Welcome Guest! To enable all features please Login or Register.

Notification

Icon
Error

3 Pages<123
Truyện Ngắn Võ Thị Điềm Đạm
oc huong
#41 Posted : Monday, July 31, 2006 4:18:56 AM(UTC)
oc huong

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 1,180
Points: 0

Võ Thị Điềm Đạm

Mãi Mãi...






Tiếng Stephan reo to:
- Ô...ô...điểm 4 trừ, Chúa phù hộ con, con xỉu mất, Chúa... Chúa....

Chưa dứt lời, anh chàng ngã lăn xuống nền gạch, nằm ngay dưới chân cô Ann Juile. Vừa nghe tiếng kêu ô...ô là ai cũng biết nơi phát xuất, bàn gần cuối dãy giữa, đích thị anh chàng tóc quăn từng lọn, mang nét đẹp hoang dại thời cỗ xưa Hy Lạp, vua tếu và cũng là vua dốt của lớp 10B. Nhìn dáng nằm hai chân co cao, hai tay cầm chặc bài thi đưa lên môi hôn liên tục, mắt nhắm mê mang, trông như đứa con nít đang được một bình sữa thơm ngon, cả lớp cười ầm, cô Ann Julie cũng cười. Anh chàng suốt đời đành an phận với điểm 2, cao lắm là điểm 3 trừ, nhất là môn văn, viết được một trang, thêm vài dòng nữa thì tịt ngòi, hên lắm mới có được cái điểm 2 cộng, có nghĩa là điểm 2 giỏi. Nay được điểm 4, dầu cho điểm 4 trừ, lại là bài thi mùa đông, sẽ được đưa vào sổ điểm, anh chàng xỉu là phải. Cô Ann Julie đá nhè nhẹ vô sườn Stephan, giọng âu yếm:
- Thấy không, cô chỉ cần dán keo lên ghế của em trước giờ thi là em ngồi lâu được hai tiếng đồng hồ, có vậy em mới viết được nhiều. Còn nhăn nhó than là cô ác nữa không? Viết hay, nhiều ý tưởng mới, vậy mà chỉ phải cái tội không chịu ngồi cho nóng ghế, cứ nhấp nhõm muốn nộp bài đặng ra ngoài đi lòng dòng nên ý tưởng tắt nghẹn, viết không ra. Kỳ thi tới, cô dán keo vô ghế Stephan nhiều hơn nghen.

Đang hôn bài thi, Stephan như cái lò xo, bật ngồi dậy, quỳ bên chân cô Ann Julie, chấp hai tay kèm bài thi ở giữa, vái ba cái, mặt mày mếu máo, giọng giả bộ gần khóc:
- Híc...híc... Cô mà dán keo nhiều nữa, em được điểm 6, em chết tại chỗ, tội nghiệp con bồ của em lắm cô ơi!

Nghe tới đây, cả lớp như nhảy đứng, ồn ào, quên mất chuyện điểm 3 điểm 4, quên cả cái điểm 6 mà Stephan hứng bất tử hứa bậy, la ó:
- Trời đất ơi, Stephan có bồ!
- Con nhỏ cũng tóc quăn như mi, đứng tới rún mi, học lớp 9 phải không?
- Con nhỏ số 8 có nút ruồi dưới mắt?
- Con nhỏ số 1 mà bày đặt làm điệu làm hạnh?
- Con nhỏ con trai...

Tiếng láo nháo phát ra từ bốn hướng, cô Ann Julie đi nhanh lên phía trước, gõ, gõ mấy cái lên bảng xanh, dấu hiệu yêu cầu im lặng. Tất cả ngồi xuống, nhưng vẫn dán mắt vào anh chàng hề của lớp, không ai nhìn cô giáo. Cô vỗ tay ba tiếng bốp bốp bốp, thật mạnh. Bấy giờ lớp mới chịu yên. Cô nghiêm giọng:
- Chuyện bồ bịch để ra chơi nói, có muốn được lại bài thi hay không thì ngồi yên. Stephan, cô cũng mừng nữa. Cô biết em sẽ đạt được điểm cao nếu em ráng ngồi lâu, tự tin hơn.

Lắc lắc mái tóc nâu xậm bao phủ gương mặt xương xương xinh tươi, chóp mũi nhọn, miệng hơi rộng, gương mặt được học trò gọi Ann Julie Roberts, ánh mắt đảo nhanh, nửa trêu chọc, nửa âu yếm:
- Còn chuyện được điểm xuất sắc, điểm 6, môn văn, các em biết là chưa ai được. Điểm 6 môn toán, môn khoa học thiên nhiên, môn ngoại ngữ... thì có, chứ điểm 6 môn văn, hừm... khó lắm...hừm...vậy mà kỳ thi này có người dám cả gan ôm trọn, nếu thầy hiệu trưởng cho phép, cô còn muốn cho điểm 7 nữa cơ.

Lại ồn ào:
- Ai vậy cô? Stella? Dung? Hanna?
- Từ từ sẽ biết.

Làm ra vẻ bí mật, kéo dài sự mong chờ, cô tiếp tục đi đến từng học sinh, dừng nói vài câu, khi cằn nhằn, khi khen khuyến khích trước khi trả lại bài thi.

Số người còn lại càng ít, em càng hồi hộp. Em biết em giỏi văn, kỳ thi nào em cũng được điểm 5 hay 5 cộng. Hôm thi môn văn, ý tưởng tuôn không ngưng, em viết không cần nháp, 5 tiếng đồng hồ, không kịp ăn gói bánh mì má làm ngon đặt biệt mỗi khi em có thi. Em và nhỏ Hanna, hai cây văn của lớp 10 B còn được thầy giám khảo thương tình cho thêm 15 phút phụ trội để đọc lại bài, sửa lỗi chánh tả trước khi nộp. Ra về, ngón tay út và áp út tê cứng.

***
Khi nhận được năm đề luận khơi ý đem về nhà hai hôm trước ngày thi để chuẩn bị nhu liệu. Trong bữa cơm chiều ngày hôm đó, em hỏi ý ba má là em sẽ chọn đề luận nào mặc dù em đã tự chọn đề số 2 và ba má cũng không bao giờ bắt buộc em chuyện này chuyện kia, nhưng em vẫn muốn hỏi. Ba biểu em kể hết 5 đề tài sẽ chọn. Em đọc xong, không suy nghĩ, ba nói ngay:
- Tại sao con không chọn đề tài số 4, "Viết về cuộc sống của một người ngoại quốc, một người tị nạn tại Na Uy mà em quen biết" ?
- Con không có nhiều nhu liệu để viết đề tài này.
- Không có nhiều nhu liệu? Một nhu liệu sống trước mặt con mà con nói là con không có nhiều nhu liệu.

Em chưng hửng, má cười, nheo nheo mắt nhìn em. Em nhăn nhó:
- Đời sống của má ở đây có gì là hấp dẫn mà ba biểu con viết, chán phèo.
- Sao con biết không có gì hấp dẫn? Đối với các con, cuộc sống thế nào gọi là hấp dẫn?

Con nhỏ em, Therese nhanh miệng:
- Cướp nhà băng, giết người, nhiều chồng, đánh ghen...

Cả nhà cười ầm, má lắc đầu, than:
- Đúng là con nhỏ coi toàn TV đài 3, đầu óc con nhỏ bị nhiễm độc rồi.

Ba nhìn má, nói giọng khá nghiêm trọng:
- Chút nữa cơm nước xong, hai con năn nỉ má, má sẽ dành cả tối nay để kể chuyện cho hai tiểu thư về mình.

Hiểu ý ba, má gật đầu. Riêng em và cả con nhỏ Therese cũng không có gì phản đối, không cần năn nỉ. Chuyện ở Việt Nam, chuyện tuổi thơ, chuyện các dì các cậu, chuyện chạy giặc Mậu Thân... má kể hoài, nghe hoài không chán. Mỗi lần nghe là óc tưởng tượng càng nới rộng đủ mọi hướng, mỗi lẫn nghe là sợi dây kết nối với quê-hương-của-má trong em ngày càng thắt gần. Nhất là những cuối tuần ba đi tu nghiệp, ba má con được ngủ chung giường, sáng nằm nướng, không bị ba quấy rày chọc người này phá người kia, má kể chuyện Việt Nam, chuyện thủa ấu thơ của má ở Việt Nam.

Ba má con chia nhau cái hạnh phúc xanh êm nhẹ bao trùm căn phòng ngủ luôn thơm mùi hoa táo, cái mền đôi rộng đắp đủ cho cả bốn người. Có hôm má đọc truyện, truyện về Việt Nam ngày xưa, ngày xưa có nghĩa là cái thủa má và cậu dì còn sống ở quê-hương-của-má, cái thủa bình an trong thời chiến tranh. Truyện Con Sáo Của Em Tôi, truyện Thằng Vũ, truyện Con Suối Mùa Đông, truyện Bông Hồng Cài Áo, truyện Những Người Áo Trắng... Nhưng em nhớ hoài truyện "Chim Hót Trong Lồng", nhật ký của một cô bé ở tuổi em, vì mẹ hành nghề không được trong sạch nên phải gởi cô bé vô nội trú. Nổi chờ đợi mẹ đến thăm mỗi sáng chủ nhật, những ẩn khúc trong đời sống thường ngày của người mẹ làm cô bé tủi thân, thời gian người mẹ bị bịnh, ngày chôn mẹ... Má đọc, em nằm dựa ôm má bên trái, con nhỏ Therese ôm má bên phải. Chuyện buồn quá là buồn, giọng má đọc lúc nghẹn ngào không dấu diếm, lúc cắt đoạn để chùi nước mắt chảy dài trên mặt má. Nước mắt em, nước mắt con nhỏ Therese thấm ướt chiếc áo ngủ màu thiên thanh của má. Em đòi má đọc cho nghe truyện này hai lần nữa, lần nào cũng nước mắt đầm đìa. Để rồi khi má xếp sách lại, không gian trầm xuống, không ai nói với ai một lời, như để thấm thía, như để nuốt chậm thật chậm cái mùi vị may mắn của gia đình mình thật ngọt thật thơm pha chút ngậm ngùi cho hoàn cảnh cô bé bất hạnh của nhà văn Nhật Tiến.

Không ai trong gia đình em nói ra, nhưng ai cũng ngấm ngầm nhường góc sô pha hình chữ L cho má mỗi buổi tối, sau bữa cơm chiều. Nơi đây, với cái gối dựa lưng, ngày này qua ngày kia, má vừa nằm vừa ngồi, đọc báo, xem tin tức, xem phim, đọc sách, đan áo, thiếp ngủ. Đôi khi ngủ mê quá còn nói mớ làm ba đang ngồi xem TV cười ầm lên, má thức giấc, gương mặt ngơ ngác càng làm tụi em cười vỡ bụng.

Má ngồi ở góc-sô-pha-của-má, con nhỏ Therese ngồi bên trái, em ngồi bên phải, màn ảnh TV tối đen im bặt, ba đi xuống phòng khách dưới hầm xem TV để lánh mặt. Má bắt đầu kể, những mẫu chuyện rời rạc không liên tục vì bị em hỏi tới hỏi lui, và cũng không liên tục vì má kể những gì má nhớ, lúc mới đặt chân xuống phi trường Fornebu, nhảy qua lúc đi xe buýt "bị" ông tài xế thương tình không lấy tiền, trở lại lúc tập đi ski... Em định chạy vô phòng lấy giấy ra để ghi chú nhưng má không cho. Má biểu em cứ ngồi nghe kể như em đang lục tìm nhu liệu để viết cái đề luận, góm nhặt mọi dữ kiện, lọc lừa, sắp xếp, dùng trí phán đoán mà chọn lựa, tối nay nằm suy nghĩ lại, ngày mai còn một ngày ghi chú. Đến ngày thi, dùng ngòi bút mà dựng dàn bài, dùng tâm hồn mình mà diễn tả. Em quyết định viết theo thể "tôi", dễ diễn tả tâm tình, nghĩ suy, dễ đặt mình vào tâm hồn nhân vật, dễ lôi cuốn người đọc, nếu em chọn đề tài này.

Tâm hồn em xáo động. Lời má kể, lúc cười, lúc ứa nước mắt, lúc trầm ngâm ngập ngừng, lúc rộn ràng háo hức. Em sống với má mười lăm năm, là con gái, em và con nhỏ Therese thân với má hơn với ba, thông cảm nhau dễ dàng hơn. Em tưởng em hiểu má, nhưng sau tối hôm đó, em, có lẽ cả con nhỏ Therese thua em hai tuổi, mang những mẫu chuyện má kể vào giấc mơ để thấy má mình khác lạ hơn hôm qua, để bắt đầu quan sát, đặt dấu hỏi về những sinh hoạt thường ngày của má.

Em và con nhỏ Therese thường phê bình rằng má sống chán phèo, chỉ biết đi làm, đi chợ, nấu ăn, nằm nhà đọc sách báo, đan thêu, xem điện báo, thỉnh thoảng lắm mới đi chơi riêng với nhóm bạn của má, thế thôi. Không có một thú vui riêng nào. Đời sống nghèo nàn. Không như má của bạn em, người trong đội banh chuyền, người trong câu lạc bộ làm đồ gốm, người trong đội kèn... ai cũng có những sinh hoạt, những thú vui riêng tay, một người hai ba thú vui, ai cũng muốn làm giàu đời sống mình bằng những thú vui này nọ. Có lần má khuyên Therese học sư phạm vì con nhỏ coi bộ thích trẻ em, rành tâm lý tụi nhỏ. Therese dẫy nẫy: "Rồi con sẽ sống một cuộc sống nhàm chán như má sao?" Lúc đó em hoàn toàn đồng ý với con nhỏ Therese. Nhưng bây giờ, có lẽ em hiểu một phần cái đời sống bị các con gọi là nhàm chán đó.

***

Chỉ còn mình em chưa nhận lại bài thi. Cả lớp ai cũng hiểu em là nhân vật đã bao gọn cái điểm 6 hôm nay. Em cố dấu niềm hãnh diện, con nhỏ bạn thân Hanna, cũng là cây văn của lớp, ngồi kế em, dang tay ôm vai em, nói to:
- Chúc mừng Stella.

Các bạn vỗ tay. Mặt em nóng bừng. Cô Ann Julie đứng giữa lớp, tay cầm bài thi duy nhất chưa trả lại cho học sinh, nhìn em, giọng âu yếm:
- Stella, em cho phép cô đọc bài văn này cho cả lớp thưởng thức nha, em không cần phải vị nể cô, vị nể bạn bè, cô hiểu em nếu em từ chối.

Em bối rối. Khi em viết, em không nghĩ rằng em sẽ chia sẻ một quảng đời, tâm tình của má em cho tất cả bạn bè trong lớp. Em để ngòi bút trôi theo dòng tư tưởng không ngưng và mãn nguyện với bài viết của mình. Vậy thôi. Bây giờ cô muốn đọc cho cả lớp nghe. Tại sao không? Em hãnh diện em mang một nửa dòng máu Việt Nam, em hãnh diện khi em dạy tụi bạn hát nhạc karaoke Việt Nam, em sung sướng khi thầy cô khen món chả giò má đóng góp trong các buổi cơm Tình Thương, em ngấm ngầm vui khi thầy hiệu trưởng gọi điện thoại cám ơn má vì má nhận về nhà bốn học sinh từ Ganha do trường bảo trợ trong hai tuần... Ai cũng biết má em là người Việt Nam. Nhưng có mấy ai biết má là thuyền nhân tỵ nạn? Tại sao không? Tại sao không thể chia sẻ những nghĩ suy, những tâm tình với nhau để đưa đến sự cảm thông quí mến nhau hơn khi tất cả cùng thở một bầu không khí mát lạnh trong sạch này?

Em gật đầu. Cô Ann Julie bắt đầu đọc.

Cách đây ba mươi năm, nếu các bạn hỏi tôi vì sao đất nước tôi đã hết chiến tranh, tôi, một người thiếu nữ trẻ khỏe mạnh, không bắt tay với mọi người cùng nhau xây dựng lại quê hương? Tại sao tôi lại bỏ quê hương, tìm lánh thân ở một đất nước hoàn toàn xa lạ từ ngôn ngữ, lề lối, nếp sống? Xin thưa, sẽ cố gắng thật ngắn gọn cho nên cũng chung chung cho hầu hết người dân miền Nam: Sau chiến tranh, toàn Việt Nam sống dưới chế độ cộng sản, một chế độ cai trị đang giết lần mòn bản tính bổn thiện con người, con người không phục vụ con người nhưng phục vụ lý tưởng đảng cộng sản quốc tế, tiếp tục làm nô lệ cho quan thầy Nga Tàu, hoàn toàn đi ngược ước muốn cầu tiến tự chủ của người dân. Không một dấu tích của chữ tự do ngôn ngữ, tự do tín ngưỡng trong chính sách cai trị độc đảng. Và dĩ nhiên độc đảng thì từ ngữ dân chủ không được ai nhắc đến, không dân chủ thì người dân sống thế nào, không kể ra, các bạn cũng thừa hiểu.

Miền Nam hết chiến tranh nhưng không có sự bình an. Bắt bớ, thủ tiêu, vu khống, thù oán cá nhân... một xã hội mang đầy lo âu, luôn luôn sợ không biết ngày mai mặt trời có còn chiếu trên gương mặt mình. Đặc biệt cho những người đã phục vụ cho chế cũ ở miền Nam. Tôi không muốn tôi, các con tôi sau này sẽ lớn lên trong xã hội đó, sẽ là một công cụ của chính quyền Cộng Sản đó, cái chính quyền đã và sẽ đóng dấu mật mã đen trên tờ lý lịch những người trong gia đình tôi là "thành phần nghi ngờ", cái chính quyền không cho chúng tôi cơ hội ngẩng đầu lên. Chính quyền mới này không cho phép chúng tôi hãnh diện với lịch sử ngàn đời của dân tộc mình. Đối với họ, lịch sử nước nhà chỉ tính từ khi đảng Cộng Sản Việt Nam hoạt động tại Việt Nam.

Phải không bạn, không một đứa con nào muốn từ bỏ gia đình vì cha mẹ nghèo khổ. Chỉ khi nào con cái bị cha mẹ lợi dụng, hành hạ quá đáng, nên phải cắn răng trốn đi... Nhiều quá làm sao kể cho hết. Tôi đã hứa sẽ nói ngắn gọn cơ mà. Chỉ biết rằng : Tôi bước đi vì không muốn làm kẻ tội đồ - Vì tôi muốn lại kiếp con người - Muốn cuộc đời còn có những nụ cười**

Bằng mọi cách, tôi phải thoát khỏi đời sống đó. Con đường vượt biển khơi là cách duy nhất để thoát khỏi Việt Nam. Sau ba năm cố tìm đường sống, sau hai năm trốn chui trốn nhủi tìm đường thoát, sau năm ngày lênh đênh trên biển khơi, một chiếc tàu chở dầu của Na Uy đã thương tình vớt tàu chúng tôi. Từ đó, chính quyền Việt Nam gọi chúng tôi là thành phần phản quốc vì chúng tôi không muốn sống dưới sự cai trị của họ, tìm tị nạn ở một quốc gia khác, một cách tường thuật cho thế giới bên ngoài biết về tình cảnh không có chỗ đứng cho những người yêu tự do trọng nhân quyền trên đất nước Việt Nam. Tôi trở thành thuyền nhân tị nạn với hai bàn tay trắng, với ước nguyện tự tạo cho mình một đời sống có ý nghĩa hơn dưới bầu trời tự do này.

Người trưởng phòng tỵ nạn Vestby và bà thư ký đón chúng tôi bằng cách chia cho mỗi người một cái mền ngay tại phi trường. Xe đưa bốn người chúng tôi chạy xuyên Oslo, ra E 6 theo hướng Moss, về công xã Vestby, cách Oslo 40 km, nơi văn phòng tị nạn đã chuẩn bị một ngôi nhà khang trang cho bốn chị em. Ngày hôm sau, trời tháng hai căng cắt lạnh, tuyết trắng phủ ngập đường, bà thư ký đưa chúng tôi xuống phố Moss để mua sắm quần áo. Những ánh mắt ái ngại không dấu diếm dành cho bốn quái vật với đôi giày sandal, cái áo thun mong manh, quần mùa hè, ngở ngàng chọn lựa áo quần. Cung cấp cho chúng tôi nhà cửa chu đáo đầy đủ tiện nghi để rồi quăng chúng tôi ra đường trong lớp áo mong manh, Na Uy đón chúng tôi thế đó, nghĩ chỉ buồn cười.

Để hội nhập vào một xã hội hoàn toàn khác lạ, không khó lắm đâu. Ở đâu lấy nhân bản làm thước đo giá trị con người, ở đó cho ta được có cơ hội sống hoà đồng với nhau, thương yêu nhau. Na Uy có hầu hết hai điều kiện trên, nhiều nơi, nhiều người.

Những ngày đầu làm việc ở một trường tiểu học, giờ ra chơi, thấy một em té trầy cùi chỏ, đang rươm rướm nước mắt. Tôi vội đi lại, lòng chợt ngần ngại, cái màu da xậm màu này sẽ làm con bé sợ chăng. Không đủ thời giờ cho sự tính toán dè dặt, ngồi xuống, đặt con bé lên đùi, thổi nhè nhẹ, dùng ngón tay xoa quanh chỗ trầy, an ủi. Con bé dựa vào tôi, lâu lắm. Tình người nơi trẻ con như thế đó.

Có một lần, là phụ giáo ở lớp một trong thời gian còn đi học thêm. Giờ vẽ, học sinh sẽ vẽ một người thân. Hai em vẽ tôi với mái tóc dài màu vàng kim, mắt xanh đậm, một cách vẽ như máy móc khi các em vẽ người, đứng thẳng băng, tay chân có đủ năm ngón. Thế đó, trẻ em tiếp nhận tôi với tấm lòng trong sáng, trẻ em không nhìn thấy màu tóc tôi đen, không nhìn thấy màu da xậm nâu, không khó chịu khi tôi nói năng ngọng ngịu, cái tình chân thật giữa người và người.

