngư?"

"Anh đấy, loài cá bị giam cầm trong biển kín, chim mãi là em, hãy đứng dậy, chắp cánh bay đi, can đảm tìm ra hộ anh cuối dòng sông ấy."



Tấm bản đồ nhiều nếp gấp đã mòn trải trên chiếc bàn nhỏ. Hai góc cong lên phập phồng với làn gió lọt vào phòng. Phượng đẩy cửa ra ngoài hành lang, những lát gỗ dưới chân kèn cựa. Đêm xuống, ngoài xa vài ánh đèn tàu lênh đênh. Thấp thoáng những đụn cát nhỏ nhô lên như bộ ngực dậy thì. Phượng đứng dựa lan can, hai bàn tay luồn vào trong áo, chà xát da thịt mình tìm hơi nóng. Nhớ mênh mang thuở trước Ngư hay cười :

"Tay em lạnh máu cá, còn anh ấm như lông vũ."

Phượng liếc cặp mắt đuôi dài âu yếm:

"Nhưng mắt anh băng giá, sao lặng đờ như cá chết trên sạp chợ chiều?"

Ngư đáp giọng buồn, xác định :

"Bao giờ em sờ tay lên hòn đá âm dương khoanh vòng bên trắng bên đen ở cửa sông ấy là em giải thoát, gỡ thả anh về bơi lội trong thế giới của sự sống."

Chẳng bao lâu sau, Ngư đã bỏ nàng im lặng ra đi, đến một vùng đất ngút ngàn, địa đầu trái đất. Ở nơi ấy, biên giới giữa ngày và đêm tràn trải trên bao tháng trời ròng rã. Tám tháng một năm không có mặt trời, vạn vật chìm trong ánh sáng khắc khoải. Chỉ tưởng tượng vùng đất phủ toàn rêu cỏ xanh xao và những mảng băng chìm nổi, Phượng đã gào lên :

"Tình yêu hay Đày đọa?"

Và tiếng Ngư vọng về u uất từ bóng tối bắc cực :

"Đá âm dương sẽ trả lời, em đừng hỏi nữa."

Dù không hình dung ra được tảng đá trong định mệnh của Ngư, lời gọi kêu tha thiết này đẩy Phượng vào cuộc hành trình đi tìm cửa nguồn khởi từ đêm ấy. Có lúc nàng bơi, có lúc nàng xoãi chân dọc theo các bờ biển, đến những nơi trên bản đồ có lằn vẽ dòng sông. Phượng từng đứng trước nhiều eo biển chết lặng như mặt hồ, không thấy gì ở đó ngoài nỗi câm nín bức nghẹn. Càng về phiá nam càng nhiều những ruộng muối xám. Mắt nàng hốc khô vì gió, thân thể và đôi chân dài xơ rã, da nứt rờn rợn xác muối, nhưng vẫn cố trườn đi như con trăn hối hả muốn về rừng.



Trên bãi biển đêm, cô gái lắc đầu xổ tung mái tóc, cả tấm thân không ngừng uốn lượn theo điệu trống và tiếng vỗ tay của đám thanh niên thiếu nữ ngồi quanh đống củi. Màu tóc rưng sáng từng đợt lửa bùng cháy. Phượng chưa từng thấy một đôi mắt nào vừa thơ ngây lại man dại đến thế. Cô gái còn trẻ lắm, nhưng hai bầu ngực đầy căng như chỉ chực bứt đứt sợi dây vải cột mảnh áo bó sát thân, cũn cỡn trên cái váy xoè nhiều màu, để lộ lõm xoáy tròn xoe giữa bụng. Một chàng thanh niên mặc áo trắng rộng đứng dậy bỏ thêm củi vào đống lửa, cô bé chụp ngay lấy hất hàm ra dấu, lôi chàng ta lượn theo vòng váy sặc sỡ.

Bên ánh lửa bừng bừng bãi tối, lau sậy đứng im trong đêm thiếu gió. Sau cơn mưa động, sóng bây giờ không còn ồn ào nổi loạn. Đàn chim chẳng sợ bóng đêm sà xuống đùa bỡn với bọt nước. Khoảng giữa nền trời trong vắt, mây cuộn thành đọn, chập chùng ở đường mặt biển. Thoắt chốc, trước mắt Phượng, chúng bắt đầu dập dềnh chuyển động, biến thành bầy gấu trắng bắc cực gù lưng phục phịch, dắt díu nhau trên những mảng băng xanh lạnh mướt. Ngư mặc áo choàng da thú vác gậy dài đằng sau, rù rù trong họng một âm thanh ngầu đục. Mũ lông che gần hết khuôn mặt, chỉ có cặp mắt loé ra ánh sáng lạ lùng khiến Phượng rùng người. Chiếc gậy trên vai Ngư vụt hoá thành lưỡi giáo. Ngư vung cánh tay chém phập xuống mảng nước đá dầy, những mảnh băng bắn tung lấp lánh, từ bầu trời đêm xanh đâm thẳng vào mặt biển. Bầy chim trúng băng nhọn oác kêu thất thanh, bay tứ tán. Phượng nhắm nghiền mắt trong nỗi sợ hãi không cùng.

Khi Phượng tỉnh dậy, đêm tràn trề. Đám thanh niên quanh vòng lửa đã biến mất, chỉ còn lại vài khúc củi cháy dở lụi tàn trong mớ tro than. Ngoài khơi, đèn tàu xa tắp hầu như lặn chìm trong biển, sóng đập nhẹ lao xao với gió vừa nổi. Chợt tiếng cười khanh khách cùng chân người ùa tới sau lưng. Chưa kịp ngoái nhìn, một bóng trắng ôm níu một thân thể nâu đầy, trần truồng đổ xuống từ đồi cát. Phượng nhận ra ngay mái tóc bồng của cô gái du mục rớt tận đường rãnh đáy lưng. Tới gần mép nước họ dừng lại, đột ngột nhập hẳn vào nhau. Cô bé co cặp đùi nở nang quấn cứng dưới vành mông của chàng trai chỉ còn manh áo trắng mỏng manh, đang dạng chân cử động dồn dập, vừa cố giữ thăng bằng trên mặt cát nhão mềm cuộn trong luồng nước rút. Quỳ trên cát khô, Phượng mở bưng mắt, hai gò ngực nhức căng. Hơi thở gấp rút của gã trai và tiếng đứa con gái lúc gầm gừ như thú mắc bẫy, lúc ré lên như chim săn thấy mồi rung đứt những sợi thần kinh run rẩy của Phượng. Nàng đang tan thành chất lỏng, như ngọn nến chảy trong mồi lửa. Phượng ngước nhìn trời cất tiếng gào bất lực. Không, Ngư, đừng phủ dụ, em kiệt lực rồi. Tận cùng tình yêu của anh chỉ là sự chạy trốn. Nhưng điều gì ? Em muốn, ngay bây giờ, được đốt cháy, bung mê với hai thân trăn quằn quại trước mắt kia. Em không đi tìm, không đợi chờ nữa. Không thể là vật tế thần cho tảng đá âm dương.

Ngoài rìa nước, đứa con gái bất thần hét lên một tiếng gọn khô, mê dại, xé toang mảnh vải cuối cùng còn thõng trên vai gã thanh niên. Cả hai tấm thân quắp vào, xô nhau đổ xuống. Thấp thoáng manh áo lênh đênh trôi dần ra khơi. Cánh chim hoang xoãi thênh thang trên mặt sóng.

Bỗng nhiên Ngư lại hiện ra lừng lững giữa nền trời băng xanh lạnh giá, gương mặt vương vất buồn dưới ánh trăng yếu nhạt. Chàng cúi xuống, đưa tay vớt chiếc áo ướt ròng, rũ liệt như hình hài của Phượng, cất giọng trầm, năn nỉ :

"Đừng bỏ cuộc, đứng lên đi, em sắp đến nơi rồi."



Chẳng thể ngờ một ngày, trong cuộc hành trình hoá giải cho Ngư, Phượng đặt chân đến chốn này, nơi mà tiếp giáp với mặt biển là sa mạc cát. Và sau hằng hà sa số nhữõng lằn kỷ hà vẽ trên cát vàng cháy lại có thể xuất hiện vùng xanh xám mông lung của khu rừng đầy thông và những vòm cây lá bạc. Nhưng khu rừng không dầy như Phượng tưởng. Sau nó, một bên là đồi đá, bên kia là con đường ẩn giữa nhiều loại cây cong cành dan díu. Những con chim đang nhẩn nhơ trong không gian im kín, nghe hơi lạ xục bay lên, trốn lủi vào cây cối. Thế rồi cuối con đường dẫn đến mảnh sân vắng, phơi trần một ngôi nhà nhỏ có nhiều khung cửa kính. Mái lợp bằng đá sáng phản chiếu, hắt lên hàng dương cao vút sau nhà, từng vệt nắng. Bên cửa ra vào chặn một khối đá to độ nửa thân người, lồi lõm nhiều dấu biển. Gió nổi từ ngoài khơi, hút qua cánh rừng, rồi xoáy tròn trên đầu các ngọn cây. Những cửa kính trần và sự vắng lặng quanh ngôi nhà vừa thu hút lẫn đe dọa. Phượng mon theo bờ cây đi vòng ra sân sau. Đây đó những hòn đá nằm ngồi lớn nhỏ, xám và trắng ngổn ngang. Dưới chân tường đầy các lon sơn nhiều màu chồng chất, lẫn lộn với dao, đục, đá mài, cọ vẽ.

Người đàn ông ấy xuất hiện lúc nào Phượng chẳng hay. Nàng suýt thốt tiếng kêu khi chợt thấy thân hình cao, cân đối trong bộ quần áo đen lạ lùng giữa nắng. Ông ta không có vẻ ngạc nhiên về sự có mặt củûa cô gái, ánh mắt hết sức thản nhiên. Phượng ấp úng, nàng chỉ kịp ngượng nghịu chớp nhanh đôi mắt, thì người đàn ông ấy đã quay lưng, để rớt lại một câu ngắn gọn: - Phiá sau này không có lối ra ! Bấy giờ Phượng mới nhận ra dáng đi khập khễnh, tay phải cầm nạng, và một ống quần rỗng phất nhẹ.

Khuôn mặt còn nét trẻ trung nhưng vẻ câm lặng vừa cuốn hút lại lạnh lùng ám ảnh Phượng suốt cả buổi chiều nàng trở về bãi biển. Có lẽ vì ánh nhìn, dáng dấp như đã gặp, đã quen. Không, một điều gì lạ thường, ray rứt hơn thế nữa. Khi trời đã tối, Phượng dò dẫm trở lại con đường nhỏ. Căn nhà thoang thoáng ánh đèn sau rặng cây âm u. Bất giác nàng nhìn xuống, quần áo mượt mà hơn bộ bụi đường lúc ban trưa. Phượng bước ngập ngừng về phiá những khung kính vừa bật sáng. Ông ta đã đứng giữa căn phòng đó như cố ý đợi chờ, ống điếu cài trên miệng, vành môi dưới trễ xuống cùng vài sợi tóc rơi trên trán. Cánh cửa mở ra, và cô gái bước vào, mắt mở to thích thú trước muôn màu sắc tưng bừng dưới những ngọn đèn chiếu sáng. Những viên đá đủ cỡø được đẽo mài hình dạng khác biệt, và được sơn vẽ lên nhiều hình ảnh, bày trên kệ và mấy tủ kính. Cô say mê nhìn, tựa ngày còn bé theo mẹ vào cửa hiệu đồ chơi lộng lẫy. Người đàn ông không nói câu gì, im lặng thả khói nơi ghế sofa trắng giữa phòng. Cho đến khi cô gái quay người, bật tiếng kêu sững sờ trước một hòn đá chỉ to hơn nắm tay, một nửa sơn trắng thô ngăn chia với nửa kia đen bóng bằng một đường cong sắc nét. Nó được bày riêng biệt, kê trên cái ná bắn chim màu gỗ cũ quàng sợi dây cao su khô quăn tít. Mắt không rời hòn đá, cô gái lắp bắp :

"Sao lại thế, sao âm dương lại ở nơi này!"

Người đàn ông chẳng biết nghe thấy gì không nhưng đã đứng dậy, lên tiếng:

"Nó chẳng lạ gì!"

Giọng buông thõng, hơi gằn khiến cô giật mình. Ông ta bước tới, gõ đầu ống điếu vào cái gạt tàn gần đấy, chiếu vào mắt cô cái nhìn không chớp, nghi ngờ, rồi chợt hỏi: "Có hòn đá tự nhiên đã y như thế, cô muốn xem không?" Cô gái như còn trong mơ, lẳng lặng gật đầu.



Đồi đá không cao lắm nhưng đủ thấy biển xanh vây kín bởi dãy núi lô nhô và bãi cát ngoằn những lằn ngựa vằn vàng đắm. Người đàn ông sáng nay vẫn hà tiện lời nói, chống nạng và leo rất chậm nhưng không gặp khó khăn gì, như thể đã lên xuống vô cùng quen thuộc. Ông ta dừng lại ở một gốc cây, cành vươn khỏi bờ đá. Bầu trời nhiều mây, không khí nặng. Dưới kia, lũ chim hồng đang gục mỏ đào bới trong một đầm cát cạn. Tiếng nước vỗ dồn dập thật gần. Người đàn ông vẫn im lìm từ lúc lên đến đây, nhưng gương mặt và nhất là ánh mắt đột nhiên trầm trọng. Dù biết nàng chờ đợi, ôâng ta chỉ khẽ nhếch miệng rồi đến dựa vào thân cây cheo leo, quơ nạng chỉ xuống dưới sâu. Phượng bước lại gần, hồi hộp. Gió bắt đầu thổi mạnh. Mây đen chốc đã chiếm lĩnh bầu trời dọa nạt. Nhưng từ đó trông xuống, vẫn thấy rõ một dòng nước bạc chảy xiết giữa sườn đá dốc bên này và triền đất đầy cây rậm rạp bên kia. Vừa cúi nhìn, nàng hét lên thảng thốt, chới với níu lấy cành cây chĩa trong không. Con sông không rôäng nhưng nước dội vào một khối đá trắng đen kỳ dị, đổ nằm giữa lòng, ồ ập và giận dữ.

Cùng một lúc, người đàn ông đứng sau lưng cũng bật ra một âm thanh thô đặc. Rồi tức khắc dang vòng tay vũ lực ôm choàng cô gái, chiếc nạng hất ngang, cả hai ngã lăn trên nền đá. Trời tối sầm và gió cuồng lên. Chim chóc sợ hãi đập cánh hoảng loạn. Mưa đột nhiên quật xuống những hạt nước tròn vo đông cứng. Người con gái bị dằn trên mặt đất sững sờ nhận ra trong cặp mắt gã đàn ông đang miệt mài và tuyệt vọng dốc sinh lực trên cô, cũng một ánh nhìn dãy chết của loài cá mắc cạn. Giận dữ và đau đớn, cô vừa vùng lên với tất cả sức lực vừa hét khản:

"Ông là gì của Ngư?"

Người đàn ông bị hất mạnh bất ngờ im lìm một lúc, rồi ngồi dậy, ôm mái tóc đã sũng mưa trong hai bàn tay, giọng đặc sệt:

"Bây giờ nó ở đâu?"

Cũng lúc ấy, ở một đường vĩ tuyến ngút cao, mặt trời vừa loé lên tia sáng đầu tiên sau những tháng dài ẩn nấp. Ngư quỳ giữa một hồ băng trong suốt. Trong đến nỗi vừa cúi nhìn đã hiện ra rõ ràng khuôn mặt hõm sâu với vành râu tua tủa của bao nhiêu ngày tháng tự lưu đày. Chàng đưa bàn tay mang găng da thú vuốt lên từng trũng mắt. Mặt băng bỗng lung linh bóng Phượng, những sợi tóc nàng bện vào nhau xơ xác, hai con mắt đuôi dài vẫn đen láy nhưng buốt sâu uẩn ức. Ngư vội vàng cúi xuống kề đôi môi nứt nẻ. Phượng né tránh quay đi, dội tiếng cười rờn rợn :

"Anh đã hài lòng chưa? Chạy trốn cùng đi tìm định mệnh!"

Âm thanh sắc cao, vọt lên đồi núi trong khi Ngư gục xuống trên mặt nước đá đang chảy ra, tan loang hình ảnh nhập nhoà của hai khuôn mặt thanh niên tươi trẻ lẫn lộn vào nhau. Hai gã con trai đùa nghịch đuổi chạy trên đồi đá. Người trẻ hơn cầm ná tìm chim. Thuở xa xưa, vùng biển ấy hoang dại hơn cả bây giờ, chim về từ bốn bể, vui thú trên ngọn đồi đầy ắp những chùm trái đỏ ửng cuối hè. Chàng trai lớn tính dịu dàng, không thích bắn chim, nhưng mỗi mùa về đây nghỉ hạ thường theo em lên đồi ngắm màu biển và cát. Chàng ta hay đứng dựa gốc cây chênh vênh bên sườn đồi, để từ đó thấy cả cửa con sông rạt rào chảy qua lòng đá. Đặc biệt đá ở đây hình dạng lạ lùng, màu sắc biến ảo như thể một cõi tạo riêng tư, kết hợp âm dương dấu kín của trời đất lúc hỗn mang. Thằng em giương ná nhắm con chim đang khoe đuôi xanh óng, bay sà theo hướng người anh mải ngó dòng sông. Sợi cao su căng lên, bật rung dưới sức kéo mạnh, viên đạn đá nhọn hoắt lao đi. Chỉ một giây thôi, một tiếng kêu thất thanh rớt từ trên đồi, rút xuống vực, rồi tắt ngấm. Cùng lúc ấy, con chim may mắn thoát đạn đập cánh hoảng hốt bay vút lên ngọn cây.

Ngư điếng người ngửng theo bóng chim. Lưỡi dao vẫn dùng đục băng săn cá sắc nhọn vung lên cùng tiếng gầm thống thiết. Như mìn nổ từ đáy sâu, mặt băng chấn động nứt tung, lộ một hố trống sâu thẳm, hút trọng thân thể thằng anh như dưới một lực cuốn vô hình cuồng vũ. Hoảng hốt quăng dao, Ngư cuống quít thò tay chụp giữ anh mình, nhưng hắn đã rơi xuống đáy, nằm sấp trong dòng nước, chân sõng sượt trên một tảng đá chặn giữa con sông. Nước sủi ngầu bọt chung quanh, nhưng không che lấp được hình thù khoanh tròn hai nửa trắng đen huyền hoặc. Khi Ngư đứng dậy, mắt chói loà, cuống cuồng níu giữ. Phượng xoã tóc, hai cánh tả tơi đang bay về phiá mặt trời loé sáng.

Ít lâu sau trời lại thật trong. Chim chóc rủ nhau ríu rít trên ngọn đồi có người đàn ông đứng sững nhìn ra biển. Thật ra ông đang ước tính khoảng cách từ nơi đây tới vùng băng hồ giá buốt. Chắc chắn nó không dài bằng thời gian đằng đẵng trôi qua, kể từ buổi ông tỉnh dậy với một ống chân dập nát trên tảng đá. Nó chẳng thể mênh mông hơn cõi vắng lặng của căn nhà khuất sau rừng cây. Cũng không câm nín hơn những hòn đá ông đã đẽo mài sơn phết thay cho từng giờ phút mà nỗi hận đau khi cúi nhìn cái chân cắt cụt chồng chéo với sự quay quắt, lúc hồi tưởng khuôn mặt trẻ dại thân thiết của thằng em. Nếu cô gái ấy không đặt chân đến cửa nguồn này, ông cứ tưởng tất cả sẽ mãi rộng thênh tan tác nhưng đồng thời vây khép như ngày tháng vùi lấp tuổi trẻ nơi đây. Ông cũng như Ngư, tự giam cầm biển kín. Nắng choá mặt nước sáng, gió lùa bung vào đất liền, nhưng người đàn ông ngỡ mình sắp cuốn ra khơi. Cửa biển đang mở ra, mở rộng vô cùng. Bây giờ đến phiên ông khởi sự hành trình đi về phương bắc.

Người đàn ông ấy đã qùy trên mặt đất, hai tay thành khẩn khép lại vạt áo đẫm nước trên khuôn ngực trần của cô gái, xốn xang lời tạ tội về hành động nhất thời trút hận lên cô. Cặp mắt phượng nhìn ông, mở to câm lặng. Sau khi cho biết Ngư đang ở nơi nào, người con gái đã đứng dậy, lững thững xuống đồi. Khi ấy trận mưa đá cũng vừa ngưng, hồng hạc lại họp đàn la đà bình thản nơi cửa con sông.

Đầu năm và ngày nhập xuân 2000
Phượng Các
#12 Posted : Monday, November 29, 2004 7:15:36 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,704
Points: 20,055
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
phỏng vấn mai ninh

lê quỳnh mai


Phát thanh lúc 16 giờ 15 phút ngày 23/12/200,
trong chương trình Văn Học Nghệ Thuật,
Đài Tiếng Nói Việt Nam FM 103.3, Montreal


Nhà văn Mai Ninh du học tại Pháp quốc từ năm 18 tuổi, định cư và làm việc tại vùng Normandie từ hơn 30 năm qua.
Mai Ninh cộng tác với các tạp chí Văn Học (Hải Ngoại), Hợp Lưu, Văn v.v.
Tác phẩm: Hợp Ấm Trong Vùng Sân Khuất. Thời Mới Canada xuất bản năm 2000




- Trong Hợp Lưu số 38 (tháng 12/97, trg 183), tác giả bài viết Nhớ Phùng Quán là Nguyễn Mai. Trong Hợp Lưu số 40 (tháng 5-6/98, trg 181) tác giả bài viết Bão Cát là Nguyễn Mai Ninh. Lý do nào đã làm nhà văn nữ được độc giả và giới sáng tác yêu thích hiện nay thay đổi tên tuổi 3 lần như vậy?

- Nếu giở số Hợp Lưu 36 đã đi truyện ngắn đầu tiên của MN thì chị Quỳnh Mai sẽ thấy là MN đổi tên tuổi còn nhanh hơn nữa: chẳng phải hai bài mang hai tên tác giả khác nhau mà hai tên trên cùng một truyện, Nguyễn Mai trên đầu và Nguyễn Mai Ninh ở cuối.
Điều này phải hỏi chủ biên tờ HL mới biết được vì sao. Thật ra khi viết Ẫm Ướt Những Cơn Mưa MN không để ý đến vấn đề bút hiệu hay tên tuổi gì, đề tên Nguyễn Mai như khi thư từ với một số người quen. Nhưng chắc anh Khánh Trường, chủ biên HL, lúc lay-out quên nên để tên thật. Hình như anh ấy có nhắc MN là trong nước đã có một nhà văn cũng tên Nguyễn Mai rồi.
Sau đó bạn bè bảo NMN dài dòng quá, cứ MN như họ thường gọi cho xong.

- Theo thống kê mới nhất của La Presse Canada 15/11/01. Mười lý do thúc đẩy chúng ta đọc sách:

a) Bồi đắp sự thông minh
b) Tạo ra sự tưởng tượng phong phú
c) Tăng sự hiểu biết
d) Có thể đi du lịch qua đọc sách
e) Cho phép độc giả tự đánh lừa giữa khoảng cách của sự sống và cái chết. Giúp độc giả chấp nhận sự hiện hữu - những ước muốn không thể thực hiện được -
f) Mang lại những điều tốt đẹp nhất, cho độc giả hiểu rằng bản thân con người không phải là một cái máy, mà là một "être vivant".
g) Đời sống đầy những nghịch lý. Đọc và viết xóa bỏ những nghịch lý ấy.
h) Đọc có khuynh hướng dẫn đến viết, là một trong những "sở thích và thú vui" đẹp nhất của con người.
i) Đọc và viết là hành động tự do, không bị ép buộc, là hành động "cho không". Điều "cho không biếu không" này trong đời sống rất khó xảy ra!
j) Từ đọc -> viết -> có thể mang lại cho tác giả một quyền lực (puissance) khi chính mình tạo dựng cốt chuyện và nhân vật.

Trong lời tựa của tác phẩm đầu tay, nhà văn Mai Ninh tuyên bố "Còn viết, hãy cứ viết đi, nếu không người đọc thì giữ đấy, có biến đi đâu. Rồi sẽ một ngày hoặc có thể chỉ khoảnh khắc sau, chỉ cần mình đọc lại mình..." Chị có đồng ý với 10 điểm thống kê trên hay không?


- Nói chung, MN đồng ý với đa số lý do tại sao đọc sách theo thống kê của La Presse Canada nhưng cũng có điểm không.
Người ta đọc sách để bổ túc sự hiểu biết, tìm giải đáp cho những điều mình gặp khúc mắc. Trừ trường hợp giản dị là thú tiêu khiển thì đọc khiến con người ít nhiều phải tư duy, và một khi đã dùng đầu óc hẳn nhiên không là cái máy nữa. Đúng là ta có thể du lịch qua sách vở, nếu còn có thêm óc tưởng tượng phong phú sẽ, chỉ qua những giòng chữ, nắm bắt dễ dàng hơn những hình ảnh, âm thanh, con người, đời sống thuộc về bao nơi chốn, cảnh thổ xa xôi, khác biệt. Đọc sách không những tạo ra sự tưởng tượng mà còn ảnh hưởng đến cách suy ngẫm và phát triển khả năng lý luận, phân tích.
MN đồng ý với lý do là đọc có khuynh hướng dẫn đến viết. Trong lúc đọc thế nào chúng ta cũng bắt gặp những cảnh tượng, những quan điểm mà chúng ta chia sẻ hoặc không đồng y vói tác giả? Từ chia sẻ, con người có thể cảm thấy còn nhiều thứ khác cũng cần được bày tỏ, đưa tới hành động viết. Bất đồng trong cảm nhận cũng có thể thúc đẩy người đọc cầm bút. Ngoài ra như đã nói, một khi đọc tạo thêm tưởng tượng thì nó dễ bắt nguồn cho hứng thú viết. Những nhận xét này cũng đúng cho người viết vì người viết là người cần đọc hơn cả.

Những điểm MN không hoàn toàn đồng ý:

MN không cho là đọc sách bồi đắp thêm sự thông minh, thông minh là một thiên phú, của trời cho như mình nói nôm na, của bẩm sinh. Ngoài lợi ích để tăng sự hiểu biết, đọc sách giúp con người phát triển hay giữ gìn trí nhớ, như một cách tập thể thao vận động bộ não mình vậy.

Viết có thể khơi ra những nghịch lý, còn đọc cho mình cơ hội nhận chân ra điều đó?nhưng cả hai hành động này không chắc gì xoá bỏ được nghịch lý. Hơn nữa, trong đời sống, xoá bỏ chỉ là một điều tương đối.

MN cũng dùng sự tương đối này để nói về quyền lực của tác giả khi tạo dựng cốt truyện và nhân vật. Trước khi bắt đầu dĩ nhiên người viết nghĩ đến điều mình muốn bày tỏ qua cốt truyện và các nhân vật tạo ra. Nhưng lúc thực sự viết sẽ có nhiều vấn đề từ đâu xuất hiện mà tác giả lắm khi chưa nghĩ tới hoặc không ngờ trước. Chúng nảy sinh do tương tác giữa cốt truyện và văn phong, giữa bối cảnh và tâm tính lẫn tâm tình nhân vật, hay từ sự ma sát giữa các nhân vật nữa. Một khi nhân vật đã định hình nghĩa là có bản chất, tiếng nói riêng thì người viết không phải muốn điều khiển thế nào tùy ý. Văn chương cũng có cái lô-gích của nó.

- Ấm nhạc là một nghệ thuật tồn tại theo thời gian, nên thời gian là yếu tố căn bản của âm nhạc. Yếu tố này được phân biệt làm 3 thành tố: nhạc điệu (tempo), nhịp vận (meter) và tiết tấu (rhythm). Trong âm nhạc, hợp âm là một nhóm ba hay nhiều nốt nhạc đồng phát ra. Nhà văn Mai Ninh đã diễn tả được trọn vẹn một hợp âm của chính mình hay chưa? Khi chị viết trong lời bạt "âm thanh lẫn hình ảnh, ý tưởng từ trí tâm cùng trổi dậy, so chạm lựa chọn để tìm ra một nhập trùng kết thành - hợp âm - trên mặt chữ)

- Hợp âm là một kết hợp của một nhóm nhiều nốt, nhiều âm được phát ra cùng một lúc. Sự thành công của một hợp âm trước nhất là sự hài hoà của những âm ấy. Nhưng trong nghệ?thuật, hài hòa này phải tạo ra sức quyến rũ, sự mới lạ mới tồn tại. Chính tồn tại ấy là yếu tố thời gian. Một hợp âm trọn vẹn thì dư âm còn ở lại thật lâu với người nghe ngay cả khi nhạc khí đã ngừng.

Theo MN, viết là một đi tìm hợp âm giữa con chữ và những điều mình muốn viết ra (ý tưởng, âm thanh, hình ảnh, tâm tư.). Niềm vui, thích thú của người viết là lúc đang trên con đường ấy. Khi còn viết là còn trên một con lộ, bởi thế không thể nói đã tìm ra được một hợp âm hoàn tất của chính mình.

- Somerset Maugham đã từng tuyên bố "tiểu thuyết gia nào mà cứ nghĩ rằng mỗi chữ của mình viết ra đều có tính cách thiêng liêng rằng hễ bỏ đi một dấu phết, đổi chỗ một dấu chấm phết thì tác phẩm sẽ hỏng, là nhà ấy điên khùng" (1) . Chị có đồng ý với lời tuyên bố của nhà văn đã từng ghé thăm Saigon hay không?

- Trước hết MN nói thẳng, nếu đọc một tác phẩm nhiều lỗi chính tả, câu văn rườm rà, chấm phết ẩu thì MN bị mất nhiều hứng thú. Người viết không thể xem thường điều ấy, đó cũng là thể hiện sự không xem thường người đọc.

Còn người nào xem mỗi một chữ mình viết ra là thiêng liêng thì theo MN nếu không điên cũng quá cực đoan. Đành rằng trong một áng văn từ ngữ và những chỗ chấm phẩy rất quan trọng, để làm nổi bật, nhấn mạnh một ý tưởng, để làm cho câu văn mạch lạc rõ nghĩa hay đẹp, sắc sảo, trọn vẹn hơn. Tuy quan trọng là vậ?, nhưng không phải suốt bài viết bấ? cứ chữ nào được sử dụng, trong bất cứ câu nào cũng là một cân nhắc, chọn lựa suy nghĩ nát đầu đến nỗi nếu dời đi một dấu phẩy sẽ làm hỏng cả tác phẩm. Chẳng lẽ giá trị của tác phẩm chỉ gom vào ở một chỗ có dấu chấm phết ấy thôi sao? Câu của Somerset Maugham từng khiến MN liên tưởng tới âm nhạc. Khi người nhạc sĩ đàn một bản nhạc nếu tuân theo chính xác từng đơn vị thời gian của mỗi nốt, mỗi dấu lặng như tác giả đã ghi thì những âm thanh ấy sẽ ít nhiều bị đơn điệu, mất đi một phần độ rung cảm, còn đâu cảm nhận và tài năng riêng biệt của người nhạc sĩ. Để diễn tả những dòng nhạc của Lizt, Debussy, Chopin.có lúc người nhạc sĩ cần đánh nhanh hơn để biểu lộ sự dồn dập, thôi thúc, quên đi tempo trong khoảnh khắc, rồi sau đó thư dãn ra, trả lại hơi thở. Điều ấy được nghệ?thuật âm nhạc cho phép, dĩ nhiên với điều kiện là phải bắt lại cho đúng nhịp ở cuối câu. Thí dụ này hẳn không liên quan gì đến lời tuyên bố của Maugham, nhưng để thấy là chính xác lẫn uyển chuyển, cả hai đều cần thiết trong mọi nghệ thuật.

- Tình Sầu của Kawabata Yasunari (tác giả Ngàn Cánh Hạc), kể lại chuyện tình của một văn sĩ nổi tiếng với nữ họa sĩ của trường phái tranh thủy mạc Nhật Bản. Vì sự phản bội "kiss and tell" của người yêu, nữ họa sĩ này đã chuyển hướng tình yêu sống với người học trò trẻ đẹp cùng phái tính. Trong tiểu truyện Mây Một Ngày (2) , Mai Ninh cũng tả chân về sự liên hệ xác thịt của nhân vật Vân và Mây, hoặc trong Ẫm Ướt Những Cơn Mưa (3) với những mẫu tình ngắn ngủi của người đồng phái tính. Chị nghĩ sao về tình yêu này? Khi tả đoạn Mây và Vân, chỉ là do tưởng tượng hay từ kinh nghiệm có thật?! (đoạn văn tả rất "điệu nghệ")

- Trong tập truyện Hợp Ấm Trong Vùng Sân Khuất, nhiều độc giả cho rằng Mây Một Ngày là một truyện ngắn viết về mối tình đồng tính như trong Ẫm Ướt Những Cơn Mưa. MN tôn trọng cảm nhận ấy của người đọc. Nhưng, với MN, chỉ Ẫm Ướt Những Cơn Mưa mới là truyện chủ tâm viết về đề tài này. Mây Một Ngày thì khác, rất khác. Suốt truyện không có một chữ "yêu" trong liên hệ giữa Mây và Vân. Nếu ở trên bề mặt của câu chuyện, cái gọi là tình trong MMN chính là chia sẻ, cho đi, dâng hiến và bù đắp nỗi đau khổ, trống vắng và thất lạc của một cô gái/ thiếu phụ có số phần may mắn dành cho người bạn thời thơ trẻ thân thiết của mình đang quẩn trí, bất lực trước định mệnh cay nghiệt. Còn đi vào trong phần ẩn, người ta đụng chạm cùng một lúc hiện tại và quá khứ, thời thơ thiếu lãng mạn xa xưa và bây giờ thiếu phụ với bức xúc trần lụy đa đoan, cuộc đời trong chiến tranh và sau khi nó chấm dứt, ra đi rồi trở về, người ta cũng thấy một vóc dáng đàn bà son phấn chợt ẩn chợt hiện bên cạnh một ni cô nâu sòng ra vào sân chùa u uẩn, tất cả đều trong cùng một không gian ấy. Thứ không gian hoàn toàn nhập nhoạng của buổi sáng năm giờ, của thành phố cúp điện cuối chiều trời đổ mưa giông, một đứng trưa loang nắng trên ruộng cỏ, một đêm lóng lánh vại nước, nhập nhòe đốm thuốc, hay một khuôn mặt là mảnh vuông thẫm tối mang đốm nâu ở giữa nhòa nhòa. Vậy, Vân là ai và Mây là ai trong vùng không gian ấy? Khi không phân chia, tách biệt được Mây và Vân thì có thể nói đến chuyện đồng phái tính nữa chăng? Cũng từ đó, câu hỏi: những cảnh tả trong truyện là kinh nghiệm thật hay không? đã được trả lời. Vả chăng, MN thiết nghĩ, khi đã cảm cái đẹp của văn chương người ta không quan tâm đến nó phát xuất từ chuyện thực hay là do tưởng tượng nữa.

- Marguerite Duras đoạt giải thưởng Goncourt với tác phẩm L'Amant (Người Tình). Cho đến nay chưa một nhà văn nữ ngoại quốc nào đã thành công qua cách dùng bối cảnh Đông Dương lồng trong chuyện tình của mình để viết thành tác phẩm được xem là best seller của một thời. Cũng trong lời bạt chị viết "Nếu phần lớn các hành động của con người đều do tình yêu dẫn dắt và chi phối, thì viết, với tôi cũng vì lẽ ấy". Mai Ninh có ý định kể lại chuyện tình đẹp nhất của mình hay không?

- Nhìn quanh đời, MN vẫn thấy đa số hành động con người do tình yêu chi phối, nên hiểu tình yêu theo cái nghĩa rộng của nó. Mỗi lần MN ngồi xuống khởi sự một câu chuyện là lúc muốn viết ra những điều mình đang cảm xúc. Xúc động này có thể đến từ thương cảm của chính mình, hay từ tình yêu bắt gặp giữa con người, đời sống, cảnh vật chung quanh. Còn chuyện tình của mình, trong nghĩa tuyệt đối thì người ta chỉ biết được chuyện tình nào đẹp nhất ở giây phút cuối cùng, trước khi khép lại đời sống. Đối với MN, một chuyện tình khi đã gọi là đẹp thì nó đáng quí vô cùng và mình muốn giữ gìn, trân trọng, cho nó một chỗ ẩn náu rất riêng tư. Tuy nhiên, với người viết, một khi viết bằng cảm xúc thì không dễ gì tránh khỏi ảnh hưởng của một số xúc động đến từ tình yêu và cuộc đời của mình. Chúng sẽ lãng đãng trong những gì ta viết ra vì vốn có mặt thường xuyên trong ta rồi. Không nhất thiết phải đúc kết đem ra kể lại, viết thành một truyện. Còn như M. Duras đã thành công với chuyện tình đầu đời của bà, làm được một best-seller thì hay thôi.

- "Nghe từng mẩu chuyện, nhìn từng người bạn một, diện mạo thay đổi đã đành, tôi còn ngạc nhiên biết bao trước những thay đổi về cung cách, về con người. Hình như chẳng phải do thời gian, mà chính là đời sống và cách sống đã làm con người ta thay đổi đến như vậy" (4). Nếu không có thời gian, làm sao có sự tiếp nối về đời sống và cách sống. Mai Ninh có mâu thuẫn với chính mình khi viết như vậy không?

- Không có sự mâu thuẫn trong đoạn văn này. Trong đời người thời gian như một dòng sông đưa thuyền, đưa người trôi đi. Nếu không có những ghềnh đá thì con thuyền sẽ bình lặng trôi từ thượng tới hạ nguồn cũng như con người sẽ bình thản đi qua ngày tháng, từ lúc sinh ra, lớn lên cho tới lúc già cả với cùng bản chất. Thời gian có tác dụng trên thể chất nhưng những thay đổi về tâm tính, cách suy nghĩ là do sự đụng chạm với môi trường, đời sống chung quanh. Những thứ này càng nhiều, càng dầy đặ? hỗn độn bao nhiêu con người phải thay đổi để thích ứng bấy nhiêu. Cứ xem một người sống ở thôn quê giản dị, họ ít thay đổi hơn người thành thị.

- Nhà văn Mai Ninh hình như là rất tin định mệnh và nghiệp báo? Vì chị đã viết "Mày không biết con nít đến tao chữa, toàn là con của họ. Ấy! bọn chính khách chuyên dối gian thánh tướng nên lũ con thường ngọng cả!" (5)

- MN tin vào số mệnh nhưng thấy nghiệp báo thì huyễn hoặc, không kiểm chứng được. Câu viết trong truyện Bão Cát này chỉ là một cách nói của người đời, nói cho có chuyện,vậy thôi.

- Chị đã đến sa mạc Sahara và đã thực sự hưởng trận bão cát nào chưa? (6)

- MN đã chới với ngất ngư trong trận bão cát ở Sahara thời sinh viên, năm 23 tuổi. Thấy mình may mắn có được kinh nghiệm ấy.

- Người ta nói văn là người. Tác phẩm HATVSK là một hòa điệu giữa tình yêu đam mê và sự đau đớn vì tình yêu giữa người và người. Hermann Hess (Nobel 1946) đã viết "Dù bị đau đớn quằn quại, tôi vẫn thiết tha yêu thương trần gian điên dại này" (7). Mai Ninh đã có lần nào cảm thấy thù ghét trần gian điên dại này trong lúc viết về sự đau đớn vì tình yêu giữa người và người không?

- MN không thù ghét trần gian mà chỉ là thương cảm và nỗi buồn. Vẫn thường ngắm nghía trần gian như một quả bóng trong đó chứa đựng đau khổ nhiều hơn hạnh phúc và nó có thể vỡ tung ra bất cứ lúc nào. Nghĩ cho cùng, nếu không thương yêu trần gian thì nỗi đau sẽ bàng bạc chứ không quằn quại. Trong đoạn cuối "Câu chuyện của dòng sông", Siddhartha của Hesse thiền hơn, không phải "thiết tha yêu thương trần gian điện dại" mà "chỉ mỗi điều quan trọng là yêu lấy đời này".

- Nhà văn Mai Ninh thật sự là ai? Khi độc giả đọc được những dòng chữ "Tôi muốn được một lần trả lại cho anh sức nóng đốt cháy của tình cảm, chứ không phải, như anh nghĩ, tự bao giờ, trong tôi chỉ là thuần trí tuệ, một thứ trí tuệ giá băng lạnh lẽo. Đã lỡ làng rồi. Trí tuệ là chỉ biết nhận lấy. Tình cảm là thanh thản cho đi" (8)

- Một người trần gian, mang hệ lụy. Càng đi sâu vào cuộc đời, phần trí tuệ càng nhường chỗ cho tình cảm. Ngay như đang làm việc khoa học bỗng nhảy vào viết cũng là tự vướng thêm ràng buộc mặc dù MN không thích hai chữ này chút nào cả.

- Concerto là một hình thức viết cho dàn nhạc và thường có một nhạc cụ độc tấu như piano hay violon. Chị có nhắc đến - Come back to Sorrento - Concerto 26 Mozart (9) . Mai Ninh có sử dụng piano hay violon không?

- MN học piano hồi còn nhỏ, trước khi học đánh vần. Nhưng một thời gian bệnh nặng lúc khoảng 12 tuổi và một phần do hoàn cảnh đã phải bỏ cả học chữ lẫn học đàn. Sau đó đi du học, không có thời giờ tập đàn cho đúng đắn nữa. Bây giờ chỉ thỉnh thoảng ấn vài nốt cho đỡ nhớ.

