Welcome Guest! To enable all features please Login or Register.

Notification

Icon
Error

3 Pages<123>
Kiệt Tấn
hoa xuong rong
#21 Posted : Sunday, June 7, 2009 2:14:09 PM(UTC)
hoa xuong rong

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 265
Points: 0

quote:
Gởi bởi Kiệt Tấn

Nhìn hai nàng bên tung bên hứng rất là ngoạn mục, bần tăng sực nhớ hai câu thơ của một thi sĩ trứ danh thời tiền chiến:
Ô hay! Buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi vàng rơi thu mênh mông

Và cũng chạnh nghĩ đến hai câu khác:
Nàng từ đi vào nơi "phượng các"
Đêm trăng này nghỉ mát nơi nao




Kinh chao nha van Kiet Tan
Khong ngo la Kiet Tan di dao vuon "bông" PNV, đây đúng là gươm lạc giữa vườn "bông". Trong cai list dai long thoòng của những người yêu thích văn KT có Hoa Xương Rồng nữa. Rất thích được đọc thêm các tác phẩm của KT. Thêm một Welcome của đàn em. Kinh.Hoa Xương Rồng(thuhuong)
ngodong
#22 Posted : Sunday, June 7, 2009 2:59:31 PM(UTC)
ngodong

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Editors
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 3,437
Points: 1,167
Woman

Thanks: 85 times
Was thanked: 35 time(s) in 34 post(s)
quote:
Gởi bởi Kiệt Tấn



Và cũng chạnh nghĩ đến hai câu khác:
Nàng từ đi vào nơi "phượng các"
Đêm trăng này nghỉ mát nơi nao





Anh Kiệt Tấn nè - hai câu trong Tỳ Bà thì hiểu được, còn câu chạnh nghĩ thì hơi bị ép uổng, đã vào "phượng các" rồi còn hỏi nghỉ mát nơi nao là sao chứ ?

Chào chị HXR . Chị em mình bao vây quá, em lo anh KT sợ . . . chạy . . . . vô quá .
Kiệt Tấn
#23 Posted : Monday, June 8, 2009 4:58:17 AM(UTC)
Kiệt Tấn

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 36
Points: 0

quote:
Gởi bởi hoa xuong rong
Kinh chao nha van Kiet Tan
Khong ngo la Kiet Tan di dao vuon "bông" PNV, đây đúng là gươm lạc giữa vườn "bông". Trong cai list dai long thoòng của những người yêu thích văn KT có Hoa Xương Rồng nữa. Rất thích được đọc thêm các tác phẩm của KT. Thêm một Welcome của đàn em. Kinh.Hoa Xương Rồng(thuhuong)

Hoa Xương Rồng...trồng đất rắn, long lại hoàn long
đất vườn bông này không biết rắn cỡ nào?
Quả dưa chuột tuột da mèo, thử chơi thì thử
có chỗ ghi
Quả dưa chuột tuột thẳng gang, thử chơi thì thử
HXR thấy sao?
beerchug
Kiệt Tấn
#24 Posted : Monday, June 8, 2009 5:03:21 AM(UTC)
Kiệt Tấn

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 36
Points: 0

quote:
Gởi bởi ngodong

quote:
Gởi bởi Kiệt Tấn


Và cũng chạnh nghĩ đến hai câu khác:
Nàng từ đi vào nơi "phượng các"
Đêm trăng này nghỉ mát nơi nao



Anh Kiệt Tấn nè - hai câu trong Tỳ Bà thì hiểu được, còn câu chạnh nghĩ thì hơi bị ép uổng, đã vào "phượng các" rồi còn hỏi nghỉ mát nơi nao là sao chứ ?

Chào chị HXR . Chị em mình bao vây quá, em lo anh KT sợ . . . chạy . . . . vô quá .

Bần tăng cũng nhớ người ta hỏi khi "Chàng từ đi vào nơi gió cát". Còn ở đây, thôi để nhờ PC trả lời NĐ đi ha!

Vô! nào mời các nàng beerchug
hoa xuong rong
#25 Posted : Wednesday, June 10, 2009 1:22:23 PM(UTC)
hoa xuong rong

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 265
Points: 0

quote:
Gởi bởi Kiệt Tấn

quote:
Gởi bởi hoa xuong rong
Kinh chao nha van Kiet Tan
Khong ngo la Kiet Tan di dao vuon "bông" PNV, đây đúng là gươm lạc giữa vườn "bông". Trong cai list dai long thoòng của những người yêu thích văn KT có Hoa Xương Rồng nữa. Rất thích được đọc thêm các tác phẩm của KT. Thêm một Welcome của đàn em. Kinh.Hoa Xương Rồng(thuhuong)

Hoa Xương Rồng...trồng đất rắn, long lại hoàn long
đất vườn bông này không biết rắn cỡ nào?
Quả dưa chuột tuột da mèo, thử chơi thì thử
có chỗ ghi
Quả dưa chuột tuột thẳng gang, thử chơi thì thử
HXR thấy sao?
beerchug



Nha van hoi hxr, sinh tai Ha Nam, lam sao tra loi. Hxr rat thich van cua cac nha van mien nam. Khong nhung dung chu rat de thuong va tu tuong rat la....rat la. HXR lam refugee tu cai hoi 5 tuoi nen khong duoc diem phuc o thon que. chi doc sach va tuong tuong thoi. Kiet Tan vao PNV roi moi thay PNV cung de thuong day chu. Hxr so ran lam. KT cho phep hxr chao Au Tim...chao nguoi dep....bo vuon PNV di lang thang, vao day nghe qui vi noi chuyen voi KT vui qua va thay trai dat nho it ti. Hello PC va qui chi PNV. hxr
Kiệt Tấn
#26 Posted : Monday, June 15, 2009 5:48:17 PM(UTC)
Kiệt Tấn

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 36
Points: 0

NĂM NAY ĐÀO LẠI NỞ


Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu
Giấy đỏ buồn không thấm
Mực đọng trong nghiên sầu...
Vũ Đình Liên


- Thưa ông cho nhà cháu hỏi thăm. Còn mấy hôm nữa thì là Tết ạ?
Tiếng hỏi làm tôi giật mình ngó người đàn bà chít khăn mỏ quạ. Tôi vừa ăn xong cơm chiều, đang đứng trước sân nhà xỉa răng ở trần cho mát. Tôi vội đáp:
- Thưa cụ vừa mới Tết xong ba bữa. Còn lâu lắm mới Tết nữa.
Người đàn bà có vẻ bối rối:
- Thế hở ông? Thế mà cháu quên mất, làm phiền ông quá. Ông cho nhà cháu xin lỗi.
- Thưa cụ, có gì đâu mà xin lỗi.
Một cơn trốt thổi đến xoáy những cánh bông giấy chạy tán loạn trong sân. Bông giấy đủ màu: đỏ, cam, tím, trắng; Tết nào cũng rụng đầy, đúng hẹn với trời đất. Người đàn bà ngập ngừng:
- Phiền ông cho nhà cháu hỏi thêm: Ông có biết nhà ông Đa ở lối nào xin ông chỉ hộ cho nhà cháu.
Nữa. Lại câu hỏi đó nữa! Tôi vừa nghĩ thầm vừa nhìn vào đôi mắt hom hem của bà. Chiều nay bà không đeo kiếng mát, loại kiếng gọng nhỏ, có tròng đen tròn vo như loại kiếng đen lính cảnh sát đeo trong phim Hitchcock. Bà lại bối rối, cố nhoẻn miệng cười vớt vát, để lộ mấy chiếc răng nhuộm đen còn đương cự được với tuổi trời.
- Dạ thưa cụ, cháu không biết nhà ông Đa ở đâu.
- Thế hở ông? Thật khổ quá! Cháu đã hỏi thăm nhiều người mà không ai biết nhà ông Đa ở đâu cả.
Bà lí nhí xin lỗi rồi quay lưng đi, chiếc lưng mà sức hút của trái đất sáu bảy chục năm qua đã bẻ còng. Bà lom khom lê đôi dép Nhựt Bổn, đôi dép đã cũ, cao su bè ra hai bên. Tôi chắc chắn bà sẽ lại đi lượm lon, lon sữa bò, lon thịt hộp, lon đậu hộp... Mục này nằm trong chương trình hoạt động hằng ngày của bà. Không ai biết tên bà. Má tôi quen gọi bà là “Bà Lượm Lon”. Nhiều lần má tôi cho bà cái lon không đã rửa sạch, và kết chuyện với bà. Không biết hai bà già lẩm cẩm nói gì với nhau mà cười tíu tít như xuân nữ. Có bữa thấy bà lom khom sục sạo ngoài hàng rào, má tôi sực lo ngai ngái cho tương lai của chính mình.
- Tao sợ nữa già tao cũng lẫn lộn rồi đi lượm lon như bả quá! Rồi mầy với thằng con mầy đẩy xe bỏ tao trên núi.
Nói xong, bà cúi xuống hun thằng con trai của tôi bà đang bồng trên tay. Cục cưng của bà đó. Rớ tới là bà xuống đường, tuyệt thực để phản đối.
Bà Lượm Lon quẹo ở hông nhà tôi rồi đi ra phía đường lớn, đại lộ Bạch Đằng, xóm Hàng Xanh. Bà sẽ lạch bạch băng qua bên kia đường lớn, hỏi thăm nhà ông Đa, rồi thất vọng quay lộn trở về lề đường bên nầy, lại hỏi thăm nhà ông Đa, lại thất vọng, lại lạch bạch băng qua bên kia đường... Đâu mười bữa trước, tôi đang sơn lại cửa rào trước nhà thì bà tới gần hỏi tôi, vẫn giọng lễ phép cố hữu của người nhà quê miền Bắc:
- Thưa ông cho nhà cháu hỏi thăm. Còn mấy hôm nữa thì là Tết ạ?
Tôi dừng cọ sơn, mỉm cười ngó bà:
- Thưa cụ còn bốn bữa nữa thì Tết. Cháu đang sơn lại nhà để ăn Tết đây.
Bà cười tếch toác, răng đen nhánh:
- Thế hở ông? Sắp Tết rồi, vui quá nhỉ?
Bà đưa tay sửa lại chiếc khăn mỏ quạ bị gió Xuân xô lệch.
- Dạ... dạ thưa ông, xin phiền ông chỉ hộ cho cháu nhà ông Đa, cháu đi tìm mãi mà... (vân vân).
Nữa. Lại nhà ông Đa nữa! Ông Đa nào? Tôi không cách gì biết được. Ông Đa là ai? Tôi mù mịt. Ông là gì của bà? Một thân nhân? Một ông chủ cũ? Một người chồng cũ? Một nhân tình cũ? Ở đâu? Hà Nội, Hải Phòng, Bùi Chu, Nam Định hay Phủ Lý? Kỷ niệm gì mà trên bước đường di cư khi đất nước chia hai đeo đuổi, đeo riết khiến bà còn nhớ hoài, nhớ mãi, cho tới bây giờ? Hai người đã yêu nhau khắn khít, sống vô số kỷ niệm đẹp, rồi đùng một cái! Xa nhau? Tôi cứ phỏng đoán lan man. Rốt cuộc vẫn là người mù đi trong bóng tối giữa đêm ba mươi.
Nhà ông Đa ở đâu, tôi không biết đã đành. Nhưng ngay chính nhà của bà ở chỗ nào tôi cũng không biết. Chỉ biết đại khái bà ở đầu xóm, vì bận nào bà cũng từ đầu xóm đi lại, qua ngang cửa nhà tôi, quẹo trái rồi băng qua đại lộ Bạch Đằng. Rồi băng trở lại (vân vân). Tung tích: bà là người di cư. Gốc gác: nhà quê miền Bắc – dựa theo giọng nói. Tuổi tác: trên sáu mươi – dựa theo chiếc lưng còng. Dĩ vãng: ông Đa. Hoạt động: lượm lon. Hết!
Bốn mùa bà chít khăn mỏ quạ màu nâu đất đã bạc thếch. Quần dài đen, áo cánh đen tay ngắn, răng nhuộm đen, đi dép Nhựt Bổn bè bè, đeo kính đen tròng kính tròn vo. Một đời sống bình yên thuở nào bên sông Hồng, giờ chỉ còn lại có bao nhiêu đó. Thời buổi này giặc giã, hoả tiễn Nga thụt vô Sài Gòn, phản lực Mỹ xẹt ngang Gia Định, xe tăng thiết giáp rần rần rộ rộ, kéo lê những khẩu đại bác dài ngoằng băng qua xóm Hàng Xanh của tôi và Bà Lượm Lon rồi trực chỉ xa lộ Biên Hoà. Xe tăng tương đối chạy chậm, so với xe vận lương phóng ào ào, nườm nượp, súng bắn lốp bốp mở đường, lôi theo những thùng sắt khổng lồ, no ứ, xẹt tới xẹt lui không ngớt trên đại lộ Bạch Đằng.
Sau khi chứng kiến vô số tai nạn – một lần trái tim người bị cán văng ra còn đập nhẩy trên mặt đường nhựa – tôi thường ê ẩm hàm răng, tóc tai dựng đứng, nổi da gà khiếp vía khi thấy Bà Lượm Lon đi ngang qua cửa nhà tôi, quẹo trái, chập sau có tiếng xe vận lương rầm rộ, súng nổ lốp bốp, rồi tiếng phanh xe khịt khịt, tiếng bánh xe cao su chợt đứng sững nhưng còn trớn cày xiết trên mặt đường nghe rát ruột. Tôi sợ rồi một ngày nào đó cái khăn mỏ quạ, đôi dép Nhựt Bổn, mấy cái lon vừa lượm được sẽ văng tung toé dưới lườn của một thùng sắt đồ sộ. Người ta sẽ thu nhặt những gì còn lại của chiếc lưng còng, của hàm răng đen, của cặp kiếng đen, của một thuở bình yên bên sông Hồng, của những tình tự một thời với ông Đa. Người ta sẽ bỏ hết những thứ đó vào một cái hòm nhỏ, đem chôn ở một nơi rất xa thành phố. Rồi mọi người sẽ dần dần quên, quên hết. Chẳng còn ai nhớ trong xóm mình đã từng có một bà người Bắc Kỳ lom khom đi lượm lon ở miền Nam – lượm lon để làm gì không biết. Sẽ không còn ai hỏi thăm nhà ông Đa. Cũng sẽ không còn ai hỏi tôi, khi mùa Xuân hãy còn đó:
- Thưa ông cho nhà cháu hỏi thăm: Còn mấy hôm nữa thì là Tết ạ?
- Thưa cụ, vừa mới Tết xong. Còn lâu lắm mới Tết nữa cụ ạ!
Không rõ vì lẽ gì mà mỗi lần hoa mai nở, mỗi lần hoa đào nở, mỗi lần Tết đến là tôi lại bị ám ảnh bởi những người đàn bà già nua mà tôi đã có dịp gặp trong đời. Có lẽ tại vì tôi nhìn thấy quê hương qua những bà già đó, một quê hương vừa yêu dấu, vừa ngậm ngùi. Thương đứt từng khúc ruột. Viết tới đây tôi lại chảy nước mắt. Trời ơi! Sao tôi cần quê hương đến như vậy!
Những bà già đó tượng trưng cho quê hương. Không! Những bà già đó là quê hương. Những bà già có làn da nhăn thơm tho mùi đất, có nụ cười rì rào tre trúc, có bàn chân nứt nẻ phù sa, có trái tim từ bi vô lượng, trái tim đó đã bơm máu vào rún tôi từ thuở tôi trong bụng mẹ, từ lúc tôi còn nhỏ xíu, lớn chưa bằng đầu ngón tay. Trời hỡi! Sao thương quá sức! Ai nỡ cắt ruột cho đành? Tôi thèm thương. Tôi thèm khóc. Tôi thèm quê hương. Thèm quá đỗi! Tết lại đến rồi đó...

Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?

Năm nay đào lại nở. Phải, năm nào mà đào lại chẳng nở? Tôi muốn la một tiếng thất thanh: “Ôi Quê Hương!”. Đào lại nở, tôi lại nhớ. Tôi nhớ những người muôn năm cũ, những bà già lượm lon, những bà già bán cà-rem ở trường học, những bà già bán đậu phọng ở bến xe, những bà già bán nước mía trong chai xách trên chiếc bắc Mỹ Thuận, Cần Thơ, Vàm Cống hay Rạch Miễu đưa bà con về thăm nhà trong dịp Tết. Những bà già mà mỗi lần ngó, bạn đều được tặng không một nụ cười hiền lành – hiền lành như cặp mắt của con trâu đi cày. Cũng không có gì khác để tặng bạn ngoài nụ cười đó. Rồi Tết qua, trở lại chuyến bắc, có thể bạn sẽ không còn gặp lại bà già đó nữa. Không bao giờ! Nụ cười tặng không đã mất. Cũng như quê hương.
Bà già cầm cái chuông nhỏ đưa lên lắc leng keng, ngó tôi mỉm cười. Mỉm cười vì bà đã được tôi ngó. Bà ngồi ở sân trường, giờ ra chơi. Tôi học lớp nhứt, được đâu mười tuổi. Cái nón lá rách để một bên, cái bình cà-rem để một bên, bình tròn dài sơn xanh, trên đậy nắp thiếc mạ kền đã trầy ố. Bà vừa từ bên trường nữ cách đó khoảng hơn trăm thước tất tả chạy qua, mồ hôi còn đổ hột trên trán. Bên trường nữ vừa hết giờ ra chơi là tới phiên trường nam ra chơi, trống giục liên hồi. Có lẽ bên trường nữ bà già cà-rem bán được hơn bên nầy. Bên nầy tụi nhóc khoái đổ xí ngầu hơn là bỏ tiền ra mua cà-rem một cách lương thiện. Được thì ăn nhiều, thua thì bơ mỏ. Nhưng hào hứng. Vì vậy mấy thằng nhỏ bán cà-rem đều thủ sẵn một cái tô và ba hột xí ngầu. Ra chơi tụi nhóc bu lại, trong đó có tôi. Bỏ bà già ngồi ở góc sân chong ngóc một mình vì bà không có... đổ xí ngầu.
Vì vậy khi có đứa nào ngó, bà liền đưa cái chuông nhỏ lên lắc lắc mời mọc. Như con chó hiền lành, chỉ chờ có người ngó là vẫy đuôi ngoắc. Tôi biết sự so sánh có vẻ kỳ cục, nhưng tôi không có cách nào diễn tả ánh mắt của bà hơn là ánh mắt mừng rỡ của con chó khi nhận ra được người quen. Và tiếng chuông leng keng là tiếng sủa mừng. Tôi nghĩ bà cũng quý chuông lắm vì lúc nào nó cũng được bà chùi bóng. Hồi nhỏ tôi cũng ham vui, như mấy thằng lỏi khác. Nhưng đôi khi nhìn ánh mắt mừng rỡ của bà, tiếng chuông leng keng và cái miệng móm cười không còn răng, tôi chợt thấy má tôi đang ngồi chồm hổm đó – tôi cầm lòng không đậu. Tôi bỏ ra năm cắc mua của bà cây cà-rem đậu xanh và hi sinh buổi đổ xí ngầu. Tay bà run run giở cái nắp bình thuỷ bằng mốp lựa cây cà-rem đưa cho tôi, tay run run. Tôi không quên nổi hình ảnh đó – cho tới chết không chừng. Run run không phải vì cảm xúc mà vì tuổi trời, có lẽ. Bà đã già lắm rồi, tóc bạc trắng như trang giấy học trò điểm sợi đen như những đường gạch hàng trên trang giấy. Nhưng bà lúc nào cũng tặng không một nụ cười móm khi đưa cho tôi cây cà-rem. Tôi không hề bắt gặp một chút nào đau khổ hay than trách trong ánh mắt và nụ cười đó. Ngay lúc bà ngồi suốt cả giờ ra chơi, không bán được một cây cà-rem nào.
Có bữa tôi ngó bà, bà ngó tôi đưa cái chuông lên lắc leng keng, cười móm, nhưng tôi đành ngoảnh đi vì tôi vừa đổ xí ngầu thua sạch. Bước đi mấy bước tôi ngoảnh lại, bà lại đưa cái chuông lên lắc. Tôi vụt bỏ chạy... Có bữa tôi thấy ngón chân cái của bà sướt móng chảy máu – bà đi cẳng không. Có lẽ vì chạy quá vội vàng trên con đường đá xanh lởm chởm từ trường nữ qua trường nam, bà vấp cục đá lớn. Tôi đã có lần bị vấp đá xanh trật móng, đau đứt ruột, nên biết. Nhưng nét mặt bà không hề lộ vẻ gì đau đớn. Chỉ chờ thằng lỏi nào ngó là bà lại đưa chuông lên, cái chuông bóng loáng, như tiếng sủa mừng, như tấm lòng của bà.