Những năm đầu, tôi rất mau nước mắt. Tôi luôn luôn giận tôi vì cái ủy mị dễ ghét này. Dầu cho sự ủy mị có nguyên nhân của nó. Trốn khỏi Việt Nam, tôi chấp nhận bỏ tất cả ở lại quê hương: ba má, các em, nội ngoại, cậu dì, cô chú, bạn bè, cây khế ngọt làng quê Đại Nẫm, cành mai vàng đầu xuân, bãi biển Vĩnh Thủy cát mịn óng vàng, dòng sông Mương Mán chia đôi phố thị mộng mơ... đang ngập chìm. Bỏ và không bao giờ gặp lại. Chính tư tưởng không-bao-giờ-gặp-lại là cây kim đâm từng mũi vào tim, vào tuyến nước mắt vì những lý do vặt vẵnh đâu đâu. Một lời hát, một điệu hò, một áng văn, một ý thơ, ngày lễ lộc, một ánh mắt thuơng hại, một ánh mắt nghi ngờ, một lời nói vô tình, một kỷ niệm hiện về bất chợt... Tôi chấp nhận bỏ tất cả ở lại quê hương nhưng không lường trước được những mũi dao thương nhớ đâm chém tim tôi mạnh như thế, xoáy sâu như vậy, làm tội làm tình tôi mà không bao giờ báo trước. Tự do ơi tự do! Tôi trả bằng nước mắt... Vì hai chữ tự do, ta mang đời lưu vong**

Tay cầm sẳn bảy kroner để trả xe buýt, tôi gật đầu chào ông tài xế, nói: "Ông ngừng trạm Sinsen dùm tôi, cám ơn!" Ông tài xế nhìn tôi với ánh mắt thiện cảm, lắc đầu, ra dấu không chịu lấy tiền. Tôi bỡ ngỡ. Phía sau còn vài người đứng chờ, sợ làm phiền mọi người và hiểu nhanh lòng thương hại của người tài xế, tôi cắn môi, mắt tôi cay cay. Ngồi xuống băng ghế, nước mắt tủi thân tràn tuôn không ngăn được. Tôi quay mặt ra đường, cố nuốt cục nghẹn nơi cổ, lén chùi nước mắt. Người ta nhìn tôi như một thiếu phụ quê mùa nghèo khó, người ta thương hại tôi. Tôi tủi thân. Tôi thẩn thờ nhận ra chỗ đứng của mình trong xã hội này. Tại sao ông tài xế không cư xử với tôi như với tất cả mọi người, tôi khỏe mạnh, tôi không sứt mẻ. Tội nghiệp ông, làm ơn mắc oán!

Sống ở Na Uy được khoảng hơn một năm, trong buổi họp của hội Hồng Thập Tự Na Uy, hội Nhà Thờ Cứu Giúp, dành cho những người đồng-bào-mới, với đề tài: Hệ thống giáo dục của Na Uy. Thuyết trình viên nói chậm chậm, từng câu đơn giản, từ ngữ sơ đẳng. Bà ấy đang tỏ cử chỉ cảm thông những người đồng-bào-mới, bà đang đánh giá khả năng nghĩ suy của chúng tôi như trẻ em mười tuổi. Ông ấy cố gắng giải thích tỉ mỉ, tránh không dùng những phương cách trình bày có hệ thống. Ông quên cái hành-trang-đời chúng tôi mang theo mình chăng? Bà không biết rằng những người ngồi nghe bà nói chuyện đã trưởng thành, đã ngồi ghế nhà trường ít nhất mười hai năm? Mặt tôi đỏ dần, nóng dần. Hành-trang-đời của mỗi người là mạch sông ngầm được tích lũy dần dần năm này qua năm kia, luân lưu dưới lòng đất. Rễ cây xoài ăn sâu dưới lòng đất, trúng mạch nước, sẽ làm màu lá xanh tươi, cho hoa kết trái. Rễ cây thông hút được mạch nước sẽ cao lớn để vững mạnh dưới bầu trời trong thanh. Rễ cây hoa chuông tuyết được thấm mạch nước, nằm đó dinh dưỡng, chờ ngày nắng ấm mà vươn mình khoe sắc... Tất cả cũng chỉ từ một mạch nước. Chúng tôi cũng đã và đang sống trên cùng hành tinh xanh dương này như người Na Uy mà! Cùng học những trang lịch sử thế giới, những lý thuyết toán học, những lý thuyết vật lý học, những nhân sinh quan, những tư duy học... của nhân loại trên trái đất mầu xanh này, như người Na Uy, chỉ khác là bằng một ngôn ngữ xa lạ thôi.

Sau một năm học tiếng Na Uy, làm việc ngày 12 tiếng, tôi tự lập từ từ, không còn là người-nhận, lòng tự tin dầy dần. Tôi tin rằng cái tự tin ở mỗi người là vũ khí tự vệ vững vàng nhất, trong mọi trường hợp. Lòng tin người và yêu người là nhịp cầu cho sự cảm thông, là viên tẩy xóa dần màu da màu tóc, là gạch nối thương yêu, kéo sống lưng ta thẳng đứng, nâng đầu ta nhìn thẳng về phía trước. Từ từ, tôi không còn ngần ngại khi dang tay đỡ một người già Na Uy qua đường, không còn khó chịu trước những ánh mắt theo dõi kín đáo trong tiệm mỹ phẩm, tiệm nữ trang, không tủi thân rưng rưng vì một lời nói vô tình, không nóng mặt vì một cử chỉ quơ-đũa-cả-nắm...

Tự lập, xóa được mặc cảm ăn nhờ ở đậu nhưng không phủ ơn đất nước đã mở vòng tay đón mình, tạo điều kiện cho mình tiến thân. Như đa số các đồng hương khác, chúng tôi cần ít ra cũng vài ba năm, vừa đi học vừa làm thêm để mới có tự phụ thế đứng tự lập của mình. Chúng tôi hái dâu ngày mười tiếng mỗi ngày mùa hè, chúng tôi thức dậy bốn giờ mỗi buổi sáng để bỏ báo, chúng tôi nhận sơn nhà này qua nhà kia, chúng tôi lau văn phòng, lau truờng học... đồng tiền tự tạo ra đã cho chúng tôi niềm tin, lòng phấn khởi tiến tới, xóa tan mặc cảm ăn nhờ ở đậu.

Tôi không còn là người thiếu-phụ-quê-mùa đáng thương hại trên chuyến xe buýt ngày nào. Tôi thành người cầm lon mang dấu hiệu FN Liên Hiệp Quốc, đi đến từng nhà lạc quyên giúp các nước nghèo trên thế giới do đài Truyền Hình Quốc Gia tổ chức trong tuần lễ đánh dấu ngày thành lập FN, ngày 24 tháng 10 mỗi năm. Tôi trở thành người đóng góp trong công cuộc tranh đấu bảo vệ nhân quyền, bằng cách sống, bằng hành động. Chung góp một giọt nước, một hạt cát, mong xoa dịu nổi thống khổ của con người, cũng là một cách trả ơn, trả ơn Na Uy, trả ơn tình nhân loại.

Na Uy dang tay đón tôi hòa đồng dưới khung trời nhân ái, cho tôi niềm tin, cho tôi hy vọng, cho tôi cơ hội tự đấu tranh, vươn lên. Không bao lâu, tôi thành một phần tử cần có, một viên gạch nối tiếp, lẫn lộn với những viên gạch khác, gìn giữ và bồi đắp cái xã hội, cái cộng đồng tôi đang sống, tiếp tay tô điểm vườn hoa loài người. Tôi là người hữu dụng. Tôi được tin yêu. Tôi được phép yêu người bằng tấm lòng bổn thiện của loài người. Tôi được sống một đời sống có ý nghĩa như tôi tâm nguyện khi trốn khỏi Việt Nam, khi đặt chân lên đất nước Na Uy này. Tôi được phép giáo dục uốn nắn thương yêu các con tôi như tôi ao ước. Tôi không còn ao ước gì hơn nữa. Tôi không có nhu cầu tô son điểm phấn cho "cuộc sống của cái tôi" ngày càng phong phú vì khi so sánh với đồng bào ở Việt Nam, tôi cảm thấy mình rất may mắn, đầy đủ hơn họ nhiều lắm, nhiều lắm, từ tinh thần đến vật chất.

Bây giờ các bạn sẽ hỏi: Việt Nam đã mở cửa tiếp nhận thế giới bên ngoài, anh chị được tự do về thăm Việt Nam, anh chị không còn là người tị nạn nữa, sao anh chị không trở về quê hương của anh chị, sao anh chị không tiếp tay xây dựng quê hương. Xin thưa, nhưng lần này tôi sợ tôi không kể ngắn gọn được. Chúng tôi, những người đã bị chính quyền xếp vào thành phần phản quốc, bây giờ là "con cưng" bởi một phần ba lợi tức quốc gia do đồng đô-la của chúng tôi mang về. Chính quyền đã biết lợi dụng lòng thương họ hàng, lòng yêu quê hương của những "núm ruột ngàn trùng" này. Chúng tôi chỉ được phép về thăm chứ không được về ở. Những Việt Kiều này về ở luôn thì đương nhiên nguồn tài ngoại bị sứt mẻ. Điều chính yếu nhất là khi về định cư lâu dài, những Việt Kiều này sẽ ngấm ngầm khơi dậy, tuyên truyền, tô đậm tư tưởng yêu tự do, tinh thần dân chủ, chữ nhân quyền... mà người dân chung quanh không dám nghĩ tới, không dám nhắc tới, cố tình làm lơ sống qua ngày.

Trở về thăm thành phố tuổi thơ, thành phố Phan Thiết chỉ cần nửa giờ là trở về chốn cũ*, thế mà tôi đi ròng rả, mất mấy giờ đồng hồ, không gặp một người quen. Này tiệm sách, nơi tôi đã từng đứng trước quầy kính, túi rủng rỉnh vài xu mà dám ước ao được mua hết các kệ sách, nhưng lần này tiền đầy túi mà sách thì không muốn mua. Con đường đến trường Nữ tiểu học tôi đã đi lại lắm lần, nhưng lần này tự nhiên tôi thấy lạ vì cảnh vật chung quanh đều thay đổi hay chính lòng tôi đang thay đổi lớn: Hôm nay tôi là một Việt kiều!* Một Việt kiều "bị" nâng niu bằng tấm lòng giả dối, bằng nụ cười mỉa mai sau lưng. Tôi là Việt Kiều trên chính quê hương tôi! Này bãi biển Thương Chánh ngày xưa vang tiếng cười đùa với sóng biển, cố bơi đua cùng nhỏ bạn những sáng sớm tinh sương vì sợ ánh nắng lên cao làm xậm thêm màu da nâu hồng, nay là khách sạn có lính canh vì chỉ dành riêng khách ngoại quốc, cho khách dùng đô la... Những mảnh đất trên chính quê hương tôi chỉ dành riêng cho người lắm tiền lắm bạc, tôi không muốn đạt chân đến đó... nhiều quá, làm sao tôi kể cho hết đây.

Tôi trở về thành phố tuổi trẻ của tôi, Sài Gòn. Khi điền vào các đơn từ, tôi khổ sở ngượng ngập vì phải dùng một tên mới, nghịch ngỡm kiêu căng: thành phố Hồ Chí Minh. Các bạn có khi nào nghe tên một người được dùng gọi cho một thành phố chưa? Tôi khổ sở, tôi tránh né, tôi lì lợm... khi tôi phải dùng cái tên đó thay vì Sài Gòn. Góc phố xưa còn đó, hàng cây sao vẫn thẳng cao đọng nắng, cây quỳnh đàn già vẫn mang màu vàng rực rỡ mỗi cuối xuân, con hẽm quanh co nước vẫn ngập chân sau cơn mưa nhiệt đới... Còn đó? Hay đang ngợp thở quay vòng vòng trong bụi cát theo nhịp sống không có chút nghỉ ngơi. Đa số các con đường đã mang tên những vị anh hùng dân tộc cứu nước và dựng nước bị thay thế bằng tên một thiếu nữ, một thanh niên đã dấn thân cho cuộc chiến tranh bành trướng của Cộng Sản Thế Giới được ngụy trang bằng chiêu bài là "đánh-Mỹ-cứu-nước"... Nam Kỳ khởi nghĩa tiêu Công Lý - Đồng khởi vùng lên mất Tự Do... Sài Gòn với tôi bây giờ thế đó. Sài Gòn ngây thơ ngái ngủ yên hòa trong thời chiến không còn của tôi nữa, của bạn bè yêu thơ yêu nhạc yêu người ngày xưa. Sài Gòn không còn là nổi nhớ ray rứt trong lòng người xa xứ như nhà thơ Song Nhị nhắn nhủ... Em ạ, Sài Gòn như núm ruột - Như con xa mẹ nhớ từng đêm - Nhớ Khu Thương xá. Chiều Lê Lợi - Nhớ bến đò ngang quá Thủ Thiêm. Sài Gòn không còn lại gì để nhớ để thương cho tôi hay sao? Hỡi Sài Gòn!*

Là người khách du lịch vài tuần với chiếc máy ảnh lủng lẳng trước ngực, bạn sẽ thấy những tòa nhà sang trọng, những khu du lịch bốn sao năm sao, một số đường phố ngợp ánh đèn màu, tiệm ăn ngày đêm tấp nập người ra vô... Bạn sẽ thầm nói: "Thấy dân chúng sống cũng thoải mái đó chớ." Đó là vì bạn không sống ở Việt Nam mười lăm năm trước để nhận ra rằng sau bao năm sống trong ngợp ngạt đen tối, nay nhà nước nhỏ từng giọt, từng giọt-tự-do ăn chơi, từng giọt-tự-do lừa đảo nhau... Những giọt-tự-do đã đánh lừa bạn như lớp lục bình hoa tím lá xanh trôi nhỡn nhơ trên vùng nước lắm bùn lầy, đã đánh lừa biết bao người dân sung sướng nhận hưởng ân phúc và hát những lời nhạc của Trịnh Công Sơn để tự an ủi: ...Em ra đi nơi này vẫn thế - Lá vẫn xanh trên con đường nhỏ... Đó là vì bạn không biết ai làm chủ và nguồn gốc có được những cơ ngơi to lớn nhan nhãn khắp phố thị. Đó là bạn không biết rằng có những chị đội rổ đậu phọng luộc trên đầu, những bà mẹ vai nặng chỉu gánh chè, những em da cháy nắng cầm xấp vé số... ròng rả đường quê phố chợ cả ngày trời để đủ tiền cho bữa cơm. Nhiều quá, biết kể sao cho xiết. Cứ mỗi lần nghĩ đến là tim tôi nhói đau.

Tôi chưa bao giờ có ước muốn trở thành người Na Uy, và biết chắc rằng không ai nhìn tôi là một người Na Uy, dầu tôi có mặc quốc phục Bunad, dầu tôi ăn khoai tây mỗi bữa cơm chiều, dầu tôi nói tiếng Na Uy lưu loát. Về Việt Nam tôi không cảm thấy mình là một phần tử trong nếp sống tại đó, tôi là người xa lạ trên chính quê hương tôi, xa lạ từ cách sống cho tới tư duy. Bạn đừng cho tôi là người tự kiêu. Bạn nên hiểu rằng tôi là người may mắn được tiếp tục dưỡng nuôi bằng những dòng sữa nhân bản mà tôi đã được hưởng dưới vườn cây trái Đại Nẫm mát xanh hiền hòa trong nếp sống tự do nơi xứ bạn, hai mươi lăm năm, không ít đâu bạn nhỉ.

Ở Việt Nam, không ai cho tôi làm người Việt Nam. Làm sao tôi có thể làm ngơ trước bao cảnh sống nơi đó danh từ nhân bản từ lâu đã trở thành hiếm hoi? Cách đây ba mươi năm, vì không thể nhắm mắt, không thể bịt tai, không thể ngậm miệng, không thể dửng dưng ăn ngủ giữa "Bụi và Rác" như nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng đã diển tả cho nên tôi phải trốn khỏi quê hương tôi và được trốn thoát khỏi quê hương trong niềm mơ ước của chục triệu người dân. Thì bây giờ làm sao tôi có thể bịt tai, ngậm miệng, nhắm mắt, thản nhiên mà ăn mà ngủ trên quê hương vẫn tiếp tục lắm "Bụi và Rác"? Bạn lại bảo rằng xã hội nào cũng có lắm "Bụi và Rác". Đúng vậy, nhưng "Bụi và Rác" ở xứ tôi nhiều quá, một phần bị ép chặt dấu diếm, một phần nhỡn nhơ đầy dãy làm tôi ngợp thở, làm tôi cay mắt, làm tôi ù tai.

Tôi nghiêng mình kính phục triệu triệu người dân tôi đang kiên tâm vượt sống giữa "Bụi và Rác". Tôi cúi đầu kính phục triệu triệu người dân tôi tiếp tục nhẫn nại cong lưng nhặt từng cọng "Rác", phủi từng hạt "Bụi" với ước vọng dọn con đường sạch mát cho thế hệ mai sau. Tôi nghiêng mình kính phục triệu triệu người dân tôi nhẫn nhục chịu đựng, cố nuôi dưỡng nếp sống đạo đức dân tộc qua ba mươi năm và còn đang tiếp tục. Tôi cúi đầu kính phục triệu triệu người dân tôi không quản ngại tù tội đang tranh đấu cho một Việt Nam dân chủ.

Rồi bạn lại hỏi: "Thế bạn là người tránh né "Bụi và Rác" sao? Bạn không làm gì được cho quê hương bạn sao?"
Tôi có trái tim và khối óc. Trái tim tôi khóc trước bao lầm than trong cảnh sống tận cùng của người dân mình. Trái tim tôi thúc đẩy tôi chung góp vài viên sỏi nhỏ nhoi vào những công trình của triệu người Việt hải ngoại đang cố gắng chia sẻ với người dân mình nơi quê nhà. Khối óc tôi lại bảo: Đừng! Hãy nghĩ đến tâm huyết của những người, những công cuộc tranh đấu dân chủ tại quê nhà và tại hải ngoại. Tôi phải thú nhận là tôi tránh né "Bụi và rác". Tôi đang bị trái tim và khối óc dằn vặt đêm ngày. Tôi cố tìm một hướng đi để trái tim hài hòa cùng khối óc.

Với cái quốc tịch Na Uy để bảo đảm an toàn, tôi nôn nóng khi được phép về thăm quê hương. Nhưng vài tuần sau, tôi lại nhớ quê hương thứ hai của tôi, ước ao được hít thở lại không khí trong mát tự do này. Tính ra, đến ngày nay, khoảng thời gian tôi sống ở Na Uy dài gần bằng năm tháng tôi sống ở Việt Nam, thế mà tôi vẫn còn nằm mơ bằng tiếng Việt Nam, trong khung cảnh Việt Nam, tôi tính toán dễ dàng hơn bằng tiếng Việt Nam, thấm sâu hơn câu thơ, áng văn Việt Nam, tâm hồn tôi mãi mãi là Việt Nam, Việt Nam của thời trước ngày 30 tháng 4 năm1975. Và chắc chắn 30 năm sau, khoảng thời gian sống ở Việt Nam chỉ chiếm một phần ngắn cuộc đời tôi, tôi vẫn mãi mãi là người Việt Nam, trong tận cùng, chỉ trong tận cùng.