- "Sau lần tự tử hụt thứ nhứt... Đó là một chứng từ rõ rệt, là cáo trạng gắt gao về những sự băng hoại mà con người không được phép che đậy, không thể để đào thoát" (10) Hiện nay theo thống kê mới nhất, thanh thiếu niên là thành phần có chỉ số tự tử cao nhất. Nhà văn Mai Ninh nghĩ gì về việc - tự hủy hoại đời sống - của giới trẻ?

- Việc tự hủy đời sống của thanh thiếu niên luôn luôn làm MN rất đau lòng. Tuổi trẻ là một thân cây còn xanh mướt, đầy mầm non, đang chờ đợi để nẩy nở thành cành thành lá, thành sự sống, đẹp đẽ và sinh động biết bao. Không có sự sống vươn lên ấy, thế giới này sẽ tan biến trong u buồn và già cả. Khi một người còn trẻ bị bệnh hay tai nạn chết đi ta đã thấy định mệnh phi lý, nên đứng trước sự tự vẫn của một thanh thiếu niên ta càng đau đớn bàng hoàng. Từ lâu nay các nhà tâm lý, xã hội học rất chú trọng đến hiện tượng này, tìm hiểu những nguyên nhân ngỏ hầu ngăn giảm sự tự vẫn đó. MN nhiều lần trò chuyện với giới trẻ: con MN, bạn bè chúng, với sinh viên của mình thì chúng cùng xác định phần lớn hành động tự vẫn do thất vọng tình cảm, thêm vào đó là thiếu sự thông cảm của gia đình. Nhưng tại sao càng ngày càng tăng, cũng như thời nay tình trạng dépression "khủng hoảng tinh thần" nhiều hơn thời trước? Như vậy rõ ràng là vấn đề thời đại. Đời sống văn minh lôi con người nghiêng về phần vật chất, con người phải chạy theo phương tiện nhiều hơn. Và sự mất thăng bằng trên phương diện nào cũng có thể làm cho chúng ta trở nên mong manh, dễ bị thương tổn.

- Tác phẩm đầu tay HATVSK của Mai Ninh tràn đầy những sóng biển, màu xanh của nước biển, cát biển... Mỗi tác giả đều có một phần đời liên hệ mật thiết với trăng, đá, tuyết... Tại sao chị nhắc đến biển nhiều lần trong hầu hết những truyện ngắn?

- MN sinh ở Saigòn và lớn lên trong thành phố ồn ào chật hẹp ấy. Bản tính thích du lịch, mơ tưởng tới những phương trời xa. Trong thời niên thiếu mỗi lần được đi xa là về đồng quê như Mỹ Tho, ra biển là Vũng Tàu, xa nhất là Đà Lạt. Miền quê khung cảnh yên bình nhưng cũng hạn hẹp dù có là ruộng thẳng cánh cò bay. Đồi núi cao nguyên đẹp, hùng vĩ trong mắt nhìn thuở ấy nhưng giữa rừng người ta cô độc. Còn biển, con người nhỏ nhoi trước biển thật nhưng biển vừa bao la vừa bao dung. Mình có cảm tưởng khi chìm vào trong nó bao nhiêu hệ lụy cuộc đời sẽ được tan đi, rừng thì giữ lại.

- Ngày 11-9-2001 xảy ra biến cố lịch sử về khủng bố tại Hoa Kỳ. Lúc ấy nhà văn Mai Ninh đang ở đâu? làm gì? phản ứng đầu tiên ra sao? Cảm giác như thế nào?

- MN nhớ rất rõ, lúc ấy khoảng 4 giờ chiều bên Pháp, đang ngồi trước máy tính và cho chạy một chương trình vẽ các nguyên tử trong một cấu trúc của chất siêu dẫn. Ngoài hành lang rộng, một số đồng nghiệp tụ họp sửa soạn ca cà phê buổi chiều. Một cô sinh viên làm luận án đi đâu về, chạy hộc tốc vào và hớt hải nói, cô nghe đài phát thanh trên xe mới hay có mấy phi cơ cảm tử khủng bố đã lao vào hai toà nhà World Trade Center Nữu Ước và Ngũ Giác Đài ở Hoa Thịnh Đốn. Cô ta bảo hình như còn mấy máy bay nữa đã bị nhóm khủng bố cướp nhưng chưa biết họ sẽ tấn công vào đâu.Vì chưa thấy hình ảnh trên truyền hình nên không tưởng tượng nổi sự kiện kinh hoàng đến tầm mức nào. Điều sợ hãi đầu tiên là nghĩ đến thế chiến có thể bùng nổ bởi những hành động điên loạn.

- Một phụ nữ Mỹ gốc Việt, bà Kathy Nguyễn, nạn nhân thứ tư qua đời vì bệnh than (Anthrax). Được mô tả là người hiền lành, ngoan đạo, sống độc thân tị nạn tại New York. Mai Ninh, một người làm trong ngành khoa học từ hơn 30 năm qua, có thể cho biết ý kiến về bệnh Anthrax. Và theo chị, cuộc sống của chúng ta nói chung có còn giống trước biến cố 11-9-01 nữa không?

- Đối với kẻ khủng bố thì người hiền lành ngoan đạo hay dữ dằn vô thần cũng như nhau. Trong hành động của họ, càng giết được nhiều người, càng gây được chấn động bao nhiêu càng tốt. Nhưng đối phó với hành động cực đoan, tàn ác là đừng rơi vào sự khiêu khích cố?tình của họ. Về bệnh anthrax thì MN cũng như chị Quỳnh Mai, như các thính giả đều được những người nghiên cứu trong ngành vi khuẩn, sinh học cho biết những tác động và hậu quả của nó. Thật ra khi đã nói đến độc tố thì chất nào cũng ghê gớm. Có những thứ truyền nhiễm thật nhanh chóng và giết người trong chớp nhoáng như anthrax hay vi khuẩn đậu mùa, có những thứ nạn nhân chết dần vì các tế bào trong cơ thể bị biến hóa từ từ như trường hợp các độc tố hoá học, hay bị nhiễm phóng xạ. Đó là chưa kể trong hai trường hợp cuối, ảnh hưởng còn di truyền tới thế hệ sau. Những trái bom nguyên tử, những chất nổ hoá học cũng giết người độc hại như anthrax vậy thôi.

Nói chung tinh thần chúng ta, nhất là những người đang sống trong các nước yên bình đều bị tổn thương, lắm người vẫn không ngừng hỏi tại sao lại có thể xảy ra một điều khủng khiếp như thế trên đất Mỹ. Đã nhiều nhà chính trị, bình luận gia báo chí, những người nghiên cứu về tôn giáo, về vấn đề thế giới.đưa ra những trả lời. Chỉ có điều, dù với tất cả những trả lời đó, một người thường dân đường phố, không tham vọng quyền lực chính trị hay kinh tế, không tôn thờ một thần thánh chủ nghĩa nào, vẫn chưa hiểu được tại sao hận thù lại tới mức này. Chẳng biết sẽ có một lúc nào không, họ hiểu được điều gì đã xảy ra. Sau biến cố 11 tháng 9, người thường dân đặt bao câu hỏi. Trong đó có một thắc mắc như thế này: Những đàn áp man rợ, những đớn đau của dân tộc Afghanistan mà các nhà lãnh đạo cường quốc, báo chí, média trên thế giới đang tung ra hằng ngày để cho mọi người thấy là phải tức thời giải phóng xứ sở này ra khỏi những thống khổ ấy, là những điều không mới lạ gì. Người đường phố không biết đã đành, nhưng họ, ít nhất, họ?đã biết từ 4, 5 năm nay khi tập đoàn Taliban lên cầm quyền, nhưng tại sao không có tiếng gọi khẩn thiết, cứu nguy cho dân tộc Afghanistan ngay từ lúc ấy? mà phải đợi đến bây giờ, với cái chết của mấy ngàn công dân cường quốc?

Chúng ta không thể còn như trước vì càng ngày chúng ta càng thao thức bởi bao nhiêu câu hỏi tại sao và làm thế nào.


- Là một người hoạt động trong lãnh vực khoa học, chị có tin vào sấm truyền Nostradamus không? (sau 11/9/01, sấm Nostradamus bàn về New City đã lan tràn trên internet!)

- Sầm truyền Nostradamus hay sấm Trạng Trình cũng chỉ là những điều người ta cố ý gán ép vào những biến cố, những sự kiện khi chúng đã xảy ra rồi. Vì thế MN không mấy quan tâm.

- Sự thành công ngoài sức tưởng tượng của tác phẩm Harry Potter trong giới sáng tác (40 triệu độc giả) cũng như điện ảnh đã đưa J.K.Rowling từ một bà mẹ độc thân nghèo nàn nuôi con trong căn phòng không sưởi tại Ái Nhĩ Lan, trở thành người giàu có nổi tiếng khắp thế giới. Điều này khẳng định được chỗ đứng quan trọng của người phụ nữ trong mọi lãnh vực hoạt động, nhứt là trong lãnh vực sáng tác. Mai Ninh có đồng ý không? Chị nghĩ gì nếu có một người phụ nữ VN đoạt giải Nobel đi vào văn đàn quốc tế?

- Một buổi chiều trên đường phố Việt Nam, MN mua một tập sách dịch Harry Potter. Trước đó đã dự định đọc cho biết nhưng chưa có thời giờ, nay cô bán báo mời nên mua. Nhưng đọc vài trang xong bỏ đó. Mới đây MN có xem phim, vui và được hơn hai giờ giải trí thích đáng. Rồi nghĩ lại thấy phục bà Rowling. Dùng điện ảnh để dựng một phim thần tiên đầy ảo thuật không khó, nhưng dùng chữ mà diễn tả đến độ lôi cuốn được bao triệu người đọc vào một thế giới huyễn hoặc thì đấy là tài năng. Nếu có thời giờ, MN sẽ tìm đọc nguyên tác hay bản dịch sang Pháp ngữ xem sao, vì đã không đọc bản tiếng Việt rồi.

MN không bao giờ nghi ngờ khả năng của phụ nữ, nên không nhất thiết phải chờ có sự thành công của Harry Potter để khẳng định chỗ đứng quan trọng của người đàn bà. Dĩ nhiên sẽ rất vui mừng và hãnh diện khi một người Việt Nam, bất kể phái nam hay nữ, đoạt giải Nobel, hoặc một giải thưởng đáng kể khác.

- 18 năm sống tại quê hương và hơn 30 năm sống trên đất Pháp. Mai Ninh yêu quê hương nào hơn? VN hay Pháp quốc?

- "Yêu quê hương" là sao?

Là sống và chết tại nơi đó? Thời gian MN sống trên đất Pháp gần gấp đôi ở VN. Và vẫn tiếp tục đây, đến khi nào? Chẳng biết. Còn chết ở đâu? Không chắc chi có thể chọn lựa. Nhưng mỗi lần nhớ tới mẹ mình đau đáu một ước muốn yên nghỉ trong lòng quê hương thì MN không khỏi rơi nước mắt.

Hay "Yêu quê hương" là nhớ thương khôn nguôi về nơi đó, thấy mình là một giọt nước của dòng sông ấy ? Dù muốn dù không, đời sống lôi con người theo dòng chảy của nó, cuốn mình vào trong không gian thực tại của xứ sở mình đang có mặt. Nhưng thực là MN không thấy mình hoàn toàn rơi chìm, hoà tan vào một nơi nào cả. Khi ở nơi này MN nhớ nơi kia. Có lẽ đó là tâm trạng chung, thật sự chênh vênh, của những người ở thế hệ MN chăng? Những người luôn luôn xao xuyến bùi ngùi trước một lời hát gì của Trịnh Công Sơn: chẳng biết nơi nao là chốn quê nhà.

Nhưng có một điều rõ rệt, VN là nơi ám ảnh và làm MN nặng lòng nhất, như với một người thân yêu mà mình vương mắc một món nợ tinh thần.


Lê Quỳnh Mai
thực hiện

Chú thích:
(1) - Kiếp người - Of Human Bondage - bản dịch Nguyễn Hiến Lê, trg 10, Văn Nghệ xb 1988
(2) - HATVSK, trg 15, Thời Mới xb 2000
(3) - HATVSK, trg 94
(4) - HATVSK, trg 24
(5) - HATVSK, trg 24-25
(6) - HATVSK, trg 23
(7) - Câu Chuyện Dòng Sông - Đường Về Nội Tâm
(8) - HATVSK, Bão Cát, trg 42
(9) - HATVSK, trg 44
(10) - HATVSK, Ngồi Mãi Bóng Đêm, trg 82


Phượng Các
#13 Posted : Monday, November 29, 2004 7:18:44 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,704
Points: 20,055
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
đoản khúc vùng sậy khô

mai ninh



Trạm xe ở sát bìa làng, tiếp giáp với vùng sậy vàng khô có ngọn đong đưa trong gió, ngọn rạp xuống mấy gò đất còn chồi gốc cây đen đủi. Xa và cao hơn nữa, cắt vằn trên nền trời đang ửng một sắc xanh xám những thân cây nghiêng vẹo, lòng khòng, chưa chịu đổ sau trận cháy rừng một năm nào đó. Trong mắt người đàn ông bên kia con đường, cảnh tượng tựa bức tranh vẽ đám hình nhân khỏng khiu cong lưng nhún nhẩy một vũ điệu Phi Châu. Đã mấy hôm rồi ông ta đến ngồi đây từng chiều, trên băng ghế gỗ ngoài sân cỏ, sau cái bàn sắt tròn cũng khập khiễng như bà chủ quán thì thọt ra vào. Mớ tóc xoăn xoăn, sợi dây cột cái váy quanh vòng bụng xoắn tít vài vòng rồi thả một đường dài theo vết cà phê hay có thể là một lằn xốt cà chua xót lại. Cổ áo rộng, lệch quá bầu vai bày màu da nâu đỏ như thách đố tất cả cơn gió rừng thô bạo. Gương mặt bà ta cũng nở nang cùng tỉ lệ và khác hẳn lưỡng quyền hẹp thó của gã đàn ông, không biết là chồng hay người giúp việc của bà ta, suốt buổi lum khum lau chùi ly tách sau quầy, ít nói. Cũng chẳng hiểu ở đâu ra lắm cốc đĩa vào cái giờ chiều rơi lưng lửng vắng khách này. Tài xế các chuyến xe hàng chạy qua thường chỉ dừng ăn uống lúc rạng ngày, đứng trưa hay khi đêm xuống. Những chiếc xe đò chở hành khách liên thị trấn hiếm khi có nhu cầu đỗ lại. Ngoài ra, mỗi mình ông ta với cốc cà phê dưới gốc cây và hai ba người trong quán, lắm lúc tất cả im lặng cơ hồ sự tẻ vắng ngột ngạt đã lất qua từ không gian rừng trụi bên kia. Nhưng có khi vẳng ra tiếng đối đáp ồm ồm, tiếp theo là giọng cười to rồi bỗng nhiên hất lên, tắc nghẽn của người đàn bà. Một vài lần ông ta nghĩ, đáng lẽ nên vào góp dăm câu cho phải lệ nhưng lại thôi. Thật ra ông chẳng có việc gì khác hơn là ngồi chờ chuyến xe buýt đổ từ con dốc. Chiều nào lúc khoảnh này, nó cũng dừng đúng ngay trạm ấy, cây cột gỗ lém vết lửa, đầu xệch xạo tấm bảng nền xanh lợt lạt với tên làng kẻ chữ vàng cam, mọc nghiêng trên mô đất.



Mấy ngày nay, con bé ấy hiện ra trong tấm áo len đỏ sau khi chiếc xe đậu lại giây phút rồi tiếp tục trườn đi. Cũng nhờ thứ màu rực rỡ đó ông mới có thể xác định bên cột trạm xe có một người đã đứng. Con bé không nhỏ lắm, sợi tóc dài thường vắt qua trước ngực, cổ lại quấn một chiếc khăn trắng như người lớn, nhưng chẳng biết sao ngay lần đầu tiên người đàn ông đã thấy hình ảnh này mơ hồ, không thực. Phải chăng vì nhân dáng mong manh thanh mảnh ấy hiển lộ quá bất ngờ sau cái thân xe cồng kềnh thô lỗ. Cô gái nhỏ đứng dừng một chốc, mắt thoáng bay qua khỏi con đường, nhưng chắc chỉ là cái nhìn vu vơ. Cử chỉ vu vơ này sao ông thấy quen thuộc lạ. Chân mang đôi giầy cổ cao, cô bé lững thững bước vào vùng sậy khô. Cỏ lau vàng ngỏng lên lất phất, màu áo đỏ lúc ẩn lúc hiện, trồi lên trụt xuống theo từng gò đất giẫm qua. Có lúc cô nhỏ leo lên đầu một thân cây cháy cụt ngó về phía rừng xanh ở mút xa, rồi lại bước xuống, quanh quẩn tiến sâu hơn vào khu vực những thân đen Phi Châu khiu gầy cong quíu. Buổi đầu nhìn thấy, ông ta hốt nhiên sợ hãi, đứng vụt dậy định chạy sang ngăn cản, nhưng con bé đi đến một biên giới đó thôi rồi dừng lại, ngồi xuống trên mô đất cao. Khoảng cách giờ đã quá xa, ông chỉ còn bắt gặp một chấm đỏ nổi trên màu xám mờ của nền trời lằn ngoằn những đường vẽ bởi cây rừng đen cháy.



Thời những chấm đỏ của đèn xe thành phố rào rạt đi về, có đêm ôm tay ông đi giữa lòng đường nàng nói, Nếu không có tình yêu em sẽ mất phương hướng, sẽ chạy theo những chấm đèn loạn mù kia. Người đàn ông thuở ấy vô tình, Em đi đâu được khỏi thành phố, ngoài kia là vô định. Nàng buông lơi cánh tay ông, rút cổ sâu trong tấm lụa quàng vai đáp nhỏ vu vơ, Tới một làng ven biển, một mảnh rừng. Kéo nàng vào trên hè phố tối ông chỉ lên cao, Đêm ở biển và rừng chỉ có đom đóm, em hãy nhìn kia, sau những ô cửa tầng lầu ấm áp ánh đèn, con người đang yêu nhau đằm thắm. Có phải lúc nào cũng là tình yêu không anh, nàng hỏi, hay họ đang hành hạ nhau dưới tia sáng trần trụi của đêm. Đừng nghĩ thế em, đêm là dịu dàng cùng say đắm. Ngây ngất như mỗi khi ông cúi xuống trên trũng ngực trắng trần và hai cánh chân duỗi dài, nàng xoải bung những bờ cát đón chờ triền biển sóng. Ông cố cầm giữ hơi sức căng dưới bụng, nghẹn trong ngực, nứt trên môi để thì thào bên tai nàng, Ngắm họ đi em, tình yêu hai kẻ ấy lịm sâu vào da thịt sau ô cửa một bóng đèn. Nàng nấc lên níu cứng những ngón tay vào đùi ông, Hãy vỡ trong em và mình trôi ra biển, biển tối mênh mông tràn tận đời, đâu cần hải đăng, anh tắt đèn đi. Thành phố có tiếng xe rạt vũng mưa, có kẻng tàu điện từng chặp cùng lũ chim không ngủ nên oang oác rủ nhau đập cánh xạt xào. Cuộn mình, co cả hai chân sát gần tới ngực, nàng sờ tay trên mi mắt ông, Anh vẫn thức. Ừ, nhìn em ngủ. Không, em đang suy nghĩ. Có được bao giờ phút bên nhau, hãy biết an tịnh, mình còn cả đời để đặt muôn ngàn câu hỏi. Nhưng anh đi rồi, ai trả lời cho em về sự linh diệu của cuộc đời. Chính bí ẩn là nguồn gốc của linh diệu, em biết không. Bao lần anh cứ hỏi em biết không, nhưng anh nói đi, hạt cát khi lọt vào tận cùng đáy thẳm sẽ ra sao. Con sò sẽ ủ lấy hạt cát và quết bồi tinh mật để thành viên ngọc. Anh nhầm, không phải ngọc mà là sự sống, hãy gieo trong em sự sống. Nhưng rồi anh phải đi. Thì em sẽ đem nó về biển hay rừng. Chẳng được đâu, hai vai em gầy guộc quá.



Chiều lúc ấy bồng lên cơn nắng hoang rưng rức. Trên mái tóc nghiêng thêm chiếc mũ mây, dưới tấm áo len một màu váy xanh nhạt. Trông xa, cô gái nhỏ có vẻ vui hơn thường lệ, nhảy chân sáo trên các mô đất, thỉnh thoảng dừng ngắt vài ngọn bông lau hình thếp lúa. Rồi lại tung tăng đi tiếp, cánh tay đong đưa, người đàn ông tin rằng cô bé đang hát. Nàng hay cất tiếng hát vào những buổi sáng vừa thức dậy, thong thả chuồi dưới vòi sen, chơi cùng những bọt xà phòng. Nhưng cũng lắm khi nàng nấc nao giọt lệ, hốt hoảng quay sang tìm cánh tay ông vì một nỗi xúc động thương cảm nào đã đập xuống từ cơn mộng bàng hoàng. Đàn chim vượt ngang khu rừng xanh rồi chấp chíu sà xuống xúm quanh cô bé giữa đám sậy, chẳng vẻ gì sợ hãi. Cô nhỏ chạy đùa với chúng một chốc rồi thoắt đi nhanh, sâu vào bãi cây cháy. Lần này thì người đàn ông đứng bật dậy, tách cà phê đổ loang trên mặt bàn chênh nghiêng. Vội vã chạy sang bên kia bờ đường, đất nhiều ngày thiếu mưa khô khốc. Chẳng thể để con bé vào nơi hiểm nguy ấy, ông thốt lo âu không ngờ. Đừng quá muộn, ông đã đi tìm nàng quá muộn. Có lần nàng nói về tình yêu tinh khôi như thiên nhiên nẩy sinh trong trời đất, không chọn lựa chỉ cho đi thật tận cùng và ước ao nhận lại một sự sống nhỏ nhoi để dưỡng nuôi thân phận. Bây giờ ông trở về sau những hành trình hệ lụy của mình để nhận chân mầm sống ấy thì thành phố không còn nàng. Ai đó nói rằng có thể nàng đã đi đến một ngôi làng tiếp giáp với cánh rừng. Lũ chim nghe tiếng chân tức tốc cất cánh rào rào bay vụt, hướng theo dãi nắng đang hút về và đọng lại trên tấm tranh cong queo dáng người nhảy múa. Phải chi lao được theo cánh chim, đến ngay bên con bé và giữ nó lại gọn vòng tay. Trong mất biệt dấu tích nàng và giữa không gian thiêu rụi này thì tấm áo đỏ và bóng dáng nó bỗng đâu xuất hiện, ấm áp một thân thuộc lạ lùng. Nhưng cỏ sậy quấn quíu nào dễ đi như ông tưởng khi ngắm nhìn cô nhỏ nhảy chân chim. Đứa bé ấy có thực hay chăng, sự hiện diện đơn độc trên bãi đất hoang khô này đã là điều không tưởng. Hẳn nó chẳng đến đây mỗi chiều chỉ để dạo chơi, ông từng thấy con bé đứng lặng gần bờ rừng, đầu cúi xuống trầm tư một lúc lâu. Nó làm gì, kiếm gì, nghĩ gì, ông nào biết. Nhưng sao thoắt chốc nó đã biến mất trong mắt ông tìm suốt vùng không gian rộng. Ngực người đàn ông chợt nhói lên, chân vấp vào rễ cây chằng bện những cành lau ngã rạp. Bỗng có tiếng hát nhỏ lẫn trong ngọn gió vừa thổi dạt về mấy bóng mây, cô bé từ cây cối cháy nám đang trở lại đây. Tay một nắm cúc dại trắng lấm tấm nhụy vàng, hai túi áo len cũng cắm đầy hoa ấy. Hóa ra vùng mô bãi này vẫn còn mọc lên sự sống. Con bé trố mắt nhìn người đàn ông trước mặt, môi mấp máy định nói nhưng chỉ nở nụ cười kéo theo ánh mắt long lanh. Cặp mắt nàng vẫn có đuôi diễu cợt và nụ cười thoáng nét tinh nghịch mỗi sáng chợt trở mình, leo chập người lên ông khúc khích. Chẳng còn biết mình là ai, ông muốn ngả xuống giữa đám sậy vàng hay quì ngang tầm mắt con bé để nói một câu, nhẹ nhàng thôi. Hay chỉ để bắt lại một núm gì tươi trẻ từ sự hồn nhiên sáng rỡ của nó, mới đi nửa chặng mà niềm yêu đời một sớm một chiều lặn đi với ánh sáng rút nhanh vào chân rừng mù mịt. Nhưng chuyến buýt cuối cùng ngược về làng vừa réo còi ngay dưới dốc, cô nhỏ vội vàng tay chặn mũ tay cầm gấu váy chạy băng băng. Dường như không phải chạy mà lướt bay trên các mô đất, nên nhanh đến nỗi khi ông đuổi theo tới bờ đường thì chỉ kịp nhìn thấy những ngón tay cụp cụp vẫy chào. Thò đầu ra khỏi cửa kính xe, con bé buông xuống cho người đàn ông nắm hoa cúc trắng.



Hôm sau mưa bất ngờ cuốn theo cơn gió nam lồng lộng. Chạy được tới căn quán thì chuyến xe buýt đã đi qua, ông đứng lại bên trạm đỗ, đưa tay vuốt mãi làn nước tuôn xối xả trên mặt, tấm bảng giờ chỉ còn dính vào cột bằng một đầu đinh lắc loạn cuồng. Mắt cố tìm bóng con bé trong vùng đất mà gió hất tung mưa, tưởng chừng như sóng đánh. Đám cây cháy sém khô cằn vẫn cố chống chọi với đất trời giờ đã đầu hàng, buông xuôi đổ sập trên nhau. Chắc con bé chẳng dại gì ra đây giữa bão tố này, ông lẩm bẩm nhủ lòng đi vào trong quán, thả tấm thân ướt mèm trên nệm ghế. Có vài tiếng lao xao, có mùi rượu nồng và chất gì tuôn vào họng không ngừng. Ông muốn hỏi bà chủ quán một câu về cô gái nhỏ khi bà ta đem tới một tấm khăn rồi chẳng nói chẳng rằng trùm lên đầu ông, kín mít. Cố giằng ra mà không thoát khỏi, mạng lưới càng lúc càng quấn chặt, xoay xiết quanh đầu. Ông ngất ngư gắng mở mắt nhưng chỉ thấy tung tóe tia lửa, trước sáng rực mầu sắc như pháo bông sau bất chợt tàn đi, trở thành những đốm nhấp nháy nhỏ nhoi của đàn đom đóm ở đâu túa về đập vào mấy khung cửa sổ căn phòng ông giữa thành phố cao. Ông nằm chông chênh trên chiếc giường năm cũ, chăn gối rũ tung lệch lạc trên người. Tìm nút bật ngọn đèn nhưng bàn tay chỉ quơ vào khoảng không trong bóng tối. Cái lạnh se sắt khắp châu thân, ông vội kéo chăn đắp làn da trống trải. Tấm chăn càng lạnh lẽo, không hơi người, không mùi hương quen thuộc của nàng, thứ hương dâu ngát thơm vào độ chín. Thảng thốt ông gọi tên, chẳng tiếng nàng đáp lại. Chợt cửa mở đâu đó, bên kia đầu giường dáng áo mềm ai bước vào phòng và ánh sáng đèn nhóa lên ngũ sắc. Chưa kịp ngửng cổ trông ra, người ông đã bị phủ ập bởi cả một thân thể mềm đầy, rạo rực. Những tưởng nàng đã về, ông cuống vội dang cánh tay, mở vùng chân nhưng đầu óc thoắt chao đi vì mùi hương quá sắc, quá nồng. Biết mình sắp lịm, ông cố mở mắt nhìn, loáng thoáng những sợi tóc xoăn xoăn và môi son đỏ vạch hai đường ngay trên bờ vai nở nang rượm nắng. Hốt hoảng ông vung tay xô tấm thân đè ngợp trên mình, mái tóc cuốn lọn bị hất tung, trong khoảnh khắc lộ ra một mảng da đầu cháy nám sần sùi từ màng tang chạy vẹt sau tai. Cặp mắt người đàn bà nhìn ông sắc xanh niềm đau đớn.



Nắng mênh mang đã trở về sau trận mưa cuồng bạo, nhưng không gian trước mặt trống lặng, cả lũ chim cũng bỏ đi như thể chẳng còn gì để chúng đùa vui khi cô gái nhỏ bỗng biệt tăm. Ông ta ngồi lặng ở đấy, muốn nói với người đàn bà một câu gì, ngay cả chia sẻ nỗi nặng lòng, dù có thể chỉ nhận được cái nhún vai thờ ơ, ai hơi đâu để ý đến trẻ nít, có điên mới thẩn thơ trong bãi rừng cháy rụi. Thế mà nào ngờ khách đông, bà ta tíu tít bận rộn. Không dưng hai chiều nay người ta ngừng xe vào quán, mùi chim trĩ treo cho thịt sống ôi ương rồi mới nấu, mùi bò hầm nhũn trong rượu vang chen với mỡ nai thui lèo xèo trên hai thanh củi đỏ làm ông lợm giọng. Gã đàn ông mặt hẹp chạy như thoi giữa những bàn ăn, quầy rượu và trục quay nai ngoài sân cỏ. Người đàn bà thỉnh thoảng đi ra, cái nhìn ái ngại lạ lùng bám trên những chiếc ly cạn rượu ông chẳng ngừng cầm lên đặt xuống tựa đang chơi một bàn cờ. Nhưng có tiếng khách gọi, cốc đĩa xôn xao, bà ta vội chạy vào trong quán sau một thoáng nhíu mày. Những sợi tóc càng xoắn hơn trong cơn gió tây bắt đầu thổi mạnh. Không đừng được, tia mắt người đàn ông bất chợt như vuốt sắc, chỉ muốn cào ngược chúng lên để kiểm chứng hình ảnh buổi chiều giông bão hôm trước là thực hay từ cơn mê sảng.

Trên tấm tranh ông từng đối diện, từ hôm cuộc đi tìm nàng đưa đẩy đến đây, những hình nhân đen đúa phần lớn đã đổ sụp trong cơn mưa thác loạn. Màu nền tái đi rồi lan ra, tan loãng ra vô tận. Người đàn ông tưởng mình sắp bị hớp vào một khoảng trống kinh hoàng thì chợt tiếng còi xe gọi rất gần. Không chần chờ nữa, ông hấp tấp chạy ngay sang trạm đỗ mà chiều nay chỉ còn cây cột gẫy trụi trên mặt đất, tấm bảng có lẽ đã phiêu du vào khu rừng ấy. Người tài xế thấy ông vẫy tay mới dừng lại, ít ai xuống nơi này ngoài con bé và đôi lần có người đến quán. Thoáng ba bốn hành khách cùng ngó ông, kẻ lạ. Bác lái xe gật gù, Vâng, con bé hết đón xe đến đây ngay từ hôm trời bão. Chỉ về phía những ngôi nhà thấp thoáng ông hỏi, Nó ở làng ấy. Không, cái làng cuối tuốt trên xa. Người đàn ông thẫn thờ, nói như một mình, Tại sao nó bỏ đi. Bác tài xế vội vàng, Ầy, mỗi năm con bé chỉ tới đây độ vài hôm, cứ vào mùa khô này, hình như bố nó đưa về, mà cũng la2 Bác ta chưa dứt lời, một người đàn bà ngồi hàng ghế giữa bỗng lên tiếng, Không phải cha nó đâu, ông ấy nhận nuôi con bé sau tai nạn đó thôi, vậy mà chịu khó thế đấy, nó là đứa nhỏ sống sót trong trận cháy rừng này đây. Bấy giờ, ông già gầy guộc ngồi gọn lõm bên cạnh hơi nhỏm người lên, nói góp, Năm đó hạn hán chưa từng thấy, chuyến xe đò liên tỉnh bị nổ máy lật lăn vào bờ rừng, bốc cháy, trên xe không mấy người, có hai mẹ con nó nghe nói tính đến ở vùng mình, đem theo nhiều hành lý, ai cũng cứu được chỉ cô ta không thoát, cơn gió khô phừng lửa cháy loáng một phần rừng. Rồi tự dưng ông già đứng bật dậy trong xe, chỉ sang bên kia đường, Chính bà chủ quán này lúc đó chạy lao qua, cố lôi hai mẹ con ra khỏi xe, thế là bị lửa xém một bên đầu, suýt chết.



Chiếc xe mất dạng đã lâu sau mảnh rừng xanh dưới con dốc, người đàn ông vẫn đứng lặng ở mô đất còn trơ gốc cột trạm xe giờ đã gẫy đôi nơi vệt lửa. Trong sân cỏ, người đàn bà từ quán đi ra với chiếc khay trên tay, hướng mắt tìm kiếm, ngó sang. Bắt gặp ông đứng đó, bà ta cũng sững người bên cái bàn chênh chao. Tấm váy và mớ tóc lất theo ngọn gió đang bốc lên, quần xoay những tán dẻ tây giương xòe thật rộng như tận tình che chở cái quán nhỏ đơn độc. Bước chân mộng du, ông băng qua đường, kịp nghĩ mình phải ôm giữ lấy mái tóc ấy để nó đừng bay đi, dù biết chẳng nói được lời gì với bà ta. Vết nám người đàn bà và linh hồn bỗng chốc cháy trụi như cây rừng của ông thì không thể nào bay đi được nữa. Sang đến bờ sân, quay đầu lại, ông ngỡ ngàng, hình như con bé đang bước tung tăng, màu áo rực lên trong tia nắng cuối ngày giữa những nhành cỏ sậy đung đưa. Nó cười, nụ cười của nàng một đêm nào khi nói về tình yêu và sự sống.

Mai Ninh
(từ một lần đi, 2001)
Phượng Các
#14 Posted : Monday, November 29, 2004 10:09:31 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,704
Points: 20,055
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
dấu nứt đêm

mai ninh



Lúc ba ngọn đèn rọi vào khoảnh gọi là sân khấu ấy vụt tắt ngấm trong vài chớp mắt, để lại sáng bừng lên báo hiệu vở kịch chấm dứt, người đàn ông đã đủ thời giờ ngửng lên vòm trời đêm. Một chùm năm ngôi sao ngọn mờ ngọn tỏ vẫn còn đấy, tự bao giờ. Rồi ông cúi xuống vùng ánh sáng đang toả trên khắp người cô ta, nhất là khuôn mặt. Miệng cười nhẹ, cô lùi ra sau cho người nam và người nữ giữ vai chính bước tới, nhận những tràng vỗ tay không ầm ĩ mà thân mật. Cuối cùng, chàng đạo diễn với đuôi tóc dài và anh kéo đại hồ cầm từ sau cột gỗ đi ra, nắm tay cô dong tới ngang hàng với cặp diễn viên để gật đầu chào. Thêm một lượt vỗ tay nữa rồi đám khán giả đứng dậy. Người vội vã bước ngay ra cánh cửa che bức màn mong manh, người lục đục chồng những chiếc ghế vừa ngồi, đẩy vào một góc, quanh mấy cái bàn sắt nhỏ. Thể như khi ngày rạng sáng, thiên hạ lại giở bàn ghế này ra, vui vẻ bày tách cà phê buổi sớm.


Mùa hè năm nay chắc sẽ ra đi nhanh hơn, ông đoán thế. Khi cái nóng cứ rút cao đến cực điểm lúc đứng trưa, song chỉ đôi giờ là đột ngột bị ngọn gió không biết từ đâu nổi lên cuốn hút, đẩy thốc lên trời, cho thành phố bất chợt dịu mát cuối buổi chiều. Thường như vậy là mùa thu ngấp nghé. Hơn bao giờ, từ ngày dọn sang ở bên này con sông ông đã để tâm nhìn trời và ngó không gian. Nửa thành phố bên đây sông mang vẻ u trầm của gạch đá lẫn sự bình dị của một thứ đời sống hòa trộn lửng lơ giữa người và mặt nước lặng lẽ. Hình như không ai phải chạy đâu xa để kiếm tìm, từ điều thực dụng tới mộng mơ. Cứ thong dong vài bước là có thể vào ngay một cửa hiệu bày bán nghìn thứ linh tinh. Những thứ chẳng ăn nhập với nhau, khó lòng xếp chung theo một hệ thống lô -gích của cuộc sống. Ở tủ kính vài món đồ chơi bên cạnh cái giá lồng mấy cuộn giấy WC, dăm ba cái soong dưới chân tấm cạc- tông dựng hình cô gái đẹp cười tình tứ, tay uốn ngọn mascara chải vành mi cong. Quành sang góc phố bên kia là một phòng triển lãm mà tranh dựa chân tường, và trên sàn dở dang mô hình một phần Ấu Châu nằm hai bên một giải sông xanh uốn lượn. Nhiều lần ông đi qua, những mảnh gỗ ép dùng xây dựng nào thành Viên, nào Luân Đôn.vẫn ngổn ngang bừa bộn. Có lẽ người nghệ sĩ, hay chỉ đơn giản là một nghệ nhân thủ công thực hành lắp ráp, thích bỏ những buổi chiều lơ lửng cạnh ly bia, dưới tán cây đầy hương nồng mùa hạ hơn là qùi bò trên sàn để dán ghép, hít thở một thứ văn hoá quá xa vời.

Cũng chẳng bao lâu, sau khi đến ở căn phòng trên bụi trúc, ông khám phá ra cái kịch trường nhỏ bé bình dân, sau sân gạch ấy. Chỉ là hàng hiên một căn nhà mái kéo dài ra, lợp thêm vài mảnh, ngăn với vuông sân bằng ba bức tường gạch thô sơ. Khó biết được đó là nơi chốn người ta có thể đến tìm, bắt gặp đôi điều ở ngoài cuộc sống. Không đèn màu rực rỡ, không bảng tên lóe sáng, chẳng có gì gợi hình trừ một tấm bảng đen học trò với nét phấn trắng quẹt vội tên vở kịch và ngày trình diễn dựng sát bờ tường. Lắm khi người ta quên ghi cả giờ mở màn. Chắc đâu cần thiết cho chừng ba bốn chục khán giả dường đã quen thuộc nơi chốn. Nào có sân khấu để vén màn, họ diễn trên cùng sàn đất với người xem, đầu những hàng ghế thấp, giữa mấy đọt cột đỡ mái che vốn là thân cây già cỗi. Nhiều lần, lúc chờ đợi vở kịch bắt đầu, ông nhìn ngắm chúng, ở những vết sẹo loang lổ nơi cành bị chặt lià thân. Trong bóng tối lập lửng, vết đứt nhô lên, sần sùi, bệnh hoạn, nhưng có gì cứ rút sâu tầm mắt ông vào đó. Cũng may, một chốc thôi thì ba ngọn đèn đã rực nhóa, người đàn bà áo đỏ từ lúc nào lừng lững đứng đấy, đánh thức đám khán giả bằng lời rao sang sảng về bi kịch của bà ta. Rồi người nam diễn viên sau thân cây đi ra, nhập cuộc. Cả hai vừa vùng vẫy vừa quấn lấy nhau trong một tấn tuồng khép kín. Những đối thoại lúc rức cao, buốt xoáy với ánh đèn nhức sáng, phơi trần, lúc bỗng dưng đứt hẳn, ngưng bặt, im lặng, không cả hơi thở, chỉ còn tiếng trầm ngân của những sợi giây đàn.


Cô ta xuất hiện ở màn thứ nhì, khi người đàn bà đã bỏ đi. Cô là đứa con lạc về để vực ông bố đang cúi gục trên những trang đời viết dở. Viết nhưng trống không, viết để bôi xoá. Bôi xoá nhưng chẳng gạt sạch được những gì thuộc quá khứ. Càng không thể manh lên một vớt vát, nói chi phép màu, cho ngày sắp đến. Cúi xuống trên vai người cha với màu áo xanh nhàn nhạt khói, gương mặt cô biểu lộ những cảm xúc không phải xót xa mà ánh lên điều gì lấp lánh, tương phản với niềm tuyệt vọng của người đàn ông. Cô di chuyển chậm trên nền gạch, mỗi bước chân, cử động chính xác trong tự nhiên lẫn bất ngờ. Lời nói của nhân vật là những câu rành mạch, đau, sâu và sắc. Tiếng cô cất lên với thanh âm là lạ? Khán giả xì xào cô ta từ nơi khác đến và ban kịch này lần đầu ghé qua đây.