Một bữa gần bãi trường ăn Tết, tôi háo hức nhào vô đổ xí ngầu với tụi lỏi, chợt trời mưa. Tụi tôi từ sân chơi dời vô núp mưa dưới hàng ba và tiếp tục sát phạt. Tôi cháy túi như mọi bận. Tôi còn đang đứng xớ rớ ngó ra cổng trường chợt thấy bà già cà-rem xớn xác từ ngoài cổng chạy vào, rồi tấp vào hàng ba đụt mưa. Bà giở chiếc nón lá rách ra giũ nước. Mưa lớn quá, bà ướt mem. Bà ngồi chồm hổm dưới đất, dựa lưng vào vách lá của lớp học, mặt bà xanh xao, môi tái mét, có vẻ mệt mỏi. Bà lấy tay lau sơ cái chuông đã ố nước rồi ngó lên chờ khách hàng. Tôi ngó bà, bà ngó tôi rồi đưa chuông lên lắc leng keng, cười móm. Tôi muốn khóc. Tôi chạy vô lớp mượn của thằng bạn năm cắc. Tôi trở ra, đến ngồi chồm hổm bên cạnh bà, leng keng… leng keng...
- Bà cho tui cây cà-rem đậu xanh.
Bà đặt chuông xuống đất, giở nắp thiếc mạ kền. Bà mở tiếp nắp xốp, các ngón tay run run còn đọng nước mưa. Thùng...thùng...thùng thùng thùng... Tiếng trống chấm dứt giờ ra chơi chợt gióng lên liên hồi. Cây cà-rem đậu xanh vừa lấy ra khỏi bình thuỷ còn run run trên tay bà. Tôi vội vã quăng năm cắc vào nắp thiếc:
- Bà cất cà-rem đó, mơi tui lấy.
Bà cười móm:
- Ờ, mơi nhớ lấy nghe cháu!
Bà cầm nón lá đứng dậy, má tôi đó. Tay xách bình cà-rem, má tôi đứng ngó thằng con trai của bà đang xếp hàng đi vào lớp. Khi tôi đi ngang, bà nghiêng người kề tai tôi dặn nhỏ: ‘‘Mơi nhớ lấy cà-rem nghe cháu!’’. Hơi thở ấm áp của bà phà vào lỗ tai tôi. Vào lớp, thầy ra hiệu cho cả lớp ngồi xuống. Tôi ngồi xuống ở bàn đầu ngó ra còn thấy má tôi đang tất tả chạy trên con đường đá xanh lởm chởm, tay vịn nón lá sợ bay mất. Rồi bóng má tôi với cái áo vá vai mờ dần trong mưa...
Ngày hôm sau, tôi có ý chờ bà tới. Bà không tới. Hai bữa sau bãi trường. Tôi ăn hủ tiếu uống nước bạc hà, tôi ăn dưa hấu đỏ, đốt pháo chuột, và quên hết. Quên tiếng chuông leng keng, quên ngón chân sứt móng, quên cái bình cà-rem trầy ố, quên con mắt vẫy đuôi mừng.
Qua Tết, nhập học, chúng tôi trở lại trường. Nhưng bà già cà-rem với cái nón lá rách và cái chuông bóng lộn không bao giờ trở lại nữa. Không bao giờ...
Đã có bao nhiêu bà-già-quê-hương tôi đã gặp trong đời? Năm người? Mười người? Hay một trăm người? Hay nhiều hơn nữa? Có lẽ vậy. Không sao đếm hết. Những bà già đó nhan nhản đầu làng cuối xóm, ở quê mình. Chỉ cần để ý một chút, bạn sẽ thấy. Họ sờ sờ đó, lúc nào cũng hiện diện, nhưng cũng đồng thời rất âm thầm. Họ không có nhiều lời nói, chỉ có cái nhìn độ lượng, ánh mắt từ bi, nụ cười móm. Và đôi khi họ khóc. Cũng như bạn. Khi đau khổ quá, bạn khóc.
Học hết tiểu học, tôi lên trung học. Hết lớp đệ tam, tôi rời Vĩnh Long sang học trọ ở Mỹ Tho, lớp đệ nhị Nguyễn Đình Chiểu. Nhà trọ ở gần trường, sau trường là bến xe đò. Ban đêm có xe hủ tiếu, xe bán bò bía, khô mực, ổi cóc, la-de nước ngọt... đẩy tới bày bán. Tôi thức khuya học, thỉnh thoảng đói bụng chạy ra làm một tô mì hay uống nước dừa tán dóc với mấy thằng bạn cùng trọ. Lần nào tôi cũng gặp bà-già-quê-hương đi rảo qua các bàn ăn mời mua giùm một hai gói đậu phọng. Bà bưng cái rổ nhỏ, các gói đậu làm bằng giấy nhựt trình quấn thành hình nón dài. Bà để đầu trần, đi cẳng không, quần đen, áo trắng rách lưng đã ngả màu vàng xỉn. Đôi mắt hom hem thụt sâu trong hố mắt, nụ cười nhăn nhúm, móm xọm, hiền hậu.
Lần đầu tiên bà đến mời, tôi mua hai gói. Gói đầu mở ra, bẻ đậu, đậu lép. Bẻ tiếp, lại đậu lép. Lần thứ ba, có một bên lép, bên kia hột đậu có chút xíu. Gói thứ hai, cũng đại khái như vậy. Nói chung, đậu lép rất nhiều, hầu hết. Tôi nghĩ thầm tại mình xui. Nhưng lần thứ hai tôi mua, cũng vậy nữa, lép nữa. Và những lần kế tiếp khác, lại đậu lép và đậu lép. Một bận tình cờ nói chuyện với bà chủ nhà trọ, bà cho biết tình cảnh bà-già-đậu-lép. Bà sống chung với con trai và con dâu ở ngoại ô Định Tường. Con trai bà đi lính đã chết. Con dâu mua bán đậu phọng, hột chắc thì luộc đem ra chợ bán ban ngày, hột lép thì rang sơ bỏ vô gói giấy nhựt trình giao cho bà già đi bán ban đêm – ban ngày bà ở nhà giữ cháu. Thấy bà già cả lụm cụm, người mua nhằm đậu lép chắc không ai nỡ nói gì. Nhưng sau đó, khi đã biết được thì không ai mua nữa. Mặc tình cho bà rảo tới rảo lui, hay bưng rổ đứng chờ rất lâu bên cạnh bàn ăn.
Tim tôi se lại, ruột quặn thắt. Trời hỡi ! Sao khốn cùng tới mức phải đi bán đậu lép! Tối hôm đó, tôi ngồi uống nước dừa Bến Tre, có ý chờ bà. Bà lẫm đẫm, lom khom tới bàn tôi mời, tôi mua hai gói. Khi bà run run đưa tôi gói đậu phọng, tôi thấy cánh tay bà nổi gai ốc. Trời lập đông. Tết sắp đến rồi. Bà cám ơn tôi. Tôi thấy cổ mình nghẹn thắt. Và nhiều lần như vậy nữa. Lần nào tôi cũng mua hai gói đậu phọng bỏ vào túi, về nhà trọ bẻ ra lấy mấy hột đậu không lép, nhâm nhi thấy bùi ngọt mà sao chua xót ngậm ngùi. Trời gần Tết, càng lúc càng lạnh.
Nhiều bữa có những chuyến xe đò muộn ghé qua cho khách xuống hoặc đổ xăng. Những người bán hàng rong ùa tới, đưa cao những rổ mận, những chùm mía ghim, những bọc kẹo chuối, mứt chuối... ơi ới réo mời hành khách. Bà-già-đậu-phọng cũng lụm cụm chạy tới, nhưng bị lấn giạt ra xa, chen vô không được với bọn đàn bà con gái. Bà đứng phía sau, cầm gói đậu phọng nhựt trình lóng nhóng đưa lên, miệng lắp bắp, lí nhí, nghe không rõ được tiếng nào. Rồi xe rồ máy nhả mùi xăng cháy và khói xanh um và mùi xăng cháy mịt mù, vọt chạy... Người bán rong chạy theo để lấy tiền hoặc thối tiền. Bà già bỏ gói đậu phọng lại rổ, đứng ngó theo. Tới lúc xe khuất.
Tôi có cái áo blouson cũ màu trắng, dính mực ở lưng giặt không ra. Một đêm tôi cầm cái áo ra bến xe đò, đứng ở gốc cây me núp chờ. Tôi chờ bà-già-đậu-phọng. Một chiếc xe đò muộn tấp vô bến, đậu lại xuống hành khách. Mấy cô bán rong ùa tới, bà già đậu phọng lụm cụm, lẽo đẽo, đứng xa giơ gói đậu phọng lên lắc lắc, lí nhí. Xe rồ máy vọt chạy. Bà đứng xớ rớ bên lề. Tôi bước tới bỏ cái áo blouson dính mực vào cái rổ của bà, không nói được lời nào. Tôi ngó bà, bắt gặp ánh mắt từ bi đang nhìn tôi. Tôi quay lưng bước lẹ như chạy trốn. Đến gần đầu đường tôi ngoái người ngó lại. Bà già đậu phọng còn đứng đó, trong bóng tối nhá nhem, tay cầm cái áo trắng đưa về phía tôi ngoắc ngoắc. Bà có nói một lời nào không, tôi không biết.
Và sẽ không bao giờ tôi biết được. Hôm sau tôi lấy chuyến xe đò sớm về Vĩnh Long bãi trường, ăn Tết với gia đình. Tôi ăn thịt kho, ăn dưa hấu, uống la-de, đốt pháo đại, và quên hết. Quên bước chân lụm cụm, quên bà già đứng xớ rớ, quên những gói đậu phọng lép. Và cũng sẽ không bao giờ tôi được thưởng thức món đậu phọng lép của bà-già-quê-hương nữa – cái hương vị bùi ngọt mà sao chua xót khôn cùng ! Trời hỡi, sao thương quá thể!
Tết qua, tôi trở lại Định Tường, đổi nhà trọ, xuống gần bến đò bên kia sông là chùa Vĩnh Tràng, gặp Hoa, người yêu đầu tiên ở đó. Nhưng không còn bao giờ tôi gặp lại bà-già-đậu-lép nữa. Bà chưa chết. Tôi không dám nghĩ rằng bà đã chết. Tôi năn nỉ bà đừng chết. Bà đang bưng rổ bán đậu phọng ở một bến xe đò khác, ngoài ngã ba Trung Lương chẳng hạn. Có thể bà bị lấn ra xa, nhưng bà chưa chết. Bà đang cầm gói đậu phọng đưa lên cao, dù không ai mua. Bà đang mặc cái áo blouson trắng dính mực, coi rất kỳ cục. Nhưng bà chưa chết. Cũng như bà già cà-rem - má tôi. Bà cũng chưa chết. Bà đang ngồi chồm hổm bán cà-rem ở một trường tiểu học khác nào đó, ở Cai Lậy chẳng hạn. Chỉ chờ bạn ngó, tôi ngó, thằng nhóc nào đó ngó là bà đưa cái chuông bóng lộn lên lắc leng keng, cười móm, mời mọc, ngọt sớt.
Có thể bà vẫn còn ngồi đó, dù không ai mua cho bà cây cà-rem đậu xanh. Có thể bà vẫn còn bưng rổ đứng đó, dù không ai mua cho bà gói đậu phọng lép. Có thể bà vẫn còn lom khom đi lượm lon trong xóm Hàng Xanh, dù không ai chỉ cho bà nhà ông Đa. Nhưng mọi người vẫn còn đó. Những bà-già-quê-hương, những ‘‘Mối Tình Đầu’’ thiệt sự của tôi, vẫn còn đó. Cho dù bạn vô tình hay thờ ơ không ngó thấy.
Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài giời mưa bụi bay...
Song Anh
#27 Posted : Monday, June 15, 2009 8:08:46 PM(UTC)
Song Anh

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 1,004
Points: 18

quote:
Gởi bởi Kiệt Tấn

NĂM NAY ĐÀO LẠI NỞ



Song Anh kính chào nhà văn Kiệt Tấn.
S.A có nghe tiếng KT... nhưng đây thật sự là lần đầu tiên S.A mới khám phá ra văn phong của Kiệt Tấn.
S.A vừa đọc...vừa thút thít...thì có tiếng con hỏi sau lưng :
-" Pourquoi pleures - tu maman? " ( " Sao mẹ khóc vậy?)
SA trả lời :
- " Parce que...Bà ngọai me manque..".( Tại mẹ đang nhớ ngọai con à...)

