Welcome Guest! To enable all features please Login or Register.

Notification

Icon
Error

Thế giới "nói" về Boatpeople Việt nam
viethoaiphuong
#1 Posted : Wednesday, August 26, 2009 4:00:00 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
Truyền hình Đức đang có chương trình nói về Boatpeople Việt nam

Cứu Vớt Thuyền Nhân – 30 năm trước con thuyền nhân đạo Cap Anamur khởi hành lần đầu tiên ra khơi để cứu người vượt biển.

Họ là những người chạy trốn khỏi ách độc tài cộng sản Việt Nam, Thuyền Nhân. Bằng những chiếc thuyền gỗ mong manh họ đã tràn ra biển tìm Tự Do. Một phần ba trong số người chạy trốn đã phải bỏ mình trên biển cả: có những chiếc thuyền gỗ ngập nước bị lật úp hay là bị hải tặc tấn công. Tại Đức, ông Rupert Neudeck chứng kiến những thảm cảnh ấy. Hưởng ứng qua lời ông kêu gọi một chiếc tàu chở hàng hóa cũ bắt đầu khởi hành ra biển đông hầu cứu nguy thuyền nhân Việt nam. Hơn 10.000 người vượt biển đã được chiếc tàu nhân đạo này cứu vớt. Họ sống hiện nay, hội nhập thật tốt đẹp, vẫn quanh quẩn ở Đức, như chung thủy với đất nước này.

Xin mời mở TV đài DW (Deutsche Welle qua Satelite ) :


ngày hôm nay 27.08.2009 lúc 21:00 giờ (Âu Châu)
xem chương trình về Thuyền Nhân Vietnam tỵ nạn tại Hamburg, do toàn bộ gia đình Phạm văn Hòa làm tài tử. Trong đó có cảnh quay địa điểm sẽ dựng Tượng Đài Tỵ Nạn VN tại cảng Hamburg.
Đây là chương trình đài truyền hình của chính phủ Đức, phát sóng trên toàn thế giới.

Hier bitte klicken de doc chuong trinh (Vorschau) trong muc POLITIK DIREKT
http://www.dw-world.de/d...ticle/0,,4106824,00.html

Neu TV khong xem duoc vi khong co Satelite thi ngay hom sau vao Computer xem:
Video on Demand
http://www.dw-world.de/dw/0,,4753,00.html
Sau do klick vao cai hinh co de chu : POLITIK DIREKT (die Sendung vom 28.8.2009 als Video on demand)
Rettung für Boatpeople - vor 30 Jahren lief zum ersten Mal das Rettungsschiff Cap Anamur aus
Sie flüchteten vor den Kommunisten aus Vietnam, die Boatpeople. Auf Nussschalen waren sie auf dem Weg in die Freiheit. Doch jeder dritte Flüchtling starb: Die völlig überfüllten Boote kenterten oder wurden von Piraten überfallen. In Deutschland sah Rupert Neudeck die Bilder von verzweifelten Menschen. Finanziert durch Spenden lief er mit einem alten Frachtschiff aus, um die Menschen aus Vietnam zu retten - über 10.000 wurden es. Sie leben heute, gut integriert, oft immer noch in Deutschland.
http://www.dw-world.de/d...ticle/0,,4106824,00.html
_____________________________
Nguồn : lua9mientay@yahoo.de
viethoaiphuong
#2 Posted : Thursday, October 8, 2009 8:31:50 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
Vượt Biển Bằng Bè
Giao Chỉ, Cập Nhựt 2009/10




Người ta sống không nổi với Cộng Sản nên phải ra đi bằng mọi giá ! Trong số hàng chục ngàn con thuyền mong manh đi vượt biển, đôi khi có cả tàu sắt, nhưng chắc là không thể ngờ có người dùng bè.

Chiếc bè do ông Nguyễn Văn Phong và con ... làm tại bến Thanh Đa, Sài Gòn, ra đi vào ngày 23/09/1975. Bè được đóng bằng 36 thùng phuy xăng loại 200 lít, chia ra làm 2 hàng hàn nối với nhau, phía đầu cắt nhọn để rẽ sóng, bên trên làm giàn và nhà tạm trú. Bè chở 14 người (trong số đó có một em bé sơ sinh mới 8 tháng) theo sông Sài Gòn ra biển, may mắn được tàu Nhật vớt ngày 27/09, cách Vũng Tàu 175 dặm và đưa tới Nhật.

Và chúng ta may mắn có được tấm hình quý giá này là do thuỷ thủ Yoshida chụp cảnh những người trên bè đang vẫy cờ SOS. Năm 1954, đã từng có người dùng bè vượt tuyến từ Bắc vào Nam. 14 người trên bè sau đó đã đi định cư ở Mỹ, phần lớn là San Jose, Cali.

Chúng tôi đã có dịp gặp gia đình này ở Nhật Bản và Hoa Kỳ, đã đưa hình chiếc bè lên trang bìa cuốn Boat People phát hành năm 1980, bằng 4 thứ tiếng là Việt, Anh, Nhật và Pháp, in 10 ngàn cuốn. Trong cuốn này đã vẽ sơ đồ chiếc bè theo bình diện và thiết diện ...

Bà Mary Nguyễn là một trong số hơn 500 người đã tham dự ngày khánh thành Viện Bảo Tàng Thuyền Nhân và Việt Nam Cộng Hoà tại San Jose vào cuối tháng 08/2007. Nhưng bà có tâm sự khác với nhiều Thuyền Nhân Việt Nam.

Gia đình bà là gia đình Thuyền Nhân hết sức may mắn. Đã ra đi sớm sủa. Ngày 23/09/1975. Nếu không kể đợt di tản ồn ào tháng 04/1975 thì sau 5 tháng ở lại với Việt Cộng, gia đình ông Nguyễn văn Phong đã ra đi tiên phong dẫn đầu cho cả trăm ngàn người vượt biên sau này. Nhưng có điều đặc biệt là gia đình trọn vẹn 14 người đã không đi bằng thuyền. Hoàn toàn chỉ là một người làm ăn buôn bán. Không phải quân nhân công chức. Không phải đánh cá hay hải quân. Ông có nhà ở khu Thanh Đa bên bờ sông Sài Gòn. Gia đình bị Việt Cộng “giải phóng" gần 2 tháng thì ông Phong tính chuyện phải ra đi. Không muốn đám con trai phải hy sinh bên Cam bốt. Ông là người đầu tiên và cũng là người duy nhất đóng bè vượt biển. Gia đình cho tiền an ninh khu vực và nói là đóng bè đi làm ăn nghề cá. Người ta phải về quê làm kinh tế mới, thì ông ra biển làm nghề cá. Cùng với đàn con trai, ông già 51 tuổi ghép 36 thùng phuy hàn lại thành 2 ống dài mỗi bên 18 thùng. Ông chế bè đi biển.

Hai ống song song nối ngang bằng đai sắt và thanh gỗ. Phía trên là 1 nhà sàn nhỏ làm chỗ tạm trú cho 14 người. Ông thuyền trưởng chủ tàu, vợ con và bạn của các con. Trong số nầy có em bé gái mới sanh được 8 tháng. Thằng bé 4 tuổi và 1 đứa con trong bụng cô em gái. Phía sau bè có gắn 2 máy Yamaha. Một cái 7 mã lực và 1 cái 10 mã lực. Trên bè chứa thực phẩm và nước uống dự trữ cho 2 tuần lễ. Với địa bàn và ống nhòm mua chợ Trời, một bản đồ Việt Nam loại treo tường và cờ SOS. Chiếc bè đóng trong 3 tháng cùng vị thuyền trưởng bất đắc dĩ và hết sức liều lĩnh ra đi ngày 23/09/1975 tại cửa Nhà Bè Vũng Tàu. Chuyến đi này, về sau ai nghe chuyện cũng nói là điên. Nhưng vào thời kỳ đó chưa có phong trào vượt biển rầm rộ, chưa có hải tặc, chưa có trại tỵ nạn. Sau cùng, như một phép lạ, vượt biển thành công và bây giờ bà Mary Nguyễn đứng bên cạnh con tàu tại Viện Bảo Tàng mà nhớ lại chiếc bè đã đưa gia đình bà đến bến tự do đúng 32 năm về trước. Năm 1975 bè của ông Phong ra đi vào 23/09. Chỉ 4 ngày sau tại hải phận quốc tế bè Tự do được tàu chở dầu của Nhật Bản vớt trên đường đi Mã lai.

Tên tàu là Shokomaru. Gia đình tỵ nạn 14 người gồm cả em bé 8 tháng lên tàu dầu Nhật Bản vào ngày 27/09/1975 cách bờ biển phía ĐôngVũng tàu 125 dặm.

Vào ngày đẹp trời cuối tháng 9 cách đây 32 năm, chiếc bè 3 thước 6 chiều ngang và 17 thước chiều dài đã không còn chạy được nữa. Máy hư, hết dầu, nước cạn. Nếu không được cứu thì gia đình đi trên bè này chắc chắn sẽ chết hết. Cho dù có còn chạy được nhưng chỉ 1 trận bão nhỏ là bè tan ngay. Cả gia đình bây giờ đều làm ăn, học hành tốt đẹp ngay tại San Jose. Riêng ông thuyền trưởng 51 tuổi vào năm 1975 đã liều lĩnh đóng bè vượt biên, đem cả gia đình vào chốn hiểm nghèo, ông đã đi vào đường chết để tìm ra lối sống. Ông Phong mất năm 2004 tại San Jose hưởng thọ 84 tuổi.

Bà Mary kể lại rằng hôm chúng tôi ra đi đúng vào dịp Cộng sản đổi tiền lần đầu. Có lẽ vì thế nên an ninh lỏng lẻo. Gia đình có 2 vợ chồng 8 người con, 7 trai, 1 gái, cháu gái nhỏ nhất lúc đó có 8 tháng. Năm nay cháu đã 32 tuổi rồi. Các cháu đã lập gia đình. Gia đình chúng tôi là đại gia đình. Trên 30 con cháu đều sống quanh vùng San Jose. Được tàu Nhật vớt qua Đông kinh ở 9 tháng rồi theo bà con qua Mỹ. Ông nhà tôi lớn tuổi lại bị đau nên không đi làm. Còn tôi, lời bà Mary cho biết đã đi làm trên 20 năm. Bây giờ về hưu và chỉ làm công tác thiện nguyện.

Bà cho biết gia đình hạnh phúc may mắn là nhờ ở Đức Tin và cầu nguyện. Nhân dịp khánh thành Bảo tàng viện Thuyền Nhân tại San Jose bà Mary trao tặng tấm hình chiếc bè độc đáo lênh đênh trên biển. Hình này do 1 thuỷ thủ trên tàu chở dầu chụp được trước khi cứu cả gia đình.

Gia đình ông Phong về cảng Tokyo, báo chí Nhật Bản và thế giới có loan tin. Đài VOA và BBC đều có bài phóng sự về biến cố đặc biệt của gia đình tìm tự do bằng bè phuy xăng. Câu chuyện này đã bay về Việt Nam như phép lạ. Sau cùng, chuyện đóng bè tìm tự do đã góp phần vào lịch sử của Thuyền Nhân và câu chuyện này lại thêm ý nghĩa ghi lại vào đúng thời điểm 32 năm trước.

Kể lại câu chuyện này với quý vị đồng hương nhằm mục đích gì ? Trước hết đây là câu chuyện của chuyến đi vào tháng 09/1975 và bây giờ là tháng 09/2007. Đó là tháng kỷ niệm của gia đình ông Nguyễn văn Phong, 32 năm về trước.

Thêm vào đó, tin tức VOA và BBC về chuyến vượt biên bằng bè tự chế được tàu Nhật vớt loan truyền trên Thái Bình Dương bay về Việt Nam chính là câu chuyện mở đường cho Thuyền Nhân vượt biên sau này. Ai cũng nói rằng bè thùng phuy mà còn đi được tại sao mình lại không đi.

Gặp lúc Việt cộng ra tay sắt máu, đánh tư sản, đổi tiền, tập trung tù cải tạo. Tin tức chiếc bè bằng thùng xăng đến bến tự do đã đem nhiều hy vọng cho người dân miền Nam.

Hình ảnh chiếc bè với 14 Thuyền Nhân lên tàu dầu Nhật Bản rồi được thả trôi tự do trên Thái Bình Dương đã nằm trong ống kính máy hình của 1 thuỷ thủ. Ngày nay tấm hình bất hủ này vẫn còn được treo tại Nhật Bản và tại Viện Bảo Tàng Thuyền Nhân ở San Jose.

Câu chuyện đến đây có thể coi như chấm dứt. Tuy nhiên vì đã qua 30 năm dài , cuộc sống tại Hoa kỳ không còn gì để giấu diếm nên câu chuyện phụ đề sau đây xin được ghi thêm.

Số là khi chúng tôi có hỏi về gia đình, bà Mary hồn nhiên cho biết đầu đuôi gồm cả câu chuyện tình rất riêng tư. Đây mới thực là chuyện đời của người dân tỵ nạn. “Ông à, lời bà Mary kể lại, khi lấy nhà tôi, tôi chỉ là 1 cô bé xinh đẹp chưa đến 18 tuổi, mồ côi mẹ, chỉ còn ông già. Cha tôi gửi con vào học nội trú trường đạo. Cuối tuần tôi ra nhà bà con chơi. Bà con làm tài xế cho ông chủ nhà thầu. Ông nầy lớn tuổi nhưng chưa lấy vợ. Ông theo đuổi tôi. Vì ham vui muốn sống ngoài khuôn viên trường đạo, tôi chịu lấy ông. Cách biệt 17 tuổi. Ông già tôi không chịu nhưng cũng đành. Chồng không cho tôi đi học, không cho đi làm. Mãi sau này tôi mới đi làm Thư ký cho hãng Thuốc tây. Chúng tôi sinh ra toàn con trai. Có 1 cô bạn gái cùng làm hãng Thuốc Tây về ở chung nhà. Bạn gái của tôi lâu ngày thành bạn gái của ông luôn. Tôi có 7 con trai. Cô sanh được đứa con gái. Vì tôi không có con gái nên thương cháu như con. Từ nhỏ đến lớn nó cứ tưởng tôi là mẹ ruột. Đến khi vượt biên tất cả đi 1 lượt. Con của tôi và con của cô vợ nhỏ cũng khai là con của tôi hết. Tôi có 7 đứa con trai đã lớn, thêm một trai một gái của Dì nó. Thành ra tôi là bà mẹ 9 con. Lúc ra đi “cô em bạn gái” của gia đình đã có bầu nhưng không ai hay. Qua đến Nhật cô sinh thêm đứa con gái. Khi đến Hoa Kỳ thì vì tương lai và hoàn cảnh, Dì của các cháu ra riêng lập gia đình. Hai dòng con của chúng tôi rất thương yêu nhau như một nhà.

Ông nhà tôi ở Việt Nam là 1 tay đẹp trai, đào hoa, bay bướm. Xem chừng ông còn nhiều mối tình và có con cái riêng mà tôi không biết hết.

Qua đến nước Mỹ là ông hết thời vận. Ở Việt Nam ông làm ăn xoay xở đủ chuyện. Chuyện đóng bè là phát minh lớn lao cuối cùng của ông. Nhờ Trời mà sống sót. Chính Thuyền Trưởng Nhật Bản nói rằng ông nhìn đám nhỏ biết rằng trận bão sắp đến là bè này phải tan tành ngay. Vì vậy mà ông mới vớt bè của chúng tôi. Chúng tôi còn thực phẩm và còn dầu, máy tàu còn chạy được nhưng ông bảo là phải khai hết nước, hết dầu, máy hư. Như vậy ông mới có quyền vớt chúng tôi.

Ông nhà tôi ở Việt Nam coi như chính thức có 2 vợ, vợ lớn vợ nhỏ nhưng chúng tôi khai ở Nhật là chị em. Tất cả các con là con tôi hết.

Khi sang nước Mỹ, đến miền Đông quá lạnh, chúng tôi phải dọn về Cali hưởng trợ cấp. Đất Mỹ không phải là thế giới làm ăn của nhà tôi. Ông bị bệnh lại thêm tuổi già. Chỉ có tôi bắt đầu đi làm thợ ráp điện tử. Có ông worker Việt Nam làm sở xã hội quá tốt nói rằng bà có quá nhiều con, đi làm lương assemlly làm sao nuôi được ông chồng đau ốm với một đàn con. Rồi ông chỉ cho tôi khai sao cho hợp lệ mà có đủ tiền sống.

Nhưng tình cảnh này cũng qua thời gian ngắn, sau cùng các cháu tốt nghiệp đi làm thì không còn phải khai tới khai lui nữa. Hơn 30 năm, các cháu đều có gia đình. Con tôi và con của Dì nó đều thành đạt. Đại gia đình của chúng tôi đều đi làm đóng góp lại cho nước Mỹ. Ông nhà tôi yên nghỉ năm 2004 hưởng thọ 84 tuổi. Các con ông rất hiền lành và đức hạnh. Khi tôi đi đến Viện Bảo Tàng, nhìn thấy thùng phuy trên con tầu lại nhớ đến chiếc bè ông nhà tôi nối kết 38 thùng phuy. Không biết ngày nay những thùng phuy đó trôi giạt đi đâu ? !

Chuyện gia đình tôi 32 năm trước từ lúc bước chân đến đất Nhật và rồi vào đất Hoa Kỳ vì hoàn cảnh có lúc phải khai không đúng sự thật. Vợ chồng lại không nói là vợ chồng. Không phải con lại nhận là con. Tôi rất áy náy. Dù là quyền lợi cũng chẳng được là bao nhưng vẫn là nói dối.

Nay nói ra là được giải toả 1 lần, tôi rất sung sướng. Ông nhà tôi quê Vĩnh Long, quê tôi ở Bình Long. Dì của các cháu tôi coi như em gái. Em gái của tôi lại thành bạn gái của nhà tôi. Con gái của Dì, tôi thương như con tôi. Chồng tôi còn sống hay mất đi chúng tôi vẫn coi nhau như chị em. Ba mươi năm trước có lúc dì không chịu vượt biên, tôi phải hết sức kéo đi vì thực tình thương đứa con gái 8 tháng. Tôi không muốn bỏ cháu ở lại. Bây giờ cháu tốt nghiệp đại học về điều dưỡng tại Hoa Kỳ. Nước Nhật đã cứu chúng tôi sống. Nước Mỹ đã nuôi chúng tôi trên 30 năm và ở trên Trời, Chúa vẫn ở mãi cùng Người.

Giao Chỉ, VanTuyenNet 2009/01/08
PC
#3 Posted : Monday, October 12, 2009 6:26:08 PM(UTC)
PC

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 5,669
Points: 28
Woman

Was thanked: 4 time(s) in 4 post(s)
Thắm thoát mà đã hơn 30 năm....
viethoaiphuong
#4 Posted : Thursday, October 15, 2009 8:17:33 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
Tìm được thân nhân từ bài báo '30 năm yên giấc quê người':
Em về, bằng tên trên bia mộ


Wednesday, October 14, 2009

http://www.nguoi-viet.co...02675-medium_hinh_03.jpg[/img]
Bia mộ của em út tác giả, Vương Kim Ngoan. Bia bằng đá do cảnh sát viên Alizar Acin
dựng thay mặt gia đình. Chữ màu đỏ do chị Carina Oanh Hoàng sơn lại.
(Hình: website carinahoang.com)

[img]http://www.nguoi-viet.com/absolutenm/articlefiles/102675-medium_hinh_01.jpg" alt=""/>
Alizar Acin, cảnh sát viên phòng cảnh sát Kores-404 Kep Riau
tại Tanjung Pinang, Indonesia, là người giúp gia đình tác giả
làm bia mộ bằng đá cho Vương Kim Ngoan. (Hình: Tác giả cung cấp)

Lê Giang Trần

Lời Tòa Soạn: Báo Người Việt và Người Việt Online (www.nguoi-viet.com) hôm Thứ Ba, 13 Tháng Mười, đăng bài viết của phóng viên Hà Giang tựa đề “Trở lại đảo Kuku, Terampa, Telung Indonesia tìm thân nhân “30 năm yên giấc quê người” nói về chị Carina Oanh Hoàng, hiện đang sống tại Úc, đi tìm mộ người thân ở đảo Kuku, Terampa, Telung Indonesia. Trong bài này, Người Việt đăng kèm danh sách 17 ngôi mộ chưa có người nhận, do chị Carina Oanh Hoàng cung cấp. Sau khi báo loan tin, một điều bất ngờ là gia đình ông Lê Giang Trần, một cư dân Quận Cam, California, đã tìm lại được tên người em gái út Vương Kim Ngoan trong danh sách 17 ngôi mộ kể trên. Trong niềm xúc động, ông Lê Giang Trần đã gởi đến báo Người Việt bài viết sau đây. Tòa soạn xin trân trọng giới thiệu cùng độc giả.

***

Chú Tư tôi hằng ngày đọc báo sớm, ở trang nhất, nhật báo Người Việt ngày Thứ Ba, 13 Tháng Mười, 2009 có đăng bài “30 năm yên giấc quê người,” nội dung loan tải về chị Carina Oanh Hoàng trong Tháng Chín vừa qua hoàn tất chuyến đi thứ ba về Kuku và Le Tung tìm mộ người thân.