Nhà văn Dương Như Nguyện tự cho mình lộng ngôn, tự cho mình rởm sau khi bà nói chuyện trước đám đông rằng thế hệ của bà, cũng cùng thế hệ của tôi, giống như những con người cá, nửa người nửa cá vì bà cho rằng chẳng có một vật thể nào gọi là người cá. Tôi không cho đó là lộng ngôn hay rởm. Với tôi, đó là một sự ví von thâm sâu. Và tôi muốn nói thêm rằng: Để rồi vào những ngày nắng ấm, thay vì tắm mình hưởng ánh nắng trong đang soi chiếu vùng biển êm, mỹ ngư nhân trườn mình lên tảng đá, chỉ có phần đuôi vẩy đưa vui chơi dưới nước, còn mặt thì ngước nhìn về miền đất liền phương đông, ngóng tìm, cất giọng hát ngậm ngùi nhớ thương: Chiều nay có một người di tản buồn - Nhìn xa xăm về quê hương rất xa - Chợt nghe tên Việt Nam ôi thiết tha - Và rưng rưng lệ vương mắt nhạt nhòa... Bạn ơi đó là người di tản buồn - Ngày ra đi lặng căm trong đớn đau - Rồi đêm khuya về trong đôi mắt sâu - Đời như chôn vào con phố u sầu... Cho tôi xin lại một ngày, ở nơi thành phố cũ - Cho tôi xin lại một đời, một đời sống với quê hương - Cho tôi đi lại đoạn đường, hàng cây vương dài bóng mát - Cho tôi an phận ngàn đời, bên bờ đê vắng làng tôi...***

***

Tan học, em muốn về nhà một mình, dọn dẹp nhà cửa, làm bài, tập đàn, nghe nhạc, đọc sách... em muốn có thì giờ cho riêng em. Chiều nay, theo lời khuyên của nhà văn Nhất Hạnh trong đoản văn Bông Hồng Cài Áo, em chờ má đi làm về, nhưng em không vào phòng má. Em chờ sau bữa cơm chiều, khi má ngã mình nằm nghỉ ở góc-sô-pha. Em sẽ ngồi sát bên má, gọi nhỏ: "Má ơi!" Má sẽ ngưng đọc sách, hỏi: "Gì con?" Em sẽ nhìn má thật lâu và thì thầm: "Má ơi, má có biết gì không?" Má sẽ âu yếm nhìn em, hỏi: "Biết gì?" Vẫn nhìn vào mắt má, vẫn giữ nụ cười trầm lặng, em hỏi tiếp: "Má có biết là con thương má không?" Không chờ má trả lời vì em biết má sẽ ôm vai em, nói nhỏ: "Má biết, con gái cưng của má." Và sau đó em đưa bài văn cho má đọc. Chắc chắn khi đọc xong, má sẽ cười với vài giọt nước đọng nơi đuôi mắt và mắng yêu em: "Ủa, má đâu có kể nhiều vậy, con nhỏ có tài thêm hoa thêm lá, có tài chấm phá ghê ta ơi." Em sẽ nói: "Tại vì theo con nghĩ, đây là mẫu chuyện không hẳn riêng của má mà là của cả các dì, các cậu, người Việt ở hải ngoại, và con cũng hiểu rằng dẩu đang sống đời sống dư thừa vật chất, dư thừa tự do nhưng người Việt hải ngoại mãi mãi vẫn là người di tản buồn." *


* Một vài từ ngữ, một vài câu văn được mượn từ bài thơ Còn Một Chút Gì Để Nhớ của Vũ Hữu Định, đoản văn Tôi Đi Học của Thanh Tịnh, đoản văn Bông Hồng Cài Áo của Nhất Hạnh.
** Xin Đời Một Nụ Cười - Nam Lộc
*** Người Di Tản Buồn - Nam Lộc


Võ Thị Điềm Đạm









oc huong
#42 Posted : Friday, September 15, 2006 6:50:09 AM(UTC)
oc huong

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 1,180
Points: 0

Võ Thị Điềm Đạm

BẮT PHONG TRẦN PHẢI PHONG TRẦN








<p align="justify">
Trời tháng chín tối nhanh, ánh sáng từ ngọn đèn đường Huyền Trân Công Chúa chiếu mập mờ bóng cây điệp tây già trước nhà. Chị Ba ngồi nghiêng người, nóng nẫy, chống chân giữ thăng bằng chiếc xe đạp màu bạc. Tay vịn ghi đong xe đạp, cố giữ lại, tôi nài nỉ:
- Chị chở tui lại đài phát thanh ở vườn bông lớn nghen, chờ nghe tui hát, chờ tui về chung.
- Tao vô coi mày hát được không?
- Không được, người ta không cho.
- Tao không dám đứng chờ một mình đâu.
- Tui hát xong là tui xuống liền.
- Bộ mày lên tuốt trên Lầu Nước hả?
- Ờ, đài phát thanh phải ở trên cao thiệt cao phát ra nghe mới rõ chớ. Người hát, người nói tin tức đều phải lên tuốt lên lầu nước, đi mấy chục cầu thang. Chị nhớ hông, tối tối người ta thường phát thanh, người ta hát hay lắm, người ta năn nỉ tui, tui mới chịu hát. Chị nhớ ngồi chờ tui xuống nghen, chờ chở tui về.
- Ờ, mà vườn bông tối hù, tao sợ, nghe nói mấy cây vông có ma thòng lòng.
- Không sao đâu, có nhiều người ngồi chơi ở đó.
- Mà mày hát bài gì?
- Tạ Từ Trong Đêm. Chị đứng chờ tui nghen.
- Ờ! Phải Phương Dung hát vô dĩa bài này không? Má tao mà biết tao vô vườn bông ban đêm là tao bị la.

Sợ chị Ba đổi ý bất tử, tôi chạy lẹ ra sau nhà, thay cái áo phin màu xanh lợt mới ủi lán cón, treo trên móc. Tôi ngồi sau xe đạp, giữ cho ống quần đen cao lên khỏi mắc cá, sợ bùn văng dơ. Mấy ngón chân kèm chặt đôi dép nhật trắng tinh, chỉ sợ quên, rớt mất dép vì tôi bắt chước người lớn, ngồi một bên, nghiêng người nhìn phía trước. Thế ngồi này làm chị Ba suýt té xe mấy lần vì tôi ngồi không quen, cứ lắc qua lắc lại. Đạp dọc suốt con đường Huyền Trân Công Chúa, ngang tòa tỉnh tối um, ngang sân tenis vắng vẻ, gần tới ngã tư Kho Bạc, quẹo trái, vô vườn Bông Lớn, chị Ba cứ hỏi hoài chuyện tôi được hát ở đài phát thanh Phan Thiết. Tôi biết nhiêu đó, kể tới kể lui, coi bộ không tin mấy. May quá, đèn vườn lục bát còn sáng, chị Ba đỡ sợ, chị này nhát lắm. Tôi dẫn chị Ba lại cái băng đá gần tháp Lầu Nước. Chị Ba ngồi xuống, tay vẫn giữ bi đong xe, mắt nhìn quanh, đo lường nguy hiểm, đo lường lòng gan dạ của mình, tìm bóng mấy cây vông cao ngất ngưỡng rãi rác trong vườn bông rộng lớn, chỗ tối chỗ sáng. Tôi chạy vòng ra phía sau tháp Lầu Nước, phải nói là trước cửa vô tháp Lầu Nước có cây vông già để chị Ba không đòi theo, đòi ngồi chờ ở đó. Bể chết!

Anh Phong này kỳ cục lắm, cứ cà rà nắm tay, rờ vai, rờ đùi. Ngồi trên băng ghế đá mà cứ ép ép lại, làm tôi xé ré gần lọt xuống. Hơi thuốc lá phà vô mặt, tôi vừa thích vừa ngợp. Ánh mắt anh chiêm ngưỡng, từ mặt, xuống ngực, xuống cặp đùi khép chặt, tôi biết tôi đẹp. Không đẹp làm sao chỉ mới đi ngang nhà tôi hồi sáng, thấy tôi quét sân, tôi ngẩng mặt lên nhìn, anh quẹo liền vô con hẻm dọc nhà tôi, đứng ở vườn nhà bà Năm bán bún, sát rào, chờ tôi ra giếng múc nước, sấn lại làm quen. Té ra là cháu gọi bà Năm bằng cô, nhà ở gần chợ Bình Hưng, đi lính xa, mới về phép.

Bây giờ hẹn tôi ra đây. Anh biểu tôi có nét đẹp quyến rũ, anh thích tôi, thích gặp tôi mỗi ngày ở đây, những ngày anh về phép. Tôi biết tôi đẹp, chỉ cần đi ngang quán nước trước trường Chánh Tâm, cái quán nước bên kia đường trường Phan Bội Châu trên đường ra nhà may xây gạo lớn gần cầu Sở Muối, mấy quán nước ở gần ga xe lữa, những ánh mắt chiêm ngưỡng, những ngoái cổ nhìn theo của mấy anh học sinh trẻ măng, của những ông lính ... là tôi tin mình đẹp. Nói chuyện với anh Phong cũng vui vui, được anh khen đẹp hoài mà không chán. Từ từ, anh choàng ôm vai, tôi cũng không muốn hất tay ra như lúc đầu, thích thích. Anh co một chân gát lên đùi tôi, cúi hun má tôi. Dị quá, tôi đẩy anh ra. Cứ vậy, dằng tới dằng lui, ôm vai, xoa đùi, ré ra, kéo lại gần, nửa thích nửa sợ. Cho tới tối khuya, tôi sợ má tôi la, nhưng tôi quên mất chị Ba đang ngồi vịn ghi đong chiếc xe đạp chờ tôi ở phía bên kia tháp Lầu Nước. Tôi đòi về. Anh hẹn tối mai bảy giờ tôi ra đây gặp anh nữa, anh sẽ mua cho tôi đôi guốc sơn trắng, có quai trắng đục giống của chị Hai, đúng như tôi tả.

Đi vòng lại băng ghế đá, thấy không có chị Ba, tôi biết chị sợ, không dám ngồi một mình nên về từ lâu. Cũng không sao. Chị này khờ lắm, bị tôi lừa hoài. Ngày mai lại quên mất, lại nghe lời ngon ngọt của tôi nữa cho coi. Chỉ cần tôi viện lý do này lý do kia là chị tin ngay. Tiếng là chị chứ nhỏ thua tôi hai tuổi, tại má của chị này là chị bạn dì với má tôi. Bà ngoại của mấy chị này là chị của bà ngoại tôi. Vườn nhà ngoại tôi sát vườn nhà ngoại chị nên tôi canh chừng cứ có mấy chị lên thăm ngoại Hai là tôi la cà theo chơi. Kể ra tụi tôi thân nhau từ nhỏ. Bây giờ má tôi dọn xuống gần chợ Bình Hưng, mấy chị này lâu lâu đi ngang cũng ghé vô chơi với chị em tôi.

Cả mấy chị em nhà bà chị này của tôi sướng lắm, ai cũng có xe đạp riêng để đi học, đi chơi. Tôi không bao giờ dám ao ước, ao ước với ai đây. Má tôi buôn bán đồng ra đồng vô chỉ đủ bữa cơm, không có tiền cho tôi đi học trường Bồ Đề, tôi phải nghỉ học từ mấy năm nay. Nhiều bữa không có tiền đi chợ, tôi phải nói ngon nói ngọt mấy bà chị này lén dì Hai, lấy cho tôi vài lon gạo, chai nước mắm, trái bí rợ... Trong bốn chị em nhà này, tôi chỉ dụ được chị Ba, chị Tư (Chị này nhỏ thua tôi năm tuổi mà tôi cũng phải kêu chị, quen miệng rồi), tụi nó dễ tin. Còn chị Hai của tụi nó thì tôi ít dám qua mặt. Chị này cùng tuổi với tôi, khôn dàn trời, tôi chưa kịp trổ tài nói xạo là chị bắt bẻ ngay, và không thèm nói chuyện với tôi. Còn anh Năm thì tôi ít khi gặp, không biết lấy chuyện gì mà dụ nó.

Má tôi làm giấy khai sanh cho tôi là Lê Thị Nụ. Cái tên không thích hợp chút nào với cái nhan sắc sắc sảo càng lớn tôi càng tự nhận ra, với cái vóc dáng cao ráo trắng trẻo hơi lai Tây của tôi. Tôi lại biết chải chuốt, sạch sẽ từ mái tóc hơi nâu nâu dợn dợn đến đôi dép Nhật bao giờ được chà bàn chải kỹ lưỡng nên ra đường ít ai biết cái nghèo khó của gia đình tôi. Má tôi đẹp có tiếng ở Đại Nẫm nhưng đường tình duyên rất lận đận, và cái số lận đận này kéo luôn cái nghèo khó phải một mình nuôi năm đứa con của ba đời chồng. Phía bên nội không nhận tôi vì má và ba tôi có họ hàng xa. Hai người lén lút thương nhau. Khi má tôi sanh tôi, ba tôi giận cha mẹ, bỏ người yêu không dám cưới, bỏ đứa con gái mới hai tháng, bỏ quê, qua Lào làm ăn. Nghe nói chết bên đó. Ba kế thì có cưới hỏi đàng hoàng nhưng má tôi không chịu nổi nhà chồng. Khi ba kế đi tập kết được nửa năm, má dắt tôi lúc đó mới năm tuổi, ẵm em tôi mới một tuổi, về lại Phan Thiết sống nhờ ông bà ngoại.

Gởi con cho ông bà ngoại, má tôi ra vô Sài Gòn đi buôn, gặp ông Bảy Cò soát vé xe lữa đã có vợ mà đèo bồng. Ông mướn nhà cho má con tôi ở Phan Thiết, ông ra vô tàu lữa, có thêm với má tôi ba mặt con nữa mà bà vợ lớn cũng không hay biết gì. Đúng ra, những ngày ông từ Sài Gòn ra, nhà tôi sống huy hoàng. Ông rộng rãi, má tôi biết nấu ăn, biết chìu chồng, cơm bữa nào cũng năm ba món. Món đồ chơi này, món ăn kia. Được vài ngày, ông về lại Sài Gòn, chị em tôi trở lại những bữa cơm cá kho với rau luột, canh cá liệt nấu cà... Má tôi không giỏi buôn bán lại thêm tính thích tiêu xài nên nhà cửa thiếu hụt hoài. Họ hàng giúp riết rồi ai cũng ngán. Họ hàng không muốn giúp má tôi cũng vì cái tính tiêu hoang của má. Lúc có tiền thì ăn xài không tiếc tay, không chịu trả nợ, không biết để dành để để, phòng lúc túng thiếu.

Không hiểu sao tôi lại thích theo chơi với mấy chị em nhà này và tụi nó cũng không xa lánh chị em tôi. Gia đình tụi nó khác xa gia đình tôi. Dượng Hai nghiêm nghị, dì Hai có sạp gạo bên chợ Lớn, tụi nó học trường Phan Bội Châu. Tụi nó đi thưa về trình, tụi nó đọc sách, coi báo, có bạn có bè cùng trường cùng lớp, bạn bè hàng xóm. Gia đình tôi không cha, không ai kềm kẹp, đi không cần thưa, về không cần trình, đứa nào muốn học thì học, không ai nhắc biểu...Tui không có ai kết bạn hết. Không đi học, ở nhà lo cơm nước, chăm lo đám em cho má buôn bán, đâu có ai cùng trang cùng lứa, rãnh rang mà kết bạn với tôi. Và cũng vì không có bạn nên tôi phải nói láo chuyện này, nói xạo chuyện kia để người ta thích tôi. Thét rồi tôi quen nói láo, quen lừa tới lừa lui, thét rồi không ai ưa tôi.

Nhưng hai chị em con Ba và con Tư thì không ghét tôi. Tôi có chừa gì tụi nó đâu, nhưng tụi nó mau quên, dễ tin, bị tôi xạo hoài mà cũng cứ tin. Tôi không xạo gì cho ghê gớm lắm đâu. Kiếm chuyện cho tụi nó chở đi chỗ này chỗ kia, đi rong coi hàng phố với tui. Kiếm cớ cho tụi nó cho mượn cái nón lá quai nhung đen, cho mượn xe đạp chạy chơi vòng vòng, cho mượn tiền ăn hàng... Kiếm lý do để rủ tụi nó lại nhà tui chơi. Kiếm chuyện khoe cho tụi nó nể... Bị tôi lừa hoài mà cứ tin tôi hoài. Bởi vậy tôi cũng thương mấy chị em nó, không muốn lừa những chuyện động trời mà tôi thỉnh thoảng làm cho người lớn lại nhà mắng vốn với má tôi. Tôi thích mấy chị em nó từ nhỏ. Mỗi lần có trái mãng cầu nở gai, có trái ổi ửng vàng là tôi để dành, chờ chị em nó về ngoại Hai, tôi cho. Lâu quá tụi nó không về ngoại Hai thì tôi đem rổ khế ngọt, rổ bắp đầu mùa, vài khúc mía.... xuống cho, đặng có cớ ở chơi lâu luôn.


***


- Bồ tui là đại úy không quân.
- Tên gì?
- Tuấn, Nguyễn Đại Tuấn.
- Sao mày biết ổng là không quân. Nghe nói không quân oai lắm nghen.
- Anh Tuấn mặc áo liền quần, màu xám, đại úy đó.
- Sao mày biết ổng là đại úy?
- Chị không biết hả? Anh Tuấn đeo ba bông mai ở vai áo. Một bông mai là thiếu úy, hai bông mai là trung úy, ba bông mai là đại úy, bốn bông mai là thiếu tá, năm bông mai là... cứ vậy mà tính.
- Trung úy với đại úy, ai lớn chức hơn?
- Đại úy chớ, càng nhiều bông mai, càng lớn chức.
- Vậy là bồ bà Hạnh chức thua bồ mày. Ông bồ bà Hạnh chỉ đeo có hai bông mai hà. Bả bày đặt làm tàng, hống hách, khoe khoang. Mỗi lần ông bồ của bả về là chở bả đi làm, lấy xe jeep chở đám em của bả đi chơi. Chị em nhà bả ỷ đẹp, nhiều người o bế, coi ai không ra gì. Hừm... đẹp mà học dốt, không ai vô được Phan Bội Châu hết. Sao tao không thấy mày ngồi xe jeep?
- Kỳ tới về phép, anh Tuấn đem xe jeep về, tui rủ chị đi chơi nghen.
- Ờ, mà đừng cho ba má tao thấy.
- Để tui biểu anh Tuấn đem xe jeep lại đón chị ở trường được không.
- Không được, bạn tao thấy, tụi nó tưởng tao có bồ lính, ghê lắm! Chỉ có mấy chị lớp đệ nhị đệ nhất mới dám có bồ lính. Mà mấy chị có bồ lính toàn là mấy chị ăn diện dàn trời, thi hoài không đậu.
- Hay là chị lại nhà tui.
- Ờ, được đó.
- Bây giờ chị với tui qua nhà thờ Lớn chờ anh Tuấn về Phan Thiết. Kỳ này ảnh đem xe jeep về luôn
- Sao lại phải chờ ở tuốt bên nhà thờ Lạc Đạo?
- Chị không biết gì hết. Máy bay hạ xuống ở phi trường ngoài Căng. Anh Tuấn lái xe jeep từ Căng xuống Phan Thiết. Anh Tuấn chở mình đi lên Phú Long ăn bánh hỏi lòng heo.
- Biểu anh Tuấn ghé vô chùa Vạn Thiện chơi nữa nghen.
- Ờ !
- Mà không được, tao chở mày qua nhà thờ thì được, chừng anh Tuấn tới, chở mình đi chơi, cái xe đạp để đâu?
- Chị đem vô nhà bạn chị gởi.
- Cũng được, nhà nhỏ Mai bạn tao ở gần đó.


***


Chị Tư nóng nẩy ngồi xuống đứng lên. Tôi ung dung vừa nhâm nhi trái bắp nướng thoa hành mỡ vừa ngồi trên băng ghế đá màu xanh lá cây đậm ở vườn Bông Nhỏ bên kia cầu, bên kia đường là tiệm sách Vui Vui, tiệm vàng Thành Kim, bên kia là ngân hàng Việt Nam Thương Tín... Chị Tư sợ dượng Hai đi ngang qua, thấy chị lãng vãng ở vườn bông là bị đòn. Chị còn sợ bạn bè thấy chị chơi ở vườn bông buổi tối nữa. Ngồi chơi ở vườn bông thì có gì mà xấu hổ, có gì mà cấm đoán, tôi không hiểu được. Chị cằn nhằn:
- Mày nói tám giờ ông ca sĩ K.D tới mà.
- Chắc ổng mắc hát cho đài phát thanh. Hồi nẩy chị nghe người ta phát tiếng hát của ổng đó, ở Lầu Nước đó.
- Ổng đẹp không mày?
- Đẹp hơn trong báo.
- Không biết ổng có nhớ đem theo dĩa nhạc cho tao không đây.
- Tui dặn ổng kỹ lắm. Ổng hứa đem hết mấy dĩa nhạc của ổng cho mình mặc sức mà lựa, muốn lấy bao nhiêu thì lấy.
- Tao với mày lấy hết nghen, mình chia hai.
- Tui cho chị hết đó. Tui đâu có máy hát dĩa. Ổng hứa mai mốt tui vô Sài Gòn, ổng sẽ lăng xê cho tui làm ca sĩ, tui đâu cần dĩa nhạc nữa.
- Thiệt nghen! Chừng nào mày đi Sài Gòn?
- Ổng hứa là ổng sẽ gởi tui ở nhà người bà con cho tui quen Sài Gòn.
- Chừng nào mày đi Sài Gòn?
- Chừng nào ổng cho tui vé xe đò và tiền xài thì tui mới đi được. Mà chuyện này chị phải dấu, không được kể cho ai nghe. Không được nói với dượng Hai dì Hai, không được nói với má tui. Chừng nào tui nổi tiếng, tui gởi thư về.
- Khuya quá rồi, tao không chờ nữa đâu. Tao về.
- Chị chở tui về.
- Không được, xa lắm, tao không dám đạp xe đường Huyền Trân Công Chúa một mình, ngang qua chợ Bình Hưng, Toà Tỉnh, khu gia binh, tối um, ghê lắm.
- Thôi chị chở tui đến ngã năm ga xe lữa được không?
- Sau mày đi ngõ đó?
- Tui ghé vô nhà dì Chín coi có má tui chơi ở đó không.
- Xuống dốc cầu mày phải xuống xe, tao không dám chở nặng xuống dốc cầu.
- Ờ, chị chờ tui ở ngã tư Kho Bạc nghen.
- Lẹ đi.


***


Bây giờ tôi tên Lê Thị Ngọc Thúy, từ giấy khai sanh cho tới thẻ căn cước. Ngay tên của các em tôi Lê Thị Hồ, Lê Văn Ty, Lê Văn Tới... cũng được thay thế bằng Lê Thị Ngọc Hằng, Lê Tấn Tài, Lê Tấn Hoàng... Ai cũng kêu tôi là Ngọc Thúy. Ngoại trừ chị em con bạn dì này của tôi, cứ cái tên Hai Nụ mà kêu, không chịu sửa đổi cho tôi nhờ. Thiệt ra thì cái tên Hai Nụ mấy chị này dùng làm tôi ấm lòng, gợi lại tình chị em họ hàng, cái tình tôi luôn cảm thấy thiếu thốn từ hồi tôi nghe theo lời dụ ngon dổ ngọt của ông ca sĩ K.D. lưu lạc chân ướt chân ráo vô Sài Gòn. Cho đến khi quen nước quen cái, mướn được một căn nhà cho má tôi nuôi thằng Hưng hai tuổi và các em ở Xóm Chùa Tân Định, tôi yên tâm sống riêng. Vài ba ngày về thăm con, thăm các em, cho má tiều xài, tiền chợ. Vậy cũng xong. Cái sắc đẹp sắc sảo ở tuổi hai mươi, gái một con, biết ăn diện sang trọng, ong vờn bướm lượn đếm không hết, tôi không còn cần bàn tay nhám hướng dẫn của ông ca sĩ K. D. từ khi thằng con trai được bốn tháng.