Thế là S.A tóm lược..."dịch" lại bài văn ...cho con hiểu...cuối cùng thì thấy con bé...gật gù...trầm ngâm...rươm rớm nước mắt...(không biết nó nghĩ gì...có cảm thấy thương Quê Hương của Ngoại, của Mẹ hơn không???).

Vâng, thương làm sao những " Bà mẹ quê hương ".Black Eye
Chú có bao giờ nghĩ và viết về những " Bà mẹ quê hương " trên Xứ Người không??? Rất nhiều hoàn cảnh...cũng " đời xót xa đưa" lắm chú à...Sad

Ba Tê
#28 Posted : Tuesday, June 16, 2009 9:17:30 AM(UTC)
Ba Tê

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Editors
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 2,175
Points: 423
Woman
Location: San Diego

Thanks: 15 times
Was thanked: 23 time(s) in 23 post(s)
Kính chào nhà văn nhà thơ Kiệt Tấn Smile [ dạ , tui chỉ cười nhè nhẹ tôi , hổng dám cười to]

Nghe văng vẳng tiếng chuông tiếng mõ nên Ba Tê tui mới dám bước đại vô khu vườn của đại văn hào.
Chỉ xin đứng một xó , đeo mắt kiếng vào đọc mấy bài đã dán thôi. Hình như có ai mang sẵn cờ-lin-nách , tui rút đại xài đỡ.

Chủ nhân có xưng là bần tăng nên nếu Ba Tê tui có chi thất lễ cũng xin nhà sư (?) hỉ xả cho.
Kiệt Tấn
#29 Posted : Wednesday, June 17, 2009 4:24:27 PM(UTC)
Kiệt Tấn

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 36
Points: 0

Bần tăng xin ghi nhận lòng thành của thí chủ Ba Tê Smile
quote:
Gởi bởi Song Anh
Chú có bao giờ nghĩ và viết về những " Bà mẹ quê hương " trên Xứ Người không??? Rất nhiều hoàn cảnh...cũng " đời xót xa đưa" lắm chú à...Sad

Sao Song Anh không viết đi, cho thiên hạ và chú sụt sịt ké? Chớ KT thì chưa được gặp các " Bà mẹ quê hương " trên Xứ Người, toàn gặp Bà... chằng không hà!
Song Anh
#30 Posted : Wednesday, June 17, 2009 7:53:15 PM(UTC)
Song Anh

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 1,004
Points: 18

quote:
Gởi bởi Kiệt Tấn
Sao Song Anh không viết đi, cho thiên hạ và chú sụt sịt ké? Chớ KT thì chưa được gặp các " Bà mẹ quê hương " trên Xứ Người, toàn gặp Bà... chằng không hà!



Những " Bà mẹ quê hương trên Xứ Người "...không nhiều...nhưng có thật đó chú...trong một bối cảnh và hoàn cảnh khác nhưng " Họ" có cùng một nụ cười buồn và ánh mắt lạc thần...

Thuộc vào cái thế hệ " nửa nạt nửa mỡ ", tiếng Việt thì học chưa xong mà tiếng Tây thì học chưa tới...thì làm sao S.A dám viết cái gì...dạ thật sự là chưa dám, chưa dám, chưa dám đâu...ShockedShockedShocked

Chú KT thật là khéo " lấy nước mắt " của độc giả đó nha.
beerchugRose
PC
#31 Posted : Saturday, June 20, 2009 8:16:04 PM(UTC)
PC

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 5,668
Points: 25
Woman

Was thanked: 4 time(s) in 4 post(s)
Nếu có thể viết theo "đơn đặt hàng" thì PC lại muốn đặt món hàng mới của nhà văn Kiệt Tấn. Là lý do nào mà nhà văn lại trở thành "bần tăng", và con đường đi về xứ Phật có điều gì hay dở ra sao? Kính xin người sẻ chia cùng nhân thế! Shy

Kiệt Tấn
#32 Posted : Sunday, June 21, 2009 8:34:45 PM(UTC)
Kiệt Tấn

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 36
Points: 0

quote:
Gởi bởi PC

Nếu có thể viết theo "đơn đặt hàng" thì PC lại muốn đặt món hàng mới của nhà văn Kiệt Tấn. Là lý do nào mà nhà văn lại trở thành "bần tăng", và con đường đi về xứ Phật có điều gì hay dở ra sao? Kính xin người sẻ chia cùng nhân thế! Shy

Trước khi bần tăng hóa kiếp sẽ trăn trối, thí chủ ráng chờ coi ắt rõ
PC
#33 Posted : Sunday, July 12, 2009 6:37:34 PM(UTC)
PC

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 5,668
Points: 25
Woman

Was thanked: 4 time(s) in 4 post(s)
Hay là bài đó đem tặng riêng cho PNV để in trong tuyển tập PNV?

Big Smile
Kiệt Tấn
#34 Posted : Friday, July 31, 2009 6:49:28 PM(UTC)
Kiệt Tấn

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 36
Points: 0


Cái rầu bất tận của Nguyễn Ngọc Tư

chiều chiều chim vịt kêu chiều
bâng khuâng nhớ bạn chín chiều ruột đau



Nắng Tiền giang mưa Hậu giang
Mưa kín chân mây nắng rộn ràng
Lòng mong nắng đến chờ mưa tới
Mưa nắng trong tôi nghĩa đá vàng



Tôi thả những dòng thơ này trên sóng nước phù sa sông Tiền sông Hậu từ cuối thế kỷ trước. Tới đầu thế kỷ sau tôi mới đón nhận được, qua văn chương, những trận nắng dữ tợn miệt Tiền giang và những cơn mưa hiền hậu miệt Hậu giang trên da thịt mình. Tập truyện ngắn Cánh đồng bất tận và quyển Tạp văn Nguyễn Ngọc Tư đã ấm áp lọt vào vòng tay ân cần của tôi vào tháng sáu năm 2006, nhân dịp tôi về thăm quê hương. Thời gian đó ở miền Nam trời mưa hoài mưa hủy, mưa dai mưa dẳng, mưa dầm mưa dề, mưa không dứt hột. Mà mỗi khi mùa mưa tới, mỗi khi mưa xuống là tôi thèm yêu, thèm được thất tình, thèm được chết vì quá yêu một cô gái nào đó. (Mà sao không thể là Nguyễn Ngọc Tư, dù chưa một lần tạn mặt?)

Tôi đọc miên man Cánh đồng bất tận (CĐBT), gối kê đầu giường. Tôi mê mải đọc Nguyễn Ngọc Tư (NNT) trong những chuyến xe đò chở tôi xuôi ngược trên những con đường quê hương. Mưa Tiền giang nắng Hậu giang, Trời cao đất rộng chiếc diều băng. Cò bay thẳng cánh đo đồng ruộng, Chín cửa ra khơi mộng hải bằng. Những câu văn đậm tình sông nước, cuồn cuộn phù sa của Nguyễn Ngọc Tư làm nhớ bài thơ Tiền giang Hậu giang của tôi đã viết cách đây hơn mười năm. Nắng Hậu giang mưa Tiền giang, Nhìn nhau mà lệ rớt hai hàng… Dạt dào… xào xạc… bì bõm…

Tôi sinh đẻ tại Bạc liêu có biển nhãn lấn tràn minh mông, mút mắt. Thời đó, phong trào chống Pháp bắt đầu bộc phát. Tới năm 9 tuổi tôi theo gia đình lên định cư ở Vĩnh long sông nước tư bề, vào trung học. Từ miệt đồng ruộng phì nhiêu tôi dời lên miệt vườn hoa lá sum suê, um tùm bốn phía. Tôi được nuôi dưỡng bằng không khí thơm tho bùn đất và những dòng máu thắm đỏ phù sa, chằng chịt như sông ngòi quấn quít đồng bằng Cửu long. Chín con rồng biển đã cưu mang tôi từ lúc tôi mới tượng hình, có chút xíu, lớn chưa bằng đầu ngón tay.

Tư cũng chào đời tại Bạc liêu (Tạp văn NNT, trang 189), vùng đất có rừng bần lấp loáng sáng trăng những đêm rằm trong trẻo. Một năm sau “giải phóng” 75. Đến năm 4 tuổi thì Tư trôi giạt về Cà mau, để rồi quấn hết chưn tay mình mẫy của mình vào cuộc đất này như đôi tình nhân nguyện thề từ muôn vạn kiếp. Cỏ mọc bờ giếng cheo leo, Lâm chung có bậu hiểm nghèo có qua. Sinh ra từ đất Hậu giang, Tư vẫn cứ một dạ thủy chung với cuộc đất này. Từ rừng bần sáng trăng, Tư trôi giạt về tử thủ vùng đất ngập nước có rừng mắm khua động dưới từng nhịp chèo, từng mái dầm bơi xới dòng phù sa ngầu đục “Bạc liêu là xứ quê mùa, Dưới sông cá chốt trên bờ Tiều châu”. Xứ quê mùa thì sanh ra giọng nói quê mùa: “Bắt con cá gô bỏ dô gổ, nó nhảy gồ gồ gột gột” Hoặc “Gầu ghĩ gâu ghia ga gậm gạp. Gờ gâu gâu gụng gờ gún gún gung ghinh”. Tình cờ tôi và NNT đã ràng buộc nhau bởi đất đai, bởi sông ngòi, bởi cá tôm và cách nói của miền nước nôi sông Hậu hiền hòa từ hồi nào không biết. Có lẽ nhờ vậy mà tôi cảm nhận được tận tường hơn những gì tuôn chảy ra dưới ngòi bút của Tư chăng? Mưa Tiền giang nắng Hậu giang, Phù sa lớp lớp bón đồng bằng. Thương hồ kết nghĩa cùng châu thổ, Hò ớ tan hòa theo nước trăng

Đọc hết CĐBT, tôi gặp lại cái tình bà con đậm đà của người Hậu giang, gặp lại cách cư xử ân cần tử tế, gặp lại lời nói cục mịch, gặp lại dòng sông con rạch ngầu đục, gặp lại tô mắm kho thơm phức, cọng bông súng dòn rụm, gặp lại cái không khí ôi sao mới là quen thuộc! Quen thuộc... nhưng mà buồn. Buồn vì những hoàn cảnh khắc nghiệt, éo le, ngang trái. Buồn vì những lỡ làng, cách biệt, hắt hủi. Buồn vì những đổi thay khiến cho con người nơi đây vơi bớt đi lòng tử tế, vơi bớt đi cái tính tình chơn chất và lòng tin cậy nguyên thủy. Cái buồn man mác dàn trải trên khắp các truyện kể. Buồn, nhưng vẫn tiếp tục đọc.

