Welcome Guest! To enable all features please Login or Register.

Notification

Icon
Error

Tám quyển sách quý - HT Thích Thiện Hoa
gdt
#1 Posted : Sunday, September 17, 2006 4:00:00 PM(UTC)
gdt

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 653
Points: 0

Gdt có duyên may đọc được quyển sách này, xin chia sẻ với các AC.
Nếu việc làm này có chút công đức nào xin được hồi hướng đến tất cả chúng sanh.

THAY LỜI TỰA

Tất cả những hạnh phúc vui tươi hay đau khổ của người đời, nó chỉ là cái kết quả trung thành bởi những hành động của người gây ra cả, mà tâm là chủ động.
Tâm là căn bản toàn diện cuộc sống của con người. Vì thế, nên nhơn loại tâm lành thì thế giới hòa bình an lạc. Nếu trái lại, loài người tâm ác, tất nhiên xã hội phải chiến tranh đau khổ.
Giữa đời khoa học, về phương diện vật chất, người ta đã tiến bộ nhiều. Song nhân loại lại chịu thêm nhiều đau khổ, muốn đổi lại đời sống an vui, không chi hơn là mỗi người phải biết “tu tâm”.
Nhân ngày 23 tháng 3 năm Quý Tỵ (1953) tôi đến Hội quán Hội Phật học Nam Việt Saigon (chùa Phước Hòa), hân hạnh được nghe Thượng tọa Thích Thiện Hoa, Đốc giáo Phật học đường Nam Việt Chợ Lớn, giảng bài Tu tâm. Sau khi nghe xong, có nhiều vị cư sĩ nam, nữ khuyên tôi xin phép in thành sách, để truyền bá cho các vị Phật tử chưa được nghe, xem theo đó mà tu tâm dưỡng tánh và hứa sẽ chung lo với tôi về phần tài chánh, nếu cần.
Nhân lời khuyên của quý đạo hữu và nhận thấy một việc hữu ích, rất cần cho hành Phật tử, nên tôi xin phép thầy Đốc giáo, cho xuất bản bài giảng “Tu tâm” với mục đích sau:

-Đã được nghe giảng là một duyên lành lớn, tôi lại còn mong cho nhiều người được nghe pháp bảo ấy, để cùng nhau tu tâm thì thế giới mới hòa bình an lạc.

-Khi phát hành sách này, được lợi phần nào, chúng tôi xin dâng hết vào quỹ của Ban Hoằng Pháp để tiếp tục xuất bản thêm các tác phẩm khác về Phật giáo

-Chúng tôi đốt nén hương lòng, cầu nguyện cho quý vị thiện tín, khi đọc quyển Tu tâm này rồi, mỗi người đều tự tu lấy tâm mình để trở về với “thường trú chơn tâm thanh tịnh” và đồng thành Phật đạo.
Chợ Lớn, ngày 8 tháng 4 năm 1954
Cư sĩ Dương Khuyết Hà, tự Kiều Thị
Kính đề



QUYỂN MỘT: TU TÂM

Tu là cội phúc

Người đời sớm phải tri cơ,
Gương lu vì bụi, trăng mờ vì mây.
Chở che nhờ đức cao dày,
Dẫu tu cho mấy chẳng tài tu tâm
.

Sách Đại học nói:

Dục bình thiên hạ, tiên trị kỳ quốc;
Dục trị kỳ quốc, tiên tề kỳ gia;
Dục tề kỳ gia, tiên tu kỳ thân;
Dục tu kỳ thân, tiên chánh kỳ tâm
.

Nghĩa là:
Muốn cho thiên hạ được hòa bình thì trước phải mỗi nước được thạnh trị
Muốn cho mỗi nước được thạnh trị thì mỗi gia đình trước phải chỉnh đốn
Muốn cho gia đình được chỉnh đốn thì mỗi người trước phải tu thân
Muốn tu thân thì mỗi người trước sửa tâm mình cho chơn chánh

