Rank: Advanced Member
Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC) Posts: 9,291 Points: 11,028
Thanks: 758 times Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
|
Thơ Đường luật (Luật thi)
Tiền Mộc Yêm, tác giả sách Ðường Ẩm Thẩm Thể nói rằng: “Luật đây là sáu luật, là luật hòa hợp âm thanh. Luật thơ cũng giống như kỷ luật dụng binh, pháp luật hình án, nghiêm ngặt chặt chẽ, không được vi phạm”. Có thể giải thích thêm về thể cách của luật thi như sau:
a. Trong một câu, bằng trắc cần phải điều tiết. b. Trong khoảng hai câu liền nhau, sự đối ngẫu cần phải khéo. c. Trong một bài, âm thanh cần phải chọn sao cho có sự cao thấp, bổng trầm. Tóm lại, ba điều kiện cần thiết của luật thi là niêm, luật và đối.
Về đối ngẫu, Lưu Hiệp đời Lục Triều, tác giả sách Văn Tâm Ðiêu Long, đã phân biệt bốn cách là: Ngôn đối, Sự đối, Chính đối và Phản đối. Ngôn đối là đối bằng lời suông. Sự đối là đối bằng điển cố. Hai câu mỗi câu trình bày một sự việc nhưng nói lên cùng một ý, là chính đối. Nếu hai sự việc đó trái ngược nhau, thì gọi là phản đối. Sự đối và phản đối khó làm hơn và có giá trị hơn là ngôn đối và chính đối.
Ðến thời Sơ Ðường, Thượng Quan Nghi phân biệt sáu cách đối là:
1. Chính danh đối, như càn khôn đối với nhật nguyệt. 2. Ðồng loại đối, như hoa diệp đối với thảo mao. 3. Liên châu đối, như tiêu tiêu đối với hách hách. 4. Song thanh đối, như hoàng hòe đối với lục liễu. 5. Ðiệp vận đối, như bàng hoàng đối với phóng khoáng. 6. Song nghĩ đối, như xuân thụ đối với thu trì. (theo sách Thi uyển loại cách)
Một bài luật thi hoàn chỉnh dùng vào việc ứng chế, ứng thí, có thể định nghĩa là một bài thơ tám câu hoặc năm chữ ngũ ngôn luật thi hoặc bảy chữ thất ngôn luật thi, phải theo những qui tắc nhất định về niêm, luật; bốn câu 3,4 và 5,6 phải đối nhau từng đôi một.
Ngoài những bài có bốn câu giữa đối nhau, cũng có những bài hoặc sáu câu toàn đối, hoặc tám câu toàn đối.
Về vận, bài luật thi bắt buộc phải dùng vận chính (không được dùng vận thông, vận chuyển), căn cứ vào cuốn qui định vận bộ do triều đình ban hành. Ðời Ðường Huyền Tông có cuốn “Vận Anh”, cải biên theo cuốn “Thiết Vận” của Lục Pháp Ngôn đời Tùy, rồi cuốn “Ðường Vận” của Tôn Miễn, bổ khuyết sách trên.
Về việc dàn ý, bài luật thi vốn có bố cục như sau: các câu 1, 2 là khởi (khai), các câu 3, 4 là thừa, các câu 5, 6 là chuyển, các câu 7, 8 là hợp (hạp). Ngoài các câu đầu và kết ra, trong những câu giữa, muốn nói gì cũng được, không có lệ nhất định. Chỉ trong những khoa thi về sau, bài luật thi mới có bố cục chật hẹp (phá, thừa, thực, luận, kết).
"Thể thơ Đường luật, về hình thức, các nhà thi học đều công nhận là toàn hảo. Nhưng nó chỉ thích hợp với những tình cảm đã được tiết chế, với những tâm hồn trầm tĩnh, với những người nặng về đời sống nội tâm. Nó không còn thích hợp với người hiện đại, bởi lòng luôn bị ngoại cảnh chi phối, rất ít khi được yên tĩnh, ung dung, nhịp lòng và nhịp thơ không thể hài hòa với nhau được thỏa đáng".
Thơ có nhiều thể, thể nào cũng có ưu điểm, khuyết điểm hoặc nhược điểm. Chúng ta chọn thể thơ Đường luật là vì thể thơ này thích hợp với tâm hồn của chúng ta. Thể thơ này đã bị các nhà Thơ Mới đả kích dữ dội ngót mười năm từ 1932 đến 1941. Bị công kích, đả đảo ngay khi thể thơ mới ra đời, đã bị một số danh gia, như Lý Thái Bạch, Hàn Sơn ... chỉ trích nặng lời, chớ chẳng đợi đến các thi nhân sanh sau hàng ngàn năm. Bị đả kích mà vẫn tồn tại bởi có những ưu điểm. Trừ những kẻ thiên kiến, những người không độ lượng, không ai phủ nhận, không ai nỡ hủy diệt, trái lại còn rũ lòng ấp ủ nâng niu.