Và riêng tại đảo Le Tung, chị khám phá ra một khu vực chôn cất gần 20 nấm mộ của người tị nạn. Chị đã cho sơn lại tên trên bia bộ rồi chụp hình cẩn thận, đồng thời trên trang web carinahoang.com, chị còn cho thấy hình ảnh bày biện cúng kiếng cho những oan hồn uổng tử tại đây.

Người Việt đã cho đăng tin tức này nơi trang nhất. Trong danh sách 17 mộ phần đăng tiếp nơi trang A4, có tên Vương Kim Ngoan, sinh 1970, từ trần 15/5/79. Ðó là tên của em gái út tôi.

Chú tôi đã gọi đến nhà báo tin này!

Cùng sáng Thứ Ba, đứa em thứ 10 trên San Jose xem báo Người Việt trên mạng cũng chú ý nguồn tin này; đứa em thứ 7 trên Los Angeles cũng mua báo Người Việt đọc và thấy tin, và sau đó hai em gọi mẹ tôi để báo tin.

Khi vào sở làm, tôi tìm tờ báo Người Việt và lên mạng, in ra được 2 bức hình, một là mộ bia được phóng lớn và hai là toàn phần mộ bia tuy lở đất phía trên nhưng hai bậc thành hộc xi măng thì còn nguyên vẹn.

Tên em tôi, em Ngoan, trên mộ bia được sơn mới bằng sơn đỏ.

Tôi thật xúc động, nhất là khi Út Thu, đứa em trai lớn kế Út Ngoan, nói với tôi rằng, “Anh Năm, 30 năm rồi anh Năm!”

Người tôi gọi đầu tiên là Thiện Giao (chủ bút báo Người Việt) để cho biết có em tôi trong danh sách 17 ngôi mộ. Giao rủ tôi ra ngoài uống ly cà phê. Ðó là tình bạn chia sẻ nhau một chút ngậm ngùi thương tiếc.

Ngày Thứ Ba, trời Little Saigon bỗng âm u đen đúa, bầu trời mây giăng xám xịt, những hạt mưa lấm tấm ray rứt từ sáng sớm, hình như đây là cơn mưa dai dẳng từ độ vào Thu. Tôi vào sở sau khi biết chắc đó là em mình, cứ loay hoay làm không ra việc, rồi xin về sớm.

Về nhà, thấy có mấy đứa em đến thăm mẹ tôi, và thấy mẹ tôi thật bình tĩnh. Tôi hỏi, “Có đúng không Vú?” Mẹ tôi cười nhẹ nhàng, “Ðúng em rồi con!” Sau đó bà cho biết tấm bia mộ ban đầu chỉ làm bằng gỗ, trước khi rời trại đi định cư, ba đưa tiền nhờ Acin làm lại bia mộ bằng đá.

Vậy là anh Acin đã không phụ lòng ba, hoàn thành lời gởi gấm, dù từ nơi anh làm việc đến nhóm đảo Le Tung Jemaja phải đi khoảng 24 giờ bằng tàu chở hàng lớn.

Tôi xin được nói vắn tắt về nhân vật Acin. Anh tên là Alizar Acin, một cảnh sát viên trực thuộc phòng cảnh sát Kores-404 Kep. Riau tại Tanjung Pinang, Indonesia.

Những người tị nạn trên chiếc tàu mang số 0269 của chúng tôi được chính quyền chuyển từ đảo Le Tung ngày 25 Tháng Năm, năm 1979 về trại chuyển tiếp ở đảo lớn Tanjung Pinang (Từ cảng này, tàu hành khách sang Singapore khoảng 8 giờ đồng hồ), đó là trại Tangjung Ungat, cách thị tứ Pinang khoảng 5 cây số.

Trong khoảng thời gian ở trại Ungat, anh Acin thường vào trại chơi, tính tình vui vẻ cởi mở, thân thiện với mọi người, ai nhờ gì, anh đều cố gắng giúp trong khả năng. Anh học nói tiếng Việt và chỉ thời gian ngắn anh đã nói chuyện thông thường với mọi người, phát âm khá rõ ràng. Ðặc biệt mỗi khi đến trại anh đều ghé đến gia đình chúng tôi để thăm hỏi và chơi đùa cùng các con cháu chúng tôi khi ấy chỉ bốn năm tuổi.

Rồi anh xin được làm con nuôi của ba tôi. Từ đó càng thân tình, sau khi ba tôi đến Mỹ có viết thư thăm anh và anh gửi sang một số ảnh chụp của anh, sau lưng tấm hình có ghi (nguyên văn) “Kỷ niệm cho ba má và gia đình ở Mỹ.”

Ba có kể cho anh Acin nghe về bé Ngoan nằm xuống ở đảo Le Tung, nên đã gởi tiền nhờ anh nhờ người ở Le Tung khắc một bia mộ đá để thay cho tấm bia bằng gỗ mà gia đình chỉ làm được vội vàng khi mai táng em, vì ba có khấn hứa với em Ngoan sau khi định cư ở Mỹ, có ngày ba sẽ trở lại Indonesia để mang tro cốt em sang Mỹ.

Mộ bia bằng đá, là để mai sau còn nhận ra!

Có lẽ anh Acin xúc động trước tình thương của người cha đối với đứa con thơ vắn số. Anh thực hiện điều mong muốn của người cha nuôi tị nạn. Nên biết như đã nói, từ Tanjung Pinang phải mất hơn 24 tiếng chạy tàu mới đến Le Tung. Tấm bia mộ, bằng đá, của em Ngoan mà gia đình chúng tôi nhìn thấy bây giờ, là cả một tấm lòng của người bản xứ đối với người Việt tị nạn chúng ta. Gia đình tôi xin chân thành tri ân tấm lòng nhân ái ấy.

Sau hơn mười năm ở Mỹ, lấy quốc tịch xong, ba tôi thực hiện lời hứa trước vong linh của em Ngoan. Ba xin được giấy giới thiệu của chính quyền đến Indonesia để hỏa thiêu hài cốt em mang về Mỹ. Tiếc thay, phần mất liên lạc thư từ với Acin, phần đến Tangjung Pinang tìm anh thì anh đã chuyển đi làm việc ở một đảo xa nào đó. Phòng cảnh sát tại địa phương khi xưa không còn biết anh hiện làm nơi nào. Ðó là khoảng thời gian Indonesia có nhiều cuộc nổi loạn bạo động, sinh hoạt người dân không còn an ninh như xưa. Cố gắng tìm người đưa đi Le Tung không có, ba tôi lại một lần nữa khấn với em rằng, “Ba đã hết lòng hết sức làm điều hứa với con mà đến đây thì bế tắc, ba phải quay về Mỹ và mong linh hồn con hiểu được lòng dạ của ba.”

Ba tôi đã kể cho chúng tôi nghe chuyến “vạn dặm tìm con” ấy, rồi ông bùi ngùi kết luận, “Chắc Ngoan thấy ba đi cực nhọc quá, em cũng mãn nguyện rồi, em cũng siêu thoát rồi, nên em không muốn ba đi tiếp.”

Ba tôi dường như mang mãi nỗi ngậm ngùi đó cho đến khi ông qua đời.

Suốt đêm Thứ Ba, trời mưa đến sáng. Buổi tối, mẹ tôi mang album ra để tìm lại hình của em Ngoan và Acin. Mẹ tôi rất vui khi thấy mộ bia con mình được chị Oanh Hoàng sơn phết lại mới mẻ cũng như được nhìn thấy lại mộ phần của bé.

Nếu bé còn thì giờ đây bé đã 39 tuổi dương gian. Ôi ba mươi năm sao mà nhanh như gió thoảng.

Tôi gom mấy tấm hình để trên mặt bàn viết trong phòng mình. Tôi nói thầm trong bụng, “Ngoan ơi, chắc ba linh thiêng và còn lời hứa với em nên ba đã đi tìm gặp em rồi đưa em về thăm Vú, thăm nhà, thăm mấy anh chị sau 30 năm trời cách trở âm dương. Bây giờ em trở về thăm nhà chỉ bằng tên em khắc trên bia mộ. Thôi thì Vú cũng vui vì biết mộ phần em còn nguyên vẹn, còn mấy anh chị đều ngậm ngùi xúc động thương em. Chị Tư đã hứa, có thể cùng Út Thu, một lần nữa sẽ đi Indonesia mang em về. Em có linh thiêng thì nghe lời anh nhắn nhủ.”

Trời mưa mãi đến sáu giờ sáng. Tôi dậy thì bỗng thấy mưa dột xuống lách tách ngay tấm hình của em mà tôi đặt trên bàn. Nhà chưa bao giờ dột mưa như thế. Bằng niềm tin tâm linh, tôi tin rằng em Ngoan của tôi đã gián tiếp nói với tôi rằng, “Em đã hiện diện và đã hiểu tình thương dành cho em.”

Những giọt mưa dột xuống đó, phải chăng cũng là những giọt nước mắt của em tôi?

Tôi mang laptop ra ngoài “hàng ba” vì cảm thấy phải viết đôi điều. Vậy bài viết này, tôi xin trước nhất, thay mặt mẹ tôi cùng các chị em trong nhà, chân thành cảm ơn chị Carina Oanh đã nhân chuyến ghé đến Le Tung, sơn phết lại giùm bia mộ của em Ngoan cũng như chụp hình phần mộ, khiến mẹ tôi rất ấm lòng và vui được nhìn lại.

Cảm ơn anh Acin, người bản xứ Indonesia, đã làm bia mộ đá cho em Ngoan.

Và đương nhiên, phải cảm ơn chị Hà Giang và nhật báo Người Việt đã đăng bài “30 năm yên giấc quê người.”

Không riêng gia đình chúng tôi, những gia đình có thân nhân yên nghỉ kia nơi các đảo tị nạn, qua tin này đều có được niềm an ủi và ấm lòng trước tấm tình đối với những hoang mộ nằm hắt hiu nơi hoang đảo.

Lê Giang Trần

Little Saigon, 14 Tháng Mười, 2009
viethoaiphuong
#5 Posted : Sunday, October 18, 2009 2:24:40 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
Ba về khi má vừa ra đi!

Friday, October 16, 2009

http://www.nguoi-viet.co...ium_A-1-ChiemThanhKy.jpg[/img]
Hình ông Chiêm Thành Kỷ lúc còn làm việc cho chính quyền VNCH.
(Hình: Chiêm Minh Nhựt cung cấp)

[img]http://www.nguoi-viet.com/absolutenm/articlefiles/102814-medium_ChiemMinhNhut-Leo.jpg" alt=""/>
Hình chụp anh Chiêm Minh Nhựt cùng mẹ lúc sinh thời, bà Mã Kim Diệp.
(Hình: Chiêm Minh Nhựt cung cấp)

* Viết tiếp chuyện “Tìm thân nhân 30 năm yên giấc quê người”

Bản Anh ngữ: Chiêm Minh Nhựt

Ngọc Lan/Người Việt (Lược dịch)

LTS - Như tin Người Việt đã đưa trong loạt bài “Tìm thân nhân 30 năm yên giấc quê người”, trong số những người tìm được mộ thân nhân mình (do chị Carina Oanh Hoàng cung cấp) có người con trai duy nhất của ông Chiêm Thành Kỷ. Ngày ông Thành mất, Chiêm Minh Nhựt, con trai ông, vừa qua sinh nhật đầu tiên được mấy ngày. Sang Mỹ cùng mẹ, với nỗi khắc khoải sẽ có ngày tìm được mộ chồng, mộ cha. Nhưng rồi mẹ của Chiêm Minh Nhựt cũng đã qua đời vào Tháng Tư vừa qua vì bệnh ung thư. Chuyện tìm mộ cha tưởng như đã rơi vào tuyệt vọng, cho đến đầu tuần này, Chiêm Minh Nhựt sững sờ khi có người báo tin tìm thấy mộ cha mình.

Bài viết dưới đây (bằng tiếng Anh) chính là cảm xúc của Chiêm Minh Nhựt viết về câu chuyện của gia đình mình gởi cho Người Việt. Tòa soạn xin lược dịch và gửi đến chia sẻ cùng độc giả.

***

Tôi sẽ bắt đầu câu chuyện bằng những điều mẹ tôi đã kể...

Ðó là những ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh Việt Nam, quân đội Cộng Sản đã bao vây khắp nơi. Những người làm việc cho chính quyền VNCH đều phải ngay lập tức ra đi. Ba tôi có cơ hội ra đi bằng trực thăng nhưng ông không thể để vợ con lại. Ba muốn sự ra đi phải an toàn và chắc chắn cho cả vợ, con trai và người chị gái gần gũi nhất của mình. Vào phút cuối, ba người cậu phía bên mẹ tôi cũng tháp tùng cùng chúng tôi.

Chuyến đi đến Indonesia diễn ra trong đêm lạnh, tối, và khổ sở vô cùng. Khi đến nơi, cảm giác tồi tệ chúng tôi có không hề vơi đi, trái lại, càng chất chồng nhiều hơn nữa khi mảnh đất chúng tôi đặt chân lên như một miền hoang vu, mờ mịt trong đêm. Buổi sáng, ba tôi đến gặp những người dân địa phương và mua một số vật dụng cần thiết như thức ăn, nước uống.

Trong điều kiện thiếu thốn nước sạch và thức ăn, đứa bé lên một tuổi, là tôi, đã kiệt sức trong hành trình đó. Tôi bị sốt cao và tiêu chảy. Giao tôi cho dì trông, ba má tôi đi tìm thuốc cho đứa con trai mình.

Ba má tôi bơi thuyền đến đảo bên cạnh nhưng, thật là bất hạnh, trên đường đi, chiếc thuyền đã bị đắm. Ba tôi là người bơi giỏi, nhưng má tôi thì không. Biết vậy nên ba đã cứu lấy má, giữ má không chìm xuống nước trong khoảng 30 phút, cho đến khi tàu cứu nạn chạy đến. Thế nhưng trong suốt 30 phút đó, chân ba tôi đã bị “vọp bẻ” trong làn nước biển lạnh cóng. Khi những người cứu hộ kéo được má tôi lên bờ, thì cũng là khoảnh khắc sau cùng của ba tôi...

Ba đã thành công trong việc giữ lấy cuộc sống của người mình thương yêu, trong những gắng gượng cuối cùng, bằng chính mạng sống của mình. Ba đã không muốn để lại gia đình để ra đi một mình, thế mà ông trời đã không thấu hiểu được điều đó.

Sáng hôm sau, má tôi tỉnh lại trong vị khô đắng, mặn chát của nước biển, khó nhọc trong hơi thở và hầu như mê sảng bởi những điều đã xảy ra. Nhưng một điều gì đó sâu thẳm bên trong đã vuột mất, tựa như một phần trái tim má đã mất đi. Tận cùng nỗi đau, má cảm nhận rằng ba đã ra đi...

Những ngày sau đó là những ngày thực sự khó khăn, thêm việc chăm sóc tôi, nỗi khó khăn càng chồng chất. Tôi là hình ảnh của ba tôi. Dòng máu ba tôi đang chảy trong người tôi. Tôi là điều duy nhất ba để lại, và cũng là điều duy nhất má tôi có. Chưa hết, vài ngày sau cái sinh nhật đầu tiên của tôi đã ghi dấu ngày mất của ba tôi.



Chỉ có thời gian mới nói lên được sức chịu đựng của con người. Từ những hình mẫu của những người mẹ, người cha, má tôi biết mình phải trở nên mạnh mẽ. Má phải sống, và con trai má, giọt máu còn lại của Chiêm Thành Kỷ, cũng phải sống, và sống tốt.

Cuộc sống khó khăn, nhưng má đã vững vàng hơn. Trong vài năm đầu mới đến Mỹ, má tôi đã có thể đạt được những mục đích và ước mơ mà người ta vẫn gọi là “Giấc Mơ Mỹ Quốc.” Là một người di dân, má tôi bắt đầu công việc làm cho tiệm bánh kẹo See's Candy, rồi cùng một người bạn mở một nhà hàng Pháp trong một thị trấn nhỏ ở San Francisco. Sau đó, má tôi dọn đến Sacramento, thủ phủ của tiểu bang California, nơi bà sống cho đến cuối đời, mở một tiệm nail, một siêu thị gia đình, và cuối cùng là một công ty sản xuất nhựa plastic.

Trong suốt thời gian đó, má tôi đã thành công trong việc bảo lãnh ông ngoại, anh chị em của má và con cái họ, tổng cộng 11 người đến Mỹ. Má tôi đã chu cấp cho họ nơi ăn chốn ở, việc học hành, và công việc làm để xây dựng cuộc sống cho họ trên vùng đất mới...

Tôi lớn lên, học hành ở Sacramento và tốt nghiệp đại học UC Davis với bằng cấp chuyên ngành giao tế. Công việc làm toàn thời gian của tôi là giúp đỡ việc xây dựng trường học ở khu vực Sacramento. Tôi là một người làm việc thiện nguyện, yêu thương cộng đồng mình và đã nguyện dấn thân cho việc giúp đỡ tha nhân.

Năm vừa qua là một năm khó khăn nhất của tôi. Trước đó, má tôi bị phát hiện ra căn bệnh ung thư phổi. Tôi đã cố gắng chăm sóc má tôi bằng tất cả khả năng của mình. Nhìn về quá khứ, tôi như đang đền đáp lại tình yêu thương và sự chăm sóc mà má đã dành cho tôi những ngày còn nhỏ. Má đã lo cho tôi bằng tất cả tình thương của bà, và giờ đây, tôi cũng đang làm một việc như vậy với má tôi.

Má tôi ra đi thanh thảnh vào buổi sáng ngày 20 Tháng Tư năm 2009. Má đã nói với tất cả bạn bè và gia đình rằng má đã sống trọn vẹn cuộc đời má.

Bản thân tôi đã cố gắng tìm kiếm ngôi mộ ba tôi trong kí ức xa xăm, qua những điều má kể. Nhưng khi đó, phần thì tuổi còn nhỏ, chưa đủ kinh nghiệm, và điều kiện để có thể tự bảo vệ mình và bảo vệ má cho hành trình đến Indonesia, nên chuyến đi bất thành.

Khi lớn hơn, tôi lại muốn thực hiện điều đó. Tôi đã thử ghi danh đi lính, lên kế hoạch nếu có đến Indonesia thì sẽ có một đội 8 người “green berets” giúp đỡ tôi. Thế nhưng má tôi đã không cho phép, bởi những cuộc bạo động và những thay đổi xảy ra liên miên ở Indonesia. Và đó là lần sau cùng trong ý nguyện tìm kiếm mộ ba tôi cho đến ngày má tôi phát hiện ra căn bệnh ung thư.

Hôm Thứ Hai, 12 Tháng Mười, 2009, tôi mở email ra và thấy tin nhắn của một người bạn ba tôi sau khi ông đọc bài viết về chị Carina Oanh Hoàng trên báo Người Việt. Trong bản tin cho biết chị Carina Oanh Hoàng đã tìm thấy bia mộ của ba tôi. Tôi không thể tin được nhưng cứ tiếp tục tìm hiểu, đến khi mở bức hình ra với những dòng chữ trên bia mộ thì tôi biết chính xác đó là cha mình.

Tôi đã bật khóc ngay khi tôi nhìn thấy, cũng như tôi đang khóc khi ngồi viết những dòng này. Vào thời điểm má tôi mất thì tôi lại được tìm thấy ba, hai thứ cảm xúc hòa quyện, tôi cảm thấy thật hạnh phúc và cũng thấy lòng thật buồn.

Trong niềm hạnh phúc mới mẻ này, tôi lại hướng về hành trình tìm kiếm ba tôi một lần nữa. Nhưng thực sự là lần đầu tiên trong kí ức của mình, tôi chỉ biết về ba tôi trước đây qua những câu chuyện, những bức ảnh và bằng cách nhìn chính mình trong gương. Tôi biết má tôi sẽ hạnh phúc nếu gặp lại ba.

Và mục đích tiếp theo, tôi sẽ làm bằng được, để gia đình tôi lần đầu được hội ngộ sau 30 năm!


viethoaiphuong
#6 Posted : Sunday, October 18, 2009 6:05:38 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
HỒN CA TRÊN BIỂN ĐÔNG



(Lưu niệm chuyến đi viếng thăm mộ bia Thuyền Nhân tại các đảo Galang và Pinang (Nam Dương) cùng phái đoàn Văn Khố Thuyền Nhân và các Bạn từ các quốc gia trên thế giới. CSVN đang yêu cầu chính quyền Nam Dương đóng cửa các khu di tich Thuyền Nhân trên các đảo. Ngày nào còn CSVN, ngay cả những người đã chết trên các đảo hoang vu, lìa xa Tổ Quốc, cũng không được yên nghỉ ngàn thu...)

Viết tại đảo Pinang ngày 14.10.09.

Võ Đại Tôn (Hoàng Phong Linh)






1.

Hồn ai đó ?

Chập chờn trên khói sóng

Dòng máu tươi theo nước chẳng hòa tan.

Hồn ai đó ?

Vạn tinh cầu chao bóng

Đảo ghềnh xa còn vọng tiếng kêu than.

Hãy về đây – trên sóng nước dâng tràn

Chung tiếng khóc nghẹn đau cùng Dân Tộc.

Hồn ai đó ?