Tạp văn Nguyễn Ngọc Tư cũng là những câu truyện kể --tôi chỉ còn nhớ loáng thoáng. Càng đọc tôi càng thấm nặng cái buồn. Rất buồn! Buồn muốn lâm bịnh. Và lại thêm ngột ngạt, ngao ngán. Cho tới lúc tôi đành bỏ dở nửa chừng. Buồn quá, chịu hết nổi. Tôi buông sách bỏ đi theo bạn bè nhậu nhẹt giải khuây, đi bia ôm, karaôkê, trà đình tửu quán. Rồi dần dà nguôi ngoai. Tôi lãng quên dần dần... Vai mang bầu rượu chiếc nem, Mãng say quên hết lời em dặn dò... Và rồi tôi cũng bỏ quên luôn quyển Tạp văn của Tư lại quê hương. Tư mà biết được chắc buồn. Buồn năm phút!

Rồi một năm qua, hai năm qua... Cho tới một bữa nọ có cô cháu tình cờ chợt quăng câu hỏi lớn lên không trung (rớt xuống u đầu!): “Sao chú là cây bút miền Nam mà chú không viết về cô Nguyễn Ngọc Tư, cũng là người miền Nam như chú?” Tôi thêm: “Hơn nữa Tư lại là người miệt Hậu giang, cũng như chú!” Ờ hả, sao kỳ vậy? Tôi biểu cô cháu tìm cho tôi các tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư để tôi đọc lại. Biết đâu chừng sẽ có hứng viết một bài về NNT. Không phải một bài thuộc loại phê bình văn học (bỏ đi tám!) mà là một bài theo kiểu “điểm sách” nhằm giới thiệu ngòi bút và các truyện ngắn đặc sắc của NNT với bạn đọc. Người viết sẽ không lên tiếng thay cho tác giả mà sẽ để cho chính NNT trực tiếp nói lên cảm nghĩ của mình qua các trích đoạn rải rác trong các tác phẩm. Người viết tránh suy diễn ý nghĩ của tác giả, hầu bảo toàn sự trung thực của sáng tác, đọc và cảm nhận như thế nào thì cứ viết y chang như vậy, không thêm không bớt, cho nó giữ được cái “truyền thống” ăn ngay nói thiệt, cục mịch quê mùa “con cá gô nhảy gồ gồ gột gột” của miệt Hậu giang ta.

Lần này tôi có được trong tay 4 tác phẩm của NNT, tất cả đều do nhà xuât bản Trẻ Sài gòn ấn hành. Tôi sẽ tuần tự đọc theo thứ tự thời gian vào lúc tác phẩm xuất hiện lần đầu, hầu theo dõi diễn biến cách dựng truyện và bút pháp của NNT theo thời gian. Tuy nhiên, để quân bình việc trình bày, bài viết sẽ được chia làm hai phần:

Bài 1, Cái rầu bất tận của Nguyễn Ngọc Tư, sẽ đề cập tới hai tác phẩm sau:
. Ngọn đèn không tắt (2000, in lần 4/ 85 trang)
. Cánh đồng bất tận (2005, in lần 5/ 213 trang)
Bài 2, Sông nước Hậu giang và Nguyễn Ngọc Tư , sẽ điểm hai tác phẩm còn lại:
. Giao thừa (2003, in lần 1/ 161 trang)
. Tạp văn Nguyễn Ngọc Tư (2005, in lần 1/ 193 trang)


***

Nắng Tiền giang mưa Hậu giang
Sông Tiền Mỹ thuận đợi đò sang
Cần thơ sông Hậu sang đò nữa
Chở xuống Cà mau ngập chuyến hàng


Hãy lấy chuyến xe đò sớm nhứt về Cà mau thăm NNT khi trời còn mát mẻ. Về thăm Tư để coi Ngọn đèn không tắt của Tư nó có còn tiếp tục cháy nữa hay không, và nếu còn cháy thì coi coi nó sáng tới mức nào.

Trước khi giở tập truyện mỏng 85 trang này, tưởng cũng cần nhắc lại bối cảnh lịch sử cận đại của đất nước ta để đặt dấu mốc cho những cái nhìn cá biệt đến từ nhiều phía. Tôi thuộc thế hệ sanh ra trong những năm 40 nên lãnh trọn 30 năm chiến tranh đằng đẵng trên cái đất nước yêu dấu tang thương ngậm ngùi này: chiến tranh Pháp Việt (1945-54), chiến tranh Mỹ - Quốc - Cộng (1954-75). Kết thúc bằng ngày 30 tháng tư 1975, Cộng sản Bắc Việt xô quân chiếm trọn miền Nam – mà phe thắng trận gọi là ngày “giải phóng” (!) – và áp đặt chế độ cộng sản trên toàn lãnh thổ. Để rồi hơn 10 năm sau, bắt buộc phải Đổi Mới, chạy theo kinh tế thị trường của khối tư bản hầu bảo vệ Đảng ta khỏi bị nhân dân nổi loạn vì thiếu thốn mọi bề, đứng lên lật đổ. Chào đời sau “giải phóng”, tuy không trực tiếp nếm mùi chiến tranh, nhưng thế hệ của Tư cũng bắt buộc phải gánh chịu hậu quả tang thương đổ nát nặng nề trên khắp cùng đất nước mà cuộc chiến tranh dài nhất thế kỷ 20 đã để lại.

Ngọn đèn không tắt, tiêu đề cho toàn tập, cũng là tựa của bài viết đầu tiên khi người đọc bắt đầu bước vào thế giới chơn chất thiệt thà của Tư. Tại sao ngọn đèn không chịu tắt? Tại vì người ta muốn duy trì cho nó cháy hoài. Ngọn đèn đó là cái tinh thần khởi nghĩa khi xửa khi xưa, đã lâu lắm rồi, có lẽ từ hồi thời thuộc địa Tây. Nhưng muốn duy trì cho nó cứ tiếp tục cháy hoài thì hằng năm, tại cái Xóm Rạch nhỏ xíu này, xã tưng bừng dựng cờ đỏ chói và gởi thơ mời các cựu lão ông tới ủy ban để “nói chuyện khởi nghĩa

Ông Hai Tương trong xóm được mời tới đều đều để nói chuyện hằng năm vì ông đã tham gia khởi nghĩa và có thành tích lớn từ hồi nẵm. Vì nay ông đã già yếu nên Tươi, cô cháu nội nhỏ tuổi (học lớp chín) được đặc phái đi theo để chăm sóc ông nội mình.

Con Tươi ngồi chắt nước cơm ngoài sau bếp, than trong bụng: “Mấy chuyện đó kể muốn thuộc lòng rồi, bắt kể hoài, bộ mấy ổng hổng chán sao?” (trang 9). Nhưng có sao đâu! Cô gái nhỏ dù sanh sau đẻ muộn, nhưng vì đại cuộc, cũng đã cất tiếng trả bài sang sảng trước bà con ta để khơi lại ngọn lửa khởi nghĩa đang có mòi tàn lụn của ông cha mình – dù sao cũng là anh hùng cứu nước hay là bà già giết giặc hết trọi đó chớ giỡn chơi sao! “Cô gái nói lời của ba cô năm trước, nói lời của ông nội cô năm trước, năm trước nữa. Cô nói lời của lịch sử. Mà lịch sử là thứ không thay đổi” (trang 17) Quá đúng! Đúng hết sẩy. Cô gái đã chinh phục được cảm tình và sự chăm chú của ủy ban và bà con trong xóm có mặt tại bữa họp do xã tổ chức. “Nhưng trong lời cô có cái nhiệt tình tuổi trẻ, trong mắt cô có màu đen sẫm của vốc đất bãi bùn, và cô dựng xương thịt cho cuộc khởi nghĩa bằng nét mềm mại của người con gái nên câu chuyện của cô rất sâu sắc và thu hút người khác” (trang 17). Hoan hô! Hoan hô em nhỏ! Rồi đang “khởi nghĩa” nửa chừng, câu chuyện bỗng đâm hơi bắt sang chuyện thêu thùa áo gối của Thầy (cầm đầu khởi nghĩa) chung với bà nội mình hồi trưóc – chi tiết lạ lùng mà không một ai biết được. Nhưng may thay, cô gái nhỏ đã kịp thời lèo lái mọi người quay trở lại cái “tuồng ruột” của mình để giữ cho ngọn đèn khởi nghĩa đừng có đứt bóng bất tử. Cô kéo mọi người hướng trọn hết tâm can tới lời trăn trối của Thầy: “Thầy biểu mấy chú, à không mấy chú giữ đèn hải đăng cho nó đừng tắt. Và khi chiếc tàu chạy vào Xóm Rạch rồi, ngọn hải đăng vẫn cứ nhìn theo cháy hoài, cháy hoài, cháy hoài...” (trang 19). Dĩ nhiên cây hải đăng phải cháy hoài cháy hoài mới nuôi được ngọn lửa hy vọng trong lòng bà con Xóm Rạch. Vì hy vọng, từ xưa tới nay, vẫn nuôi cho người ta sống. Sống để mà tiếp tục... hy vọng. Và rồi đây sẽ có ngày hy vọng cũng mệt mỏi buông tay cho bà con trong xóm chết đuối trong chờ đợi mỏi mòn. Hay là khi ngọn hải đăng “khởi nghĩa” tắt rồi, bà con ở cái Xóm Rạch nhỏ nhít này sẽ lặng lẽ chết âm thầm trong bóng tối lịch sử.

Nhưng bánh xe lịch sử vẫn cứ ngon trớn lăn tới trên con đường một chiều, không một ai cản nổi. Một khi kinh tế khá lên rồi thì Cách mạng bắt đầu phân phát ân sủng cho những người “khởi nghĩa” có công lớn: cất nhắc cho làm chức lớn tương xứng với công lao của mình. Đúng theo cái đường lối mà một đàn anh lãnh đạo đã đề ra: “Mấy em theo mình cực khổ từ trước tới nay cũng đã mệt lắm rồi. Phải cho mấy em nó hưởng một chút!” Cũng bình thường thôi. Mà một khi có quyền rồi thì người ta muốn có tiền, thiệt nhiều tiền – cũng rất bình thường. Muốn có thiệt nhiều tiền thì người ta bèn tham những hoặc thâm lạm công quỹ – cũng rất bình thường. Đó là bối cảnh cho truyện Nỗi buồn rất lạ (tr 31): Ngày xưa Tư Đờ vốn là một tay du kích nổi tiếng lì. “Tụi Ngụy ngoài chợ Rạch Ráng nghe nói tên Tư Đờ là thiếu điều té đái” (tr 35). Nay thắng trận rồi, Tư Đờ được Cách mạng ghi ơn cử làm giám đốc công ty xuất nhập khẩu. “Không biết thế nào, công ty ông ta thâm hụt mấy tỉ mà ông thì ngày một giàu” (tr 36). Mấy tỉ đây là tỉ đồng Việt Nam chớ không phải là tỉ đô la Mẽo đâu nghen - đừng có nghèo mà ham! Đổ bể, Tư Đờ bị bắt và đi tù – rất bình thường? Nhân vật nhà báo xưng “tôi” về nói lại với ba mình vốn là đồng chí du kích đã từng sống chết với Tư Đờ cả chục năm hồi thời kháng chiến. “Biết bao nhiêu lần tụi giặc càn vô vùng căn cứ Xóm Xẻo, tụi tao đánh giạt hết. Tao nè, Tư Đấu (Đờ?) nè, bác Mười Mực của mầy nè... bây giờ đứa còn đứa chết” (tr 36). Bởi lẽ đó, khi nghe con mình nói là Tư Đờ đã xộ khám, ba nhứt định không tin, mặc dù thằng con cứ nhắc khéo: “Làm kinh tế mà ba, đâu liên quan gì tới chuyện đánh giặc. Sẩy chân là chuyện thường” (tr 36). “Cái thằng này! Mầy nói cái gì mà kỳ cục vậy mậy? Tao nghe không có lọt lỗ tai!”