Từ hồi mấy chị theo dượng Hai dì Hai vô Sài Gòn, tui có bạn đi chơi, đi phố, và tiếp tục kiếm cớ này, lừa cớ kia để mấy chị đi ăn với tôi, đi dạo Eden, dạo Tax, dạo Lê Lợi… Bốn năm ở Sài Gòn, y hệt như hồi ở Phan Thiết, tôi cũng không có một người bạn gái, không ai thích kết bạn với tôi. Tôi biết cũng bởi cái tật nói lừa nói đảo, một hai lần rồi ai cũng xa lánh. Nhưng tôi không bỏ đuợc. In như mở miệng ra là cái đầu tôi đảo ngược với cái tâm tôi, bánh xe tưởng tượng trong đầu lăn nhanh như được thoa dầu mỡ tốt. Tôi có bao ăn, tôi có cho đồ, tôi có thổi cách mấy thì người ta cũng qua lại với tôi cao lắm đến lần thứ ba, là xa lánh. Chỉ có hai bà chị này, chị Ba và chị Tư là còn qua lại, còn tiếp tục để tôi dụ đi ăn, dụ đi chơi.

Tôi thích rủ mấy chị đi ăn ở Thanh Thế, Givral, Eden… vừa để khoe đường sống sang trọng của tôi, vừa muốn mấy chị vui vì tôi biết mấy chị không bao giờ có tiền đi ăn những chỗ này. Tôi biết mấy chị này thích son thích phấn, thích dầu thơm, quần áo lượt là đúng mốt của tôi, các chị làm gì có tiền mua sắm như tôi. Tôi muốn cho lắm. Tôi thử cho vài lần nhưng không ai chịu lấy, nhất định không chịu lấy món gì của tôi. Chắc sợ dì Hai dượng Hai rày. Mỗi lần muốn rủ chị nào đi ăn thì tôi lại trường chờ vì dì dượng không thích tôi lại nhà lắm và mấy chị không rãnh rang lại thăm tôi thường. Tôi cũng không muốn mấy chị thấy khi thì ông trung tá, khi thì ông nghị sĩ, khi thì tay Tàu phiện… hiện diện trong nhà tôi. Từ đó giờ, mấy chị tin là tôi làm ở vũ trường Nhất Dạ Đế Vương, phải làm ban đêm nên tôi cần ngủ ngày.


***


- Mày có làm khai sanh cho con mày không?
- Có.
- Ai đứng tên làm cha?
- Thì anh Tuấn. Chị nhớ ông đại úy không quân Nguyễn Đại Tuấn tui quen từ ở Phan Thiết đó, ảnh theo tui vô luôn Sài Gòn.
- Sao mày nói ổng chết rồi?
- Anh Tuấn chết hồi tui mang thai thằng Hưng được năm tháng.
- Vậy thằng Hưng mang họ gì?
- Ông bà nội muốn đặt tên nó là Nguyễn Đại Hưng, xin đem nó về Phú Yên nhưng tui không cho.
- Ủa, làm đám cưới hồi nào?
- Không kịp làm đám cưới. Ảnh đổi ra vùng Một, nghe tin tui mang thai nhưng về không được. Chừng ảnh chết ngoài đó, ảnh có nhắn với ba má ảnh vô Sài Gòn tìm tui.
- Mày ráng giữ liên lạc với ông bà nội thằng Hưng cho nó có dòng có họ.
- Chị đi Tạ Thu Thâu với tui không? Tui tìm vải lụa may vài cái áo dài. Mấy tiệm vải Ấn Độ có lụa mới ra đẹp lắm.
- Không được, tao hẹn chút nữa đi bơi với nhỏ Phước.
- Mai đi với nó cũng được. Tui cho chị một xấp tơ may áo dài.
- Tao không dám lấy đâu. Má biết, má la.
- Hay là mình đi ăn bánh bèo Huế ở Lê Thánh Tôn rồi ghé qua Tạ Thu Thâu luôn.
- Tao không đi chợ được, tao có hẹn với nhỏ Phước. Mới ăn còn no, ăn sao nổi nữa.
- Bánh bèo Huế ở đây đúng kiểu lắm, ăn một chồng dĩa cũng chưa no. Ăn xong rồi chị đi, tui băng qua chợ.
- Cũng được.

Cứ vậy, mỗi lần được đi chơi với chị Ba hay chị Tư là tôi níu kéo cho lâu. So với mấy chị, tôi ăn mặc sang trọng, rất Tây, tôi đẹp sắc sảo, tiền xài thả cửa, tôi lịch lãm, sành ăn sành uống nhưng tôi vẫn cảm thấy hãnh diện khi đi chung với chị Ba hay chị Tư, sinh viên áo trắng tóc thẳng mượt, không biết ăn diện, không biết son phấn, mỗi tuần chỉ được dì Hai phát vài chục đồng ăn hàng. Với những người đàn ông tôi quen, lúc nào tôi cũng khoe tôi có người chị này học ở Văn Khoa, người chị kia học ở Luật, cho coi hình… như để nhắc nhở với họ là tôi thuộc dòng họ văn bảng, tôi có những người bạn gái đàng hoàng.


***

- Chị thấy càng lớn thằng Hưng càng giống ông ca sĩ K.D. không?
- Giống chỗ nào?
- Cái mặt con trai mà trắng bạch, cái miệng rộng, cái trái rộng. Hồi mới sanh nó, ổng cũng công nhận là giống. Vậy mà vài tháng sau ổng trốn mất tiêu.
- Ủa! Sao hồi đó mày nói ba thằng Hưng là ông bồ đại úy không quân, cái ông mày kể mày quen hồi ở Phan Thiết?
- Tui với chị ra Tự Do ăn kem Ý không? Hay đi Givral ăn bánh kem xu xu?


Hồi chiều định lại Văn Khoa tìm chị Ba rủ chị đi ăn hàng, thấy chị ngồi ở quán cà phê trước trường Dược, đối diện trường Văn Khoa, với Thành, bồ của chị. Chị Tư thóc mách. Hai người bồ nhau hơn nửa năm nay, bây giờ tôi mới gặp Thành, coi bộ lính bụi, lính rừng, đen thui. Nhìn hai người cưòi đùa với nhau như con nít, nhìn mắt Thành âu yếm khi với tay vén cọng tóc vương trên mặt người yêu, nhìn chị Ba nhõng nhẽo làm điệu làm hạnh, không dưng tôi buồn, buồn nức lòng. Trên đường, lái chiếc xe Yamaha về nhà mà nước mắt ròng ròng, không muốn lau. Tủi thân! Năm nay tôi hai mươi lăm tuổi, chưa một lần biết nũng nịu nhõng nhẽo, chưa ai âu yếm với tôi, chưa ai nhìn tôi đầy thương yêu…

Lần đầu tiên tôi nhìn tận mắt một căp tình nhân thật sự yêu nhau. Tôi đẹp từ mái tóc nâu dợn đến bàn chân trắng thon, nhưng những người đàn ông đến với tôi, nhìn tôi, chỉ thấy từ bụng trở xuống. Cũng anh anh em em ngọt sớt nhưng không ai cẩn thận xoa nhè nhẹ cánh tay trần mịn màng, không ai vuốt tóc mượt, không ai mơn man chớp mũi trên mái tóc thơm, không ai muốn ngồi hàng quán thường với tôi, không ai muốn thong dong dạo phố với tôi. Tủi lắm! Tôi thiếu thốn nhiều thứ, một gia đình đủ cha đủ mẹ, tình chị em, tình bạn bè cùng lứa, người tình thương yêu thật lòng… Từ lâu, tôi không biết tìm kiếm ở đâu, tôi không biết làm sao tự tạo ra, tôi không biết rõ ràng tôi mơ ước điều gì. Bây giờ, nhìn cặp tình nhân này tôi mới hiểu thấm thía nổi bất hạnh của tôi… Đời một người con gái, ước mơ đã nhiều mà trời cho không được mấy, đến khi lấy chồng, chỉ còn mối tình mang theo… Tôi không có ước mơ con gái, tôi không dám ước mơ lấy chồng… những ước mơ không bao giờ thành hình toàn vẹn trong trí tưởng tượng.


***

Tôi giống má tôi ở cái tánh tiêu pha, có bao nhiêu tiền tôi mua sắm quần áo sang trọng, ăn xài không tiếc, tôi cho người này, tôi mua chuộc tình bạn người kia. Đến khi Sài Gòn mất, tôi mất luôn những ông đại tá trung tá, những ông chính khánh nghị sĩ, những thương gia bạc cọc… May nhờ hồi trước dì Năm khuyên nhủ tôi mua một căn nhà ở Phú Lâm cho má nuôi con tôi và đám em năm đứa. Trả nhà, tôi dọn về Phú Lâm ở với má tôi. Gia tài bây giờ là một tủ đầy nhóc quần áo, son phấn, dầu thơm, salong, giường… và vài ba cây vàng. Tôi đưa vàng cho má tôi để sang một sạp tạp hóa buôn bán sống qua ngày chờ thời. Thời lâu đến quá! Tôi bắt đầu bán dần bán hồi quần áo, son phấn… Tôi vẫn tiếp tục ăn diện nhưng cẩn thận hơn vì ánh mắt không thiện cảm của đám thanh niên đeo băng đỏ, của mấy bà ở hợp tác xã, ở phường ở xã.

Nhưng rồi chính quyền nào cũng một lứa như nhau, cũng có bóng dáng những người đàn ông ngoài miệng ăn to nói lớn, chữ nghĩa cao xa, đi đứng nghiêm nghị và… đủ "thông minh" để kiếm ra tôi, nhìn ra tôi. Cái khổ sở hiện tại của tôi là phong cách học đòi ăn chơi của mấy ông từ rừng, từ Hà Nội Hải Phòng hoang sơ, đâm xe tăng T 54 thẳng vô Sài Gòn mà không dò đường đi nước bước, không biết cởi bỏ bớt cái túi vải, không biết bỏ áo vô quần, không biết mang đôi giầy da… Các ông hấp tấp vội vã "tiếp thu", tiếp thu đủ mọi mặt, nhà cửa, đất đai, và dĩ nhiên đàn bà. Tệ nhất là cái hống hách của kẻ thắng trận. Các ông chê tôi là hiện thân của nếp sống ngụy, chê trong ánh mắt tò mò thèm thuồng là đồ đạc trong phòng tôi mang đầy màu sắc đế quốc.

Mấy ông lớn hồi xưa lịch lãm, cư xử trí thức hòa nhã với đàn bà và nhất là sòng phẳng. Tôi không cần nêu ra điều kiện qua lại, ai cũng rành luật chơi. Ngày xưa, sở dĩ tôi có giá là vì các ông hiểu sự bảo đảm "tính mệnh" khi bao tôi sống. Có một người tình hờ để thay đổi, để lấp vá chỗ trống mà người vợ từ chối hoặc vô tình lơ là, các ông không cần tìm kiếm, không cần phân vân. Tôi "chung thủy", một người là một người, cho đến khi người này vì phải đổi đi xa, vì những lý do riêng tư, bàn giao cho một người bạn khác, nhung lụa cứ thế mà thay nhau bảo bộc đời tôi. Bây giờ, tôi luôn luôn mang cảm giác đề phòng, không biết mấy ông trở mặt lúc nào, không biết mấy ông có rành luật chơi này không.

Cái khổ sở thứ hai là cách đánh của mấy ông tai to mặt lớn ngày nay. Tôi phải dùng chữ hấp tấp, tham lam và dĩ nhiên khi hấp tấp tham lam thì thiếu nghệ thuật, không biết tôi diễn tả như vậy đủ chưa. Hấp tấp chắc tại quen cách hồi ở trong rừng, hai đứa ở hai đầu... Trường Sơn Đông nhớ Trường Sơn Tây... Tôi phải ra công rèn luyện, tôi phải nhắm mắt chấp nhận. Và nhất là bản tính nghi ngờ cố hữu, bản chất trở mặt của con người cách mạng. Tôi luôn luôn ở trong thế thủ. Ở thời nào thì đàn ông cũng đến với tôi như một con thú. Nhưng cái khác nhau là một con thú nhà được nuôi dưỡng trong nếp sống chừng mực, biết chờ, biết hưởng thụ và là một con thú rừng nuốt không kịp nhai, hưởng thụ trong tâm trạng gầm gừ, lo sợ bị khám phá, bị tranh dành.


***

Hơn bốn năm nay, các chị không qua lại với tôi. Các chị thay đổi nhiều lắm. Kém vô tư, rất dè dặt, cay đắng, không còn quan tâm đến chuyện học hành. Người bỏ dở nửa chừng, người ra trường không màng đi làm… Theo mọi người thời này, các chị cũng biết lăn vào chuyện buôn bán, cũng biết dùng cái mỹ miều lịch lãm của con gái Sài Gòn xoay trở tung khói mù qua mặt tụi công an, tụi cán bộ học đòi văn minh Sài Gòn. Tôi thắc mắc tại sao các chị có học, hiền lành, gia đình đàng hoàng, sao không ai lập gia đình ở cái tuổi không còn bao lâu nữa đến cái "băm" muộn màng. Các chị mỉa mai: "Lấy ai? Lấy sinh viên thất thời không lo nổi cho thân mình, sinh viên theo thời nịnh hót trở mặt để được vào cảm tình Đoàn, đối tượng Đảng? Lấy sĩ quan "ngụy" học tập trở về thất thơ thất thiểu, thiếu tự tin, hoặc vá xe đạp bên lề đường hoặc không dám nghĩ đến gì hơn là tìm đường thoát thân, hoặc rút mình thật nhỏ như con sâu dưới lớp lá trong rừng, lo sợ từng bước giày thợ săn nghiền nát không thương sót? Lấy cán bộ hống hách từ Bắc, từ rừng, túi tham ô tham nhũng dầy theo tuổi Đảng? Tụi này thà đói rách chứ không ham, không bao giờ! Tụi này sinh ra và lớn lên trong thời chiến tranh gái thừa trai thiếu, làm thiếu nữ trong cuộc đổi đời đã giết lần mòn chí khí trượng phu, cả những người thua trận và những người thắng trận.

Khi tôi nghe ai đó trong bà con truyền miệng nhau là mấy chị em con dì Hai trở ra Phan Thiết tìm đường vượt biên, tôi tìm cách liên lạc với các chị. Tôi "quen biết" nhiều mối mai có thể giúp các chị tìm đường thoát và kéo luôn tôi, con tôi. Tôi thiếu học, tôi là số không trong bất cứ xã hội nào, thời đại nào, tôi đã từ từ nhìn thấy tương lai của tôi, tôi không muốn con trai tôi xấu hổ vì tôi, tôi ao ước con trai tôi thành tài thành nhân. Cách duy nhất là trốn khỏi Việt Nam. Ở đó không ai biết đến tôi, tôi có thể bắt đầu từ trang giấy trắng.

Quả tình tôi không có ý lừa gạt, nhưng các chị làm lơ, làm lơ một cách tàn nhẫn những đề nghị của tôi, những mối mai tôi đưa đến. Tôi có thể bao bãi ở Vũng Tàu để các chị đưa người từ Sài Gòn ra chờ ghe từ Phan Thiết vào đón. Tôi có thể cung cấp hải bàn, thuốc men, chi phí từ lúc chuyến đi chưa thành hình, chấp nhận thua không điều kiện... Các chị lạnh lùng cứng rắn biểu tôi tự kiếm đường thoát. Các chị tàn nhẫn không cho tôi một cơ hội chứng tỏ lòng thành thực. Từ nhỏ đến bây giờ, có bao giờ tôi cố tâm hại các chị lần nào chưa? Những dối gian nho nhỏ vô thưởng vô phạt, những câu chuyện dựng đứng nếu có chỉ vì tôi muốn các chị nể tôi chút xíu, chỉ vì tôi muốn bao các chị đi ăn đi chơi cho tôi có bạn, cho tôi tự an ủi cái phận thua sút bạn gái cùng thời. Tính cho ra lẽ, tôi chưa hề hại ai gia tàn thân bại. Tôi chưa bao giờ đòi ông này bỏ vợ theo tôi, ông kia bỏ bê con cái.

Nghe tin các chị đã thoát, tôi hụt hẫng như mất một dây nối tôi từ vực thẳm lên với bờ cỏ trên kia, sợi dây nối tôi với một đời sống bình thường của con người bình thường. Từ đó, tôi dùng mọi thủ đoạn, mưa mô, ráo riết tự tìm đường thoát thân cho tôi và con trai tôi.


***

Ở trại tị nạn, con đường đi định cư nhanh nhất là có người bảo lãnh. Tôi không bỏ lỡ cơ hội. Khi là nữ sinh viên trường Luật ngày xưa, khi là nữ sinh viên trường Văn Khoa hồi trước, cha là công chức ở nha Y Tế nằm trên đường Trần Hưng Đạo góc Nguyễn Biểu, chồng là đại úy không quân tử nạn ở Đà Nẳng ngay những ngày cuối tháng tư... tôi bắt liên lạc qua mục tìm bạn trên báo, được vài anh đã du học lâu năm lưu ý. Cộng thêm lúc trước thường đến trường Luật ở Duy Tân, trường Văn Khoa ở Cường Để để rủ rê các chị đi chơi, tôi khá rành những hàng quán quanh trường, tôi biết chút đỉnh giờ giấc học bất thường tài tử của sinh viên, tôi biết tên vài thày giáo, biết thế nào là giảng đường... cộng tài thêm hoa thêm lá, những người đàn ông xa nhà thương nhớ quê hương cho là mình may mắn được quen với người thiếu nữ Sài Gòn đẹp sang, gia đình gia giáo, với chút học vấn trang điểm cho lý lịch. Sau thời gian trao đổi thư từ và dĩ nhiên là vô số hình của tôi vì đó ưu điểm tôi đang dùng. Đàn ông nào mà không bị sắc đẹp làm mù mờ trí phán đoán? Chỉ nửa năm sau là hai mẹ con tôi được bảo lãnh qua Canada trong diện đoàn tụ gia đình với một ông kỹ sư theo ông ấy kể là học ngày học đêm bảy năm trời mới xong, đang đi làm.

Có chồng là điều từ trước giờ tôi chưa hề dám ao ước. Dầu cho đó là người chồng do sự lừa dối đưa đến, dầu người chồng không phải là cha của con tôi, nhưng tôi cố gắng thu mình thật nhỏ, cố gắng tập làm người đàn bà nội trợ. Và dầu cho là con cá sấu lờ đờ sống trong vùng nước trong veo, tôi không muốn gì hơn. Từ từ, gia đình chồng ở Việt Nam không tìm ra sui gia ở Sài Gòn để được giao tế đúng phép. Mớ kiến thức mới học tới lớp đệ thất không thể sau vài tháng có thể nhảy vọt lên làm cô sinh viên Văn Khoa, cô sinh viên cố dấu nét ngơ ngác khi nghe đến tên nàng Kiều, nghe nhắc tới ngày giỗ Hai Bà Trưng, ú ớ tìm cách từ chối khi có người muốn giới thiệu vào sinh hoạt với anh chị em cựu sinh viên Văn Khoa Sài Gòn...

Người chồng với cặp kính dầy cộm vì phải cộng trừ nhân chia tất cả những biên nhận mua sắm hàng ngày của hai mẹ con tôi. Người chồng nhỏ thó ốm o không muốn tôi mang giày cao gót để làm tăng cái nhan sắc "như Tây" của vợ, đã từ từ nhận ra đôi chân từng đi trong bùn đất của người vợ con nhà gia giáo. Ông đưa tờ giấy ly dị biểu tôi ký. Dĩ nhiên với tiếng khả năng tiếng Anh chỉ trả lời được năm ba câu là phải dùng tay chân, tôi không biết gì về luật lệ chia của. Ông tìm cho tôi một chân công nhân ở một hãng may, mướn cho hai mẹ con tôi một căn nhà chung cư.

Dứt nợ! Tôi quen thói được đàn ông lo cho cái ăn cái mặc cái nhà cái cửa, những người đàn ông tiền rừng bạc bể, những người đàn ông kiếm ra tiền không bằng công sức học mười tám mười chín năm, không bằng mồ hôi ngày làm tám tiếng nên không hề biết đến tờ biên nhận mỗi món hàng tôi mua. Tôi không thể làm quen được sự kềm kẹp này, cháu Hưng không quen đi thưa về trình, hai người đàn ông không muốn nhìn mặt nhau. Con tôi là trên hết. Gia đình tôi ở không tồn tại lâu hơn hai năm. Tôi nhẹ lòng khi được tự do.

Cái lạ là đàn ông trong mọi hoàn cảnh, sau một thời gian cũng nhận ra được "tôi". Nhưng bây giờ tình thế thật khó khăn cho tôi. Đàn ông tị nạn Việt Nam đầu tắt mặt tối đi làm hãng xưởng, làm hai ca, đi có giờ, về có giấc, thời giờ đâu mà la cà quán hàng, cơ hội đâu mà đóng vai phong lưu. Càng tệ hơn nữa, những người đàn ông đã từng là tai-to-mặt-lớn ngày xưa thì lại càng khó tìm chỗ đứng trong đời sống lưu vong này, thì lại càng bi quan yếm thế. Theo kinh nghiệm cho thấy đàn ông Việt Nam trong đời sống lưu vong lại biết lo hơn hồi còn ở Việt Nam. Ở đây, nếu có vợ con thì lo làm lo để, nếu vợ con còn ở quê nhà thì lo làm lo gởi, chưa vợ con thì lo đi học lại...