Người đến xem đã đi hết rồi, ông vẫn đứng lại đầu sân, dưới bóng tối phủ cả bức tường gạch rạn nứt của một ngôi nhà hai từng bọc khoanh một phiá. Cạnh bên kia của mảng sân cũng bọc bởi một căn nhà tương tự với những nhành cây leo bám chặt vào tường, và tuốt trên cao, hai cửa sổ đóng kín. Màu xanh bầu trời sắc lại, thẳm hơn với đêm khuya. Ngày còn ở hữu ngạn con sông, chiều tối đi về trong phần thành phố hiện đại, ngập nhoà đèn đóm ấy, chẳng có mấy lần ông để ý nhìn trời. Như thể thực tế của đời sống con người chỉ đọng lại ở tầng lớp sền sệt thấp, có vươn lên thì cao lắm là kích thước vài chục tầng lầu. Nên sao, trăng, mây trời là điều vời vợi, lửng trên đời sống. Có lẽ ông bắt đầu nhìn lên đêm xanh từ hôm đến nhà kịch này. Cũng không hiểu vì lý do gì ông nán lại, sau khi khán giả đã ra về. Rồi sau đó bước theo tiếng cười của cô ấy, chạy suốt từ khoảnh sân ông đang đứng đến con tàu điện. Những chuyến tàu điện đưa ông và bốn người trong ban kịch về nơi họ ở mỗi đêm. Anh chàng nam diễn viên luôn luôn là người đầu tiên bước khỏi khung cửa trống, khi hai mảnh màn đã vén lên. Dừng lại giữa sân châm điếu thuốc, anh có bâng quơ hướng mắt về phiá ông. Người đàn bà áo đỏ ra sau, đôi mắt sâu còn đọng những vệt chì sậm xanh dù sự hoá trang của những người trong ban kịch này thật đã là đơn giản. Cuối cùng là cô ta và anh nhạc sĩ đại hồ cầm. Luôn luôn, ở lúc ấy, ông thấy mái tóc cô càng ngắn hơn, cái ngắn rất vị thành niên khiến mọi đường nét trên gương mặt tựa đều thu gọn lại, cùng một lúc trở thành mong manh trong không khí hơi se sắt nửa đêm và dưới bầu trời dường ngút cao hơn. Cặp diễn viên chính vừa đi vừa nói chuyện rào rào đùa bỡn, như thể vở kịch dài gần ba giờ đồng hồ với vỏn vẹn ba nhân vật chưa đủ làm họ thấm mệt. Cô ta ít nói nhưng tiếng cười thỉnh thoảng vang lên, trong và nghịch ngợm, đã khiến ông nghĩ đến ánh mắt cùng những vì sao lấp láy. Ông đi theo họ, con đường mở rộng với đêm. Trạm tàu điện ở cuối phố, hai con tàu với tuyến đường khác nhau. Nhưng ngay buổi đầu ông đã lững thững leo lên cùng một chuyến. Không ngại gì, ông sẽ đổi sang tuyến khác để về đến căn phòng trên bụi trúc. Ông còn cả một đêm trước mặt. Sau nhiều năm tháng, bất chợt một ngày người ta nhận ra đêm không cùng.


Người đạo diễn luôn ở lại nhà kịch lâu hơn. Cặp diễn viên chính thường hôn nhau bất chợt, cười rít lên và xuống cùng một trạm. Người đàn bà áo đỏ hay mặc áo thun chẽn ngoài vở kịch, tóc xoã màu đồng óng, dáng đi đong đưa khêu gợi, có gì già dặn. Nhưng ông đoán đấy chỉ là già hơn tuổi bởi giọng nói còn vang ấm thanh xuân. Anh chàng chơi đàn dáng trẻ sinh viên, là người duy nhất đem âm nhạc vào vở kịch, nhưng tiếng đàn anh đã biết thúc hối thêm những cuồng nhiệt, đứt đoạn hơn những chia biệt, mênh mông hơn những khoảng trống, và đẩy sâu tận cùng cảm xúc khi tiếng nói đã ngừng. Chàng ta đi đứng nhẹ nhàng, đùa nghịch với hai chân, có khi chực đổ cả đàn xuống đất. Bước bên cạnh, mấy lần cô giơ tay níu, giọng cười rúc lên tự nhiên, từng chuỗi. Không hiểu tại sao ông thích nghe chúng, như thể bắt gặp lại tiếng reo của những chiếc phong linh treo từng chùm ở cửa nhà một thời thơ ấu, rung lên khi gió chuyển.

Trên xe, người đàn bà ngồi thẳng người, hai chân mở ra, vững chãi. Trong khi ở ghế đối diện cô hơi dựa vào vai chàng nhạc sĩ. Mắt khép hờ, miệng vén nét cười trẻ thơ trên gương mặt, lặng im nghe ba người kia nói chuyện. Thỉnh thoảng anh đánh đàn gõ nhịp mấy ngón tay trên đùi, tự nhiên huýt sáo hay hát một đôi câu. Khi ba người ấy đã xuống xe điện thì bấy giờ cô duỗi người ra, gác chân thản nhiên lên bờ ghế đối diện. Cử chỉ bất ngờ buông thả. Chẳng còn mấy ai trên xe, ngoài ông ngồi cách hai hàng. Hẳn cô nhận ra ông là người khán giả chăm chỉ và kẻ đã đồng hành mấy đêm nay trên chuyến xe khuya cuối cùng, cho đến lúc cô tới trạm ngừng và bước xuống. Có khi bỗng nhiên ngoảnh lại, cặp mắt lánh lên dưới ngọn đèn soi trạm đỗ. Có lúc quay đi vội vã, dáng người biến nhanh vào bóng tối phủ đầy bên kia bờ đường. Cứ nhìn theo thế, cô đơn thoáng từ đâu ngập ngợp, chập chùng. Hình như chẳng phải nó chỉ phủ chụp mình ông mà cả cô ta nữa, nó dập tắt ngúm chuỗi cười reo trong trước đó. Nỗi cô đơn tỏa như lụa quấn lấy đôi chân, ông chực vấp ngã khi bước xuống toa xe. Vuốt những sợi tóc hơi ẩm sương đêm, lao đao, ngây ngất. Có phải sự mỏi mệt của linh hồn hay chính là thời gian. Đã lâu, ông chẳng còn nghĩ đến ngày và tháng, cuộc sống trật tự yên ổn, già khốc, bao bọc bằng những ràng buộc thân thiết, hệ lụy miên man thành một bức tường kiên cố. Sự yên ổn vây kín đó chẳng những chặn đứng thời gian mà cả không gian. Tất cả kín bưng, không cánh cửa, hoặc giả nếu có thì khác gì cái cửa văn phòng ông từng ngồi đó bao năm, nó mở ra một hành lang trơ rỗng, rồi hành lang lại đâm vào những căn phòng làm việc vuông vức, nghẹt thở khác.


Đêm hôm đó, phấn trắng nguệch ngoạc tên vở tuồng mới trên tấm bảng đen. Đám khán giả thêm vài khuôn mặt lạ. Ông vẫn chăm chăm nhìn ngắm vết sẹo chương bấy xù xì trên thân cây già, cho đến lúc tiếng dây đàn bứng lên bục bục thay cho những hạt mưa nặng khởi đầu của vở kịch. Chỉ vách tường gạch mỏng ngăn cách không gian này và con đường xe cộ ngoài kia. Nhưng không ai khó chịu vì tiếng ồn của phố, ít nhất là ông, chẳng còn gì hiện hữu ngoài vùng sáng đang khoanh tròn quanh mấy nhân vật. Họ đang tra tấn và thương xót lẫn nhau, trong một định mệnh thản nhiên, phi lý nhưng sát gần cuộc đời như sự thật. Tuy thế chẳng có gì nặng nề, không có đối thoại gay gắt, cố ý nhận chìm người nghe, không có những kêu đau sướt mướt. Nhưng là những vết tước chậm, từng phân, từng sợi, với ý thức để hiển lộ dần dần mặt dưới vết thương.

Cô ấy giữ vai người đàn bà lúc tỉnh lúc say, khi hiền hoà đến nhút nhát, pha cả ngây thơ, khi lên cơn bạt mạng, phóng túng. Ông rợn người theo với chuỗi cười khăng khắc, và bàng hoàng ở hình ảnh cuối cùng. Cô ta, không, người đàn bà trong vở kịch, đã bị đời quật ngã, nằm tan hoang trên mặt đất, hai ngáng chân dạng ra như tình cờ. Giữa chúng, sự tình cờ rưng trắng bởi màu da trong sâu khuất vừa hé lộ, làm đám người xem lặng thở, ray rứt thật lâu. Thật lâu, sau khi người kéo đàn đã ngừng cây mã vĩ.

Cũng khuya hôm ấy, cơn giông cuối mùa đổ xuống thành phố, đúng ngay lúc cô ta bước rời con tàu điện. Chiếc váy xanh nhạt và tấm áo trắng mỏng manh lạ, khác hẳn vai trò vũ bão cô vừa bỏ lại. Không nghĩ ngợi, ông xuống theo, cô ấy đang cuống quít núp dưới một tàn cây rộng. Cùng một lúc, lằn sét xanh xoẹt ngang trời. Không đắn đo, ông chạy tới vội vàng kéo cô rời xa gốc cây, đợt sấm cũng vừa nổ dồn từ bên kia con sông chia đôi thành phố. Những hạt mưa to, nặng đã kịp đáp ướt mái tóc cô và thấm sát manh áo vào khuôn ngực. Cô ta kéo khép hai bờ vải rồi ngửng lên, vừa đủ bắt gặp ánh nhìn của ông rạng ngời sự thảng thốt. Cùng lúc đó, trong tiếng đập vỡ tung của nước có tiếng vặn mình rên xiết rất gần. Hai người quay lại nhìn, cả thân cây cô vừa đứng trú đang quặn quẹo, trĩu gập, những tán lá xoè toang sắp ôm choàng mặt đất. Mắt xoáy vào dấu cành cắt cụt mưng trồi chỉ chực nứt bung, cô ta thốt kêu lên run rẩy. Những tiếng kêu làm ông bàng hoàng như vừa bị cứa cắt xót xa trên thân thể đồng thời lại được ban tặng một nỗi gì ngập tràn khoái cảm. Cúi ngay xuống, ông ngậm xiết lấy đôi môi đang hé mở trên khuôn mặt dính sát viền tóc mai đẫm nước. Ông hôn cô sâu suốt, mê mải hôn lên da thịt nứt rạn đau đớn, hân hoan giao hoà với vết sẹo trên cành cũng vừa toang vỡ. Chung quanh họ, những mảng vỏ cây rung chuyển, bựt nứt rồi tróc ra, lồng lộng cuốn theo từng vạt gió.


Khi ông rời khỏi căn phòng cô thì đêm đã trở lại trong xanh, mun mút, nhưng nước đọng trên cây còn lững thững rơi. Vài cánh lá bay trong gió đêm rồi chạm vào vai ông, như một lời chào, một san sẻ, trước khi rớt xuống trôi dần theo rãnh nước. Đi về hướng dòng sông, ông bước chậm, hít thật sâu khí trời và thích thú với cảm giác mát rượi trên da. Chiếc áo sơ-mi bây giờ buông thõng, hai vạt thong dong, không còn bị quấn gọn trong quần bằng sợi thắt lưng tề chỉnh. Sau cơn giông mà mặt nước sông phẳng lặng đến chẳng ngờ, mịn như tấm lưng cô ngả bày trên chăn nệm. Nửa khuya có tiếng sáo từ đâu đưa đến căn phòng ấy, đơn độc nhưng trong vắt, có lúc lại xoáy tròn để lút sâu vào xúc cảm. Ông đã nằm xuống bên cô, bập bềnh trong không gian tối, chỉ ánh một vệt đèn đường xuyên qua khung cửa nhỏ. Nằm nghe hơi cô thở, nghe từ làn da cổ và bờ ngực cô ngát một mùi hương gì vừa quen thuộc vừa xa vời như đã có từ thời thơ trẻ, rồi bay mất với dòng sống, nay lại bất ngờ trở về. Hốt nhiên chẳng còn những giới hạn vô hình chia đời người thành ba mảng, quá khứ, hiện tại và những gì người ta cứ thấp thỏm đợi chờ nó xảy ra. Ông lặng nhìn gương mặt co mê thiếp, không thể đếm tuổi đời trên những nét mong manh. Rồi sờ nhẹ tay lên bụng mình, lần đầu tiên, đã từ lâu lắm, ông ý thức được sự căng cứng của sức lực, bắt gặp tràn trề một thứ nhựa cây xanh.


Ông lâng lâng lẫn ngập chìm trong mấy đêm sau. Có khi vào ngồi trong kịch trường nhưng ông không chăm chú nhìn sân khấu, chỉ lắng nghe những giọng nói lúc vang toang, tách bạch, lúc âm u hoà trộn với tiếng đàn. Mắt vẫn hướng về mấy thân cây nhưng lòng nhẹ nhàng, như thể những vết sẹo đã được giũa mài, nhẵn mịn tựa lớp da trên thân thể ông vừa tìm lại được trạng thái phơi phới đong đầy của cánh đồng cỏ mùa xuân. Sau khi xuống trạm xe, ông lôi cô ấy lẩn vào dãy phố chập chờn bóng cây khuya. Mùa hè nực lên bao mùi hương lạ, suốt con đường ông dẫn cô về căn lầu trên đám trúc sẫm đen. Tiếng cười trong cao bây giờ nhỏ lại, chúi rúc, khi ông đẩy cô vào một ngách cửa hiệu đóng im, để cúi xuống trên bờ vai, cánh tay, rồi kéo cao chiếc váy trên hai sống chân buông thả. Những cửa tiệm bầy linh tinh muôn thứ, bình dị. Đời sống có thể sáng rưng lên qua những điều đơn giản, nhưng cảm nhận ấy là trong suốt. Tâm hồn thư thản mở ra, không còn khép kín một thế giới bưng bức. Chẳng còn những căn phòng chỉ có cửa chụm vào một hành lang, mà là không gian tháo tung hết ngăn chia, mà là thời gian không hạn định. Mỗi chiều, từ trung tâm đô thị lễu nghễu, tấp nập, ông đáp chuyến xe băng qua dòng sông, trở về căn phòng đơn độc bên này như lọt vào cõi sống khác, một cố tình bứt bung những níu kéo, phong bao. Ông nói với với cô ta điều đó, và cô đã cẩn trọng, dịu dàng,?ôm lấy khuôn mặt ông bằng hai bàn tay nổi đường gân xanh sót. Ông chẳng biết cô bao nhiêu tuổi, cô cũng không kể cô từ đâu đến. Họ chỉ nói với nhau về những vở kịch, về nỗi đam mê sống với con người thể hiện đầy ắp qua các vai cô diễn và qua từng giờ phút cô chia với ông bao cảm xúc tràn ngập đêm khuya.


Cho đến một buổi chiều, ông nghĩ mình hãy đến nhà kịch ấy sớm hơn, khi nắng chưa hoàn toàn tắt hẳn. Để nhìn tường tận mấy đọt cột trong ánh sáng ngày, mà giờ đây, ông đã có thể bình thản vuốt lên những dấu sẹo. Nhưng tới đầu sân nhìn vào, trên tấm bảng đen chỉ còn vạt phấn xoá vội, dường như bằng một miếng giấy khô. Những chiếc ghế lổng chổng sau bức màn mỏng. Quang cảnh trống lạnh, không có ai, không dấu hiệu một vở kịch sẽ được diễn tối nay. Chẳng có gì đã từng hiện hữu, ngoài mấy thân cây nâu già. Lúc ông bước hẳn vào, chúng bỗng rung chuyển, chừng như có sức mạnh gì trên cao đè xuống nên chúng phình ra bất ngờ. Các vết cành chặt đứt lại phù lên, sưng chướng. Ông chao đảo, vội vàng ra khỏi cửa. Hè phố còn đông người, chuyến xe điện bên kia con đường đã tới trạm dừng. Đôi mắt vẫn cố tình kiếm tìm một hình ảnh, ông ngỡ vừa thấy bóng cây đàn lềnh kềnh đeo theo chàng nhạc sĩ. Hấp tấp chạy tới, nhưng chỉ là một cậu học trò đi học đàn về, sửa soạn lên xe.


Người đàn ông tiếp tục bước trong dòng người, rồi chẳng hiểu nghĩ gì quay trở về nhà kịch, ngồi xuống ở bực thềm, giữa hai tấm màn vén toang. Gió cuối chiều lắc rung những tán lá. Trên cao, mây đang chạy về tụ hết nơi chân trời ráng đỏ, để lại ở khoảng giữa một vùng xanh nhẵn. Phố phường người đi qua lại cách ông một khoảng sân, nhưng cảnh tượng chẳng có một liên hệ gì, không ở trong tầm nhìn của cặp mắt. Những tiếng động cơ xe cộ, tiếng người ta rầm rập ồn ào cũng là ngoài đôi tai. Bao nhiêu náo nhiệt ấy rồi sẽ lắng dần với ánh sáng của ngày tắt ngấm. Khi đó, bầu trời sẫm lại, cùng với ngọn sao hôm sẽ có năm vì sao nam lấp lánh. Rồi sau lưng ông, tiếng đại hồ cầm cất lên mới đầu lắng nhẹ để sau đó kéo mạnh những dòng nhạc rộn ràng. Người ta vội vàng bày mấy hàng ghế, đèn màu trên cột gỗ chớp nháy, sửa soạn chiếu vào nơi mà cô ta sắp bước ra với đầy xúc cảm. Ông tin là như thế.

Tất cả những gì đã xảy ra, các vở kịch, cặp nam nữ diễn viên, anh chàng nhạc sĩ, tiếng đàn trầm hay tiếng sáo reo cao dù có thật hay không, thì ông vẫn tin rằ?g cô đã thực sự hiện hữu và bất biến. Nên ông ngồi lại đó đợi chờ, đợi cô, đợi đêm xanh trong suốt trên những con đường ông đi cùng với cô, không có tuổi. (nguon: hopluu

Mai Ninh
(mùa xuân, 2001)
Phượng Các
#15 Posted : Sunday, December 5, 2004 1:39:49 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,704
Points: 20,055
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
mây một ngày

Mai Ninh


Ba hồi chuông ngân dài đánh thức tôi vào năm giờ sáng. Mây vẫn ngủ say, nằm nghiêng người, đầu gối lên cánh tay tôi không biết tự lúc nào. Đỡ nhẹ đầu Mây đặt xuống nệm, tôi tìm chiếc áo rơi trên sàn mặc vào, rồi bước khỏi giường. Cánh cửa ra hiên vẫn mở suốt đêm, hôm qua trời vô cùng nóng bức và mãi về đêm, mưa xuống. Hương gió man mát thơm thơm mùi trầm quen thuộc thường thoảng qua căn phòng này vào sáng sớm. Cánh tay Mây đã gối đầu đâm nhưng nhức và một cảm giác hâm hấp ướt từ bụng kéo dính làn áo lụa mỏng manh. Ngoài hiên, bụi mưa còn đậu lại trên những thành gỗ ban công, tôi hít thở thứ hơi ẩm dịu dàng. Chỉ mới vài ngày về ở căn phòng vợ chồng người bạn cho mượn, tôi đã có thói quen dậy sớm vào lúc chuông chùa đổ lần thứ nhất. Không gian khi ấy tĩnh mịch, hương nhang lẫn mùi cây lá từ vườn dưới đưa lên mê hoặc tôi ngay tự buổi đầu. Trước mắt tôi, một ngôi chùa cũ xưa giữa một thành phố ồn ào hỗn độn từ đường xá, kiến trúc tới cách sống với con người là một điều lạ. Chắc cũng chẳng ai thấy chướng ngại gì khi có chiếc ban công ngang nhiên vô lễ nhìn xuống các tượng Phật trầm tư trong sân chùa như vậy. Tôi dựa vào khung cửa, cây bàng cạnh hàng rào vươn tới tận tầng lầu tôi đứng với những chiếc lá to bản đã xanh mướt đi nhờ tắm đẵm sạch sẽ sau cơn mưa. Một cành xòe ngang góc mái chùa ngói phủ kín rêu xanh, như thể lá đã che không cho nắng lọt xuống đấy bao giờ. Tất cả lắng im, chưa tiếng rao hàng, chưa tiếng honda bình bịch trong khu xóm chung quanh, cơ hồ có thể nghe ra cả hơi thở Mây đều đều sau tấm màn the phơ phất, cùng với nước róc rách trong hòn non bộ giữa sân chùa. Mọi thứ ở đó đều cũ kỹ đều mọc rêu nâu, xanh ủng, từ hòn núi nhỏ tới những chùm cây, thỉnh thoảng mới hé ra vài ánh sứ sành xanh ngọc hay trắng ngà của màu áo tiên ông hay ngư nhân thả thuyền câu cá. Xa hơn, sau hòn non bộ, qua mấy thước gạch tàu đỏ đã mòn trũng là những cánh cửa gỗ đưa vào chính điện, chúng hãy còn khép kín. Vậy mà nơi bốn góc sân, những miễu thờ đã bốc khói nhang.

Mùi hoa sứ nhè nhẹ dâng lên cùng cảm giác mệt mỏi, tôi định trở vào với Mây, bỗng cánh cửa nhỏ phía trái gần gốc cây bàng kèn kẹt. Một ni cô vắt chiếc khăn trắng trên vai, tay xách cái chậu đi đến vòi nước cạnh hòn non bộ. Tôi nhìn sững vào màu áo vải nâu nổi bật cần cổ trắng, mắt tự nhiên hoa lên, tôi ngoảnh vào phòng, hơi thở nghẹn. Mây đã nằm ngửa lại, một cánh tay thả lỏng bên thành giường, ngực nàng thênh thang tốc khỏi tấm ra xanh đậm. Mây, Mây ơi, ra coi cô Ba, cô Ba đã ngủ dậy đang giặt đồ trong sân. Tôi gọi Mây rối rít, hình như có tiếng xe gắn máy của người đàn ông vừa ra khỏi nhà cô Ba bằng ngõ sau, khuất hẳn tầm nhìn từ chiếc ban công này. Cây gòn sừng sững trước ngõ nhà cô tới kỳ nở hoa, những đám bông trắng bay lùng bùng theo gió, lọt vào tận căn gác phòng tôi, bám trên bệ cửa. Nụ bông to, trắng tròn điểm hột gòn như ngực Mây với núm vú đang phơi bày bung mở. Mây không dậy ra xem, Mây ú ớ dùi mặt vào gối, tay quờ quạng tìm kiếm. Mây không ra nhìn cô Ba vò quần áo trong cái chậu nhôm đầy bọt xà phòng, mái tóc cô vừa gội ướt rượt đen nhánh. Mây vẫn thích ngó cô Ba những lúc ấy, Mây cười nháy mắt, hai lúm đồng tiền xoáy hẳn vào, vành môi trễ xuống. Sao chỉ một ngày mà cổ xài nhiều quần lót thế hở mày? Ừ, phải, trên giây phơi, tôi và Mây cùng đếm ba bốn sáu bảy chiếc quần nhỏ đủ màu ren rua đong đưa. Cô Ba đứng dậy rũ rũ mớ áo quần vừa vắt. Ni cô rửa mặt xong lê tiếng guốc, cánh cửa nhỏ lại kèn kẹt khép. Cô Ba đã vào nhà và sắp sửa trang điểm. Chiều chiều, có khi cô trở ra sân, điếu thuốc lá hững hờ trên ngón tay. Giữa ánh nắng cô khác hẳn, rực rỡ hơn với mái tóc bới cao bỏ rớt lại vài sợi trên cần cổ, vẫn trong bộ quần áo đen muôn thuở nhưng môi son và móng tay đỏ chót. Tối tối nhìn sang, cô đã đóng chặt cửa liếp, kéo cả màn che, nhưng ánh đèn vẫn lọt ra ngoài vừa mang vẻ thân mật quyến rũ lẫn bí ẩn. Tôi còn quá ngây thơ, chưa hiểu mấy chuyện gì sau cánh cửa, Mây chẳng lớn hơn nhưng tỏ vẻ rành rẽ, thầm thì vào tai khiến tôi đỏ mặt.

Tôi nhắm mắt lại rồi mở ra. Không còn sân nhà cô Ba, chỉ là vườn chùa ươm màu quá khứ u uẩn. Hoa gòn, cô Ba và thời gian mất bóng. Tôi thở ra, vào nằm cạnh Mây. Như thấy hơi người, Mây quay sang ôm chầm lấy tôi nhưng rồi bất động. Gương mặt Mây đằm thắm hiền hòa hơn đêm qua, hơn cả hôm tôi về gặp Mây lần đầu. Không hiểu Mây mơ gì mỉm cười vu vơ. Tôi cúi hôn rèm mi Mây cong vút, hai hạt nước trào ra từ khóe mắt.

***

Khi chiếc taxi đưa chúng tôi vào đến thành phố, Mây đã có vẻ mệt. Thủ-Đức Sàigòn có vài cây số nhưng ngang Hàng Xanh, chẳng biết bao nhiêu ngả mà xe cộ quay mòng, tưởng không bao giờ có được lối ra. Trước đó, trên đường về Mây ngồi không yên, chồm người ra trước, nhỏm nhìn sang bên. Thỉnh thoảng xe chạy sát những chiếc honda, Mây ngó chăm chăm vào mặt người đàn ông đang lái, rồi lắc đầu. Khi thì gần như sự thất vọng dịu dàng. Không phải ảnh, ảnh không đeo kính như ông này! Lúc Mây nổi cáu than phiền. Không giống hắn chút nào, sao ít đàn ông coi được như hắn vậy Vân? Tôi chỉ biết ậm ừ cho qua. Nhưng Mây xem vậy chẳng vừa, ngoảnh lại giương mắt bĩu môi. Sao Vân không thèm nói gì, từ ngày đi Tây đâm mềm èo như cọng nui! Tôi bật cười trước câu véo von của Mây. Mà cũng lạ, sau bao nhiêu năm xa cách, tôi đã thay đổi những gì để đến nỗi một người như Mây tự nhiên đổi cách xưng hô, không còn mày tao như hồi trẻ dại.

Sau khi ăn xong bữa cơm của bà cụ dưới lầu mang lên, Mây có vẻ tỉnh người, ngồi đong đưa chân trong chiếc ghế bành kê cạnh cửa. Từ trưa, trời oi và đứng gió, ấm ức mãi một cơn mưa chưa hả được. Chiếc quạt trần đẩy xuống hơi mát gượng gạo, thỉnh thoảng lay nhẹ hai tấm màn vải the thành lượn sóng. Mây đưa lưng bàn tay vuốt theo đùa nghịch. Mây cười. Tôi đem đến chiếc khăn ướt chùi mặt, Mây lẳng lặng cầm rồi vụt ném cao, chiếc khăn bay qua ban công rơi độp xuống sân chùa. Tôi vội vàng khép cửa. Mây dãy nảy nóng nóng, hai tay nắm ngay vạt áo giựt mạnh, hai hàng nút bóp bựt ra, Mây không có sú chiêng, lộ tung nửa người. Tôi qùi xuống cài áo, Mây bỗng chụp lấy bàn tay tôi áp vào ngực mình xoa xoa. Tôi rút tay ra nhưng Mây càng giữ chặt rồi cầm lên mân mê tròn tròn từng ngón, từ ngón cái tới ngón đeo nhẫn. Không khí hầm hập chùng nặng hơn như hơi thở Mây, trong khi tôi nghe rõ từng tiếng đập trong ngực mình. Cuối cùng Mây chọn ngón tay trỏ của tôi, vuốt ve quanh đầu ngón rồi cúi xuống cho vào miệng, đôi môi chụm lại, vẫn đầy nét như năm xưa. Sao lại thế, sao thế được Mây ơi. Người tôi vừa run mà bầu ngực căng cứng, hai đầu gối qùi trên sàn như muốn vỡ vụn. Tôi mất thăng bằng chúi người vào Mây, nàng không để ý, mắt vẫn mở nhưng chẳng biết thấy gì chăng. Vài sợi tóc mai vương vấn hai bên thái dương đập phập phồng, Mây mải mê chậm rãi đẩy lưỡi vẽ quanh ngón tay tôi những đường tròn âu yếm. Từ bụng Mây bốc lên một thứ mùi nồng ngái không định được, mùi cỏ, mùi xà phòng rẻ tiền, mùi mây tre hay của đất bùn nắng gió ngoại ô.

Tôi vùng giật tay ra, đứng dậy kéo Mây theo. Tối rồi, đi tắm. Mây thảng thốt chùn lại. Tôi dỗ dành. Đi tắm rồi đi ngủ. Mây chợt nghe ra gục gặc đầu, dựa dính người và ôm sát cổ tôi, dịu dàng ẻo lả, nói như hát. Ngủ đi ngủ đi, ngủ sau cơn mưa ướt đẫm đời, sau cơn mưa móc. Vào tới phòng tắm, tôi giúp Mây cởi áo, nàng để yên ngoan ngoãn. Vừa vặn vòi nước, Mây ra dấu chỉ về phiá cửa xua tay, ý đuổi tôi. Mây tắm một mình được chứ? Nàng gật gật và đẩy mạnh tôi ra. Lòng chẳng yên, tôi bật chiếc truyền hình, đã tới giờ tin tức. Bên kia, thế giới của tôi đang bừng bừng sôi động, Gorbatchev tuyên bố perestroïka, nơi bức tường Bá Linh người ta tiếp tục reo hò đập ra từng hòn gạch. Bên này, vài hình ảnh chớp qua mau chóng quá, như những lằn sét loé nhanh ngoài trời. Tôi bước ra ban công, hy vọng tìm ngọn gió để dịu đi những bứt rứt kỳ lạ trong người. Một đường chân trời hẹp, đỏ ối đằng xa, cắt ngang bầu mây đen chùng thật thấp trên những khu xóm nhấp nhổm quanh đây. Cạnh ngôi chùa, vài cái cửa gỗ bong sơn cao thấp mở ra một con ngõ không rộng hơn một thước. Mấy mái tôn rỉ sét gập ghềnh chồng chất, chúc xuống con hẻm cùng những mảng ngói chênh vênh hỗn độn. Hẻm quá chật nên vắng người qua lại. Ngọn đèn vàng lù mù lơ lửng đong đưa trên sợi dây điện trần trụi, giăng ngang giữa hai cọc cây. Một người đàn bà mặc áo vải hoa ló ra từ một trong những cái cửa nhỏ, quẹt quẹt đôi dép nhựa vào hòn gạch ở thềm rồi đội chiếc nón lá lên đầu che mấy hột mưa. Dáng bà lẹt đẹt đi hàng hai, gầy thó giữa không gian vừa thấp vừa hẹp, không khác gì hình ảnh bà mẹ Mây tôi mới gặp hôm nào.

Căn nhà ấy thấp hơn cả mặt đường, tối tăm tưởng chừng có bước hẳn vào với cặp mắt cú cũng không thể nhìn ra vài thứ đồ vật lỏng chỏng bên trong. Người đàn bà đang nằm lặng im trên chiếc võng giăng giữa nhà nhỏm dậy tiến ra cửa, khi thoáng thấy bóng tôi. Bà lấy tay che ánh sáng hắt từ ngoài đường đất, mắt hiêng hiếng nhìn, rồi bất ngờ sụp xuống oà khóc dưới chân tôi. Hốt hoảng tôi lùi ngay lại đưa tay đỡ lên. Mẹ Mây đó, người đàn bà cách đây hơn hai mươi năm còn điệu hạnh duyên dáng bây giờ ra đến thế này. Dưới những sợi tóc xơ xác là đôi tròng mắt bạc. Hai bàn tay nhăn nhúm khô đét, chắp lại vái vái. Bất giác không gian trước mặt tôi khoanh gọn, hút lại thành một mảnh vuông thẫm tối mang một đốm nâu ở giữa nhòa nhòa, là căn nhà và khuôn mặt lạc thần già nua ấy.

Mấy đứa trẻ đang đá banh bên vệ đường thấy tôi dáng dấp kẻ lạ, xúm lại chung quanh xì xào. Việt kiều, việt kiều da trắng nhỡn. Chà, cái túi xách coi bộ nặng dữ, chắc việt kiều sắp cho bà già đô la. Trật lất mày, tiền việt nam mới nặng, đô la nhẹ hều. Tôi không thể nào thở nổi được nữa. Cơn giận dữ lẫn hổ thẹn nhói tim và mắt cay sè. Bỏ bà cụ lại đó, tôi bước vội lên mặt đường, vừa đi vừa chạy về chiếc taxi còn đợi cách đấy một quãng. Tới được chiếc xe, thấy anh tài xế còn ngồi trong đó, tôi mới dừng lại nhìn trở lui. Bà mẹ Mây cũng đã leo lên đứng giữa đường, ngó về tôi trân trân. Đám trẻ con tiếp tục hò hét trêu chọc. Mấy chiếc xe gắn máy chạy ngang. Giữa đám bụi mù tôi chợt nhìn thấy Mây, nàng dang tay quay vòng, áo mở tung, quần phất phới. Mây đang lượn múa theo một điệu vũ, chân bước, miệng đếm, một hai ba. Tóc Mây dài, dài quá. Bao nhiêu năm tóc chảy hầu đã chấm chân, theo vòng múa tung ra như những nhành bạch tuộc. Không rõ bằng tay hay bằng tóc, Mây chụp lấy một gã thanh niên trên xe gắn máy, hắn né người hất mạnh, nàng chạy theo, chới với. Hàng xóm hai bên đổ ra, mấy người đàn bà xúm lại ôm Mây, kéo áo quần cho nàng. Bọn đàn ông hai bên chõ mắt rồi nhìn nhau tủm tỉm. Lũ trẻ vỗ tay reo hò. Còn mẹ Mây, vẫn đứng yên, ngó sững vào những bụi nắng lung linh, hay có thể vào một điều gì không có hình ảnh. Tôi chui tọt vào xe, hối người tài xế. Chạy đi, chạy mau đi. Anh ta quay lại nhìn tôi, ngơ ngác.

Vài giọt mưa nặng đột nhiên độp xuống mái tôn, kéo theo tràng sấm ùng ùng chuyển ngang trên đầu cùng tiếng đồ vật rơi loảng choảng trong phòng tắm. Chết rồi, Mây. Tôi vội vàng chạy vào, đẩy cửa. Những chai lọ mỹ phẩm của tôi cùng thuốc gội đầu, cục xà phòng...bị Mây hất xuống sàn, tung toé trong vũng nước. Chiếc khăn tắm dầy cuộn tròn, kẹp giữa hai đùi, Mây đứng dưới làn nước, đang với với cái vòi sen trên cao. Mây không thèm để ý đến tôi, buông vòi sen, hai tay miết cuộn khăn chầm chậm lên xuống giữa đùi, nhắm mắt cong người theo động tác.Tôi đứng lặng ở cửa nhìn nàng trân trối. Chẳng ngờ thân hình Mây còn đẹp thế, những đường cong từ ngực xuống bụng uốn lượn cân đối. Bao nhiêu sức sống như muốn bứt ra khỏi làn da căng hồng. Thảo nào, Mây đau khổ. Hồi xưa, tôi chỉ biết một Mây dậy thì tươi mát, thích ghé học bài với tôi và nhất là tò mò về cô Ba, người đàn bà ba mươi ở sau căn gác nhà tôi với những người đàn ông của cô vào ra dưới bóng cây gòn. Bây giờ Mây đàn bà, tràn đầy bức xúc đến thất thần đảo loạn. Đột nhiên, Mây quăng cuộn khăn vào góc phòng rồi ngồi bệt xuống vũng nước, đập đầu vào tường, hai tay vò tóc, rít giọng cười.

Lúc tôi choàng chiếc áo ngủ của mình cho Mây rồi đưa nàng vào giường thì trời sập tối nhưng mưa vẫn chỉ lộp độp vài hạt cầm hơi. Sau khi khóc xong, Mây như mệt mỏi, thụ động. Điện đã bị cúp như thường lệ. Tất cả chìm trong một thứ bóng tà thinh lặng. Tôi nằm xuống cạnh Mây, ngó mông lung ra khung cửa để mở. Trời thiếu gió, tấm màn đứng yên thõng thượt, nhưng hồn tôi không ngừng xao động ray rứt. Tôi quay sang Mây, nàng mở mắt ráo hoảnh, hai tay và chân duỗi dài trên nệm, gương mặt thật buồn và lạnh. Một nỗi xúc động dâng lên nghẹn ngực, tôi luồn những ngón tay vào mái tóc ngắn còn hơi ẩm, thơm mùi dầu tôi đã gội cho Mây. Ngày xưa Mây để tóc dài giống cô Ba, tóc một dòng chảy mượt sau lưng. Tôi hay nghịch cuốn quanh tay, búi thành lọn. Mây ghét ai sờ tóc mình nhưng với tôi, Mây làm ngơ. Tôi thầm thì. Tội Mây quá Mây ơi. Nàng như nghe thấy, quay sang, hai tay choàng qua cổ tôi từ từ thả xuống rờ rẫm bờ vai rồi luồn vào sau làn áo. Mây bây giờ đẫm mùi quen thuộc, mùi của chính tôi, của kem thoa da và nước hoa táo xanh tôi yêu thích. Cả người Mây rướn cong, áp sát, bàn tay dồn từng làn sóng từ lưng tôi ra trước ngực. Sóng trào dâng vươn lên phủ trùm đồi ngực rồi dừng lại ở đỉnh điểm cao nhất bằng những xoay tròn vuốt ve ngầy ngật. Tôi nhỏm dậy đẩy nhẹ Mây nằm ngửa, chầm chậm hôn sâu lên đôi mi khép, vành tai, viền môi rồi lút vào cổ nàng, trườn người lên Mây. Như chạm phải luồng điện Mây rung người, hai tay giật tung quai áo của mình rồi cấu chặt hông tôi qua làn lụa mỏng. Tôi lần xuống sâu hơn, mềm môi trên làn da căng ấm và đầu vú cứng tròn. Mây lấy tay tốc áo tôi, hai chân co lên ghì níu. Từ đấy, lúc Mây thảng thốt, lúc rền rĩ, và tôi đã nấc lên với nàng tiếng kêu sau cùng òa vỡ với cơn mưa.

***

Sáng nay tôi đã trả Mây về nơi nàng ở. Trên đường xa lộ, anh tài xế ngừng xe ở một quán phở có hồ sen còn sót lại vài bông màu đã nhạt quá mùa. Gần trưa mà quán chật ních, tôi và Mây ngồi đầu bàn, nửa kia dành cho hai người đàn ông đến sau. Một trong hai có cặp mắt dài xoáy vào tôi rồi quay sang Mây. Người kia hay cười, hàm răng vàng nhựa thuốc lá, nhưng mắt nhìn thẳng ra ngoài hồ sen, tỏ vẻ không chú ý đến hai người đàn bà lạ ngồi bên. Tôi, trong quần jean và áo thun ngắn, khác Mây, với bộ bà ba vàng nhạt. Tôi vắt chanh vào hai tô phở, Mây lùa đũa vài ba lần, liếc gã đàn ông mắt dài làm tôi đâm bực, giục ăn đi. Mây bỗng đẩy ngang bát phở qua bên, giọng gọn lỏn. Không ngon bằng phở bà Lùn. Tôi bật cười. Sao không bằng. Mây chẳng đáp, cúi xuống mân mê cọng giá trắng muốt. Đột nhiên nàng nói to. Phở bà Lùn năm trăm một tô, mẹ bảo Vân gửi cho Mây một ngàn, Mây ăn năm trăm, còn để dành cho cu Tuấn. Rồi tự dưng Mây trợn mắt giận dữ. Mấy người nói láo, lường gạt, ta biết nó chết, nó chết lâu rồi phải không? Người đàn ông răng vàng không cười nữa, gã mắt dài ngó sững chúng tôi. Đặt vội mớ tiền lên bàn, tôi kéo Mây đứng dậy đẩy đi. Mây vẫn nhùng nhằng chưa nguôi. Tôi van xin. Đừng hỏi nữa Mây ơi. Tôi muốn ôm nàng vào lòng như buổi trưa hôm ấy, giữa sân đất đầy nắng và gió khi tôi đến tìm Mây sau nhiều năm trời.

Nắng hắt từ ngoài cánh đồng, chiếu sáng những mái tôn của hai căn nhà trệt thấp lè tè nằm thẳng góc, chừa ra một khoảng sân loang nắng dưới dàn mướp còm cõi. Thấy tôi vừa bước xuống honda vừa bỏ cặp kính mát, Mây đang ngồi đan giỏ tre trên chiếc chõng gần gốc cây đã toét miệng cười. Không có nụ cười này làm sao tôi nhận ra đứa bạn gái thân thuộc của mình ngày xưa. Tôi ngỡ ngàng chầm chậm bước đến gần Mây, nàng gọi nhỏ. Vân đã về. Chẳng ngờ Mây còn biết cười và nhìn ra tôi. Điều lạ, trong cảnh sống thiếu thốn mọi thứ nhưng Mây trông mập mạp hơn hồi con gái. Nước da hồng quân thủa nọ giờ càng đậm đà. Chung quanh nàng những lạt mây tre ngổn ngang. Một cô gái nhỏ mặt ngờ nghệch cũng ngồi đan ở đấy thấy tôi, nhe răng cười, đầu đẩy đưa như quả lắc đồng hồ.

Tôi ngồi xuống cạnh Mây, nàng xoè bàn tay trầy sát những lằn tre cứa vò vò bâu áo trắng của tôi. Nụ cười đã tắt. Tôi cảm động chưa biết nói gì, Mây bỗng hỏi. Sao Vân đi học không mặc áo dài. Rồi nghiêng đầu về phiá người bạn đã chở tôi đến đó, đang châm điếu thuốc cạnh chiếc xe, nàng trách. Bữa nay gan bằng trời rồi nghe, mà hắn là ai sao chưa gặp. Mây cứ tự nhiên nhìn ngắm anh ta. À, không mặc đồ lính, ư, đừng thèm yêu lính. Thời này yêu lính đầu quấn khăn tang nhanh lắm Vân à. Tôi nghẹn ngào kéo ôm vai Mây. Hết chiến tranh, hòa bình rồi Mây ạ. Nàng ngả đầu, mái tóc đã vương dăm sợi bạc. Chẳng còn phân định thời gian, Mây lùi lại từ thủa tôi mặc áo dài trắng mỗi sáng đến trường, đứng đợi Mây dưới gốc cây ngâu nở từng chùm hoa li ti thơm ngát, ở cổng nhà nàng. Mây xách cặp bước ra yểu điệu than thở. Đêm qua nóng quá tao ngủ không được. Chị người làm đang bới tóc cho bà mẹ Mây ở hiên cười hinh hích. Cô Mây thức đêm viết thư tình, anh chàng mặc áo lính trây- di bữa nọ kia tề. Mây nguýt dài, kéo tuột tôi đi. Mẹ nàng dặn với. Này con Mây lo mà học như con Vân, đừng có lúc nào cũng mơ với mộng!