Bởi lẽ đó, mặc cho ai có nói gì thì nói, ông già vẫn cứ một mực không chịu tin. “Bây nói vậy, chớ làm lớn ai cũng hư hết sao? Tao coi ti vi, coi tụi bây viết, hễ làm giám đốc là phải có bồ, phải tham lam tiền bạc, phải ăn chơi. Tao hổng chịu” (tr 37). Thằng con cắt nghĩa nữa, ông già vẫn cứ gạt ngang: “Nhưng tao muốn nghe thằng Tư Đờ nó nói, nói thẳng thắn, thật thà, nó phải nói với tao sao mà tới nông nỗi như vậy, nó phải trả lời bà con Xóm Xẻo, chỗ bà con cưu mang nó mười mấy năm trời” (tr 42). Ông già không hiểu nổi cái sự thể đồng chí anh hùng cứu nuớc Tư Đờ oanh liệt của ông ngày xưa mà giờ đây xộ khám à? Không hiểu cũng phải, vì bây giờ ông vẫn còn tiếp tục cày ruộng, gặt lúa, tiếp tục “đầu tắt mặt tối, mưa nắng dầu dãi, nghèo vẫn hoàn nghèo” (tr 40). Có lẽ vì không hiểu nổi nên ông già đành phải níu vào một cái lý do, một cái cớ nào đó để mà tự an ủi, cho dù là một cái cớ hết sức mơ hồ, một cái lý do hết sức vu vơ. “Làm lớn, cũng khổ tâm lắm... Câu cuối cùng ông buông xuống, nhẹ như một tiếng thở dài” (tr 42). Và khi câu này đã buông xuống rồi thì giữa ông già và thằng nhỏ, ai buồn hơn ai? “Khi chuyến tàu chạy tuyến Cái Nước xa rồi, sao tự nhiên tôi buồn, buồn quá! Nỗi buồn này nặng hơn, trong suốt và nhiều gai nhọn hơn nỗi buồn của ba tôi” (tr 42). Giữa ông già và thằng con, ai mới thiệt sự là người thất vọng, và thất vọng ê chề? Dù không chi li, nhưng bằng một cách khéo léo qua lối kể truyện, Tư vạch cho thấy tâm lý các nhân vật của mình một cách tài tình. Nỗi buồn của thằng con, một nỗi buồn nặng nề, trong suốt và nhiều gai nhọn.

Tuy nhiên, trong cái không khí thất vọng não nề và buồn hiu đó, Tư cũng cố gắng đẩy ngòi bút mình vào một niềm vui lớn: đợt xóm kéo điện về. Trang 39 nhắc lại cái ngày lịch sử đó: “Cái xóm nhỏ oai hùng, cái xóm nhỏ nghèo quê tôi hai mươi sáu năm sau giải phóng người ta thấy được ánh điện đầu tiên trong đời. Người già Xóm Xẻo uống trà quạu thức sáng đêm nhìn bóng đèn điện cho đã con mắt” (tr 39). “Đã” như vậy mà đã “đã” chưa? Chưa! “Cái ánh sáng làm cho người ta tự tin lên. Còn tụi con nít bị đánh quắn đít mà dỗ hoài vẫn không ngủ được, tụi nó tưởng còn ban ngày” (tr 39). Tuy khóc mà là khóc trong niềm vui, khóc trong niềm hoan lạc của cái Xóm Xẻo nhỏ nhít mà thân thiết cật ruột. Và nhứt là oai hùng! Cái chi tiết nhỏ nhoi ngộ nghĩnh mà hết sức tuyệt vời!

Tập truyện đầu tay NĐKT của NNT được viết bằng loại mực tím than còn thơm mùi học trò. Bút pháp có những cái vụng về dễ thương mà lúc càng viết nhiều về sau này, đôi khi người ta thầm tiếc hùi hụi cái chất “học trò” bây giờ đã mất đó. Như một trinh nữ ngồi buồn nhớ lại, và chắt lưỡi... “Hỏi anh anh nói học trò, Sao em lại thấy anh cỡi bò hôm qua?” Truyện kể còn lan man, lộn xộn, thiếu mạch lạc và chưa thành hình rõ rệt. Đại khái, vẫn còn “Ngổn ngang” như một cái tựa truyện của Tư (tr. 60) trong NĐKT.

Tuy nhiên, ở thời buổi đó, ở cái tuổi đó, Tư viết như vậy kể như cũng đã là “được” lắm rồi.

***

Nắng Hậu giang mưa Tiền giang
Bạc Liêu ghiền cốm dẹp Sóc Trăng
Chắc Băng cọp rống Đầm Dơi hú
Ai đâm Hà bá miệt Năm Căn ?

Đi vào thế giới của NNT, thỉnh thoảng chợt bắt gặp lại những địa danh tưởng chừng như đã mất tiêu trong cơn lốc lịch sử phừng phừng lửa sắt vừa qua : Đầm Chim, Đầm Dơi, Chắc Băng, Cạnh Đền, Gành Hào, Năm Căn, U Minh, Trèm Trẹm, Mút Cà Tha… Rồi những tên đất, những tên rạch, những vàm, những xẻo, những làng, những xóm… ôi thôi kể sao cho hết ! Đối với những người thuộc địa phương khác thì những cái tên đó vô cùng xa lạ, hờ hững. Nhưng đối với những người đã từng lội bùn và tắm nước đục Hậu giang thì nó thân thiết vô cùng. Tên sông tên đất vang dội trong lòng như tiếng vượn hú không nguôi trong cánh rừng già. Hay tiếng mái dầm chợt đập chát trên mặt nước sông trong buổi chiều sẩm tối. Như một tiếng nhắn nhủ, như một lời mời gọi: “Về thăm! Về thăm em đi anh!”

Hãy thả chiếc xuồng nhỏ ba lá bơi vào Cánh đồng bất tận của NNT. Sẽ bắt gặp những doi đất nhô xa, những rừng mắm um tùm, những rừng tràm đặc khít, đám mái dầm vươn cao, lùm ô rô gai góc, những đàn cá lội nhởn nhơ, những bầy vịt chạy ùn ùn trên ruộng đồng xa tắp. Những cánh đồng... những cánh đồng... và những cánh đồng... Những cánh đồng không tên, chỉ được ghi nhớ bằng một chi tiết nho nhỏ, một kỷ niệm lạ lùng còn giữ được từ nơi đó. Bằng không sẽ không có cách gì nhớ nổi. “Bây giờ, gió chướng non xập xòe trên khắp cánh đồng Bất Tận (tên này tôi tự dưng nghĩ ra)” (tr. 208). Bằng linh tính bén nhạy, bất thần Tư tìm ra được tên gọi cho cánh đồng minh mông mình đang đi qua: Cánh đồng bất tận. Bất tận như một nỗi buồn. Như một buổi chiều chạng vạng trời mưa lâm râm, ngồi ngó trời đất minh mông mà rầu rĩ một mình. Cánh đồng bất tận. Hay là “Cái rầu bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư ?

Mưa Hậu giang nắng Tiền giang
Nhiều đêm không ngủ dạ mơ màng
Nhớ người nhớ đất mùi quê cũ
Ôi nắng Tiền giang mưa Hậu giang!

Tập truyện Cánh đồng bất tận, 213 trang, chia làm 14 bài viết. Có 5 bài đã xuất hiện trong tập Giao thừa: Cái nhìn khắc khoải, Hiu hiu gió bấc, Cuối mùa nhan sắc, Nhớ sông, Dòng nhớ.

Bắt đầu CĐBT là một cuộc tìm kiếm trên khắp hang cùng ngõ hẹp của ông già Năm Nhỏ. Cất tiếng gọi lớn: “Cải ơi!” (tr.7). Ông Năm tìm kiếm lăng xăng đứa con gái của mình. “Lúc nhỏ Cải mười ba tuổi, một bữa mê chơi làm mất đôi trâu, sợ đòn, nó trốn nhà” (tr. 8). Rồi trong cuộc tìm kiếm vô vọng, một đêm nọ ông Năm chợt biến thành “Tên trộm đãng trí”: ông đi ăn trộm trâu của người khác. Bị bắt, nhân lúc được phỏng vấn trên đài, ông nhắn nhe cầu may với con gái mình: “Cải ơi, ba là Năm Nhỏ nè, nhà mình ở Cỏ Cháy đó, nhớ không? Về nhà đi con, tội má con vò võ có một mình. Con là trọng chớ đôi trâu có nhằm nhò gì... Về nghe con, ơi Cải...” Nhưng Cải có nghe được tiếng gọi tuyệt vọng của ba mình không? Cải có hồi tâm mà trở về với má mình không? “Về đi về đi, Cải ơi Cải!”

Gió đưa cây cải về trời, Rau răm ở lại chịu lời đắng cay. Sau khi “Cải ơi!” đã về trời rồi thì tiếp theo là truyện Thương quá rau răm (dĩ nhiên), với cái cù lao Mút Cà Tha xa lắc - người miền Nam có thói quen nói “mút chỉ cà tha” để diễn tả cái gì kéo dài quá mức hoặc xa mút tí tè. Trên cù lao có ông Tư Mốt rất là chí tình với cuộc đất Cà Tha. Nhưng vì đời sống quá khó khăn và nguy hiểm, mọi người dần dần bỏ cù lao mà ra đi hết. “Và họ từ giã cù lao. Ông Tư Mốt ờ ờ ra chiều thông cảm, vẻ mặt cố tỏ ra không buồn nhưng hàm râu xuôi xị. Họ ngoắc đò đi rồi chú còn đứng mãi trên bến, nghĩ giận đám trẻ cù lao đã được học hành nhưng chẳng đứa nào chịu quay về” (tr. 19) Cũng thường thôi. Một hiện tượng “bỏ cuộc đất” quê mùa mà ra đi đã xảy ra đều đều khắp mọi nơi, ra đi khi ánh sáng “văn minh” lấn tới.

Kịp thời Văn từ đâu trôi giạt về. Chàng thanh niên được đặc phái tới làm việc tại trạm xá cù lao. Ông Tư Mốt và cô nhỏ Nga tìm đủ hết mọi cách chìu chuộng người từ xứ lạ tới để cầm chưn. Nước ròng trong rạch chảy ra. Em chào anh đi học ở xa mới dìa. Nhưng rồi rốt cuộc Văn cũng im ẩn bỏ cú lao mà lẵng lặng ra đi, không một lời từ giã. Trong một thoáng chùng chình, ông Tư Mốt tự hỏi: “Bên ngoài cái đất Mút cà tha dường như đã có sự thay đổi lớn. Thí dụ như con cá, lá rau, hạt gao mến thương của người cù lao không ràng buộc được một con người (như đã từng rịt chân ông lại), thì cái bóng nhỏ nhoi của đứa con gái đang tuyệt vọng đứng ngóng chờ dưới bến không có ý nghĩa gì sao? Tuyệt không đáng gì à?” (tr. 25). Câu hỏi quăng xuống bến nước Mút cà tha chìm lĩm biệt tăm, không thấy ai lên tiếng trả lời. Như vậy thì chắc là tiêu tùng rồi nhỏ Nga ơi! “Anh đi em một ngó chừng, Ngó sông sông rộng ngó rừng rừng sâu”. Sao nỡ để rau răm ở lại cù lao một mình chịu lời cay đắng?