Thật tình mà nói, tôi không còn thiết tha tung mây mù dẫn dắt đàn ông vào đường dối vợ chi cho lắm. Nhưng ngựa quen đường cũ, tôi cô đơn, tôi cần có bóng dáng người đàn ông lui tới, ít ra cũng có người nghĩ đến tôi, dầu chỉ là cái thân xác. Và cũng do mấy ông khi bắt đầu có tiền ra tiền vô, bắt đầu ngán người vợ quá tháo vát giỏi hội nhập với nếp sống mới, bắt đầu tự nhận ra vị thế đứng thứ hai của mình trong gia đình, tìm đến tôi để được cưng chiều, để được làm đàn ông. Nhưng số đàn ông này không nhiều lắm và sau vài ba năm, nhận ra dần dần cái nhan sắc ở tuổi vừa qua bốn mươi còn tươi đẹp là chỉ nhờ phấn son, nhận ra được môi trường ế ẩm này, tôi xoay qua môi trường khác.

Đàn ông bản xứ vờn tới vờn lui cũng dập dìu lắm. Nhưng tôi ngán đàn ông bản xứ như khi xưa tôi ngán các ông cán bộ, cũng hung hãn, cũng hấp tấp. Nhất là chuyện rượu chè, họ bắt tôi uống theo, làm như không có rượu thì họ không làm ăn gì nên nổi hay sao đó. Lại thêm chuyện ăn nói, mõi miệng mõi tay lắm! Về phần họ chắc từ từ họ nhìn thấy một khối óc thô sơ trong cái thân thể điêu luyện, cộng thêm thường bị mù đầu rối tóc vì thói quen lừa dối của tôi, cộng thêm tôi thờ con trai tôi, tất cả vì cháu. Không mấy người chịu dừng chân lâu.

Thời thế đã buộc tôi phải "lao động". Khó khăn! Nhưng cũng kham được. Cháu Hưng không phụ lòng mẹ. Cháu học không nhanh chóng như con nhà người ta, nhưng cháu cũng đã xong cao đẳng ngành kỷ nghệ nhẹ, đang làm việc ở Ottawa không xa thành phố Montreal của tôi bao nhiêu. Chịu khó làm việc, chịu khó dành dụm, tôi không cho cháu mượn tiền những năm học đại học, sợ cháu thiếu nợ, tội nghiệp, mua cho cháu căn chung cư làm căn bản lo cho vợ cho con sau này. Cháu không thường về thăm tôi nhưng tôi có cháu để làm điểm tựa cho tôi thêm mắm thêm muối, làm phong, lên mặt với người quen. Một thành công đúng như tôi ao ước khi tìm đường thoát thân: Con tôi đã thành nhân thành thân.


***

- Chị Phương phải không? Tui là Thúy đây.
- Xin lỗi, Thúy nào ạ?
- Hai Nụ đây chị Ba!
- Ủa, dì Hai Nụ đó hả? Tôi nghe nói dì có chồng, đang ở Canada phải không? Chồng dì là sinh viên du học hồi trước phải không? Dì có phước lắm đó nghen. Khoẻ không? Sao dì biết số điện thoại của tôi?

Tôi cảm động gần khóc khi nghe giọng mừng rỡ hỏi han chân tình. Nhất là khi chị Ba gọi tôi là dì Hai Nụ, dì của xấp nhỏ con chị, chị vẫn coi tôi như họ hàng thân thích. Cách xưng hô để tỏ lòng quí trọng nhau. Mười mấy năm trời nay! Dì Hai Nụ! Không ai gọi tôi một cách thân thiết, một cách họ hàng như vậy. Tôi lấp bấp:
- Kỳ rồi về Việt Nam, tui lại thăm dượng Hai dì Hai.
- Chồng dì, thằng Hưng bây giờ ra sao?
- Ông xã tui chức càng cao càng làm việc bù đầu bù tóc. Thằng Hưng là kỷ sư trưởng của hãng dệt ở Ottawa. Chị chỉ được hai thằng con trai thôi hả? Ông xã chị làm gì?
- Thày giáo, cũng công chức như người ta thôi. Hai vợ chồng công chức, sống tàm tạm, sống thoải mái. Dì Hai Nụ có đi làm không?
- Ông xã nuôi mà chị. Tui đâu có quen làm việc.
- Ở nhà đi ra đi vô, không con không cái chán chết, sao dì Hai Nụ không sanh cho ông xã vài đứa con?...
oc huong
#43 Posted : Sunday, May 13, 2007 1:58:07 AM(UTC)
oc huong

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 1,180
Points: 0

CON GÁI THÀY GIÁO LÀNG


Võ Thị Điềm Đạm






Mến tặng chị em

Lời người chị kể sau chuyến về thăm Việt Nam: "Má yếu lắm rồi nhưng đầu óc má vẫn còn nhanh nhẹn như xưa." Chị dùng chữ "nhanh nhẹn" làm tôi vừa buồn cười vừa thấm thía cách dùng chữ của bà chị một thời nổi tiếng nàng thơ ở trường Sư Phạm Sài Gòn. Không ai dùng chữ "nhanh nhẹn" để diễn tả khả năng làm việc của bộ óc con người. Bà chị này đã từng nổi tiếng (chỉ trong gia đình thôi!) về tài dùng chữ vừa mỉa mai vừa thật lòng, vừa bóng vừa thực, vừa diễu vừa nghiêm... Mà ngay chính chị cũng không có dụng ý, đến chừng thấy chị em cười nghiêng ngửa, chị mới vỡ lẽ... chị này hơi chậm tiêu!

Chữ "nhanh nhẹn" trong trường hợp này rất thích hợp. Má chúng tôi! Chúng tôi đã từng đi từ ngạc nhiên đến giật mình vì cách suy diễn nhanh chóng, cách làm bài toán cộng trừ nhân chia trong đầu thật nhanh và chính xác của một người đàn bà chỉ học hết bằng sơ lược tại gia. Bà Tư Bê, vợ ông chồng thông thái, má của lũ con bảy đứa, lũ con thường tự hào mình là cây toán trong lớp dù trai hay gái, đã từng cho chúng tôi đo ván về tài tính nhẩm.

Là con gái lớn của một thày giáo làng Đại Nẫm, Phan Thiết, người thày dạy chữ quốc ngữ đầu tiên của làng. Sau cậu Ba là má tôi, thứ Tư, tên Bê, dì Năm tên Xê và tiếp theo đó... hai dì út lại có tên thật mỹ miều so với những người nhà quê thời đó: Xuân Lan và Thu Cúc (Làn thu thuỷ, nét thanh sơn, Xuân Lan Thu Cúc mặn mà cả hai). Người con cả của ông bà ngoại đã mất từ nhỏ, không thờ cúng gì cả và cũng là đề tài cho chúng tôi tò mò bàn cãi:

- Không biết mình có cậu Hai hay dì Hai ha.

- Chị không logic chút nào hết.

- Hả?

- Tui chắc chắn là dì Hai.

- Ngon há, mi hỏi bà ngoại hả?

- Cần gì hỏi. Ông ngoại là thày giáo dạy chữ quốc ngữ đầu tiên ở làng. Để làm gương, ông ngoại đặt tên cho ba người con gái đầu lòng là A, Bê. Xê. Suy diễn ngắn đường cũng hiểu là mình có dì Hai và chắc chắn tên A chứ không phải cậu Hai.

- Thông minh! Có nghĩa là ông ngoại còn làm một cuộc cách mạng nhằm nâng cao kiến thức phụ nữ nước nhà. Đặt tên ba người con gái là A,B,C là có dụng ý chứ đâu phải ông ngoại quê mùa, nghĩ sao thì đặt tên cho con như vậy.

- Quê mùa sao được. Các cậu đều mang tên ngon lành, ai cũng Nguyễn Chánh...

- Má biết đọc biết viết là ngon hơn đa số phụ nữ thời đó.

- Má còn biết làm thơ nữa chớ bộ.

- Không những biết làm thơ mà còn thuộc nhiều thơ nữa.

- Ông ngoại ngâm thơ, đọc thơ cả ngày, không muốn cũng thâm vô từ từ. Tụi mình còn được thâm, huống hồ chi má.

- Mê hát bộ, mê cải lương, mê phim Ấn Độ, mê phim tình cảm Tàu.

- Có mộng cải tổ xã hội.

- Nếu mùa lúa năm đó ở Dinh Điền không bị "mấy ổng" tịch thu thì má đã thực hiện được lý tưởng nâng cao kiến thức cho đồng bào thiểu số ở một buôn Thượng. Má dự định sau mùa lúa là má sẽ cho xây một trường học rồi vận động ông quận trưởng quận Tánh Linh bổ giáo viên về dạy học cho người Thượng.

- Ưa thương vay, mang cực nhọc về nhà cho con cái. Có nhớ chuyện thằng Minh Teo không?

- Ừ, thấy con người ta èo uột, tám tuổi mà nhỏ như đứa trẻ lên bốn, cả ngày không nói một tiếng. Má quyết định đem về nuôi một thời gian, bắt tụi mình đút cơm, chuyện trò với nó, chơi với nó, đi chơi đâu cũng phải dắt nó theo....

- Coi vậy mà cũng có kết quả chớ bộ. Má sư phạm lắm, cho con nít chơi với con nít thì con nít mới phát triển bình thường. Nửa năm sau là nó chạy giỡn có thua gì tụi mình đâu, còn la to hơn nữa chớ. Chừng Ba Má nó xin nó về, nó khóc, nó la... Vậy mà bây giờ học lớp đệ thất trường Phan Bội Châu, ngon lành như ai chứ bộ.

- Nhớ cái áo ấm màu nâu đẹp thiệt đẹp dì Bảy tỉ mĩ đan cho tui trước khi dì theo dượng Đệ đi tập kết không?

- Ờ, bữa tối đó tui cũng run gần chết. Đang đi, bả ngồi bệt trước nhà mình, máu me tùm lum. May mà có má ở nhà. Má đem vô nhà, cắt nhao, tắm rửa, cho em bé bú sữa, rồi lấy cái áo ấm kỹ niệm của dì Bảy, bọc thằng nhỏ, cho nó luôn cái áo.

- Cái áo ấm đẹp thiệt là đẹp.

- Đến giờ mi còn tiếc sao?

- Tui có tiếc bao giờ đâu, tui phục má lanh trí cứu người, thương người.

- Má còn bao bộc nuôi dưỡng bà Hai Mù vì bà không có con cháu, cho đến khi bà chết.

- Tui là chuyên viên tiếp tế gạo, nước mắm, than củi... cho bà Hai Mù đây chớ ai.

- Có máu làm cách mạng.

- Tại mê ba, ba bỏ về thành, làm má phải theo, nhưng trong bụng còn ấm ức lắm, kể chuyện trong chiến khu hoài.

- Bởi vậy mới bị "mấy ổng" lừa cho một trận, thâu mua hết trơn mùa gặt năm đầu ở dinh điền Tánh Linh rồi chỉ trả bằng tờ giấy chứng nhận.

- Bao nhiêu vốn liếng tiêu tan, nợ nần chất đống. Tụi mình cũng lao đao nghiêng ngửa theo. Có khi nhà ăn cơm với cá nục kho và canh bí rợ suốt mùa, ngán tận cổ.

- Nếu không vì ba chị là má đi tập kết hồi năm năm mươi tư mất tiêu rồi.

- Thì tui được bú sữa Gi-Gô

- Ở đó mà bú sữa Gi-Gô. Bú nước cháo pha đường cho lớn không nổi luôn. Một mình ba làm sao nuôi nổi ba đứa con thơ con dại.

- Thì đâu có thằng con trai đầu to lưng bự, tay chưn thòng lòng.

- Ba ém tài má.

- Hay là ba có khả năng dung hoà được cái máu làm cách mạng và máu nghệ sĩ của nhà ngoại trong má, biến thành máu kinh doanh, máu cầu tiến.

- Lý thuyết này nghe sao mơ hồ, không có căn.

- Má có máu kinh doanh nhưng không có máu bà nội trợ đảm đang như dì Năm, dì Bảy, dì Chín .

- Quần áo chồng thì bỏ tiệm giặt ủi.

- Nấu ăn cũng không điêu luyện.

- Không biết thêu thùa đan may như mấy dì.

- Cần gì làm bà nội trợ đảm đang. Có người làm, có thì giờ dẫn con đi coi xi nê, đi coi cải lương... và có thì giờ làm thơ... bắt con cháu học thuộc. Đứa nào thuộc một bài thì cho tiền.

- Có thì giờ mê đánh bài tứ sắc nữa chớ.

- Cũng lạ há! Ba với má mỗi người một tánh, một đam mê, thế mà sống thiệt là thuận hoà. Người thì cầu an sống đời công chức, chỉ biết vui thú với sách báo, bàn cờ. Người thì xông xáo ngoài thương trường, không bao giờ chịu bằng lòng với công ăn chuyện làm đang có, lúc nào cũng tìm cách cải tiến, đổi mới.

- Bởi vậy nhịp sống kinh tế nhà mình lên dốc xuống dốc đều đều, làm cuộc sống tụi mình cũng lao đao theo mà má là chủ chốt.

- Nhưng có khi nào mi xin tiền mua sách, mua truyện, đóng tiền học thêm, đi xi nê... mà má không cho chưa? Dầu cho nhà đang hồi thất bại. Má chịu chơi ở chỗ đó.

- Má còn có mộng cho con học cao nữa chớ.

- Ba học cao hơn má nhưng không có mộng cao bằng má. Đứa thì má muốn cho học dược sĩ để mở tiệm thuốc tây, đứa thì học bác sĩ để mở phòng mạch, đứa thì học làm giáo sư để mở trường học... bất kể gái hay trai.

- Má có ý định đầu tư vô lủ con mà. Không biết ai sẽ đạt được ước nguyện cho má đây, không phải tui à nhen.

- Tui thấy má tiến bộ lắm về phương diện nam nữ bình quyền.

- Cái này ta nghĩ má bị ảnh hưởng ông ngoại, ba mình. Con gái nhà ngoại ai cũng được cho đi học đâu có thua gì con trai.

- Ngoại trừ má vì má là con gái lớn, phải phụ bà ngoại buôn bán.

- Còn chủ trương của ba là "nhất nghệ tinh, nhất thân vinh", dù trai hay gái đều phải có một nghề để tự nuôi thân, nhất là con gái, sẽ không bị lệ thuộc vào chồng. Mình có bao giờ nghe ba hay má nói "con trai của mình...." lần nào đâu.

- Bởi vậy ông Hoàng, con trai trưởng mà không được ưu tiên cái gì hết. Nhóc Hưng nhà mình cũng đâu có được cưng chiều hơn ai.

- Mà lạ lắm nghen. Tui để ý thấy ba không bao giờ chở má đi dạo trên cái xe mô-bi-lếch cà bịch cà tang của ba há!

- Không đi chung chớ nói chi đi dạo chung.

- Vậy chớ mi có thấy vợ chồng bác Chỉnh, vợ chồng chú Sáu Sang, vợ chồng cô Ba, có ai đi chung nhau ra đường lần nào chưa?

- Hi...hi... chắc thời đó còn mắc cỡ.

Má chúng tôi đại khái là như vậy đó, người đàn bà phong phú đa tài đa dạng, nhất là óc tổ chức và tài suy diễn, tính nhẩm. Cái tài tính nhẩm thần khốc, đã từng cho lủ con giỏi toán, ông chồng thông thái đo ván.

Công việc mua lúa từ xe này đến xe kia ("Xe" là đơn vị để chỉ số lượng lúa, chừng một trăm giạ thì phải, khoảng tám bao bố), trử lúa ở nhà máy để xay gạo bán dần quanh năm, tính toán lời lãi để định giá lúa, giá gạo... thế mà bà không hề dùng bút giấy.

Đong lúa xong, nhà một nông dân ở Ngã Hai, bà bắt đầu tính cho nhà nông:

- Một xe giá ba ngàn sáu, năm nay nhà chú được hai xe bốn chục giạ, vị chi là... ba ngàn sáu, ba ngàn sáu, ba trăm sáu, ba trăm sáu, ba trăm sáu, ba trăm sáu...

Trong khi anh con trai của chú thím nhà nông tìm giấy viết, chưa kịp ghi thì bà nói:

- Tám ngàn sáu trăm bốn chục. Chú thím mượn trước hai ngàn rưỡi, còn lại sáu ngàn một trăm bốn chục.

Chú thím nhà nông nhìn, chờ cậu con trai thông thái loay hoay tính, mười phút sau, gật đầu.

Mỗi tối, chị em chúng tôi thường quây quần ở nhà trong vì phòng này rộng, thoáng mát, đủ chỗ cho bộ ván ngựa, cái giường, cái bàn ăn, cái võng vải bố... cả chỗ giặt đồ và hồ nước. Người nằm trên bộ ván gõ đọc truyện, người đu đưa chiếc võng hát vu vơ, người ngồi co rút chân ở góc gường đọc truyện hình, vài ba người chơi cờ cá ngựa... Ba ngồi dựa lưng ở cái ghế bố đọc báo, má ngồi bệt ra nền nhà xi măng soạn vá mấy cái bao bố để ngày mai xay gạo ở nhà máy lớn. Chị Hai Cao đang bớt lửa nồi chè đậu xanh hột nấu với đường tán ở phía sau bếp. Con Tư ngưng đọc truyện hình, nói trống không:

- Lạ há, má với chị Ba cùng tuổi con rồng, cách đây mười hai năm, hồi má mới sanh chị ba, tuổi má gấp tuổi chị Ba hai mươi bốn lần. Bây giờ mười hai năm sau, tuổi má chỉ gấp ba lần tuổi chị Ba.

Chưa ai kịp nuốt trôi ý tưởng bất chợt khá rắc rối của con Tư thì má lên tiếng:

- Mười hai năm sau, tuổi má chỉ gấp hai tuổi con Ba thôi.

- Hở ?

- Hả ?

- Ờ há !

Ba cười cười, tiếp chuyện:

- Theo cái đà này, mười hai năm sau nữa, má mày bằng tuổi con Ba.

- Ông nói sai bét. Chừng đó tuổi tui gấp năm tuổi con của nó.

- Trời ! ! !


Và óc tổ chức thì cho đến nay tôi vẫn tự phụ là tháo vát những lúc gia đình có tiệc tùng, những lúc nhận chịu trách nhiệm tổ chức này nọ ở sở làm..., nhưng so với má tôi, trong thời buổi không có điện thoại, không tự lái xe, không có chuyện đặt hàng, bà có bảy đứa con, tôi chỉ có hai nhóc tì..., tôi thua xa Bà. Cứ mỗi dịp Tết, đám giỗ ông nội bà nội là chúng tôi phải phục má, ba tôi cũng vậy. Từ khi bà nội mất, ba tôi lãnh phần cúng giỗ. Tiếng là ba tôi nhưng má tôi lãnh trọn bộ, hình như ba không đụng tới móng tay, chỉ tiếp trà các ông các bác từ Đại Nẫm xách dù xuống ăn giỗ nhà tôi và trong bụng bao giờ cũng chờ một gói xôi vị nếp than đặc biệt do má tôi nhét vô giỏ làm quà buổi chiều trước khi về. Mỗi lần có giỗ, giỗ ông nội, giỗ bà nội là má tôi chuẩn bị một cách âm thầm đủ mọi thứ, nếp, rượu nếp, đậu, mượn người nuôi heo chia đôi từ sáu tháng trước, gà vịt mua về nuôi cho mập cả mười ngày. Trước ngày cúng tiên, mấy người mối lúa của má tôi từ Ngã Hai, Phú Hội mang trái cây, rau cải, bông hoa... để từng rổ ở nhà sau, như má đã đặt từ lâu. Tiệc giổ năm nào, bà con nội ngoại từ Đại Nẫm, láng giềng hàng xóm làm đầy dãy bàn ngoài phòng khách, hai bộ ván và bàn ăn nhà sau.


Còn Tết thì khỏi nói. Mọi sự được chuẩn bị chu đáo, bánh tráng, nếp nổ, rượu nếp than, heo nuôi chia, gà vịt... rộn rịp từ giữa tháng chạp... cho tới những phong bì lì xì lớn nhỏ theo tuổi cũng đã được nằm sẵn trong túi áo má tôi trước ngày mồng một. Quần áo mới cho chúng tôi cũng được đặt may cùng lúc, cất trong tủ, từ tháng mười một. Cúng giao thừa xong thì coi như chỉ việc ngả lưng ăn tết. Bánh, mứt, cốm, măng kho, thịt kho, bánh tét, củ cải chua, củ kiệu chua, rượu nếp than, cơm rượu, cây mai, chậu cúc, chậu vạn thọ... đâu ra đó, tươm tất cho đến mười giờ khuya đêm ba mươi bà mới yên tâm ngủ để chờ cúng giao thừa. Không những sắp xếp từ trong ra ngoài cho cái gia đình với lủ con bảy đứa, cộng thêm vài đứa cháu, má tôi còn chu cấp cho nhà nội, nhà ngoại món này thứ kia để ăn Tết. Ngay cả tiền cho ông ngoại đánh bài mấy ngày Tết, năm nào cứ đến trưa ba mươi là má tôi sai chị Ba đạp xe đem lên cho ông có mà vui chơi.


Trước ngày khai trường mỗi năm chừng nửa tháng là tập vở đã được chất từng chồng cao trên bàn học chung. Mỗi đứa hai bộ quần áo mới để đi học, một bộ để bận ở nhà đã được đặt may cùng lúc.


Mùa Tết Trung Thu thì dây sóng lá, hồ, giấy màu... một chiều nào đó được má bày trên bàn học, thế là cả tuần đó tụi tôi mặc sức mà trổ tài làm lồng đèn. Năm nào má tôi cũng hợp tác với gia đình chú sáu Sang, bác Sắc để lũ con nít chúng tôi gần hai chục đứa cứ đến đêm Trung Thu sau khi đi diễn hành lồng đèn với trường ở vườn bông lớn, tụ họp lại để được chia bánh kẹo và một màn văn nghệ bỏ túi do lũ nhỏ chúng tôi tự biên tự diễn với sự khuyết khích của người lớn đang ngồi uống trà ăn bánh trung thu, loại bánh đắt tiền nên chúng tôi mỗi đứa chỉ được một góc tư cái bánh.