Tu tâm là một vấn đề quan trọng

• Người đời hung dữ vì chẳng biết tu tâm;
• Gia đình không hạnh phúc vì chẳng biết tu tâm;
• Xóm làng rầy rà kiện cáo vì dân quê chẳng biết tu tâm;
• Nước nhà rối lọan vì dân chúng chẳng biết tu tâm;
• Thế giới chiến tranh, tương tàn tương sát vì nhân loại chẳng biết tu tâm
• Phật tử tu hành bị thối chuyển vì chẳng biết tu tâm.
• Con người có tu tâm mới trở nên hiền từ.
• Gia đình có tu tâm, thân tộc mới được hạnh phúc.
• Quốc gia có tu tâm, nước nhà mới có thạnh trị.
• Nhân loại có tu tâm, thế giới mới được hòa bình.
• Phật tử có tu tâm, mới mau thành đạo chứng quả

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật


Thưa quý vị,
Tôi rất vui mừng, vì thấy mỗi ngày chủ nhật, quý vị bỏ thì giờ quý báu, để đến chùa lạy Phật nghe kinh. Một giờ quý vị lạy Phật nghe kinh, thì giờ ấy quý vị tránh được điều dữ, làm được việc lành. Một ngày hay một tháng quý vị lạy Phật nghe kinh, thì ngày ấy hay tháng ấy quý vị tránh được việc dữ, làm được điều lành. Một người tránh dữ làm lành thì người ấy trở nên hiền từ. Cả gia đình đều tránh dữ làm lành, thì gia đình được hạnh phúc. Cả nước đều tránh dữ làm lành, thì toàn dân có đạo đức, trở nên một nước thạnh trị. Cả nhân loại đều tránh dữ làm lành, thì lo chi thế giới chẳng được đại đồng, nhân loại không được hưởng hạnh phúc thái bình.
Hơn nữa, trong kinh Pháp Hoa, Phật dạy:” Người nào niệm “Nam Mô Phật” thì người ấy sẽ được thành Phật ( hột giống Phật đã gieo vào trong tâm điền của họ rồi, không sớm thì chầy sẽ được thành Phật). Huống chi quý vị thường đến chùa lạy Phật nghe kinh, thì có lý nào sau này chẳng đựơc thành Phật quả.

Người đời có hai điều thiếu thốn:
1. Thiếu thốn về vật chất: người thiếu thốn về vật chất, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, nhà cửa trống trước rách sau, khổ sở về xác thịt.

2.Thiếu thốn về tinh thần: Người thiếu thốn về tinh thần thì tham lam, gian xảo, tật đố, kiêu căng… tạo đủ điều tội ác; không những có hại cho mình hay một đời mình, nhiều khi còn liên lụy đến bà con, hoặc có hại đến nhiều đời sau nữa, nên thiếu thốn về phần tinh thần quan trọng hơn thiếu thốn về vật chất.

Xưa có vị hiền triết, không nhà cửa, chỉ dùng cái thùng cây làm nhà ở; nhưng vì tinh thần đầy đủ nên vị hiền triết ấy chẳng thấy chút gì khổ sở. Trái lại như ông Thạch Sùng, vua Kiệt, vua Trụ…tuy đầy đủ về vật chất nhưng thiếu thốn về tinh thần, nên tâm hồn vẫn đau khổ, làm nhiều điều tội lỗi tày trời.
Song le, người đời chỉ lo thiếu thốn về vật chất, mà ít ai nghĩ ngợi và lo sợ nghèo thiếu về tinh thần. Hôm nay, tôi hiến cho quý vị một món quà về tinh thần.

Thưa quý vị! Trong sách nho, thầy Mạnh nói:
Nhơn, nhơn tầm giả;
Nghĩa, nhơn lộ giả;
Xả kỳ lộ nhi phất do
Phóng kỳ tâm nhi bất tri cầu
”.

Nghĩa là,
Nhơn là cái tâm của con người vậy; Nghĩa là con đường của người đi vậy (đi lên, đi xuống, qua lại, tới lui…cũng theo con đường mà đi). Tại sao người đời lại bỏ con đường của mình không chịu đi (người đời làm việc gì cũng nhờ tâm: kinh dinh sự nghiệp lớn lao cũng nhờ tâm suy tính; được tài hay trí giỏi công danh vĩ đại, cũng nhờ tâm lo lường); thế mà người đời lại bỏ cái tâm của mình chẳng biết tìm cầu.