Sang truyện khác: Không ai biết ông tên gì. Ông làm nghề nuôi vịt chạy đồng. Ông lùa bầy vịt lên một cánh đồng vừa mới gặt xong. Khi bầy vịt đã ăn mót hết lúa gặt rơi rớt trên ruộng rồi thì ông lùa vịt tới một cánh đồng khác. Rồi cứ vậy... cứ vậy... Trong bầy vịt của ông có con vịt xiêm tên Cộc rất khôn và hiểu được ông nói gì. “Ông kêu: “Cộc, biểu!” Con Cộc chạy lại, vẫy nước và cọ đầu vào bắp đùi đen bóng của ông” (tr. 50).

Một buổi chiều muộn, chợt ngó thấy một người đàn bà mặt mày buồn so ngồi dưới bực cỏ đợi tàu, ông quạt chèo cho ghe ghé lại. “Ông biểu chị xuống ghe cho quá giang. Chị vẫn khóc: “Tui biết đi đâu mà quá giang bây giờ. Hay... làm ơn cho tui theo anh đêm nay nghen”. Ông suy nghĩ rất lâu và trả lời một câu nhỏ xíu...” (tr. 52). Tuy nhỏ xíu mà lại đổ nợ lớn. “Thùng thùng trống đánh ngũ liên, Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa”. “Đôi chân đàn bà dè dặt bỏ xuống đầu ghe, con Cộc cúi đầu không nói không rằng lùi lũi lại tính mổ một cái vô chân chị mừng chơi nhưng ông la: “Cộc! bị đòn nghe mậy!” (tr. 52).

Người đàn bà (cô Út) về tá túc, và phụ tiếp bếp núc trong căn nhà lá cũ mèm của ông – căn nhà mà năm ba tháng ông mới về một lần. Mái lá có bốc lên chút khói xanh um uốn éo cũng bớt lạnh lẽo và đỡ buồn. Rồi cảm tình qua lại giữa hai người có con Cộc làm chứng. Rồi thời gian qua... Rồi mùa lúa chín tới. Rồi bọn thợ gặt kéo về. Trong đám thợ gặt có tình nhơn cũ của cô Út. Và cô Út đành đoạn lìa bỏ căn nhà lá ơn nghĩa cũ mèm để đi theo tiếng gọi của lòng. Bỏ người đàn ông ở lại một mình buồn hiu như cũ. Với con Cộc khôn dàn trời, dĩ nhiên. Nhái kêu chiều xế dưới mương, Thiếp đà an phận còn thương nỗi chàng.

Ông ngồi lại, bồn chồn. Hồi lâu, ông nói như chỉ nói với mình: “Mai mốt mình đi nữa hen Cộc?” Con vịt cạp mắt cá ông, đi thì đi, tui đâu ngán!” (tr. 61). Rồi ông già ngó con Cộc, con Cộc ngó ông già, bốn mắt nhìn nhau chẳng nói một câu. Chợt có ngọn “gió lùa lao xao trên những tàu lá chuối. Tiếng lá khô vỡ giòn giống hệt bước chân ai vậy. Ông không nén được, mắc ngoái nhìn” (tr. 61). Rồi ánh flash lóe lên và đồng thời “rắc” một tiếng! Gã thợ chụp hình giải thích: “Và tôi đã chụp chân dung ông trong cái ngoái nhìn khắc khoải đó” (tr. 61).

Chỉ với một chi tiết nhỏ của cái nhìn có ngấn nước ở khóe mắt trên tấm ảnh mà Tư đã viết được một truyện ngắn độc đáo, Cái nhìn khắc khoải (tr. 49). Tuy khắc khoải nhưng có xen lẫn một chút diễu cợt nhẹ nhàng, một chút chọc phá duyên dáng. Cười, mà bùi ngùi. Tư làm nhớ tới cái sắc sảo và tinh tế của Võ Phiến. Nói thế, nhưng chưa ngòi bút nào đi xa hơn Võ Phiến trong công việc quan sát, mô tả và thưởng thức những tình tiết chi li trong đời sống thường nhật. Ngoài ra, giọng văn của VP và NNT thuộc hai miền khác nhau: một Bình Định, một Cà Mau. Tuy nhiên, cho dù đang còn ở trong cuộc đất Cà mau, giọng văn của Tư trong CĐBT đã pha lẫn những tiếng không thuộc miền đất Hậu giang. Một sự chuyển hướng? Cũng giống như mọi người đã lần lần bỏ cù lao Mút Cà Tha mà ra đi trong niềm tiếc nuối của ông Tư Mốt và nhỏ Nga?

Bỏ đi. Như một định mạng khắc nghiệt, bỏ đi là một hành động nòng cốt xảy ra đều đều trong truyện của Tư. Bỏ nhà: Cải ơi! Bỏ cù lao: Thương quá rau răm. Bỏ người, bỏ vịt: Cái nhìn khắc khoải. Bỏ chồng: Một mối tình. Lại bỏ chồng và bỏ đi: Biển người mênh mông. Bỏ trốn: Một dòng xuôi mải miết. Bỏ ghe: Nhớ sông. Bỏ tùm lum, bỏ dài dài: Cánh đồng bất tận. Bỏ người yêu, bỏ bến: Duyên phận so le, Dòng nhớ. Chợt nhớ thơ Nguyễn Bính: “Bỏ thuyền bỏ bến bỏ dòng trong, Cô lái đò kia đi lấy chồng. Vắng bóng cô em từ dạo ấy, Để buồn cho những khách sang sông...” Dặn hờ: “Tư ơi Tư! Đừng có bỏ đi bất tử nghe Tư! Buồn lắm đó nghe! Buồn nát cả tâm can. Buồn như “rót lệ vào tim” (điệu này chắc tui chết!). Đừng có bỏ đi bất tử nghe Tư!”

Mưa Tiền giang nắng Hậu giang
Ngày đi binh lửa rưới điêu tàn
Ngày về Bình Thủy miền quê ngoại
Biết có hiền hòa như xưa chăng?


Bỏ đi. (Bỏ đi Tám?) Như đã nói, bỏ đi gần như là một ám ảnh ray rứt không thể nào thiếu vắng được trong truyện của NNT. Biển người mênh mông (tr. 99) cũng theo thông lệ đó mà thôi. Má bỏ đứa con rơi của mình (Phi) để theo ba. Phi sống với bà ngoại. Đang học nửa chừng, Phi thôi học, bỏ đi (lại bỏ đi!) theo đoàn hát. Khít vách Phi có ông già Sáu Đèo làm nghề bán vé số mới dọn về mướn một căn để ở. Lúc dọn làm mất hết mất thùng cạc tông đựng mùng mền quần áo nên ông Sáu chỉ còn vỏn vẹn có một bộ đồ duy nhứt dính da.

Một bữa trời trở chướng, ông Sáu nhức mình nhức mẫy nên nhờ Phi qua nhà cạo gió cho ông. Nhắc chuyện xưa, ông Sáu kể “hồi trẻ, ông sống toàn trên sông, ông có chiếc ghe, hai vợ chồng ông lang thang xứ này xứ nọ (...) nước ngược cắm sào đậu lại thổi cơm, bìm bịp kêu, nước bò lên bãi ông cho ghe ra bến. Cuộc sống nghèo vậy mà vui lắm” (tr. 108). Ông Sáu kêu vợ mình bằng “cổ”. Phi cạo mạnh, ông Sáu rên đau, Phi hỏi đau chỗ nào, ông trả lời: “Ừ, cái chỗ này, chú mày không làm qua hết đau được đâu. Ông già Sáu mếu máo chỉ về phía tim. “Cổ đi rồi. Sống khổ quá nên cổ bỏ qua. Cổ lên bờ, không từ giã gì hết, bữa đó đúng là qua bậy, qua nhậu xỉn quá trời, rồi cũng có cự cãi mấy câu, cảnh nhà không con nên sanh buồn bực trong lòng, qua có hơi nặng lời, cổ khóc. Lúc thức dậy thì cổ đã đi rồi” (tr. 109).

Kể từ lúc vợ lìa ghe lên bờ và bỏ đi (lại bỏ đi!) mất biệt, ông Sáu cũng bỏ ghe. Không phải để lấy vợ khác làm ăn mà là lên bờ đổi nghề bán vé số và lặn lội khắp bốn phương trời để tìm kiếm vợ mình. “Tìm em như thể tìm chim, Chim ăn biển bắc đi tìm biển đông”. “Qua đã tìm gần bốn mươi năm, dời nhà cả thảy ba mươi ba bận, lội gần rã cặp giò rồi mà chưa thấy” (tr. 109). Rồi sau một đêm rượu đưa tiễn dưới trăng (như đưa tiễn tráng sĩ Kinh Kha sang sông Dịch hành thích bạo chúa) ông Sáu lại lên đường gian nan đi tìm “cổ”. Ông giao con bìm bịp lại cho Phi nhờ nuôi giùm. Nhiều bữa, bìm bịp kêu thê thiết cả đêm làm Phi không ngủ được. “Phi giở cửa lồng, con bìm bịp đập cánh xao xác, đứng niểng đầu nhìn anh buồn lắm, sao anh ngồi đây mà tía tôi đâu? (...) Tía thấy tao buồn nên để mầy ở lại, nhưng rồi lúc ông già bé nhỏ ấy buồn, ai kêu nước lớn cho ổng nghe?” (tr. 110). “Bìm bịp kêu nước lớn anh ơi, Buôn bán không lời chèo chống mỏi mê”

Rồi ông Sáu có tìm gặp lại vợ mình sau bốn mươi năm lặn lội? Hai người sẽ chung sống bên nhau hạnh phúc như xưa, trên một chiếc ghe thương hồ khác, với một con bìm bịp khác để nó kêu báo hiệu nước lớn cho ông Sáu xô ghe lên đường? Không rõ. Chỉ biết kể “từ đấy, ông Sáu Đèo chưa một lần trở lại. Từ đấy, giữa biển người mênh mông, Phi gặp biết bao nhiêu gương mặt, cùng cười đùa với họ, hát cho họ nghe, cùng chạm ly uống đến say...” (tr. 111). Và Tư đã thòng một câu kết: “Biển người thì mênh mông vậy...” (tr. 111).

Trong tập Giao thừa, Tư cũng đã thòng một câu kết tương tự trong truyện Đời như ý: “Làm gì có chuyện đời như ý?” (GT, tr. 66). Những câu kết đại loại như một “phán xét cuối cùng” này, thiết tưởng nên để cho độc giả tự suy gẫm lấy thì tốt hơn. Nếu thực sự tha thiết với ý đó, Tư có thể viết một cách khác để kết việc.