Để mở đầu phần Thi Pháp Thơ Đường Luật, hôm nay Hoàng Thứ Lang xin trích bàn về Phép dụng tự.
Thơ Đường thường dùng thực tự ít dùng hư tự. Các nhà thi học đời sau thường nhận xét rằng: "Thơ mà dùng hư tự không hay". Đó là lời của Triệu Mạnh Phủ đời Nguyên. Người đồng thời cùng họ Triệu là Phạm Phanh nói thêm: "Thơ dùng nhiều thực tự thì mạnh, dùng nhiều hư tự thì yếu". Tạ Trăn cũng nói: "Dùng nhiều thực tự thì ý giản mà câu mạnh, dùng nhiều hư tự thì ý phồn mà lời yếu". Xét kỹ thì Cổ Thi thường dùng hư tự, Luật Thi thường dùng thực tự. Đường nhân hay dùng thực tự, Tống nhân hay dùng hư tự.
Nói là chuyên dùng, ưa dùng ... là chuyên dùng nhiều, ưa dùng nhiều tự loại này hơn tự loại kia đó thôi. Hư tự dùng để đẩy đưa lời thơ, để gắn nối chữ này với chữ nọ. Dùng nhiều thực tự quá câu thơ thành nặng nề. Dùng nhiều hư tự quá câu thơ trở nên lỏng lẻo bên lời, cạn cợt bên ý. Phải sử dụng sao cho thích ứng, cho cân xứng. Như thế mới là diệu thủ.
Trong làng thơ Quốc âm, bà Huyện Thanh Quan hay dùng thực tự, bà Hồ Xuân Hương hay dùng hư tự. Tôn Thọ Tường thường dùng thực tự, Trần Tế Xương thường dùng hư tự.
Dùng nhiều thực tự thì thơ cô đọng chững chàng. Dùng hư tự vừa phải thì thơ nhẹ nhàng bay bướm. Xin dẫn chứng:
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo Nền cũ lâu đài bóng tịch dương (Bà Huyện Thanh Quan)
Bát canh Quảng Võ ơn còn nhớ Chén rượu Hồng Môn lệ khó ngăn (Tôn Thọ Tường)
Tóc vướng hơi hương vườn thúy liễu Lòng nương tiếng địch bến vi lô (Tú Xương)
Sóng lớp phế hưng coi đã rộn Chuông hồi kim cổ lắng càng mau (Bà Huyện Thanh Quan)
Nghi ngút tro tàn nền đạo nghĩa Lờ mờ bụi đóng cửa trâm anh (Tôn Thọ Tường)
Thà không trời đất không chi cả Còn có non sông có lẽ nào (Phan Sào Nam)
Chiếc bá buồn vì phận mỏng mênh Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh Lưng khoang tình nghĩa dường lai láng Nửa mạn phong ba luống bập bềnh Cầm lái mặc ai lăm đổ bến Giang chèo thây khách rắp xuôi ghềnh Ấy ai thăm ván căm lòng vậy Ngán nỗi ôm đàn những tấp tênh (Hồ Xuân Hương)
Đó là những câu dùng hư tự nhiều mà hay, nhất là câu thơ của Phan Sào Nam thật là hy hữu.
Dùng hư tự mà không khéo thì câu thơ thành non nớt, không truyền được cảm, mặc dù trong thơ có nhiều tình:
Trên đài hiu hắt ngọn đèn hoa Gang tấc xem bằng mấy dặm xa Một kiếp đã đành rằng để vậy Chín trùng có thấu đến chăng là Ỏi tai ngán nỗi đàn ve gảy Tan mặt buồn tênh cái nhện sa Ví biết thân này chi khó bấy Quyền môn chen chúc chẳng bằng thà
Đó là một bài thơ được truyền tụng nhan đề CUNG OÁN. Trong sách "Phép làm thơ" của Diên Hương chép là của Ôn Như Hầu. Theo Quách Tấn nhận xét thì không phải, vì bút pháp của Ôn Như Hầu rất già dặn, chải chuốt. Thơ trong Cung Oán Ngâm Khúc đã nổi danh là điêu luyện đến mức, và những câu sau đây, chỉ vài câu còn truyền tụng thôi, cũng đủ chứng minh rằng những câu thơ quá dễ dãi trên đây không phải là di sản của Ôn Như Hầu:
Cõi thế lênh đênh thuyền hạo kiếp Lẽ trời lồng lộng võng huyền cơ (Cảm tác - Ôn Như Hầu)
Man mác cảnh đâu ngoài vạn dặm Bâng khuâng chuyện những mấy trăm năm (Nghe ếch kêu - Ôn Như Hầu)
Lời thơ tự nhiên, lưu loát chớ không quê vụng như bài CUNG OÁN trên.