Đó là những chuyện lớn. Còn biết bao chuyện nhỏ hàng ngày trong gia đình mà má tôi, một người rất bận rộn ngoài thương trường, đều được má chuẩn bị đâu ra đó. Không biết má tôi có hiểu thấu đáo chữ "tập thể" hay không nhưng mọi sinh hoạt gia đình tôi đều mang bóng dáng tập thể, có lẽ vì con đông, má tôi bận rộn mà lại rất chu đáo, nên phải làm chung được cái gì thì làm. Ngay cả chuyện đánh đòn, tụi tui cũng bị ăn đòn tập thể, lủ con nhớ đời. Nghĩa là một ngày đẹp trời nào đó, má kêu sáu đứa con lên nằm xếp hàng trên bộ ván gõ ngoài phòng khách, mặt úp xuống. Má bắt đầu nhịp nhịp cái roi, với giọng thật bình tĩnh ngọt ngào, bà kể tội từng đứa, răn dạy kèm theo vài cái roi làm đứa nào đứa nấy nước mắt ròng ròng mà tai thì vễnh nghe lời kể tội hấp dẩn cho "nạn nhân" kế tiếp, ngay cả "nạn nhân" cũng không nhớ là mình bị tội gì. Đánh đòn chung cho đỡ mất thì giờ và chắc cũng để nhắc nhở lũ con cái quyền lực của bà, vì công ăn việc làm, bà phải giao hết chuyện ăn học, giáo dục lũ con cho ba tôi. Biết bao nhiêu chuyện.... Khả năng tổ chức của bà được thi thố từ ngày thường cho tới ngày giỗ, ngày Tết, lễ hội...


Có một điều làm tôi bận tâm nhất khi tôi đã làm mẹ, biết chăm sóc cái gia đình nhỏ bé của tôi, là nhớ lại những lần ba dẫn chúng tôi đi chơi hoặc ở Đá Ông Địa, hoặc ở Rạng, không bao giờ có mặt má tôi. Lúc đó chúng tôi coi đó là một điều tự nhiên.


Sáng chủ nhật đẹp trời nào đó, ba tuyên bố buổi nay cho mấy đứa nhỏ đi tắm biển ở Đá Ông Địa. Thế là chúng tôi rộn rã thay cái quần phồng, hai chị lớn thì mặc thêm áo cánh ở trong. Má tôi mướn xe lam từ lúc nào không biết, xịch xịch đậu trước nhà, chúng tôi dành nhau ngồi ngoài, không ai quan tâm là má có đi hay không. Buổi trưa, tắm, chơi, rượt bắt cua bắt còng đã đời, chị Hao Cao dọn cơm vắt ăn với muối mè hay thịt ram mặn.


Món cơm vắt của má tôi lúc bấy giờ ngon không thể tưởng. Món này bao giờ cũng tự tay bà làm. Cơm gạo dẻo có trộn chút muối, một cái khăn trắng mỏng đủ ướt. Bà trải khăn ra mâm, đổ cơm nóng lên khăn, cuốn nhanh lại, dằn, bóp chặt cho đến khi ổ cơm vắt tròn đều dài độ gang tay, đường kính độ sáu centimet. Mỗi ổ bánh được gói chặt bằng lá chuối đã được hơ nhanh qua bếp nóng. Đến chừng ăn thì cắt ra từng lát như bánh tét. Đôi lúc, bà nổi hứng, bà vắt cho mỗi đứa con một vắt, gói riêng cho từng đứa. Đó là lúc chúng tôi sung sướng nhất khi được chị Hai Cao đưa chia những ổ cơm vắt nho nhỏ xinh xinh, chỉ của riêng mình.


Ăn ngon, tắm mát, đùa giỡn thoả mãn nhưng không ai trong chúng tôi thắc mắc là: Má đâu? Sao má không ra đây nghỉ ngơi như chị em mình, như ba? Má không cần những ngày nghỉ ngơi sao? Mặc dù mọi việc đều do bàn tay sắp xếp của má! Âm Thầm! Làm sao má chúng tôi có thì giờ tham gia vào những giây phút vui chơi của các con? Cả ngày! Nhưng mọi điều kiện để cuộc vui được toàn mỹ đã do má tôi chuẩn bị chu toàn. "Lòng Mẹ" của bà là thế đó! Một đề nghị của ba tôi dành cho lủ con là bà nhanh chóng chuẩn bị, hưởng ứng hết lòng... chỉ cần giúp lũ con học giỏi thêm, tẩm bổ đầy đủ hơn, vui chơi thoải mái hơn, phát triển toàn diện hơn là bà không ngại khó nhọc, không ngại tốn kém.


Sau năm bảy mươi lăm, chỉ là một công chức nhỏ, ba chúng tôi không phải đi ở tù như những người khác, nhưng ông xin nghỉ việc, không muốn cộng tác với chính quyền mới. Với ông chồng chán thời, với lũ con học hành bấp bênh, má chúng tôi một mình lèo lái nhịp sống gia đình trong cơn sóng gió chung của toàn miền Nam. Mặc cho ông chồng mang nặng tư tưởng phản động tránh né chính quyền, tránh né hội họp. Mặc cho lũ con bất bình ngấm ngầm chống đối, tưởng không thể đội trời chung với quan thày Cộng Sản. Một mình má tôi bắt tay làm hoà với những hống hách theo thời của người hàng xóm bỗng chốc trở thành tổ trưởng, tổ phó. Một mình bà thu xếp trả công cho hàng xóm đi làm thuỷ lợi thay lũ con sáu đứa. Một mình chạy chọt cho thằng con trai út không bị đi nghĩa vụ qua Campuchia...


Má chúng tôi âm thầm ôm nỗi buồn thế sự của ông chồng đã một mình về quê dùng bàn tay thư sinh biến ruộng hoang thành mảnh vườn làm căn bản cho lũ con tìm đến nương thân khi tình thế đi vào đường cùng. Âm thầm cưu mang những ý tưởng phản động ngấm ngầm của lũ con trước bao bất bình. Âm thầm tìm mọi phương cách chống đỡ, xoay trở, bao che để chồng mình, con mình không phải trực tiếp đối đầu với chính quyền mới.


Sống với Cộng Sản, sống với bất bình, gây gổ với cấp trên, chống đối, cứng đầu,... chẳng làm được gì, chẳng dám có ước mơ vượt biên như mọi người vì lũ con hiểu rõ hoàn cảnh kinh tế gia đình. Để rồi một cuối tuần, lũ con như thường lệ, về nhà để được tẩm bổ, bà tuyên bố: "Má lo được một chỗ đi vượt biên, các con ai muốn đi trước? Đi được một đứa là lần lượt đứa này lo cho đứa kế."


Chuyến đó không thành, nhưng ý tưởng vượt biên tìm đường thoát đã mở đầu cho chục chuyến về sau, bao nhiêu vốn liếng làm ăn của bà mất hết đợt này sang đợt khác. Cuối cùng thì lũ con trốn thoát. Lũ con ra đi, không một quay lưng nhìn lại để nhận mang theo hình ảnh má mình đứng dựa gốc cây me nhà ngoại, cố nhón chân nhìn theo bóng ba đứa con gái mất dần mất dần trên đường xuống bãi chiều hôm đó, mất và không bao giờ còn gặp được nữa. Lũ con ra đi không một vấn vương về sự mất mát đớn đau mà ba má mình sẽ nhận chịu.


Bây giờ, trong những lần quay quần bên nhau đốt lò hương cũ, nhìn lại những sinh hoạt trong cái tiểu gia đình của chính mình, chị em chúng tôi thường lắc đầu bái phục má chúng tôi, thắc mắc không hiểu làm sao bà có thể đảm đương nhiều chức vụ cùng một lúc: Bộ trưởng bộ Kinh Tế, bộ trưởng bộ Ngoại Vụ, bộ trưởng bộ Nội Vụ, bộ trưởng bộ An Sinh, bộ trưởng bộ Y Tế, bộ trưởng bộ Xã Hội.... Ba tôi tiếng là thủ tướng nhưng chỉ được tài đề ứng, tài bàn... sau đó là má tôi lãnh hết, thu xếp hết, không cần bàn tới bàn lui, trong sự tin tưởng tuyệt đối của thủ tướng và toàn dân. Hai cánh tay vươn những ngón thon dài của bà vẫn mãi mãi cố gắng thu xếp mọi ước muốn nhỏ lớn của lủ con đã thành gia thất, sống xa bà ngàn dặm, cho đến ngày hôm nay, mọi sự. Thế mà chúng tôi, không ai thực hiện nổi, không ai cố gắng tận lòng để những ước mơ của bà được hoàn mỹ, không ai thành bác sĩ, dược sĩ, giáo sư để bà mở phòng mạch, tiệm thuốc tây, trường học.


Sống trong ngành giáo dục lâu năm, tôi mới nhìn nhận rằng má chúng tôi là một nhà giáo dục thật là thực tiễn, không cần tốt nghiệp một trường Sư Phạm nào, không cần nghiên cứu, không cần tham khảo một quyển sách nào. Cùng với chồng, bà biết tạo đủ mọi điều kiện để lũ con được lớn lên trong không khí gia đình thuận hoà êm ấm, tuổi trẻ phát triển vững bền và tự tin, một nền tảng căn bản cho mọi đứa trẻ bất cứ giàu nghèo.


Bà không giỏi đan thêu, bánh mứt, nhưng chúng tôi, bốn người con gái của bà khéo léo chuyện nội trợ không kém một người bạn nào. Học nữ công ở trường, học lóm bạn bè, học qua dì Chín, chúng tôi muốn làm món bánh, đan cái áo, thêu cái khăn bàn, móc cái màn cửa, may cái áo kiểu mới... chỉ cần xin tiền là bà sốt sắng cho, không hỏi tới hỏi lui. Tôi nhớ hồi năm học lớp chín, tôi mới học may trong những giờ nữ công với cô Nhan, tôi tìm lục trong tủ ra một sấp vải má tôi mua để dành may áo Tết. Tôi loay hoay cắt may một cái áo bà ba cho má, vạt áo dĩnh ra ngoài, cỗ áo chật phải sửa tới sửa lui thành rộng tênh... vậy mà bà mua thêm hai xấp vải nữa biểu tôi may cho bà. Quả thật, đến cái áo thứ ba thì áo đẹp không thua gì đưa tiệm may. Và tôi trở thành thợ may của gia đình, đồ bộ, áo dài, quần tây, pyậm... cỡ nào tôi cũng thử tài, xấu có, đẹp có, nhưng ai ai cũng thoả mãn. Kinh tế gia đình có xuống dốc đến độ nào đi nữa thì cái máy may hiệu Singer bao giờ cũng hiện diện trong gia đình chúng tôi. Sau năm bảy mươi lăm, tình hình kinh tế cả nước xuống tận cùng, nhờ cái khéo léo may vá tự học và cái máy may Singer, có lần tôi dự định mở tiệm may kiếm sống qua ngày. Cái khéo léo của chị em chúng tôi không do má dạy bảo nhưng do má tạo điều kiện tốt để phát huy và phát triển.


Có một lần, tôi và người chị kế than với nhau:

- Bác Chỉnh gái ở nhà, tụi Minh Thảo, Minh Thu, có chuyện gì cũng hỏi ý má nó. Bà Minh Thảo rả đám với bồ, bác Chỉnh gái dỗ dành. Má mình đâu có thì giờ như vậy.

- Còn Thím Sáu Sang thì đan thêu thiệt đẹp. Ước gì mình cũng có một người mẹ khéo léo, thân mật lo cho con như vậy.

Thật bất công với má tôi! Chúng tôi không biết rằng thím Sáu Sang khéo léo đan thêu nhưng hai người con gái của Thím chẳng quan tâm gì đến chuyện nữ công gia chánh, vua diện của phố Ba Mươi Căn. Thím khéo nhưng thím không tạo điều kiện cho con cái học hỏi, tập tành. Chúng tôi không quan tâm đến cảnh vợ chồng bác Chỉnh gây gổ nhau ngày này qua ngày kia đến nổi tụi con bác phải qua chơi lì nhà tôi, không muốn về nhà. Tụi nó đâu được má nó dẫn đi xi nê, đi coi cải lương. Đâu được má nó cho đi Sài Gòn chơi, lên dinh điền Tánh Linh nghỉ hè, lên Ma Lâm nghỉ hè,... hưởng những mùa hè tràn ngập tiếng cười trong tình thương gia đình, khi ở núi rừng Núi Ông Tánh Linh, khi ở miền biển ngọt Hoà Đa. Đâu được má tìm đủ mọi cơ hội để lũ con có một tuổi thơ hoa mộng bình an... ngay cả những khi nền kinh tế gia đình đang xuống dốc trầm trọng. Tôi tin là những người con của chú thím Chỉnh không ai học hành tới nơi tới chốn, người bỏ đi tu, người uống thuốc độc tự tử hụt, người thất tình bỏ nhà ra đi, vợ chồng đổ vỡ vì tuổi thơ của họ không được lót bằng hoa thơm, bằng sự bình an tâm tư.


Như thế đó, hợp tâm với chồng, má tôi đã cho chúng tôi một tuổi thơ an bình, chúng tôi được nuôi dưỡng bằng tình thương chân thật và tận tuỵ. Chúng tôi tin tưởng rằng tình thương chân thật và tận tuỵ chúng tôi được thừa hưởng đó, là một gia tài to lớn vô hình, vô giá, làm hành trang cho cuộc đời chúng tôi. Những người con của Ông Bà đang cố gắng san sẻ cái diễm phúc đó với cái gia đình nhỏ bé của mình để tuổi thơ của các con cũng được lót bằng hoa thơm. Thật đúng như Sidney Hái đã nói: "Ngoài những lề lối, nề nếp sống ra, kỷ niệm đẹp (tốt) là những gì tốt nhất, ta có thể truyền đạt cho con cháu". Và thành ngữ "đồng vợ đồng chồng tát biển Đông cũng cạn" cũng rất đúng trong nhịp sống gia đình chúng tôi. Vợ chồng đâu cần phải có chung sở thích, học vấn đâu cần phải ngang ngữa nhau... chỉ cần đồng tâm đồng lực, đi cùng hướng thì khó khăn nào cũng vượt qua được.

Võ Thị Điềm Đạm
NhânSinhNhưMộng
#44 Posted : Thursday, July 12, 2007 3:25:03 AM(UTC)
NhânSinhNhưMộng

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 163
Points: 0


Chị OH ơiRose,

bõ công Chị kỳ hò chỉ cho Em...giờ em cũng pha được trà, cắm được một bình hoa thật đẹp mang vào tặng Chị rồi này.
.

Cám ơn " Mai Nở Miền Tuyết Trắng" mà Chị đã tặng cho Em. NH đã mang theo và đọc trên đường bay từ Paris về nhà.Thấy đường về bớt dài hơn....còn mang theo cả vào trường đọc những lúc nghỉ trưa nữa...thật tuyệt Chị ạ.Rose.
Bạn bè ngó vào hỏi " sách NH hả, sách NH hả " Em bảo không...đó là chuyện....của một nhành mai xứ Bắc Âu đấy.

Thương chúc Chị luôn an vui, hạnh phúc, luôn dồi dào sức khoẻ để lấy sức viết tiếp nhéheartRose.

NH.
Binh Nguyen
#45 Posted : Thursday, July 12, 2007 12:55:13 PM(UTC)
Binh Nguyen

Rank: Advanced Member

Groups: Registered, Editors
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 4,945
Points: 1,581
Location: Đông Bắc Gia Trang

Thanks: 1 times
Was thanked: 36 time(s) in 35 post(s)
quote:
Gởi bởi NhânSinhNhưMộng


Chị OH ơiRose,

bõ công Chị kỳ hò chỉ cho Em...giờ em cũng pha được trà, cắm được một bình hoa thật đẹp mang vào tặng Chị rồi này.

Thương chúc Chị luôn an vui, hạnh phúc, luôn dồi dào sức khoẻ để lấy sức viết tiếp nhéheartRose.

NH.




Chị Nhân Sinh Như Mộng ơi, Bình gởi PM cho chị, mà không thấy chị trả lời. Chị check lại giùm Bình nha.

BN.
NhânSinhNhưMộng
#46 Posted : Friday, July 13, 2007 10:38:04 PM(UTC)
NhânSinhNhưMộng

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 163
Points: 0


[/quote]

Chị Nhân Sinh Như Mộng ơi, Bình gởi PM cho chị, mà không thấy chị trả lời. Chị check lại giùm Bình nha.

BN.
[/quote]

_______

Chào Chị BìnhNguyên,

mong chị thông cảm cho sự hồi âm chậm trễ này của NS nhé. NS vừa mới hồi âm thư Chị rồi. Chị check PM nhé.

NS.
Binh Nguyen
#47 Posted : Friday, July 13, 2007 11:16:40 PM(UTC)
Binh Nguyen

Rank: Advanced Member

Groups: Registered, Editors
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 4,945
Points: 1,581
Location: Đông Bắc Gia Trang

Thanks: 1 times
Was thanked: 36 time(s) in 35 post(s)
quote:
Gởi bởi NhânSinhNhưMộng




Chào Chị BìnhNguyên,

mong chị thông cảm cho sự hồi âm chậm trễ này của NS nhé. NS vừa mới hồi âm thư Chị rồi. Chị check PM nhé.

NS.





Chị Nhân Sinh ơi,

Thấy rồi, đọc rồi, trả lời rồi, gởi lại bài luôn rồi. Chị nhớ check cả hộp thơ thường nhé!

BN.
oc huong
#48 Posted : Saturday, August 25, 2007 11:41:03 AM(UTC)
oc huong

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 1,180
Points: 0

Em Xinh Như Mộng ơi...
Đến giờ này mà bình bông vẫn còn tươi... chờ chị ngắm đó mà!

Lâu quá không lên bài nên đâu biết mình được tặnghoa. Kisses
Tím với vàng đẹp quá!
Vui nhá!
Chị OH
oc huong
#49 Posted : Sunday, March 23, 2008 2:32:16 AM(UTC)
oc huong

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 1,180
Points: 0

TẾT MẬU THÂN, TỪ MỘT GÓC PHỐ

Võ Thị Điềm Đạm


Cuộc chiếc kéo dài gần mười năm như chìm quên hẵn trong những ngày thành phố Phan Thiết rộn ràng đón xuân về. Nhất là nơi lòng những đứa trẻ tuy được sanh ra và lớn lên với cuộc chiến, những đứa trẻ dầu có bà con tham gia cả hai đầu chiến tuyến, thì chiến trận thỉnh thoảng nghe đến này, hoàn toàn vắng bóng trong tâm trí luôn bận rộn với hương thơm bánh mứt, với cảnh chợ đêm ngày càng đông rộn và nhất là nỗi mong chờ anh chị đi học hay đi làm tuốt trong Sài Gòn về nhà ăn Tết.

Sau tiệc Tất Niên, cũng là ngày cúng đưa Ông Táo về Trời, được nghỉ học, những đứa trẻ phố Ba Mươi Căn chiều chiều rong chơi ngoài đường để được hòa mình với quanh cảnh nhộn nhịp chuẩn bị Tết của con đường Hải Thượng Lãn Ông. Không làm gì hết! Chỉ ngắm, trầm trồ, đánh giá và rộn vui trong quang cảnh tất bật mà hân hoan của người lớn. Đường Nguyễn Hoàng, Trần Quý Cáp, Lương Ngọc Quyến, Hải Thượng Lãn Ông là những con đường nối liền thành phố Phan Thiết với các làng quê Lại An, Phú Long, Ngã Hai, Xuân Phong, Đại Nẫm, Phú Hội… đó là những con đường nhộp nhịp nhất vào mùa Tết. Xe đạp chất những cành mai mang đầy mầm nụ còn ửng xanh. Chậu hoa cúc, thược dược, vạn thọ… sắc màu rực rỡ chất đầy xe ngựa, xe lam và hai đầu thúng kéo cong cái đòn gánh nhịp nhành theo bước chân các dì, các chị. Cam, bưởi, quýt, chuối… tươi mát mượt mà xếp ngay ngắn trong hai đầu thúng làm trĩu nặng bước chân chị thôn nữ.

Hôm nay đêm 27, bà Tư Xuân vừa xay xong phiên lúa cuối năm, hai túi áo lót phía sau cánh áo bà ba dầy cộm nên lủ con được phát tiền đi chợ đêm. Đường xá càng đông, nỗi mong chờ được tiền đi chợ đêm càng thôi thúc, nên vừa được tiền là hai chị em Thi và Thông đèo nhau trên chiếc xe đạp màu bạc thẳng đường Hải Thượng Lãn Ông, tới ngả tư Kho Bạc, quẹo phải.

Thi nhảy xuống, phụ đẩy cho Thông gồng sức đạp lên dốc cầu. Cầu gỗ lỏng lẻo, bánh xe đạp tưng tưng, chưa kịp ê mông thì Thi lại gồng hai tay giữ chặt yên xe khi Thông gát chân lên sườn xe thả nhanh xuống dốc cầu. Vèo một cái là Thi và Thông đã bỏ lại sau lưng tiệm vàng Thành Kim, tiệm sách Vui Vui và nhiều tiệm nữa nằm dọc dốc cầu.

Gởi xe đạp ở rạp ciné Bình Thuận ngay ngã Năm Quốc Tế, Thi và Thông, mỗi người một nẻo, len lỏi theo dòng người từ đầu đường Gia Long, con đường chính của phố Phan Thiết, con đường tập trung những tiệm hàng quan trọng. Thường ngày, đây là đường một chiều. Khoảng một tuần lễ trước Tết, chợ đêm được nhóm họp ở từ đầu vườn bông cho hết con đường Gia Long nên xe cộ bị chận để nhường chỗ cho hai dãy hàng xạp đâu lưng nhau, nằm giữa.