Đã lìa xa Tổ Quốc

Vẫn còn ôm sông núi xuống mồ hoang.

Tiếng oan khiên từ đáy vực còn vang

Hay chìm đắm giữa khơi ngàn sóng dữ ?

Mảnh thuyền tan, bập bềnh trôi viễn xứ

Biết về đâu ? Hồn phiêu bạt nơi đâu ?

Thân cá Hồi tan tác đã chìm sâu

Không tìm thấy lối quay về chốn cũ !

Giữa trùng khơi vang tiếng cười dã thú

Hải tặc giằng co thân xác – kinh hoàng.

Tiếng Mẹ kêu, dòng máu chảy đầy khoang

Tay vời níu đàn con run khiếp sợ.

Biển lạnh chiều hoang, trần gian nín thở,

Vòng tai ương kiếp nạn đến vô cùng.

Hồn ai đó ?

Bờ Tự Do bốn hướng, cõi mông lung

Tìm đâu thấy - giữa muôn trùng đen thẳm ?

Tiếng kêu “Trời!” trước phút giây chìm đắm

Biến tan vào giông bão, thét trùng dương.

Vực mồ sâu thịt rã máu còn vương

San hô trắng hay là xương ai trắng ?

Dòng tóc đen bám ghềnh xa hoang vắng

Thành rong rêu sẫm tím một màu tang.

Hồn ai đó ?

Chiếc thuyền Không Gian

Trôi về Vô Tận.

Bánh xe Thời Gian chuyển ngàn uất hận

Chập chờn mấy cõi U Minh.

Lịch Sử nghìn thu trang giấy rợn mình

Ghi chép lại phút kinh hoàng Vượt Biển !



2.

Hồn ai đó ?

Đảo hoang sơ, ai về đây khấn nguyện

Mộ bia tàn, ai thắp nén hương dâng ?

Nơi Ba-Đình vui chuốc rượu Vô Thần

Cười nghiêng ngả mừng reo hò chiến thắng !

Đồng ruộng phơi bày xương trắng

Oan khiên máu lệ thành sông.

Bao thây vùi trong sóng nước biển Đông

Còn sót lại mấy hoang tàn di tích ?

Hồn ai đó ?

Đảo xa xôi mộ phần cô tịch

Giấc ngủ chẳng bình an.

Họ còn theo, cố phá đập tan (* - CSVN)

Để tô hồng chế độ :

“Chủ nghĩa huy hoàng, không ai chối bỏ
Không có người vượt thoát để tồn sinh !!!”

Nhưng bia đời như nắng rọi bình minh

Luôn soi rõ từng vết sâu tội ác

Của loài dã tâm với ngôn từ khoác lác

Đang tôn thờ chủ thuyết lai căn.

Hồn ai đó ?

Từ bao cõi vĩnh hằng

Xin về đây chứng kiến.

Tấm lòng chúng tôi, trọn đời Tâm Nguyện

Chí bền gan, xin vẹn Nghĩa Tình.

Dù ngăn cách Tử Sinh

Giữa hai bờ Nhật Nguyệt.

Dù có ai phá tan mộ huyệt

Đến nghìn sau hồn mãi còn đây.

Nhìn trùng khơi sóng nước dâng đầy

Gửi mơ về cố quốc.

Hồn vẫn sống trong lòng Dân Tộc

Vì hai chữ Tự Do.

Chiều GALANG bão tố sóng to

Hay tĩnh lặng trăng rơi thềm đá.

Sáng PINANG nắng xuyên rừng lá

Hay đêm vờn tiếng hát nhân ngư.

Hồn mãi còn đây, dù bia mộ hoang vu

Không tên tuổi – sá gì tên với tuổi !

Dù xác thân đã hòa chung cát bụi

Biển Đông còn - HỒN MÃI SỐNG THIÊN THU !





Võ Đại Tôn (Hoàng Phong Linh)

Galang – Pinang (Indonesia)

10.10.09 – 17.10.09.
viethoaiphuong
#7 Posted : Thursday, October 22, 2009 12:55:40 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
THÔNG CÁO BÁO CHÍ

v/v: Trình Thỉnh Nguyện Thư bảo vệ di tích Galang





Kính thưa quý đồng hương, những tin tức gần đây từ trong và ngoài Việt Nam cho biết nhà cầm quyền Hà Nội một mặt dâng bán lãnh thổ, một mặt mở cửa cho Trung Cộng ào ạt vào nước vừa phân phối hàng hóa độc hại giết dần mòn các thế hệ tương lai, vừa chiếm lấy công ăn việc làm của người dân, một mặt đàn áp các phong trào yêu nước, tự do, dân chủ khắc nghiệt hơn thời nô lệ Hán - Minh và thời đô hộ của Pháp, mặt khác qua hình thức Visa nhập cảnh kiểm soát và ngăn cản người Việt hải ngoại về nước (nhưng mở rộng cửa cho người Hoa), xem người Việt hải ngoại là kẻ thù, người Việt hải ngoại trở thành người ngoại quốc trên tổ quốc của chính mình. Nhà cầm quyền CSVN không chăm lo phúc lợi của người dân trong nước, nhưng đầu tư rất lớn để đánh phá cộng đồng người Việt hải ngoại, kể cả những nơi xa xôi hẻo lánh như hoang đảo Bidong, Galang. Năm 2005 bia tưởng niệm thuyền nhân đã được dựng lên một ở trại tỵ nạn Bidong (Malaysia) và một ở trại tỵ nạn Galang vào cuối tháng 3. Hai nơi này là di tích trại tỵ nạn cũ. Thế nhưng chỉ hai tháng sau, nhà cầm quyền Hà Nội đã áp lực chính phủ Indonesia và chính phủ Malaysia triệt hạ hai bia tưởng niệm này, lại vu khống rằng nội dung bia tưởng niệm làm phương hại đến uy tín của chính phủ Hà Nội và sự bang giao của hai quốc gia. Hành động vô nhân đạo, vô lương tâm này đã bị cộng đồng người Việt hải ngoại lên án gắt gao. Sự việc tạm lắng đọng, tưởng rằng Hà Nội đã ăn năn hối cải và sửa sai. Thế nhưng, 4 năm sau, song song với chiến dịch tuyên truyền hợp tác và về nước làm ăn, kêu gọi sự đóng góp từ thiện của hải ngoại, kêu gọi người Việt khắp nơi khép lại quá khứ xoá bỏ hận thù, vào tháng 7 – 2009 trong hai số báo liên tiếp, uất ức vì bị Hà Nội can thiệp vào nội bộ nước mình, tờ Jakarta Post đã loan tin Hà Nội lại áp lực Indonesia đóng cửa vĩnh viễn di tích tỵ nạn tại Galang, đây là di tích tỵ nạn duy nhất còn sót lại trong vùng Đông Nam Á. Bài báo cũng tiết lộ rằng từ năm 2005 Hà Nội đã liên tiếp áp lực Indonesia không được quảng bá di tích này trên thế giới, điều đó đã làm thiệt hại rất lớn đến thu nhập của nền du lịch tại quận hạt Batam nơi có đảo Galang.

Trước áp lực mới này cộng đồng người Việt hải ngoại không thể thụ động đứng nhìn Hà Nội ngày càng gia tăng áp lực phá hoại, một lần nữa chúng ta phải tự vệ, bắt buộc phải lên tiếng phản đối và tố cáo trước dư luận quốc tế. Một Uỷ ban bao gồm Đại diện BCH Liên Hiệp Người Việt Hoa Kỳ, Canada, Pháp và Úc cùng với tổ chức Văn Khố Thuyền Nhân đã cùng phối hợp hành động, kháng thư và Thỉnh nguyện thư đã được soạn thảo và gửi đến những nơi cần thiết. Ngày 13-8-2009, Thỉnh nguyện thư đã được gửi đăng trên mạng lưới toàn cầu để đồng hương mọi nơi có thể ký tên ủng hộ. Trong vòng 55 ngày đã có gần 2000 chữ ký. Danh sách ủng hộ viên đã được đăng vào tập Thỉnh Nguyện Thư. Ngày 13-10-2009 phái đoàn người Việt hải ngoại do Văn Khố Thuyền Nhân tổ chức, với sự tham dự của Chủ tịch BCH CĐNV Tự do Liên bang Úc châu, phái đoàn đã chính thức đệ trình Thỉnh Nguyện Thư đến Cơ quan Phát triển Kỹ nghệ tại Batam (BIDA), đơn vị hành chánh cao nhất tại vùng Batam, nơi có di tích trại tỵ nạn Galang. Ngày 14-10, Thỉnh Nguyện Thư cũng đã được đệ trình cho Giám đốc Sở Du Lịch tỉnh Riau. Nhân chuyến đi, Ông Chủ tịch Cộng đồng Người Việt Tự do Liên bang Úc châu cũng đã chính thức ký tặng ngân phiếu 5.000 Úc kim, số tiền quyên góp trong một tuần lễ trước khi rời Úc, và trao tận tay đại diện Thống đốc tỉnh Riau phụ trách công tác cứu trợ, để giúp đỡ trợ nạn nhân động đất tại Padang, Indonesia.

Được biết chiến dịch vận động cứu trợ nạn nhân động đất tại Indonesia và các chiến dịch vận động nhân đạo rộng lớn khác có thể sẽ được phát động trong thời gian sắp tới. Đồng thời, một Uỷ ban Bảo vệ Di tích cũng sẽ được thành lập để nghiên cứu những biện pháp nhằm phục hồi và bảo vệ Di tích Tỵ nạn trong khu vực Đông Nam Á một cách hữu hiệu và toàn diện hơn.

Văn Khố Thuyền Nhân Việt Nam kính thông báo cùng đồng hương khắp nơi về sự kiện này, kính mong quý đồng hương mạnh mẽ ủng hộ những chiến dịch tương lai trong tinh thần Đền Ơn Đáp Nghĩa, bảo vệ Di tích Lịch sử và Nhân đạo không riêng của người tỵ nạn Đông Dương, mà còn là Di tích Nhân đạo và Lịch sử của người dân bản xứ và của cả thế giới vì đã chung lòng cưu mang cứu vớt hàng triệu người giữa cơn nguy khốn trong hơn một phần tư thế kỷ.

Melbourne ngày 18 tháng 10 năm 2009
TM. BAN GIÁM ĐỐC VKTNVN

TRẦN ĐÔNG
email: dongthtran@yahoo.com.au
web: www.vktnvn.com
Ph: +61 403 578 467

Các ghi chú quan trọng:

1- Click vào đây để xem Thỉnh Nguyện Thư và danh sách ủng hộ.
http://www.gopetition.co...alang-refugee-camp.html#
...
...
viethoaiphuong
#8 Posted : Wednesday, March 10, 2010 6:09:39 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
TRƯỜNG XUÂN - TRƯỜNG XUÂN
(35 Năm Nhìn Lại)


Giao Chỉ - San Jose

Tàu Trường Xuân.

Tháng 4 năm 1975-Saigon / “ Một con tàu ngơ ngác ra khơi ” (Nam Lộc) / Một thuyền trưởng tuyệt vọng / Gần 4 ngàn hành khách của định mệnh / Cuộc hành trình không bờ bến / Vỏn vẹn 3 ngày hải hành trôi nổi / Hai người tự tử thủy táng / Hai đứa trẻ ra đời / Con tàu kéo Song An, cứu tinh số 1 / Thương thuyền nhân đạo Ðan Mạch, cứu tinh số 2 / Sau cùng, tàu Trường Xuân không chìm được kéo về Hồng Kông với thi hài của người khách cuối cùng: Ðại tá Wong A Sáng, sư đoàn 5 bộ binh / Câu chuyện 34 năm trước được kể lại vào dịp ghi dấu 35 năm sau (1975-2010 ). / Và giới thiệu người con gái của biển Ðông: Chiêu Anh. (Shining Light).

* * *

Có con tầu nằm trên bến đỗ...
Ngày xưa tại Việt Nam gần như chỉ có 1 hãng thương thuyền hàng hải lớn nhất là Vishipcoline của chủ nhân Trần đình Trường. Hiện ông Trường là nhà tư bản có nhiều tài sản và hotel tại Nữu Ước.

Thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy.

Một trong các thương thuyền của hãng là tàu Trường Xuân, vị thuyền trưởng lúc đó là ông Phạm Ngọc Lũy. Ông Lũy sinh quán tại Nam Ðịnh, ra đời năm 1919. Vào tháng 5-1975 thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy đã có 30 năm kinh nghiệm hàng hải.

Ngày 26 tháng 4 năm 1975, Trường Xuân đã xuống hàng hoàn tất chuẩn bị chở sắt vụn đi Manila. Một chuyến đi vô thưởng vô phạt. Thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy lúc đó 56 tuổi, Bắc kỳ di cư, quyết không ở lại sống với cộng sản. Ông tìm đường ra đi bằng mọi giá. Ông ước mong dùng được Trường Xuân chở đồng bào tỵ nạn. Trên đống sắt vụn của Trường Xuân lần này phải là sinh mệnh của những con người. Ông cần có thủy thủ đoàn và ông cần cả hành khách. Trải qua bao nhiêu là gian nan phức tạp vào cái tuần lễ cuối cùng của cái tháng 4 đen oan nghiệt. Sau cùng tới 29 tháng 4-1975 thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy viết lên tàu hàng chữ định mệnh. Tàu Trường Xuân khởi hành 12 giờ trưa 30/4/75.



Lúc đó thủy thủ đoàn gần 30 người nhưng ông chỉ có vỏn vẹn 5 người. Có lẽ ông cần chừng 300 hay 400 hành khách, nhưng chưa có người nào.

Con tàu Trường Xuân ngủ yên trên bến Saigon giữa đêm 29 rạng ngày 30 tháng 4-1975.

Saigon hấp hối
Tại Saigon mặt trận Long Khánh đã tan vỡ, tất cã 3 quân khu đều nằm trong tay giặc. Chỉ còn miền tây vẫn yên tĩnh. Sáu sư đoàn cộng quân 3 mặt tiến về Saigon. Các đơn vị pháo của Bắc quân đã chuẩn bị trận địa pháo vào thủ đô. Các tiền sát viên chỉ điểm cộng sản đã có mặt tại các vị trí quân sự.

Phi cơ trực thăng Hoa Kỳ đang bay di tản những phi vụ cuối cùng. Nội các mới của Việt Nam Cộng Hòa họp bàn về việc bỏ súng và bàn giao. Ðài phát thanh Saigon chuẩn bị đọc những lời tuyên bố đau thương của tổng thống Dương văn Minh gửi người anh em phía bên kia , xin mời vào nói chuyện. Thủ tướng Vũ văn Mẫu kêu gọi người anh em đồng minh Hoa Kỳ phía bên này, xin vui lòng ra đi.

Giữa mùa hè chói chang, radio của quân đội Hoa Kỳ chơi bài Tuyết Trắng, một ám hiệu kêu gọi ra đi lúc trái gió trở trời. Ðài quân đội Việt Nam Cộng Hòa hát nhạc quân hành trong tuyệt vọng.

Ðó là Saigon của đêm 29 rạng ngày 30 tháng 4-1975. Con tầu Trường Xuân bụng đầy sắt vụn vẫn nằm ngủ yên trên bến sông Khánh Hội. Lửa bắt đầu bốc cháy bên kho đạn Thành Tuy Hạ.

Cô gái thuyền nhân trong bụng mẹ
Cũng vào cái tuần lễ sau cùng của tháng 4 nghiệt ngã đó, có bà sản phụ vào nhà thương ngày 27/4/1975 để chuẩn bị sanh đứa con thứ hai.

Bà dược sĩ trẻ tuổi có mang 9 tháng 10 ngày. Ðứa bé sẽ ra đời bất cứ lúc nào. Bây giờ tính sao đây. Xin mổ để sanh sớm rồi chạy, hay là tìm đường chạy rồi muốn ra sao thì ra. Chợt có được giấy phép di tản bèn bỏ nhà thương vào tòa đại sứ Mỹ. Nhưng rồi máy bay không trở lại. Cộng sản vào đến cửa ngõ Saigon. Gia đình tìm đường xuống Khánh Hội. Tìm ghe chạy ra tàu Trường Xuân sáng 30 tháng 4-75. Bà bầu cùng gia đình, mẹ già, con trai nhỏ 2 tuổi leo giây lên Trường Xuân.


MS Clara Maersk (Denmark) Mother and children.

Gia đình bà dược sĩ Saigon, mới ra trường năm 1972 đã thành những người khách không mời của chuyến hải hành vô định trên tàu Trường Xuân, ra đi xế chiều 30 tháng 4-1975.
Ðứa bé gái hoài thai từ Saigon tự do, nhưng gan lì nằm trong bụng mẹ hay sợ súng đạn nên không chịu chào đời. Cho đến khi Trường Xuân ra đến hải phận quốc tế. Ðứa bé mới chịu ra đời. Ðó là câu chuyện 34 năm trước viết lại cho ngày kỷ niệm 35 năm sau vào tháng năm 2010.

Trở lại với Trường Xuân
Vào chiều 30 tháng 4-1975, con tàu Trường Xuân sau khi đã thành lập xong 1 thủy thủ đoàn tình nguyện và có gần 4,000 hành khách ngẫu nhiên đã lên đường hết sức vất vả trong điều kiện kỹ thuật tồi tệ và bị phá hoại mọi bề.

Hành khách không vé của Trường Xuân gồm đủ tất cả hai ba thế hệ Việt Nam Cộng Hòa, mọi thành phần, mọi giai cấp, mọi hoàn cảnh. Ðủ cả ba ngành lập, hành và tư pháp. Có mặt sĩ nông công thương binh. Không hề thiếu nam phụ lão ấu. Các nghệ sĩ sáng tác và nghệ sĩ trình diễn. Chuyến hải hành vào chân trời vô định với một ông thuyền trưởng nhân đạo và hết sức kiên định. Những tay phụ tá tình nguyện rất xuất sắc và sau cùng định mệnh đã đưa 3,628 con người đi tìm tự do đến được bến tự do.

Thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy đã nói rằng Trường Xuân sẽ không thoát được nếu không có Song An. Song An là ai ? Ðây chỉ là tên con tàu kéo nhỏ bé đang trên đường từ Vũng Tàu về cảng Saigon. Anh già Trường Xuân đang mắc cạn bèn túm lấy đứa bé Song An đòi nó kéo. Vậy mà nó kéo được. Ra đến hải phận, cho đến lúc anh già Trường Xuân tự chạy được bác cháu mới chia tay. Lẽ dĩ nhiên câu chuyện hải hành của đêm dài 30 tháng 4-75 không giản dị như thế ! Với lửa cháy ngập trời Thành Tuy Hạ và tiếng súng đuổi theo trên sông Lòng Tào, đêm hôm đó là đêm dài nhất của cuộc đời Trường Xuân.

Khi anh già Trường Xuân từ giã cậu bé Song An trên đại dương, khách Trường Xuân góp tiền cho Song An trở về Saigon. Hai, ba bị tiền hàng chục triệu đồng Việt Nam đưa qua. Lái tàu Song An nói 1 câu kỳ diệu “ Thôi ! tiền nhiều quá, đủ rồi. Ðừng đưa nữa “.Trong đời chúng ta hiếm khi nào nghe được những lời nói đó.

Với tâm tình như vậy, tàu kéo Song An từ giã Trường Xuân. Tiếng còi tạm biệt trên trùng khơi nghe những nghẹn ngào.

Có vài hành khách bỏ Trường Xuân nhẩy theo Song An trở về Saigon. Trên 3,600 khách Trường Xuân ngó theo Song An nhỏ dần trên đường trở lại quê hương. Khóe miệng chợt thấy vị mặn. Ðây là nước biển sóng đánh bên thành tàu hay là nước mắt biệt ly.

Rồi con tàu Trường Xuân chạy 1 mình. Gần 4,000 hành khách. Không đủ nước, không có thức ăn. Máy móc trục trặc. Nước tràn vào khoang tàu. Sắt vụn vô tri dưới hầm tầu. Con người tuyệt vọng ở trên boong.

Hai người tự tử được thủy táng. Việt cộng phá hoại chỗ này. Máy tàu hư hỏng chỗ kia.

Con tàu vô định có thể sẽ là quan tài nổi. Một hỏa diệm sơn chưa nổ. Các tin tức bi quan được lệnh của thuyền trưởng phải dấu kín. Trường Xuân nín thở, ỳ ạch tiếp tục chạy. Chợt có tiếng kêu : “Có người rớt xuống biển.”

Ông thuyền trưởng Nam Ðịnh đứng im trên đài chỉ huy lặng người bất động. Nửa giờ trôi qua như 1 thế kỷ. Captain Phạm ngọc Lũy sau cùng ra lệnh quay tàu lại vớt người. Một quyết định vô vọng. Hành khách nói. Một quyết định sai lầm. Hành khách nói. Hy sinh 4,000 người để cứu 1 người là nhầm lẫn. Hành khách nói. Captain điên rồi.

Tại sao ? Thuyền trưởng sau này trả lời. Tìm vớt 1 người để cứu 4,000 người.

Như vậy có thể hiểu rằng con tàu Trường Xuân đang là một hỏa diệm sơn sẵn sàng phun lửa nổi loạn. Hành động bình tĩnh quay tầu lại tìm 1 người là bài học nhân đạo cho mọi người và giữ cho được sự bình an của toàn thể con tàu.

