Gdt có duyên may đọc được quyển sách này, xin chia sẻ với các AC.
Nếu việc làm này có chút công đức nào xin được hồi hướng đến tất cả chúng sanh.
THAY LỜI TỰA
Tất cả những hạnh phúc vui tươi hay đau khổ của người đời, nó chỉ là cái kết quả trung thành bởi những hành động của người gây ra cả, mà tâm là chủ động.
Tâm là căn bản toàn diện cuộc sống của con người. Vì thế, nên nhơn loại tâm lành thì thế giới hòa bình an lạc. Nếu trái lại, loài người tâm ác, tất nhiên xã hội phải chiến tranh đau khổ.
Giữa đời khoa học, về phương diện vật chất, người ta đã tiến bộ nhiều. Song nhân loại lại chịu thêm nhiều đau khổ, muốn đổi lại đời sống an vui, không chi hơn là mỗi người phải biết “tu tâm”.
Nhân ngày 23 tháng 3 năm Quý Tỵ (1953) tôi đến Hội quán Hội Phật học Nam Việt Saigon (chùa Phước Hòa), hân hạnh được nghe Thượng tọa Thích Thiện Hoa, Đốc giáo Phật học đường Nam Việt Chợ Lớn, giảng bài Tu tâm. Sau khi nghe xong, có nhiều vị cư sĩ nam, nữ khuyên tôi xin phép in thành sách, để truyền bá cho các vị Phật tử chưa được nghe, xem theo đó mà tu tâm dưỡng tánh và hứa sẽ chung lo với tôi về phần tài chánh, nếu cần.
Nhân lời khuyên của quý đạo hữu và nhận thấy một việc hữu ích, rất cần cho hành Phật tử, nên tôi xin phép thầy Đốc giáo, cho xuất bản bài giảng “Tu tâm” với mục đích sau:
-Đã được nghe giảng là một duyên lành lớn, tôi lại còn mong cho nhiều người được nghe pháp bảo ấy, để cùng nhau tu tâm thì thế giới mới hòa bình an lạc.
-Khi phát hành sách này, được lợi phần nào, chúng tôi xin dâng hết vào quỹ của Ban Hoằng Pháp để tiếp tục xuất bản thêm các tác phẩm khác về Phật giáo
-Chúng tôi đốt nén hương lòng, cầu nguyện cho quý vị thiện tín, khi đọc quyển Tu tâm này rồi, mỗi người đều tự tu lấy tâm mình để trở về với “thường trú chơn tâm thanh tịnh” và đồng thành Phật đạo.
Chợ Lớn, ngày 8 tháng 4 năm 1954
Cư sĩ Dương Khuyết Hà, tự Kiều Thị
Kính đề
QUYỂN MỘT: TU TÂM
Tu là cội phúc
Người đời sớm phải tri cơ,
Gương lu vì bụi, trăng mờ vì mây.
Chở che nhờ đức cao dày,
Dẫu tu cho mấy chẳng tài tu tâm.
Sách Đại học nói:
Dục bình thiên hạ, tiên trị kỳ quốc;
Dục trị kỳ quốc, tiên tề kỳ gia;
Dục tề kỳ gia, tiên tu kỳ thân;
Dục tu kỳ thân, tiên chánh kỳ tâm.
Nghĩa là:
Muốn cho thiên hạ được hòa bình thì trước phải mỗi nước được thạnh trị
Muốn cho mỗi nước được thạnh trị thì mỗi gia đình trước phải chỉnh đốn
Muốn cho gia đình được chỉnh đốn thì mỗi người trước phải tu thân
Muốn tu thân thì mỗi người trước sửa tâm mình cho chơn chánh
Tu tâm là một vấn đề quan trọng
• Người đời hung dữ vì chẳng biết tu tâm;
• Gia đình không hạnh phúc vì chẳng biết tu tâm;
• Xóm làng rầy rà kiện cáo vì dân quê chẳng biết tu tâm;
• Nước nhà rối lọan vì dân chúng chẳng biết tu tâm;
• Thế giới chiến tranh, tương tàn tương sát vì nhân loại chẳng biết tu tâm
• Phật tử tu hành bị thối chuyển vì chẳng biết tu tâm.
• Con người có tu tâm mới trở nên hiền từ.
• Gia đình có tu tâm, thân tộc mới được hạnh phúc.
• Quốc gia có tu tâm, nước nhà mới có thạnh trị.
• Nhân loại có tu tâm, thế giới mới được hòa bình.