Nói đến đây, thầy Mạnh lại than rằng: “Ai tai! Nhơn hữu kê khuyển, xả nhi tắc tri cầu chi, hữu phóng tâm nhi bất tri cầu”. Rất thương thay cho người đời! mất những vật nhỏ mọn như đồng xu, cắc bạc, con gà, con chó…chẳng xứng đáng chi mà họ còn biết tìm kiếm, huống chi cái tâm là vật quý giá vô cùng. Làm hiền nhân quân tử cũng nhờ tâm; thành Phật , làm Tổ cũng nhờ tâm, thế mà người đời lại bỏ cái tâm của mình không biết tìm cầu. Thầy Mạnh Tử lại nói tiếp: “Học vấn chi đạo vô tha, cầu kỳ phóng tâm nhi dĩ hĩ!” : đạo học vẫn không có chi lạ, chỉ tìm kiếm cái phóng tâm của mình mà thôi.

Trong Kinh Lăng Nghiêm, Phật dạy: “Nhược bất thức tri tâm mục sở tại, tắc bất năng đắc hàng phục trần lao; thí như Quốc vương vi tặc sở xâm, phát binh thảo trừ, thị binh yếu đương tri tặc sở tại; sử nhữ lưu chuyển, tâm mục vi cựu”

Nghĩa là: làm cho ông lưu chuyển sanh tử, là lỗi tại cái tâm và con mắt của ông. Vậy nếu ông không biết cái tâm cùng con mắt ở chỗ nào, thời ông không thể hàng phục được phiền não trần lao. Cũng như vị quốc vương bị giặc xâm chiếm, đem binh dẹp trừ, nếu không biết được giặc ở chỗ nào, thì không bao giờ dẹp trừ được giặc.

Bởi thế nên người học Phật, muốn thoát ly sanh tử, ra khỏi luân hồi, điều cần yếu là phải biết tâm mình. Khi biết được chơn tâm và vọng tâm rồi, mới có thể lần hồi dẹp trừ vọng tâm, trở về với bản thể chơn tâm của mình được.

Trong kinh Lăng Nghiêm Phật lại dạy: “tất cả chúng sanh từ hồi nào đến giờ, điên đảo đủ điều, là do hạt giống nghiệp sẵn có, nó dính liền nhau, như chùm tái ác xoa. Người tu hành không thể thành quả vị Vô thượng Bồ đề, mà chỉ thành Thinh văn Duyên Giác và thiên ma ngoại đạo…là bởi vì không biết hai món “chơn” và “vọng”. Nếu các ông lầm lộn tu tập theo vọng niệm mà muốn chứng quả Bồ đề thì cũng như người nấu cát muốn thành cơm, dẫu trải qua nhiều kiếp cũng không kết quả được”.
Trong kinh Lăng nghiêm, Phật nhiều lần gạn hỏi ông A-Nan, cái tâm ở chỗ nào. Ông A-Nan đáp: tâm ở trong thân, tâm ở ngoài thân, tâm núp trong con mắt, tâm ở chặng giữa… đều không trúng cả.

Chúng ta với Phật không khác, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản tâm của mình nên làm chúng sanh; chư Phật đã chứng được cái bản tâm ấy rồi nên các Ngài thành Phật.
*
* *
TU & TÂM


Chữ “tu” nghĩa là sửa; sửa cái xấu trở lại cái tốt, sửa cái dở trở lại hay, sửa cái quấy trở lại phải, sửa phàm thành Thánh; như nhà cửa hư hao, đất vườn u trệ, nay sửa lại cho tốt đẹp như thế gọi là tu bổ. Thân thể lôi thôi, hành vi bẩn thỉu, nay sửa lại cho đàng hoàng như thế gọi là tu thân. Tâm tánh ô trược tham lam, tật đố, tà kiến, si mê… nay sửa lại trở nên tâm tánh tốt đẹp như thế gọi là tu tâm.

Tâm là “cái hiểu biết phân biệt”, cũng gọi là “phần tinh thần”. Tâm không có hình tướng dài, ngắn, vuông tròn, hay có sắc xanh, đỏ, trắng và vàng gì. Không thể dùng con mắt mà thấy được tâm, không thể dùng lỗ tai mà nghe được tâm, cũng không thể dùng tay chân rờ đụng được tâm; chỉ do thấy cái tác dụng của nó, nên biết có tâm. Cũng như điện, người ta không thể thấy, nghe hay rờ mó được điện, chỉ do thấy cái tác dụng của nó mà biết có điện, như cho điện vào đèn thì thấy đèn sáng, cho vào quạt thì thấy quạt xoay… Vì thế, nên người ta biết có điện. Tâm chúng ta cũng thế, vì nó có tác dụng thấy, nghe và phân biệt…nên chúng ta biết có tâm.