Gió nóng ngoài ruộng lốc lên làn bụi cỏ, lá khô và những vụn tre họp nhau chạy tròn trên sân đất. Mây bỗng đứng dậy, đi thoắt ra giữa cánh đồng chỉ toàn là cỏ may mọc cao. Ống quần bà ba rộng lất phất tới đâu, muỗi mòng bốc bay lên, cào cào bị động nhảy loi choi. Tôi sợ, gọi to. Đi đâu Mây ơi, cỏ may chích chân đau lắm. Mây tiếp tục bước, tay xua xua. Tôi mở lớn mắt. Ruộng cỏ đang dâng cao dần lên, cao mãi và Mây sắp ngập chìm mất hút trong dòng sông xanh dập dềnh bọt nước bạc. Hai bà sơ từ trong nhà nghe tiếng động chạy ra, một bà còn trẻ cùng người bạn tôi xông vào kéo Mây lại. Nàng vừa dằng co vừa hét. Khi Mây bị đưa trở lại chiếc chõng tre, nàng sừng sộ, giựt mạnh cánh tay khỏi sự kềm giữ, nhưng sau đó ngoan ngoãn ngồi xuống bên tôi. Mây lại hiền từ như trước, vẻ suy nghĩ đăm chiêu, cất giọng trầm trầm quan trọng. Này Vân, nghĩ xem, cu Tuấn học giỏi thật, nhưng mới mấy tuổi đầu mà đã được nhà nước cho đi du học rồi à, vô lý, ngày Vân đi, đã mười tám. Tôi sững người trước câu nói rành rẽ của Mây. Bà sơ già đứng ở ngưỡng cửa chắc lưỡi. Lúc này lúc khác. Tôi nói ngày mai trở lại đón Mây. Bà sơ ngần ngừ, rồi than phiền về hai căn nhà dột tứ tung cần thay mái, giỏ đan bán không đủ chi tiêu. Rất ít người được mẹ thăm nuôi như Mây, còn để lại tiền cho ăn phở quán bà Lùn, ở ngay đầu lối rẽ. Tôi đứng lên mở túi xách. Bà sơ lấy khăn chặm chặm cặp mắt lem nhem. Mây ngồi co chân cặm cụi gỡ những bông cỏ may bám đầy hai ống quần, trán lấm tấm mồ hôi. Tôi cúi xuống xiết nhẹ vai nàng. Ngày mai mình về, đi phố. Mây ngửng lên, lặng thinh, rồi mắt mênh mông hướng ra cánh đồng cỏ vẫn sáng rực. Bất chợt tôi nhớ và thèm hình ảnh hai đứa đèo nhau trên solex, trong chiều Sàigòn cuối năm khô và gió.

***

Gom nốt vài món đồ cuối trong tủ áo vất vào chiếc vali mở toang trên giường, đầu óc tôi lãng đãng. Bó cúc vàng một tuần qua cắm trong bình tàn quá mức, những cánh hoa rụng xuống mặt bàn cũng đã khô quăn. Không ngờ từ hôm gặp lại Mây, tôi bập bềnh trong chuyến về quê hương. Chủ tâm đón nhận những cảm xúc, suy tư khách quan bị đẩy lui, mất biến. Tâm thức trôi giạt vào dòng sông ký ức, và hiện tại bị xoắn bện những sợi dây cước cứa rát vô hình. Mấy bộ áo quần mỏng manh đem về mặc xứ nóng, dăm ba món quà gom được trên con đường phố chính thướt tha nhộn nhịp những chiều thứ bảy năm nào, giờ vừa thân thuộc vừa lấn cấn như một người tình cũ. Tôi cúi xuống cầm lên xấp bưu ảnh quê hương, kỹ thuật in ấn còn lèm nhèm màu mè xanh đỏ. Trong đó lẫn một phong thư mang dấu bưu điện cách đây hơn ba năm, lúc bà mẹ Mây còn khá tỉnh để viết cho tôi về những năm tháng ấy. Ở phiá bên kia đời sống, tôi làm sao mường tượng nổi giông gió nào đã thổi giạt cả hai người đàn bà đài các vào vùng mây mù lạc hướng. Trong sương trời dầy đặc, Mây mềm mại xưa có lúc chìm đắm, có khi bưng bưng bức xúc đoạn trường tới thênh thang thân xác giữa phố phường như một phản kháng tuyệt vọng. Như thể những cơn động đất này đã phá vỡ nhưng vẫn chưa đủ tan hoang sự sống nàng.

Sau tờ thư ấy, thỉnh thoảng mẹ Mây chỉ còn viết được dăm hàng, rồi bặt hẳn cho đến lúc tôi về, để thấy hiện tại và quá khứ nhập nhoạng chất chồng lên nhau như mảnh vuông u tối mang đốm tròn nâu chờn vờn chuyển động. Không gian vừa lung linh những bụi hoa cỏ may vừa tung hê từng mớ bông gòn trắng bung năm cũ. Ký ức bị cắt ngang bởi thực tại bằng những lạt mây tre chuốt sắc, Mây ngồi đan từng chiếc giỏ nơi căn nhà mái tôn nhòe nắng. Tôi xé toang bức thư ra làm hai, trọn gói trong phong bì, đứng dậy vào phòng tắm tìm sọt rác. Ánh sáng giữa trưa từ cửa sổ nhỏ rọi vào tấm gương cùng khuôn mặt tôi trên cái cổ cao gầy. Đôi mắt Mây nâu mơ màng có đuôi, trong khi mắt tôi đen hạt nhãn tròn. Bây giờ màu mắt Mây đã bàng bạc khói sương, còn tôi, vẫn mở to nhìn mình cùng mọi điều trước mặt. Nhưng hôm nay, tôi thấy được những gì, từ tôi, đột nhiên đã khác. Kéo chiếc áo tuột khỏi đầu, bất chợt đưa tay mân vòng khoanh bụng và khuôn người trắng trần mỏng mảnh. Mây đã xa rồi nhưng màu da và bộ ngực Mây thắm và đầy, rưng rưng nỗi sống còn dấy niềm rạo rực quanh đây. Lại khoác áo vào. Những lược gương, mỹ phẩm còn lỉnh kỉnh trên kệ. Bỏ tất cả lại hay đem đi. Từ hôm có Mây, tôi không còn trang điểm, phấn son tựa tuồng tích bên cạnh Mây tự nhiên bồng bềnh. Chỉ có mùi hoa táo xanh vẫn là một nỗi gì gần gũi. Liệu Mây biết chăng, tôi đã bỏ hương thơm đó vào túi quần áo nhỏ cho Mây khi đưa nàng về với cánh đồng cỏ may trưa ấy.

Tôi ra đóng hai cánh cửa ban công. Lung linh bóng lá trên sân gạch vườn chùa. Mấy chậu mai chiếu thủy thả đầy những bông hoa trắng. Màu hoa sứ thắm hơn giữa nắng ban ngày. Hai ông Thiện và Ac mặc áo xanh đỏ, sừng sững đứng dính vào hai bờ tường bên ngoài chính điện. Ông Ac giương đao trợn trừng như sẵn sàng chém xuống người thế gian trần lụy. Ông Thiện dáng chừng bất lực, mắt buồn bã trầm ngâm trên chiếc chiếu hoa trải ra tận thềm. Hình như sắp là giờ khóa lễ, thấp thoáng những ngọn đèn hoa sen cháy đỏ và vài bóng người qùi gối sau khung cửa. Tôi loay hoay tìm dáng ni cô nhỏ nhắn. Có phải chính cô đã đổ những hồi chuông gióng dài trong hồn tôi một quá khứ. ‘‘Đêm trước ngày đi nằm đợi tiếng chuông’’. Bây giờ mới hai giờ trưa, không phải là đêm cuối cùng xưa, khi tôi và Mây đã vào giường bỗng nghe tiếng kẹt cửa vọng lên, vội tung mùng chạy ra. Bắt gặp cô Ba sắp bước vào căn nhà tắm nhỏ trong góc sân, tấm áo cô khoác lơ lửng trên người không cài nút. Anh trăng lóng lánh trong vại nước và trên da thịt cô màu sữa đọng. Đã đôi lần, chắc không còn ai chờ đợi trong nhà, cô nhẩn nha đứng dựa gốc cây, thản nhiên phơi trần nửa người trong đêm hâm hấp. Khuôn mặt khuất trong bóng tối cành lá, chỉ có đầu điếu thuốc chập lên từng đóm sáng ma trơi. Bao nhiêu năm trời đã qua, hình ảnh cô Ba vẫn dậy trong tôi những cảm giác rộn rạo, nôn nao cùng bất an, lẫn lộn. Chẳng hiểu Mây còn nhớ gì về người đàn bà đã từng mê hoặc Mây không. Chỉ ngày rằm, mùng một, cửa nhà cô mở rộng. Cô thong thả ra sân bày hoa quả thắp hương, dưới ngọn đèn treo trên cành trứng cá. Khói nhang bay tỏa khuôn mặt cô thành khẩn. Cô nào biết rằng trên căn gác tắt đèn có cửa sổ xanh đối diện, hai đứa con gái đang nhìn cô khấn khứa.

Mây đứng sau lưng, phà hơi thở nóng vào gáy tôi, thỉnh thoảng ngưng lại như đang hồi hộp đợi chờ một điều gì bất chợt sẽ xảy ra. Hai bàn tay Mây dịu nhỉu xoa vai tôi rồi vuốt lần xuống cánh tay trần. Sao vai mình không tròn như cô Ba mày nhỉ. Rồi Mây tiếp tục suýt xoa. Giá cô Ba mặc quần áo trắng dưới trăng chắc ma quái lắm. Tôi gật đầu, trong bóng tối. Cổ mà thành ma sẽ bắt hồn mày trước. Mây bấu vai tôi cười khúc khích. Tao đi trước rồi mày theo sau. Tôi phản đối. Theo mày làm gì. Mây tỉnh queo. Thì, cho biết vậy mà. Tự nhiên tôi thấy lạnh người. Thôi đi, nghe mà sợ, mày làm tao tưởng nhà này ở phố Đạm Tiên. Mẹ tôi dưới nhà gọi lên. Hai đứa không ngủ đi, ngày mai con Vân ra phi trường sớm đó nghe. Mây bỗng thả lỏng bàn tay, im lặng bất ngờ. Tiếng cô Ba xối nước từng đợt rào rào trong đêm khuya. Đồng hồ bên nhà hàng xóm thong thả điểm hai hồi rõ rệt, buồn bã.

Không gian mòn cũ rêu phong và hai cánh cửa căn phòng này rồi cũng như quá khứ, phải khép lại. Nhưng ngọn suối trên hòn non bộ sẽ đổ mãi xuống dưới chân cầu dòng nước thời gian. Mây đã qua đây một ngày. Những gì chúng tôi vừa chợt sống với nhau Mây có nhận biết chút nào chăng, trong khi nhiều chuyện ngày xưa vẫn rõ ràng tựa hồ hiện tại. Nếu có, Mây sẽ sống ra sao với cảm giác sâu hút lẫn tan tành, dấu vết của đêm mưa ấy, trong những ngày còn lại. Nhưng dù thế nào thì tôi cũng sẽ đi, bỏ Mây trôi mãi một mình trong chập chùng ẩn ức. Tất cả đã đóng chặt. Tôi lê chiếc vali tới gần cửa ra vào cạnh cầu thang, để chốc nữa người tài xế xách xuống cho tiện. Giờ, tôi đi chào một vài người thân trước khi ra phi trường. Không phải để rồi bay đến một thành phố, một xứ sở hoàn toàn xa lạ, như ngày mười mấy tuổi, lần đầu ra đi, có Mây mong manh vẫy tay tiễn biệt, mà để trở về nơi cư ngụ. Chẳng mấy chốc, tôi sẽ bỏ mình cuốn đi băng băng vào một dòng đời khác, như đã từng.

Khoá hai vòng cửa, đi xuống cầu thang rồi băng qua con hẻm nhỏ, tôi bước ra đường phố. Nắng bỗng dịu đi, những cuộn mây cuốn tròn trên đầu và một làn gió nhẹ hong khô mấy giọt mồ hôi rịn ướt trên trán. Con đường này khá yên tĩnh, buổi trưa càng thưa vắng. Anh taxi thường đón tôi đến muộn. Bên hè phố, gánh đu đủ đỏ cam, từng miếng cong cong xếp đều trên hai thỏi nước đá đầy vết trấu. Người đàn bà ngồi bán đang cúi đếm xấp tiền mỏng với hai bàn tay sạm cháy, nhác thấy bóng người liền ngửng lên chào mời. Một giọng nói thanh và nhẹ. Tôi giật mình hơn trước nụ cười tươi với hai lõm tròn sâu trên má. Chiếc xe đã trờ tới sát bờ, tôi mở cửa bước vào, ngoảnh nhìn cô thêm lần nữa. Anh tài hỏi đi đâu, tôi buột miệng thốt một câu rồi buông đầu vào thành nệm.

Mây mặc áo cánh trắng, đang lúi húi tưới rau với bà sơ trẻ trên mấy luống cải ở hông nhà. Mọi thứ nơi đây hầu như khô, trống. Ngay cả những vồng cải cũng chẳng đủ sức mọc cao, chỉ có đồng cỏ may xem chừng hớn hở. Bà sơ lăng xăng bên Mây, cười nói lép chép, nhưng Mây không trả lời, lặng lẽ rê cái gáo dừa rót từng sợi nước, rồi lại đến thò vào cái lu dưới ống máng nghiêng vẹo, thõng xuống từ mái nhà. Thỉnh thoảng Mây đưa tay vén tóc ra sau tai. Tôi xót xa lặng nhìn, cử chỉ này thân thuộc quá. Bỗng Mây ngửng lên ngó ra đường nắng. Tay vẫn cầm gáo dừa, nàng trân trối. Rồi tôi chỉ kịp nhận ra một bóng trắng ập tới, bao quanh, xiết chặt lấy mình. Tôi chới với dang tay ôm lấy vòm mây, dúi mặt vào một điều rất thực. Nào ngờ, từ đó, mùi táo xanh rưng rưng, trên da thịt Mây nó đã hấp hương đằm thắm. Những ngón tay cuống quít níu chân tóc tôi, môi Mây lần quanh cổ gậm nhẹ vành tai. Bỗng dừng lại, thì thầm. Vẫn có điều kỳ diệu trên đời, tao tưởng sau đêm mưa, mày không đến nữa. Tôi sững sờ, đẩy Mây ra, nắm lấy hai bàn tay mềm nhưng ram ram vết cứa. Vẻ bàng bạc ngờ dại trong mắt đã bay đi, Mây nhìn suốt qua tôi. Có những giọt nước của cơn mưa đang rừng rực bốc hơi trong tia nắng cháy.

Mai Ninh
(tháng năm 99, với ND và TV)
Phượng Các
#16 Posted : Sunday, December 5, 2004 1:42:25 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,704
Points: 20,055
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
BÃO CÁT

Mai Ninh


Trong khoảng giữa buổi chiều thăm viếng cơ sở và dạ tiệc, tôi chạy về nhà thay quần áo. Dưới vòi nước ấm, tôi nao nao xúc động nhớ lại từng khuôn mặt bạn bè. Ngoài một hai người thỉnh thoảng gặp nhau nhờ ở lại nơi này sau khi tốt nghiệp, còn hầu hết thì sau một phần tư thế kỷ đã qua đi, bây giờ mới tái ngộ. Làm sao không ngẩn người trước những tên bạn ngày xưa mặt mũi căng hồng tí tửng nhố nhăng, giờ đây làn da gấp nếp, râu ria đạo mạo, ra dáng xếp lớn xếp nhỏ cả rồi. Và dấu chân chim của thời gian càng rõ rệt hơn nữa, nơi những cô đầm bạn gái của tôi.

Sau bao năm biệt tích, cách đây mấy tháng, vợ chồng tên trưởng lớp gọi tìm tôi ngỏ ý muốn làm cuộc họp mặt bạn bè toàn lớp kỷ niệm hai mươi lăm năm và nhờ tôi tổ chức buổi viếng thăm trường cũ cùng vài cơ sở liên hệ quanh vùng. Trong đám bạn tôi ngày ấy, hai người này đã là vợ chồng khi vào năm thứ nhất; năm sau nữa lại một cô đám cưới và đến năm cuối cùng thì một tên khác lấy vợ. Ða số đã về đây từ tối hôm trước, nhưng sáng bữa sau tôi mới gặp lại tất cả trong giảng đường của ngôi trường đã khác hẳn năm xưa, hiện đại hơn, đồ sộ hơn với sự đóng góp của nhiều ngành kỹ nghệ. Bạn bè nhận ra nhau, qua lúc đầu bỡ ngỡ là ồn ào niềm vui. Ðến nỗi, sau khi ông giám đốc hiện thời vừa chấm dứt vài lời chào đón bọn học trò cũ, tên nghịch ngợm nhất khi xưa đã cởi ngay áo veste, trèo lên bàn, phóng tung những chiếc tàu bay giấy mà hắn vừa gấp vội vàng. Chúng tôi vỗ tay la ó náo nhiệt như thuở nào.

Bữa tiệc đêm được tổ chức trong một trang trại đã tân trang thật thích hợp với kiến trúc trong vùng. Những xà nhà nâu bóng, những bức tường đá nổi cùng bàn ghế gỗ mượt nước thời gian, đã được chủ nhân chủ tâm chọn lựa khi biến nông trại này thành một khách sạn nhà hàng nổi tiếng. Sự tân trang này tạo ra khung cảnh lịch sự ấm cúng bên trong mà vẫn giữ lại được chút quê mùa nên thơ của cảnh vật ngoài vườn. Khoảng sân nuôi gà vịt, súc vật xưa kia nay trở thành sân chính, ba bên được bao bọc bằng những dãy nhà ăn, khách sạn và phòng tiếp tân. Ðây đó còn một miệng giếng đá cổ dưới giàn hoa leo tim tím và bồn nước uống cho ngựa. Góc kia là chỗ chất cỏ khô, máy ép nước táo với những thùng gỗ sồi đựng rượu. Chung quanh, những hàng cây xum xuê ửng đầy táo đỏ của mùa thu.

Trang trại cách thành phố khá xa, đường đi quanh quất. Tôi chạy lạc một vòng nên đến nơi khi mọi người đang vào bàn. Chưa biết ngồi đâu, tôi chạm phải ánh mắt N., một thúc đẩy vô hình, tôi ngồi xuống cạnh anh. Bên phải N. là một người đàn bà mảnh mai, tóc bạch kim sáng dưới ánh đèn. N. giới thiệu vợ mình. Tôi đưa tay ra, cầm lấy một bàn tay mềm nhưng hờ hững, giống màu mắt xanh thẳm lạnh lẽo của cô. Chúng tôi bắt đầu ăn uống trong không khí ồn ào náo nhiệt. Sau một ngày hội họp, tuy có lúc vui tếu nhưng thường bắt buộc phải nghiêm trang, bây giờ mới được thả giàn thoải mái. Cả bọn hồi sinh, hoàn đồng, đứa nào cũng tranh nhau thăm hỏi. Nghe từng mẩu chuyện, nhìn từng người bạn một, diện mạo thay đổi đã đành, tôi còn ngạc nhiên biết bao trước những thay đổi về cung cách, về con người. Hình như chẳng phải do thời gian, mà chính là đời sống và cách sống đã làm người ta đổi khác đến như vậy.

Anh chàng M. chuyên học gạo hồi xưa, lúc nào cũng chúc đầu vào đống sách, cặp kính cận dầy nặng trễ xuống tận miệng, đang huênh hoang khoe rằng, bây giờ cái giường của anh ta kê trên máy bay. Làm phó giám đốc một hãng truyền thông lớn, cứ rời các buổi họp là anh ta trèo lên máy bay ngủ khò lấy sức. Bao năm nay không sờ tới một quyển sách. Còn cậu J. mặt mày trắng bóc thư sinh, vô cùng nhút nhát, cứ đứng trước mặt các cô là bắt đầu lắp bắp. Thế mà giờ đây cũng điềm đạm, chững chạc bên bà vợ khá duyên dáng. J. giảng dậy ở mọt thành phố khác, nghề nghiệp giúp J. chế ngự được tật nói lắp của mình. Còn con bạn tếu của tôi! Cuối cùng nó cũng lấy tên bồ bác sĩ, nhưng rồi li dị sau đó. Nó là đứa duy nhất đã bỏ hẳn cái ngành chúng tôi theo học. Không dưng, nó chán nghề, ghi tên học môn luyện giọng cho trẻ em bị ngọng. Nó cười khoe:

- Bây giờ, tao giao thiệp toàn với bọn tai to mặt lớn.

Thấy tôi tròn mắt, nó nhún vai:

- Mày không biết, con nít đến tao chữa, toàn là con của họ. Ấy, bọn chính khách chuyên dối gian thánh tướng, nên lũ con thường ngọng cả!

Cuối bữa ăn, khi nhà hàng dọn cà phê và rượu mạnh, chúng tôi bắt đầu giở ra những tập hình cũ của mỗi người mà trước đó tên trưởng lớp đã dặn dò mọi người nhớ đem theo. Tấm này, cả nhóm mặt mày còn non, bảnh chọe trong y phục dạ hội, tấm kia trong khu chợ souk, mấy đứa đang dằng dai mặc cả mua cái púp trong nửa tiếng đồng hồ, chỉ để xuống giá vài đồng! Những gian hàng vải vóc, gia vị màu mè sặc sỡ. Quán trái cây bên đường treo những chùm cam quít kết thành dây vàng rực...Và tôi, trên con lạc đà có con mắt lồi thật hiền từ với hàng mi dài rậm. Chỉ nhìn qua đã nhớ ê ẩm cơn đau đáy lưng và hai bên đùi. Những hình ảnh gợi lại các pha đùa nghịch hài hước trong chuyến đi sa mạc Bắc Phi hai mươi lăm năm trước, trải đầy trên mấy chiếc bàn. Có cả tấm chúng tôi quấn chăn chùm mền mỗi người một đống ngồi sát bên nhau. Bao nhiêu kỷ niệm tưởng chừng đã quên không ngờ sống lại đêm nay với những lời bàn ra tán vào, chọc ghẹo. Bỗng tên trưởng lớp cầm một tấm ảnh giơ cao:

- Ê, đứa nào nói được hai cái bóng ma âu yếm này là ai, tao thưởng!

Mọi người nhao nhao:

- Ðưa xem, đưa xem...

Tấm ảnh chuyền đi, người bảo tên này, kẻ nói tên khác, tên trưởng lớp vẫn lắc đầu. Khi đến bàn tôi, con bạn nhanh tay chụp trước, tôi chưa kịp ngoái sang tay nó, hắn đã nheo mắt ngó lại tôi. Ánh mắt tên trưởng lớp nửa xác định nửa chế riễu, vợ hắn đứng sau lưng cười mỉm. N. choàng tay với lấy. Tôi liếc qua. Một tấm hình thiếu ánh sáng, mờ mờ hai bóng người dựa bên nhau, nhưng một cái lu đất sáng rõ hơn trong góc ảnh, như có ánh đèn rọi thẳng vào. Vợ N. cũng quay sang ghé mắt nhìn. N. đút ngay tấm ảnh vào túi áo, rồi thản nhiên cầm ly rượu giơ cao về phía tên trưởng lớp:

- Cám ơn bạn, đã cứu ta trong cơn bão cát, lại còn chụp cho tấm hình kỷ niệm.

- Hì hì, cho gì! Tao bán đấy. May mà lúc nào tao cũng đeo theo cái máy ảnh.

Bọn còn lại chợt hiểu ra, vỗ bàn rầm rầm:

- A, nhớ rồi, hai đứa nó trốn biệt vào đó bàn chuyện thế sự để tụi mình lo sốt vó!

Bên kia N., vợ anh cũng cầm ly mình lên uống cạn rồi cô chau mày đặt xuống. Tôi không uống rượu, nhưng mặt nóng bừng, hai tay loay hoay, không biết để vào đâu. May thay, lúc ấy, ban nhạc trên cái sân khấu nhỏ ở góc phòng, vẫn chơi nhạc nhẹ từ đầu bữa ăn, vừa đổi qua một điệu nhảy sống động. Vợ N. đứng ngay dậy kéo tay chồng, N. bước theo. Con bạn bấy giờ huých tôi:

- Hắn tỉnh bơ thật, mà có sao, đâu còn gì giữa họ nữa!

Tôi trông theo, chẳng hiểu sao không chút ngạc nhiên nào. Vợ N. nhảy rất đẹp, nhưng mặt cô không tươi cười mà lành lạnh.

- Này mày, giọng nói và màu tóc cô ta không hẳn Pháp.

Con bạn gật đầu, chép miệng:

-Ờ, gốc Ðức, bởi vậy quen gì nổi cái xứ mênh mông là biển của N.

Rồi nó chợt nghiêm trang:

- Còn mày, chia sẻ bớt chuyện đời cho tao nghe đi.

Tôi gạt liền:

- Thôi mày ơi, chuyện tao như con cá chết, mày nên nghe mấy đứa kia kể chuyện vợ chồng con cái, tậu nhà tậu cửa, coi bộ thích thú hơn. Mày có biết D. đang tính bỏ việc sang Dakar chạy đua xe hơi không?

Vừa nói tới đó thì D. xuất hiện, nghiêng mình kiểu cọ mời tôi một bản, còn đùa thêm:

- Nhảy hết bài nghe M., đừng có xô tôi nhào xuống đất như hồi xưa đó nhé!

Tôi bật cười. Bao nhiêu năm rồi, anh ta vẫn chưa quên! Trên sàn nhảy, thỉnh thoảng chúng tôi đến gần vợ chồng N. Chỉ thoáng qua màu áo nâu nhạt và chiếc cà vạt hồng của N., tôi bâng khuâng thoáng nhớ một lần nào như thế khi chúng tôi còn rất trẻ.

Bản nhạc vừa dứt, tôi cảm thấy ngột ngạt vì khói thuốc, nên bước về phiá bên kia phòng ăn, có cửa mở ra một khoảng sân nhỏ che kính, trồng nhiều loại hoa miền nhiệt đới. Bầu trời đêm đen thẵm, xa xa trong vườn, vài trụ đèn lồng rọi trên sân sỏi và những giậu hoa hồng nở muộn. Tôi dễ thở hơn với bóng tối dìu dịu. Một nỗi buồn khó tả, nhè nhẹ trong hồn tôi. N. đã đẩy cửa bước vào, tôi thốt nhiên rùng mình, đưa tay ôm lấy hai vai. N. làm như không thấy, mà có lẽ anh chẳng thấy thật, nói tự nhiên:

- M. ra nhảy chứ, đứng đây coi chừng lạnh.

Tôi biết không thể nào khác hơn, đành theo anh. Nhiều cặp chuyển động giữa sàn, nhưng vợ N. với màu áo voan xanh nổi bật hơn tất cả. N. vừa nắm tay tôi bước vào điệu nhạc vừa nói:

- Cô ấy có thể như thế cho tới sáng.

Tôi cố thản nhiên:

- Thì anh cũng vậy, chìm trong biển, từ sáng đến chiều!

N. chẳng trả lời, kéo tôi vào một góc thoáng, rồi hỏi thật bất ngờ:

- Sao tối nay M. không mặc áo dài như đêm năm xưa?

- À, tôi...không nghĩ tới.

- Cũng may, M. mà mặc, thằng D. lại dành mất!

Thật lạ, cả N. và D. cùng gợi lại đêm khiêu vũ mà bọn sinh viên năm cuối chúng tôi tổ chức theo thông lệ của trường, để lấy tiền du lịch trước khi mãn khoá. Trong lớp, hai mươi mấy học trò, chỉ có năm đứa con gái. Chúng tôi làm nữ tiếp viên mệt khờ cho đêm ấy đông gần ngàn người vì nổi tiếng nhất thành phố, luôn luôn thành công. Số tiền lời dư thừa cho cả lớp lang thang hơn mười ngày qua Bắc Phi, xuống sâu vùng sa mạc.

Trong buổi dạ hội năm đó, đến khoảng nửa đêm, khi phận sự hướng dẫn quan khách đã xong, bọn tôi mới được vui chơi. Vừa cởi tấm khăn quàng tiếp tân ra khỏi chiếc áo dài lụa bạch là tôi bị D. chạy tới lôi ra sàn nhảy. Hắn tấn công ngay:

- Không ngờ áo Việt Nam đẹp quá! Tao...

D. chưa dứt câu, mấy tên bạn nhảy gần đấy với qua:

- Ê, không được giữ lâu nhé, nhường phần cho tụi tao.

D. lắc đầu quầy quậy:

- Tao độc quyền, với cái áo này, ôm cổ trong tay cứ y như là cổ chẳng mặc gì hết!

Tôi ngượng chín người, xô mạnh D. ra, anh ta loạng choạng mấy bước, bọn bạn chung quanh cười òa. Không biết N. đang ở đâu gần đó, chạy tới gỡ rối, rủ tôi ra quầy nước. Khi tôi đã nguôi, N. mới nói:

- Hôm nay M. thật khác. Không thể nhận ra cô sinh viên ngày thường tôi vẫn thấy, áo pull, giầy ống. Ở xứ M., cô gái nào cũng mặc áo kiểu này ư? -

Tôi gật đầu:

- Vâng, bọn con gái đi học đồng phục như vậy cả, màu trắng - rồi nói thêm - nhưng vải dầy hơn!

N. nheo mắt cười, xoay ly rượu trong tay:

- Chỉ tưởng tượng thôi, đã thấy dễ thương quá! Mình ra nhảy nghe M.

Ðã hai mươi mấy năm trôi qua, bây giờ hơi thở N. cũng nồng thơm mùi rượu. Cánh tay anh ấm áp sau lưng, và bàn tay kia anh xiết nhẹ những ngón tay tôi. Tự nhiên tôi muốn thả người để được rơi vào một cõi bình yên. Tâm hồn lơ lửng theo tiếng nhạc, chập chờn trong hai tà áo dài của thời tuổi trẻ lượn bay như cánh bướm. N. ôm sát tôi vào anh hơn, cúi xuống trên mái tóc, lùi xa dần những người khác. Vai tôi chạm vào tấm ảnh anh bỏ trong túi áo sơ-mi. Cả hai cùng bật tiếng cười. N. nói nhỏ:

- Sao M. không hỏi thăm tôi ra sao từ độ ấy?

Tôi kêu thầm trong bụng, Ừ, anh khôn lắm, muốn tôi hỏi anh ra sao, để anh có thể hỏi lại tôi thế nào chứ gì? Và tôi sẽ phải trả lời anh! Tôi biết tôi vẫn nợ anh câu trả lời từ độ ấy rồi mà. Xin anh hãy tha tôi đi, N. ạ.

N. đưa tay đẩy tôi quay một vòng rồi dịu dàng kéo lại. Không thể tránh được, tôi cười trong mắt anh:

- Không cần hỏi, tôi đã biết, trước sau gì anh cũng trở về vùng biển của anh. Nghe nói anh có việc làm quan trọng nơi ấy mà.

- M. đâu biết được, trước khi tìm ra việc ở đó, tôi qua nhiều thăng trầm, khó khăn. Mỗi lần chán, hết tinh thần, là mỗi lần nhớ lời M. chế nhạo, tôi có chút thông minh nhưng hay để cho xúc động chiếm lĩnh trí tuệ.

Tự nhiên tôi thở dài tiếp lời anh:

- Nhưng cũng chẳng ra gì, thứ trí năng trần trụi cảm xúc!

Nghe tôi nói thế, N. buông tay, nâng nhẹ cằm tôi, ngập ngừng:

- Này, cô bạn nhỏ, sao cô nói vậy...cô hạnh phúc không?

Ôi thôi rồi, tôi phải nói gì đây! Tôi luôn luôn sợ phải nói về mình như chạm phải một con rắn độc. May thay, bản nhạc chấm dứt ngay lúc đó. Tôi nhẹ nhàng gỡ tay, trước khi bước đi tôi ghé vào tai anh:

- Ðừng giữ tấm ảnh, bão cát trong sa mạc đã ngừng nghỉ lâu rồi.

***

Sa mạc sắp hiện ra, sa mạc mênh mông, hoang vu mà chúng tôi náo nức đợi chờ ngay từ đầu cuộc hành trình. Cuối con đường quốc lộ tráng nhựa, khi xe qua một cây cầu lớn là bắt đầu địa phận hoàn toàn trấn ngự bởi thiên nhiên. Hai bên cát vàng cháy, khi cuộn tròn thành những đồi xoáy mịn màng, lúc thênh thang trải tràn tận chân những dãy núi chập chùng. Có ngọn trắng xóa nhọn tưởng xuyên trời, có ngọn đỉnh cắt bằng như một bức tường đỏ quạch khổng lồ. Thế giới bên kia dãy núi ra sao? Có khác thế giới bên này, không bóng người, không sự sống, không màu xanh cây cỏ? Trong chiếc xe ca lắc lư trên con đường đất nện, bọn con trai chụp hình lia lịa. Những luồng gió nóng rát tát qua mặt, hừng hừng. Tôi đang mải mê nhìn cảnh vật, con bạn ngồi đằng sau vỗ vai:

- Này mày, nếu xe bị pan, ngừng lại chỗ này, chắc chết!

Tôi giật mình, đồng tình với nó, nhưng nạt:

- Mày chỉ nói bậy.

N. ngồi dãy ghế bên kia phụ họa:

- Ðẹp ghê, y hệt phim cao bồi, nhưng hoang vu quá, tao thích biển hơn.

Con bạn quay sang:

- Mày thì lúc nào cũng biển! Cứ thử đắm tàu giữa biển mà xem, đâu hoang vu hơn.

N. không cãi, thò đầu ra ngoài khung cửa, bỗng reo lên:

- Ê, nhìn xem, có sinh vật!

Cả lũ chồm ra. Từ đằng xa nhiều đốm màu đang di động, xe đến gần, một đoàn du mục. Những bị, những túi, đồ dùng soong chảo, bầu nước...đầy màu sắc lủng lẳng đeo cổ những chú lạc đà lênh khênh. Những người đàn ông miền núi mặc áo vải thô, đầu quấn khăn vành dầy. Mấy người đàn bà chùm khăn mỏng chỉ để lộ cặp mắt, ôm vài trẻ nhỏ, lắc lư trên lưng lạc đà, giữa hai bướu u cao. Ngoài tiếng vật dụng va chạm kêu loeng xoeng, cả đoàn im lặng. Tôi có cảm tưởng họ đang làm một cuộc hành hương, vừa đi vừa âm thầm cầu kinh. Xe lướt qua, chúng tôi ơi ới vẫy chào. Họ vẫn thản nhiên, lặng lẽ tiếp tục cuộc hành trình hàng một. Con bạn lại than thở:

- Trời ạ, có vài con lạc đà, còn cả lũ đi bộ! Bao giờ mới tới nơi, rồi đêm xuống?

Tôi trấn an:

- Mày khéo lo, sống quen thế, họ phải biết.

Nói vậy nhưng tôi bắt đầu nghĩ ngợi đến đêm nay, sẽ trú ngụ ở đâu, có đến kịp một thị trấn nào trước khi trời tối?

Và chiều hôm ấy, chúng tôi vào đến một nơi không phải làng, chẳng là xã. Chỉ là một cụm nhà nhỏ giữa sa mạc. Khi người hướng dẫn viên bản xứ chỉ căn nhà lớn nhất bảo đó là nơi chúng tôi sẽ ở lại đêm nay, bọn con trai ồn ào huýt sáo, mấy đứa con gái nhìn nhau e ngại. Ông ta và cả bác tài lái xe quay lại nhắc nhở:

- Các cô cậu đòi sống giống hệt dân du mục cơ mà!

Thế là cả bọn đành im miệng, xuống xe líu ríu ôm hành lý, ba lô đi vào căn nhà đá trắng. Trời đã chạng vạng, nhiệt độ thấp hơn thấy rõ. Ðây là một căn nhà hai từng, chắc đã quen đón khách du lịch. Họ dẫn chúng tôi lên lầu trên, ngoài dãy nhà tắm có hai phòng ngủ lớn, mỗi phòng hơn mười cái giường. Lũ con trai một bên, con gái một bên, tấm bảng trên tường chỉ rõ như thế. Năm cô gái nhìn căn phòng thênh thang, con nhỏ bạn rên rỉ:

- Lại cũng hoang vu!

Trong khi bên kia, tụi con trai không đủ giường, ồn ồn nhào qua khuân luôn mấy cái sang phía họ. Tầng dưới là dãy nhà ăn, có cả phòng đọc sách. Vài ba cuốn tiếng Anh, một ít tiếng Tây trên kệ, còn lại là những giòng chữ ngoằn ngoèo. Giữa tầng trệt này là một sân rộng hình tròn. Nhìn lên cái nóc bằng kính, tôi thấy một vòm trời bắt đầu cuộn mây, nhưng là một thứ mây mang áng trời rất đỏ. Khí lạnh bắt đầu từ dưới đất bung lên, từ trên ập xuống.

Sau bữa cơm chiều, chúng tôi mừng rú khi có đoàn vũ công dân tộc đến biểu diễn. Họ chỉ có năm người, hai nhạc công và ba cô gái mặc váy màu sặc sỡ, thân trên quấn áo thật sát ngang ngực, một chiếc khăn voan che kín mặt và tóc. Chúng tôi ngồi vòng quanh khoảng sân tròn, trên những tấm thảm len. Trong khi họ sửa soạn, dù mặc hai ba lớp áo mấy đứa tôi đã bắt đầu run lập cập. Một tên có sáng kiến, thế là cả bọn leo lên phòng, gỡ hết ra giường và chăn đem xuống. Mỗi đứa quấn chùm quấn đụp quanh người thành một ụ. Ngồi gần, tôi loáng thoáng thấy mấy cô vũ nữ vừa uốn người theo điệu trống vừa không nhịn được cười sau làn voan mỏng. Chương trình chỉ kéo hơn nửa tiếng. Tuy thông cảm các cô gái ấy chịu làm sao hơn cái lạnh này trong thứ y phục quá mong manh, nhưng cả lũ tiếc rẻ kêu ca chẳng biết làm gì cho qua buổi tối. Người hướng dẫn tội nghiệp mách cho, cách đấy chừng ba cây số, băng qua những đồi cát, có một hộp đêm rất lịch sự đồng thời cũng rất 'nóng'! Bọn con trai rú lên, đòi đi cho bằng được, dù biết có thể có một cơn bão cát đêm nay. Nghe thế, họ lại càng thích, đi cho biết phong trần! Mấy đứa con gái than mệt và sợ nguy hiểm, lũ con trai om sòm phản đối:

- Các cô không đi, tụi này nhảy nhót với ai? Bão cát nhỏ, có gì mà sợ!

Người hướng dẫn chỉ đường, giao cho hai cái đèn bão, cả bọn nhào ra, hí hửng. Riêng tôi, bước khỏi cửa, nhìn bầu trời đen mù, mãi tít xa mới có ánh đỏ chập chờn, tôi đâm lo sợ, chùn chân. Chung quanh dường như có sự chuyển động nào đó, ngấm ngầm. Tôi tìm quanh, muốn chia xẻ với con bạn nhát gan, nhưng quay đi quay lại, nó đã đi trước với bọn con trai đang hào hứng ca hát. Còn lại N. và tên bạn khác gần đấy giục:

- Nhanh lên M., không lạc tụi nó mất!

Thế là tôi đành miễn cưỡng đi theo hai ánh đèn bão thấp thoáng phía trước. Ði chẳng được bao lâu, những tiếng động mà tôi mơ hồ nghe ra, đã từ mọi phía dâng lên, trở thành hiện thực. Chỉ trong vòng một hai phút thôi, những luồng cát mù mịt đã ầm ầm ào ào lao tới. Tiếng bọn đang hát thay bằng tiếng kêu la sợ hãi. Tôi đưa tay ôm lấy mặt, nhắm nghiền mắt, đứng tại trận, tưởng phải buông người qụy xuống. Có tiếng N. gọi nhưng tôi không thể mở miệng trả lời. Bỗng có người đâm xầm vào tôi, khi chập choạng đứng dậy nhận ra N. và người bạn. Cả hai xốc cánh tay tôi kéo đi. Tôi can nên quay về, nhưng N. bảo không thể nào nhìn ra phương hướng nữa. N. cố gọi to, nhưng chỉ còn gió và cát trả lời.

Cũng may, thỉnh thoảng như ân huệ của trời, gió tạm ngưng, tôi mở mắt ra, cả ba đứng lại lấy hơi thở, nhận định xem đang ở nơi nào. Nhưng dưới đất không có gì khác hơn là cát, và trên trời, những đám mây đen đe dọa. Chẳng biết nhờ đâu, sau ba giờ đồng hồ vật vã, cuối cùng chúng tôi cũng nhìn ra những đốm sáng lân tinh đằng trước. Ðấy chính là những ánh đèn xanh đỏ của hộp đêm.