Có thể Thượng Ðế trên cao đã nhìn thấy chuyện vớt người giửa biển của Trường Xuân nên đã đem lại vị cứu tinh số hai. Ðó là con tàu Ðan Mạch. Tiếng Trường Xuân kêu cứu vọng trên đại dương. Tàu Ðan Mạch trên đường viễn du hỏi rằng thế đã kêu hạm đội Mỹ chưa? Trả lời : “Có số đâu mà kêu.” Ðan Mạch thở dài. “Thôi chờ đó, chúng tôi sẽ đến tiếp tế và rước chừng 1,500 đàn bà trẻ con.”

Ra đời giữa trời biển mênh mông
Trước đó vài giờ đồng hồ, sáng ngày 2/5/75, bà dược sĩ họ Bùi đau đẻ. Gần 4,000 con người phải chừa ra 1 chỗ trống cho sản phụ. Ðứa bé gái ra đời khoảng 2 giờ sáng. Con bé gốc Saigon Việt Nam, nằm trong bụng mẹ trên Trường Xuân, được kéo đi bởi Song An. Sanh ra giữa biển Ðông, Thái bình dương. Không sữa, không nước, không cơm, không cháo. Một người dúi vào tay sản phụ miếng cam thảo.

Bà nhai ra rồi lấy nước miếng bôi vào miệng con gái. Tiếng khóc chào đời vang trên biển rộng mênh mông. Một thanh niên nhấc bổng đứa bé đưa qua tàu Ðan Mạch. Bà mẹ nhìn theo bóng con vươn lên trời xanh, nước mắt một lần nữa lại như vị mặn của biển khơi.

Khai sanh của cháu đề ngày 2/5/1975 trên tàu Ðan Mạch, tên cháu là Chiêu Anh.

Trường Xuân: Ôi, Trường Xuân !

Như vậy là tổng cộng ba ngàn sáu trăm hai mươi tám người đến bến tự do, bây giờ định cư ở bốn phương trời. Một thế hệ Trường Xuân ra đời và nối tiếp.

Thoạt tiên tất cả được đưa về tạm trú ở Hồng Kông. Nhà chức trách Hương Cảng hứa hẹn sẽ không trả về Việt Nam.

Trước khi rời con tàu, thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy đi thanh sát một vòng. Hình ảnh cảm động sau cùng là một người đàn ông mệt mỏi cúi xuống cõng bà mẹ già tê liệt. Trên khoang tàu mênh mông hiện chỉ còn là bãi rác. Một người đàn ông ạch đụi cõng mẹ qua tàu Ðan Mạch, quả thực là hình ảnh hết sức ngậm ngùi. Ðó là ông thiếu tá nhẩy dù Phan Huy Hoàng, sau này đưa mẹ về định cư tại Texas.

Khi vị thuyền trưởng rời tàu Trường Xuân thì nước đã tràn vào khoang máy. Vẫn còn dưới hầm, thân xác 1 ông già sẽ thủy táng theo con tàu.

Nhưng sau này được biết, khi người lên hết tàu Ðan Mạch, Trường Xuân ngập nước nhưng không chìm. Hai tháng sau được kéo về Hồng Kông, đi theo hành khách của nó.

Con rể của ông già nằm trên Trường Xuân đã nhận xác cha. Di hài vị dân biểu gốc Nùng của Việt Nam Cộng Hòa: Ðại tá Wong A Sáng của sư đoàn 5 bộ binh, một thời đồn trú tại Sông Mao. Con người và con tàu, cả hai đều làm xong nhiệm vụ cuối cùng cho hai chữ tự do.

Một thế hệ tương lai
Bà dược sĩ trẻ tuổi họ Bùi bây giờ định cư tại Montreal, Canada và học lại nghề cũ từ 1977. Pharmacie BUI tại Gia nã Ðại có từ ngày đó.

Ðứa bé gái Chiêu Anh ra đời giữa Thái Bình Dương tháng 5-75, hai mươi tư năm sau vẽ 1 bức tranh họa cảnh tàu Trường Xuân nộp cho trường đại học Parkson school of Design, New York. Cô được nhận vào học và tốt nghiệp danh dự với huy chương vàng về ngành sáng tạo y phục thời trang. Hiện Chiêu Anh còn độc thân và làm việc tại San Francisco Hoa Kỳ. Trong một bản văn tự thuật bằng Anh ngữ, Chiêu Anh kể chuyện mình như sau.

“Con là Trường Xuân Baby. Từ biển cả, con là một thuyền nhân sống xót. Khi Sài Gòn thất thủ, cha mẹ chạy xuống tầu Trường Xuân của thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy. Trong cái đêm dài sâu thẳm, vào lúc 2 giờ sáng 2 tháng 5-75 con sanh ra đời. Ðó là giây phút của hãi hùng và hy vọng. Ðời con khởi sự vất vả. Mắt hài nhi không mở. Xương quai bị gẫy, vai bị cụp. Mẹ đói không có sữa cho con. Vị cam thảo ngọt bôi vào miệng sơ sinh vẫn còn ghi nhận cho đến ngày nay. Tầu Danish của thuyền trưởng Ðan Mạch Anton Martin Olsen đã cứu gia đình con và đưa vào nhà thương Anh Quốc tại Hồng Kông. Khai sanh của con với chứng chỉ công dân Denmark trên tầu MS Clara Maersk. Vì những giấy tờ này, tòa đại sứ Ðan Mạch lo cho cả gia đình định cư tại Canada trong 21 ngày. Con đã tiếp tục sống trong những ngày thơ ấu khó khăn vất vả như những gia đình tỵ nạn khác. Cùng với người anh hơn con 2 tuổi, chúng con cố sức học hành để xây dựng tương lai. Con xin được học bổng để theo ngành sáng tạo thời trang và tốt nghiệp 1998 với bằng danh dự tại đại học hàng đầu New York. Con bắt đầu làm việc cho các hãng thời trang nổi tiếng tại Paris, New York và San Francisco. Con đã có dịp đi đến tất cả các đô thị lớn nhỏ từ Âu châu, Á châu, Mỹ châu trong thế giới của ngành sáng tạo thời trang. Nhưng con luôn luôn nhớ rằng mãi mãi vẫn là một thuyền nhân sống xót, một Trường Xuân Baby.”

35 năm nhìn lại
Kể từ tháng 4-75 cho đến tháng 4-2010 chúng ta có 35 năm nhìn lại. Mỗi năm chúng tôi sẽ chọn 1 nhân vật hay 1 sự kiện để giới thiệu.

Trên sân khấu CPA của San Jose tháng 5-2010, người đầu tiên được giới thiệu sẽ là cô Chiêu Anh, Shining Light.

Cô sẽ hiện diện với thân mẫu từ Canada, với bác thuyền trưởng Phạm ngọc Lũy 91 tuổi, với hình ảnh của Trường Xuân, của Song An, và của con tàu Ðan Mạch.
Khởi đầu từ năm 75 trở đi, qua 76, 77 cho đến 2009 và 2010. Lịch sử giở lại từng trang. Bi thảm, hào hùng, tuyệt vọng và hy vọng. Nhưng mở đầu vẫn là chuyến hải hành ngắn ngủi nhưng hết sức đặc thù.

Chuyến đi của Trường Xuân


Trường Xuân, ơi Trường Xuân, Saigon tháng 4 đen
Bốn ngàn người vượt biển, Bỏ đất nước điêu linh. Trên con tàu vô định

Trường Xuân, ơi Trường Xuân. 35 năm nhìn lại
Xem ai còn ai mất, Lệ tuôn khắp dặm trường. Bốn phương trời thế giới

Trường Xuân, ơi Trường Xuân. Gần bốn ngàn người sống.
Với ba mạng tử vong. 2 đứa bé lọt lòng. Giữa mênh mông trời biển

Trường Xuân, ơi Trường Xuân. Một thế kỷ vừa qua...
Tương lai rồi sáng chói. Chuyện này cần kể lại...

Trường Xuân, ơi Trường Xuân, Ngàn năm còn nhớ mãi...

Giao Chỉ - San Jose
________________________
Nguồn : hiepdang@swbell.net
viethoaiphuong
#9 Posted : Friday, March 26, 2010 12:48:58 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
Chuyến vượt biển hãi hùng


Đoàn người chúng tôi vượt biển bằng chiếc ghe với chiều dài khoảng 10 thước, ngang 2 thước, kéo bằng chiếc máy đầu tám ngựa khỏi Bãi Giá, Đại Ngãi, Hậu Giang, Sóc Trăng chở 78 con người đủ lứa tuổi, riêng trẻ em khoảng 20 cả trai lẫn gái, hầu hết thuộc về làng ven biển, mà tôi chỉ biết một số người.

Chúng tôi rời quê hương tháng 2 năm 1990, thời tiết êm dịu, mọi việc kể như trót lọt, nhưng đồ ăn nước uống rất thiếu thốn, vì thế sau bảy ngày chịu đựng một em bé sáu tuổi khóc mãi và chết trong tư thế đang khóc, mọi người lấy ván có sẵn trong ghe làm tạm chiếc hòm với hy vọng ngày mai mang lên bờ chôn cất, tối đó có rất nhiều người nằm mơ nhiều chi tiết liên quan đến cái chết của cháu bé, riêng tôi thấy rất nhiều trẻ em kêu khóc, níu kéo ghe chìm xuống, thế là mọi người đều đồng ý cúng vái với một ít mì gói vụn và thả hòm xuống biển, mấy đêm sau đó mọi người không còn những giấc mơ kinh hoàng nữa.

Vài giờ sau chiếc ghe máy bị hỏng không ai sửa chữa được, thế là thuyền lênh đênh trên biển thêm bảy ngày đêm, đói thì ăn cả kem đánh răng, khát thì uống nước biển hoặc nước tiểu, cứ tối đến thì thỉnh thoảng đốt lửa kêu cứu bằng quần áo tẩm dầu.

Một đêm khoảng 2 giờ 30 sáng, trong lúc người ta đốt lửa làm hiệu thì nhận ra một chiếc tàu chạy đến và dừng lại trao cho chúng tôi chuối, nước, rồi tự động cột dây kéo đi. Người trên chiếc tàu đó không biết là người nước nào. Chúng tôi rất mừng vì được cứu. Khoảng mười phút sau đó, tàu dừng lại song song với ghe và ra dấu chỉ vào tai, vào ngón tay, cổ tay chúng tôi, mấy tiếng giọng lơ lớ “US đô la”. Vì quá vui mừng nên chủ ghe Năm Be vội lấy mũ nỉ gom góp nữ trang của những người trên ghe, họ đứng nhìn và thấy nữ trang được bỏ đầy vào chiếc mũ thì nhẩy qua ôm chiếc mũ sang tàu họ. Một người có vẻ là chủ tàu ra dấu như không đủ vào đâu nên ra dấu bảo đưa thêm hoặc chính họ sang để lục soát. Rồi họ tự động cột giây từ bánh lái đến mũi ghe và cột vào tàu họ. Tôi và một số thanh niên khác cảm thấy lo sợ và nghi ngờ hành động này thì tức thời họ ra dấu chỉ đám đàn ông đu dây xuống nước dọc thành ghe. Tôi và mọi người cùng biết đây là bọn hải tặc đang tìm cách hãm hại những người trên ghe, đang do dự không tuân lệnh nhưng chủ ghe Năm Be lại giải thích vì của cải chúng tôi nộp chó họ quá ít ỏi không đủ cho chuyến đánh cá của họ. Và vì họ ít người nên ngại chúng tôi đông người đó thôi. Thấy chúng tôi vẫn đứng yên, Năm Be vung tay nói; “ Đ.M! có thằng nào chịu nổi cú đấm của tao không mà bày đặt chống cự ?”, thế là chúng tôi hậm hực đu xuống, bọn họ chỉ tay ra dấu cho Năm Be đu xuống luôn. Cả đám đàn ông thanh niên đu dây trong biển dọc thành ghe mà nhìn họ.

Trời lờ mờ sáng và với đốm lửa cấp cứu mà chúng tôi đã đốt lên, nhận ra bọn họ khoảng năm tên, tay xách búa chặt cây bước sang lục soát những phụ nữ, trẻ em trên ghe, sau dó tên lái táu lái ghe chạy làm lệch ghe. Đàn ông thanh niên dưới nước ôm chặt dây sát vào ghe, cố ngoi đầu lên thở còn thân mình và đôi chân trôi trong nước theo tốc độ của ghe bị kéo. Chúng tôi còn đang kinh hoảng thì những chiếc búa vun vút chém vào đầu, vào mình đám đàn ông thanh niên đang đu dây.

Cảnh tượng thật kinh hoảng, tiếng la ó từ trên ghe của phụ nữ, trẻ con, tiếng hét chỉ một lần rồi tắt lịm của những nhát búa trúng đích vào đầu, tiếng la thất thanh của những ai bị chém trúng tay, cổ, vai hoặc lưng.

Tôi kinh hãi buông tay lúc nào không hay và lặn ngầm qua bên kia của ghe. Tên lái tầu rọi đèn pha đảo qua đảo lại để nhìn cho rõ ràng mà chém, chợt nhận ra tôi, một tên trong bọn lấy mỏ neo liệng theo nhưng may không trúng, thế là tôi lặn tiếp một hơi.

Rời xa ghe một khoảng, tôi nhìn lên ghe, đèn sáng choang từ dưới mặt nước nhìn rất rõ, tôi thấy họ tách một đứa bé ra khỏi tay một bà nào đó liệng xuống biển, tôi tiếp tục bơi xa và nhìn thấy tàu đã húc cho ghe chìm hẳn. Tôi quá kinh hãi không biết chuyện gì đã xảy ra sau đó nữa, mãi qua đến trại Sikew qua một bé gái 13 tuổi tôi mới biết là trẻ em quá nhỏ thì bị liệng xuống biển, còn bé gái đang lớn và tất cả phụ nữ thì họ lùa lên tàu và ngày đêm thay nhau hãm hiếp.

Tôi vẫn tiếp tục bơi mà chẳng biết đi về đâu, mãi gần sáng gặp được tài công Thời (còn gọi là Chệt Lác) lưng bị chém một nhát búa, và ông Hùng bị một nhát búa ngang mang tai máu me còn rỉ ra. Cả hai đnag ôm một thùng nhựa đựng dầu 20 lít làm phao, tôi mệt quá ghé tay vịn vào nhưng cả hai năn nỉ tôi rời xa đi vì thùng dầu quá bé không đủ sức nổi cho ba người, tôi thông cảm họ và chợt nhớ ra vết thương của hai người máu rỉ ra rất dễ làm mồi cho cá mập. Thế là tôi bơi đi và chợt nảy ra sáng kiến cởi chiếc quần dài thắt ống, lộn ngược làm phao, tôi dựa cổ vào đáy quần và cứ thế một vài giờ lập lại cách làm như vậy cho đến khoảng gần giữa ngọ ngày hôm sau. Nhìn xa xa thấy một vật mầu đen đen nhấp nhô, thế là tôi cố gắng lội đến và rất may vớ được thùng dầu từ chiếc ghe của chúng tôi. Tôi vội ôm ngay vào ngực và thấy sung sướng lạ thường như vừa trút được một khối nặng nề mệt mỏi ra khỏi con người vậy. Nhìn quanh thấy kẻ ôm thùng, người bơi, người ôm ván, không biết ai là ai nhưng nhẩm đếm những điểm di động có vào khoảng 30 người. Tôi rất mừng vì còn được nhiều người sống sót, hoạt cảnh xẩy ra như thể chúng tôi đang chia từng nhóm bơi lội vậy. Có khá nhiều tàu đánh cá khoảng hơn mười chiếc không biết của nước nào đi ngang, nhưng họ tỉnh bơ nhìn chúng tôi như đang tắm biển vậy, có thể nói từng chiếc tàu đó nghe thấy tiếng kêu cứu não nề tuyệt vọng của chúng tôi trên mặt biển đều khoát tay từ chối. (Khi đến trại chúng tôi được biết nếu họ cứu thì sẽ phiền đến họ vì phải khai báo, chụp hình chung với nhau theo luật Cao Ủy Tị Nạn để điều tra, và nhất là họ sợ bọn hải tặc nhận ra sẽ trả thù) Chúng tôi cứ lêu bêu ngày đêm trên biển đến ngày thứ ba đã thấy lờ đờ vài ba xác chết và nhiều người bất động còn ôm thùng, ván, có một cái xác ngay sát gần bên tôi. Đến trưa, chợt một tàu đánh cá chạy lại gần lại một cặp vợ chồng. Họ vớt vội người đàn bà, đó là chị Lên đang lả người bám vào ván, anh Vũ vội bám vào thành tàu để họ vớt lên thì bọn họ gỡ tay đẩy xô ra, nhìn xuống trông thấy tôi chị Liên vội la lên; “Hoàng ơi, giúp anh Vũ với !”, tôi chẳng giúp được gì, tôi cũng như anh ấy lều bều trên mặt nước, anh Vũ chỉ biết nhìn theo như cái xác không hồn. Chiều đến sóng bắt đầu lớn, cha con ông Ba Vạn và cháu Hồng ôm thùng dầu bị dập vùi trong cơn biển động trông quá kiệt sức, đột ngột ông Ba Vạn thốt lên “Hồng ơi! Tao bỏ mày!”, thế là ông buông tay mất tăm. Chẳng mấy ai còn để ý đến nữa, tôi cũng như mọi người đều mê sảng, hoa mắt, có người thốt lên thấy cồn cát trước mặt, có kẻ thấy hàng dừa xanh mướt, kẻ thì thấy núi xanh thăm thẳm, người thấy cồn đất, còn tôi thì thấy bờ dừa và người đàn bà ngoắc tay như bảo tôi bơi vào, tôi bơi theo hướng tôi thấy, mạnh ai nấy lội theo hướng riêng. Tôi bơi rất lâu mà chẳng thấy đến gần, rồi người đàn bà hiện ra bảo tôi bỏ thùng mà bơi cho nhanh, tôi buông ra và ra sức bơi bằng tay, được vài phút cũng chẳng thấy bờ dừa. Chợt ôi như bừng tỉnh và cầu nguyện thì thấy cát biển, cây dưới nước, tôi đứng xuống rồi người tôi chìm hẳn và mê sảng, thấy như người nào cho ăn, tự nhiên tỉnh táo, mở mắt nhìn lại thấy mình đang chìm dần nên tôi hoảng hồn lội lên, một hồi mới nổi khỏi mặt nước. Nhìn chung quanh toàn biển là biển, thì ra tôi đang mê man hoang tưởng, và kỳ lạ là không cảm đói khát chi, đêm hôm đó trải qua một đêm quả là kinh hãi.

Đến sáng tôi gặp được ba người lớn và ba trẻ em còn lại trên biển gồm người cha có đứa con sáu tuổi bị tách rời mẹ quăng xuống biển và vợ thì chúng bắt hãm hiếp, đứa bé chín tuổi con của anh ta, cô bé 13 tuổi có mẹ bị chúng bắt sang tàu hãm hiếp và hai người em nhỏ bị tách ra liệng xuống biển, cháu Hồng con ông Ba Vạn bị sóng dập kiệt sức buông tay, Từ Minh Tường, Thời (Chệt Lác). Qua 5 ngày 4 đêm trên biển chúng tôi gặp một tầu sắt và một tầu đánh cá, họ dừng lại, chúng tôi cũng chẳng màng đến vì hàng trăm chiếc cũng đã qua đi như vậy. Thế nhưng họ đang vớt chúng tôi, tuy có muộn màng vì quá nhiều người kiệt lực trên biển, nhưng vẫn còn sống sót bảy người lớn nhỏ, tôi nhìn đồng hồ tay là 6 giờ 58 chiều. Nhìn họ nước da ngăm đen, quấn xà rông tôi không đoàn được họ là người nước nào, họ đang loay hoay nấu cháo cho chúng tôi ăn, uống từng chút như họ đã có kinh nghiệm cho những người vượt biển đói khát này rồi. Họ chở chúng tôi và tiếp tục đi đánh cá, hơn một giờ sau đánh bắt được một con cá mập họ đem bỏ xuống hầm tàu, nó quậy ầm ầm, họ chỉ tay xuống hầm rồi chỉ chúng tôi như muốn nói sẽ bị cá ăn thịt nếu tụi tôi còn lêu bêu trên nước.