Tâm có chia làm hai phần: chơn và vọng. Đứng về phần chơn tâm (thể) thì không thể dùng lời nói luận bàn, hay tâm trí suy nghĩ được mà cần phải tự chứng ngộ, nên trong kinh nói: “Rời tướng nói năng, rời tướng danh tự, rời tướng tâm duyên”. Song đứng về phần vọng tâm thì có thể nói năng và phân biệt được.

Trong bài này, tôi chỉ bàn về “vọng tâm” (thức). Khi chúng ta hiểu biết và dẹp trừ được cái vọng rồi thì chơn tâm hiện ra, cũng như sóng lặng rồi thì tánh nước bằng phẳng tự hiện.
Mọi người không phải chỉ có năm giác quan, mà đều có đến tám cái “biết”, tức là tám cái tâm. Theo Duy thức học gọi là “tám thức” (tám cái biết). Tám cái tâm này đều có chủ quyền thống lãnh mỗi chỗ, cũng như mỗi ông vua ngự trị mỗi nước nên trong Duy thức học gọi là “tám tâm vương”.

(còn tiếp)
Như Phương
#2 Posted : Monday, September 18, 2006 9:49:01 PM(UTC)
Như Phương

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 312
Points: 0

Lành thay và quí hóa thay
Thật là duyên may np mới được một người bạn cho nghe CD của 8 cuốn sách này np đang ao ước được đọc thêm thi gdt post 8 quyển sách quí này lên.
Nếu gdt hoặc anh chị nào muồn có CD để nghe thêm thì pm cho np np xin hoan hi gửi tặng.
gdt
#3 Posted : Friday, September 22, 2006 8:51:20 AM(UTC)
gdt

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 653
Points: 0

TÂM VƯƠNG

1.Trong lúc chúng ta mở mắt thấy các cảnh vật, biết được cảnh đây xanh, kia đỏ, đó trắng, nọ vàng…vì cái biết này thuộc về con mắt nên trong Duy thức gọi là “Nhãn thức” (cái biết của con mắt)

2. Lỗ tai chúng ta khi nghe các tiếng, biết được tiếng hay, dở, phải trái…bởi cái biết này thuộc về lỗ tai nên trong Duy thức gọi là “Nhĩ thức” (cái biết của lỗ tai)

3. Lỗ mũi chúng ta khi ngửi mùi, biết được đây là mùi thơm hay hôi...cái biết đó thuộc về lỗ mũi nên trong Duy thức gọi là “Tỷ thức” (cái biết của lỗ mũi)

4. Miệng chúng ta khi nếm các vị, biết được vị ngọt, lạt, cay, đắng, béo, bùi…cái biết này thuộc về lưỡi nên trong Duy thức gọi là “Thiệt thức” (cái biết của lưỡi)

5. Thân thể chúng ta đụng lửa biết nóng, xuống nước biết lạnh, mặc đồ mỏng biết mát, mang đồ dày biết nực, đụng đá biết cứng, cầm bông biết mềm…vì cái biết này thuộc về thân nên trong Duy thức gọi là “Thân thức” (cái biết của thân). Cả năm thức này, khi chứng quả vô lậu thì nó chuyển thành “Thành sở tác trí”.

6. Trong khi chúng ta, mắt không thấy, tai không nghe, mũi không ngửi, miệng không nếm, thân thể không chạm xúc; nói cho gọn hơn là trong lúc năm giác quan không tiếp xúc với trần cảnh mà ý thức vẫn phân biệt tính toán: nhớ những cảnh đã qua, suy xét những điều chưa đến. Cái biết như thế, thuộc về “Ý thức”, như ngày hôm qua, chúng ta đi coi hát, hôm nay tuy tai không còn nghe tiếng ca… mà trong ý thức vẫn còn mơ màng điệu bộ người hát, in như còn phưởng phất ở trước mắt, tiếng người ca như văng vẳng bên tai. Mặc dù không có cảnh vật hiện tiền phản ảnh vào năm giác quan mà ý thức chúng ta cũng vẫn tính toán phân biệt.