Khi N. đẩy cửa, tôi ngỡ mình vừa tái sinh, rơi hẫng vào một thế giới luân hồi nào khác. Lung linh thủy tinh và màu rượu nâu trong các chai lọ óng ánh. Trên những chiếc ghế đẩu cao bao quanh quầy rượu, có đến năm sáu cô gái ăn mặc không đủ vải, những đôi mắt đen sâu, viền quanh xanh nhờn nét vẽ, những cặp chân duỗi dài đong đưa đôi giầy gót nhọn. Các cô cười đón, mời vào. Cũng không hiểu do đâu, rốt cùng cả bọn lục tục đến nơi đầy đủ, không mất đứa nào. Mỗi người được các cô ban phát cho ly rượu. Chẳng bao lâu, trong tiếng nhạc và hơi ấm từ hai lò sưởi đỏ hồng, cả bọn hầu như quên mất cơn tai biến vừa rồi, nhất là bọn con trai. Con bạn ngồi dựa vào thành ghế, lắc đầu:

- Coi đó, mấy tên này thật vô ơn! Bắt bọn mình đến đây, thiếu điều chôn thân dưới cát, vậy mà mới nhảy được vài bài, tụi nó đã bỏ bọn mình ngồi trơ.

Tôi cười an ủi:

- Càng khoẻ, nghỉ đi, còn lấy sức mà về.

Ngoài sàn nhảy, mấy tên bạn xoắn lấy các cô vũ nữ. Trong góc kia, vài đứa xúm lại tán một cô có mái tóc lượn sóng chảy xuống tận lưng. N. đem đến cho tôi một ly rượu khác. Con bạn vội vàng nói:

- Này, gió đang ngừng, tao nghĩ, kêu cả bọn về thôi.

Lời cô ta có lý, nên dù luyến tiếc, lũ con trai cũng đồng tình, trừ D., tên play-boy nhất bọn đang quấn quít bên cô tóc dài. Hắn quàng tay ôm cô ta, hào hùng tuyên bố:

- Tao ở lại đây, bảo xe ca sáng ghé đón tao.

Tên trưởng lớp định can ngăn, nhưng một người lên tiếng:

- Ấy, nó khôn hơn bọn mình!

Nào ngờ, đường về giông tố nhiều lần hơn bận đi. Gió cát lại nổi lên đùng đùng, cả bọn lại lạc mất nhau. Tôi theo sát bên N. Có lúc chúng tôi không bước nổi, cát từng luồng xoáy tròn chung quanh. Da đầu và cổ ê rát, tóc quất vào mặt, tôi hét lên, rời rã. N. biết tôi đau, cởi áo khoác chùm đầu hai đứa lại. Thỉnh thoảng anh hé ra đưa cái đèn pin, đã cẩn thận xin ở quán rượu, rọi đường. Bước một bước tôi cảm tưởng lại lùi hai, người run lên vì lạnh. Tôi ôm chặt cánh tay N., tôi chỉ sợ N. bay theo cơn bão, bỏ tôi ở lại với hàng tỉ hạt cát qủy thần này. Tôi muốn cầu nguyện một lời gì đó, nhưng chỉ nghe tiếng cát vần vũ, tạt tới loạn mù. Bỗng N. kêu, có cái gì trước mặt. Khi đến gần, hoá ra là một căn nhà gạch, một cái chòi thì đúng hơn. Không biết ai dựng làm gì giữa sa mạc trống lốc này. Nhưng hai cánh cửa mở toang ra trước sức gió như hai cánh cổng thiên đường. N. đẩy tôi vào một góc khuất, mực cát còn thấp. Tôi thả người, thở hồng hộc.

Những hạt cát bấy giờ từ tóc tai đầu cổ rơi xuống. Dưới ánh đèn pin yếu ớt, tôi cố nhìn quanh, chẳng có gì ngoài một cái lu đất đã lún sâu. Tôi kéo N. ngồi xuống bên cạnh, nhắm mắt mỏi mệt. N. quay người dựa lưng vào tường, chợt bật tiếng kêu đau đớn. Tôi hoảng hốt giật cái đèn pin, mặt N. đang nhăn nhó, tay khoành ra sau lưng. Lúc ấy, tôi mới để ý, N. chỉ mặc có mỗi chiếc áo sơmi, áo len và áo khoác đã cởi ra quấn đầu quấn cổ cho tôi. Chẳng ngại ngần, tôi kéo áo N. lên, tấm lưng đỏ rần đầy cát, chúng đã cứa da N.! Tôi bật khóc. Anh quay lại, ôm lấy đầu tôi, tay gỡ nhẹ mái tóc rối bời. Khi bớt xúc động, tôi bối rối:

- Thế này là đau lắm. Tại tôi cả! Cám ơn anh.

Trong bóng tối, N. nhẹ nhàng:

- Suỵt, đừng cám ơn. Mà có gì đâu, tôi còn nợ M. bằng mấy ở những kỳ thi!

Tôi bật cười, N. cũng vui vui:

- Này, không nhờ M. cho cóp bài chắc bây giờ tôi vẫn ngồi năm thứ nhất!

Rồi N. tiếp tục, giọng trầm hơn:

- Nghe nói, ra trường, M chưa về nước, cũng không đi kiếm việc mà ở lại học thêm, phải không?

- Ừ, chắc vậy quá, tôi chỉ giỏi làm tính vẽ hình, chứ viết đơn hay đi phỏng vấn xin việc dở ẹc, chẳng ai thèm nhận! Tôi hay đùa như thói quen. N. vội buông đầu tôi ra, ngồi thẳng dậy, sốt sắng:

- Chuyện đó dễ, tôi viết cho M. Tụi mình đi tìm việc làm cùng một nơi nghe M.

N. làm tôi ngạc nhiên quá:

- Tại sao? Hết thi rồi, anh đâu cần tôi nữa!

- Tôi không biết tại sao, nhưng những lúc có chuyện gì, tôi cứ nghĩ giá có M. bên cạnh, thế nào cũng xong!

Tôi buột miệng:

- Trời, xong gì mà xong! Coi như bây giờ đây này! Thôi, anh đừng đùa.

Trong phút giây, tôi nhớ lại những kỳ thi. Tôi họ T, anh họ Q, không có ai vần R và S, nên hai đứa luôn ngồi cạnh nhau. Ngay lần thi đầu, cúi xuống nhặt cái thước đánh rơi, ngửng lên, chỉ nhìn thoáng hình vẽ và công thức tên tờ giấy nháp của N., tôi đã biết N. nhầm. Hình như vì chút lòng tốt, tôi cố tình đẩy tờ giấy của mình ra giữa. N. rất thông minh, chỉ ngó sơ đã hiểu ngay. Cứ thế nhiều lần, như một điều hẹn trước, tôi luôn luôn để bài gần về phía anh, dù chẳng bao giờ N. ngỏ ý yêu cầu. Lần đầu tiên ra khỏi phòng thi, N. dợm nói cám ơn, nhưng tôi đã cười cười khoát tay bỏ chạy trước.

Ba năm học chung, ít lần tôi trò chuyện với N.. Thường, giữa những giờ cua, đám học gạo chui vào thư viện, bọn còn lại tụ tập đánh bài, nghe nhạc và tán dóc trong phòng giải lao. Lúc đầu, tôi cũng ngồi cạnh học mấy lá bài, nhưng chẳng tiến bộ bao nhiêu, nên bỏ đi tìm một góc vắng, chăm chỉ đọc mọi thứ tạp chí vớ được. Con nhỏ bạn hay nói, lúc đầu thường khó chịu:

- Sao mày ham đọc báo thế! Cái gì cũng đọc.

Tôi thật tình:

- Ở xứ tao không nhiều sách báo về kiến thức tổng quát. Tao nhét vào đầu được chút nào hay chút nấy.

Những người bạn tốt bụng thường đem cho những tạp chí in đẹp đủ loại, văn chương, nghệ thuật, phim, kịch, phong cảnh.. N. cũng thế, một lần anh tặng tôi một cuốn sách về vùng biển Bretagne nơi anh đã sinh ra và sống suốt quãng đời niên thiếu. Vẻ hoang dại của đá, cát, cùng sóng nước của bờ Ðại Tây Dương cuốn hút lạ lùng. Lần đầu tiên N. say mê nói với tôi về mơ ước và ý thích của anh ta. Và tôi đã hiểu tại sao vốn thông minh, nhưng N. không mấy tha thiết với những phương trình, công thức. Anh chỉ chờ cuối tuần được trở về nhà, ra đứng trước đại dương cuồn cuộn sóng. Sinh viên thời đó không có nhiều phương tiện, chỉ vợ chồng tên trưởng lớp và N. có xe hơi. Thỉnh thoảng sau giờ cơm trưa, N. gọi vài người lên xe, chở ra biển cách vài cây số, vào uống cà phê ở một cái quán lộng gió. Bỏ chúng tôi ngồi cãi nhau, N. xuống bãi cát, hai tay trong túi quần, thanh thản. Sự say mê của anh khi nói về biển đã khiến tôi nhiều lần xúc động, tự hỏi, phải chăng bao nhiêu nước biển và bọt sóng mà N. ngắm nhìn từ thuở lọt lòng cho đến hôm nay, đã gột tẩy đi màu xanh trong mắt anh, nên nó ngả ra thứ màu xám bạc lạ lùng?

Thấy tôi không nói gì, N. nhắc: - Sao, M.? Tôi giật mình, thế là, những suy nghĩ lập tức xoay đảo, tiến thoái trong cái đầu cân nhắc của tôi. Ừ thì, rõ ràng tôi rất thích màu mắt N., và anh đang ngồi cạnh đây, giọng nói, bàn tay, hơi thở...tất cả đều truyền sang hơi ấm, đem đến cho tôi cảm giác an toàn, đến nỗi tưởng chừng chưa bao giờ được có. Nhưng, làm sao nghe theo lời anh cơ chứ? Tại sao tôi phải lăn vào đời ở cái tuổi này. Kể từ ngày bỏ nhà đi năm mười mấy tuổi, hình như tôi có lớn thêm, già dặn hơn chút ít, nhưng, như mẹ tôi vẫn bảo, tôi hãy còn trẻ dại lắm! Vì sao phải đi làm nuôi thân, trong khi vẫn có học bổng để tiếp tục cái đời đi học không âu lo? Và nữa, tôi sẽ phải trở về một nơi vô cùng yêu dấu, tự nhiên thôi, như N., anh phải về với biển. Tôi cũng còn có P., chắc chắn P. sẽ cùng tôi trở lại quê nhà, và anh sẽ được những người thân bên đời tôi chấp nhận, đơn giản, chỉ vì anh cùng nguồn cội. Tất cả giản dị, gọn gàng như thế, làm sao tôi có thể phá vỡ cái trật tự này, dù để bay bổng phút giây như ngựa hồng soãi vó trên đồi cỏ! Tôi nói, lạ chưa, tôi đâu thể đi kiếm việc theo anh, để mãi mãi trôi giạt ở xứ sở này!

Thế đấy, gió đang tàn bạo lùa tung trần thế quanh đây, cát đang điên cuồng đập vào căn chòi này như loài thiêu thân liều chết, và N. đang xót xa làn da rướm máu. Thế mà tôi...tôi bình tĩnh xoay tính trong đầu mọi điều hơn thiệt. Vẫn chẳng thấy tôi trả lời, N. cũng im lặng, anh tìm cách dựa nhẹ vai vào tường, sát bên tôi. Rồi tôi cũng dần dần mê thiếp đi.

Chúng tôi giật mình nhỏm dậy khi có tiếng người thì thào ở cửa:

- Ô, đúng hai đứa nó!

- Từ từ, không họ sợ.

- Thì cũng phải kêu tụi nó dậy, về chứ!

Một luồng ánh sáng đảo qua, tôi nhìn ra ngay tên trưởng lớp đang giơ cao cái máy ảnh, và ông hướng dẫn tay cầm đèn bão. Hoá ra, cả bọn đã về đủ, chỉ thiếu hai đứa tôi, nên họ sợ, đi tìm. Sức gió bên ngoài đã giảm cường độ. Thực ra, nơi chúng tôi trốn bão chỉ cách chỗ trọ hơn nửa cây số, nhưng ngược hẳn hướng đường.

Về tới nơi, tôi chạy thẳng lên lầu, hai dãy phòng tối om, mọi người đã yên ngủ cả. Lần mò vừa tìm ra công tắc đèn, thì đã nghe con bạn la lối:

- Trời, mày ở đâu từ nãy tới giờ, tao sợ muốn chết.

Sọ đánh thức vợ tên trưởng lớp và hai cô bạn đang say ngủ, tôi đưa tay suỵt nó nói nhỏ, rồi lại gần giường thầm thì:

- Tao và N. bị lạc.

Nó lắc đầu nghi ngờ:

- Lạc thật hay giả?

Tôi mặc kệ, đến chỗ hành lý lục mấy cái túi. Nó không để yên:

- Mày tìm cái gì? Áo ngủ mày vất trên giường rồi mà.

- Tao tìm cái túi cứu thương, mày thấy đâu không?

- Tao để lại trên xe rồi. Mà ai bị gì vậy?

Chẳng hiểu sao tôi không muốn kể dài dòng.

- Cái lọ nước hoa của mày đâu?

Con nhỏ mất kiên nhẫn gắt:

- Trong cái va-li đỏ, nhưng tại sao mày đòi nước hoa?

- Thì không có cồn, lấy tạm sát trùng cho N., hắn bị chảy máu nhưng không sao. Mày ngủ đi đừng có lộn xộn.

Tìm ra cái lọ, tôi sắp nhào xuống lầu, con nhỏ gọi giật:

- Ê, mày biết gì không?

Chưa hết câu, nó đã cười hinh hích. Tôi tò mò quay trở lại. Nó chừng như không cầm được, cười to hơn:

- Anh chàng D. về ngủ rồi đó!

Tôi ngạc nhiên:

- Sao hắn bảo ở lại tới sáng, tụi mình ghé đón.

- Thế mới nói! Tụi mình vừa đi, anh ta tấn công liền, ai ngờ con tóc dài chính thị là đàn ông. Cả bọn mày ơi! Hắn vội vã cuốn gói chạy ra, lính quýnh không biết đường về. May, ông hướng dẫn tới kịp.

Nhớ đến bộ mặt hí hửng của D. tôi cũng không nhịn được cười.

- Mà tự nhiên sao ổng tới đó?

- Cha này ghê lắm! Biết trước mà vẫn xúi bọn mình đi. Sau, hối hận đi tìm, trên đường gặp vài đứa nói D. ở lại, ổng quýnh lên.

Con nhỏ hãy còn thích thú, muốn nói thêm, nhưng chợt nhớ tới N., tôi vội vàng bỏ no đi xuống lầu.

Trong phòng đọc sách, N. đang ngồi lui cui cời khúc củi cháy gần tàn trong lò sưởi. Tôi vén áo anh lên rồi lại kéo xuống:

- Ðể rửa tay đã!

N. kêu:

- Tôi đã bảo mà, sao M. lúc nào cũng sáng suốt.

Phủi sơ những hạt cát, tôi đổ nước hoa vào lòng tay, cố gắng xoa thật nhẹ, N. rùng mình chịu đựng. Tôi vẫn chần chừ để tay trên lưng N., làn da anh mềm lạ. Anh không nói gì, lẳng lặng nắm lấy tay tôi bóp chặt đến làm tôi nhói đau. Khúc củi được N. khơi đang bùng lên ngọn lửa, tiếng gỗ nổ tí tách. Tôi bỗng muốn cùng N. ngồi bệt dưới sàn này, dựa vào nhau như trong căn nhà trốn bão biết bao. Tôi muốn N. vòng tay qua người mình, truyền cho tôi chút hơi ấm, quên đi những mỏi mệt này. Thế nhưng, không, tôi chỉ đã cúi xuống trên tóc N. để nói rằng:

- Về phòng ngủ thôi, trời sắp sáng.

Ba ngày còn lại chúng tôi đi sâu xuống phiá nam Sahara trước khi trở lên theo hướng đông. Ðường về bình lặng hơn, vài lần bắt gặp những ốc đảo cây cối xanh tươi cùng những đầm nước mát. Mỗi khi loáng thoáng một mảng màu xanh xuất hiện từ xa là cả bọn rú lên mừng rỡ. Dù chỉ là bụi xương rồng chĩa lơi khơi như có người vừa cắm xuống, cho đến những hàng cây cọ cao nghều, đầu khoe lá tròn xoe làm tôi cứ mơ tới những quả dừa xanh lủng lẳng trên đó, như ở quê mình. Nhất là tưởng tượng đến dòng nước ngọt lịm chảy qua cổ họng, giữa cái nóng sa mạc thiêu đốt này. Tôi vẫn xót xa nghĩ đến những vết đau trên lưng N., nhưng luôn luôn tránh ánh mắt anh.

Buổi sáng cuối cùng, lúc đang chất hành lý lên xe ra phi trường, ngoài cửa khách sạn thì mấy đứa trẻ ùa đến, mời mua những đoá hoa hồng bằng cát kết tủa. Bọn bạn kêu đừng mua bán với bọn nhỏ này, chúng dai dẳng lắm đó. Nhưng một bé gái năm sáu tuổi đang giương cặp mắt tròn như viên bi nhìn tôi, hàng mi dài cong vút, mấy lọn tóc xoăn phủ xuống trán trông thật ngây thơ, khiến tôi dừng lại. Không như những đứa kia có cả một rổ, cô bé xoè tay ra, gọn lỏn một bông hồng cát, cánh xếp tròn thật nhỏ. Tôi đang loay hoay tìm trong túi những đồng tiền dinar cuối, N. đứng sau lưng đã cầm lấy đoá hoa và đưa tiền trả. Thấy tờ bạc quá lớn, con bé lắc đầu ra ý không có tiền thối, N. bảo cho hết. Nó cười nhe hàm răng chẳng còn mấy cái, chạy vù đi, sung sướng phất cao tờ giấy bạc. N. đưa đoá hồng cho tôi:

- Ðể M. đừng quên những hạt cát.

Suốt hai giờ bay, không hiểu sao tôi chẳng hề nghĩ cất nó vào hành lý, cứ cầm trong tay, tại nó bé nhỏ, dễ vỡ quá chăng?

P. tới đón tôi với gương mặt sáng nụ cười. Gia đình, bồ, bạn những người khác cũng đến đầy trên sân ga. Cả bọn vào quán, uống nước chia tay. Tôi vừa ngồi xuống đặt đoá hoa trên mặt bàn, P. kéo ghế bên cạnh quơtay, đoá hoa rơi xuống, vỡ tan bên chân tôi. Con bạn gần đấy xuýt xoa. N. ngồi cách đấy không xa, cũng quay lại nhìn tôi đang nhặt lên vài cánh hoa vỡ vụn, cát nâu lấm tấm trên tay. Tôi mấp máy định nói một lời xin lỗi, nhưng N. đã quay đi.

Từ đó, tôi không gặp lại anh. Ngày phát bằng mãn khoá anh cũng không về. Chẳng ai hiểu vì sao.

Thời gian trôi qua, tôi không cần viết đơn xin việc, việc tự nhiên đến. Như đời sống tôi, mọi điều tự nhiên đến, rồi tự nhiên đi. Phần đông tôi làm những gì tôi thích, nhưng không phải điều gì tôi muốn, tôi đều làm được. Tôi có giỏi băn khoăn, suy tính, xếp đặt đếm mấy, thì cuối cùng, cũng có một bàn tay vô hình cầm tôi lên như một quân cờ, rồi đặt xuống ở một vị trí nào đó - mà tôi, tuy bất mãn nhưng cảm thấy rời rã, trống không, nên bỏ lơi, thờ ơ, để mặc mọi điều tuần tự diễn biến. Không chụp bắt, cũng không hề tháo gỡ.

Và, đã bao nhiêu năm tháng trôi qua, tôi vẫn chưa về quê tôi, vẫn còn ở lại xứ người, để mãi mãi day dứt, dằn vặt, về một điều chưa trọn.

***

Khi dàn nhạc bắt đầu một điệu slow, đèn chợt tối, biết sức khoẻ không cho phép ở lâu hơn, tôi vội vã đứng lên. Ðây là lúc thuận tiện để ra về, tránh phải chào từ giã hay bị níu kéo ở lại. Trời đêm đầu thu đã lạnh, vừa quấn sát chiếc khăn len trên vai tôi đi vội ra chỗ đậu xe dưới giàn kim ngân thoang thoảng mùi thơm. Có tiếng chân ai bước nhanh trên sỏi. N. đang đến gần, cất giọng lo âu:

- M. chắc lái xe về được chứ?

Ðể trấn an N., tôi nói to:

- Ðừng sợ, tôi có uống rượu đâu, anh vào đi kẻo lạnh.

N. vẫn đứng đó chờ cho đến khi tôi ra khỏi trang trại. Ðường làng đêm không đèn, không ánh trăng. Tôi bắt đầu thấy mệt. Thỉnh thoảng một chiếc xe chạy ngược, đèn loé sáng chói chang. Tất cả bỗng nhoè nhoẹt, mắt tôi nhói buốt. Vài lần như thế, tôi hoảng sợ, cơn bệnh cũ đây rồi, những cơ bắp quanh mắt kéo co lệch lạc. Ban ngày, một vài dấu hiệu đã đành, bỗng đêm nay, chúng trở chứng giữa lúc đang lái xe một mình trong tăm tối, không còn phân biệt rõ đâu là lề đường, đâu là lằn ranh ở giữa. Nhưng, ngừng lại chỗ đồng không mông quạnh này ư? Tay nắm chặt...
Phượng Các
#17 Posted : Sunday, December 5, 2004 1:44:22 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,704
Points: 20,055
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
Hợp âm trong vùng sân khuất

Mai Ninh




Nắng chỉ nghiêng xuống khoảng sân hai giờ một ngày là nhiều nhất. Từ nơi tôi đứng, nếu nhìn chéo về bên trái sẽ bắt gặp những con chim phượng thêu ren trên mấy tấm màn cửa sổ được kéo ra mỗi ngày trong cùng khoảng thời gian ấy, để đón nắng cho óng ả chậu cây xanh của người đàn ông màu tóc đã bạc phơ. Còn trước mặt, tầm nhìn bị chặn ngang bởi bức tường bọc quanh khu vườn tòa lâu đài cũ xưa. Bao nhiêu cành phong bám sâu trên đá tổ ong lồi lõm, điểm những cụm hoa dại nở tùy mùa. Nhưng ngoảnh sang tay phải, tôi sẽ lọt hẫng vào hai khung kính to, trong vắt, treo lơ lửng trên vòm cổng dẫn vào mảnh sân chung lát những hòn đá xám, kẻ vuông vức bằng nhiều lằn cỏ xanh chẳng bao giờ được cắt xén. Thỉnh thoảng người bạn ghé qua, đứng gần bàn viết cạnh cửa sổ, thốt một câu đã hỏi nhiều lần, Thế nào được, với bức tường lừng lững ngang đầu và các hình chữ nhật lẫn ô vuông đóng khung bên trái, bên phải, dưới chân. Tôi cười lãng đãng, hiểu làm sao thế giới ấy, những con người loanh quanh trong vùng sân khuất lấp.

Ngay dưới tầng lầu tôi ở, người đàn ông cỡ tuổi bốn mươi chạy ra chạy vào với thằng bé phụ bếp. Cả hai đến từ miền Nam nước Ý, mang theo màu da nâu ngăm, giọng nói đục, và cái cười không dè xẻn. Quen thuộc nhất là những buổi chiều khi nắng ngả, tôi nghe vọng lên tiếng huýt sáo mấy âm điệu ‘‘Torna a Surriento’’ lẫn với mùi sốt cà chua và các loại lá thơm. Tất cả như bốc thành hơi len lỏi trong vườn chanh xanh um lá, ửng quả vàng cạnh bờ biển mà anh ta một năm đóng cửa hiệu ăn hai tuần để trở về thăm viếng. Mỗi lần, anh đem thằng nhỏ đang phụ bếp trả lại, rồi dẫn sang đứa khác.

- Signora à, tuổi này lơ mơ là lêu lổng làm bậy ngay.

Tôi cười :

- Chẳng biết có phải hắn là thằng nhỏ đã xì lốp xe tôi trước tiệm cà-phê làng Sorrento thơ mộng của anh không?

Anh ta cãi :

- Ðâu có chuyện đó ở quê tôi, chỉ xảy ra ở Naples thôi, chính mấy đứa này tôi đem từ đó tới.

Nói rồi, miệng búng thẳng cái hột ô-liu bay vọt. Giá những khe cỏ có nhiều đất hơn, với bao nhiêu hột anh ta đã nhổ, hẳn một ngày sẽ có cây ô-liu mọc lên trong mảnh sân này. Anh đưa tay vò vò mái tóc dầy đen của thằng bé vừa lọt tuổi trưởng thành, đang cán những sợi mì trên chiếc bàn gỗ kê gần cửa ra sân. Nó lắc đầu tránh né làu nhàu bằng tiếng Ý mà nhờ nghe quen tôi đoán ra ý nghĩa. Mỗi thằng nhỏ khi nói được ít câu tiếng xứ này, để bắt chuyện với tôi và người đàn ông già có chậu cây xanh, thì lại lên đường về quê. Ðôi lần tôi hỏi anh chủ, sao chẳng để chúng học nghề lâu hơn, anh ta khua tay cười cười, cặp lông mày rậm nhướng lên chùng xuống.

- Còn nhiều chuyện để làm, còn lắm thứ để làm...Signora.

Tiếng hát ‘‘ Come back to Sorrento ’’ ấy là của buổi chiều. Ðến chín giờ tối tới phiên những nốt dương cầm trong bản concerto thứ 26 của Mozart tuôn xuống từ khung cửa có màn chim phượng. Âm thanh từng chuỗi reo trong rồi bùng lên cùng với dàn nhạc mạnh mẽ đăng quang. Người đàn ông tóc trắng nghe nhiều nhạc cổ điển, nhưng cứ ở khoảng đêm tối đó ông ta để đĩa nhạc này. Ông sống một mình, ít người lui tới, thường đi ra ngoài rồi trở về lúc gần trưa, khi anh phát thư dắt chiếc xe đạp vào qua vòm cổng. Hai người hay trao đổi vài câu trước thùng thư của tôi. Thỉnh thoảng tôi về ngang lúc ấy, ông già nghiêng đầu chào và anh phát thư vội vàng rút lại xấp thư đã bỏ vào thùng, đưa cả cho tôi.

- Nhiều thư và sách báo quá, làm sao đọc hết.

Ông già tự nhiên nhún vai đáp hộ :

- Cũng phải hết.

Một lần, ông ta đề nghị mang giùm tôi lên lầu. Căn gác tôi ở chỉ có mỗi khung cửa sổ nhìn xuống vùng sân ấy, không đủ ánh sáng nên tôi để nó trần trụi, không màn, không cây cảnh. Ông già có vẻ ngạc nhiên trước không gian nhỏ hẹp, độc cái giường đầy gối chiếm hết góc phòng và một bàn viết với ba cái ghế. Những thứ ấy nằm gọn giữa những bức tường che kín bằng kệ sách. Tôi quay vào bếp cắm máy cà-phê, ông ta đến gần bàn để chồng thư từ lên đó. Vừa mở tủ lấy hộp đường tôi vừa nhìn ra, cái túi ni-lông đặt trên sàn gỗ lòi thanh bánh mì dài và cọng tỏi tây. Ông ấy đang đứng trông ra mấy cây bạch dương mọc cao trên vùng đất phiá bên vườn lâu đài, mái tóc sáng rưng rưng như lá bạc, bỗng nói thản nhiên :

- Cô chong đèn khuya lắm.

Tôi đáp với ra:

- Tùy khi tôi hứng.

- Thế à, ngày xưa...tôi có làm thơ, nhưng thích đọc hơn.

Tôi bưng khay cà-phê đến gần.

- Bây giờ thì không?

Người đàn ông quay lại, tôi ngỡ ngàng bắt gặp, trên khuôn mặt đậm dấu thời gian, một ánh mắt xanh bàng bạc.

- Hồi xưa, mở tờ báo ra là thấy thơ, bây giờ, muốn đọc thơ phải tới nhà sách, phải đi tìm mua mới có, phải bới lục trong cả rừng tạp chí và sách báo. Ngay cả, cô không thấy sao, tiểu thuyết truyện dài, tự truyện đầy ối, nhưng truyện ngắn khó tìm.

Khi ông ta cầm túi ni-lông đi xuống cầu thang, tôi nghe tiếng bước chân chậm chạp, khác hẳn những câu nói mau mắn, rõ ràng vừa qua. Từ trên cửa sổ tôi nhìn theo dáng ông hơi gù lững thững đi về nhà mình, dừng lại trước hộp thư, mở ra, trống lốc, rồi từ từ đóng lại. Lúc ấy tôi chỉ mong đến chín giờ đêm, để âm thanh lồng lộng rộn ràng của bản concerto đè lấp giùm tôi cảm giác bùi ngùi. Tôi trở lại bàn viết, những con rối của tôi đang múa may trên nhiều trang giấy dở dang với những nếp đời bừa bộn quá. Con này mang bộ mặt thảm đạm đến quái đản, luôn luôn chực chờ rập rình, tưởng mình sắp cho ra đời thứ triết lý hiện thực nhất để chứng minh sự tận diệt của con người. Con kia tưng bừng buông thả tâm hồn lẫn thân xác trong bất cứ giờ phút sống nào, nhưng chỉ cần trong một giây nhìn lại quanh mình, bắt gặp cái ‘‘không thời gian, không không gian, không một ai’’, là đủ để rít lên tiếng kêu oằn oại của loài chim trúng tên, sa từ đỉnh núi.

Có nhiều giống chim lạ vỗ cánh về trên những cành cây bên kia khu vườn rộng. Có con chim xanh lông rất mượt với mỏ vàng hay xà xuống tìm sâu trên viền cỏ ô vuông, rồi bay vút lên đậu ở đòn gỗ chìa ra nương những mảnh ngói. Dưới đó là hai khung kính treo trong vắt thường thấp thoáng bóng người đàn ông cuối cùng của thế giới tôi. Gã thanh niên độ chừng hai mươi ba tuổi, ít nói nhất trong bốn người chính thức ngụ trong khoảnh sân này. Không biết chàng ta sống bằng gì, nghe đâu học Beaux Arts, người dong dỏng, ra dáng lắm với tấm cạc-tông kềnh càng đựng tranh cặp dưới nách. Tóc óng ả, mắt trong như người Bắc Âu, nhưng anh chàng thường thích vào tiệm Sorrento ngồi trước miếng lasagne váng màu, thơm nhiều lớp. Tới khuya hiệu ăn đóng cửa, chủ và khách còn tiễn nhau với ly rượu trong tay dưới cửa phòng tôi, cười đùa dậy nhau những câu nói lóng và tục. Như ngầm thỏa ước, thời gian của âm thanh nơi đây chia đều cho từng người. Chen giữa đầu buổi chiều dành cho anh người Ý trút nỗi sầu xứ trong mấy đoạn O sole mio...và chín giờ đêm của bản concerto vừa thánh thót vừa lừng lững là khoảnh khắc lúc ngày tàn, mơn trớn dập dềnh điệu jazz của gã thanh niên. Còn tôi, có quyền đánh thức những người đàn ông này vào buổi sáng. Tùy theo hứng thú vui buồn, thời tiết tốt xấu, mưa gió hay nắng đẹp, tôi tha hồ tung ra từ Barbara, Brel, Beatles tới Collins...có khi rất ngược đời bằng giọng Joan Baez xót xa một thứ Farewell Angelina đã cũ. Không biết tự bao giờ đã như vậy, không ai phản đối ai. Mỗi người sung sướng hân hoan với giờ phát thanh của mình và tôn trọng vùng âm thanh trong người khác.

Cũng nhiều lần gã thanh niên về với một tên bạn, chợt những tiếng cười vang lên cùng điệu rock hay disco sầm sầm sau đó. Anh tiệm ăn liền chạy ra sân, tay tung hứng cục bột mì đang nhào nặn, người rập rình uốn éo theo. Thằng nhỏ phụ bếp chừng như bừng ngủ, quay tròn bàn tay múa máy với những sợi mì vàng đượm, dù trước đấy nó đã trố mắt trên từng bước đi đỏm dáng của tên bạn BA. Còn người đàn ông già dường như ngầm thích thú với sự khuấy động bất chợt trẻ trung. Thỉnh thoảng ông vắng mặt đôi ngày, trước khi đi bê chậu cây để một góc sân nếu trời chưa trở lạnh. Khi trở về xăm xăm mở hộp thư, dù vẫn trống, trừ vài ngày mỗi tháng có phong bì nhà băng và vài hoá đơn điện nước. Những lần như thế, đèn nhà ông tắt sớm, tiếng dương cầm chưa thả hết một mouvement đã ngưng bặt, ông ta có vẻ mỏi mệt. Chẳng hiểu ông đi đâu và có xa không. Hình như dáng ông càng ngày càng còm, mớ tóc bạc chừng dài hơn vào lúc đông về, tiệp trùng với màu sân đầy tuyết phủ. Vào những ngày không gian mịt mù trắng xóa này, anh chàng ý thở dài, những món ăn nức thơm gia vị miền nam như đông đặc, lạc lõng. Sáng chiều anh quấn tạp-dề, chùm mũ len, cầm xẻng hốt những đống tuyết trước cửa ra vào cho mỗi nhà chúng tôi, miệng lẩm nhẩm than tiếc cái nắng vàng tươi trên màu biển xanh ngắt. Có cả những câu lầm bầm tự trách, Sao đã về rồi lại đi. Ông già nằm im trong căn gác. Chỉ có tôi và gã thanh niên vẫn lục xục vào ra vùng sân khuất, cùng nhịp độ.

Ðã một dạo, vắng mái tóc vàng dầy của chàng Beaux Arts sau hai ô cửa kính bao giờ cũng được anh ta chùi sạch bóng, càng trong suốt hơn trên bờ tường rêu đã bám xanh. Thời gian ấy, khi vệt sáng cuối ngày thu gọn lại chỉ còn đốm nhỏ thoáng trên ngọn bạch dương, ông già đã bắt đầu mở nhạc, như thể ông không chịu được khoảng trống âm thanh của người thanh niên để lại. Nhưng ít lâu sau chàng ta lại về, trời bắt đầu mùa xuân, khoảnh sân sáng lên với nắng ngập ngừng. Tên bạn trai gần nhất của BA từng đến và ở lại hai ba hôm bây giờ ghé vội rồi đi, cuối cùng vắng biệt. Không hiểu sao anh ta tự nhiên đổi lấy khúc blues chờn vờn mòn mỏi. Từ cửa sổ nhìn xuống, tôi thấy anh chàng bước nhẹ tênh qua vòm cổng buổi chiều, dáng trở nên phật phờ, xiêu ngã. Chẳng còn gọn ghẽ trong chiếc blouson, tấm áo mưa rộng chùm người, dù trời nắng tạnh cổ áo vẫn kéo cao. Một hôm giữa trưa tôi về, ông già còn đứng trong sân, húng hắng ho.

- Dạo này tắt đèn sớm, cô không khỏe.

Tôi loay hoay tìm chìa khoá, lắc đầu:

- Tôi lười.

- Hết hứng sao?

Tự nhiên tôi ngước về căn phòng người thanh niên, ông già cũng ngửng theo. Hai ô kính vốn trong veo bây giờ loằn ngoằn những vệt mưa khô, hiện rõ dưới ánh mặt trời. Rồi chúng tôi quay lại nhìn nhau.

- Tôi chán, những nhân vật của tôi, chúng không cho tôi nói hết lời, chúng chẳng chịu nhìn ra điều tôi thấy.

Ông già lại ho vài tiếng, đưa tay đỡ hộ tôi mấy cuốn báo vừa rút từ thùng thư, rồi đứng sau lưng chờ tôi mở cửa. Ðột nhiên ông nói, như một mình:

-‘‘Ta thấy, ta thấy. Ngươi thấy gì ? Ta chẳng thấy. Có màu gì ? Ta không thấy. Vấn đề không phải điều gì nhìn thấy được, mà là tự nhìn ra. Cái không màu...Sự trong suốt’’.

Tôi ngẩn ngơ, chiếc chìa dừng trong ổ khóa. Anh chàng Sorrento bỗng từ trong nhà chạy tuôn ra sân cỏ, ngồi bẹp trên mảng gạch, gục mặt giữa hai đầu gối, nấc lên. - Ô, Mamma.

Trưa ấy anh ta khóc, thì đến đêm trời đổ cơn mưa. Nước xối xả trên mái ngói, chảy như sông, cơ hồ làm lún sâu mảnh sân hơn nữa. Hiệu ăn Sorrento đóng cửa, người chủ đang sửa soạn lên đường. Tôi nhìn qua hai bên hàng xóm, những ánh đèn từ đó hắt ra, nhòe nhòe sau màn mưa dầy đặc. Ông già không vặn nhạc đêm nay. Tôi nằm cong người giữa đống gối, nhẩm tính quãng đường dài từ đây đến ngôi làng ven bờ Tyrrhénienne bên ý. Không biết anh ta có về kịp đám tang. Vẫn chập chờn trước mắt tấm ảnh người đàn bà mập mạp, quấn khăn quàng rực rỡ. Chỉ thoáng qua, tôi đã thấy cặp mắt sâu nhìn thẳng như muốn nói biết bao điều. Chiều ấy tôi mới được biết, chính người đàn bà này đã bắt con trai út của mình cưu mang những đứa trẻ học nghề. Thằng anh của anh chàng Sorrento đã chết trong một cuộc đụng độ băng đảng ở Naples khi vừa hai mươi tuổi. Sáng sớm hôm sau, tôi ngỡ ngàng nhìn bao nhiêu cành lá và những nụ hoa vừa chớm nở từ bên kia khu vườn đã tơi tả bay rụng trên vùng sân sũng nước. Ông già dậy sớm đang lục đục quét gom trước cửa nhà. Người đàn ông trung niên mạnh mẽ, rộng lòng để giúp chúng tôi những lúc ngổn ngang đã đi rồi, trong đêm. Trước đây mỗi lần có biến cố, tên BA cũng xuống đảm đương công việc một phần, bây giờ im ỉm. Tôi xắn quần, xách chậu và chổi bì bõm, lòng nao nao khó tả.

Mấy hôm sau đó mây nặng nề trên sân gạch xám. Tôi không làm được gì hơn, đi về tự nhiên hụt hẫng. Thiếu giọng ồ ồ của Sorrento đã đành, gã thanh niên ít xuống lầu, nhạc anh ta có bật lên cũng chập chờn, đứt quãng. Còn ông già như sợ tiếng động làm phiền chàng hàng xóm đối diện. Tối tối vẫn cùng bản hoà âm nhưng tiếng phát ra nho nhỏ, tưởng chừng hoà tan, lẩn quẩn với lá đêm. Tất cả như thoi thóp trong không gian bất ngờ hẹp hẳn lại. Có ông y tá ngày hai lần leo lên căn gác chàng thanh niên, nhưng đi qua sân cỏ quá vội vàng. Tôi và ông già cùng nhau lên thăm BA, vẫn đấy nụ cười có nét gì dịu như con gái, nhưng má trũng sâu và làn da bệch hẳn đi vì thiếu nắng. Lúc trở xuống, dưới chân cầu thang nhà anh ta, ông già cúi nhặt một hột ô-liu đen khô quắt, để trong lòng bàn tay rồi nắm lại thật chặt. Ngoài công việc ra, lúc ở nhà, tôi hay đứng gần cửa sổ hơn, nhưng để nhìn mà không thấy như ông già đã lẩm nhẩm lời J. A. Valente, văn hào Tây Ban Nha, hôm nào. Cho đến một hôm tôi đang bực bội gạch bỏ bôi xóa trên những trang giấy, chợt nghe tiếng chân nhẹ nhưng khác thường và ngập ngừng bước trong sân. Vội đứng dậy ngó xuống, ông già bên trái cũng đang vén bức màn chim phượng. Một cô gái mặc áo mưa xám, đeo cặp sách đỏ đang ngước nhìn những khung cửa bờ tường bao quanh, cô cầm một tờ giấy nhỏ. Mái tóc đen tròn quay vòng một lượt rồi dừng lại trên hộp thư của BA. Nắng ngày vẫn còn đủ để tôi nhận ra đôi mắt to và hai gò má thật hồng trên làn da mặt mỏng. Cô gái lên căn gác đó một chốc rồi xuống cùng ông y tá lầm lì. Hai người trao đổi với nhau vài câu trước khi ra khỏi vòm cổng.

Buổi chiều thật im lặng, màu ẩm ướt đọng trên mái ngói và ngấm sâu vào những viên gạch trên mảnh tường ngăn chia không gian còn sống bên này và thế giới cổ độ bên kia. Tôi cảm thấy ngạt thở từ mấy hôm nên mở tung cửa sổ, các con chim chẳng biết đã đi đâu bỏ những lùm cây lá bạc đứng yên trong bầu không khí chùng hẳn xuống. Ông già trượt chân trên sân gạch trơn ướt tối hôm qua. Tôi đã bước sang nhà ông sáng nay, cái chân băng bột duỗi ngang trên nệm ghế. Mới thoáng đó thôi mà bất chợt tôi thấy ông cỗi xưa như sắp đi hết năm tháng của đời người. Lần đầu tiên, ông đưa bàn tay có những ngón dài khô nắm nhẹ tay tôi lắc lắc. Trên chiếc bàn con cạnh chậu cây xanh, một trang thư bỏ dở, nét chữ khá to, mới ghi được mấy dòng ngày tháng. Tôi không thể dấu vẻ ngạc nhiên khi thấy một xấp phong bì và giấy viết thư nằm ngay ngắn. Ông già kéo cao tấm chăn đắp lại nửa người, chậm rãi:

- Tôi có thằng con trai cỡ BA đi Martinique không về, tôi vẫn viết thư dù nó ít trả lời.

Rồi chắc miệng tiếp:

- Kệ, như vậy tôi đã giữ lời hứa với mẹ nó khi bà ấy qua đời.