Dùng cây kim băng má đưa, Thi cài cẩn thận nấp cái túi quần bộ đồ màu tím xậm điểm hoa trắng nhỏ li ti. Không chắc lắm, thỉnh thoảng Thi rờ cái túi nhỏ bên hông bụng, rờ coi tờ giấy bạc má mới cho còn nằm đó không. Mắt ngắm nhìn hàng quán, đầu Thi tính toán, cân nhắc, so đo và ước mơ…

Mơ… Cái bóp nylon màu xanh có hình cô gái cười thiệt đẹp bên ngoài, mở ra có ít nhất bốn ngăn và phải có ngăn plastis trắng trong để bỏ tấm hình đã được cắt từ báo Thế Giới Ngày Nay của ba. Cái khăn mù xoa màu trắng, thêu viền chung quanh và cành hoa in ở góc. Cây viết nguyên tử giống của nhỏ Thanh được người cậu từ Sài Gòn về cho, khi bấm nút xanh xuống thì viết được mực xanh, khi bấm nút đỏ xuống thì viết được mực đỏ. Cái kẹp tóc có nơ sa-teng bóng mượt, chỉ cần bấm ở một đầu là tóc được kẹp chắc in. Cái băng đô co dãn được cho dễ mở xuống, mang lên, phải màu xanh mới đẹp. Một quai nón lá bằng vải nhung mượt mà màu đen hay màu xanh giống của chị Thảo. Một đôi dép mủ màu vàng lợt lợt, quai có nhiều lỗ li ti… Phải ăn một ly chè đậu đỏ bùi bùi của hàng nước đá ông Tàu ngay ngã tư gần tiệm sách Hiệp Thành. Phải mua hộp kẹo bạc hà màu xanh lá cây, ngậm viên kẹo tròn mềm trên lưỡi, hít một cái là hơi mát chạy xuống cuống họng, xuống tới bụng. Phải ăn một tô phở tiệm ông Tàu và bỏ thật nhiều tương đen cũng như tương đỏ, rau quế, ớt lát. Phải mua gói hột dưa để khi cắn nhớ thấm nước miếng ươn ướt cho môi đo đỏ. Phải…

Tiệm hàng hai bên đường có thêm nhiều mặt hàng nên người ra người vô nườm nượp. Đặt biệt là hai hàng sạp giữa đường với những hàng hóa chỉ đặt biệt cho Tết. Bánh in bột trắng tinh chen lớp đậu xanh mỏng ở giữa, phải nhai từ từ vì nếu cố ngốn là dễ dễ bị nghẹn cổ. Những hộc cốm khối chữ nhật có lớp giấy kiếng đủ màu sắc bọc phía ngoài và hai đầu được điểm trang bằng cánh hoa giấy. Bánh đậu xanh khô màu vàng lợt lợt chỉ cần đưa lên mũi là mùi vani lẫn với mùi đậu xanh rang thơm chạy thẳng xuống cổ họng, được gói thành từng gói vuông vức bằng giấy kiếng trắng trong. Bánh bột năng thơm mùi vani hay nước cốt dừa cũng được gói ghém thẩm mỹ… Tất cả được xếp ngay ngắn bên cạnh những chai rượu, hộp trà, hộp bánh Tây bọc bằng giấy kiếng vàng, đỏ.

Và mứt! Mứt mảng cầu trắng đục ngọt ngọt chua chua và dẻo đẹo nên phải liếm sạch lớp giấy kiếng trắng bao. Mứt dừa cọng dài quăn quăn vừa béo vừa ngọt đủ màu sắc ẩn dưới lớp đường trắng tinh. Mứt bí đao trắng tươi chỉ toàn vị đường ngọt tận kẻ răng nên thường còn xót lại trên dĩa. Mứt khoai lang lát to có nhiều lổ, vàng vàng bùi bùi với lớp đường trắng bao quanh. Mứt gừng lát vàng vàng có hình dáng kỳ cục không miếng nào giống miếng nào, khi ăn phải nhai thật nhanh để vị cay không kịp làm cuống họng nóng bưng bưng. Mứt gừng nguyên củ chỉ nhìn thấy là hít hà nhưng trông hấp dẫn quá nên con nít hay lén lén cắn một chút ở đầu hay liếm lớp đường bên ngoài. Mứt hột sen tròn trĩnh kiêu sang, bùi bùi mùi vani, vì đắt tiền nên chỉ để dành cho người lớn hay lâu lâu được má chia cho vài hột đỡ thèm. Mứt me trái dài cong cong có vị chua thanh thanh hòa với vị ngọt đậm, vừa dẻo lớp đường, vừa sừn sựt cơm me sống thấm hàn the cho nên ăn một trái cũng chưa đã, phải mút sạch gân và cuống… Hơn chục loại mứt, nằm kế nhau trên những cái thúng lớn, đầy vun, khiêu gợi tuyến nước miếng lủ trẻ con luôn thèm ngọt và chỉ dám đứng ngắm nhìn. Quần áo, giày dép, nón, đồ chơi… trăm thứ, ngàn kiểu, treo bày ngập mắt, mặc sức mà ngắm, mà lựa, mà ước mơ.

Người lên kẻ xuống, người xách giỏ kẻ tay không, tay xăm xoi món hàng, miệng chuyện trò rôn rả, lời mời mua dẽo đẹo, tiếng trả hàng kèo nài… không khí rộn ràng đêm chợ ngày 27 giảm dần, giảm dần… khi bầu trời đầy trăng sao xuống thấp. Chân chưa mõi, mắt chưa no nhưng túi thì không còn một xu, Thi đi ngược đường Gia long, hướng đến chỗ gởi xe đạp, dáo dát tìm Thông.

Chưa tới đầu đường, Thi thấy Thông tay vịn ghi đong xe đạp, chân nhón cao, ráng chúi đầu vô đám đông con nít đang bao quanh một hàng đồ chơi bày trên một tấm nylon bên lề đường. Tay giữ chặt cái bóp màu xanh có nhiều ngăn đã được chọn mua với bao nhiêu tính toán hơn thiệt, Thi chen vô đám đông. Tưởng gì! Té ra hàng đồ chơi giống hàng ở đầu chợ phía bên vườn bông! Con khỉ bận áo cánh đỏ, tay đánh trống lia lịa. Con gà trống đi đi, đầu gục xuống ngẩng lên. Con cóc xanh khi nhấn nút thì nhảy chồm vài bước. Con chó mủ cái đầu lắc qua lắc lại, cái đuôi quẩy quẩy… Từng món, từng món một được ông chủ hàng vặn dây thiều, biểu diễn. Búp bê, súng mủ, súng gỗ, bộ tô chén nhỏ li ti đủ màu, con vịt mủ, con heo đất… tất cả ra hết sức để quyến níu bước chân đám trẻ với vài đồng dính túi mà ước mơ thì cả bao bố đầy.

Tay vịn chặt yên xe đạp, Thi ngồi yên sau, đang tập ngồi một bên, hồi hộp không kém khi Thông thả xuống dốc cầu. Con dốc cầu dài ngàn-dặm! Lần nào cũng vậy, cứ đạp xe từ phố về nhà, thả cái dốc cầu này là cả Thi và Thông đều mang cảm giác vừa sợ vừa khoái. Sợ, muốn dắt xe xuống dốc thì lại tiếc cái cảm giác gió mát thổi vào mặt, tiếc cảm giác hồi hộp khi bánh xe đang vù vù thì phải thắng lại ngay ngã tư Kho Bạc để quẹo cua. Nhưng nếu dắt xe đi bộ xuống dốc thì phải liếc ngó vô vườn bông lớn tối om có mấy cây vong cao ngất trời và biết đâu có ma thòng vòng treo mớ ruột lủng lẳng trên đó. Liếc mắt bên trái, Tiểu Khu có vòng rào kẻm gai bao quanh, có gương mặt những ông lính lúc nào cũng nghiêm nghiêm nghị nghị, bước chân khẩn cấp, nhìn cũng đủ thấy ơn ớn. Ánh sáng từ bên Tiểu Khu không đủ để phá xuyên những bóng đen bao trùm vườn bông bên kia đường đầy bí hiểm ban đêm và làm tăng trí tò mò nhiều tưởng tượng của những đứa trẻ thích đọc truyện ma Người Thứ Tám.

***

Năm nay lệnh đình chiến ba ngày nên Phan Thiết có nhiều công chức, quân nhân về nhà ăn Tết. Nhà Thi có anh Ánh con cô Ba của Thi dẫn cả bé Bi và bé Ti từ Sài Gòn về. Mấy nhà hàng xóm có vài chú đi lính xa, anh chị đi học tuốt trong Sài Gòn hay ngoài Qui Nhơn… cũng lần lượt về. Nhà nhà vui cảnh xum quầy có xoong măng kho vàng tươi, có bánh tét nhân đậu xanh với miếng mỡ béo ngậy treo lủng lẳng trong bếp, có những hộc cốm khối chữ nhật thơm mùi gừng cay, có chồng bánh tráng mè đen chất cao cả mét, có xoong thịt kho nước dừa được điểm thêm chục trứng vịt trắng mơn mơn, có cành mai đầy nụ vàng ưng ửng nôn nao bung nở… Khí xuân mát mẻ khiến lòng người hân hoan rộng mở. Bàn thờ đầy bông trái và nhang đèn không bao giờ tắt làm tăng thêm lòng kính trọng hướng về tổ tiên trong những ngày trọng đại của năm. Và từ ngày mai, lời chúc tụng thật lòng cho nhau ngày đầu xuân khiến người người cảm thấy thương yêu nhau hơn, xóa đi những bon chen tranh dành trong năm qua…

Như thường lệ, sáng mồng một, chị em Thi theo ông Tư Xuân về Đại Nẫm để thăm ông bà ngoại, bà nội, ông nội Tám, ông nội Mười, bác Tư Hoành và nhiều bà con khác. Tiếng là theo ba nhưng Thi và Thông một chiếc xe đạp, chị Thảo chở Thanh, hai chiếc xe đạp thi nhau, bỏ ông Tư Xuân chở thằng con trai út thủng tha thủng thỉnh phía sau. Đến cuối con đường đất rộng dọc đường rày, băng qua đường rày là tới khu tập trung, nơi bà nội đã được đưa về căn nhà nhỏ ở với cô Sáu.

Như tất cả dân Đại Nẫm trên, bà nội được đoàn Xây Dựng Nông Thôn chia một phần đất nhỏ, cấp nhu liệu xây nhà, và di chuyển vào khu tập trung này. Người dân Đại Nẫm, ai cũng mang tâm trạng nửa mừng, nửa bực tức khi phải vào ở trong vòng đai khu tập trung nằm dọc đường rày xe lửa, dưới sự kiểm soát chặt chẻ của quân đội Việt Nam Công Hòa. Mừng vì không còn sống trong cảnh ngày-lính-đêm-mấy-ổng và không phải cung cấp lương thực thuốc men theo lời nửa xin nửa yêu cầu của mấy ổng. Bực tức vì bị bắt buộc ở nơi nhà cửa chật hẹp với chỉ chút đất vườn bao quanh, mặc dù ban ngày ai cũng được phép về chăm bón ruộng vườn, thâu hoa lợi. Mừng vì không còn lo sợ nằm giữa hai lằn đạn trong những trận chạm súng. Bực vì cảnh sống tập trung, trái với bản chất người nông dân. Muốn hay không, mừng hay bực, thì ai ai cũng hiểu đây là cách ly gián Việt Cộng với dân, để Việt Cộng không còn cơ hội dùng dân làm bình phong. Nhà ông bà ngoại Thi cũng như nhiều nhà ở Đại Nẫm dưới không phải di chuyển vào khu tập trung vì gần vòng đai bao quanh khu tập trung và có Cán Bộ Xây Dựng Nông Thôn thường xuyên tới lui.

Cũng từ đó, sau khi bác Xã mất, bàn thờ ông nội dời về nhà Thi, bà nội yếu nhanh, nhà bà nội không còn rộn rịp cảnh Tết như trước. Cây cối trong vườn không được dán giấy điều đỏ mừng xuân. Bàn thờ đơn sơ ba ngày Tết. Con cháu tản mạc khắp nơi. Tết là về chỉ để thăm bà nội theo phong tục chứ lủ cháu không còn chờ lì xì, cũng không mong bánh mứt. Ở khu tập trung, nhà chật hẹp, vườn không có cây khế, cây me nên lủ cháu mau chán. Chơi được nửa tiếng là bốn chị em rủ nhau băng ngã sau, ra khỏi khu tập trung, về nhà ngoại cách đó năm phút đạp xe cẩn thận trên bờ ruộng khô chật hẹp.

Đống rơm cao vẫn nằm trên đám ruộng khô rạ không còn quyến rủ những đôi chân ham vui. Căn nhà chòi gần con mương trước nhà không còn kêu giữ bước chân con trẻ. Mặc dù thường xuyên về ngoại, hầu như mỗi tuần, nhưng ngày Tết sao tự nhiên làm lòng nôn nao. Ông giáo Tâm, ông ngoại Thi sống thật bình dị, sáng chiều trên chiếc võng đong đưa dưới gốc me ngâm nga đọc tới đọc lui mấy tập thơ xưa, tần mẫn đan cái rỗ, cái sàng không bao giờ tròn trịa. Ông bà Giáo sống với hai đứa cháu nội có người cha tập kết chết từ lâu và người mẹ đã bước thêm bước nữa. Đạm bạc thường ngày nhưng Tết nhất thì rộn ràng không kém ai. Bản chất nghệ sĩ của ông Giáo được bà Giáo nuông chiều những ngày vui xuân nên máy hát dĩa được vặn giây thiểu liên tục, cả ngày vang vang câu vọng cổ. Hoa bình, hoa chậu và cả hoa trong tranh điểm tô cảnh Tết từ nhà bếp lên tới nhà trên.

Buổi điểm tâm trang trọng ngày mồng một ở nhà chưa kịp tiêu. Bỏ dép, ngồi xếp bằng trên bộ ván, bốn đứa cháu ngoại lại được thưởng thức món bánh tráng cuốn măng kho có thêm nửa cái trứng vịt bùi bùi. Dĩa mứt trên bàn trước tủ thờ cẩn xa cừ có hai chân đèn bóng loáng và nhang đèn ấm cúng, sạch trơn sau khi lủ cháu làm một vòng ngắm nhìn những tấm tranh giấy vẽ hoa màu rực rỡ được ông ngoại treo trên tường. Theo cố tật, chơi trong nhà được một lúc là lủ cháu rảo ra vườn tìm trái mảng cầu chín mùi núp sau chùm lá xanh, kiếm những trái ổi trái mùa nằm chót vót trên cành cây cao…

Thảo, chị kế Thi, vừa bước vòng khỏi chuồng heo sau nhà, giật mình khi thoáng thấy một bóng đen bỗng dưng biến mất sau bụi chuối hột lá to xanh gần giếng nước phía nhà ông Hương. Tự nhiên, Thảo rợn người. Nãy giờ, mang cái cảm giác bị theo dõi bởi những ánh mắt đâu đó quanh vườn, nay cái bóng đen như một bằng chứng cho cảm giác, làm Thảo mất vui, kêu Thi về. Ngay lúc đó, Thi cũng có cảm tưởng như vườn nhà ngoại hôm nay sao bỗng dưng rộng quá, vắng quá và hình như có ánh mắt ai đó bám lưng mình, bám bước chân mình. Không hẹn, hai chị em không dám nhìn quanh, chạy vụt vô nhà, thưa ngoại về.

Cẩn thận vượt mấy bờ ruộng, băng qua đường rày xe lửa, bốn chị em, hai chiếc xe, đạp vội đạp vã. Bóng đen, cảm giác bị theo dõi, ánh mắt bám sau lưng, cả Thảo và Thi đều sờ sợ nhưng không kể cho nhau nghe vì chỉ là mang máng. Về đến đầu đường, trước bệnh viện Phan Thiết, quang cảnh rộn rịp những nhóm người tụ quanh bàn tài xỉu, bàn bầu cua làm tiêu nhanh cảm giác ơn ớn trong vườn nhà ngoại.

Một ngày quá bận rộn! Ăn uống thả giàn, hết đánh bài xì dách thì xoay ra đánh bài cào, phé tố… Mê chơi, trời xập tối cũng chẳng màng. Bụng no, chân mõi, cười to nói lớn… mệt mà vui nên không đợi nhắc biểu, chị em Thi mạnh ai nấy lo tìm gối, tìm chỗ ngủ. Tiền lì xì của ba má, bà nội, bà ngoại, được Thi xếp ngăn ngắn trong cái bóp xanh có hình ca sĩ Giáng Thu nghiêng đầu cười duyên chiếm cả ngăn bọc plastic trong suốt. Dấu cái bóp thiệt sâu trong ngăn tủ riêng dưới bàn thờ ông nội, Thi yên tâm rửa chân leo lên bộ ván gõ nâu bóng, dành được cái gối ôm, lăn đại vô góc gần cửa số, ngủ như mê. Ngày mồng một đẫm hương khói trang trọng trên bàn thờ qua mau trong hân hoan và hương vị yên bình mùa Tết tràn đầy giấc ngủ cô bé đang học lớp đệ lục háu ăn, ham chơi.

***

Tiếng pháo nhà ai đốt dử quá làm Thi dụi mắt ngồi dậy mà cái đầu còn ngất ngư giấc ngủ nồng. Mơ mơ theo bàn tay ai đó kéo xuống nền xi măng mát, bước chân loạng choạng vô nhà trong. Lại đùng đùng, cụp cụp, liên tục nhưng không liên tu như pháo dây đêm giao thừa! Lần này thì không phải pháo. Tiếng súng! Gần lắm! Giọng bà Tư Xuân gay gắt kêu hối hai đứa con gái lớn, vô nhà trong khi hai người này còn dùn dằn vì bị phá giấc mơ nhiều mộng đẹp của tuổi mới biết liếc mắt. Thi tĩnh hẳn. Cả nhà nhốn nháo khi tiếng người kêu nhau ơi ới ngoài đường. Ông Tư Xuân chậm rãi nhấc cây đà ngang để mở cánh cửa gỗ lớn có nhiều lớp xếp.

Chưa kịp đẩy cửa thì có tiếng đập cánh cửa sắt bên ngoài, tiếng cô Tám, cô Mười:
- Anh Tư, chị Tư… chạy… chạy anh chị…
Vẫn thái độ điềm tĩnh, đẩy hé một cánh cửa gỗ, ông Tư Xuân hỏi:
- Sao mà chạy? Chạy đi đâu vậy?
Cô Tám làm việc bên tòa Tỉnh, cô Mười học ở Sài Gòn về ăn Tết, nhà ở đầu chợ Gò, tay xách bị mang, trả lời hấp tấp:
- Việt Cộng, Việt Cộng nhiều lắm… chạy vô nhà thương…
- Đụng ở đâu?
- Phía trong chợ Gò, phía cầu Bà Bác Xì, Việt Cộng đào hầm vô tới chợ Gò… Việt Cộng nhiều lắm… nhiều lắm… chắc Việt Cộng đào hầm trong xóm từ lâu mà không ai biết gì hết… nhiều lắm… khắp xóm…
- Mấy cô đi trước đi.

Đứng sau lớp lưới sắt bao trước hàng ba, chen giữa ba má, chị em Thi ngóng ra đường vẫn còn sáng trưng dưới ánh đèn từ cây cột trụ xi măng kiên cố. Từng gia đình, kẻ gánh, người mang bao bị, dẫn dắt nhau, kêu nhau. Dòng người từ chợ Gò, đầu đường Hải Thượng Lãn Ông đổ dồn vê bệnh viện Phan Thiết tìm nơi ẩn náo qua đêm. Giọng kêu không mấy gì hoảng hốt cho lắm. Tiếng chân cũng chẳng dồn dập.

Lòng Thi vui vui vì tưởng ” được chạy giặc” như mọi người nhưng xìu ngay xuống khi ông Tư Xuân dồn cả mấy đứa con vô hầm trú ở nhà trong. Cả năm nay, Việt Cộng pháo kích liên tục. Pháo kích vô đồn lính, Tiểu Khu thì ít mà trúng nhằm nhà dân thì quá thường. Lạ một điều: Quanh Tiểu Khu, Tòa Tỉnh, ty Cảnh Sát, Phòng Nhì, trại Đinh Công Tráng, trại Trinh Tường… nói chung những khu quân sự đáng là mục tiêu cho những trận pháo kích của Việt Cộng đều cách xa khu dân cư, hay chung quanh có bãi đất trống rộng. Vậy mà nhà dân bị trúng pháo kích đều đều, nhiều đến nổi mỗi nhà có điều kiện đều xây hầm trú. Phố Hải Thượng Lãn Ông nằm xa trại gia binh, xa Phòng Nhì, xa đồn Đinh Công Tráng và có một ưu điểm là gần sát bệnh viện Phan Thiết, vậy mà ông bà Tư Xuân cũng như đa số đều xây hầm trú vì xóm trong bị trúng pháo kích mấy lần.