Ngoài cái “tuồng ruột” một người bỏ đi, một người tìm kiếm, qua truyện BNMM Tư cho thấy lòng tin cẩn của mình đặt vào cái bản năng chân thật hồn nhiên của muông thú, như bìm bịp chẳng hạn – còn con người thì nói chi! Cái lòng tin này của Tư cũng được thể hiện qua vịt xiêm Cộc trong Cái nhìn khắc khoải và con vịt đui trong Cánh đồng bất tận. Có cảm tưởng Tư thích sống chung đụng với thú vật, thích sống trà trộn với thiên nhiên, với đất đai, với sông nước. Tự muôn đời, đó vẫn luôn luôn là những nguồn an ủi lớn lao sau những lần va chạm não nề với loài có lý trí (hiu hiu) và với cái gọi là (le lói) văn minh.

Sau khi vượt qua Biển người mênh mông, người đọc lọt vào Cánh đồng bất tận, tựa cuối của tập truyện mang cùng tên của NNT. Cánh đồng này dàn trải từ tr. 155 đến tr. 213, cộng 59 trang, có thể coi như truyện vừa – không dài, không ngắn. Chỉ nghe cái tên truyện thôi cũng đã thấy mỏi chưn. Oải! Mệt thấy rõ! Tuy nhiên cũng cứ đi thử coi nó ra làm sao. Để coi cánh đồng nó “bất tận” tới mức nào ở cái vùng đất Cà mau bùn phèn bát ngát này.

Nắng Hậu giang mưa Tiền giang
Đầm Dơi tay ngoắc cánh chim ngàn
Mơi mốt về Cà mau ăn Tết
Hưng Mỹ hăng mùi pháo nổ ran


Bắt đầu là một cánh đồng. Tiếp theo là một cánh đồng thứ hai. Rồi lại một cánh đồng nữa… tiếp giáp một cánh đồng khác nữa… khác nữa… « Cánh đồng không có tên. Nhưng với tôi và Điền, chẳng có nơi nào là vô danh, chúng tôi nhắc, chúng tôi gọi tên bằng những kỷ niệm mà chúng tôi có trên mỗi cánh đồng. Chỗ chị em tôi trồng cây, chỗ Điền bị rắn cắn, chỗ tôi có kỳ kinh nguyệt đầu tiên… » (tr. 159). Cho tới một bữa nọ nhân vật nữ, Nương (hay là Tư ?) tự dưng nhận thức ra… « bây giờ gió chướng non xập xòe trên khắp cánh đồng Bất Tận… » (tr. 208). Phải rồi ! Cái tên sao mà đúng quá đúng : Cánh đồng bất tận! Vì cánh đồng này có bao giờ chấm dứt ở một chỗ nào đâu. Đi hoài, đi hoài. Vẫn còn cánh đồng.

Bây giờ đi vào CĐBT, Tư đã có một số kinh nghiệm trong công việc đưa đẩy ngòi bút của mình. Tư không viết như hồi cái thuở ban đầu (lưu luyến ấy) của Ngọn đèn không tắt, nghĩ gì viết nấy, không cần sắp xếp, lộn xộn. Hoặc như trong Giao thừa, truyện kể đơn độc, một dòng. Tư đã biết đưa đẩy ngòi bút của mình trở ngược trở xuôi trong thời gian, trong ký ức. Đã biết lúc nào thì cho nhân vật nào xuất hiện, cho chuyện gì xảy ra. Đi sâu hơn nữa vào tâm lý nhân vật. Biết dàn dựng cốt truyện, chọn lựa bút pháp. Đọc lôi cuốn. Và kết thúc gọn nhẹ. Đẹp. Có tiến bộ tốt rõ rệt. Một điểm son.

Trên CĐBT xuất hiện nhân vật đầu tiên: cha (Ủa! bộ ở cái mũi Cà mau tận cùng miền Nam này, bà con ta đã bắt đầu gọi ba bằng cha hết rồi sao?) Cha và hai con mình, một gái (Nương), một trai (Điền) sống trên ghe làm nghề du mục, nuôi vịt chạy đồng. Khởi thủy, cha làm nghề mộc, thường xa nhà. Má, người đàn bà đẹp nhứt xóm, trắng tươi như bông bưởi, ham mê vải vóc. Để đổi lấy xấp vải đỏ, má khứng chịu cho tên buôn vải dày vò thể xác mình. Rất tình cờ, từ kẹt bồ lúa hai con chứng kiến. Lở dở, má bỏ hết đồ đạc lại nhà và trốn sang xứ khác để khỏi phải chịu đựng nhục nhã với chồng con. Nhưng rốt cuộc người chồng cũng biết. Ông đốt nhà, đốt hết đồ đạc vợ để lại rồi dắt hai con xuống ghe sống đời du mục, nuôi vịt lùa. Mối hận đầy ứ trong tim. Hận vợ. Hận hết thảy đàn bà trên đời.

Để băng bó và rịt thuốc cho vết thương mình, người đàn ông trả thù. Trả thù không phân biệt, trả thù trên bât cứ người đàn bà nhẹ dạ nào đã trót nghe theo lời ông dụ dỗ mà trao thân. Ông dày vò, cắn xé họ hả hê, khinh bỉ, kiêu ngạo. Một người, hai người... Rồi năm người, mười người... Xong, ông vứt họ lên bờ như một băng vải nhớp nhúa đã giúp ông tạm rịt vết thương mưng mủ của mình. Càng kinh nghiệm về đàn bà, ông càng sắp đặt kỹ, càng thâm hiểm hơn. “Với những người đàn bà sau này, cha tôi tính toán rất vừa vặn, sao cho vừa đủ yêu, vừa đủ đau, vừa đủ bẽ bàng, và bỏ rơi họ đúng lúc” (tr.189).

Những cuộc trả thù của cha đã từ từ thấm độc vào cơ thể thằng con trai mình hồi nào không hay. Tới tuổi mười sáu dậy thì, Điền có những triệu chứng bất thường. Trong thế giới của Điền, giờ đây có thêm một người đàn bà từ bên ngoài lọt vào, đầy ứ sức sống, lồ lộ, ám ảnh: Sương, một cô gái đĩ “du mục” được cha con Điền tình cờ cứu thoát sau khi bị đánh ghen một trận nhừ tử. “Điền yêu chị, nhưng tình yêu đó khiếm khuyết mất rồi. Sau giấc ngủ dài, bản năng nó không trở dậy. Trái tim nó chỉ là một hòn than nhỏ, không thể hâm nóng lại cơ thể ngả màu tro” (tr. 200). Trong cơ thể đứa con trai, một ngọn đèn trời ban sẵn cho mỗi người đã tắt: bản năng tình dục. Cái bản năng đã thúc đẩy má nó ham làm đẹp, đã xúi giục tên buôn vải thèm muốn thân thể trắng muốt của má, cái bản năng đã thúc đẩy Sương bước vào nghề làm đĩ. Tuy nhiên, trong cơn bão trốt phăng cuốn hết mọi người quanh mình, cái linh tính tự nhiên vẫn khiến cho Nương thầm nghĩ : “Tôi không...
Kiệt Tấn
#35 Posted : Friday, July 31, 2009 7:10:53 PM(UTC)
Kiệt Tấn

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 36
Points: 0

quote:
Gởi bởi PC

Hay là bài đó đem tặng riêng cho PNV để in trong tuyển tập PNV?

Big Smile

Được thôi.
Nhưng bần tăng viết, rồi có phải đi Thái lan đổi hệ không? để in trong tuyển tập PNV
Question
PC
#36 Posted : Sunday, August 2, 2009 12:29:16 AM(UTC)
PC

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 5,668
Points: 25
Woman

Was thanked: 4 time(s) in 4 post(s)
Xin giới thiệu với anh Kiệt Tấn là chị Song Anh có dự tính dịch truyện của NNT sang tiếng Pháp đó. Và chị SA đã được NNT đồng ý rồi!
Kiệt Tấn
#37 Posted : Tuesday, August 4, 2009 8:05:28 AM(UTC)
Kiệt Tấn

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 36
Points: 0

quote:
Gởi bởi PC

Xin giới thiệu với anh Kiệt Tấn là chị Song Anh có dự tính dịch truyện của NNT sang tiếng Pháp đó. Và chị SA đã được NNT đồng ý rồi!

thiện tai! thiện tai!
Chúc Song Anh thành sự khỏi chờ... tại thiên Rose
PC
#38 Posted : Tuesday, August 4, 2009 6:11:36 PM(UTC)
PC

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 5,668
Points: 25
Woman

Was thanked: 4 time(s) in 4 post(s)
Hay là vầy đi, anh Kiệt Tấn viết chuyện về các bà chằn theo đơn đặt hàng của chị Song Anh. Bù lại chị Song Anh dịch truyện các bà chằn của anh Kiệt Tấn ra tiếng Pháp.
Song Anh
#39 Posted : Monday, September 7, 2009 9:24:45 PM(UTC)
Song Anh

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 1,004
Points: 18

quote:
Gởi bởi PC

Xin giới thiệu với anh Kiệt Tấn là chị Song Anh có dự tính dịch truyện của NNT sang tiếng Pháp đó. Và chị SA đã được NNT đồng ý rồi!
...
Hay là vầy đi, anh Kiệt Tấn viết chuyện về các bà chằn theo đơn đặt hàng của chị Song Anh. Bù lại chị Song Anh dịch truyện các bà chằn của anh Kiệt Tấn ra tiếng Pháp.



Ý trời...đọc xong mấy câu này...S.A muốn "rụng rời tá hỏa" luôn...ShockedShockedShocked

Chị PC làm S.A " xấu hổ " quá đi thôi ! ShyBig Smile
Dự tính này... cũng mấy năm rồi...mà chị còn nhớ ha ( nhớ dai dễ sợ...)

Truyện của NNT đối với S.A dễ đọc...nhưng khộng dễ dịch chút nào...có lần em đọc bản dịch nháp "Những cây sầu trên đỉnh Puvan" cho bạn bè bản xứ nghe... hiểu thì họ hiểu câu truyện đấy...nhưng thấy họ cứ "trơ" ra ... không chút "cảm xúc" nào hết...trong khi mình thì nghe thấm thía từng câu...của thằng bé Củi ...khi đọc bản gốc !!!...
Cho nên S.A tạm quên cái dự tính này của mình rồi chị ơi...

Một ngày vui nha.

Rose







PC
#40 Posted : Wednesday, September 9, 2009 1:52:08 AM(UTC)
PC

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 5,668
Points: 25
Woman

Was thanked: 4 time(s) in 4 post(s)
Thật ra thì văn của NNT đâu có dễ dịch đâu Song Anh!
Users browsing this topic
Guest (9)
3 Pages<123>
Forum Jump  
You cannot post new topics in this forum.
You cannot reply to topics in this forum.
You cannot delete your posts in this forum.
You cannot edit your posts in this forum.
You cannot create polls in this forum.
You cannot vote in polls in this forum.