Tầu chở chúng tôi vào bờ khoảng 5 giờ sáng, họ ra dấu sẽ có cảnh sát tới giúp nhưng đừng nói số tàu của họ cứu, rồi họ vội quay tầu ra khơi (Sau này tôi mới biết vùng biển đó thuộc mã Lai Á cạnh Thái Lan). Khoảng nửa giờ sau, có cảnh sát đến, chúng tôi vẫn chưa rõ là người nước nào, một cảnh sát biết tiếng Việt chỉ vào một chiếc xe pick up truck và bảo chúng tôi “Lên xe đi”. Trên đướng đi họ hỏi chúng tôi có biết cô gái nào tên N. 13 tuổi không? Một anh nhận là cháu vợ, thế là họ trở về trạm cảnh sát và anh đã gặp được cô cháu gái thân xác ốm yếu, và nhất là đôi chân bước đi hai hàng trông đau đớn lắm. Gặp lại chúng tôi, cháu khóc nức nở kèm theo nỗi kinh hoàng ghê gớm trên khuôn mặt, chúng tôi cùng im lặng trong nỗi đau đớn chung. Một chập sau đó cháu kể lại đã bị nhốt trên tầu 3 ngày đêm và bọn hải tặc liệng hết quần áo em mà đè ra thay nhau hãm hiếp, cháu khóc la hét đau đớn mà bọn chúng thì cứ hết đứa nọ đến đứa kia cho đến khi cháu không còn biết gì thì chúng xách liệng xuống biển cháu mới bừng tỉnh dậy. Cũng may mắn là chỉ vài phút sau đó được tàu cảnh sát vớt. Anh ta hỏi thăm về vợ mình (là dì của cháu N), cháu cho biết là vẫn còn sống nhưng dì la hét suốt ngày đêm vì bọn họ hãm hiếp dì nhiều quá! thế là trong số 78 người ra đi, chỉ còn lại 8 người sống sót.

Sáng hôm sau một số người trong Cao Ủy Tị Nạn đến chích ngừa, chăm sóc cho bé N...Còn 7 người chúng tôi thì hình dáng gần như nhau, ai cũng lở loét khắp mình và mặt mũi, da sưng từng mảng, được thoa và uống thuốc trị liệu.

8 người chúng tôi ở đó ba tháng rồi được làm hồ sơ đi trại Sekew, 30 ngày sau được thanh lọc và tất cả chúng tôi được chấp thuận đi diện nhân đạo. Ở lại trại thêm 6 tháng nữa, riêng tôi định cư tại Hoa Kỳ theo diện đoàn tụ anh chị em ngày 20 tháng 10 năm 1992. Mong rằng những câu chuyện đau thương này sẽ tạo khối đoàn kết mạnh hơn trong cộng đồng người Việt hải ngoại khắp thế giới.

Hoàng Định
viethoaiphuong
#10 Posted : Friday, April 9, 2010 11:51:43 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)


Những hình ảnh lịch sử tháng Tư năm 1975





























Originally posted by ngocanh - GL - VB
viethoaiphuong
#11 Posted : Saturday, April 24, 2010 6:04:22 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
viethoaiphuong
#12 Posted : Wednesday, May 5, 2010 11:31:20 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
Phi vụ lịch sử 35 năm trước
của chiếc Bird Dog (L-19)


Tuesday, May 04, 2010

WESTMINSTER (VN) - Trong bài “USS Midway kỷ niệm 35 năm Operation Frequent Wind” trên báo Người Việt, ngày Thứ Hai 3 tháng 5, bức hình tài liệu về chiếc máy bay do phi công Lý Bửng đáp xuống sân mẫu hạm, do sơ xuất, tòa soạn đã ghi sai chú thích là “trực thăng”.

Thật ra đó là một máy bay cánh thẳng không có trang bị đặc biệt để đáp trên phi đạo chiều dài không quá 600 feet của mẫu hạm, và việc đáp thành công được coi là một thành tích lịch sử trong Hải quân Hoa Kỳ.


Phi công Lý Bửng trả lời phỏng vấn báo chí ngoại quốc ngay sau khi đáp chiếc
'Bird Dog' xuống hàng không mẫu hạm USS Midway. (Hình: USS Midway Museum)

Chiếc máy bay do Thiếu tá Không quân Việt Nam Cộng Hòa Lý Bửng lái là máy bay quan sát một động cơ cánh quạt do hãng Cessna chế tạo, được quen gọi với danh số lúc đầu là L-19, và từ 1962 đổi thành O-1, có biệt danh là Bird Dog. (L= Liaison, liên lạc – O=Observation, quan sát).

L-19 được dùng với nhiệm vụ chính là thám sát chiến trường từ trên không để loan báo tình hình cho bộ binh, hoặc hướng dẫn pháo binh tác xạ hay máy bay oanh kích. Không quân và Lục quân Hoa Kỳ sử dụng L-19/O-1 suốt ¼ thế kỷ, đến 1974 thì được thay thế hoàn toàn bằng loại O-2 có hai đuôi và một động cơ cánh quạt ở phía sau thân chính.

L-19/O-1 là loại máy bay nhỏ, chiều dài 7.85 mét, sải cánh 10.97 mét; một động cơ cánh quạt 213 mã lực, hai ghế ngồi cho phi công ở phía trước và quan sát viên phía sau. Trọng lượng máy bay không là 732 kg và trọng lượng tối đa để có thể cất cánh 1,089 kg, có nghĩa là sức chở không quá 300 kg. Trong chuyến di tản, phi công Lý Bửng đã chở theo bà vợ và 5 đứa con, với tầm vóc nhỏ bé của người Việt Nam, tổng cộng trọng lượng của 7 người có thể chưa quá 300 kg nhưng dồn ép trong phòng lái chật hẹp chỉ đủ cho hai phi công là chuyện lạ thường.

Chiều 29 tháng 4 năm 1975, máy bay cất cánh từ Côn Sơn với nhiên liệu chỉ có thể bay trong 1 giờ. Nhìn thấy USS Midway nhưng không có tần số liên lạc vô tuyến, phi công Lý Bửng lái máy bay xuống thấp đi ngang mẫu hạm và mở cửa sổ bên, ném xuống một miếng giấy ghi vắn tắt tình trạng của 7 nhân mạng và xin dẹp khoảng trống để có thể đáp xuống. Phó Đề đốc Hạm trưởng Larry Chambers chấp thuận, nhưng lúc đó trên sàn tàu đậu đầy những trực thăng từ trong đất liền đã đến trước đó và ông quyết định cho đẩy xuống biển một số trực thăng UH-1 trị giá 10 triệu dollars mỗi chiềc.


Chiếc 'Bird Dog' sau khi đáp xuống USS Midway.
(Hình: USS Midway Museum)

Các máy bay của Hải quân để có thể đáp trên mẫu hạm đều cần có một dụng cụ đặc biệt ở đuôi, khi đáp xuống bật ra để móc vào những giây cáp giăng ngang sân tàu và sợi giây cáp hoàn lực sẽ giữ máy bay lại. Chiếc O-1 Birdog không có trang bị ấy nhưng Lý Bửng đã khéo léo điều khiển cho máy bay hạ cánh với vận tốc tối thiểu và khi đã đặt bánh xuống sân tàu tự hãm lại được sau một đoạn ngắn, giữa sự hoan hô nồng nhiệt của các thủy thủ và mọi người chứng kiến.

Chiếc máy bay Cessna O-1 Birdog hiện nay được lưu giữ ở viện Bảo tàng Hàng không Hải quân tại căn cứ không hải quân Pensacola, Florida. Ngày 30 tháng 4 năm 2010, mẫu hạm USS Midway – nay là bảo tàng viện nổi neo tại cảng San Diego, đã làm lễ kỷ niệm 35 năm cuộc di tản khỏi Sài Gòn và khai mạc khu triển lãm vĩnh viễn về chiến dịch Frequent Wind mà chiến hạm này đã tham gia. Một mô hình của chiếc Bird Dog với kích thước lớn như thật được treo ở phòng lớn giữa khu triển lãm. (HC)

viethoaiphuong
#13 Posted : Sunday, May 30, 2010 2:34:55 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)

Cuộc phiêu lưu 20 năm vượt Thái Bình Dương đến Mỹ


Tác Giả : Thanh Trúc, phóng viên RFA
Thứ Sáu, 28 Tháng 5 Năm 2010 14:10


Anh Lê Văn Nơi đứng trước văn phòng luật sư đã tranh đấu cho anh được tỵ nạn tại Hoa Kỳ / Photo courtesy SOSBoatpeople


Khi chiếc thuyền mong manh chở một số người vượt biển ra khỏi hải phận Việt Nam năm 1989, Lê Văn Nơi là một thanh niên.

Tháng Ba năm 2010, được chấp thuận qui chế tị nạn vì lý do tôn giáo, ông Lê Văn Nơi trở thành thuyền nhân cuối cùng đến Mỹ sau hai mươi năm và tám tháng lưu lạc trên những hòn đảo lớn nhỏ của Thái Bình Dương.

Hơn 20 năm giấc mơ đã trở thành sự thật

Mục Đời Sống Người Việt Khắp Nơi hôm nay kể lại chuyến đi những mười mấy năm của Lê Văn Nơi từ đảo này qua đảo khác trước khi tấp vào đảo Guam, lãnh thổ hải ngoại của Hoa Kỳ với khoảng vài trăm người Việt, được phép ở lại một cách chính thức sau nhiều lần ra trước Toà Di Trú địa phương.

Người trực tiếp từ Washington bay qua Guam để giúp đỡ ông Lê Văn Nuôi về mặt pháp lý, tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng, giám đốc điều hành Uỷ Ban Cứu Người Vượt Biển, kể lại:
Khi đến đảo Guam thì anh Lê Văn Nơi gặp một người quen cũ ở Thị Nghè là chị Bé Ba. Đây là sự tình cở hi hữu vì cộng đồng người Việt ở Guam chỉ khoảng ba đến bốn trăm người. Nhờ sự quen biết đó mà chị Bé Ba cùng với cộng đồng người Việt nhỏ bé ở Guam đã xúm lại giúp đỡ cho anh Nơi, hướng dẫn anh Nơi đi tìm luật sư, giúp anh ra trình diện với chính phủ Mỹ để xin ở lại Hoa Kỳ.

Thế nhưng chính phủ Hoa Kỳ muốn trục xuất anh Lê Văn Nơi về Việt Nam vì cho rằng anh không có lý do gì để xin tị nạn. Bên luật sư của Sở Di Dân Hoa Kỳ quyết chứng minh rằng anh Nơi sẽ được an toàn khi trở về Việt Nam bằng cách trình trước toà bản phúc trình về tự do tôn giáo của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, qua đó cho thấy Việt Nam là một quốc gia không có vấn đề bất dung tôn giáo.

“Vị chánh án ra lịnh ngưng phiên xử để có thời gian đọc bản phúc trình của Uỷ Hội Hoa Kỳ Về Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế:
Tháng Ba năm 2010, chúng tôi được tin mừng là quan toà triệu tập lại vụ xử và tuyên bố anh Nơi chính thức được thừa nhận là tị nạn tại Hoa Kỳ.
Bên phía luật sư của anh Nơi thấy cần phải chứng minh ngược lại. Cộng đồng người Việt ở Guam đã tìm mọi cách và cuối cùng liên lạc với chúng tôi.

Từ chị Bé Ba là người ở Thị Nghè cạnh gia đình anh Nơi trước kia, đến những người khác trong đó có bà Kim Chi, mà sự quen biết với giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, và bà Nancy Bùi ở Washington, dẫn tới tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng và Uỷ Ban Cứu Người Vượt Biển.

Tháng Mười Một năm 2009 ông Nguyễn Đình Thắng đến Guam, phối hợp cùng luật sư của ông Lê Văn Nơi :

Tại Toà Án chúng tôi đã trình bày là anh Nơi ra đi vì lý do sợ bị ngược đãi về vấn đề tôn giáo. Luật sư bên Sở Di Trú Hoa Kỳ dẫn chứng rằng hiện nay về tôn giáo ở Việt Nam rất thoải mái. Họ dùng bản phúc trình tôn giáo thường niên của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ để chứng minh điều đó.

Khi chúng tôi ra toà để làm nhân chứng thì chúng tôi đã nêu ra cho quan toà biết còn một bản phúc trình nữa của Uỷ Hội Hoa Kỳ Về Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế, và trong bản phúc trình đó liệt kê Việt Nam là một trong mười một quốc gia trên thế giới có tình trạng đàn áp tôn giáo tệ hại nhất.
Trước sự việc như vậy, vị chánh án ra lịnh ngưng phiên xử để có thời gian đọc bản phúc trình của Uỷ Hội Hoa Kỳ Về Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế:
Tháng Ba năm 2010, chúng tôi được tin mừng là quan toà triệu tập lại vụ xử và tuyên bố anh Nơi chính thức được thừa nhận là tị nạn tại Hoa Kỳ.

Rời khỏi hải phận Việt Nam năm 1989

Bây giờ xin mời quí vị ngược dòng thời gian để nghe ông Lê Văn Nơi thuật lại câu chuyện vượt biển hơn hai chục năm trước. Vì bản thân và gia đình bị cản trở trong việc thờ phượng, lại không muốn đi kinh tế mới cũng như đi nghĩa vụ quân sự, nhiều lần Lê Văn Nơi tìm cách trốn đi nhưng thất bại:
Tới năm 1989 thì mình mới vượt biên được. Mình đi tới Borneo, ở đó hơn một tuần thì di chuyển qua đảo lớn. Khi có nhiều người tị nạn từ các đảo tập trung về thì Cao Uỷ cấp tàu lớn để chở người tị nạn. Vô đó ở thêm một tuần nữa thì vô trại tị nạn Galang.

Sống tại Galang hơn sáu năm, qua những đợt phỏng vấn và thanh lọc, nhưng Lê Văn Nơi không được nước nào nhận. Lúc đó cũng là thời điểm 1996, các trại tị nạn ở Indonesia chuẩn bị đóng cửa và cưỡng bách thuyền nhân trở về nguyên quán. Không muốn trở về Việt Nam, anh Nơi cùng một nhóm bạn bỏ trốn vào rừng:
Mình trốn dưới ghe ở mấy lùm dừa nước đặng tránh sự kiểm soát của cảnh sát họ dắt chó đi theo. Ở dưới nước thì không có mùi hơi người , chó không bắt hơi được. Mình ở đó khoảng hai tháng, sau đó mình với hai người bạn chèo xuống ra xa rồi căng buồm chạy dọc theo mấy cái đảo xuống dưới Jakarta.

Với đầy đủ lương thực nhưng không có la bàn mà chỉ với một bản đồ đi biển, gió lên thì căng buồm mà lặng gió thì chèo, mất gần hai tháng anh Nơi và ba người bạn tấp vào một vùng đảo quá Jakarta một chút:
Đến Chitrabon thì ghe hư, mình vô đó định mua dầu chai đặng sửa ghe nhưng mua không được vì dân ở đó không xài tiền đô. Hai nữa dân địa phương thấy có ghe lạ bèn trình cảnh sát. Cảnh sát địa phương lại hỏi mình cũng khai thiệt là mình trốn từ trại tị nạn ra mình muốn tìm tự do mình muốn qua Úc. Họ dòm chiếc ghe mình rồi nói đi qua Úc mà đi ghe này là chết.

Cảnh sát ở đảo Chitrabon bắt nhóm anh Nơi giao qua Sở Di Trú. Sau khi điều tra, tất cả bị giải về nhà tù của Sở Di Trú ở Jakarta. Đó là tháng Mười Một năm 1996. Tại đây, gặp những nhân viên Cao Uỷ Tị Nạn người Indonesia, cả nhóm bày tỏ nguyện vọng là không muốn trở lại Việt Nam. Sau đó nhân viên Cao Uỷ can thiệp để cả bọn được giam vào nơi tương đối sạch sẽ đàng hoàng hơn.

1996 rời Jakarta đi Bali

Dần dà, nhờ được đi lại thong thả trong tù, anh Lê Văn nơi giúp đỡ các nhân viên Sở Di Trú mọi việc từ dọn dẹp, lau chùi, rửa xe đến sửa bàn ghế. Được hơn nửa năm, nhân viên Sở Di Trú tin tưởng và thỉnh thoảng cho ra ngoài để đi chợ:

Bắt đầu mình lựa mấy anh bạn đồng chí hướng, có tánh nhẫn nại, gom nhau lại đặng đi nữa. Những lần được ra đi chơi thì mình tìm đường đi nước bước.
“Mình gom tiền xin được của người em rồi mua vé , bốn anh em trốn xuống đảo du lịch Bali. Mình tính xuống đó rồi mình mua một chiếc ghe nhỏ đặng chạy qua Úc, vì đảo Bali gần với Úc.

Anh Lê Văn Nơi đã xin tiền của thân nhân đang ở nước ngoài, sau đó gom những người đi cùng lại , mua vé xe tốc hành chạy xuống Bali:
Mình gom tiền xin được của người em rồi mua vé , bốn anh em trốn xuống đảo du lịch Bali. Mình tính xuống đó rồi mình mua một chiếc ghe nhỏ đặng chạy qua Úc, vì đảo Bali gần với Úc.
Tới được Bali thì tiền cũng cạn, không có giấy tờ tuỳ thân nên không thể mướn nhà trọ. Cả bốn người bỏ qua đảo Plambok , tìm đường đến một làng ven biển để xin đi đánh cá và chờ thời cơ.

Qua tới Plambok, một người đánh xe ngựa tốt bụng đưa cả bọn đến địa chỉ người quen thì mới hay người này đã chết mấy năm rồi. Thấy tội nghiệp, người tài xế xe ngựa cho về nhà tá túc một đêm. Qua hôm sau, biết mấy người này muốn xuống miền duyên hải, ông tài xế xe ngựa nói là đường đi rất xa và cuộc sống ở đó rất khó khăn. Thế là cả bọn quyết định mua vé xe quay trở lại Borneo, tìm một người cảnh sát đã giúp đỡ bạn của họ trước kia.

“Qua hôm sau, biết mấy người này muốn xuống miền duyên hải, ông tài xế xe ngựa nói là đường đi rất xa và cuộc sống ở đó rất khó khăn. Thế là cả bọn quyết định mua vé xe quay trở lại Borneo

Qua một tối ngủ ngoài bến xe, tìm đến nhà người cảnh sát Indonesia sáng hôm sau, cả bốn được người cảnh sát giàu lòng hảo tâm mang đi kiếm việc làm. Anh Lê Văn Nơi và hai người bạn được gởi lên rừng phụ đốn củi, người còn lại xuống làng chài theo ghe đánh cá. Ở trên rừng làm việc vất vả, ăn uống kham khổ mà lại không có tiền lương:
Bắt đầu mình bị phù thủng , cứ làm một chút là thấy mệt, mình nói với hai anh bạn kia thà đi làm biển mà có ăn và khỏe hơn chứ còn ở trong rừng kiểu này, vác nặng mà không trả tiền riết chắc chết.

Nói chung hồi còn ở Việt Nam mình đâu biết đánh cá, nhưng ra đó vì bắt buộc thì phải đi, nói chung cũng gian nan dữ lắm. Theo ghe biển đi cào tôm thì nói chung cũng may mắn, đánh tôm có lúc trúng dữ lắm thành ra mấy ông Indo ở đó cũng thích kêu mình đi làm cho người ta, anh em đứa nào cũng có công ăn chuyện làm, có ghe đi có tiền ra vô đàng hoàng.

1999 rời Borneo trực chỉ New Zealand

Trúng được mấy lần tôm, bốn người dành dụm mua một chiếc ghe riêng, mượn thêm tiền của chủ để trang bị máy móc trên tàu. Sau một thời gian trả hết nợ, cả bọn lại tính chuyện ra khơi. Nhưng đến lúc đó thì một trong bốn người, vì thích cuộc sống tại làng chài này, quyết định ở lại. Hai năm sau, một ngày trời yên biển lặng, cả ba giong buồm rời đảo Borneo:
Bỏ Borneo thì mình tính đánh một vòng xuống hướng đông đi về phia Sulawesi rồi xuống đến Papua New Guinea rồi Solomon, mấy cái đảo dưới đó. Mình tính là sẽ bỏ Papua New Guinea, bỏ Úc rồi qua New Zealand vì ở New Zealand mình nghe nói sẽ không bị đánh đập bị trả về Việt Nam. Thành ra mình tính một đoạn đường rất là xa , mình dự trữ lương thực dầu mở đầy đủ hết.

“Bỏ Borneo thì mình tính đánh một vòng xuống hướng đông đi về phia Sulawesi rồi xuống đến Papua New Guinea rồi Solomon, mấy cái đảo dưới đó. Mình tính là sẽ bỏ Papua New Guinea, bỏ Úc rồi qua New Zealand
Trên đường trực chỉ New Zealand, khi coi lại bản đồ, anh Nơi và hai bạn thấy có một đảo nằm dưới sự quản trị của Hoa Kỳ, đó là đảo Guam. Thế là thuyền đổi hướng , định đi ngang vùng đảo Palau, đảo Yap rồi tiến về phía Guam gần hơn New Zealand đến hai phần ba đường.
Bị tàu tuần dương Indonesia chặn lại trên đường tiến về Palau, cả bọn năn nỉ họ đừng bắt và xin đi tiếp:

Từ đảo Palau này tới đảo Palau nọ đến đảo Palau kia mình chỉ đi từ từ chuyền theo các đảo chứ không dám ra ngoài khơi nữa.
Giữa đường gặp giông gió, tàu lạc hướng lênh đênh trên biển ba ngày mà không thấy bóng dáng một đảo nào, ba người quyết định quay tàu lại để trực chỉ Philippines.

Sau hai mươi bốn tiếng đồng hồ, họ phát hiện một đảo ở xa và tiến về phía đó. Đây là một đảo nhỏ chỉ có mấy chục dân, cũng có đảo trưởng và cảnh sát . Khi nghe những thuyền nhân xin sửa tàu và xin thêm dầu để tiếp tục đi, đảo trưởng liền đuổi họ ra khỏi vùng đảo Palau ngay lập tức vì nếu không thì ông ta sẽ bắt họ lại.