Ông lại tìm tay tôi, vỗ vỗ:

- Người ta thường nói, nếu những củ hành năm nay mọc nhiều lớp thì mùa đông tới này lạnh lắm, cẩn thận.

Tôi rời ông, bước lại khung cửa, tốc những con chim phượng sang hai bên, nhìn thẳng trước mặt. Hai vũng tối âm u hút mắt giữa ban ngày làm tôi choáng người, đưa tay ôm lấy bờ vai. Mãi sau tôi lại có cảm tưởng trước hai ô cửa đối diện ấy có những bóng lá lung linh, và bên kia chúng là dáng dấp gầy thanh của chàng BA thấp thoáng. Rồi mắt chợt thấy ánh nắng mong manh nghiêng trên mảnh sân, đang sáng lên màu áo mưa bạc thủy ngân của cô sinh viên y khoa đã đến chăm sóc BA vào những tuần lễ sau này. Ba tối mỗi tuần, cô gái nhỏ đạp xe thẳng vào sân ngay lúc bản concerto vỡ bờ như sóng lũ, tựa hồ nâng đỡ người đàn ông già ngày càng chìm xuống trong cuộc sống đi về đơn độc. Cô dựa chiếc xe đạp vào bờ tường, dưới hộp thư BA, rồi ngước đầu lên về phiá phát ra âm thanh đang rộn ràng lay động những con chim phượng dưới ánh đèn. Tôi có cảm giác cô gái ưỡn vai, hít thở, mở toang buồng ngực để lắng nghe một chốc rồi mới mở cửa bước lên cầu thang. Thỉnh thoảng tôi thấy cô đứng sau khung kính không còn trong vắt nữa, như thể muốn thu giữ nốt những hợp âm tròn đầy trước khi hạ đèn. Từ đó, còn mỗi bóng đèn chong thắp nhỏ cho đến sớm hôm sau, khi cô ra về nhường chỗ cho người y tá. Nhưng trong đêm, vẳng tiếng chàng thanh niên la hét, tôi nhỏm dậy chạy ra cửa sổ. Ðèn bên ấy bừng sáng lên, bóng cô gái di động, một lát sau tất cả mới trở về với thinh lặng của đêm. Và lá trong gió lại tiếp tục rì rào. Tôi trở vào ngồi trước bàn viết, những trang bản thảo đầy chữ mà trống rỗng. Quanh quẩn trong không gian hạn hẹp chỉ có tôi cùng ba người đàn ông ấy, nhưng mỗi cá nhân rã rời như những nốt nhạc riêng lẻ lệch lạc, chẳng kết nổi thành một hợp âm nào. Những cảnh sống đơn điệu âm thầm trượt qua nhau. Phải đợi đến những đêm khuya xao động như thế này cùng sự xuất hiện của cô sinh viên trẻ trung đó, với tấm áo sáng bạc và cặp sách đỏ thắm, mới có được vết màu tươi trên bức tranh đời xám ngắt. Nhiều buổi sớm ông già nhẹ nhàng giữ cô gái lại, hất cái nhìn về căn gác BA, gương mặt hao đi sau một đêm thiếu ngủ của cô tỏ nét ái ngại. Nhưng cuối cùng, bao giờ cô cũng mở nụ cười còn đầy chất hồn nhiên để chào ông và vội vã đến trường.

Khoác chiếc áo mưa vào người, tôi xuống cầu thang. Những bực gỗ cựa mình đáp trả từng bước một, chậm, lẻ. Dừng lại ở ngưỡng cửa, trên bệ đá gần đấy còn rổ vỏ chanh của anh Sorrento. Những miếng vỏ đã gọt vòng vàng thơm để đệm hương vị cho nồi thịt bê osso-bucco, bây giờ quăn queo lên màu ẩm mốc. Mấy viên gạch nung anh ta vẫn dùng lót lò nướng pizza ngổn ngang dưới chân tường bên cạnh một hai cái nồi lật úp. Tật bày bừa ra sân của anh Sorrento thường làm ông già càu nhàu, nhưng sau nụ cười đồng lõa với cặp mắt và cái gật đầu lia lịa hứa hẹn, - Si, si, sẽ đâu vào đó, đâu sẽ vào đó, Signor... thì tất cả vẫn nằm nguyên chỗ cũ. Cũng may không có thức ăn gì bày hớ hênh để quyến rũ bọn mèo đêm từ vườn trên đổ xuống. Qua khung kính đục mờ của nhà bếp, ẩn hiện hình thù các vật dụng nấu ăn và chập chờn ánh kim khí sắc lạnh của muôi dao muỗng nĩa chung quanh cái lò nướng mở toang đen mò, rỗng toác. Tôi rùng mình, kéo sát hai vạt áo. Liệu anh ta có về đốt nóng không khí ẩm ướt này. Biết đâu người đàn ông ấy sẽ ở lại với những màu tường vách đá vàng cam rực ối trong cơn nắng miền nam hào phóng. Chẳng hiểu căn nhà bà mẹ anh ta nằm lẩn khuất giữa vùng đất trồng chanh xanh ngắt, tiếp ráp với bãi cát thênh thang nhoài vào biển. Hay nó là một trong những ô nhà ngang hẹp cao lênh khênh lưng chừng trên vách núi. Có những cành bông giấy đỏ thắm lượn leo từ chân lên đến đỉnh, bám níu vào thành vịn của cái cầu thang vòng vèo bao nhiêu khúc đưa xuống tận chân sóng đập rì rào. Tôi đã từng qua đó như người khách du lịch vô tư nhìn ngắm cảnh lạ, không nghe ra tiếng cười lẫn nhìn thấy vết nám trong tâm hồn người bản xứ tựa anh ta.

Người phát thư vừa dắt xe vào giữa khuôn sân trống, tay khua khua tấm bưu ảnh đến từ Sorrento, vui mừng ra mặt. Anh hiệu ăn nắn nót viết tên ba người theo thứ tự, ông già, tôi, rồi chàng BA. Mấy hàng chung bảo sẽ về, và một dòng ân cần nhắn riêng BA hãy đợi. Cuối chiều, tôi bước lên đưa cho BA tấm thiệp, ở đầu cầu thang chợt đụng ông y tá lầm lì tuôn từ trên xuống, suýt đâm sầm vào nhau. Ông ta chạy vội ra cổng rồi lại chạy vào cùng với tiếng còi xe cứu thương rú lên như bay qua mái nhà rồi từ trên không chụp xuống. Tôi nép vào bờ tường, tất cả quay mòng trước mắt. Chẳng bao lâu lại thêm vòng xe đạp lăn tròn của cô gái lọt qua vòm cổng. Cô chợt khựng lại, vội vàng nhảy xuống, ngơ ngác trước cảnh tượng đang náo động trên sân cỏ này, buông ngang chiếc xe đạp đổ nhào xuống đất. Chưa ai kịp phản ứng, cô bé đã chạy bổ tới cạnh chiếc băng-ca, hai người đàn ông mặc áo blouse trắng vội vàng thu vén nốt những dụng cụ cứu cấp rồi khiêng đi. Ông già cố bước nhanh choàng ôm cô bé lại. Tôi lúp húp chạy theo ra tới ngoài, đèn xe đèn đường phố phường nhòe sáng. Rồi tiếng xe cứu thương bất ngờ xé rách không gian. Bước quay vào, trong góc sân gần nhập nhoà bóng tối, cô gái gục trên vai người đàn ông tóc trắng. Có tia sáng yếu ớt từ ngọn đèn treo đầu bờ tường đá ong đang rọi xuống, rưng rưng trên màu cặp sách đỏ nằm giữa vuông gạch xám, kẻ viền bởi cỏ xanh.

Mai Ninh
(mùa thu 99)

Phượng Các
#18 Posted : Sunday, December 5, 2004 1:47:00 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,704
Points: 20,055
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
Ðêm rượu đợi

Mai Ninh




Chẳng lẽ bao năm sau tôi vẫn phải chịu đựng cùng cảm giác đứng ngồi không yên, bồn chồn quay quắt, khi đợi chờ Luân. Nắng rưng rưng trên vùng cỏ dưới thung lũng, cạnh rừng cây vương víu ánh lá vàng. Những cây thông sừng sững vươn cao bên sườn núi, vời vợi và an bình. Thế mà hồn tôi cứ lao đao, tim chừng như khi đập khi ngừng, từ sáng sớm mở mắt cho đến bây giờ, buổi chiều. Buổi chiều reo leng keng tiếng lục lạc của bầy dê be be về ngang qua bên kia đường mòn. Ba giờ, chuông nhà thờ của ngôi làng nhỏ thấp thoáng sau rặng thông đang đổ hồi. Trời sẽ sẫm dần, ngày gần hết. Mãi bảy giờ Luân mới tới bằng chuyến tàu cuối. Người đàn ông dưới thung lũng đã cam đoan chỉ ba mươi phút đủ để xe đổ xuống nhà ga. Nhưng không, tôi sẽ đi trước một giờ. Con đường từ trên đồi này về thị trấn có mấy khúc vòng, quanh co qua khu rừng ẩm ướt. Và biết đâu, nếu chùng chình tới trễ, tôi sẽ không được ôm ghì lấy Luân khi chàng vừa bước khỏi bực toa tàu. Mà hay là...hãy để Luân tìm kiếm, cho đáng tội những ngày xưa tôi đã phải truy tìm Luân trong từng giờ của ngày thực, trong từng phút của đêm mơ.

Hai ngày trước, khi tôi lên đến đây, trời đổ cơn mưa tuyết. Tuyết rơi không dầy nhưng lả tả cho tới sáng hôm qua. May thay người đàn ông gù lưng phụ trách giao nhà đã đem về những vật dụng tôi định sẽ xuống phố mua sau. Cái dáng dấp hơi khòm, nhưng cặp mắt linh động, hai cánh mũi đập liên hồi làm mới đầu tôi dè chừng ngần ngại. Trái lại giọng nói lắp bắp và bàn tay thỉnh thoảng vuốt xuôi những sợi tóc vàng, lộ ra sự hiền lành có chút gì thơ trẻ. Dù gương mặt sạm nâu với vài nếp gấp đây đó, tôi đoán chừng tuổi ông ta không nhiều lắm. Tôi có hơi ngượng ngập. Ðấy là người đàn ông đầu tiên đã nhìn tôi thẳng thừng từ đầu đến chân, dẫu là mới gặp. Sau cái nhìn đó, ông ta lặng thinh đi mở tung những cánh cửa sổ của ba căn phòng thông nhau, phòng khách, phòng ăn và nhà bếp. Bỏ mặc tôi đứng lại nơi cái cửa ra vào làm bằng những kính nhà thờ nổi hoa màu rực rỡ. Từ đó nhìn thẳng vào chiếc bàn ăn lớn. Sau bàn ăn là cửa mở ra vườn. Những nụ hoa tuyết bay lửng lơ qua từng nhánh cây trụi lá. Người đàn ông tiếp tục đẩy cửa vào hành lang bên kia, chắc là phòng ngủ và nhà tắm. Tôi gỡ găng tay và mũ len bỏ trên mặt bàn, đến gần cửa sổ. Khu vườn phía sau dài tới triền đá. Trên những phiến nham thạch, mọc từng chùm dương xỉ xanh ẻo lả chen lẫn với một thứ hoa leo vàng thắm. Không hiểu hoa gì mà bất chấp cả cái lạnh mùa đông. Tuyết phủ trắng sân cỏ, lộ những cây hồng khẳng khiu và mấy bụi anh túc cầu khoe thân trơ trọi. Hai con chim ác là đuổi nhau vụt xuống từ mái nhà, oác miệng kêu canh cách thật chói tai, rồi chao xà đậu lại. Cặp cánh khoang trắng trên toàn thân đen thẵm với cái đuôi dài ngúng nguẩy. Hai con rúc rúc vào nhau trên phiến đá. Tôi chợt nhận ra đó là tấm bia một ngôi mộ nằm sau cây nguyệt quế.

- Bà ấy chết...chết cách đây năm năm. Người đàn ông trở ra từ lúc nào, tiếng hơi đục và nhỏ.

- À, ờ, chủ nhà này?

- Hình...hình bà ấy đó.

Tôi ngoảnh nhìn tấm chân dung sơn dầu choáng cả bề ngang trên bờ tường lò sưởi. Ánh sáng ban ngày không chiếu vào tận nơi. Nhưng tôi đủ rùng mình trước tia mắt biếc. Bà ta đang nhìn tôi như hỏi nhỏ tôi là ai, từ đâu đến, với hai vành môi hơi nhếch lên tựa mỉm cười. Vài sợi tóc màu hạt dẻ, không tóm hết ra sau, buông thả che một bên má bầu bĩnh. Bức tranh bán thân chỉ lộ bờ vai và manh áo mỏng màu ngà giản dị. Tôi nghe tiếng thở sau mình. Người đàn ông cũng đang ngửng nhìn bà ta đăm đắm. Hai con chim ngoài vườn lại toang lên tiếng kêu như mảnh sành vỡ. Ông ta giật mình, ngượng nghịu phác một vòng tay rồi đi ra cửa, ấp úng hẹn sẽ xuống thị trấn mua cho tôi mấy thứ cần thiết và con gà trống thiến.

Thế là từ đầu buổi chiều hôm nay, người đàn bà trên lò sưởi tha hồ theo giõi từng công việc tôi làm trong khi chờ Luân. Khuôn mặt dịu dàng ấy chắc chắn không soi mói, nhưng hẳn diễu cợt điệu bộ tôi đi ra đi vào nôn nao, bần thần bất chợt. Cầm khăn lau bụi những đóa hoa khô đã bất tử trong chiếc bình sứ trắng. Mở ngăn kéo lôi ra tấm khăn bàn màu ngà, trải lên. Rồi lại nghĩ, hơi nhạt hơi buồn. Trong căn nhà này, người đàn bà ấy chỉ dùng một màu trắng và xanh dịu, thỉnh thoảng điểm vài nốt vàng đậm hướng dương. Lại cất đi, lôi ra tấm khác. Chắc Luân thích màu đỏ tím lịm này hơn, nó sẽ ấm cúng với ly tách trong suốt cho bữa ăn tối nay. Bà có nghĩ thế không? Ngày xưa Luân thường mặc áo màu đậm trên quần nhạt dù trời xứ tôi mưa gần hết cả năm. Trải khăn xong, tôi dọn đĩa dao muỗng nĩa. Tôi bày những cái ly uống rượu, thon cao, tròn thấp. Champagne sẽ sủi bọt vàng lân tinh. Vang đỏ thắm đẫm như máu sẽ dội từng hồi tới tấp trong tim tôi, khi Luân ngồi trước mặt. Ngần này năm tháng đi qua trong đời. Hẳn bà cũng biết, đã bao lần tôi bày những bàn ăn. Ðây chẳng phải lần đầu. Những bàn ăn cho đông người và những bàn ăn chỉ riêng tôi đối diện với một người đàn ông nào đó đi qua đời sống mình, tình cờ hay thiết yếu. Nhưng chỉ có lần này tôi lúng túng băn khoăn.

Con gà đã bỏ vào lò đang bốc mùi thơm. Ồ, đã đến lúc phải thêm vào bên cạnh những quả dẻ tây và một chút nho ngâm cognac. Ðáng lẽ chỉ nên quay gà một giờ trước bữa ăn. Nhưng bà hiểu cho, tôi muốn dành trọn thời gian và hồn mình cho sự có mặt của Luân khi chàng đến. Luân hẳn không thích căn phòng này ngợp mùi thức ăn đang nấu. Món gà cổ truyền cho đêm nay không khô mất đâu. Tôi sẽ tắt lò sớm và canh chừng rưới lên đó từng thìa nước sốt. Nó cũng giúp tôi bớt đi nôn nóng của một sự đợi chờ. Tựa đã suốt qua, gần nửa đời tôi thiếu phụ. Năm xưa, tôi ngồi bên này sân mở to mắt nhìn qua hàng rào vắt leo những dây hoa ti-gôn hồng. Thấp thỏm mong dáng Luân dắt xe vào bên kia sân nhà ông bác. Luân dựng xe cười rất tươi. Chị Thư đứng bên mành trúc ở cửa ra. Luôn luôn yểu điệu và kênh kiệu, chị chẳng bao giờ là người chạy đến trước. Tim tôi nhói đau mỗi lần. Luân đến cạnh chị Thư, tay bóp nhẹ vai chị nhưng mắt nhìn sâu hút. Vâng, làm sao tôi thấy rõ được gì qua cành lá của hàng rào ngăn hai sân nhà thân thuộc. Tôi chỉ khổ sở mường tượng ra cái nhìn ấy. Nhưng bà biết đấy, sự tưởng tượng thường làm người ta đau đớn hơn những điều có thực.

Có tiếng gõ cửa nhè nhẹ. Người đàn ông dưới thung lũng đã trở lên, ôm một cây thông nhỏ sực thơm mùi nhựa mới cắt. Chẳng nói chẳng rằng, ông ta đặt nó xuống đất, chạy ra hông nhà cầm vào một cái xô đầy cát. Vẫn trong sự im lặng như thế, tôi và ông cắm cây thông vào xô cát đặt trong một góc phòng. Dưới đôi mắt chăm chú của người thiếu phụ chủ nhân. Tôi nghĩ thầm, thế là phải đi sớm hơn nữa, để mua ít thứ về trang trí cây thông. Nhưng rõ ràng, người đàn ông này không ngừng làm tôi ngạc nhiên. Ông ta mở một ngăn kéo, lôi ra bao nhiêu quả chuông bạc và những ngôi sao long lanh kim nhũ. Trước vẻ mặt tôi, ông giải thích:

- Tôi...tôi đã dọn...dọn cất mấy thứ này. Chợt giọng nhỏ lại như nói một mình.

- Khi...khi...bà ấy mất, cây vẫn còn...còn tươi tới mấy tháng sau.

Tôi qùi trên sàn, cùng với người đàn ông treo những ngôi sao và chuông bạc vào từng nhánh thông. Tôi sẽ mua thêm nhiều ngọn nến. Sẽ thắp sáng đêm nay để rực thêm màu mắt người đàn bà trong tranh. Và tôi sẽ nói với Luân, khi em rời khỏi nơi này cây còn xanh mãi.



*

Căn phòng ngủ vàng nhạt với giường tủ màu gỗ thẫm nhưng không cầu kỳ. Tôi thích cả một khung cửa lớn nhìn xuống thung lũng và chiếc bàn phấn thấp dài có tấm gương to hình bán nguyệt. Tất cả được xếp đặt gọn ghẽ, nhưng rất tự nhiên như vẫn có người sống trong căn phòng này tự bấy lâu nay. Còn chiếc áo khoác bằng lụa dầy trên mắc, còn đôi dép nhung thêu dưới chân giường và cái bật lửa cùng hộp mù xoa giấy trên bàn ngủ. Tối hôm qua tôi đã mở một ngăn tủ lấy ra chăn gối. Tự nhiên tôi dè dặt ngại ngần. Hình như mình đang xâm phạm vào những gì riêng tư của người thiếu phụ. Tôi hít hà những tấm ra thoang thoảng mùi la-văng miền núi.

Ðã năm giờ hơn. Phải sửa soạn đi đón Luân thôi. Tôi ngồi xuống trước bàn phấn với cái giỏ đựng đồ trang điểm. Vừa mới tắm xong, những sợi tóc sấy khô bung lên khiến khuôn mặt đầy đặn hơn. Tôi nhìn mình trong gương. Có cần không, trang điểm? Da mặt vẫn đủ mịn. Mắt đủ to và chân mày chẳng cần thêm nét vẽ. Má vẫn đủ hồng. Lần đầu tôi và Luân gặp lại nhau sau nhiều năm trời biền biệt, tôi cũng chỉ thế này. Nhưng tôi không thể quên ánh mắt Luân vừa ngỡ ngàng vừa đằm thắm. Cũng cùng cái nhìn tha thiết thuần phục ấy, tôi đã quặn đau gan ruột khi nó chỉ hướng về chị Thư, năm tôi mười sáu tuổi.

Chị Thư năm nay mười chín, đẹp rực rỡ. Cổng nhà bác tôi sáng tối bình bịch, ken két tiếng đỗ xe, tiếng chuông réo gọi, tiếng người đưa thư. Tiếng con bé người làm càu nhàu ngái ngủ, phải ra mở cửa giữa giấc trưa. Hai bác tôi chỉ có chị Thư và một cậu con trai bằng tuổi tôi nên chìu con bất khả tư nghì. Chị là thiên kim tiểu thư của cả họ. Tôi còn đầy vẻ trẻ con, lép vế đứng sau. Nhưng trước khi Luân xuất hiện, tôi chẳng nề hà chi chuyện đó. Tôi thán phục vô điều kiện, thương chị Thư hồn nhiên vì chị tuy điệu bộ khó khăn cũng chỉ yêu chìu có một mình tôi. Nhiều khuya, tôi đã mặc áo ngủ còn lẻn sang nhà chị, chui vào giường bắt chị kể chuyện. Chị Thư kể rất hay, từ xi- nê ca nhạc, tiểu thuyết truyện tình. Rồi bao giờ cũng kết thúc bằng chuyện của chính mình, anh chàng này và anh chàng nọ. Chị đọc thư họ cho tôi nghe, cười khanh khách. Lấy giọng ngô nghê, diễu cợt những tán tỉnh của họ, rất khôi hài, khiến tôi co người như tôm, ôm bụng cười. Rồi ngủ quên trên cánh tay chị.

Cứ thế, cho đến khi chị quen Luân là mọi điều đổi khác. Là bỗng chốc tôi rơi từ không gian cao vời thanh thản vào vũng sâu của đớn đau trầm uất. Dù tôi đã vận dụng tất cả trí khôn, lý luận xác đáng của tổng cộng mười sáu năm sống trên mặt đất. Nhiều nhõi gì mười sáu năm ! nhưng với tất cả nghị lực, để làm con chim non từ đáy vực cố cất cánh bay lên. Chị Thư chẳng dự phần gì. Chỉ là do tôi. Chỉ là ở cái dáng dấp cao, lững thững của Luân. Chỉ là mắt Luân vừa ánh thơ trẻ vừa mời mọc, mang chút gì, mà một lần tôi nghe cô bạn chị Thư bĩu môi gọi là đĩ thỏa. Và cũng vì lúc Luân mở miệng cười, người đối diện sẽ tưởng rằng anh đang cho đi tất cả. Không, chưa hết. Còn những bức tranh Luân, màu sắc của lửa và của nước, dù thuở ấy tôi nào biết gì về hội họa. Chẳng như chị Thư, treo đầy tường những bức tranh Luân tặng rồi ung dung ngồi nghe mọi người thán phục tài năng của người yêu. Tôi dành dụm tiền mua sách về hội họa đọc thay tiểu thuyết. Tôi gửi chiếc solex cho tên giữ xe bên vỉa hè, một mình, can đảm bước vào những phòng triển lãm. Lặng lẽ ngắm nghiá, chịu đựng những cái nhìn tò mò lẫn xem thường: - Con bé con ấy biết gì!

Dù chẳng cần trang điểm, tôi vẫn phải bôi son. Theo thói quen, và nếu không môi sẽ tái đi, ngoài kia trời rất lạnh. Tôi với sắc tay, tìm. Bất chợt nhìn vào cái đĩa mây trên bàn phấn đựng những cây son nhiều màu. Tôi cầm lên, mở nắp, quay quay từng thỏi một. Mấy năm rồi mà son vẫn chưa khô. Thử màu gì đây? Hồng nhung ư? Trên da trắng, chẳng khác gì geisha! Lie de vin, cặn rượu chát? Có lẽ được. Không, hơi buồn cho đêm nay. Trời đang mù dần, xám đục thế này là sẽ tuyết. Ðỏ cam hay fushia chăng, làng chơi quá! Tôi ngửng nhìn trong gương, rồi cúi xuống đổ ào cả đĩa son lên mặt bàn phấn. Tôi biết rồi, phải tìm ra màu hồng, màu hồng ngả gỗ trầm mịn màng của chị Thư. Ðây, đây, màu này chị Thư thoa mỗi ngày, ngay cả hôm đám cưới. Chị hôn Luân với màu son này. Luân cười kỳ diệu trước mọi người với nét môi chị uốn cong để lại trên gò má. Tôi cầm thỏi son quẹt những nét mạnh lên môi. Tôi không vẽ viền trước, cũng chẳng thèm dùng bút lông thoa cho đều. Tôi chỉ muốn xem ngay, môi mình có thắm như chị Thư. Cuối cùng, tôi ném thẳng thỏi son hồng của người thiếu phụ xuống thảm, ngẩn người nhìn một bộ mặt lem luốc hiện ra trong tấm kính. Nó đấy, con bé Yên mười sáu tuổi tập tễnh trang điểm. Tập tễnh bôi má hồng, đánh môi son cho giống chị Thư. Nhưng chẳng bao giờ giống được. Con bé tuyệt vọng. Tức tưởi quệt ngang dọc màu mè lên gương mặt thơ ngây nhoè nhoẹt nước mắt trong căn phòng lặng lẽ. Tôi nhớ chứ, lúc ấy bên kia rặng hoa ti-gôn, chị Thư và Luân đang làm lễ tơ hồng.



*

Giờ này không còn mấy xe cộ trên đường núi. Trời đã tối. Khi ngang qua làng, tôi thoáng thấy người đàn ông đang khuân những khúc củi khô vào nhà. Ông ta một mình, hay sống với ai? Nếu không sợ trễ giờ, tôi thật muốn bước vào căn nhà nhỏ ấy, có những cánh cửa sơn xanh rất lạ. Người đàn ông này đem đến cảm giác bí ẩn nhưng bảo bọc và đồng lõa. Dường như ông ta biết rõ tôi, như từng biết người thiếu phụ trong tranh.

Tôi mải mê với những suy nghĩ mông lung, suýt không nhìn thấy sau khúc đường cong, một chiếc xe chở gỗ lừng lững đậu ngang, chắn gần hết mặt đường. Tôi rọi đèn pha, trên xe không có ai. Một phút, rồi hai ba, năm bảy. Tôi bấm còi tin tin. Vẫn thế. Tôi sốt ruột nhìn đồng hồ, rồi thẳng tay dộng còi trên tay lái. Chẳng có ai đằng trước đằng sau cho tôi cầu cứu. Tuyết bất ngờ rơi nhiều hơn, không tan nổi trên đầu xe vẫn nóng. Từ dưới xa, dường như vọng tiếng tàu đã vào sân ga. Tôi bật khóc. Mãi lâu sau, người tài xế mới trở lên cùng chiếc xe câu. Và tôi lao xuống đường đèo mù mịt như bay vào hư vô, không sức cản. Chung quanh nhà ga chẳng còn mấy người qua lại. Hơn bảy rưỡi rồi. Những chuyến tàu về các ga nhỏ tối nay ngừng sớm. Mắt tôi mờ đi vì tuyết và nước mắt. Không thấy Luân trước cửa nhà ga, tôi chạy vòng vài con đường chính của thị trấn. Các cửa hiệu vẫn còn sáng đèn hoa đăng, và nhạc đang reo những tiếng chuông thánh thót. Mấy đứa bé chúi giầy ủng, đá tung lớp tuyết đã đọng kín đường đi, cười thích thú. Người đi người lại hối hả vào giờ phút cuối, tay xách nách mang những gói quà đủ màu, những túi giỏ nặng trĩu. Cửa hiệu rồi cũng sắp đóng. Mọi người sẽ trở về mái ấm của họ, chờ đêm thánh. Còn tôi, còn Luân. Luân đang ở đâu? Sao anh không bất chợt trờ ra, như hôm ấy, từ cửa hiệu thuốc lá khi tôi đang loay hoay lục tìm mấy đồng bạc cắc để bỏ vào cột đậu xe. Trên vỉa hè phố nắng đó, tôi đã đứng chết trân và anh mở to mắt. Không ngờ anh gọi đúng tên tôi cùng với nụ cười vẫn làm bàng hoàng sau hơn hai mươi năm. Sao có sự hội ngộ chẳng chờ chẳng đợi. Sao trời bày tôi phải gặp lại anh, hạnh phúc và bất nhân đến thế?

Mải miết tìm dáng Luân, không thấy. Tôi đậu xe lại bên lề đường, cạnh ca-bin điện thoại. Reng, reng, reng...ba bảy chín mười hồi, chẳng ai nhắc. Luân có lên chuyến tàu cuối về thị trấn này không? Xảy ra chuyện gì? Sao Luân chẳng báo cho tôi hay? Ðúng rồi, Luân không báo được, căn nhà gỗ trên ấy đã cắt điện thoại vì đâu ai ở, sau người thiếu phụ. Mà tại sao tôi không đợi đi cùng với Luân, dại dột nghe lời chàng:

- Yên nghỉ làm sớm, lên đó trước đi.

- Ở một mình trên núi, buồn chết người.

- Chẳng chắc núi buồn.

Nói thế, nhưng thật sự tôi cũng muốn đi trước Luân. Tôi muốn có thời gian thu xếp, gói ghém lại mớ hành trang ngổn ngang của quá khứ. Một cách khác là dọn hồn cho những ngày mà chúng tôi chờ đợi từ hôm ngập ngừng thốt gọi tên nhau. Mấy tháng đủ dài, nhưng ngày gần đứt đoạn bởi đêm xa. Luân kẹt cứng trong thành phố náo động, ngộp thở. Còn tôi, từ lúc bắt gặp Luân nhìn đắm đuối, tôi đã thẳng tay vất lại sau lưng cả một quãng đời xao động. Tự nhiên trở về sống rất gọn, thu mình trên bãi biển vắng chập chùng mây và những con chim xám, chẳng đợi chờ gì ngoài những khoảnh khắc gặp gỡ, hẹn hò ngắn ngủi. Phải chăng đã đến lúc, tôi muốn ngừng lại trong dòng đời, lặng nhìn những bọt nước long lanh tựa hạnh phúc.

Tôi bước không hồn ra khỏi ca-bin điện thoại. Thất thểu theo dòng người tất bất rộn rã. Tưởng chừng có thể trôi theo họ về bất cứ nơi nào. Mà thế, tôi đã từng trôi đi vào một đêm xa lắm, sau đám cưới chị Thư một ngày. Sáng hôm sau lễ vu qui, tôi mon men sang nhà chị. Bác tôi bắt rể, nên căn phòng chị Thư mà tôi từng chui vào nghe chuyện rồi ngủ quên, bỗng trở thành đất cấm. Trong phòng khách còn nồng mùi tiệc tùng, bác gái đang sắp xếp những bình hoa lay-ơn tươi thắm, những chồng bánh cốm bọc lá xanh mướt, mâm xôi gấc đỏ điểm hột đen mà tôi vẫn chê như mặt rỗ. Tôi thu người thật nhỏ, nhưng cũng bị bác thấy, tóm ngay lại:

- Yên, sao đám cưới chị, con không sang? Mới thấy đó, lúc đàng trai tới, thoắt biến đi! Tôi ấp úng:

- Dạ... dạ, con...con bị đau bụng bất ngờ. Con dặn bé Hai rồi mà. Bác chắc miệng:

- Nó có nói gì đâu. Con Thư tìm mãi. Mà con sang đây chi sớm vậy? Tôi giật mình, lính quýnh:

- Con...con tính rủ chị Thư đi phố. Bác trố mắt nhìn tôi, lắc đầu cười tủm tỉm:

- Rõ con khờ. Tụi nó còn lâu lắm mới dậy nổi con ơi!

Tôi khựng lại, đứng chết dí trên hai miếng gạch hoa còn loang màu nước ngọt hay màu rượu hôm qua. Tuy thế, bác vừa bỏ ra ngoài sân với ba cây hương cháy đỏ là tôi bước vội vào nhà trong. Tôi định tìm anh Trung, em trai chị Thư. Chỉ có những câu trêu chọc của anh Trung mới có thể trấn tĩnh hồn tôi lúc này. Ngang qua phòng chị Thư, tôi nghe tiếng nước dội ra từ phòng tắm lẫn tiếng cười khúc khích. Tôi bịt hai tai, nhưng không ngừng được, nhìn vào. Không hiểu sao cánh cửa mở hé. Chiếc áo dài lụa Luân đã vẽ một con phượng với một con hoàng quấn lấy nhau rực rỡ thành áo cưới vô cùng đặc biệt cho chị Thư, vắt vẻo ở thành ghế. Chiếc nịt ngực và mảnh quần lót vương vãi mỗi thứ một nơi, tênh hênh trêu ngươi trên tấm thảm dưới giường. Tôi quay người ù chạy, đâm sầm vào con bé Hai đang xách ấm nước trà từ bếp đi lên.

Tối hôm đó, tôi mặc mini jupe, tôi thòng chiếc áo thun ngắn, hở cổ rộng. Tôi vào phòng lấy chai Chanel của mẹ xịt lấy xịt để. Thật ngu ngốc, mùi nước hoa quá nồng làm quay cuồng chóng mặt. Liếc lén bà mẹ đã xuống sân sau, tôi dắt chiếc solex ra khỏi nhà. Ðường phố đã tràn ngập xe cộ và đám thanh niên thiếu nữ. Cuối tháng mười hai, ảnh hưởng những cơn bão đổ xuống miền Trung, trời Saigòn lộng lên từng cơn gió. Trong chiếc jupe ngắn và chật, tôi khổ sở đạp phờ người cái xe mới nổ máy. Chẳng nhằm gì. Tới khúc quành kia đã có anh chàng sinh viên vừa vào đại học, đang hết mình cua tôi, chờ ở đó với chiếc honda mới toanh. Tối nay tôi cho de những đứa bạn gái. Ngồi sau, cố tình áùp ngực sát vào anh ta, tôi chẳng ngừng huyên thuyên. Chàng sung sướng cười, dù đường phố ồn ào inh ỏi, làm sao nghe rõ được gì. Mà có hề chi. Tôi nói một mình tôi nghe. Tôi nghe tiếng cười thất thanh bất ổn của chính mình. Chung quanh nhà thờ Ðức Bà đèn đuốc sáng trưng, những ngôi sao năm cánh bằng giấy bóng kính đủ màu chăng khắp mấy con đường. Bao nhiêu bong bóng bay lơ lửng. Nhiều đám học trò cỡ tuổi tôi hay nhỏ hơn mặc đồng phục hướng đạo, thánh thiện, thơ ngây ban phát hình Ðức Chúa, đổi lấy những đồng tiền giúp nạn nhân bão lụt. Và thu góp thư từ, quà cáp của người hậu phương, nhất là của những em gái, gửi ra cho các anh chiến sĩ ngoài tiền tuyến. Hai hạt nước mắt buồn tủi lẫn xấu hổ tròn tròn xoay trong con ngươi. Không, tôi nhất định không khóc. Chẳng thể nào khóc được. Chúng tôi lượn bao nhiêu vòng giữa xe cộ và tiếng cười đùa náo loạn. Tôi bỗng bảo anh chàng tách rời về một con phố vắng. Dưới gốc cây tàn lá xum xuê che gần hết ngọn đèn đường, chiếc xe dừng lại. Cả hai đứng xuống. Không chờ không đợi, tôi choàng tay xiết cổ, chúi mặt vào ngực áo Montagut mịn màng của anh ta. Chẳng ngờ bị tấn công bất chợt và tàn bạo, anh chàng hốt hoảng đẩy tôi ra. Tôi cứ xông vào, miệng như qủi nói: yêu Yên đi, yêu đi. Anh ta lắp bắp:

- Ơ, ừ...anh...anh yêu em, từ...từ lâu.

Tôi tức mình, chụp lấy hai bàn tay đang quýnh quáng, vòng chúng ra sau lưng. Cầm cả hai luồn vào sau áo thun của mình:

- Không có yêu bằng miệng, như thế này này.

Nhưng cũng ngay lúc ấy, da thịt tôi co lại dưới hai bàn tay run rẩy. Tôi ngỡ ngàng nhìn vào cặp mắt mở to, thảng thốt. Như bị đẩy từ trực thăng rơi tõm xuống, tôi hụt hẫng, ngượng ngùng buông bỏ tất cả, chà chà hai bàn tay mình vào chiếc váy. Cúi nhìn bóng lá đêm lung linh trên mặt đường. Những hạt nước đã xoay xoay, bấy giờ không còn cách gì ngăn giữ. Năm sau, thi xong tú tài sớm, tôi đòi được đi xa, rời xứ sở.

Tôi đã quên mũ, quên khăn quàng khi xuống đồi vội vã. Tuyết bám đầy trên tóc, tan ngay trên khuôn mặt đã nhòa những lệ, lọt cả vào cổ áo. Hai bàn tay tê cóng trong đôi găng da. Mắt vẫn ngơ ngác nhìn hè đường góc phố, nhưng chẳng thấy gì, và cũng không nghĩ gì được nữa. Cho đến lúc tôi đâm sầm vào một cột đèn lồng. Mở mắt ra, gương mặt Luân sát gần to sợ, vòng tay chàng đang ôm chặt vai tôi. Không một lời, Luân hôn lên tóc rồi rút khăn nhẹ nhàng lau khô mặt tôi đẫm ướt. Vẫn tiếp tục trong tiếng nấc nghẹn ngào, tôi dẫn Luân loanh quanh một hồi mới tìm ra chỗ đã đậu xe.



*

Khi chúng tôi về đến trên đồi, khúc củi sồi to chỉ còn âm ỉ những tàn lửa trong lò sưởi. Nhưng căn nhà ngập hơi ấm và những nụ hôn tới tấp của Luân đã làm tôi bừng tỉnh. Tôi giới thiệu người đàn bà chủ nhân. Chàng gật đầu chào trịnh trọng:

- Cám ơn bà cho tôi tìm thấy Yên.

Tôi giận dỗi:

- Sao anh không chờ Yên trước cửa nhà ga. Chàng cười, trao bó hồng nhung vẫn cầm trên tay:

- Anh vào mua hoa.

Lúc này tôi mới thấy rõ ràng mình tất tưởi hoảng sợ kỳ cục như trẻ nít. Ðánh trống lảng, tôi kể với Luân về ngôi mộ:

- Rồi sáng mai anh xem, ngôi mộ ngay sau vườn. Dễ thương lắm, chung quanh đầy hoa xuyên tuyết đã nở. Luân đứng ôm tôi, cả hai cùng nhìn ra vườn đang mờ ảo trong thứ ánh sáng huyền hoặc của tuyết và đêm.

- Mộ người mà Yên bảo dễ thương! Em không sợ à?

- Sợ gì. Bà ta như bạn. Mà bạn thân nữa. Nè, bà canh chừng con gà trong khi em đi đón anh.

Màu rượu đi qua gương mặt Luân. Màu rượu đọng lại trong mắt chàng ướt rượt. Tôi nhận ra rõ ràng hai chữ tĩnh từ của cô bạn chị Thư đã nói về ánh mắt Luân ngày nào, hồn đắm đuối. Thỉnh thoảng tôi ngửng lên người thiếu phụ, bà mỉm cười nhìn tôi và Luân quấn lấy nhau trên sàn gỗ, trước những ngọn lửa uốn lượn bập bùng trong lò sưởi. Tôi gỡ chàng ra, lê cốc rượu mạnh uống thêm. Luân chặn lại:

- Này cô bé, đừng say.

Những chuông bạc, sao trời óng ánh trên cây thông đã nhập nhòa trước mắt. Khuôn mặt Luân thật gần và hơi thở ấm vờn trên cổ. Tôi mềm nhũn, nhưng cố nói:

- Hãy mặc em. Luân à...hôm cưới chị Thư, anh có say không?

Luân đưa ngón tay chặn môi tôi, tay kia nâng sau gáy:

- Suỵt, không nói chuyện ngày xưa. Anh bế em vào giường.

Nói xong, chẳng đợi, Luân qùi gối dựng tôi dậy, đứng lên rồi xốc tôi lên vai, như người đồ tể vác heo vào phòng đông lạnh. Tôi sực cười. Chỉ khác con heo này không chết nhợt nhẵn thín và bất động, mà trái lại còn cựa quậy, đượm nồng rạo rực. Thõng nửa người trên lưng Luân, tóc đổ xuôi, tôi còn cố nheo mắt nháy người thiếu phụ đang cúi nhìn ỡm ờ đồng lõa:

- Bà ráng ở ngoài này đợi Chúa, đừng theo tôi vào trong kia nhé.

Vừa lúc ấy, từng hồi chuông tưng bừng rộn ràng vang lên từ ngôi làng dưới thung lũng. Ðúng nửa đêm. Không hiểu sao, tôi còn kịp nghĩ đến người đàn ông gù lưng. Ông ta hẳn đang qùi gối trong nhà thờ, nghiêm trang thành kính.

Luân đổ tôi xuống giường. Không chờ đợi, chàng chụp lên muôn ngàn ngón tay loài thú. Ngàn vạn ngọn sóng cuồng si ồ ạt. Cả tỉ vì sao chuyển dịch, đổi ngôi, nhấp nháy hân hoan trong tiếng chuông rền vang. Bao nhiêu động tác dội đẩy đảo lộn, bấn loạn trong từ trường vũ bão của trời đất và con người thú vật. Vũ trụ bão táp, hỗn mang, hoang đường đến nỗi tôi với chàng đã bùng lên điệp trùng dồn dập những hợp âm cuối cùng của bản giao hưởng. Cơn hồng thủy của ngày tận thế vừa ập xuống, vỡ tuôn, ngập lụt cõi trần.

Vậy mà, trong khi Luân rơi lịm sau cuồng phong địa chấn, tôi thấy mình vẫn lềnh bềnh trên biển cả.