Nhà ở phố Ba Mươi Căn, nguyên thủy nhà nào cũng giống như nhau, bên ngoài cũng như bên trong. Hàng ba, phòng khách, phòng trong, một khoảng trống có hồ nước và nơi tắm giặt, phòng sau, nhà bếp, vuờn đất bồi nên chẳng trồng được cây trái gì nhiều. Phòng khách và phòng trong có mái đúc xi măng, nằm giữa những căn nhà, coi như bốn bề kiên cố. Nhưng muốn an toàn hơn, ông bà Tư Xuân dùng bộ ván gõ dầy được tấn cao để dễ chui ra chui vô, phía trên, những bao cát nhà binh được tấn chung quanh, trên bộ ván. Tối tối, ông bà bắt lủ con cũng như người làm ngủ trong hầm vừa đủ hai chiếc chiếu. Ông bà nằm ở cái giường kế bên. Được ngủ chung, lúc đầu thì vui lắm, lủ con giỡn chơi cả đêm mới chịu yên. Được vài hôm, nóng quá, lủ con tự động tìm đường thoát thân, ra nhà sau ngủ cho thoáng mát. Nhưng đêm nào nghe tiếng pháo kích đâu đó là ông bà dựng đầu lủ con dậy, lôi vô hầm. Một cực hình! Lủ con cằn nhằn nhèo nhẹo vì giấc mơ lượm được tiền bị cắt đứt.

Ngoài đường láo xáo mà ông bà Tư Xuân thì điềm tĩnh bàn tán làm sự náo nức của lủ con trước sự kiện quá ư là hấp dẫn giữa đêm mồng một xìu xuống từ từ. Xìu nhưng tai vẫn vễnh cao. Gọi là lớn lên trong chiến tranh, ở gần nhà thương nên chứng kiến thường xuyên những người mẹ, người vợ trẻ than khóc mỗi lần xe cứu thương chở lính bị thương về bệnh viện sau một trận đụng độ, chị em Thi chưa bao giờ thực sự đối diện trực tiếp với chiến tranh như đêm nay. Nhất là khi nghe Việt Cộng tràn về đầy xóm Chợ Gò, không xa nhà mình bao nhiêu. Việt Cộng! Thi nghe nói thường ngày. Họ hàng nội ngoại Thi ở Đại Nẫm có nhiều người theo Việt Cộng lắm. Anh Chín Òn, chị Năm Thống, anh Ngọc… bỗng nhiên biến mất. Nghe nói theo Việt Cộng, vài năm là nghe nói chết, chết hết. Ba má cấm tiệt chị em Thi ngủ lại nhà nội, nhà ngoại vì sợ bị Việt Cộng bắt hay dụ dỗ. Việt Cộng ám sát dượng Mười, tịch thu lúa của má Thi, pháo kích vô đám hát bội, dựt mìn xập cầu… nhưng chị em Thi chưa thấy Việt Cộng bao giờ.

Ông Tư Xuân khép cửa từ lâu, bắt lủ con ngủ lại. Dễ gì! Một tai lắng nghe lời ba má bàn tán, một tai lắng nghe tiếng người xôn xao ngoài đường, lòng nôn nôn nao nao nên mắt không chịu khép. Đầu óc người mẹ hoạt động chớp nhoáng. Một sáng kiến nẩy nhanh trong đầu bà Tư Xuân. Sáng kiến là vị thần cứu tinh cho lủ con. Sáng kiến làm không khí dưới ánh đèn néon thêm hào hứng vui nhộn hẳn lên, quên đi cảnh chạy giặc ”hấp dẫn” bên ngoài cánh cửa gỗ dầy. Bà Tư Xuân quyết định: ”Phải cho tụi nhỏ ăn no bụng, bảo đảm, lỡ có chạy…”

Miệng nói tay làm, không dám nấu nướng, bà Tư Xuân xuống bếp khiêng thúng bánh tét vô nhà trong. Sau khi cắt chia cho mỗi đứa con một lát bánh tét dầy, bà Tư Xuân dặn: ”Nếu có gì phải chạy thì mỗi đứa cầm theo hai đòn bánh tét mà phòng thân.” Nghe sao vui quá! Càng hấp dẫn hơn khi lủ con nghe ba má bàn: “Chia sẵn cho mỗi đứa một ít tiền!”

Giấc ngủ đến mau khi cái bụng căng cứng chất nếp béo thơm và nỗi náo nức lẫn trong tiếng súng đì đùng đâu đó đi vào cơn mơ có túi tiền đầy, một số tiền lớn chưa bao giờ được cầm trong tay. Ngoài phòng khách, ông Tư Xuân châm tách trà nóng, bà Tư Xuân têm thêm miếng trầu, hai người ngồi bên cái radio Philip màu đen, lóng tai nghe tin tức, thì thào bàn tán.

Mùng hai, chưa bửng sáng, bà Tư Xuân vội hâm măng kho, thịt kho, cắt bánh tét… Ông Tư Xuân nấu trà cúng. Bữa ăn sáng mùng hai hôm nay cũng trang trọng như sáng mùng một nhưng hơi im lặng hơn và kết thúc nhanh hơn. Dĩa bánh tét nhiều lớp, tô măng kho vàng bóng, tô thịt kho nâu nâu có mấy trứng vịt luột trắng xen lẫn, dĩa đồ chua có củ kiệu cay cay, rổ bánh tránh mè đen… không làm lủ con quên được chuyện chạy giặc ngoài đường đêm qua.

Bụng vừa no cứng thì tiếng xôn xao ngoài đường rõ dần, dồn dập dần. Cánh cửa gỗ lớn mở, nhưng cánh cửa lưới sắt ngoài hàng ba vẫn cài chặt. Ngoài đường, người gánh, kẻ đeo, lũ lượt đi ngang nhà. Nhưng lần này thì ngược chiều và không có tiếng kêu gọi nhau, bình tĩnh hơn, như đã chuẩn bị cả đêm, chỉ chờ trời sáng là lên đường. Người từ xóm Tỉnh, Đại Tài di tản vô thành phố.

Trên ghế salong gỗ nâu, ông Tư Xuân vẫn điềm tĩnh bên ly trà khói lờ mờ và dĩa mứt gừng vàng ẩn dưới lớp đường trắng tinh, thờ ơ nhìn ra đường. Dường như chuyện di tản này diễn theo đúng như ông đã suy đoán. Hay đầu óc ông đang lo tính nhưng không muốn để lộ ra ngoài. Năng động hơn, náo nức hơn, bà Tư Xuân mở cánh cửa lưới sắt, ra đường hỏi thăm:
- Đụng lớn không?
- Chưa đụng.
- Sao mà chạy?
- Việt Cộng nhiều lắm.
- Việt Cộng nhiều lắm. Mấy ổng không cho dân chạy vô thành phố.
- Sao lại không cho dân chạy?
- Chắc sợ dân chạy là Mỹ bỏ bom, bị pháo đại bác.
- Tụi tui cứ chạy đại. Cũng may là mấy ổng không bắn theo.
- Mấy ổng cấm thì cấm, mình chạy cứ chạy. Thế nào Mỹ cũng bỏ bom.
- Tết mà bỏ bom gì.
- Tết nhứt gì tụi Mỹ.

Nắng càng lên, người di tản càng lúc càng nhiều. Đến khi đoàn người từ Đại Nẫm vai gánh vai mang đi ngang qua nhà, ông Tư Xuân mới ra đường hỏi thăm. Như hàng xóm, ông bà Tư Xuân đón bà con vô nhà, những người không có họ hàng bên phố. Từ phòng khách xuống nhà bếp, người ra, người vô, chật nêm. Thế là… bánh tét, soong măng kho, soong thịt kho… hết sạch!

Cảnh nhà nhộn nhịp chưa từng thấy. Người lớn lo âu bàn bàn tán tán. Con nít háo hức ngóng chuyện, lòng vui rộn ràng không chút âu lo. Không còn nghe tiếng súng, ham vui với anh chị em họ hàng bên nội lẫn bên ngoại bỗng dưng tụ tập về nhà mình, Thi không hề thắc mắc tại sao ông bà ngoại không di tản như mọi người.

Anh chị em bà con tụ tập càng lúc càng đông, chú bác bàn bạc, cô dì diễn suy, người di tản ngoài đường từng tốp ngừng chân kể chuyện… nên quay qua, quẩn lại là trời sụp tối. Và cơn mê đánh bài ngày Tết bị quên nhanh, quần áo mới cũng không thiết tha diện khoe, ngay cả hàng phở ông Tàu hay ciné bên phố cũng chẳng hề nghĩ tới.

Liên tiếp mấy ngày, rau cải, thịt thà bà con đem theo cứ thế mà xào nấu, cứ thế mà dọn ra, nồi cơm này tiếp nối nồi cơm kia. Tới bữa cơm, không ai mời ai, không ai phân chia, vậy mà tự động đàn ông vào ngồi ở bàn ăn, đàn bà xếp bằng ngồi trên bộ ván, con nít mỗi đứa một tô cơm rủ nhau ra gốc cây bần nhà sau vừa ăn vừa tán dóc. Bà con lui tới đông đảo trong nhà nhưng không rộn ràng tiếng nói cười như ngày đám giỗ.

Dầu có bệnh viện Phan Thiết nằm trước mặt như một bình phong cho những trận pháo kích của Việt Cộng vào ban đêm, nhưng vì cách vài trăm mét là Phòng Nhì, cách độ năm trăm mét là đồn Đinh Công Tráng nên vị thế phố Ba Mươi Căn không được coi là nơi an toàn cho lắm. Đêm đêm, tiếng pháo kích dọa dẫm, tiếng đạn đì đùng đây đó khiến phố Ba Mươi Căn càng ngày càng vắng vẻ và bà con từ từ tìm nơi tạm trú bên phố, xóm Cồn gần biển. Gia đình ông bà Tư Xuân vẫn kiên trì, không chịu di tản.

***

Gần sáng, Tiếng lao xao ngoài đường làm chị em Thi thức dậy, vội chen nhau giữa ba má đang đứng phía sau cửa lưới sắt, để ngóng chuyện. Giữa đường lộ và tường rào sơn vôi trắng dọc theo bệnh viện là đường mương rộng, sâu. Sâu đến nổi con nít bị cấm không được chơi bên đó vào mùa mưa vì sợ chết đuối. Nghe ba má hỏi chuyện, bàn tán, Thi hiểu là những người lính lom khom dưới đường mương bên kia đường đang tiến về sân vận động Quang Trung để làm vòng đai phòng thủ thành phố và tăng lực lượng phòng thủ cho đồn Đinh Công Tráng nằm cách phố Ba Mươi Căn độ năm trăm mét.

Cảm giác bình an và niềm cảm kích dấy trong lòng khi Thi nhìn những gương mặt đăm đăm nghiêm trọng dưới nón sắt hướng về phía sân vận động. Thấy một vài người quăng những hộc cốm qua bên kia đường, bà Tư Xuân nhanh chóng chạy vô nhà, lấy mấy hộc cốm quăng tiếp viện. Thế là, nhà nào còn bánh tét, còn cốm đều thay nhau quăng về hướng những người lính đang dấn thân giải thoát khu phố. Gương mặt những người lính lom khom dưới đường mương bên kia vui lên thấy rõ. Tiếng thì thào cám ơn, tiếng hỏi thăm nho nhỏ, không khí thân mật tình quân dân làm giảm đi tâm trạng âu lo vì đang nằm giữa hai chiến tuyến.

Tiếng người cô, con ông nội Tám, ở tạm nhà ông bà Tư Xuân mấy ngày nay, nói nho nhỏ: ” Đừng cho!” làm Thảo ngạc nhiên. Đầu óc Thảo đánh một dấu hỏi thật to: ”Sao lại biểu đừng cho? Lính là phe mình mà! Lính đánh đuổi Việt Cộng mà!” Thắc mắc đó, rồi quên đó vì người cô này không nói gì thêm nữa.

Ngoài đường êm re, không khí hơi rờn rợn, không cần bị cấm đoán, lủ con tự hiểu là phải ở nhà, mấy ngày nay. Lạ một điều là lần đụng trận này, không hề có tiếng xe cứu thương, không tiếng người kêu khóc. Như vậy là không ai bị thương?

Chị Hai Cao nóng lòng tìm mọi cách trở lại nhà ông bà Tư Xuân làm chị em Thi mừng như lâu ngày mới gặp lại. Không phải mừng vì có người dọn dẹp rửa chén mà vì trong hoàn cảnh hiểm nguy ai cũng muốn có những người thân yêu của mình bên cạnh như để chia sẻ, như để bảo bọc nhau, để thấy yên lòng hơn, cho mình, cho người.

Pháo kích liên tục mấy ngày, mỗi đêm, quang cảnh vắng hoe từ ngoài đường cho tới trong nhà vì bà con đã di tản vô thành phố. Tin thằng Thanh con bác Hòa Hưng cách nhà ông bà Tư Xuân một căn bị trúng đạn pháo kích mất một hòn giái không làm chị em Thi cười khoái chí mặc dù thằng này ưa gây chuyện đánh lộn với mình. Chị em Thi lo lắng bàn tán: “Vậy là thằng Thanh sẽ không có con sau này hở? Tội nghiệp nó!” Đang sống trải cùng hoàn cảnh mà hoạn nạn dọa dẫm sát bên lưng, con nít quên hết mọi thù hằn nhỏ nhặt, tự nhiên thấy thương nhau, thấy lo cho nhau.

Tin yêu cầu đồng bào di tản vào thành phố vì Mỹ sẽ bắt đầu bỏ bom ngày mai làm rúng động những gia đình ở phố Ba Mươi Căn, những gia đình kiên trì còn bám trụ. Đêm chưa khuya lắm, ông bà Tư Xuân quyết định đưa gia đình vô nhà thương ẩn náo qua đêm. Bà Tư Xuân nhét vô túi quần mỗi người con một ít tiền, cài kim băng, dặn tới dặn lui không được mở ra. Bánh tét không còn nữa nhưng gạo dự trữ ra giêng bán còn cả chục bao bố. Bà Tư Xuân dồn nhét nước nắm, đường muối, gạo vô tất cả các giỏ xách, chia cho bốn đứa con lớn, mỗi đứa một giỏ. Chị Hai Cao gánh một đầu thúng là gạo, một đầu thúng là bé Út mới được hai tuổi.

Khu bảo sanh lầu đúc an toàn nên những người di tản đều dồn đến, chen nhau tìm chỗ ngủ. Không đủ chỗ ngủ chung phòng, ông Tư Xuân và hai thằng con trai phải ngủ phòng kế bên, phòng sanh. Bây giờ Thi mới hiểu là tại sao đụng trận mấy ngày nay mà không có tiếng xe cứu thương. Toàn bộ nhà thương, nhân viên, bệnh nhân đã được âm thầm di tản từ lâu. Đến nổi khi đi ngang nhà xác, sợ, nhưng Thi và Thông vẫn tò mò nhìn vô, tìm nhìn xác chết thường nằm trên bậc xi măng chờ người thân đem về nhà. Vắng hoe!

Nửa đêm, rầm… rầm…! Pháo kích, pháo kích ngay cả nhà thương, ngay cả nhà bảo sanh, ngay phòng bên cạnh, ngay phòng sanh. Tiếng bà Tư Xuân hoảng hốt: “Ba mày đâu… có sao không?” Tiếng người xao xáo, tiếng chân chạy tới chạy lui, tiếng bà Tư Xuân đẫm nước mắt: “Thằng Năm bị thương… ba mày…” Nghe đến đó, Thi chạy ra hành lang, nhanh chân chen được tới nơi chị Thảo đang đứng thút thít khóc. Trên bàn sanh, Thông nằm đó, nằm im re trong quanh cảnh náo loạn của phòng sanh.

Hai trái pháo kích nổ ngay cửa sổ phòng sanh, mảnh đạn, kiếng vỡ, văng tứ hướng nhưng không gây thương tích nặng nề chi cho lắm. May mà dụng cụ cứu thương còn trong tủ nên ông Tư Xuân dầu không phải là y tá nhưng cũng biết băng bó nên đi tới đi lui chỉ người này cầm máu, người kia sát trùng, người nọ băng bó… Thái độ bình tĩnh, điềm tĩnh trong công việc của ba làm chị em Thi an lòng. Quay nhìn kỹ bệnh nhân trên bàn sanh, Thi thở nhẹ nhõm. Thông ngồi dậy từ lâu, nhe răng cười, nụ cười cố nở ra như để làm an lòng mọi người, như để chứng minh rằng vết thương bên hông không dễ gì làm thằng con trai đang tuổi đổi giọng đớn đau lâu.

***

Trời hơi bưng bửng sáng, đoàn người ẩn náo trong bệnh viện bắt đầu khăn gói trong khi tiếng phóng thanh từ chiếc trực thanh lượn qua lượn lại khu phố Ba Mươi Căn yêu cầu tất cả phải di tản qua phố, bên kia sông Cà Ty. Khi đi ngang nhà mình, Thảo nằn nặc đòi cho chạy vô một chút. Nhanh mắt, Thảo chợp ngay cái bàn chải đánh răng, chạy ra. Thấy chuyện vô lý như vậy mà ông bà Tư Xuân không buồn la đứa con gái “lắm chuyện” làm chậm bước chân di tản. Hình như khi một đứa con vừa thoát nạn, khi nổi hiểm nguy gần kề, lòng cha mẹ bao dung hơn, chiều con hơn.

Băng qua ngả ba, đoàn di tản đi dọc sát theo dãy nhà phía trái đường Hải Thượng Lãn Ông. Vừa tới đầu đường chợ Gò, một chiếc xe nhà binh nằm chơ vơ chận ngang bờ lề. Xác người lính ngồi nghẹo đầu ở băng trước, trông như chết từ lâu là hình ảnh chết chóc đầu tiên Thi thấy trong những ngày giặc giả này. Con đường vắng hoe, nhà cửa bỏ ngỏ, khí xuân sáng sớm lành lạnh rợn người hối thúc bước chân vừa đi vừa chạy.

Vượt qua Tiểu Khu vắng vẻ, đến đầu cầu, mọi người thở nhẹ nhõm khi thấy đoàn lính đứng kiểm soát xem coi chừng Việt Cộng đi chen giữa dân. Ai cũng phải trình thẻ căn cước, khai rõ nhà ở đâu. Bên kia đầu cầu, nhiều đám đông đứng chờ để hỏi thăm tình hình và đón bà con về nhà tạm trú. Con sông Cà Ty vẫn bình thản trôi như mọi ngày nhưng hôm nay thêm trọng trách chia đôi phố thị, bên hậu phương, bên chiến tuyến.

Ông trưởng ty trẻ tuổi độc thân nhường phòng mình trong tòa nhà ty Ngư Nghiệp cho gia đình ông Tư Xuân. Có phòng riêng chỉ để ngủ ban đêm, cả ngày, ông Tư Xuân và lủ con canh chờ để leo bên đứng trên ban-công xem máy bay thả bom. Bà Tư Xuân và chị Hai Cao lo cơm nước dưới nhà bếp, thỉnh thoảng chạy lên hỏi thăm coi khu nhà mình có bị bom chưa.

Khi thì leo lên thành ban công, khi thì chen giữa đám đông tụ tập ở đầu cầu, chị em Thi hồi hộp theo dõi trận thả bom bên kia sông. Cổ nhóng cao chờ máy bay quần trở lại, tai vễnh rộng nghe người lớn bàn tán, Thi quên đói. Không phải quên đói vì lo cho số mạng nhà mình dưới trận mưa bom mà vì tò mò chuyện người lớn bàn tới luận lui. Người đoán Việt Cộng hết đường chạy thoát, người trách Việt Cộng đào hầm trong xóm nên Mỹ bỏ bom, người trách Mỹ không kiêng cử ba ngày Tết… Trách thì trách, máy bay cứ lượn trên không trung.

Hết chiếc này đến chiếc kia, nối tiếp nhau, liên tiếp mấy ngày, máy bay quần thảo khu vực bên kia sông Cà Ty, khu vực Phú Trinh có con đường Hải Thượng Lãn Ông là chính. Không biết nơi phát xuất máy bay, chỉ cần nghe tiếng rền rền vang lên là mọi người nhốn nháo nhóng cổ nhìn về hướng Phú Trinh. Trên không, máy bay tiến tới, bình thản và ngang nhiên. Phần bụng dưới mở ra từ từ, cả chục trái bom dài nhẹ nhàng rơi, rơi từ từ trong khi máy bay vẫn tiếp tục bay tới. Bùng… bùng… khói bụi bốc cao trước khi tiếng đất rung chuyển kịp làm náo động đám đông bên nay sông đang hồi họp theo dõi. Trên không cao hơn, khi phần bụng dưới từ từ khép lại, máy bay bình thản và ngang nhiên bay đi.

Từng tấm tole bay cao, nhìn xa như những tấm giấy vụn bị gió chiều thổi tung. Thế là đồng bào bên đây sông tụ từng đám đông, bắt đầu bàn đoán khu nhà nào bị trúng bom. Êm êm được mười phút, tiếng máy bay quần trở lại, vẫn bình thản, vẫn ngang nhiên. Và… những trái bom lại nhẹ nhàng rơi. Đất Trời lại rung chuyển, nhao động. Tole trắng bụi mờ lại tung bay. Lòng người dân bên đây sông lại nhói đau khi biết rằng trong đám tole trắng đó có mái nhà thân yêu của mình, trong đám bụi mù đó có sách vở, có chén tô men xanh đời ông cố để lại, có dĩa nhạc, có hình ảnh gia đình chụp những dịp giỗ Tết… Tiếng thở dài không dấm diếm trong đám người nhóng cổ trông về bên kia bờ sông khi máy bay thản nhiên mất hút trên không. Giọt nước mắt không muốn giữ lại trong đám người di tản đang dõi nhìn những trái bom nhẹ nhàng rơi ngay khu nhà mình.

Cả ấp Phú Trinh trở thành tử địa của Việt Cộng. Lính kiểm soát chặt chẽ dọc sông Cà Ty, làng Đại Tài, Đại Nẫm, Xuân Phong, Trinh...
Users browsing this topic
Guest (2)
3 Pages<123
Forum Jump  
You cannot post new topics in this forum.
You cannot reply to topics in this forum.
You cannot delete your posts in this forum.
You cannot edit your posts in this forum.
You cannot create polls in this forum.
You cannot vote in polls in this forum.