Cuộc hành trình trôi nổi cứ thế tiếp tục cho đến khi tàu cặp vào một hoang đảo, lại ra khơi chạy tiếp đến đảo Mulu trước khi tới được đảo Yap, vốn nhỏ như một chấm đen trên bản đồ Thái Bình Dương mênh mông.
Thì lúc đó mình tưởng đảo Yap là của Mỹ rồi, mình ở đó trong vòng chín năm.

2009 rời đảo Yap hướng đến Guam, Hoa Kỳ


Chín năm trên đảo Yap, làm việc cật lực để có tiền mua tàu, đồng thời lập kế hoạch đến đảo Guam như chặng cuối của chuyến vượt biển mười mấy năm trời.

Lần này anh Lê Văn Nơi trang bị kỹ hơn, vừa hải đồ vừa la bản vừa GPS tức máy định vị bằng vệ tinh. Đến lúc này, một trong hai người đi cùng anh, đã lập gia đình với một phụ nữ trên đảo Yap, quyết định không phiêu lưu đến Guam nữa.

“Chín năm trên đảo Yap, làm việc cật lực để có tiền mua tàu, đồng thời lập kế hoạch đến đảo Guam như chặng cuối của chuyến vượt biển mười mấy năm trời.

Năm giờ chiều ngày 25 tháng Sáu 2009, anh Nơi cùng người bạn còn lại, anh Hiền, bắt đầu ra khơi. Bốn ngày trên biển khơi, đến mười giờ sáng ngày 29 tháng sáu 2009 thì tàu cặp đảo Guam. Đặt chân lên Guam, hai người nhờ dân địa phương chỉ đường vào dần trong thành phố.

Khi một người lái xe hỏi là muốn tới đâu, anh Nơi nhanh trí bảo cho tới khu phố Việt Nam. Tại đây, gặp đồng hương, anh tình cờ tìm được chị Bé Ba cùng quê để rồi từ chị mà được nhiều người Việt ở Guam giúp đỡ như lời tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng kể cùng quí vị vừa nãy:
Lúc đó mình thấy mình được cảm giác an toàn, mình bước vô đúng một vùng đất văn minh tự do rồi đó. Mình mới được công nhận quyền tị nạn ngày 24 tháng Ba, thì người ta mới cấp cho mình một cái I-94, mình có quyền đi làm lâu rồi là vì những người quen như mấy anh mấy chị ở đây xin cho mình cái Working Permit, mình đi làm thành ra mình mới có chút đỉnh tiền xoay sở và lo luật sư này nọ.
Và ước vọng của người ra đi từ thời trai trẻ, hơn hai mươi năm sau tới đất Mỹ, là gắng để dành tiền vào Mỹ để đi học một nghề nào đó.
Câu chuyện về thuyền nhân cuối cùng tới Guam, mảnh đất từng đón những người tị nạn Việt Nam đầu tiên ba mươi lăm năm trước, kết thúc ở đây.
viethoaiphuong
#14 Posted : Monday, May 31, 2010 6:00:54 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)

Mời đọc câu chuyện cảm động của người đàn bà trên tàu HQ 502

[IMG]http://ongvove.files.wordpress.com/2010/05/hq502a.jpg?w=500&h=323[/IMG]

Chuyến di tản của Dương Vận Hạm Thị Nại, HQ 502, một con tàu hỏng máy, đang trong thời kỳ sửa chữa, chở theo trên 5000 người, rời cầu tàu trong Hải Quân Công Xưởng đêm hôm 29 tháng 4 năm 1975 với bao nhiêu là khó khăn, hãi hùng, nguy hiểm.

Hầu như trên mười năm sau đó, đã định cư ở Mỹ an toàn, nhiều đêm ngủ, thần trí tôi vẫn bị trôi theo cơn hốt hoảng kinh hoàng bởi chuyến đi này.

Trong những giấc mơ kinh dị đó, tôi vẫn thấy rất rõ rừng người đặc nghịt ở trên sàn tàu. Bầu trời thì đen thẫm, những ánh đèn xanh đỏ của những chiếc trực thăng vần vũ, nặng nề bay qua bay lại. Những đám cháy sáng rực bùng lên ở mấy góc trời. Kho xăng Nhà Bè trắng xoá, lấp loáng dưới ánh lửa đang cuồn cuộn bốc cao từ Căn Cứ Hải Quân .Những tiếng nổ oà vỡ bên tai, kéo theo những tiếng rít của những trái đạn rời nòng từ hai khẩu đại bác của Đặc Khu Rừng Sát. Con tàu ôm sát bờ lửa đạn ấy để vào nhánh sông Soi Rạp, bò ra cửa biển.

Sáng ngày 30 tháng tư, con tàu liệt máy, buông trôi ở cửa sông. Biển ở trước mặt, sóng trắng lô xô từng đợt. Lại những đợt máy bay từ phía Saigon túa ra. Nhũng chiếc trực thăng bay thấp, dọc theo hông tàu, thấp hơn chiều cao của đài chỉ huy chiến hạm. Cửa máy bay mở rộng. Chúng tôi thấy trong lòng máy bay chật ứ những đàn bà, trẻ con. Mấy bà già hướng về chiến hạm, quỳ, cúi gập người, chấp hai tay mà lễ. Trong khi đó viên phi công rà được tần số của chiến hạm. Bằng một giọng nói đầy khấp thiết : “Anh em Hải Quân ơi, cứu chúng tôi với. Chúng tôi được lệnh bay ra biển để đáp xuống tàu Mỹ. Nhưng tới điểm hẹn chỉ thấy biển mông mênh, tàu Mỹ đâu không thấy, nên phải quay về. Tàu tôi chỉ còn 5 phút xăng. Xin cứu chúng tôi, gia đình tôi, mẹ tôi…” Không cầm lòng được, Hạm Trướng Nguyễn văn Tánh và “Ban Tham Mưu” chấp nhận những khó khăn, bất trắc, đồng ý là cho trực thăng đáp xuống sân chiến hạm. Sân chiến hạm đông đặc những người, lùng nhùng những chiếc mền đủ màu căng ra che sương gió qua đêm. Nắng bắt đầu oi ả. Tất cả phải giải toả cấp kỳ. Mọi người phải xuống hết sân chiến xa. Sân tàu trống vắng. Chiếc trực thăng từ từ đáp xuống. Một chiếc. Lại một chiếc nữa…

Tới gần trưa ngày 30 tháng 4, ông Dương văn Minh tuyên bố đầu hàng. Cả tàu mấy ngàn người xốn xang, cuống quýt. Có những tiếng khóc vỡ oà đâu đó. Một buổi họp khẩn cấp để đi
đến quyết định : Bằng mọi giá phải thoát ra khỏi lãnh hải VN. Phải ra đi cho bằng được. Toán thợ máy kết hợp lạ lùng cố sửa chữa. Máy tàu nổ, một máy. Tàu ra được ngoài khơi, lết đến gần Côn Sơn, gặp được hạm đội mình ở đó. Lệnh từ Soái Hạm HQ 3 chỉ thị cho HQ16 tới kéo HQ502 đi.

Những đêm lừ đừ ở ngoài khơi, đoàn tàu vừa đi vừa đợi nhau. Những chiếc ghe đầy ứ người sáp vào chiến hạm. Không thể làm ngơ, tàu thả thang dây, lại vớt thêm người.

Đêm xuống, hải đăng Vũng Tàu loé lên từng đợt như thách thức, như mời gọi, như những vẫy tay giã từ. Bờ biển quê hương đấy mà giờ đã trở nên kinh khiếp, chia lìa, đớn đau. Ngày đêm, qua làn sóng điện của đài Saigon, không còn là những giọng nói thân quen, mà là những lời kêu gọi chát chúa, đe doạ của kẻ thù : …quân, cán chính của ngụy quân Saigon mau mau ra trình diện… “

Những ngày thiếu thốn, chật chội, chia nhau từng ngụm nước, từng nắm cơm chỗ sống, chỗ khê, chỗ thì thiu chua.

Mấy ngày sau, bờ biển Phi Luật Tân hiện ra, núi non chập chùng đen thẫm. Lễ chào và ha. Quốc Kỳ VNCH lần cuối được diễn ra, đơn giản nhưng vô cùng nghiêm trang mà rất đớn đau. Lá Quốc Kỳ nền vàng ba sọc đỏ bac. màu từ từ được kéo xuống, cùng với hàng ngàn giọng hát, gìa, trẻ, nam, nữ cất lên, vừa hùng tráng, vừa chất chứa những nghẹn ngào. Những lời hát như trùm kín cả vùng trời biển nước mênh mông.

Lời ca dứt. Những tiếng kêu khóc bỗng bùng vỡ. Nhìn đâu tôi cũng chỉ thấy những cặp mắt đầm đầm nước mắt. Trong những tiếng kêu khóc thảng thốt ấy, tôi thấy có tiếng kêu của một người đàn bà : “Ối, con ơi, con ơi…” Trong tập bút ký viết về cuộc di tản này, tôi đã không quên ghi lại tiếng kêu thảng thốt, lạ lùng này. Tại sao tôi lại không ghi những tiếng kêu khóc khác tràn ứ quanh tôi trên con tàu Thị Nại HQ 502 lúc đó. Tôi không trả lời đươc. Vì khi viết lại giây phút xúc động lịch sử này, tay tôi như chỉ tuân theo những gì mà thần trí tôi đã ghi dấu mà tự động viết ra. Viết ra như vẽ lại rất tự nhiên, không có một sự lựa chọn nào. Nhưng bây giờ thì tôi hiểu. Tình cờ tôi đã hiểu . Có những hình ảnh tuy mờ nhoà, khi ẩn khi hiện, nhưng không bao giờ biến mất trong trí nhớ của tôi.

Tôi không bao giờ quên. Tôi nhớ lại rồi. Tôi nhớ thật rõ. Tôi hiểu tại sao tôi lại ghi lại tiếng kêu này. Xin hãy cho tôi từ từ nhớ lại.

Tôi bỏ chiếc xe hơi nhỏ ở ngoài cửa Hải Quân Công Xưởng, sát bên Bệnh Xá Bạch Đằng. Tôi đi đầu, hướng dẫn cả gia đình trên mười người, theo đoàn người lũ lượt chạy bộ dọc theo chiều dài của Hải Quân Công Xưởng. Vừa chạy vừa ngoái cổ nhìn trở lại để kiểm soát đoàn “rồng rắn” của gia đình. Chỉ sợ có người bị lạc. Lạc là vô cùng khốn khổ, khó khăn.

Tìm đến cầu tàu trước Bộ Tư Lệnh Hạm Đội. Con tàu Thị Nại, HQ 502 nằm đó, vị trí một. Bên ngoài con tàu này còn ba con tàu khác cặp song song. Tất cả bốn con tàu xám ngắt, hướng mũi phía hạ giòng. Người từ phía sau tràn tới. Như đã hẹn, tôi sẽ phải lên cho được con tàu này. Con tàu do bạn thân cùng khoá với tôi làm Hạm Trưởng, Hải Quân Trung Tá Nguyễn văn Tánh. Chúng tôi cũng đã hùn tiền mua thêm nhiều gạo, mì và những thức ăn khô chất sẵn ở tàu này. Nước lấy tối đa.

Lúc này nước thuỷ triều dâng cao, bắt đầu xuống. Người chen sát nhau như gạch trên cầu tàu, nhích tới, nhích tới. Cái thang dài độc nhất dựng dốc ngược bên hông tàu. Tôi biết rằng khi khẩn cấp, chỉ cần thả hai mối dây là cái thang tự động tuồi xuống cầu tàu, lăn theo hai bánh xe ghì trên mặt đất, không một chút khó khăn. Tàu sẽ tách bến dễ dàng. Nhưng bây giờ rừng người đang ùn ùn tiến tới.

Những quân nhân, trai tráng thì tìm mọi cách bám vào thành tàu mà lên. Gia đình tôi tất cả mười ba người, con số tình cờ không vui, trong đó có hai ông bà nhạc tôi ốm yếu, bốn đứa con nhỏ dưới mười tuổi.

Chúng tôi không có cách nào khác là phải leo ngược cầu thang nhỏ, dốc ngược này để lên tàu mà thôi. Tôi lên đầu tiên, bế trên tay thằng con út hai tuổi bụ sửa, nặng chĩu. Trên lưng đeo một ba-lô quần áo và các thứ cần dùng. Một tay sách cái va-ly nhỏ đựng đầy giấy tờ, bản thảo và hình ảnh. Rất nhiều hình ảnh. Cầu thang dốc và trơn, khiến tôi trượt chân. Cái va-ly trở nên nặng quá bung ra phía ngoài. Tôi buông tay, nắm vội vào sợi giây cable, cái va-ly rơi tòm xuống nước, mất tăm. Hai tay ôm chặt thằng nhỏ trong lòng. Tôi cúi người xuống để ghì lấy mặt thang. Trong phút chông chênh đó có bàn tay ai rất mạnh giữ chặt lấy cánh tay tôi. Chỉ trong một sát na kinh khiếp đó, tôi gượng lại được và bò lên sàn tàu. Không biết cánh tay ấy của ai. Ai đã cứu bố con tôi. Đặt con xuống sàn tàu tim tôi còn đập bập bùng hồi hộp. Tôi quay lại cùng các em tôi kéo vợ tôi, hai ông bà nhạc lên tàu. Kiểm điểm lai “quân số” gia đình. Đủ cả.

Tôi quay lại cầu thang, đứng chân trước chân sau thật vững trên sàn tàu. Một tay vịn vào hàng rào chắn, một tay chìa ra kéo những người đang trèo ngược thang lên. Bao nhiêu bàn tay tôi đã nắm. Có bao nhiêu bàn tay bè bạn thân quen, nắm chặt tay nhau kéo lên, buông ra với những nụ cười. Anh Trần văn Tâm, (nhà văn Trần quán Niệm), anh Nguyễn hưng Quảng, anh Nguyễn đa Phúc và bao nhiêu người nữa.

Chúng tôi xúm nhau ở đó để tiếp tay, đỡ đần những người yếu đuối. Có bao nhiêu là những bàn tay già nua, hay non dại của những ai tôi chưa bao giờ gặp gỡ. Tất nhiên chúng tôi cũng đã chuyền, bế bao nhiêu là con trẻ ở tuổi các con tôi. Lúc kéo người lên như thế, cũng là lúc tôi nhìn xuống khoảng trống giữa thành tàu và cầu tàu, tôi không còn thấy cái va-ly của tôi đâu cả. Nước đã cuốn nó đi trôi nổi ở góc kẹt nào. Khoảng trống dọc theo thân tàu chỉ độ bốn mươi phân thôi, là bề dày của trái độn cao-su. Cái khe này hun hút đen thẳm dọc theo thân tàu dài hàng trăm thước. Dưới sâu là mặt nước, những làn sóng nhỏ, lấp lánh ánh đèn trôi đi, trôi đi. Tôi biết sức nước trông thế nhưng thật là mạnh mẽ.

Chân cầu tàu lù xù những vết xò hến, tác rưởi bám đầy. Nếu ban nãy tôi không có cánh tay nào bám lấy, ngã xuống đây…Mới thoáng nghỉ thế, toàn thân tôi như lạnh buốt. Tôi nghĩ đến con tôi. Đứa con út của tôi. Rời cầu thang quay gót trở lại với gia đình, tôi vừa quay gót, có tiếng người đàn bà thảng thốt kêu lên : ” Con tôi, con tôi rơi…rồi. Oái con ơi là con ơi…” Tôi quay phắt lại, người ta đen đặc, đang kéo người đàn bà vào sàn tàu. Ở phía cầu thang người vẫn cứ ùn tấn lên không dứt. Người đàn bà khốn khổ, mất con như mê đi, đang được người ta xúm lại chữa chạy, giựt tóc, bôi dầu. Hình như không ai quan tâm gì đến số phận của đứa nhỏ vừa rời tay mẹ rơi xuống cầu tàu, mất tăm. Vô phương cứu tìm. Mà ai còn có thì
giờ đâu để ngó xuống cái khe đen thẳm đó. Người càng lúc càng lên thêm, đứng đen đặc cả sàn tàu. Không ai biết, chẳng ai quan tâm đến cảnh huống bi thảm vừa mới xẩy ra. Đêm mỗi
lúc mỗi sâu. Nỗi khốn khổ của người mẹ mất con như bay theo, mất hút giữa đêm đen mỗi lúc mỗi thêm kinh sợ.

Lên được trên tầu, tìm gặp bạn tôi, HQ Trung Tá Nguyễn văn Tánh, Hạm Trưởng, anh nhường phòng của anh cho gia đình tôi. Tôi ngần ngại, nhưng anh bảo : “Tôi còn cái phòng nhỏ trên Trung Tâm Hành Quân. Tạm yên tâm, tôi sát cánh cùng anh, tập họp tất cả những quân nhân có mặt, tìm mọi cách để đem tàu ra khơi.

Người thì chật cứng ở sân boong chính, ở hầm chiến xa, và la liệt cả hành lang, mọi chỗ. Nhưng như anh Tánh sau này cho biết thì “nhân viên cơ hữu trên 100 nay chỉ còn có 9 người…” Tình trạng chiến hạm thì còn đang sửa chữa : “Hai máy chánh ráp xong, nhưng chưa thử tại chỗ. Hai máy điện chưa được ráp song song. Bơm nước ngọt và bơm cứu hoả chưa ráp. Bình cứu hỏa CO2 còn nằm trên Hải Quân Công Xương. Hai máy neo trước và sau bất khiển dụng. Sàn tàu cắt mở lối đem máy chánh lên chưa hàn lại”.

Biết bao nhiêu là trở ngại, khó khăn, nguy hiểm. Khi khởi động được máy thì tay lái bất khiển dụng. Giây cable lái bị cắt đứt. Nói ra không hết những nguy hiểm của chuyến đi này.

Bao nhiêu điều, bao nhiêu hình ảnh vẫn đầy ắp trong trí nhớ của tôi. Nhưng hình như tiếng kêu vô vọng, thảng thốt của người đàn bà khốn khổ đó đã thấm nhập sâu đậm vào trí não tôi. Lúc mờ lúc tỏ, nhưng tiếng kêu đó không bao giờ mất được trong tiềm thức của tôi. Khi có những sự tương quan, hình ảnh ấy sẽ tự động hiện ra mà lý trí tôi hình như không thể can dự vào. Và sự việc đã được xẩy ra rất tình cờ mới đây, gần 30 năm xa cách.

Trong một buổi gặp gỡ thu hẹp của mấy bà bạn cựu nữ sinh Trưng Vương của bà xã tôi tại San Jose, chuyện trò đang nổ như cái chợ, bỗng khựng lại, khi tình cờ chi. D. N. nói :
“Thế ra gia đình tao cùng di tản trên con tàu Thị Nại HQ 502 với tụi mày à. A, sao cả tuần lễ trên tàu mà mình không gặp được nhau. Ừ, người đông như kiến. Trên 5000 người. Khiếp thật!” Anh Ng., chồng chi. N. nói:” Khi ở trên tàu tôi xung phong trong toán nhà bếp, nóng như cái hầm. Lúc có điện lúc không. Cơm nấu suốt ngày mà không đủ. Lúc sống, lúc khê. Khi ra đi đại gia đình chúng tôi có 20 người. Nếu kể cả thằng cháu P. bị rơi ở cầu tàu là 21. Bây giờ tổng số đã là 40…”

Lòng tôi như có điện giựt. Cả một khung trời kinh khiếp đêm 29 rạng 30 tháng 4 năm cũ lại hiện ra rõ ràng. Cái khe sâu dài dọc theo cầu tàu đen thẫm, lấp lánh những lượn sóng trôi đi, trôi đi. Tiếng kêu thảng thốt của người đàn bà : “con tôi, con tôi rơi rồi. Oái con ơi là con ơi.” Lạ nhỉ. Quả đất tròn thật. Tôi phải tìm gặp cho đươc người đàn bà ấy.