Một tỷ dụ nữa, như chúng ta chưa đi học mà biết mình học sẽ được, chưa làm ruộng mà biết mình làm ruộng đây trúng hay thất, chưa buôn bán mà có thể đóan trước rằng buôn bán đây lời hay lỗ; nghĩa là, những việc đã qua, chưa đến hay hiện tại, chúng ta đều suy xét biết được, những cái biết như thế trong Duy thức học gọi là “Ý thức” (cái biết của ý), cũng gọi là “đệ lục thức”
Cái ý thức này, công dụng của nó lợi hại vô cùng. Nếu nó suy nghĩ tính toán những việc hay, tốt thì thân chúng ta sẽ làm điều lành, miệng nói những lời phải, đều có lợi ích cho mình và người, như các nhà tu hành khi niệm Phật, quán tưởng, tham thiền, nhập định… cho đến lúc thành đạo, chứng quả cũng nhờ công dụng của đệ lục thức này. Đến khi chứng được quả vô lậu thì ý thức trở thành “Diệu quán sát trí”.

Ở thế gian, kinh doanh được sự nghiệp lớn lao hay làm những điều núi lở, sông nghiêng, tội ác tày trời cũng đều do ý thức này suy nghĩ lợi hại cả; nên trong Duy thức nói: “Công vi thủ, tội vi khôi”, nghĩa là: luận về công thì thức này có công hơn hết, còn nói về ác thì thức này cũng đứng đầu

7. Quý vị đã rõ, mỗi người đều có sáu cái biết, nói bằng cách khác đó là sáu món cảm giác. Vậy bây giờ đây, chúng ta nên suy xét sâu thêm một từng nữa: cái ý thức kia, tuy ở trong ba thời quá khứ, hiện tại và vị lai, nó đều có công năng phi thường hơn năm thức trước nhưng có khi nó bị gián đoạn. Như khi chúng ta ngủ mê, hoặc chết giấc hay những lúc bị chụp thuốc mê, lúc ấy không phải chết nhưng không biết chi cả và những người tu Vô tướng định… lúc bấy giờ cũng không còn tính toán phân biệt gì nữa. Đây là những bằng chứng trong khi ý thức bị gián đoạn.

Qua các thời gian ấy, thì ý thức (cái biết thứ sáu) lại khởi lên phân biệt như thường. Vây trong lúc lúc nó bị gián đoạn, chắc phải nương về một nơi nào? Chỗ ấy, theo Duy thức học gọi là “Ý căn” (nghĩa là cái gốc của ý thức thứ sáu). Tôi xin tỷ dụ để quý vị dễ hiểu, như đám cỏ cú kia, bị đá đè hay nắng rụi, đến lúc người ta dời viên đá đi nơi khác, hoặc gặp mưa xuống thì cỏ nứt mộng mọc chồi. Cho biết trong lúc cỏ rụi là nó chỉ trở về củ của nó, ẩn ở dưới đất mà thôi; nếu cỏ kia không có củ thì không làm sao nứt mộng mọc chồi được. Còn ý thức thứ sáu cũng thế, khi không có phân biệt nó không phải mất hẳn mà chỉ trở về với gốc của nó là thức thứ bảy, nên trong Duy thức cũng gọi thức thứ bảy là “Ý căn”, theo tiếng Phạn là “Mạt na thức”

Công năng của thức thứ bảy là thường thường chấp “ta” khác với “người”. Chúng ta đi, đứng, nằm, ngồi, không lúc nào quên được mình (ta). Khi nói chuyện, vừa mở miệng là đã nói “tôi” (ta), hay những lúc tình cờ cây rơi, hoặc bị người đánh…thì ta ngẫu nhiên đưa tay đỡ, tránh. Đây chính là những bằng chứng bảo thủ cái ngã (ta)

Lại nữa, khi sanh về cõi Trời thì thức này chấp mình là Trời, sanh về cõi người chấp mình là người, cho đến sanh làm loài vật thì chấp mình là loài vật. Tóm lại, từ phàm đến thánh, không một vị nào chẳng chấp có “ta”, chỉ trừ những vị đã chứng được “Sanh không trí”. Thức thứ bảy này lại có công năng đem các pháp hiện hành, huân chứa vào một cái kho vô tận (tàng thức); rồi từ cái kho ấy, đưa chủng tử các pháp ra khởi hiện hành. Nếu không nhờ thức thứ bảy này huân tập những việc thấy, nghe, hay biết vào kho vô tận (tàng thức) thì chúng ta không thể ký ức lại được một việc gì cả.