*

Chị Thư cùng tôi trong con tàu nghẹt người nằm ngồi vật vã. Mặt chị tái mét xanh ngắt, người vừa lạnh như băng vừa nóng như than hồng. Chị dựa vào tôi, một tay che chở cái bụng đã tròn, vun lên như quả bóng đá banh, tay kia run rẩy trên đôi môi tím lịm cứ chực tuôn ra thứ nước nhờn tanh tưởi. Thỉnh thoảng theo đợt sóng dồi, cả hai chao đi, chị giật mình mở mắt, thảng thốt thều thào: - anh Luân về chưa Yên? Trời vần vũ mây đen, sóng từ xa cuồn cuộn. Những tiếng la hét, kêu trời, ói mửa vang lên cùng những lời kinh cầu khẩn thiết và tuyệt vọng.

Tôi nhắm chặt mắt theo chị Thư. Chợt thấy mình gối đầu êm ái trên cánh tay trần mát rượi của chị, trong căn phòng thiếu nữ ấm cúng. Giọng chị Thư vừa nhỏ nhưng run run, trầm trọng:

- Yên biết không, hai bàn chân cô ta co rút, nhăn nhúm, nhỏ nước ròng ròng, hỗng trên sàn phòng tắm có cả hai tấc! Khi người ta lôi cổ ra, mấy sợi giải rút cột quần bằng dây dù lòng thòng trên cổ. Bố mẹ chị bảo, thuyền trưởng đã ra lệnh vất xác xuống biển vì tàu đi mấy ngày mới vào Nam, sợ gây thành bệnh dịch, trên tàu rất nóng và ẩm.

Tôi co rúm, ôm chặt lấy chị. Lúc sau tôi thì thào:

- Còn cái ông chồng hay bồ của cô gái ở đâu? Mà tại sao cổ tự tử?

- Hồi đó năm, sáu tuổi, chị đâu biết gì. Nhưng chị nhớ rõ lắm, ở cảng Hải Phòng, chị thấy anh ta kéo xềnh xệch cô gái lên tàu trong khi cổ giựt tay lại, khóc gào sướt mướt. Một ông già đứng dưới bến tàu gọi lên: - Ðừng khóc con ơi, chừng có hiệp định thống nhất bố con mình gặp lại, không lâu đâu! Ôi, chị không quên được, chị sợ tàu thủy lắm Yên à. Ðó là chuyến tàu di cư năm năm tư.

Thế mà giữa những bọt sóng trắng xoá tung cao trước mũi con tàu mang một cái tên Tây, tôi loáng thoáng thấy mình đang đứng xếp hàng đợi giờ mở cửa của cơ quan Hồng Thập Tự Quốc Tế, với một tờ thư trong tay. ‘‘Chuyến tàu mã số HK 115, con phải tìm ra con Thư cho bác’’.

- Ðúng, chuyến HK 115 có tới được Hồng Kông, nhưng chẳng ai tên đó cả.

Tôi năn nỉ:

- Bà tìm hộ trên những tàu số khác xem sao.

Người nhân viên đứng tuổi lại gõ máy tìm tòi, rồi in ra, đưa cho tôi một bảng danh sách. Hơn hai mươi cái tên Trần Thị Anh Thư, có cái kèm ngày sinh, cái kèm tên chồng tên con, cái trống trơn. Nhưng chẳng có cột nào đúng với người đã di tản một mình, sinh ngày mười chín tháng hai. Tôi lặng người trên ghế. ‘‘Thằng Luân nó ác lắm, nó còn kẹt ở Pleiku thì nó cứ để con Thư ở nhà với bác. Nó sai thằng bạn về hối con Thư đi trước, trong lúc bụng mang dạ chửa. Tưởng nó đi máy bay, ai ngờ thằng đó trở về, nói đã đưa con Thư lên tàu một mình. Yên ơi, thằng Luân nó biết mà, con Thư sợ tàu thủy như sợ chết. Chỉ nội như thế, nó sống sao nổi cho tới lúc cập bờ’’. Tôi thẫn thờ bước ra khỏi cánh cửa có hình chữ thập đỏ như máu. Ngồi xuống một băng ghế trong công viên đối diện, cố nhớ từng nét khuôn mặt chị Thư. Từ năm rời quê hương, tôi chẳng thư từ với chị bao nhiêu. Có một lần được tin chị bệnh nặng vì sẩy thai đứa con đầu lòng, tôi đã vào một quán cà-phê ngồi đó thật lâu, những gì đã cố quên thức dậy vật vã. Hình ảnh Luân trở về rõ ràng như mới đó. Lại nghĩ tới đêm năm nào, muốn khóc, rồi bất chợt cười khan. Ừ, nếu anh chàng ...con nhà giàu đêm ấy sành sõi hơn, không hoảng hồn đến ngớ ngẩn thì biết đâu, sau khi đã để anh ta ‘‘yêu’’, mình ở lại quê nhà. Biết đâu bây giờ cũng vượt biên, và biệt tích như chị Thư trong biển rộng. Còn Luân? Tôi ngẩn người, rồi vội vàng nhìn quanh tìm kiếm. Luân mặc áo khoác dài đang quay lưng đi ra cửa công viên. Không, chị Thư đã là quá khứ, tôi chẳng thể mất Luân thêm lần nữa. Mới đây thôi mà, chàng vừa ở bên tôi. Không. Ở trong tôi. Cùng một hơi thở, quấn quít đôi môi ngọn lưỡi, cộng hưởng tận cùng những cảm giác thịt xương. Tôi đứng vụt dậy khỏi băng ghế, hấp tấp đuổi theo. Vướng chân, ngã sấp trên lớp lá vàng, còn kịp rút ruột gọi tên Luân.



*

Ánh sáng lọt vào căn phòng dịu dàng như từ thung lũng đưa lên, chứ không phải từ trời rọi xuống. Dịu dàng như cặp mắt người đàn ông đang khòm lưng ngồi bên mép giường. Bàn tay thô cứng đập nhẹ lên tay tôi thò ra khỏi tấm chăn, vỗ về. Tôi gượng ngồi dậy, hoang mang.

- Từ từ, cô...cô...chưa khỏe hẳn.

Tôi nuốt nước bọt, cổ họng đắng ngắt. Người đàn ông đứng lên:

- Tôi đã...đã gọi xuống thị trấn tìm bác sĩ, ổng...ổng sắp lên. Ngày lễ thật khó.

Hai chữ thị trấn làm tôi giật mình nhớ lại. Tôi quay nhìn khắp nơi:

- Anh...anh ấy đâu?

Ông ta như chợt nhớ ra, gục gặc đầu, quay về cuối chân giường. Trên chiếc quần len và áo ấm của tôi vất ngang ngửa, có một tờ giấy gấp.

- Trưa nay đem...đem củi lò sưởi lên cho cô, tôi...tôi...thấy nó kẹt dưới cửa. Cô...cô về...chẳng thấy sao?

Tôi không trả lời, run run cầm bức điện tín trong tay nhưng tự nhiên rã rời chẳng mở. Người đàn ông nhìn tôi ái ngại, rồi đi ra, nhẹ nhàng khép cánh cửa. Ðầu nhức bưng bưng, tim đập ồn ào trong lồng ngực. Gượng bước khỏi giường, ngạc nhiên thấy mình trong chiếc sơ-mi màu huyết dụ. Tôi đi chầm chậm tới khung cửa lớn. Chếch bên kia, chiếc xe đậu lệch lạc ngang con dốc lên nhà, như thể tôi đã vội vàng bỏ nó. Cảnh vật lênh đênh lao đao trước mắt. Rừng thông, thung lũng lấp lánh tinh thể tuyết dưới mặt trời mùa đông đã ngả. Chiều từ từ lan lấp không gian. Tôi bóc bức điện tín, hai dòng chữ tiếng Việt không bỏ dấu: ‘‘Me anh benh bat ngo, phai vao nha thuong. Yen hay ve gap, anh doi’’.

Bỏ tờ giấy trên bàn phấn, tôi mở cửa ra phòng ăn. Trên bàn phủ tấm khăn đã cố ý chọn màu, những chiếc ly cùng đĩa ăn, dao muỗng vẫn sắp đặt ngay ngắn, rỗng lạnh đến trơ trẽn. Ngoảnh về phiá phòng khách, người thiếu phụ vẫn đấy. Ðôi môi nhếch lên một nửa nụ cười. Trong lò sưởi khúc củi mới cho vào đang bén lửa. Lại là sự quan tâm của người đàn ông ấy. Không hiểu ông ta đâu rồi, chẳng lẽ mới đó đã bỏ về dưới thung lũng. Chẳng lẽ ông ta bỏ mặc, không biết rằng tôi còn vật vờ đau đớn giữa một thứ mộng và thực cứ sấn sổ muốn phân thân. Chai rượu vang mở sẵn chờ Luân tự bao giờ. Tôi rót đầy hai ly óng đỏ, đến trước lò sưởi ngồi xuống chiếc ghế nệm đối diện với thiếu phụ, gác chân lên cái bàn thấp. Nào, mời bà. Không à? Bà đã uống bao nhiêu rượu cùng tôi và Luân đêm qua, sao bây giờ từ chối? À, vâng, tôi đã tỉnh, và tôi biết chứ. Nhưng dù sao bà cũng đã cùng tôi nhập cuộc, nên đừng dè bĩu những đam mê đưa tôi vào cơn mộng hoang đường. Phải, chỉ là thúc đẩy của tiềm thức và ước mơ đành đoạn dài mấy mươi năm. Hoá ra, tôi đã yêu Luân, đáp trả chàng mộng mị cuồng vũ đêm rồi bằng chính kinh nghiệm thân xác gom thu từ những mối tình đã đi qua, cho đến bây giờ.

Hai con chim ác là ngoài vườn chợt toác ra tiếng kêu xé tai như đang đuổi rượt cay cú. Nhưng khi tôi đứng lên ra cạnh cửa sổ, lại bắt gặp hai cặp cánh đen khoang trắng ủ ấp nhau dưới cành lá xanh của cây nguyệt quế. Thoáng bóng áo da của ngưới đàn ông đang quay lưng đi bọc về ngõ trước. Hoá ra ông ta còn đấy. Tôi dựa người vào tấm màn cửa, thấm lạnh, hai tay vò vạt áo chiếc sơ-mi đàn ông thõng xuống trên cặp chân trần. Nao nao hướng về cánh cửa vân vân hoa kính, đứng đó và chờ đợi. Cuối cùng, người đàn ông đã mở cửa bước vào, trên vai vương dăm chiếc lá khô sót lại giữ mùa thu. Chợt nhận ra tôi đang chăm chắm nhìn, ông ta sững lại, hai tay đẩy đóng cánh cửa sau lưng dừng hẳn, bất động. Rót thêm rượu vào ly, tôi bưng cả hai đến trước ông. Trong cốt rượu rưng nồng, tôi thấy người đàn ông đang cố kềm hơi thở trước mặt không còn thấp gù như tôi tưởng. Ánh mắt mới đây hiền hòa đã long lên xanh hút loài mèo. Rồi đôi môi cũng ướt trơn rượu ngọt kia từ từ cúi xuống. Nơi chiếc cổ rạm nâu ấy toát ra một thứ mùi nồng quen quen, của chiếc sơ-mi màu huyết dụ. Tôi rùng mình khi hai bàn tay sạm sát còn lạnh khí trời bám chặt vào da thịt hai bên sống lưng, như muốn nhấc bổng tôi lên hay đẩy tôi ngã xoài xuống sàn gỗ. Nhưng rồi một cảm giác mới đầu bồng bềnh như nước sông bỗng biến thành cuồn cuộn nổi dâng từ đầu gối, cuốn miết qua đùi, bụng, lên tới bầu ngực rần rần. Tôi nhắm nghiền mắt lại. Người đàn ông gù dịu dàng này bỗng lốc lên trở thành cơn bão, tôi còn cố ghì hai vạt áo chống đỡ, nhưng bất lực. Gió lồng lộng quật xuống cả khu rừng mà lâu nay tôi dấu mình trong đó đợi Luân. Cây cối đổ tung, tan hoang theo dòng nước mê cuồng. Ðược rồi, hãy trôi đi, trôi đi dòng sông. Phải cuồng nộ lên, chảy xiết đi cho tức tốc ào ra tới biển. Phải phá tan, đập cho vỡ tung những con đê và ghềnh thác dựng lên sừng sững trong tôi từ năm mười sáu ấy. Chúng đã đồng lõa với những mê muội ám ảnh đầu đời để chặn đứng không cho dòng sông tôi được ca hát, được rộn rạo với nhịp nước reo vui của tâm cảm, càng không được hân hoan tiếp nhận sự thăng hoa đến ngập tràn trên thể xác. Tôi thả mình băng băng giải thoát, trào tuôn đến tận cùng, gặp biển mênh mông.

Khi tôi tỉnh dậy trên chiếc ghế dài, chiều đã xuống thật sâu. Sao trong đêm ngoài trời và trên cây thông bên lò sưởi cùng nhau nhấp nháy. Tôi vẫn mặc nguyên tấm áo thẫm màu nhàu nát, trên người đã được ông ta cần thận đắp cho mảnh chăn cừu mềm ấm. Hai cái ly đọng vài giọt đáy còn đợi trên chiếc bàn thấp. Tôi nhỏm dậy cầm chai rượu gần cạn rót nốt. Người thiếu phụ trên lò sưởi hình như vừa khép đôi môi, ánh mắt bây giờ có vẻ dò hỏi lẫn chút phật lòng.

- Ðừng uống nữa. Cô hãy ngủ đi cho khỏe, rồi sửa soạn về thành phố.

- Về làm gì?

- Quên à, Luân đợi cô dưới đó.

- Không. Tôi sẽ ở lại đây với bà cho đến đêm cuối năm. Ồ, bà nghe thấy chứ, chuông nhà thờ báo hiệu khóa lễ ngày Chúa giáng sinh. Hãy cạn ly đi. Rồi tôi mặc áo xuống đó cầu nguyện cho chị tôi.

- Còn Luân?

- Luân ư? Biết đâu chừng,...
Phượng Các
#19 Posted : Sunday, December 5, 2004 1:49:37 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,704
Points: 20,055
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
NGỒI MÃI BÓNG ĐÊM

Mai Ninh


" tự giữ cho mình nguyên vẹn
giữa biết bao đổ vỡ
là điều quá khó khăn
... "
Phạm Việt Cường

1

Giữa khuya, tôi choàng tỉnh, hất tung tấm mền, lưng đẫm ướt mồ hôi. Chân thốc mạnh vào thành chiếc giường sắt, bật tiếng chửi thề. Chợt nhớ tới thằng bạn cùng phòng. Mà không, hắn đã đi phép sáng hôm nay. Khung cửa sổ khá cao, sáng như có đèn chiếu. Xoay người nằm lại ngay ngắn, tôi mở mắt nhìn con trăng trong veo, sắc lạnh. Đã mười tháng, mười tháng của một năm rưỡi phải qua đi. Mười tháng! Sao chưa quen được với cái giường sắt, với tấm nệm cỏ và bộ đồ lính dầy cộm. Tự dưng tôi đưa tay vuốt tóc, chạm phải làn da đầu gần như trần trụi, ươn ướt. Không biết bao giờ mới bỏ được cái tật đưa tay sờ tóc. Cái thằng luôn luôn đứng xếp hàng cạnh tôi để chào cờ, vào căng tin, để tập bắn, hít đất và đôi khi tắm rửa tập thể... vẫn nhăn mặt, bĩu môi khi tôi trực giơ bàn tay lên. Một lần, hình như trái mắt quá, nó mắng thẳng: - Thằng chó, ở cái chỗ mày đang đứng, con người không được quyền có thói quen!

Tiếng mấy con bẹc-giê sủa từ xa, quen thuộc, rợn người. Tên T. sắp đi tuần ngang đây. Cái thằng chửi tôi kia đã có lần lầm bầm : - Ở cái trại lính quân dịch thời bình, việc đếch gì phải đi tuần với chó ! Một thứ gì đầy ứ từ dạ dày cuồn cuộn trào lên. Chất buồn nôn đã tới tận cổ, cơ thể sao trĩu nặng vô cùng. Tôi muốn ngồi dậy, nhưng cả người cơ hồ bị dán dính vào tấm nệm. Mớ nhờn nhợn ấy không tuôn ra được, nên lại ngoan ngoãn quay ngược trở về. Trăng chiếu từng vệt qua các chấn song, ngả trên bàn gỗ, lướt ngang khung ảnh An và những tờ giấy viết thư còn trắng bóc. Tiếng chó lại gầm gừ rất rõ trong đêm. Dường như chúng gấu ó với những lằn roi và tiếng chửi thề từng chặp của tên T. Giá tôi có thể ngồi dậy, tung cửa, chạy thoát ra biển. Chỉ có năm trăm thước. Biển chỉ cách chỗ tôi nằm năm trăm thước thôi, sao tôi không thể nào chạy tìm đến biển. Ý nghĩ bất lực càng đóng đinh tôi vào với chiếc giường.

Thằng bạn đã đi phép. Khi nhét nốt cuốn sách và bộ quần áo lót vào túi đeo vai, nó ngửng nhìn tôi đang đứng ở thềm cửa theo giõi từng cử động. Cặp môi dầy nhếch nhẹ một bên, nó định nói điều gì, lại thôi. Nó chẳng cần nói ra, tôi đã hiểu. Thường ngày, hai tròng mắt nó vừa bốc cháy căm phẫn vừa lặng chìm đau đớn, nhẫn nhục. Nhưng sáng nay, trước khi bước ra khỏi cửa, tuy miệng cười khẩy, những tia mắt nó đảo qua tôi đầy thương hại. Tôi trở vào, giơ tay vuốt tóc, ngồi phịch xuống thành giường. Tôi thừa biết điều cuối cùng nó muốn nói: - Tới phiên mày đó, để rồi coi.

Mấy con chó đã ngừng sủa, nhưng tiếng chân chúng và tên chủ rõ mồn một trên con đường dẫn đến khu nhà trệt này. Từ một tháng nay, thứ lính quân dịch có học thức được tuyển chọn làm việc văn phòng như chúng tôi dọn ra ở riêng, cách biệt hẳn khu trại đông đúc bên kia. Bọn cấp trên bảo đó là đặc ân. Hai đứa vào một phòng, trong căn nhà bê tông dài hơn hai chục thước, gần biển nhất. Nhưng tổng cộng chỉ có bốn thằng lính sinh viên được cắt cử lo việc văn phòng và điện toán cho cả trại. Hai đứa một phòng, vị chi hai phòng cả thảy. Một ở đầu hồi, một ở cuối. Có la hét kêu gào, phòng đầu kia cũng không hề nghe thấy. Họa may nếu có cơn gió thổi ngược từ đất liền ra biển, hai tên cuối khu nhà mới nghe được tôi chăng. Tôi cố nhỏm người, liếc nhìn chốt khóa và cái ghế tôi đã cẩn thận chặn ngang cửa phòng trước khi vào giường. Một việc làm thừa hiểu vô ích, vẫn làm.

Vầng trăng khuyết, lạnh như kim khí vẫn treo cao. Dưới khung cửa sổ là cái giường thằng bạn. Chăn gối xếp gấp cẩn thận, trong một thứ trật tự nhà binh. Hình như nó chưa đi phép, đang đứng đấy, ở cuối giường, đầu ló qua khung cửa một chút, tối đen vì ngược ánh trăng. Nhưng cái áo may-ô và chiê'c quần đùi nó mặc trắng toát. Tôi vẫn nhìn ra hai cánh tay buông thõng, cả cơ thể nó đang run rẩy. Rung lên nỗi bất lực và sợ hãi. Chênh chếch trước nó, quay lưng về phiá tôi là cái khối đồ sộ, đứng dạng chân, chắc nịch trên nền gạch. Bàn tay phải tên T. chờn vờn trên báng khẩu súng lệch ra khỏi cái thắt lưng đã mở tung. Bàn tay trái hắn loay hoay làm gì trước bụng, tôi không rõ. Cơn buồn nôn lại dồn lên, nghẹt thở. Tôi chồm đầu ra khỏi giường để cố oẹ. Không. Không có gì trào ra nổi. Quay nhìn cửa sổ, chỉ có chiếc giường trống. Tôi thở dốc, lôi vội tấm chăn trùm kín đầu.Ờ phải, tên T. còn trên con đường đi tuần, hắn chưa tới đây. Biết đâu chừng hắn sẽ đi thẳng tới căn phòng cuối dãy. Tôi có cường tráng gì cho cam. Bọn chúng thường gọi tôi là thằng nhỏ, như mẹ tôi năm xưa. Thằng anh và thằng em tôi bao giờ cũng lớn và đáng nể, trước mắt bà. Tên T. thèm gì thằng nhỏ. Nó chẳng ghé vào đây đâu. Tấm chăn trắng phủ trùm như màn sương, mà mồ hôi là từng giọt sương đọng lại, rìn rịn khắp trên lưng. Bỗng dưng tôi lịm đi. Hình ảnh thằng bạn co rúm trong hai cánh tay rắn chắc đầy lông vàng hoe của tên T. biến mất. Và, tôi cũng chẳng còn nhìn thấy tấm ảnh An trên chiếc bàn gỗ nữa.

2

Tôi trở về thành phố giữa mùa hè. Con tàu điện rít hồi còi rồi trườn vào ga lúc đứng trưa. Người ta và hành lý đông nghẹt, chộn rộn trên sân ga. Mùa này thiên hạ di chuyển, dời chỗ. Mỗi người đều thấy cần phải đi, phải đến một nơi nào khác hẳn ngôi nhà hằng ngày. Chỉ có tôi, tôi trở về nơi cư ngụ, một căn phòng trọ sinh viên. Tàu đã ngừng hẳn. Người trên toa lôi hành lý xuống, hối hả chẳng kém gì người dưới đất chăm chăm khuân xách chỉ vội leo lên. Tôi đứng dậy, từ từ kéo chiếc ba lô để ngăn trên đầu. Lại chạm vào ánh mắt gã đàn ông lông mày rậm đen ngồi phía trong. Hắn ta bực bội thấy tôi cứ thản nhiên ngồi ì, không đứng lên cho hắn đi ra. Việc gì phải gấp gáp. Tôi muốn kéo dài, thâu nhận thật sâu cảm giác được trở về cõi bình yên.

Gã kia đi sau, thỉnh thoảng húc chiếc vali vào bắp vế tôi. Hề chi. Tôi vẫn chậm rãi giữa hai hàng ghế. Mãi tới cửa toa, tôi mới nhìn ra dáng An đang nép vào bờ tường gạch đỏ. Áo cánh trắng mong manh trên váy màu xám nhạt. Thấy tôi ngỡ ngàng, An cười. Nụ cười của An không bao giờ là nụ cười vui rạng rỡ, nhưng hồn nhiên và tự tin. Nàng không thích chen lấn, vẫn đứng yên chờ tôi rẽ đám đông đi đến. An thong thả choàng hai tay qua cổ tôi. Tóc nàng bốc thơm mùi nắng. Chắc chắn An vừa nằm phơi nắng ở sân nhà trước khi đến đây. Tôi ôm lưng nàng bằng hai bàn tay tự nhiên lõng thõng, không dám xiết chặt. An ngửng lên, từ cằm nàng đến bờ môi dưới cong cong là đường rãnh mơ hồ đã từng ám ảnh tôi trong nhiều giấc mơ. Tôi có thể lướt môi mình trên đó, nuốt lấy vị ngọt và mùi hương An ngay bây giờ, rất thực. Nhưng hai bàn tay lại xoay nhẹ người nàng, đẩy về lối cửa ra.

Tôi quen An hai năm cuối trung học, trên chuyến xe buýt chật ních giờ tan trường. Nàng và tôi cùng cố len vào góc xe cho dễ thở. Xe vừa chạy đi lại bất ngờ thắng gấp, An ngã chúi vào tôi. Khi tôi đỡ nàng đứng thẳng dậy, An ngượng nghịu vén mấy sợi tóc ra sau tai, hai vành đỏ hồng. Tôi tiếp tục rẽ lối cho An tới cuối xe. Chúng tôi tìm được chỗ đứng bình yên, nhìn ra ngoài cửa kính. Cận ngày lễ Giáng Sinh, đường phố giăng mắc đèn màu và tuyết đang rơi từng cụm nhỏ. An chụm môi thổi hơi ấm vào hai bàn tay lạnh cóng. Tôi tuột ngay đôi găng đưa cho nàng. An cười và nhận lấy tự nhiên. Không ngờ, tới mười sáu tuổi, thằng con trai mới làm quen với một cô gái lần đầu. Sự làm quen này sao tình cờ và dễ dàng đến thế.

Từ hôm đó, mỗi chiều, không hẹn, nhưng chúng tôi cố tình đợi nhau ở trạm xe. Thằng em kém tôi một tuổi thỉnh thoảng cũng về cùng chuyến. Những lần ấy, An và tôi lặng thinh như thể không quen. Hai anh em tôi giống nhau như sinh đôi. Chỉ trừ, nó tóc ngắn, còn tôi tóc dài. Ngày nào vết sẹo còn hằn bên tai, ngày ấy tóc tôi không thể cắt ngắn. Chỉ một vài lần nhìn thấy thằng anh cả rồ rồ mô tô cạnh xe buýt, tít tít bấm còi, rồi tên em vội vàng nhảy xuống, hai đứa phóng đi, không ai đả động đến tôi, thì chẳng cần thông minh như An cũng hiểu mối thân tình giữa tôi và anh em thật là giới hạn.

Suốt thời gian quen An, chẳng ai hoài tâm đến chuyện tôi có bạn gái. Anh em tôi nào dư thời giờ. Nếu không bận bịu lau chùi chiếc mô tô thật bóng nhoáng, thằng em loay hoay tổ chức những buổi hẹn hò cho ông anh. Thời gian còn lại dành cho những trận đá banh quanh vùng mà hai người họ là thành viên cổ võ hung hãn nhất. Đôi khi, nổi hứng, trực nhớ tới sự hiện hữu của tôi, họ rủ tôi đi một vòng trên chiếc xe quí báu. Bà mẹ vội cản : - Ấy, để nó yên ! Từ bao nhiêu năm, cứ thấy đứa bé èo uột, khó nuôi ngày nào dần dần lớn lên, đêm ngủ không còn những cơn mơ la hét đánh thức cả nhà, là mẹ tôi hài lòng. Nó cứ bình lặng đến trường, rồi loanh quanh trong căn phòng riêng biệt của mình, không quấy rầy ai, là bà yên tâm.

Khi tôi đủ can đảm rủ An đi chơi xa, hai đứa thường đạp xe ra bờ sông. Một gói bắp rang để An thả cho mấy con thiên nga và đàn vịt, một phong kẹo cao su cho tôi, và một quả táo cho nàng. Thành phố tôi ở giữa đất liền, sông hồ không thiếu, và nhiều rừng cây giữ mưa mùa lũ. An thường bảo nàng không thích sông bằng biển. Dù sông có dài hay rộng bao nhiêu vẫn nhìn thấy bên kia bờ, vẫn có một giới hạn. Cho tới năm ấy, tôi chưa từng được đi xa, ngoài một lần để vào bệnh viện lãnh vết sẹo chân rết bên tai. Mẹ tôi viện lý do, tôi hay đau ốm ngay từ lúc mới sinh. Làm sao tôi nhìn thấy biển bao la và ngửi ra mùi của nó. Năm chúng tôi vào đại học, bố An giữ lời hứa với con gái, dời đi miền tây bắc, có biển cho nàng. Tôi không có cách gì hơn, vật vờ ở lại, xa An ba năm. Cuối cùng, một buổi sáng, tôi nhảy lên toa tàu xe lửa. Bỏ lại, sau những hàng cây phong đã đến mùa đỏ lá, cái trang trại to lớn của gia đình và những nhánh rẽ của dòng sông chảy về qua đó. Tôi biết, một đời tôi đi theo An, theo ánh mắt dịu dàng, yêu đời và tự tin. Theo chiếc váy ngắn trên đôi chân dài cùng cái mũ bê rê nghiêng nghiêng trên mái tóc nâu phơ phất. Tôi đã đi tìm tới biển, yêu An và tiếp tục học hành nơi đó cho tới ngày phải vào trại lính quân dịch, ở một vùng biển khác.

3

Lúc tôi quay ra với ly rượu rhum nóng pha đường thật ngọt cho An, nàng đang đứng gần lò sưởi. Chiếc quần jean đen, đẫm nước mưa nhiều khoảng, bó chặt từ hông xuống cặp chân dài. An đã cởi chiếc áo len. Những đường hoa đăng ten khoanh tròn bộ ngực hiện rõ ràng dưới làn vải teeshirt ướt dính trên da. Mắt An nhìn tôi không chớp. Ánh mắt cuốn hút kiểu ấy luôn luôn là một dấu hiệu gọi bảo. Hiển nhiên, tôi sẽ không cầm cự nổi, phải lao theo nó, cuộn vào cơn lốc cuồng mê. Tôi sẽ đến trước mặt nàng, kề ly rượu vào miệng An, đợi nàng nuốt xong một ngụm. Rồi cúi xuống, hút chất nồng đọng ở đôi môi mềm ấm, cuốn lưỡi trên những chiếc răng trắng lạ lùng. Mấy nhánh củi tôi nhóm lên, khi hai đứa gặp mưa ướt loi ngoi từ biển về, đã đủ sức nóng. Những ánh lửa sáng làm hồng thêm hai bàn chân trần của An trên sàn gỗ. Nàng nghiêng người tì má vào cánh tay chống vào bệ đá lò sưởi, vẫn im lặng. Hôm nay nàng bỏ rơi chiếc váy ngắn rất thiếu nữ hồn nhiên thường lệ. Trong quần jean khít khao, vòng mông cong tròn như một thách thức, thu hút thật đàn bà. Ly rượu trong tay nóng bỏng hơn. Nôn nao trên bước chân, tôi đã đến thật gần nàng. Thốt nhiên, một vật gì lao tới tựa viên đá ném thẳng vào lồng ngực. Choáng váng, không tự chủ, tôi vội vàng đặt ly rượu trên lò sưởi, cạnh cánh tay nàng rồi quay ngang, đi lại góc phòng. Cây ghi-ta vẫn nằm ngửa trên giường từ sáng. Tôi ngồi xuống gượng gạo cầm đàn lên, không dám nhìn An, bối rối: - Để anh hát một bài mừng sinh nhật em. Một giọng hát trơ trẽn, lệch lạc bật lên. Không phải của tôi. Chẳng thể là tôi. Nhưng tôi vẫn hát.

Không biết từ lúc nào, An đến ngồi cạnh giường, dưới chân tôi. Nàng xòe nguyên bàn tay chận đứng những sợi dây đàn. Ngón tay kia An hếch cằm tôi lên. Trái hẳn với cử chỉ khẳng định, gương mặt nàng vẫn dịu dàng với vài sợi tóc mai xòa trên trán. Nàng cất tiếng hỏi: - Hôm nay An mấy tuổi hở Kim ? Tôi hơi ngỡ ngàng : - Hai mươi bốn. An gật đầu, mắt không chớp : - Kim có biết rằng năm mẹ An hai mươi bốn tuổi đã sinh ra An rồi không? Tôi chưa kịp nói gì, bờ ngực hồng dưới cổ áo rộng của nàng phập phồng. An đưa cả hai bàn tay giữ lấy khuôn mặt tôi, giọng nghèn nghẹn : - Từ ngày Kim miễn quân dịch về, mấy tháng rồi, tụi mình chưa yêu nhau...Tại sao? Một lưỡi dao từ đâu xoáy vào bụng tôi. Câu nói này như chất xúc tác kinh khủng nhất, cồn cào lên cơn buồn nôn nghiệp chướng, chất nhờn lợm lẫn thứ gì mặn như máu. Tôi vùng dậy, suýt xô An bật ngã, lao vào phòng tắm, xoay cái khóa cửa, gập người, nôn khan hào hển, rồi ngồi bệt xuống sàn. Hình như có tiếng An kêu gọi phía ngoài. Đối diện với tấm gương, mái tóc lởm chởm trên ddầu chưa che nổi vết sẹo trước vành tai. Đấy, hắn vẫn đó, đã chồm hổm sau lưng. Hắn đưa ngón tay tròn to đầy tàn nhang như quả chuối châm hương, vuốt một vệt dài theo lằn sẹo. Tôi chưa biết phải chạy hay la hét thì đã bị hắn đè lên, đẩy chồm về phiá trước, nằm gục trên nền gạch.

4

Nhoài ra khỏi những bụi lau, tôi chỉ còn đủ sức buông người lăn long lóc qua suốt triền cát khô ráo, để đáp sấp sõng xoài trên cái nền ẩm ướt. Cho đến lúc một vật gì sớt qua, cào ngang mặt đánh thức tôi thảng thốt. Nhỏm đầu, tôi chỉ kịp nhìn ra cánh chim trắng chập chờn bay ra biển. Cả thân thể trườn trượt lún dần, mặt phẳng dưới người đang chuyển động. Hóa ra biển đã dâng, nước ngập đầy vũng cạnh chỗ tôi nằm.

Không thể ngồi dậy, tôi đành thả đầu, áp tai vào cát. Sóng ngầm đang đập vỡ tàn phá dưới đó. Sâu hằng bao nhiêu thước, nước đang sôi sùng sục. Nham thạch cùng kim khí bị lửa trái đất nung chảy, bung lên một nhiệt lượng khủng khiếp, xuyên thấu qua đất đá, qua chiều dầy của biển, qua sỏi cát, đốt cháy da thịt, ngũ tạng tôi. Không, hình như cái nóng rực bỏng rát này chẳng phải từ lòng đất mà từ bụng dưới và đáy lưng thốc lên, rầm rập. Một hòn lửa chín đỏ đang lăn từ sâu giữa hai mông, bò lên lưng, rồi qua ngực. Đi tới đâu đốt đến đó. Ấy, nó đã chạy tới cổ họng, bỗng vọt ra, bay vút lên trời. Tôi lại thảng thốt ngửng nhìn theo. Hòn lửa phóng thật nhanh như lằn chớp, nhập vào mảng trăng đang ngất ngưởng, chênh vênh. Trăng tóm lửa, sáng rực. Tôi chợt thấy một vết máu đỏ ối loang dần trên màu trăng lụa ngà trinh bạch. Bỗng nhiên, từ đó tuôn ra những làn nước xối xả, thẳng đứng, mạnh mẽ, giận dữ. Như trận mưa nào đã đổ xuống trên sa mạc đỏ, khi thằng bé tôi vừa tròn năm tuổi.

...Buổi sáng tinh mơ ấy, tôi theo mẹ lên chuyến xe lửa đầu tiên. Mùa đông năm đó thật dầy, nặng trĩu. Mấy tiếng đồng hồ tàu chạy, tôi không thấy gì ngoài một bầu sương trắng. Thảng hoặc mới nhìn ra vài rặng bạch dương trơ trụi, ngất nghểu bọc rìa những đồi thông cao vọi. Lần đầu được đi xa, nhưng tôi chẳng mấy chú ý đến cảnh vật. Chiếc vali nhỏ mẹ đặt trên băng ghế đối diện, trong đó mẹ xếp đặt nào quần áo, nào con thỏ bằng vải cùng đôi giầy bông, đã làm tôi thắc mắc, bồn chồn lo lắng. Mẹ bảo dẫn tôi đi chữa cái mụn kềnh càng bên tai. Theo bà, chính nó là thủ phạm những cơn khóc đêm, đái dầm, mê sảng. Nó làm tôi lười ăn, èo uột, không lớn được như những đứa trẻ bình thường, như anh và em tôi. Bà dỗ, đi một lúc rồi về. Làm sao tin được, một chốc rồi về mà phải lỉnh kỉnh bao nhiêu đồ đạc cho riêng tôi, trong cái vali ấy!

Và...khi tôi bừng tỉnh, một bên mặt xốn xang đau nhức. Tôi vùng đưa tay sờ đầu. Đầu tôi quấn một lớp băng dầy cộm. Tôi nhắm mắt hét lên gọi mẹ. Có hai cánh tay vội ôm tôi, giọng đàn bà ôn tồn: - Không sao, đừng sợ, mẹ em sẽ tới bây giờ. Tôi mở mắt ra, cô y tá đón ở cửa nhà thương hôm qua đang ngồi cạnh. Hơi thở dồn dập, thái dương nhói buốt, nhưng tôi lẳng lặng nhìn cô, không nói gì. Điều quan trọng, mẹ tôi không có đây. Bà đã bỏ đi. Đi đâu? Suốt ngày tôi nằm vùi trong chăn, cắn răng chịu cơn đau. Tôi không còn muốn khóc. Có lẽ mẹ đã bỏ đi vì chẳng thể nghe tôi quấy rầy hằng đêm nữa. Cũng từ hôm ấy, tôi không còn biết khóc.

Một đêm qua đi, sáng hôm sau, rồi trưa đó, cho tới buổi chiều...Buổi chiều, không gian xám ngắt. Lâu lâu mặt trời cố xuyên thủng màn sương, đẩy xuống vài tia nắng hiu hắt. Con chim se sẻ lững thững trên bệ cửa sổ, gõ mỏ lóc chóc vào ô kính. Dáng chừng nó đói, đòi ăn. Tôi cố ngồi dậy, cầm mẩu bánh mì lần ra mở cửa. Cô y tá bước vào, níu tôi đẩy lại giường, rồi bật chiếc truyền hình nhỏ, tìm một đài đang chiếu phim hoạt họa, và dỗ: - Em xem đi, hay lắm, mẹ có việc phải về nhà, sắp vào đón đấy. Tôi lơ là nhìn màn ảnh. Tim tôi nặng trĩu. Chiếc vali để trên bàn trong góc phòng không còn chứa đựng gì bí mật nữa! Con chim sẻ vẫn loay hoay một mình ngoài kia trời rét.

Bỗng nhiên màn ảnh sáng rực cát vàng. Một người Ả-Rập từ đâu xuất hiện, lom khom móc trong túi những nhánh xương rồng, rồi cặm cụi cắm vào cát. Nhưng cứ cắm tới đâu, gió tạt đến đó, bốc tung cành xương rồng cuốn bay đi. Nhạc nổi gió rít từng cơn. Ông ta vẫn lui hui, nặng nhọc lún sâu trong cát, dưới một mặt trời tròn to quá khổ, đang chuyển từ vàng cam sang màu máu. Tiếng nhạc chợt trở nên dồn dập, rầm rầm rơi xuống với những lằn sét ngang trời. Bao nhiêu làn nước tuôn thẳng trên đầu người Ả-Rập. Ông ta ngửng mặt đón mưa, nhe hàm răng trắng và đôi mắt mở trừng già cỗi. Sa mạc hứng đầy nước, cát tan biến, hoá thành dòng sông đỏ thẵm. Tôi nhắm nghiền mắt lại, trôi theo.

Hơn hai mươi năm đã qua, bây giờ cát dưới thân tôi cũng đang dần dần cuốn ra biển cả. Sóng đang đập ồn ào dữ dội. Tôi co hai chân, chống tay, cố bò dậy. Đầu óc choáng váng, tôi dang hai tay giữ thăng bằng để đứng được thẳng người. Ôi đêm. Chỉ mình tôi trước đại dương này. Biển không đen như tôi tưởng mà xanh đậm, ngoài xa hơn chuyển sang màu tím. Mấy con chim đêm về bói cá dưới ánh trăng, nhào xuống lượn lên trên những cuộn sóng trắng xóa, cánh vỗ từng nhịp như tay ai vẫy gọi. Tôi chạy theo, lao vào biển. Vừa buông người trong nước, nửa mặt mang vết sẹo và một bên đùi đau rát. Tôi chới với đứng lên, bấy giờ nhìn xuống, mới thấy mình gần như trần truồng, chỉ có chiếc áo lót ướt dính trên người rách toang, lõng thõng. Hoảng hốt, ngẩn ngơ, chưa kịp hiểu tại sao. Một cuộn sóng cao vọi từ xa xầm xầm rập tới, tôi vội vã chạy vào bờ. Nhưng không kịp nữa rồi, nó chụp từ sau lưng, hất tung tôi về phiá trước. Trong khoảnh khắc, tôi chợt hiểu cái đau cắt thịt từ đâu ra. Tên T. đang vồ tới, cả thân người và cánh tay hắn dang rộng, vũ bão như sóng.