Bà D. t. L, qua điện thoại kể lể : “…một tay tôi cầm cái túi. Một tay tôi dắt thằng cháu P. bước lên cầu thang dốc ngược của con tàu. Người từ phía dưới cứ nống lên. Mà là người
nhà mình cả chứ đâu. Gót giày tôi như kẹt vào khe cầu thang, chân tôi bỗng nghiêng đi, lao chao muốn ngã. Thế là tôi buông tay thằng nhỏ ra. Nó rơi ngay xuống khe tàu, mất tiêu. Tai tôi như chỉ còn thấy tiếng cháu kêu : me. L…Tôi kêu lên, nhưng có ai giúp được gì đâu. Mà có ai thấy gì đâu mà giúp. Tay tôi bỗng trống không. Tôi được người ta kéo lên sàn tàu. Tôi mê đi chẳng còn biết gì nữa sất. Bên tai tôi cứ như loáng thoáng tiếng kêu của nó. Từ đó, nói ông bỏ quá đi cho, tôi cứ ngơ ngẩn, chả còn thiết gì nữa cả. Tôi nằm như chết ở sàn tàu, chả thiết ăn uống gì . Khi đoàn tàu sửa soạn vào cảng ở Phi Luật Tân, mọi người lên sân chính để chào quốc kỳ lần cuối, trong tai tôi vẫn vang vang lời kêu của cháu : Mẹ L. ơi … Vì thế, trong giờ phút ấy tôi bỗng oà khóc và kêu lên…”

Vẫn lời kể của bà L. : “Lúc ấy cháu T t. P. được 6 tuổi rưỡi. Cháu nhờ trời cũng chịu ăn, chịu chơi nên cũng có da có thịt, chắc nịch. Mỗi khi cháu trái nắng, trở trời cháu cứ hay kêu : Mẹ L. ơi cứu P. Tôi không quên được tiếng kêu ấy của cháu, ông à. Tiếng kêu ấy cứ vang vang ở trong đầu tôi, hình như không lúc nào dứt. Lúc thức, lúc ngủ, lúc tụng kinh, không lúc nào tôi không nghe thấy tiếng kêu ấy của con tôi, nên tôi nghĩ rằng con tôi còn sống. Vì thế suốt mấy chục năm, ngày nào tôi cũng thắp hương cầu Phật Bà Quan Âm cứu khổ cứu nạn phù hộ độ trì cho cháu. Sau này chúng tôi trở lại đạo, tôi hàng ngày lại cầu xin Đức Mẹ Maria che chở cho cháu. Tôi tin tưởng hoàn toàn vào đấng thiêng liêng và tôi vẫn tin rằng cháu còn sống ông à.”

Vẫn lời kể của bà L. : “Rồi cách đây ít năm, người VN từ hải ngoại về nước mỗi lúc mỗi đông. Tôi cũng về thăm lại làng xóm, thăm thân nhân. Trong câu chuyện qua lại giữa bà con, có
người nhắc rằng : nếu chị tin là cháu còn sống, thì phải có người vớt được cháu. Chị thử đăng báo tìm xem thế nào. Không thiếu những trường hợp thất lạc con cái, rồi người ta cũng tìm lại được đấy. Thế là tôi nhờ đăng tin tìm cháu ở báo Tuổi Trẻ, thì có 6 người cùng tuổi với cháu liên lạc với tôi. Người thì ở ngay trong thành phố Saigon, người thì ở dưới quê. Cũng là người tử tế cả. Có anh nói : thôi con không qua Mỹ đâu. Đã có vợ con và sống ở đây quen rồi, mẹ có thương con thì cho con ít cây (vàng), con mua mấy mẫu ruộng. Thì nghe thế biết thế, tôi cũng chưa có gì đích xác để quyết định cả. Trong 6 người nhận là con tôi, có một anh cao, giống thằng con tôi hiện ở Mỹ. Anh này hiện học nghề Đông Y, chưa vợ con gì cả. Với tôi anh ấy đối sử lịch sự, bình thường,không vồn vã mà chẳng đề nghị xin sỏ gì. Vì theo bà mẹ nuôi của anh kể lại thì câu chuyện khá dài, nhiều uẩn khúc lắm”.

Vẫn theo lời kể của bà L. : ” Bà này giầu có lắm. Trước 75 bà là dược sĩ, có tiệm thuốc tây rất lớn. Bà đã có gần 10 người con do bà đẻ ra. Nhưng trong hoàn cảnh tang thương của thời
loạn lạc, có mấy người không nuôi được con, đem cho bà, bà đều nhận hết. Bà săn sóc trên mười đứa con, con đẻ cũng như con nuôi, như nhau. Đứa nào học được bà cho đi học. Nhiều đứa thành tài là kỹ sư, bác sĩ. Có đứa lớn lên xin về nhà bố mẹ đẻ, bà cũng vui lòng, còn cấp vốn liếng cho để làm ăn. Có đứa làm ăn thất bại lại bò lên xin ở lại với bà, bà lại nhận nuôi nấng cả gia đình vợ con nó như xưa. Bây giờ trong thời đổi mới, bà đang kinh doanh về ngành du lịch. Bà mua cả một khu rừng xây khách sạn, đắp núi non, vườn cảnh. Trong đó có những nhánh sông, bà cho xây cây cầu qua lại thật là đẹp. Nói ra có lẽ khó ai tin được. Bà ấy nói với tôi rằng thằng Mỹ do một bà bán chè ở bến sông Saigon cho bà ấy. Thằng nhỏ này trôi trên sông Saigon, có một người lái đò vớt được, đưa lên bờ. Thằng bé bơ vơ, rét mướt khóc quá xá, nên cho đứng tạm cạnh bà bán xôi chè, đợi bố mẹ nó tìm đến. Nhưng chả thấy bố mẹ nó đâu, bà hàng xôi tìm đến bà dược sĩ bảo rằng : bà làm phước nuôi dùm thêm đứa nhỏ này. Hỏi bố mẹ con đâu, nó nói trong nước mắt : đi Mỹ rồi. Do đó bà dược sĩ mới đặt tên nó là Mỹ.”

Vẫn lời của bà L. :”Cái anh tên Mỹ này lớn lên trong gia đình bà dược sĩ. Dù không ai nhắc nhở, nhưng anh ta vẫn tin rằng sẽ có lúc anh ta phải qua Mỹ đoàn tụ với cha mẹ ruột. Thời gian vùn vụt trôi, gần ba mươi năm cơ hội chưa đến. Trong khi chờ đợi, anh ta quyết không lập gia đình, sợ lôi thôi khi đi đoàn tụ. Và để có một nghề qua Mỹ không cần học lại, anh ta học nghề đông-y-sĩ. Bà dược sĩ nói với tôi rằng, tuy là con nuôi, nhưng tôi thương thằng Mỹ như con ruột. Nó muốn gì, tôi không tiếc. Đấy cái cửa hiệu đông y đấy, rất khang trang, đủ mọi thứ thuốc, từ sâm nhung hảo hạng, đến các thứ quế đắt tiền, thứ gì tôi cũng đặt mua đầy đủ. Nó vừa sửa soạn là thầy lang vừa làm người bào chế, rất mát tay tuy chưa ra trường nhưng cũng đông khách lắm. Sang Mỹ chưa chắc gì đã có một cơ sở vững vàng như thế. Nhưng nó biết, nó tin là nó không ở đây lâu đâu. Thế nào nó cũng qua Mỹ đoàn tụ với bố mẹ ruột của nó. Nó muốn thế, tôi cũng sẵn sàng giúp nó được toại ý khi cơ hội đến. Nếu nó thực sự là con bà, bà chứng minh được nó là con bà, tôi sẽ cố gắng tìm mọi cách để nó về
với bà.”

Vẫn lời của bà L. :” Tôi trở lại Hoa Kỳ, tôi cứ nhớ cái thằng Mỹ này quá.Chắc chắn nó là con tôi. Nhưng bảo rằng chứng minh cụ thể thì tôi chưa có cách. Tôi có đem chuyện này hỏi ông bác sĩ gia đình. Ông bác sĩ nói rằng : Dễ lắm. Nếu nó là con bà, chỉ đem đi thử máu, thư? DNA là ra ngay. Thì cái vụ thử nghiệm này thì chắc rồi. Nhưng tôi lại không muốn làm thế. Tôi tin tưởng mạnh mẽ rằng, nhờ tôi thành tâm lễ bái, khẩn cầu, nên đấng thiêng liêng đã đưa đẩy cho tôi tìm thấy cháu. Bây giờ lại đem thử nghiệm thì có khác gì không tin vào đấng linh thiêng nữa, nên tôi không làm. Nghe thế, ông bác sĩ ngồi thừ ra hồi lâu rồi hỏi tôi. Nếu nó là con bà, thì nó không giống ông bà cái tai, cũng phải giống cái tóc chứ. Bà nhìn nó bà có thấy nó giống ai trong nhà không, chắc là phải giống ông nó nhà tôi. Khốn nỗi ông nhà tôi sang bên Mỹ được ít năm thì mất. Ông mất cũng là tại tôi một phần. Ông cứ cằn nhằn tôi bao nhiêu năm : sao đang nắm tay nó bà lại buông tay ra. Làm gì cũng phải có ý có tứ chứ. Nắm thật chặt tay thì nó đâu có rơi được. Đành rằng thế, nhưng nào tôi có muốn buông tay ra đâu. Trời xui đất khiến nó hoá như thế, chứ có người mẹ nào lại nỡ buông con ra cho nó rơi xuống sông hở ông. Thế là bao nhiêu năm đằng đẵng xót sa, rồi ông ấy mất. Lúc mất hình như ông ấy còn gọi trên nó trong phút lâm chung. Thế là bao nỗi cay đắng đổ cả trên đầu tôi. Thôi thì trăm sự tôi trông vào đấng linh thiêng, Đức Quan Thế Âm khi trước và bây giờ là Đức Mẹ Maria. Đêm nào tôi cũng thắp hương, cầu khẩn.”

Vẫn lời bà L. :”Tôi thẫn thờ đau khổ, lúc nào cũng chỉ nghĩ đến nó. Còn thằng em nó hầu như tôi quên bẵng để mặc cho ông nhà tôi trông nom. Nhà tôi mất đi, trên bàn thờ bây giờ có hình ông ấy nhà tôi nữa. Hàng ngày khi đọc kinh, nhìn hình ông nhà tôi trên bàn thơ, tôi bảo : Ông có khôn thiêng thì ông mách bảo cho tôi tìm ra thằng P. Một hôm, em thằng P. đi đánh banh về, từ trong nhà tắm đi ra, nó ngồi trước mặt tôi, lấy khăn lông lau đôi bàn chân. Nó lau kỹ lắm, khiến tôi chú ý. Sao mà hai ngón chân cái của nó lại xoè ra như người Giao Chỉ ngày xưa. Tôi hỏi nó sao thế. Nó bảo thì ngón chân con nó thế. Đi giầy thì hai ngón chân cái ép lại. Để chân không, nó lại xoè ra. Tôi trở lại VN, trở lại nhà bà dược sĩ. Bà vẫn ân cần, niềm nở đón tôi, và vẫn một mực nói : tôi sẽ trả con cho bà, với điều kiện bà phải chứng minh được nó đích thực là con bà. Thì cũng là tình cờ thôi, hôm ấy thầy-lang-Mỹ lội xuống khúc sông trước nhà, bơi, tắm. Tắm xong, lúc ngồi ở nhà ngang anh ta ngồi lau chân, trời ơi, hai ngón chân cái của thằng Mỹ cũng xoè ra như thằng con tôi, em nó ở bên Mỹ. Không sai được nữa rồi. Tôi bỗng bật khóc và kêu lên P. ơi, con ơi. Thầy-lang-Mỹ trố mắt nhìn tôi. Bà dược sĩ cũng thảng thốt, đứng lên. Ba chúng tôi ôm choàng lấy nhau, nước mắt chan hoà. Thằng P. ôm tôi và nói : con là P. của mẹ đây, me. L. ơi. Bà dược sĩ thì bảo : ” Sao trước đây bà không cho tôi biết tên nó trước đây là P..”

Vẫn lời bà L. :” Bà dược sĩ nói rằng : hàng ngày chúng tôi kêu nó là Mỹ.Nhưng những khi đau ốm, mê sảng, nó đều kêu : Mẹ L. ơi cứu P. Nhưng quả đúng 100% nó là con bà. Bà dược sĩ lại hỏi tôi, vừa cười vừa nói, trong người nó có vết tích gì đặc biệt không. Tôi đáp ngay : mông đít nó có một vết chàm. Thế là chúng hai chúng tôi lại ôm lấy nhau lần nữa. Và lần này thì
bà dược sĩ dành dọt nói : Đúng thằng Mỹ đây, khi bé có tên là P. Nó đích thực là con bà. Tôi dàn dụa nước mắt xà lại ôm lấy P. Hai mẹ con chúng tôi ôm nhau thật chặt. Tôi bấu vào vai
nó. Tôi nắm chặt cánh tay nó. Không rời ra được nữa đâu. Và trong lúc xúc động này, tôi lại hốt hoảng kêu lên : “Ối, con ơi, con ơi…” Tôi buông P. ra, buông con tôi ra, tôi chấp tay, đọc thầm một đoạn kinh tạ ơn Chúa, tạ ơn Trời, Phật. Nước mắt tôi tuôn như mưa. Tôi quỳ xuống, tôi vái tứ phương. Tôi gọi tên nhà tôi. Ông ơi, tôi tìm thấy con rồi… Hai mẹ con tôi quay lại, thấy bà dược sĩ đứng nhìn chúng tôi, mếu máo với hai hàng lệ chảy. Chúng tôi, mẹ con tôi tiến tới, choàng tay ôm chặt bà vào lòng. Tôi nói : Bà ơi! Bà là ân nhân của chúng tôi, bà mới thật là mẹ nó. Trời, Phật đã dẫn dắt nó là con bà. Con tôi cũng nói : Con xin đa tạ mẹ…Thật, chưa bao giờ tôi vui sướng như thế mà cũng khóc nhiều như thế. Và cũng chưa bao giờ tôi tin tưởng mạnh mẽ như thế vào sự huyền diệu của các đấng thiêng liêng.”

Cho đến khi chúng tôi viết những giòng này thì Bà L. đã hoàn tất mọi thủ tục để đưa người con trai tên P. sang Mỹ đoàn tụ với gia đình. Khi mọi việc đã xong, tên tuổi những người liên
hệ sẽ được in đầy đủ trong bài viết.

Gần 30 năm đã qua. Một thời gian đủ dài để một thế hệ được sinh ra, lớn lên và trưởng thành. Những con em chúng ta khi ra đi còn bé dại, nay đã không thiếu những người thành tài, có mặt trong hầu hết những sinh hoạt cao cấp nơi quê hương mới, là niềm vui sướng và hãnh diện cho cha mẹ, cho cộng đồng.

Nhân câu chuyện trên, người viết đang thu thập những gương thành công của con em những gia đình ra đi trên Dương Vận Hạm Thị Nại, HQ 502, để viết thêm vào phần cuối cuốn bút ký di tản này, như phần thưởng cho lòng can trường, liều chết ra đi vì Tự Do, vì tương lai của con cái. Rất mong được đón nhận những kết quả đẹp đẽ của những ai cùng đi trên chuyến tàu trên.

Mọi liên lạc xin gửi về cho người viết, PO Box 888, La Jolla, Ca 92088. Đt : (858) 484-9193

Phan Lạc Tiếp

viethoaiphuong
#15 Posted : Wednesday, October 6, 2010 8:24:12 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)

29 năm, hoàn tất một hành trình

'Ðã có văn bản không nhận người tị nạn lên tàu,' nhưng, một thuyền trưởng, cựu Navy Seal HK, đã cứu 52 thuyền nhân Việt Nam, 29 năm về trước.

Ngọc Lan

PROVIDENCE, Rhode Island

- Một trong những “câu chuyện hay nhất” mà nhiều người dân của thành phố Providence ở Rhode Island từng được nghe, đã được kể ra vào trưa Chủ Nhật, 3 tháng 10 vừa qua, tại ngôi nhà thờ St. Martin Episcopal.

Cuộc hội ngộ sau 29 năm có được nhờ tình cờ tìm lại được tấm “business card” mà mọi người đang chuyền nhau xem.



Từ trái: Ông Nguyễn Hữu Ðể, Bác Sĩ Denis Moonan (bạn ông Romano),
bà Liên Hương, cô con gái lớn của thuyền trưởng Romano,
truyền trưởng Romano, vợ thuyền trưởng, và cô Carly,
con gái thứ 3 của thuyền trưởng. (Hình: Ngọc Lan/Người Việt)

Ðó là câu chuyện của những thuyền nhân Việt Nam vượt biển tìm tự do bất chấp hiểm nguy.

Ðó là câu chuyện của người thuyền trưởng, vì “không muốn nhìn thấy người ta phải chết,” đã bất chấp lệnh cấm, và cho người tị nạn được lên tàu của mình.

Ðó là câu chuyện những người chịu ơn, đi tìm để được nói lời tri ân với ân nhân mình, sau gần ba thập kỷ.

Ðó là câu chuyện của ngày hội ngộ sau 29 năm.



Những thuyền nhân Việt Nam năm xưa đến thăm nhà thuyền trưởng Romano.
Vợ chồng thuyền trưởng đứng hàng trên cùng. (Hình: Ngọc Lan/Người Việt)

Tấm danh thiếp bị lạc

Nha Sĩ Nguyễn Diệu Liên Hương ở quận Cam, từ hai mươi mấy năm qua, cứ khắc khoải trong lòng mối ơn cứu mạng chưa kịp đền đáp với vị ân nhân của mình là thuyền trưởng chiếc tàu vớt thuyền vượt biên của cô.
Thuyền trưởng Charles Romano là người đã cứu bà Liên Hương, 2 người con nhỏ của bà, cùng 49 người khác đi cùng bà trên chiếc ghe vượt biên từ Mỹ Tho vào ngày 9 tháng 5 năm 1981. Tuy nhiên, sau khi sang đến Mỹ, bà Liên Hương đã làm thất lạc tấm business card, dấu tích duy nhất có thể liên lạc với người ơn của mình.

Sau hơn 29 năm, vào một ngày cuối tháng 8 vừa qua, trong một lúc tình cờ khi lát lại sàn nhà, bà Liên Hương đã vô tình nhìn thấy chiếc phong bì đựng “Tài liệu vượt biên” trong đó có tấm business card của thuyền trưởng Romano. Ngay sau đó, bà đã viết thư gửi đến cho viên thuyền trưởng năm nào.



Xem lại những hình ảnh về Việt Nam mà thuyền trưởng Romano
còn lưu giữ cùng thư của bà Liên Hương gửi năm 1981, 1982,
và danh sách 52 thuyền nhân được thuyền trưởng cứu vớt.
Từ trái: cô Nguyễn Thị Thuận, thuyền trưởng Romano, ông Châu Trần,
chồng bà Liên Hương, bà Liên Hương, bà Debra, vợ thuyền trưởng,
anh Sơn Nguyễn và mẹ anh, bà Trúc Mai. (Hình: Ngọc Lan/Người Việt)

Và cuộc gặp gỡ đã diễn ra ngay tại thành phố thuyền trưởng Romano đã sống suốt mấy mươi năm qua, và ngay tại ngôi nhà của ông ở tiểu bang Rhode Island .

Nước mắt và nụ cười

Thuyền trưởng Romano, 70 tuổi, với gương mặt phúc hậu, chống gậy đứng ngay cửa một căn phòng nhỏ bên trong nhà thờ chào đón mọi người.
Bà Debra Romano, vợ thuyền trưởng, tự tay nắn nót viết hai chữ “Chào Mừng” bằng tiếng Việt trên tấm giấy đặt trang trọng trên bàn.
Gương mặt người thuyền trưởng, gương mặt vợ ông, bạn bè ông và tất cả những người có mặt tại nhà thờ ngày hôm đó biểu lộ một sự cảm kích và một tình cảm thật đặc biệt.

Không phải chỉ có Nha Sĩ Liên Hương, mà có tới 3 gia đình đi gặp ông Romano hôm đó. Có ông Nguyễn Hữu Ðể cùng con trai tên Sơn Nguyễn đến từ tiểu bang Connecticut, và cô Nguyễn Thị Thuận, đến từ tiểu bang Massachusetts. Họ là những thuyền nhân năm xưa có mặt trên chiếc ghe được thuyền trưởng Romano cứu sống, nay cùng gia đình đến, để ôm chầm lấy vị ân nhân của mình sau ngần ấy năm gặp lại.
Câu chuyện năm nào sống lại trong lòng mọi người. Mọi người khóc, cười nhắc lại những ký ức.



Thuyền trưởng Charles Romano, người đã bất chấp lệnh cấm
để cứu 52 thuyền nhân Việt Nam. (Hình: Ngọc Lan/Người Việt)

Bà Nguyễn Diệu Liên Hương, hiện là một nha sĩ ở Orange County, kể lại câu chuyện không chiếc tàu lớn nào đi ngang chịu đáp lại tín hiệu cầu cứu của những người trên ghe bà khi chiếc ghe bắt đầu gặp trục trặc, không nước uống, hết xăng, hư máy.

Bà nói trong nước mắt: “Tối đó, tôi nhìn các con tôi. Tôi thấy chúng hoàn toàn vô tội. Các con tôi còn quá nhỏ, một đứa mới lên 6, một đứa mới lên 5, chúng nào biết gì là tự do, biết gì là chế độ độc tài. Thế mà tôi đã mang chúng ra khỏi nhà, đặt chúng vào nguy hiểm. Tôi đã không bảo vệ được các con tôi. Tôi cảm thấy mình tồi tệ quá.”
Mang theo tấm ảnh chụp tất cả các thành viên trong gia đình cùng những nụ cười rạng rỡ, bà Hương nói với cựu thuyền trưởng Romano: “Những nụ cười này làm sao có được nếu không có tấm lòng của ông ra tay cứu chúng tôi?”

Ông Nguyễn Hữu Ðể, hiện là đang làm việc cho một công ty in ấn ở West Hartford , cũng xúc động nói về tình cảnh tuyệt vọng của ông khi đó. Ông Ðể nói cảm xúc của ông khi được chiếc tàu Rainbow của thuyền trưởng Romano cứu vớt giống như cảm giác “chết đi sống lại, sống như trên thiên đường vậy.”

“Ông thuyền trưởng cho chúng tôi ở phòng lạnh, cho ăn uống thỏa thuê. Ông còn cho mọi người viết thư và cho máy bay bay vào Singapore để gửi thư của chúng tôi về báo tin cho gia đình nữa,” ông Ðể kể.