Như người nhiếp ảnh, nếu anh không đem cuốn phim ấy cất một nơi nào, thì đến khi muốn rọi lại, không bao giờ rọi được. Song chiếu lại được thì biết anh có giữ gìn cuốn phim ấy. Thức ấy cũng thế, khi chúng ta đọc một bộ sách hay nghe một việc gì, nếu không có thức này đem cất chứa vào một kho vô tận thì lúc xem qua khỏi mắt, tai hết nghe; tức khi cảnh vật hiện tiền không còn phản ánh vào năm giác quan nữa thì chúng ta không còn nhớ lại một việc gì cả.

Thế nên thức thứ bảy này cũng có tên “Truyền tống thức” (truyền vào và tống ra), đến khi chứng được quả vô lậu thì thức này đổi tên là “Bình đẳng tánh trí”

8. Cứ theo chánh giác và chánh lý mà phán đóan: đã có cái “năng phân biệt chấp ta” tức là thức thứ bảy, thì cố nhiên phải có “cái ta bị chấp” là thức thứ tám. Cũng như nói “tôi cầm viết”, đã có cái tay cầm, nhứt định phải có vật bị cầm. Vì thế, nên thức thứ tám cũng có tên là “Ngã ái chấp tàng” (bị thức thứ bảy chấp làm ta).

Như trên đã nói: “Thức thứ bảy đem các pháp hiện hành huân chứa vào một nơi”.Nếu đã có kẻ đem chứa thì nhứt định phải có chỗ để chứa, cũng như có người đem cất đồ vào kho thì phải có cái kho để cất. Chúng ta từ nhỏ đến lớn, hoặc đọc được 100 bộ sách, hay làm không biết bao nhiêu công việc, trải qua trong một thời gian năm mười năm, không nghĩ đến thì thôi, nếu một phen hồi tưởng lại những sách ta đã đọc và những việc ta đã làm thì nó vẫn hiện rõ ràng, in tuồng như mới đọc và mới làm.

Một bằng chứng nữa: chúng ta đi từ Nam chí Bắc, xem không biết bao nhiêu phong cảnh, hay du lịch thế giới, thấy những vật lạ thường, khi trở về nhà, các cảnh vật ấy không còn thấy nữa; nhưng một phen nhớ lại thì thấy rõ ràng như ở trước mắt, vẫn còn lớp lang tuần tự. Như thế thì biết rằng phải có cái kho bằng tinh thần vô hình và vô tận (tàng thức) để chứa đựng bao nhiêu hình ảnh của những cảnh ta đã xem, những sách vở ta đã đọc và những việc ta đã làm…nếu không có cái kho vô tận này để chứa giữ lại, thì những sách ta đã đọc và những cảnh ta đã xem, nó phải quên mất liền, đã theo trong lúc ta hết xem và thôi đọc; nghĩa là phải quên liền khi các cảnh vật không còn hiện tiền phản ánh vào bộ óc nữa. Về sau chúng ta muốn nhớ lại cảnh vật đã qua, hay một bộ sách đã đọc cũng không bao giờ nhớ được.

Vì thế, nên biết phải có một cái kho vô hình chứa giữ lại. Cái kho ấy theo Duy thức gọi là “Tàng thức”, nghĩa là cái thức chứa; vì nó chứa căn thân, khí giới và chủng tử các pháp vậy, cũng có tên là “đệ bát thức”, theo tiếng Phạn là “ A lại da thức”, đến khi chứng được quả vô lậu thì thức này đổi tên là “Bạch tịnh thức” hay gọi là “Đại viên cảnh trí”

Cổ nhơn có làm một bài kệ để cho chúng ta nhớ cái tài năng hay tác dụng của tám thức như sau:

Bát cá đệ huynh, nhứt cá si
Độc hữu nhứt cá tối linh ly
Ngũ cá môn tiền tố mãi mại
Nhứt cá gia trung tác chủ y


Nghĩa là:
Trong tám anh em, thức thứ bảy là si mê (ngã si), duy có thức thứ sáu rất khôn lanh (công vi thủ, tội vi khôi); còn năm thức trước như người làm công ở ngoài cửa chỉ lo buôn bán, tiếp rước khách hàng (tiếp xúc với năm trần cảnh), một mình thức thứ tám làm ông chủ nhà (chứa đựng).