• Phật tử có tu tâm, mới mau thành đạo chứng quả
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Thưa quý vị,
Tôi rất vui mừng, vì thấy mỗi ngày chủ nhật, quý vị bỏ thì giờ quý báu, để đến chùa lạy Phật nghe kinh. Một giờ quý vị lạy Phật nghe kinh, thì giờ ấy quý vị tránh được điều dữ, làm được việc lành. Một ngày hay một tháng quý vị lạy Phật nghe kinh, thì ngày ấy hay tháng ấy quý vị tránh được việc dữ, làm được điều lành. Một người tránh dữ làm lành thì người ấy trở nên hiền từ. Cả gia đình đều tránh dữ làm lành, thì gia đình được hạnh phúc. Cả nước đều tránh dữ làm lành, thì toàn dân có đạo đức, trở nên một nước thạnh trị. Cả nhân loại đều tránh dữ làm lành, thì lo chi thế giới chẳng được đại đồng, nhân loại không được hưởng hạnh phúc thái bình.
Hơn nữa, trong kinh Pháp Hoa, Phật dạy:” Người nào niệm “Nam Mô Phật” thì người ấy sẽ được thành Phật ( hột giống Phật đã gieo vào trong tâm điền của họ rồi, không sớm thì chầy sẽ được thành Phật). Huống chi quý vị thường đến chùa lạy Phật nghe kinh, thì có lý nào sau này chẳng đựơc thành Phật quả.
Người đời có hai điều thiếu thốn:
1. Thiếu thốn về vật chất: người thiếu thốn về vật chất, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, nhà cửa trống trước rách sau, khổ sở về xác thịt.
2.Thiếu thốn về tinh thần: Người thiếu thốn về tinh thần thì tham lam, gian xảo, tật đố, kiêu căng… tạo đủ điều tội ác; không những có hại cho mình hay một đời mình, nhiều khi còn liên lụy đến bà con, hoặc có hại đến nhiều đời sau nữa, nên thiếu thốn về phần tinh thần quan trọng hơn thiếu thốn về vật chất.
Xưa có vị hiền triết, không nhà cửa, chỉ dùng cái thùng cây làm nhà ở; nhưng vì tinh thần đầy đủ nên vị hiền triết ấy chẳng thấy chút gì khổ sở. Trái lại như ông Thạch Sùng, vua Kiệt, vua Trụ…tuy đầy đủ về vật chất nhưng thiếu thốn về tinh thần, nên tâm hồn vẫn đau khổ, làm nhiều điều tội lỗi tày trời.
Song le, người đời chỉ lo thiếu thốn về vật chất, mà ít ai nghĩ ngợi và lo sợ nghèo thiếu về tinh thần. Hôm nay, tôi hiến cho quý vị một món quà về tinh thần.
Thưa quý vị! Trong sách nho, thầy Mạnh nói:
“Nhơn, nhơn tầm giả;
Nghĩa, nhơn lộ giả;
Xả kỳ lộ nhi phất do
Phóng kỳ tâm nhi bất tri cầu”.
Nghĩa là,
Nhơn là cái tâm của con người vậy; Nghĩa là con đường của người đi vậy (đi lên, đi xuống, qua lại, tới lui…cũng theo con đường mà đi). Tại sao người đời lại bỏ con đường của mình không chịu đi (người đời làm việc gì cũng nhờ tâm: kinh dinh sự nghiệp lớn lao cũng nhờ tâm suy tính; được tài hay trí giỏi công danh vĩ đại, cũng nhờ tâm lo lường); thế mà người đời lại bỏ cái tâm của mình chẳng biết tìm cầu.
Nói đến đây, thầy Mạnh lại than rằng: “Ai tai! Nhơn hữu kê khuyển, xả nhi tắc tri cầu chi, hữu phóng tâm nhi bất tri cầu”. Rất thương thay cho người đời! mất những vật nhỏ mọn như đồng xu, cắc bạc, con gà, con chó…chẳng xứng đáng chi mà họ còn biết tìm kiếm, huống chi cái tâm là vật quý giá vô cùng. Làm hiền nhân quân tử cũng nhờ tâm; thành Phật , làm Tổ cũng nhờ tâm, thế mà người đời lại bỏ cái tâm của mình không biết tìm cầu. Thầy Mạnh Tử lại nói tiếp: “Học vấn chi đạo vô tha, cầu kỳ phóng tâm nhi dĩ hĩ!” : đạo học vẫn không có chi lạ, chỉ tìm kiếm cái phóng tâm của mình mà thôi.