Từ khi thằng bạn đi phép, đêm đầu tiên rồi đêm thứ nhì tôi thấp thỏm đợi chờ thảm họa. Nhưng biến cố không xảy ra. Đến đêm thứ ba, trăng tròn và dịu dàng hơn, tôi tự nhủ: chắc nó chẳng thèm. Nhưng vẫn cẩn thận khóa chốt cửa và chặn cái ghế. Quá căng thẳng thần kinh trong hai đêm trước, tôi mê đi cho đến lúc, rầm rầm, cánh cửa và chiếc ghế bị hất tung. Tôi ngồi bật dậy. Tên T. đã đứng giữa phòng. Đèn treo ngoài mái hiên hắt vào, giao thoa với ánh trăng tràn trải thật dài. Tất cả sáng trưng trước mắt. Sáng hãi hùng. Ba con bẹc-giê thè lưỡi đỏ, dàn trận thẳng hàng trước tên chủ. Mấy cặp tai vểnh lên, dựng đứng, sáu hòn bi xanh quắc chiếu trừng trừng vào tôi. Không hiểu do sức lực nào, tôi đứng dậy được, lùi vào cuối phòng, gần cái giường của thằng bạn. Gã T. vẫn đứng tại chỗ, thản nhiên chờ đợi. Thấy tôi nắm lấy cái ly thủy tinh cao để trên bàn, bấy giờ hắn mở hàm răng rộng đến mang tai, khinh khỉnh bước tới. Lũ chó tiến theo, gầm gừ. Hắn đá phóc một cái, mấy con chó dừng ngay. Tôi đã tới sát thành giường. Đằng sau là bức tường kiên cố và khung cửa sổ cao. Đường cùng. Cách tôi một sãi tay, tên T. đứng lại. Tay phải hắn vẫn cầm cái roi quất chó, tay trái hắn chậm rãi mở cái thắt lưng, mắt chờn vờn tôi như ngắm nghía con mồi. Từ bấy lâu nay, tôi chỉ nhìn hắn từ sau lưng đã thấy to lớn đe dọa. Bây giờ, ở vị trí của thằng bạn, đối diện với tên T., tôi nhận ra mình chỉ là cành lau bên thân sồi đồ sộ. Cái quần đã mở tung, trễ xuống quá mông, hắn khệnh khạng, khiêu khích bước thêm. Không nghĩ gì hơn, tôi đập mạnh cái ly vào song sắt. Một nửa rơi toang xuống đất, mảnh còn lại trong tay tôi chĩa nhọn. Tên T. càng hứng chí cười hềnh hệch, giơ tay chụp lấy tôi. Chẳng đợi, tôi lao vào hắn với cái ly vỡ. Nào ngờ, hắn ta như đợi có thế, vung roi, quất một đường vào má tôi ngang lằn sẹo, một roi thứ nhì ngay đùi. Tôi ngã nhào xuống sàn, mảnh thủy tinh đâm ngược vào lòng tay. Tôi chẳng kịp nhận ra sự đau đớn, một tảng đá đã đổ ập xuống trên thân. Tôi bị đè dang tay như thập tự, nhận khổ hình. Không biết tôi tỉnh hay mê, chỉ nhớ rằng tôi còn nhìn ra dòng máu đỏ ứa từ bàn tay trắng bệch. Nhưng có lẽ tôi tỉnh. Vì sau đó, tôi đã lê người, chạy thoát ra khỏi căn phòng có ánh trăng đuổi theo, lết bết trên những bãi cát, qua mấy đồi lau, tìm tới biển.

5

Trời đất tối mù hung hãn khi cơn mưa đá đổ rào rào. Từ trên hai tầng lầu, sau lớp kính dầy kiên cố nhòa nước đá tan, tôi cúi nhìn lo lắng. Dưới kia, người đàn bà dáng dấp mong manh ấy làm sao đứng vững trong cơn gió ngông cuồng và những viên nước đá to bằng đầu ngón tay không nương nể. Đáng lẽ tôi nên giữ cô lại. Hai tay ghì chặt mép áo khoác dầy, cô xiêu ngã tìm tới chiếc xe đậu trong góc parking dưới hàng dương uốn cong nghiêng ngửa. Tôi muốn xuống thang lầu, chạy ôm người đàn bà xanh xao đó trong cánh tay. Cô vừa qua cơn bệnh tử sinh đã vội đến thăm tôi ở tận nơi này.

Khi có tiếng gõ cửa, tôi đang nằm gác chân ngó trần nhà. Cũng may căn phòng không sơn trắng. Tường và cửa sổ, màn che cùng màu xanh dìu dịu. Tôi lặng thinh không trả lời. Mụ y tá với vầng trán và đuôi mắt đầy nếp nhăn chắc chắn sẽ ló vào, ném một câu thăm dò : - Cậu cần gì không, vừa ý chứ ? Tôi cần chi, và muốn được mãn nguyện điều gì? Tất cả đã vỡ tan như những mảnh thủy tinh trong bàn tay tôi ứa máu. Tất cả đặc cứng lại rồi như chất nhầy đã đóng thành xi măng trong dạ dày, không còn có thể trào lên tọt xuống. Lại tiếng gõ cửa, tôi bực mình buông thõng : - Vào đi. Ai ngờ là cô. Tôi vùng dậy, ngỡ ngàng nhìn cô ngập ngừng ở ngưỡng cửa, trong chiếc áo khoác đen và mái tóc còn lóng lánh những hạt mưa. Chắc cô ngạc nhiên thấy tôi nằm trên giường mà y phục lẫn giầy vớ chỉnh tề. Tôi đã nghĩ, phải ra khỏi căn phòng này, nhưng đi đâu?

Tôi mời cô đến ngồi ở chiếc bàn con cạnh những ô kính lớn trong phòng tiếp tân. Không xa, dưới chân nhà thương là con đường vòng đai thành phố. Mới bốn giờ chiều, những dòng xe đã chớp lóa ánh đèn đỏ vàng lên xuống. Mưa hình như đã từ lâu lắm. Tôi rót cho cô một tách nước trà. Cô giữ nó trong hai bàn tay, xoay xoay sưởi ấm. Tôi nhớ đến đôi găng ngày nào đã đưa cho An. Không gặp nhau chỉ hơn hai tuần, cô đã sút hẳn đi, làn da trắng xanh, càng nổi bật cặp mắt đen và mấy đường gân hai bên thái dương. Bỗng dưng tôi thấy cô nhỏ bé vô cùng. Hơn cả những lần đứng cạnh cô bên các máy móc trong phòng thí nghiệm. Cô để tách trà xuống bàn, tay gỡ vài lọn tóc chưa khô và nói : - Định ghé mua chocolat có bạc hà mà Kim thích, nhưng mưa quá! Tôi khoát tay: - Cô đến đây là đủ.

Giờ thăm bệnh nhân đã bắt đầu. - mỗi bàn, thân nhân ngồi quanh con bệnh lúng xúng trong bộ quần áo xanh của nhà thương. Mỗi người một vẻ, mỗi người một kiểu. Cạnh đây, bà cụ tóc rụng gần hết, miệng cứ mếu máo kêu mẹ ơi, trong khi cô gái trẻ ngồi bên cầm tay bà dỗ dành. Bên kia, gã đàn ông ngờ nghệch nhìn mấy tấm ảnh trên tay người vợ đang vừa chỉ vừa giảng giải liên hồi, nhưng anh ta vẫn lắc đầu quầy quậy. Tôi ái ngại quay nhìn, cô đã phác cử chỉ tỏ dấu hãy yên tâm rồi cúi xuống uống một ngụm trà, nhẹ nhàng nói: - Mọi điều đều có nguyên do, nhưng làm sao để nói ra và tìm được người biết nghe nó, phải không Kim?

Dường như cô còn nói thêm ít nhiều câu gì nữa, tuy chẳng hề động tới thương tích tôi. Những hòn mưa đá vẫn ồn ào theo gió đập vào các khung kính, trong khi hồn tôi tự nhiên bình lặng. Bao nhiêu rối loạn hay lềnh bềnh lắng xuống khi tôi nhìn vào khuôn mặt, nhất là đôi mắt cô. - đó là sự dịu dàng cảm thông và nét trầm lặng của một người đã nếm trải cuộc đời, đã kinh qua những nỗi đau. Nó không giống gì với ánh mắt, nụ cười thơ ngây của An. Ôi An! Đã hơn mười ngày, tôi không nhìn thấy nàng kể từ buổi chiều hôm ấy. Tôi hiểu mình không thể ấp lấy đôi bàn tay lạnh của An, để cùng nàng chụm môi thổi phà hơi ấm nữa. Cũng như tôi biết, nếu muốn kể ra điều gì, tôi chỉ có thể nói với một người duy nhất. Đó là người đàn bà xanh mướt với gương mặt diệu vợi đang ngồi ở đây thôi. Ngoài cô ra, không còn ai khác, ngay cả người bác sĩ tâm thần cứ lăm le rút tỉa từ tôi câu trả lời cho trăm chữ tại sao? Càng không thể là An tươi thắm yêu đời. An ơi, tôi đã yêu em hồn nhiên từ ngón chân lên tới sợi tóc trên đầu. Dễ dàng bao nhiêu. Nhưng từ đây, làm sao tôi còn có thể?

6

Người đàn bà xanh xao quay trở lại khu bệnh viện đúng hôm bố mẹ Kim đưa con về chôn cất ở vùng đất nhiều sông hồ và rừng cây. Mấy ngày sau, một người bạn Kim tìm đưa cho nàng một hộp giấy gói kín, của Kim đã nhờ chuyển trước ngày tự vẫn. Trong hộp nhiều thứ lẫn lộn, vài tài liệu việc làm của Kim với nàng, cây bút máy, thẻ thư viện, chùm chìa khóa văn phòng, và một phong thư dài nhiều trang giấy.

Nàng ngồi đọc những dòng chữ Kim từ khi nắng chiều còn vương hiu hắt trên những cành cây vàng lá mùa thu, cho đến lúc mọi vật sẫm tối một màu. Cảm giác bàng hoàng phẫn nộ, đau xót cùng dằn vặt ấn sâu nàng trong lòng ghế. Phong thư bày ra mọi khuôn mặt đã dự phần trong cuộc đời ngắn ngủi của Kim, nó chứa đựng tất cả câu trả lời cho hai cuộc quyên sinh. Từ sau đêm biển thẳm, Kim đã chiến đấu ra sao để thoát khỏi nhục hình đọa xuống bởi tên T. và sự im lặng toa rập của bọn cấp trên, phải thỏa hiệp những gì để được rời trại quân dịch sớm hơn ngày hạn định. Sau lần tự tử hụt thứ nhất bị vào viện tâm thần, Kim đã suy đi luận lại thế nào để quyết định, thêm một lần thứ hai, từ bỏ cuộc đời này.

Nàng tưởng tượng ngôi mộ Kim chìm trong lòng đất, với tấm bia ghi khoảng cách ngày sinh ngày mất ngắn hạn. Không thể chỉ xem bức thư Kim là tiếng kêu, là giải bày của một thực thể mong manh, một hiện hữu khép kín hay bất lực, là biện bạch cho một chọn lựa chối bỏ, ra đi. Đó còn là chứng từ rõ rệt, là cáo trạng gắt gao về những sự thật băng hoại mà con người không được phép che đậy, không thể để đào thoát. Nhưng, khi lan man mường tượng tới chiếc mũ bê-rê nghiêng nghiêng trên gương mặt trong sáng của cô gái tên An, thì nàng lại nghĩ, hay thôi, hãy để phong thư kia là một lời tâm sự với hư vô. Và phải chăng, sẽ không bao giờ bà mẹ Kim nên biết rằng, đã có một sa mạc đỏ biến thành dòng sông trong buổi chiều có con se sẻ một mình.

Nhiều hình ảnh chợt hiện ra, chợt biến đi trong vũng tối không gian. Người đàn bà ngồi mãi với bóng đêm, băn khoăn ray rứt, và nhỏ lệ.

(tháng giêng 99)

Phượng Các
#20 Posted : Sunday, December 5, 2004 1:51:08 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,704
Points: 20,055
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
Biển đầm

Mai Ninh


Cánh cổng sắt sáng nay kêu rít và nặng nề hơn dưới làn mưa bụi ẩm. Tôi chưa kịp bước ra lề đường có tiếng gọi giật sau lưng :

- Mai anh về ? Ngập ngừng vài giây tôi mới quay lại. Hà còn áo ngủ trắng đứng dưới vòm cửa cong, những chậu cây thả lá xanh và tím trên mái tóc cô gội ướt. Ánh đèn vàng dịu ấm cúng sáng từ hành lang sau lưng. Câu hỏi của Hà vẫn là câu thường lệ nhưng dường như lần này cô thực sự đợi tôi trả lời. Ðôi mắt tròn càng to, xoáy hỏi. Không, tôi nhiều tưởng tượng quá thôi. Hà vẫn như mọi ngày, người đàn bà của mọi ngày, đâu gì khác. Tôi đáp :

- Ừ, ngày mai. Vừa vội vàng xoay người khép cánh cổng, trong đầu tôi chập chờn:

- Có thể. Khi cho chiếc chìa khoá mở cửa xe đậu bên lề, tôi lại nghe mình tự hỏi :

- Ngày mai…hay bao giờ? Những tụm lá ngô đồng vàng úa đang cuộn vần trên con đường còn vắng. Tôi nhấn mạnh ga, chiếc xe phóng đi, lao theo đám lá bốc bay tan tác và cánh áo nàng vẫy gọi. Bóng lụa tím chợt ẩn chợt hiện giữa hàng cây trơ cành trong bầu trời chưa kịp sáng.

Không khí hầm rượu không nóng lắm nhưng ẩm. Những lúc tiếng nhạc chợt im bặt, ngồi sát tường tôi chừng nghe ra nước vỗ phía ngoài, đập vào nền đá hoa dựng trên những trụ gỗ thông đóng cọc dưới nước cả mấy trăm năm. Quầy rượu nằm sâu trong góc, dưới một vòng cung tuôn nhung thẫm từ trần, gắn đầy mặt nạ đủ hình thù, có cái trắng tinh, tròn xoe với cặp mắt ngây thơ nhỏ những giọt lệ, có cái ủng đen trợn trừng quỷ quyệt dưới một mớ khăn bóng xanh rờn chen màu đỏ máu. Mặt nạ thầy thuốc khoằm mỏ, đeo kính tròn ngoài hai hốc mắt treo gần một khuôn mặt công nương tuyệt vời với mái tóc tủa cao những lông chim ngũ sắc đầy kim tuyến óng ánh. Hôm tôi mới đến, thằng bạn đã dặn, Ít nhất mày phải tới quán rượu ấy một lần trước khi rời Venise. Hắn chỉ nheo mắt không nói rõ điều gì. Ðã chín giờ tối, quán vẫn vắng. Ba gã thanh niên Ý đang chơi bài nhưng không ồn ào lắm. Ở quầy, hai người đàn ông Ðức to con tán tỉnh cô gái rót rượu, giọng tiếng Anh rồ rồ cứng đục. Cô gái ra ngồi trước quầy, vắt vẻo trên chiếc ghế đẩu cao, son phấn rực màu, quần soọc ngắn tận bờ mông tròn trĩnh, thỉnh thoảng hấc tiếng cười hăng hắc.

Ðã cạn hai ly scotch, hút dăm điếu thuốc, vẫn thấy ngoài cái quầy quyến rũ vẻ ma quái kia chẳng có gì lạ, tôi thất vọng định đứng dậy đi ra. Bỗng tiếng người ồn ào và cánh cửa mở tung. Một toán người y phục hoá trang cười đùa xô đẩy bước vào. Không khí đột nhiên bùng lên với mùi rượu nồng, tiếng nhạc và giọng hô lê rộn rã, cùng tiếng vải vóc chạm nhau sột soạt. Ða số đều đeo mặt nạ, tôi chợt nhớ ra gần đến ngày hội giả trang nổi tiếng nhất của thành phố lênh đênh sông nước này. Ba gã thanh niên đã dẹp bàn bài, bấy giờ tôi mới để ý đến tên trẻ nhất, độ hơn hai mươi với khuôn mặt nhọn và cặp mắt đen dữ dằn dưới vòng chân mày bừa bãi. Hắn cầm ly rượu lắc người theo điệu nhạc, bất ngờ đứng lại, nhìn sững ra cửa vào, đẩy một tiếng kêu khàn. Hai người đàn bà vừa bước qua ngưỡng cửa. Một người áo vàng viền xanh lộng lẫy, mặt nạ trắng mịn màng với hai vòng mắt tô xám xếch tới mang tai, mũ đen cao rộng vành, điểm những ngôi sao rực vàng vương giả.

Tôi ngẩn người khi nhận ra nàng, thiếu phụ đã cùng đến Venise, trên chuyến tàu đêm hai hôm trước. Nàng chỉ quàng chiếc áo choàng tím, một thứ lụa thật óng ả dưới sắc đèn. Nàng không che mặt, mái tóc ánh nâu cột lại bằng một vòng hoa trắng. Người đàn bà áo vàng đứng dừng một phút dường để mọi người có thời gian chú ý đến sự xuất hiện của mình. Một vài tiếng trầm trồ huýt sáo nổi lên. Sau vành miệng hở cong yểu điệu của mặt nạ, lộ hai ba chiếc răng trắng sáng. Người đàn bà chầm chậm lướt vào. Tôi đứng gần nghe mấy chuỗi hạt pha lê lóng lánh màu, treo lỏng từ vành mũ trái sang phải chạm vào nhau theo từng bước đi, vang những tiếng reo lanh canh trong trẻo. Thiếu phụ đường bệ bao nhiêu thì nàng càng dáng vẻ ngỡ ngàng khép nép, tay bám vào cánh áo bà ấy. Một gã đàn ông đi giầy ủng đóng đầy đinh bạc, giả trang trong y phục toàn đen ràng thắt lưng to bản, mặt nạ dơi choắt cheo, bộ tịch nghiêng người hôn tay thiếu phụ. Bà bật tiếng cười khanh khách, quay sang vỗ nhẹ lên tay nàng như để giới thiệu với mọi người. Nàng e dè đảo mắt chung quanh, thoáng ánh ngạc nhiên khi thấy tôi đứng dựa bờ tường. Tôi đã định ra về, tự nhiên ngồi trở lại nhìn theo hai người đàn bà ấy đi về quầy rượu. Thỉnh thoảng thấp thoáng bóng lụa vàng lấp lánh và giọng cười thiếu phụ vang vang đùa cợt. Không khí trong hầm càng lúc càng nóng hơn, nhiều người bắt đầu cởi bỏ mặt nạ. Những mái tóc, khuôn mặt thật đàn bà trang điểm rực rỡ chuyển động kỳ ảo lẫn lộn trong ánh đèn mộng mị, dưới những mặt nạ chờn vờn trên tấm màn nhung đỏ. Trong men các ly rượu kế tiếp tôi dễ dàng nhập cuộc, kề cận với những gương mặt ấy. Cọ sát vải lụa, da thịt, rộn ràng giữa tiếng nhạc lúc bùng bùng dồn dập, lúc mơn trớn mê muội. Tất cả đặc quện trong khói thuốc cuộn tròn dưới vòm trần đá.

Khi tôi đến gần quầy rượu thì cùng lúc ấy gã thanh niên chơi bài ngả nghiêng bước tới trước nàng. Gã ngoẹo đầu cười cợt, Ô, bella mia, người đẹp của tôi! Một tay vờn lên vuốt đuôi tóc nhỏ. Nàng lùi giật lại, vòng hoa trắng buộc lơi trên tóc tuột theo những ngón tay dài nhọn của gã thanh niên. Hắn giơ lên khoái chí, kêu oác như quạ. Tôi và thiếu phụ cùng vội vàng bước đến. Gã ta xô đẩy tôi, la lối nhưng rồi cũng dang ra, tung vòng hoa lên trần và chụp hứng. Nàng nói nhỏ bằng tiếng Pháp với thiếu phụ, Je m’en vais, tôi về đây. Tự nhiên tôi nhìn vào hai vùng mắt xám, con ngươi trong xanh của người đàn bà áo vàng đằng sau rọi thẳng lại, tia nhìn nửa dò xét nửa giễu cợt. Nhưng bà ta không tỏ ý ngăn cản khi tôi cùng nàng ra cửa, còn ngoái trông theo.

Bến Rialto cả ngày tấp nập tưng bừng như thế, nhưng giữa mùa đông nên gần nửa đêm đã chìm vào im lặng. Một vài quán ăn còn lấp lánh ánh đèn trong lớp sương trắng dâng lên từ con kinh lớn. Chẳng mấy chốc tựa như khói lan lấn vào bờ, liếm phủ các mặt nhà cổ kính và luồn xuống những cây cầu gạch nhỏ. Chiếc vaporetto cuối cùng còn đậu ở bến, thoáng thấy bóng người, lái thuyền lên tiếng gọi. Bấy giờ tôi mới hỏi:

- Cô ở đâu? Nàng đáp : -Khu nhà hát Fenice. Rồi ngập ngừng :

- Nếu không phiền, anh đưa tôi về đến đó được chăng?

Tôi vội vàng :

- Ðược chứ, nhưng cần đi thuyền không?

- Chẳng xa đâu, chúng mình có thể đi bộ, thèm không khí quá.

Hai chữ chúng mình trong giọng nàng thân mật lạ, tôi lâng lâng nghĩ, nhà hát Fenice không biết ở đâu, lạy trời nó rất xa, tuốt bên kia cái thành phố bỗng dưng lúc này trở thành cỏn con. Tôi sẵn sàng đi theo tà áo tím mềm mại, trải thật nhiều con đường, qua trăm cây cầu chạm trổ muôn hình vạn vẻ, băng ngang những con lạch chi chít mà dòng nước chỉ còn là một giải thạch đẫm tối trong đêm. Chúng tôi bước đều bên nhau, tiếng gót giầy khẽ vang trên những viên gạch lồi lõm cũ mòn. Thỉnh thoảng vài ba người trờ ra từ hiệu ăn hay quán bar nhỏ. Giọng cười nói rúc rích, chừng như không thể thoát cao vì bị giam lại giữa tường đá dinh thự hay những ngôi nhà viền hai bên con đường quanh co quá hẹp. Càng xa bờ kinh lớn, sương lãng đãng hơn, lửng lơ trên mái ngói và những ngọn cây trong công trường nhỏ. Tới gần khu San Fantin chợt có tiếng phong cầm nổi lên từ lạch nước lọt giữa hai dãy nhà màu tường vàng viền những ô cửa xám. Nàng vội bước lên chiếc cầu gần đấy, gã chèo gondole ngẩng lên cười vẫy tay, cất ngay lời ca tình tứ. Chiếc thuyền lướt qua dưới cầu rồi xa dần cùng giọng hát tan biến vào bóng tối bên kia con lạch hẹp lại dần. Nàng tựa vào những thanh sắt uốn cong của thành cầu, kéo vòng mảnh voan trắng quấn quanh cổ. Yên lặng từ nãy đến nay, bỗng nhiên nói :

- Anh du lịch một mình.

Tôi lắc đầu :

- Không, tôi đến làm việc vài ngày.

rồi tiếp :

- Venise chừng quen thuộc lắm với cô.

Nàng nói nhỏ, như chỉ cho mình :

- Vâng, tựa một gắn bó.

Tôi ngắm dáng nàng mềm cúi nghiêng dòng nước :

- Cô thường đến đây mùa đông?

Nàng mỉm nụ cười mông lung nhưng đáp thật gọn, không dính dáng gì tới câu hỏi :

- Thăm Mélisa.

- Ồ, Mélisa, người đàn bà áo vàng.

Nàng chớp mắt xác định. Dưới ánh đèn lồng chiếu xuống từ hai đầu cầu, bây giờ tôi mới nhìn kỹ gương mặt đường nét dịu dàng nhưng hơi gầy, dù chiếc cằm lộ chút gì cương nghị, miệng khi cười lại thoáng trẻ thơ. Ấn tượng nhất là nước da trắng xanh làm nổi bật trũng mắt đen sâu với hai đồng tử long lanh. Thật ra tôi đã xao động bởi cặp mắt này từ lúc đứng với Hà trên sân ga tối ấy. Hà líu lo dặn dò, vẫn những lời trăm lần như một khi tôi đi công tác xa, rồi kiễng chân choàng tay qua cổ. Tôi cúi hôn Hà từ giã nhưng mắt bỗng chạm phải ánh nhìn vừa lướt qua của nàng, người đàn bà mảnh mai trong chiếc áo dạ đen với mái tóc cài cao quá gáy còn lóng lánh những bụi mưa vừa đi tới. Tôi đẩy Hà ra về khi tiếng chuông báo hiệu tàu sắp chạy. Hà quay bước còn ngoảnh lại dặn với :

- Nhớ chọn cái mặt nạ thật nhiều màu cho em. Leo lên bực thang tàu tôi vừa gật đầu:

- Yên tâm, Signora, vừa đảo mắt tìm, nhưng chiếc áo dạ đen đã biến đi vào một toa nào đó.

Không ngờ, giữa không gian hư ảo sương mù nửa đêm, trên cõi sông nước, đá cổ mơ hồ này tôi lại đứng bên nàng, thật gần, cơ hồ chạm cả vào vuông khăn trắng cứ chực bay theo làn gió nổi đưa từ biển. Tôi định nói một câu gì thật nhẹ, lại thôi. Nàng lặng yên, quay người xuống cầu, tà áo lụa cuốn theo bước chân thoăn thoắt. Thoáng chốc bóng tím như biến như hiện chấp chới giữa các ngõ ngách đường đi lẩn khuất. Tôi có thể đi nhanh để bắt kịp nàng nhưng tôâi chậm lại, bỗng thấy nàng như con bướm đêm trở về giữa gạch đá ẩm đục của biển đầm để tìm một nhụy hoa đã mất. Cuối cùng nàng cũng dừng lại trước một khung cổng nhỏ, sau đó là khoảng sân vuông mù mờ dưới ánh đèn treo. Thấp thoáng bên trái có chiếc cầu thang cong lượn lên một hành lang nhìn xuống sân qua hàng cột tròn thẳng tắp. Nàng nghiêng người, tóc đã ướt sương, chìa tay cho tôi :

- Cám ơn anh.

Tôi nắm những ngón tay mềm hỏi nhỏ :

- Chúng ta sẽ gặp lại?

- Anh muốn thế?

Vuốt nhẹ bàn tay vẫn chưa rút về, tôi nói :

- Ngay từ trên sân ga.

Hai viền mắt chớp nhanh, nàng cười rồi bất chợt đằm lại, vẻ ngẫm nghĩ :

- Còn ở đây, anh hãy gặp Mélisa.

Ðợi nàng bước lên cầu thang và một ô cửa sau hành lang bật sáng tôi mới quay đi. Nhắm hướng ra con kinh lớn tôi lững thững trên đường về khách sạn, lãng đãng trong đầu tự hỏi, sao nàng nhắc mãi Mélisa? Qua mấy khu phố tôi cảm tưởng cánh bướm đêm vẫn chập chờn trước mắt.

Chiều hôm sau tôi trở lại cổng sân ấy. Ánh sáng cuối ngày vừa đủ làm nổi những nét khắc chạm trên thành lan can và những cột gỗ bọc hành lang của tầng lầu. Quả chuông treo chỉ leng keng ba tiếng đã có một người đàn ông mập mạp nhố ra từ cánh cửa khuất dưới cầu thang. Ông ta mời tôi bước lên những bực gạch, vừa tới đầu hành lang đã nghe vọng tiếng vĩ cầm kéo một giòng rồi ngừng lại. Người đàn ông mở một cánh cửa đi vào, ra dấu bảo đợi. Tôi ngửng nhìn mái trần cong mà màu mè, nét vẽ hình người bay lượn trong những giải mây đã ít nhiều phai nhạt. Mélisa xuất hiện ở ngưỡng cửa với một thằng bé độ hơn mười tuổi ăn mặc tề chỉnh tay xách hộp đựng đàn. Thiếu phụ mái tóc hung đỏ màu lá thu ấy đúng là Mélisa, vì tôi nhận ra ngay ánh mắt xanh trong chế giễu ở hầm rượu. Mélisa trẻ hơn tôi nghĩ, dù bây giờ nhẹ nhàng trong bộ quần áo đơn giản vẫn cùng cái dáng đài các. Khuôn mặt phấn son kỹ lưỡng, một người từng trải và quyến rũ. Mélisa nheo mắt, cười rất tươi như thể biết rằng tôi sẽ đến. Tôi chưa kịp hỏi, Mélisa đã nói ngay bằng tiếng Pháp, giọng đùng đục, kéo dài:

- Cô ấy sang Murano xem thủy tinh, mai mới về.

Rồi không để tôi phản ứng đã tiếp :

- Nhưng anh uống rượu với tôi chứ?

Căn phòng khách rất rộng, tường xanh nhạt trên sàn gỗ nâu bóng, Ngôi nhà thật xưa nhưng cách bài trí trong căn phòng hài hoà giữa cũ và mới. Chiếc dương cầm cạnh cửa sổ treo màn trắng mỏng manh và cây vĩ cầm trên cái bàn chân cong gần đấy. Qua vòng ly trong suốt, hai con mắt Mélisa luôn luôn cười, giọng nói là lạ bây giờ quen tai trở nên ấm áp. Tôi ngà ngà trong men rượu Amazone đặc biệt ở vùng này, đỏ đậm dậy thơm và mạnh. Tôi ngây ngây trong cách nói chuyện tự nhiên đậm đà chen những tiếng cười phá lên khanh khách của Mélisa. Khi tiễn tôi ra về, dưới chân chiếc cầu thang, một nửa đã chìm trong bóng tối, Mélisa đưa tay nắm cổ áo của tôi, đôi môi đầy áp một nụ hôn đủ lâu để tôi bàng hoàng hít tất cả mùi nước hoa và thân thể ấm trong sương lạnh. Và tôi lâng lâng trở về khách sạn, hơi nồng cùng giọng cười Mélisa tràn vang trong những phố đường quanh co như thực như hư. Nhưng đến chân chiếc cầu đêm qua, bỗng một bóng áo tím tựa từ con lạch bay lên cùng tiếng hát lẳng lơ của gã chèo thuyền, tôi dừng sững hoang mang.

Hôm sau vừa ở phòng họp ra, cô tiếp tân đưa cho tờ giấy nhỏ ký tên Mélisa, hẹn tôi ra ngay bến San Marco. Ðầu buổi trưa nắng rực trên tất cả thành phố. Nắng mùa đông hanh sáng những mặt nhà đầy màu sắc hai bờ kinh. Mélisa và nàng đang xếp hàng xuống vaporetto. Tôi ngỡ ngàng trước hình ảnh nàng trong tấm áo dạ đen và chiếc vali nhỏ như ở sân ga. Trong ánh sáng ban ngày nàng càng mỏng manh tựa thiếu nữ bên cạnh Mélisa cao lớn chững chạc với áo lông màu thú. Khi nhận ra tôi nàng rất ngạc nhiên, mắt mở to và đôi môi mấy máy. Mélisa lùi ra nhường chỗ. Những người lái thuyền ồn ả giục khách. Nàng nói :

- Tôi có việc bất ngờ phải về trước. Biết đâu lại gặp anh đâu đó.

rồi gật đầu ra dấu với Mélisa. Tôi không thốt được câu gì nhìn theo, nàng đến đứng ở đầu tàu, những sợi tóc ngang vai bay nhẹ. Bên kia cửa kinh rộng, nắng nhóa bạc trên hai đỉnh tròn Salute sừng sững, mắt tôi nhoà xám. Mélisa bỗng chạy băng xuống thuyền, ôm chặt vai nàng, thì thầm điều gì đó, rồi hôn lên trán, lên má thật đằm thắm và sau đó phớt nhẹ lên môi.

Tối hôm ấy tôi vào quán rượu, đi qua bao phố đêm với Mélisa, rồi cuối cùng ở lại căn phòng ngủ của nàng trông xuống vườn cây nhỏ. Thân thể Mélisa tràn đầy, mê rực, mãn khai. Nàng cuốn tôi vào trong thăm thẳm bạo vũ của rừng sâu, loài thú hoang gầm lên trong cuộc quần thảo chẳng nương tha để rồi dốc hết hơi thở, hất nhau ra, lịm đi sau cuộc chiến. Khi tôi mở mắt sáng hôm sau có tiếng chim hót rung rúc dưới mái ngói. Tia mặt trời len nhẹ qua tấm màn mở hé, chiếu vào chiếc mặt nạ nhiều màu lộng lẫy treo trên tường. Tôi bỗng nhớ tới lời Hà dặn, nỗi buồn đột chụp xuống cùng sự mệt mỏi chưa tan.

Lúc tôi đưa món quà, Hà thất vọng trông thấy. Chiếc mặt nạ đã mua trong buổi chiều trước khi rời Venise không màu mè rực rỡ. Khuôn mặt màu tím thật nhạt gần như trắng, trũng mắt vẽ hai viền tím đậm pha chút ánh lân tinh, mái tóc là vành voan xanh lung linh cài đầy hoa trắng. Lòng tôi nao nao ân hận khi Hà đem cất chiếc hộp vào tủ. Giá tôi đem về mặt nạ như của Mélisa, Hà sẽ hài lòng. Mélisa buông thả, đắm chìm và lộng lẫy đã tiễn tôi ra bến tàu. Cả hai không nói lời từ giã. Trong suốt ba ngày còn lại, đôi lần Mélisa đề cập đến nàng nhưng chỉ thoáng qua. Một buổi chiều, chúng tôi sắp sửa ra khỏi phòng khách, ông già béo mập đem lên những quần áo tiệm giặt vừa giao. Tôi và Mélisa cùng nhìn vào chiếc áo choàng tím. Mélisa cầm lấy ngay, đi về phiá cửa sổ còn hắt tia nắng cuối, giơ cao ngắm nghiá, rồi dịu nhẹ ôm sát vào người, chừng như không còn biết có tôi đứng đó. Bỗng nhiên thấy lại tấm áo nàng tôi nao nao xúc động, đồng thời cử chỉ Mélisa lại làm tôi lấn cấn lạ lùng, như lúc hai người họ chia tay ở bến thuyền. Mélisa chẳng bao giờ gọi tên nàng, chỉ là Cô ấy, Elle, Elle, tiếng kêu lạnh lùng, xa vắng nhưng cùng lúùc như chỉ định và chiếm hữu. Từ khi trở về, trong những nửa khuya chợt thức, bên cạnh Hà tôi nhớ Mélisa, nhưng dần dần đôi mắt và giọng nói dịu dàng của nàng càng ngày càng hiện rõ trong bóng tối. Dù thế, tôi chẳng gọi Mélisa, cũng không đi tìm cánh bướm tím đêm sương.

Nhưng vô tình tôi đã gặp lại nàng mấy tháng sau trong buổi tiệc nhà người bạn. Và lần này, vừa chạm mắt, chúng tôi biết rằng sẽ rơi vào tay nhau. Không thể nào khác. Thoát ra khỏi khung cảnh cổ xưa, lênh đênh biển đầm huyền ảo, hình ảnh nàng cũng đổi thay trong không gian mới. Tôi dần dần khám phá một người đàn bà hồn hậu, dịu trầm, thông minh nhưng lãng đãng. Chúng tôi chẳng gặp nhau thường. Nàng ở cách xa, và tôi còn Hà với ân tình nhiều năm. Nhưng những lần tôi đến tìm nàng nơi vùng biển tràn xám cát mịn và những vũng đầm đầy vỏ sò lấp lánh là tôi tách rời thực tại. Ngay cả ân ái với nàng cũng vô cùng khác lạ, thân thể mong manh nhưng đằm thắm da diết, mê muội đến tận cùng. Mỗi lần buông nhau ra, tôi muốn đêm say tràn ngập và ánh sáng ban ngày là điều không cần thiết. Lúc ấy nàng thả rơi chiếc gáy mảnh mai tuôn tận đáy lưng dịu dàng, ôm cánh tay tôi tìm nhịp thở. Nhiều lần, về sáng, tôi sững sờ nhìn xuống khuôn mặt nàng thiêm thiếp sự trầm lắng của mặt nạ tím mịn đã đem về. Tôi loay hoay sống giữa hai thế giới, một Hà ngăn nắp, quá thuộc từng phần thịt da và thói quen nhàm quẩn theo vòng thời gian, và nàng, mở ra cho tôi những trao đổi bén nhạy, chụp bắt sự tinh khôi ở mỗi điều trong cuộc sống. Nhưng lạ lùng giữa tôi với nàng vẫn có một khoảng cách. Sau những giờ phút chia nhau thân xác, nàng hút tôi vào hai con mắt tinh anh hiểu biết, bàn tán giải đáp mọi thứ, văn hoá, đời sống trong trêu cợt, nghịch đùa. Chúng tôi có thể nói với nhau cả những vấn đề, ưu tư trong công việc. Nhưng khoảng cách ở mỗi một điều, nàng chẳng bao giờ hỏi tôi về mảng đời riêng khi tôi rời căn nhà ven biển ấy. Lẽ đương nhiên, như thế, tôi cũng không thể đòi hỏi điều ngược lại. Phần nào đó, nó cho tôi cảm giác được phiêu bồng trong một cõi đời huyền hoặc. Tôi lơi khơi trong ảo tưởng bình yên, tránh bị trực diện hằng ngày với tấm gương mà phiá bên kia là hình ảnh Hà lúc nào cũng sẵn đó, bền bỉ im lìm, như khuôn mặt ngàn năm vẫn thế của chính tôi.

Tôi tự lừa mình trong sự yên lòng tạm bợ như vậy cho đến một buổi chiều. Hà vác ở đâu về một tấm gương cổ bảo tôi treo lên bức tường giữa hành lang. Xong Hà mở tủ lấy chiếc mặt nạ cài trên đầu gương, ngắm nghiá quay qua quay lại, gật gù :

- Kỳ nhỉ, nó giản dị thế sao bây giờ treo lên lại thu hút lạ, anh thấy thế không ?

Tôi muốn bảo, tôi thấy chứ, chỉ có Hà không nhận ra điều đó ngay từ đầu. Câu hỏi của Hà vô tình dềnh lên trong tôi nỗi gì buồn, nản. Tối ấy bước qua, ngửng nhìn, tôi giật mình, đôi mắt tím buồn theo sâu đắm. Cơn mưa đổ xuống sầm sập từ chiều, thảng thốt. Trong khi Hà ngủ mê man, hơi thở mạnh vô tư, tôi thao thức. Cứ nhắm mắt lại là tưởng chừng có tiếng áo lụa đang lướt vào phòng đem theo một mùi hương, không phải ẩm nồng của lạch nước luồn dưới chân cầu đá mà là gió biển mặn thổi về từ nơi nàng ở. Lần đầu tiên tôi nhớ nàng xa xót. Tại sao có khoảng cách. Vì sao ngoài lúc đêm tối đắm chìm trong nhau, nàng chưa từng nói yêu tôi. Nàng vùng chạy băng trên bãi cát cợn đầy dấu biển, khi tôi muốn ôm nàng trong vòng tay giữa ban ngày. Lúc dừng lại, gương mặt đột nhiên mênh mang khó tả mà tôi chỉ nhận ra được một điều là nỗi buồn. Không hiểu nàng ra sao những ngày tôi khôâng có đó. Sau gặp gỡ vội vàng, tôi quay về sống tròn trách nhiệm đời thường với Hà. Còn với nàng, vừa rời xa nhau tôi là người lạ mặt. Một tình nhân hờ hững, không xẻ chia đời sống, chẳng săn sóc âu lo. Những dằn vặt ấy được bào chữa. Có thể nàng không yêu nên chưa hề bắt tôi trải rõ lòng mình hay chọn lựa. Nàng chẳng đòi, sao tôi phải xé mình ra. Cứ tiếp tục cuộc sống trật tự bao năm khi biết mình không thể cắt đứt ràng buộc với Hà, hưởng lấy sự an lành của giờ hưu chiến. Nhưng cõi bình yên này đang ngầm cơn bão biển. Ðêm nay tôi bàng hoàng nhớ đáy mắt sâu tương phản tiếng nói có lúc nhẹ hẫng như không để người nghe thấy. Làn da nàng xanh xao dưới những sợi tóc vụt cắt ngắn cũn cỡn tựa đoạn tuyệt một điều gì, không giải thích. Gió lại đập ầm ầm vào các cánh cửa. Biết đâu, nơi xa xôi kia, những đợt sóng biển đang bùng lên cuốn hút ra khơi tấm thân mong manh và tâm hồn cô đơn lạ lùng ấy. Ðể tôi chẳng kịp nói ra nỗi nhức đau vì ích kỷ, vô tình.

Sáu giờ sáng, máy cà phê đang ùng ục những giọt cuối cùng thì chuông điện thoại. Tôi vội nhấc lên, giật mình, Mélisa bên kia đầu giây, vẫn cái giọng khàn thấp nhưng run rẩy :

- Ðến ngay đi, sợ cô ấy không qua khỏi.

Tôi ngẩn ngơ :

- Chuyện gì không qua khỏi?

Mélisa lồng lên :

- Quelle question, còn hỏi! Cô ấy bệnh nặng bao năm, chẳng lẽ anh không biết.

Tôi muốn gục xuống, thẫn thờ :

- Nàng có nói gì đâu.

Tiếng Mélisa đầy phẫn nộ và nước mắt :

- Ngụy biện. Bất nhân. Tôi cứ đinh ninh anh giúp nàng sống vui những ngày còn lại. Sau mặt nạ chẳng nói làm gì, cô ấy để trần, anh có nhìn chăng mà không thấy ?

Dựa vào thành bồn rửa chén, chiếc điện thoại tít tít trong tay, đầu óc tôi choáng váng. Mélisa đã gác máy tự lúc nào. Mélisa đột nhiên từ quá khứ hiện ra sừng sững như vị thần khoác áo vàng tươi, tay giơ búa tạ. Bấy lâu nay, thảng hoặc vô tình nhắc tới người đàn bà mê hoặc này nàng thường phớt nhanh với nụ cười bí ẩn, như thể liên hệ giữa họ là cõi riêng chẳng thể chia sẻ. Tôi thắc mắc nhưng cũng không muốn nói đến Mélisa. Những đêm rượu hầm và hơi thở hực nồng gấp rút trong căn phòng nhìn xuống sân vườn quyến rũ ấy là vùng sương mù mà tôi cố tình chối từ ám ảnh.

Hà bị đánh thức, ngái ngủ bước ra, càu nhàu :

- Ai gọi gì sáng sớm ?

Tôi vội nói, tôi phải đi đây. Hà mở to mắt ngạc nhiên, lắc đầu. Ðiều gì tôi có can đảm nói ra với Hà, với Mélisa, và với nàng bây giờ, đều đã muộn.

tháng ba 2000

(Les Siciliens, Caen-Paris-Québec)
Users browsing this topic
Guest
2 Pages12>
Forum Jump  
You cannot post new topics in this forum.
You cannot reply to topics in this forum.
You cannot delete your posts in this forum.
You cannot edit your posts in this forum.
You cannot create polls in this forum.
You cannot vote in polls in this forum.