Xem bài kệ này chúng ta có thể biết qua được khả năng của tám thức, mà thức thứ sáu và thức thứ bảy là lợi hại hơn hết. Nếu thức thứ bảy si mê, bo bo chấp ngã, thức thứ sáu suy tính làm những việc tội ác thì chúng ta muôn kiếp trầm luân, không bao giờ thoát ly sanh tử luân hồi được. Vì thế nên người tu Phật lúc nào cũng phải dùng thức thứ sáu và thức thứ bảy, quán nhơn vô ngã, để phá trừ si mê chấp ngã, dứt phiền não chướng; rồi quán pháp vô ngã để phá trừ pháp chấp, dứt sở tri chướng. Khi ngã chấp và pháp chấp hết rồi, tức là phiền não chướng và sở tri chướng đã dứt thì chứng được hai quả thù thắng là Bồ- đề và Niết bàn.
Vì thế nên trong Duy thức học nói “ lục, thất nhơn trung chuyển, ngũ bát quả thượng viên”. Nghĩa là, trong lúc tu nhơn thì chỉ dùng thức thứ sáu và thức thứ bảy, đến khi kết quả thì cả năm thức trước và thức thứ tám cũng được viên thành.

Vì năm thức trước như người làm công, không có quyền, còn thức thứ tám chỉ có tài chứa đựng; duy có thức thứ sáu và thức thứ bảy này, nếu có công thì nó hạng nhứt mà có tội nó cũng đứng đầu. Người học Phật đối với hai thức ấy, lúc nào cũng phải cẩn thận và sửa đổi như thế gọi là Tu tâm
gdt
#4 Posted : Wednesday, April 18, 2007 9:46:33 PM(UTC)
gdt

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 653
Points: 0

TÂM SỞ

Từ trước đến đây, chúng tôi căn cứ theo tác dụng hiện thực của các giác quan và sách Duy thức mà giải thích, thì mọi người không những có năm cái biết, mà phải có đến cái tám biết: cái biết xem của mắt, cái biết nghe của tai, cái biết ngửi của mũi, cái biết nếm của lưỡi, cái biết cảm xúc của thân, cái biết phân biệt, so đo của ý thức, cái biết chấp ngã của thức thức thứ bảy và cái biết giữ gìn chứa lại của thức thứ tám.

Tám cái biết này có sức tự tại và tự chủ cũng như ông Vua, nên trong Duy thức gọi là Tâm vương, nhưng nếu chỉ có một mình ông Vua thì dẫu tài trí giỏi đến đâu cũng không thể làm gì được, nên ngoài Vua ra còn phải nhờ quần thần, binh tướng mới có thể đánh Nam dẹp Bắc, sửa trị nước nhà hoặc kinh doanh sự nghiệp vĩ đại trong nước.

Tám thức tâm vương cũng thế, nếu chỉ có tâm vương mà không có tâm sở (quần thần) thì tâm vương này cũng như người làm vua mà không có binh tướng, không thể tạo tác những điều tội ác hay từ thiện được. Bởi thế, ngoài tám thức tâm vương còn có 51 món sở hữu của tâm vương, theo Duy thức học gọi tắt là Tâm sở.

Trong 51 món tâm sở, chia làm sáu đảng phái:

1. Biến hành
2. Biệt cảnh
3. Thiện (lành)
4. Căn bản phiền não
5. Tùy phiền não
6. Bất định


Trong đó có hai đảng quan trọng nhứt là lành và dữ (phiền não). Hai đảng này rất nghịch nhau và thường chiến tranh luôn. Mỗi khi đạo binh hiền lành chiến đấu thắng được giặc phiền não thì chúng ta trở nên hiền nhơn quân tử hoặc thành Bồ tát hay Phật. Trái lại, nếu bên ác là giặc phiền não, chiến đấu được thắng thì chúng ta mất tự chủ, nó sai sử chúng ta phải say mê theo tửu, sắc, tài khí…mất hết tự do làm cho tánh tình ta xấu xa, thấp hèn, cử chỉ đê tiện, hành vi tồi tàn trở thành kẻ tiểu nhơn hoặc đọa địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.