Trong Kinh Lăng Nghiêm, Phật dạy: “Nhược bất thức tri tâm mục sở tại, tắc bất năng đắc hàng phục trần lao; thí như Quốc vương vi tặc sở xâm, phát binh thảo trừ, thị binh yếu đương tri tặc sở tại; sử nhữ lưu chuyển, tâm mục vi cựu”
Nghĩa là: làm cho ông lưu chuyển sanh tử, là lỗi tại cái tâm và con mắt của ông. Vậy nếu ông không biết cái tâm cùng con mắt ở chỗ nào, thời ông không thể hàng phục được phiền não trần lao. Cũng như vị quốc vương bị giặc xâm chiếm, đem binh dẹp trừ, nếu không biết được giặc ở chỗ nào, thì không bao giờ dẹp trừ được giặc.
Bởi thế nên người học Phật, muốn thoát ly sanh tử, ra khỏi luân hồi, điều cần yếu là phải biết tâm mình. Khi biết được chơn tâm và vọng tâm rồi, mới có thể lần hồi dẹp trừ vọng tâm, trở về với bản thể chơn tâm của mình được.
Trong kinh Lăng Nghiêm Phật lại dạy: “tất cả chúng sanh từ hồi nào đến giờ, điên đảo đủ điều, là do hạt giống nghiệp sẵn có, nó dính liền nhau, như chùm tái ác xoa. Người tu hành không thể thành quả vị Vô thượng Bồ đề, mà chỉ thành Thinh văn Duyên Giác và thiên ma ngoại đạo…là bởi vì không biết hai món “chơn” và “vọng”. Nếu các ông lầm lộn tu tập theo vọng niệm mà muốn chứng quả Bồ đề thì cũng như người nấu cát muốn thành cơm, dẫu trải qua nhiều kiếp cũng không kết quả được”.
Trong kinh Lăng nghiêm, Phật nhiều lần gạn hỏi ông A-Nan, cái tâm ở chỗ nào. Ông A-Nan đáp: tâm ở trong thân, tâm ở ngoài thân, tâm núp trong con mắt, tâm ở chặng giữa… đều không trúng cả.
Chúng ta với Phật không khác, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản tâm của mình nên làm chúng sanh; chư Phật đã chứng được cái bản tâm ấy rồi nên các Ngài thành Phật.
*
* *
TU & TÂM
Chữ “tu” nghĩa là sửa; sửa cái xấu trở lại cái tốt, sửa cái dở trở lại hay, sửa cái quấy trở lại phải, sửa phàm thành Thánh; như nhà cửa hư hao, đất vườn u trệ, nay sửa lại cho tốt đẹp như thế gọi là tu bổ. Thân thể lôi thôi, hành vi bẩn thỉu, nay sửa lại cho đàng hoàng như thế gọi là tu thân. Tâm tánh ô trược tham lam, tật đố, tà kiến, si mê… nay sửa lại trở nên tâm tánh tốt đẹp như thế gọi là tu tâm.
Tâm là “cái hiểu biết phân biệt”, cũng gọi là “phần tinh thần”. Tâm không có hình tướng dài, ngắn, vuông tròn, hay có sắc xanh, đỏ, trắng và vàng gì. Không thể dùng con mắt mà thấy được tâm, không thể dùng lỗ tai mà nghe được tâm, cũng không thể dùng tay chân rờ đụng được tâm; chỉ do thấy cái tác dụng của nó, nên biết có tâm. Cũng như điện, người ta không thể thấy, nghe hay rờ mó được điện, chỉ do thấy cái tác dụng của nó mà biết có điện, như cho điện vào đèn thì thấy đèn sáng, cho vào quạt thì thấy quạt xoay… Vì thế, nên người ta biết có điện. Tâm chúng ta cũng thế, vì nó có tác dụng thấy, nghe và phân biệt…nên chúng ta biết có tâm.
Tâm có chia làm hai phần: chơn và vọng. Đứng về phần chơn tâm (thể) thì không thể dùng lời nói luận bàn, hay tâm trí suy nghĩ được mà cần phải tự chứng ngộ, nên trong kinh nói: “Rời tướng nói năng, rời tướng danh tự, rời tướng tâm duyên”. Song đứng về phần vọng tâm thì có thể nói năng và phân biệt được.
Trong bài này, tôi chỉ bàn về “vọng tâm” (thức). Khi chúng ta hiểu biết và dẹp trừ được cái vọng rồi thì chơn tâm hiện ra, cũng như sóng lặng rồi thì tánh nước bằng phẳng tự hiện.
Mọi người không phải chỉ có năm giác quan, mà đều có đến tám cái “biết”, tức là tám cái tâm. Theo Duy thức học gọi là “tám thức” (tám cái biết). Tám cái tâm này đều có chủ quyền thống lãnh mỗi chỗ, cũng như mỗi ông vua ngự trị mỗi nước nên trong Duy thức học gọi là “tám tâm vương”.
(còn tiếp)