Một số hình ảnh được lưu giữ cùng tờ giấy bạc Việt Nam
do một thuyền nhân trên tàu ký tặng lại cho thuyền trưởng Romano. (Hình: Ngọc Lan/Người Việt)

Anh Sơn Nguyễn, con trai ông Ðể, đang làm CPA cho công ty Blum Shapiro ở Connecticut, cũng có mặt trên chiếc ghe năm xưa, khi mới 8 tuổi, nói một cách chân thành: “Tôi còn quá nhỏ để nhớ tường tận từng chi tiết. Nhưng tôi biết nhờ ông, nhờ tấm lòng của ông, tôi mới có được ngày hôm nay.”

Cô Nguyễn Thị Thuận, hiện đang làm việc tại Trung Tâm Y Tế Ðại Học Boston, ở Massachusetts, kể với mọi người câu chuyện về ngày mà cha mẹ cô đã muốn cô cùng anh trai cô theo chiếc tàu vượt biên tìm đường đến tự do. Cô chỉ biết rằng mình đã nằm bẹp suốt thời gian trên tàu, và điều mà cô nhớ nhất là “thuyền trưởng Romano đã làm tái sinh cuộc sống của tôi.”

Người kể chuyện khóc. Người nghe cũng khóc.

Cô Carly Romano, 25 tuổi, con gái thuyền trưởng Romano, vừa đứng nghe câu chuyện của các thuyền nhân, những người lần đầu tiên cô gặp trong đời, vừa nghe câu chuyện kể về hành động cha cô, vừa liên tục đưa tay lau nước mắt.

“Tôi không biết phải nói như thế nào nữa. Giờ đây tôi mới nghe được cả câu chuyện,” cô Carly vừa đưa tay đặt lên ngực, vừa cố kìm chế những giọt nước mắt rơi trên đôi mắt đỏ hoe. “Tất cả đều quá sức tưởng tượng. Cha tôi đã làm một điều tuyệt vời. Cha tôi đã chỉ cho tôi thấy bài học về lòng nhân ái. Tôi cũng hiểu những điều mà trước giờ tôi chưa bao giờ hiểu về những người tị nạn đã mang cả gia đình đi tìm tự do là như thế nào. Tôi tự hào về cha tôi. Tôi hiểu hơn về cuộc đời.”

Chuyện bây giờ mới kể

Sau cuộc gặp gỡ ở nhà thờ St. Martin Episcopal, thuyền trưởng Charles Romano mời mọi người đến thăm ngôi nhà của ông.

Sau những bỡ ngỡ của một người không quen nhận sự cám ơn, hay đúng hơn không ngờ hành động mà ông cho là “bình thường” lại được mọi người đón nhận bằng một sự trân trọng đến như vậy, thuyền trưởng Romano bắt đầu tâm sự về những điều mà đến tận bây giờ, sau hơn 29 năm, những người được ông cứu vớt mới được biết đến.

“Nhiều chiếc tàu đi qua đã không cứu các bạn, tôi biết chứ. Bởi đã có văn bản yêu cầu không được nhận bất cứ người tị nạn nào lên tàu. Chúng tôi chỉ được phép giúp đỡ thực phẩm hay những hỗ trợ để các bạn có thể đi đến Kuala Lumpur hay Indonesia thôi. Nhưng tôi biết trước là sẽ có bão, mà bão trên đại dương thì thật là kinh khủng.” Thuyền trưởng Romano nói.

Ông quay nhìn phóng viên Người Việt và nói một cách thoải mái: “Tôi nghĩ gì khi quyết định cứu họ à? Chỉ đơn giản là tôi không muốn họ chết. Tôi thấy có quá nhiều con nít và phụ nữ trên chiếc ghe đó.”
Thuyền trưởng Romano, một “Navy Seal” Hoa Kỳ, từng tham chiến ở Việt Nam tất cả ba lần, lần đầu vào năm 1960, sau đó là từ năm 1966 đến 1968, và được tặng thưởng cả thảy năm “Purple Hearts.”

Ông nhắc những địa danh mà ông đã đến trong tư cách một người lính như Long Xuyên, Củ Chi, Vàm Cỏ Ðông, Tây Ninh, Bến Lức.

Ông còn giữ lại rất nhiều hình ảnh ở Việt Nam ngày trước, trong đó, không chỉ có hình ảnh của những người lính, mà có rất nhiều những hình ảnh ông bất ngờ chụp được: hình những người thanh niên cỡi trâu, hình một cô nữ sinh mặc áo dài đi trên phố Sài Gòn, hình những làng xóm nông thôn.

Thuyền trưởng Romano nói về tâm trạng ông bị dằn vặt khi bị ném vào cuộc chiến. “Lần đầu tiên tôi giết người, tôi đã tự nói với lương tâm mình rằng tôi đã làm một điều tệ hại nhất trong đời. Bạn mà điều xấu, bạn sẽ nhận lấy hậu quả xấu. Tôi hiểu điều đó. Nhưng tôi phải làm gì đây?”

Tuy nhiên, sự xuất hiện của những thuyền nhân được ông cứu vớt năm xưa là một dấu hiệu lạc quan để thuyền trưởng có thể “vượt qua những băn khoăn ray rứt của một người sùng đạo,” như lời vợ ông chia sẻ.
Bà Romano mang ra cho mọi người xem lại một bảng danh sách viết tay tên họ, năm sinh, giới tính của 52 người trên tàu mà ông đã cứu.
Ông Ðể thốt lên: “Danh sách này tôi viết! Ðây là nét chữ của tôi!” Sau chừng nấy năm, chính ông Ðể cũng đã quên mất mình chính là người viết danh sách này.

Ông Romano cũng cho xem bức điện tín khiển trách ông đã vớt người tỵ nạn.

Thuyền nhân năm xưa Nguyễn Hữu Ðể thắc mắc: “Tại sao ông biết ông làm như vậy là trái luật mà ông vẫn làm? Ông không sợ điều gì sẽ ảnh hưởng đến ông sao?”

Thuyền trưởng rất tự tin: “Nếu tôi làm theo những lời họ yêu cầu, thì các bạn đã chết hết rồi. Khi ở trên tàu, tôi là thuyền trưởng, tôi có quyền quyết định. Tôi làm điều tôi cho là đúng và tôi phải làm.”

Ðiều bất ngờ hơn là trong số những thứ ông Romano vẫn còn cất giữ có cả 2 lá thư do bà Nguyễn Diệu Liên Hương gửi cho ông từ năm 1981, ngay sau khi bà tới Mỹ, và một lá thư viết năm 1982.

“Tôi không hề nhớ đến những lá thư này. Nhưng như vậy là tôi cũng vui lắm. Rõ ràng chúng tôi đã không quên ông ấy ngay từ lúc đó. Chỉ có điều có thể vì ông không trả lời, rồi cuộc sống bận bụi, tôi cũng quên đi, cho đến lúc muốn tìm thì lại không tìm ra tấm business card nữa,” bà Hương nói.

Thuyền trưởng thì cho rằng có lẽ thời gian đó ông không có nhà, ông đang trên những chuyến hải hành.
Tất cả đều trôi vào quên lãng, cho đến ngày ông nhận được lá thư của bà Hương.

“Thật không thể tưởng tượng được khi nhận được lá thư của bà Hương. Tôi không tin đó là thật. Tôi bị shock. Thật là tuyệt vời khi nghe tin con trai bà ấy nay đã là một kỹ sư làm việc cho hải quân. Tôi nhớ khi đó nó còn nhỏ lắm, tôi còn băn khoăn không biết nó sẽ sống sót, tồn tại như thế nào, vậy mà bây giờ nó đã là một người đàn ông. Tôi vẫn nhớ con tàu ấy. Sau đó thì tôi không còn có cơ hội cứu thêm con tàu nào khác.” Viên thuyền trưởng cười nói.

Sau gần 3 thập kỷ, cuộc hội ngộ trong một ngày dường như không đủ cho nhiều điều muốn nói, nhiều câu chuyện muốn kể.

Bà Elke Moonan, một giáo sư đại học đã về hưu, một người bạn lâu năm của thuyền trưởng Romano, tham dự buổi gặp gỡ từ đầu đến cuối, nói: “Tôi chỉ có thể nói câu chuyện này quá cảm động. Tôi là bạn của thuyền trưởng từ mấy chục năm nay. Tôi biết ông ấy đã có một đời sống tinh thần không mấy ổn định kể từ khi về hưu. Nhưng rất cám ơn sự hiện diện của mọi người ngày hôm nay, sau khi đã cố công tìm kiếm tin tức của ông ấy. Tôi tin rằng sau lần này tinh thần ông ấy sẽ được vực dậy. Thật là tuyệt vời. Tôi sẽ kể tiếp câu chuyện này cho bạn bè tôi nghe. Ðó là một câu chuyện hay nhất trong số những câu chuyện hay tôi từng nghe.”

viethoaiphuong
#16 Posted : Wednesday, January 26, 2011 8:16:36 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)

Ra mắt tác phẩm ‘Boat People’ bằng Anh ngữ: Nước mắt và niềm kiêu hãnh


Monday, January 24, 2011

Hà Giang/Người Việt

WESTMINSTER - Trước khi đọc được tựa của cuốn sách, người ta đã bị ám ảnh bởi nét hãi hùng, đắm trong đôi mắt sâu hoắm của một thiếu nữ trẻ nhìn qua kẽ hở một khoang thuyền trong tấm hình bìa.


Hình bìa tác phẩm “Boat People.” (Hình: Người Việt)


Lật một trang, một tấm hình khác cũng gây ấn tượng mãnh liệt: Trong lòng thuyền, người, và người, nằm chồng chất lên nhau không khác hình ảnh của một hộp cá. Hoàn cảnh của họ, không chỉ được đọc thấy qua ánh mắt, mà còn qua khuôn mặt thất thần; những chiếc đầu gối co quắp, dáng ngồi mệt lả.

Họ đang dựa vào nhau? Vào khoang thuyền? Hay nép vào lòng người thân mà chẳng biết? Mỗi người tự co rút lại, để đối phó với nỗi hoảng sợ tột cùng, của riêng mình, và của chung.

Tên của cuốn sách là “Boat People: Personal Stories from the Vietnamese Exodus 1975-1996” (“Thuyền Nhân: Những câu chuyện cá nhân trong hành trình tỵ nạn 1975 đến 1996”).

Nhưng đây sẽ không phải là cuốn sách về thuyền nhân như bao cuốn sách về thuyền nhân khác, trước nó, và có lẽ cả sau nó nữa.

Phải có rất nhiều lý do!

Hơn 250 trang, viết bằng Anh ngữ, “Thuyền Nhân” không chỉ là một cuốn sách ghi nhận sự kiện, mà còn là một tài liệu lịch sử, ở một khía cạnh khác, lại là một tác phẩm nghệ thuật. “Thuyền Nhân” chứa đựng hơn 200 hình ảnh, đa số hình màu, chưa bao giờ được phổ biến. “Thuyền Nhân” còn là một pho tài liệu, thủ bút, nhật ký, thư từ, điện tín và chuyện kể của 38 người trực tiếp tham dự vào cuộc di tản khổng lồ diễn ra cách đây gần 30 năm.

Như chuyện kể của ông Mai Lộc, về chuyến vượt biên của ông cách đây hơn 25 năm, lúc ông mới 16 tuổi.

“Trong 5 ngày dài, họ [cướp biển] liên tục hãm hiếp những cô gái và phụ nữ đáng thương đó. Sự việc này xảy ra ngay trước đôi mắt kinh hoàng của bé trai 5 tuổi, và người em gái 3 tuổi của cậu, bị bọn hải tặc kéo lên tàu theo mẹ.”

Hai chị gái của ông nằm trong số người bị hãm hiếp này.

Bà Carina Hoàng, người chủ biên, chịu trách nhiệm biên soạn cuốn sách, cho biết, ông Mai Lộc đã “cúi gầm mặt xuống, và khóc lên nức nở” khi kể chuyện, đến nỗi “làm ướt đẫm tấm thảm của phòng khách” nhà bà.


Một cảnh vượt biên, trích từ tác phẩm “Boat People.” (Hình: Người Việt)


Hay bài viết của ông Shern Nguyễn, vượt biên cùng hai con trai, tám và mười tuổi: “Ðiều mà chúng tôi lo lắng lớn nhất đã xảy ra: Hết nước! Tôi lén để dành nước tiểu của mình vào một cái lon nhỏ, lúc hai đứa con không để ý, và bắt chúng uống cho khỏi khát. Ðứa con trai nhỏ của tôi nổi đóa lên. Tại sao ba bắt con đi lên chuyến thuyền này làm gì, sao không để con ở nhà với má? Tôi không thể trả lời. Tôi chỉ lặng lẽ nghĩ, nếu tôi không bảo vệ được con, tôi sẽ chết cùng với chúng nó.”

Và lời của bà Thu Minh Nguyễn kể lại thời điểm tiễn hai đứa con trai, tuổi quân dịch, đi vượt biên, một mình: “Tôi cho mỗi đứa con một nắm cơm nếp, và lặng lẽ từ giã chúng. Rồi chúng đi theo chân một người đàn ông lạ, còn tôi đứng đó trông theo. Nhìn chúng nhỏ bé và mong manh quá. Tôi cố gắng nghĩ là mình đã quyết định đúng, nhưng đầu gối tôi run rẩy. Tôi muốn quỵ xuống. Bụng tôi đau nhói, như có ai cầm dao đâm vào. Người bạn phải kéo tôi đi. Tối hôm đó, chúng tôi ra chợ mua hai con rùa và một chục cua. Thả rùa và cua xuống nước, nhìn chúng tung tăng bơi đi, tôi thầm cầu nguyện cho hai con tìm được tự do, như những con vật này.”

Nói về cuốn sách do mình chủ biên, bà Carina Hoàng, cũng là một thuyền nhân, vượt biên và trốn thoát khỏi Việt Nam năm 1979, lúc 16 tuổi, cho biết, bà “dự định thực hiện cuốn sách này lâu rồi,” vì một ngày nào đó, những nhân chứng sống của lịch sử, trong đó có bà, “sẽ chết đi,” và có thể những thế hệ sau “sẽ không biết, không hiểu rõ” những gì cả triệu người Việt Nam đã phải “trải qua để đến bến tự do.”

“Cuốn sách sẽ đặc biệt có giá trị với những thế hệ người Việt mai sau. Họ cần biết về lịch sự rất quan trọng này của di sản mình, và cần đánh giá cao sự hy sinh của thế hệ cha ông.” Bà Carina Hoàng nói.

Ngoài chuyện kể của chính những thuyền nhân, tác phẩm “Thuyền Nhân” còn có sự góp mặt của 10 người ngoại quốc, từng làm việc với thuyền nhân Việt Nam trong những trại tị nạn, như ông Talbot Bashall, từng làm việc 3 năm tại “Trung Tâm Kiểm Soát Người Tị Nạn” tại Hồng Kông.

Trong nhật ký của mình, ông Talbot Bashall kể lại nhiều chuyện thương tâm, khủng khiếp, trong đó có câu chuyện của một cậu bé thuyền nhân 15 tuổi, ốm yếu, chỉ còn da bọc xương, bị những người đi cùng cột vào thuyền để chuẩn bị “ăn thịt.”

Hay phóng viên Norman Aisbett và nhiếp ảnh David Tanner của tờ “The West Australia,” vào năm 1982, đã lên chuyến tàu Cap Anamur của Tây Ðức, để làm phóng sự về hành trình truy tầm và cứu giúp những người tị nạn của chiếc tàu này.


Nhiếp ảnh gia David Tanner chia sẻ với Carina Hoàng, rằng trong thời gian hơn 5 tuần lễ ở trên tàu, ông “gặp gỡ hơn 600 con người hốt hoảng, tuyệt vọng và sợ hãi,” và sau chuyến đi này, với ông, trong đời “có ba dữ kiện quan trọng nhất:” Cuộc thảm sát tại World Trade Center tại New York, phi hành gia người Mỹ đặt chân lên mặt trăng vào ngày 21 tháng 7, 1969, và cuộc tị nạn trốn chạy Cộng Sản, tìm tự do của người dân Việt Nam khởi đầu từ năm 1975.

Dù “Thuyền Nhân” chỉ mới vừa được in xong, mực còn chưa ráo, dường như bà Carina Hoàng đã đạt được một trong những hoài bão của mình trong việc viết sách.

Theo lời kể của bà, một độc giả, vừa đọc xong một cuốn sách in thử, đã viết thư cho bà, tâm sự: “Ðọc xong cuốn sách, tôi mới nhận thức được là cha mẹ mình đã phải trải qua những gì, và hy sinh như thế nào để tôi có được ngày hôm nay.

Kể từ hôm nay tôi sẽ thay đổi cách cư xử với cha mẹ.”




Cũng theo lời kể của Carina, một phụ nữ ngoại quốc, dù chỉ mới đọc qua giới thiệu của cuốn sách trên website của Carina, cho biết “rất nóng lòng được đọc cuốn sách,” vì chồng bà là một thuyền nhân, nhưng anh ít kể lại quá khứ đó của mình.

Bà cho biết “chắc chắn những gì anh ấy vượt qua đã ảnh hưởng nhiều đến cuộc sống của anh, và vì anh không tâm sự, đôi khi tôi không hiểu cách suy nghĩ của chồng,” và mong đọc sách để hiểu thêm về quá khứ của chồng, một người gốc Việt.

“Thuyền Nhân” là cuốn sách cần đọc để hiểu hoàn cảnh của những người vượt biên, để khép lại quá khứ, để hãnh diện tự hào về dân tộc Việt Nam, những người đã vượt qua nghịch cảnh, trở thành thành viên có ích, đóng góp lại cho xã hội đã cưu mang mình.


Những Bài Liên Quan:

Tìm thân nhân '30 năm yên giấc quê người' (Monday, October 12, 2009 6:38:17 PM)
Ðối với đa số thuyền nhân được đón nhận vào quốc gia thứ ba từ các trại tị nạn ở Indonesia cách đây hơn ba mươi năm, danh xưng như Kuku, Terampa và Telung, có lẽ giờ đây đã dần dà lui vào quên lãng.
Tìm được thân nhân từ bài báo '30 năm yên giấc quê người': Em về, bằng tên trên bia mộ (Wednesday, October 14, 2009 12:28:42 PM)
Ông Lê Giang Trần, một cư dân Quận Cam, California, kể lại chuyện gia đình ông đã bất ngờ khi tìm thấy tên của người em gái út, một trong 17 ngôi mộ chưa có người nhận ở Ðảo Kuku và Telung, Indonesia, sau khi đọc được bài báo “30 năm yên giấc quê người” trên Người Việt
Carina Oanh Hoàng, người đi tìm mộ ở Indonesia: ‘Có sự ràng buộc bởi những tâm linh’ (Wednesday, October 14, 2009 7:37:55 PM)
Cảm xúc bi thương đó cùng với niềm tin có một sự “màu nhiệm linh thiêng” khi chị “bàng hoàng” đào đúng ngôi mộ người anh họ “nằm san sát và rất giống nhau giữa bao nhiêu ngôi mộ khác” sau gần 20 năm.
Ba về khi má vừa ra đi! (Friday, October 16, 2009 6:34:20 PM)
Tôi đã bật khóc ngay khi tôi nhìn thấy tên ba, cũng như tôi đang khóc khi ngồi viết những dòng này. Vào thời điểm má tôi mất thì tôi lại được tìm thấy ba, hai thứ cảm xúc hòa quyện, tôi cảm thấy thật hạnh phúc và cũng thấy lòng thật buồn.
‘Tìm thân nhân 30 năm yên giấc quê người’: Ðã có thêm những cuộc đoàn tụ (Wednesday, October 21, 2009 5:49:18 PM)
Ðã hơn một tuần kể từ ngày nhật báo Người Việt và Người Việt Online (www.nguoi-viet.com) đăng bài viết “Trở lại Indonesia tìm thân nhân '30 năm yên giấc quê người,'cho đến nay, đã có năm ngôi mộ được người thân nhận diện.
Oanh Hoàng về đảo xưa, tìm mộ cũ (Tuesday, April 06, 2010 4:29:20 PM)
Bà Carina Oanh Hoàng, cùng 12 người gốc Việt đã thực hiện một chuyến trở lại Ðông Nam Châu Á, thăm các trại tị nạn của thuyền nhân.
Carina Oanh Hoàng gặp gỡ độc giả Người Việt Online (Wednesday, October 06, 2010 2:03:57 PM)
Carina Oanh Hoàng, người nổi tiếng với việc tìm hàng trăm ngôi mộ thuyền nhân ở Indonesia, có mặt tại tòa soạn Người Việt Online vào trưa 6 tháng 10 chuyện trò cùng độc giả.
“Boat People: Personal Stories from the Vietnamese Exodus 1975-1996” (Tuesday, January 25, 2011 3:49:52 PM)
Users browsing this topic
Guest (12)
Forum Jump  
You cannot post new topics in this forum.
You cannot reply to topics in this forum.
You cannot delete your posts in this forum.
You cannot edit your posts in this forum.
You cannot create polls in this forum.
You cannot vote in polls in this forum.