Thế nên người tu hành, điều cần yếu là luôn luôn chiến đấu làm sao cho thắng được giặc phiền não ở nơi tâm mình, như thế gọi là Tu tâm. Chúng ta đã biết rõ, đạo binh hiền từ ở nơi tâm ta, có bao nhiêu binh sĩ, tên họ tánh tình, hình dáng và tài năng thế nào; rồi chúng ta cũng biết giặc trong tâm ta có bao nhiêu tên, đầu đảng là ai, tên họ tánh tình, hình tướng và tài năng của giặc ra sao. Khi biết được tài năng binh mình, thấy rõ được sức giặc thì chúng ta mới mong thắng được giặc. Hôm nay tôi xin trình tự kể bày để quý vị được rõ, trong tâm ta, về khối ác là giặc phiền não có 30 tên.


CĂN BẢN PHIỀN NÃO

1. Tham là tham lam
Người tham lam, tánh hay để ý dòm rình những cái gì mà họ ưa thích như tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, miếng ăn, chỗ ở….rồi họ lập mưu này kế nọ để tìm kiếm cho được, được mấy cũng không vừa, nên tục ngữ có câu : “Bể kia dễ lấp, túi tham khó đầy”. Tham cho mình, rồi tham cho bà con quyến thuộc, nói rộng ra, tham cho cả quốc gia, xã hội của mình.
Cũng vì lòng tham mà nhơn loại tranh giành xâu xé, cướp bóc, giết hại lẫn nhau, chịu không biết bao nhiêu điều thống khổ. Tham không những có hại cho mình về hiện tại mà còn liên lụy đến người và tương lai nữa là khác. Phật tử tự xét mình nếu có tâm tham thì phải tập tánh thiểu dục tri túc, bỏ dần lòng tham đi, như thế gọi là Tu tâm

2. Sân là nóng nảy:
Người có tánh nóng nảy, gặp những việc trái ý thì nổi nóng lên, trong tâm bực tức, không an, ngoài mặt nhăn nhó, xấu xí vô cùng, mặt đỏ tía hoặc tái xanh, bộ dạng thô bỉ, thốt ra lời nói thiếu nhã nhặn, có khi đánh đập hoặc chém giết người. Phật tử chúng ta, mỗi khi nổi sân lên, cắc cớ lấy kiếng rọi mặt mình, thật “ngộ” hết sức…không phải là Phật tử chút nào. Tánh nóng nảy rất có hại: làm cho anh em chẳng ưa, trong gia đình không được hòa nhã, ngoài xã hội chẳng được kính yêu. Nhiều người vì nóng nảy mà đánh đâp vợ con, lắm khi phải mang bịnh tật suốt đời, hoặc giết hại đồng bào, chủng loại. Cũng có người vì quá nóng nảy mà làm hư danh giá, quyền lợi và cả đời tu của mình. Trong Kinh Hoa Nghiêm, Phật dạy: “Nhứt niệm sân tâm khởi, bách vạn chướng môn khai” ; có nghĩa: một niệm lòng sân nổi lên thì trăm ngàn cửa nghiệp chướng đều mở ra. Thuở xưa, ông Uất Đầu Lam Phất vì sân mà phải đọa làm con phi ly trùng. Ông Độc Giác Tiên Nhơn cũng vì sân mà mất cả năm phép thần thông. Trong Kinh nói: “Nhứt sân chi hóa, năng thiêu vạn khỏanh công đức chi sơn”. Nghĩa là: một đốm lửa sân có thể đốt hết muôn mẫu rừng công đức. Chúng ta thấy, trong hàng Phật tử, có người phát tâm tu được 5, 7 năm hoặc đôi ba năm, cũng có thể gọi là người có công với đạo. Một khi gặp cảnh nghịch, nổi sân lên rồi bỏ hết: Phật pháp không tưởng, việc đạo cũng chẳng làm, trái lại còn tìm cách phá hoại. Thật “đốn củi ba năm chỉ thiêu có một giờ” rất uổng cho công trình tu tập bao nhiêu năm của người ấy.

Tổ xưa có quở rằng: “Sân si nghiệp chướng không chừa, bo bo mà giữ tương dưa ích gì!”. Sân có hại như thế, hàng Phật tử chúng ta phải tu tập nhẫn nhục để lần dẹp trừ lòng sân, như thế gọi là Tu tâm
Users browsing this topic
Guest
Forum Jump  
You cannot post new topics in this forum.
You cannot reply to topics in this forum.
You cannot delete your posts in this forum.
You cannot edit your posts in this forum.
You cannot create polls in this forum.
You cannot vote in polls in this forum.