Bài CUNG OÁN có nhiều chữ dư, tức là những chữ không cần thiết, chỉ đem vào cho đủ vế mà thôi. Chúng ta nên tránh. Chẳng những tránh dùng chữ thừa, mà còn tránh dùng một chữ đến 2 hoặc 3 lần, trừ khi cố ý nhấn mạnh, cố ý làm nổi bật một tứ thơ.
Lỗi bị trùng chữ rất thường xảy ra. Đến các bậc lão luyện vẫn nhiều khi vấp phải. Như Tố Như trong bài Vọng Phu Thạch. Nhưng vì bài thơ có giá trị của viên ngọc liên thành, cho nên những vết nhỏ kia có thể bỏ qua. Tuy nhiên nếu viên ngọc toàn mỹ thì càng quý bội phần.
Tản Đà thỉnh thoảng cũng không tránh khỏi. Tiên sinh có bài THEO VOI ĂN BÃ MÍA cũng bị phạm lỗi này.
Chúng ta không phải như Tố Như, Tản Đà nên đừng bắt chước. Huống nữa đã là lỗi thì dù là của bậc đại gia văn chương đi nữa cũng không nên lấy đó làm gương.
Tránh những chữ vô dụng, tránh những chữ trùng điệp. Lại còn phải tránh: 1. Điệp thanh. 2. Điệp âm. 3. Điệp vận.
Trong bài Phép dụng tự có đề cập đến việc bài thơ phải tránh: 1. Điệp thanh 2. Điệp âm 3. Điệp vận
Hôm nay xin được tiếp tục bàn về ba điểm trên. Trong phạm vi bài này chỉ bàn về Thơ Thất Ngôn Luật Thi mà thôi (Thơ Ngũ Ngôn Luật Thi sẽ bàn vào một dịp khác).
1. Điệp thanh:
Chữ thứ 4 và chữ thứ 7 trong các câu luật trắc vần bằng. Hai chữ ấy đều bình thanh thì thượng đoản hạ trường, hoặc ngược lại (thượng trường hạ đoản), chớ đừng dùng cả hai hoặc đều đoản hay đều trường. Thí dụ 1 (cả hai đều cùng đoản bình thanh):
Thành Loa vừa thấy xây vua Thục Ải Lạng quanh coi đuổi giặc Ngô (Nguyễn Đỉnh Ngọc)
Câu thơ không có tiếng ngân, hơi thơ đọc xong là đứt không đủ sức đi vào lòng người đọc người nghe.
Tuy vậy vẫn còn đỡ hơn chữ thứ 4 và chữ thứ 7 đều cùng trường. Thí dụ 2 (cả hai đều cùng trường bình thanh):
Nõn nà sắc nước nhờ ơn nước Ngào ngạt hương trời ngát dặm trời (Lê Thánh Tôn)
Câu thơ quặp ở giữa lưng như bụi chuối bị gió thổi gãy, âm hưởng nghe chìm lỉm như tiếng trống bị đùn da. Lỗi này nên tránh.
Thượng đoản hạ trường hoặc thượng trường hạ đoản thay đổi nhau thì câu thơ mới hài hảo.
Tuy nhiên nếu chữ thứ 4 có một trường bình thanh đứng kề thì câu thơ lại đọc nghe êm tai. Thí dụ:
Thay mười tám triệu người ăn nói Mở bốn ngàn năm mặt nước non (Trần Tế Xương)
Mấy hàng tóc bạc từng dâu bể Một tấm lòng son giải núi sông (Đặng Xuân Bảng)
Nói tóm lại trong một câu Thất Ngôn thì có hoặc 4 tiếng bằng 3 tiếng trắc, hoặc 4 tiếng trắc 3 tiếng bằng thì những tiếng bằng trắc ấy phải có thanh độ khác nhau, câu thơ mới giàu âm nhạc. Trong mỗi câu ít nhất là phải có 1 tiếng trường bình thì nghe mới êm. Nhưng chớ nên dùng nhiều trường bình quá. Nhiều trường bình làm cho câu thơ yếu ớt, giọng trầm trầm khó nghe. Trong một câu Thất Ngôn có 4 tiếng bằng thì dùng 2 tiếng trường bình là vừa. Nếu một câu có 3 tiếng bằng mà dùng trường bình cả 3, hoặc 4 tiếng bằng mà dùng đến 3 trường bình thì câu thơ nghe không được du dương trầm bổng, mặc dù không phạm lỗi gì cả. Thí dụ:
Trời làm đá nát lại vàng sôi Thiên hạ trông mưa đứng lại ngồi Ngày trước biết gì ăn với ngủ Bây giờ lo cả nước cùng nôi Trâu mừng ruộng nẻ cày không được Cá sợ ao khô vượt cả rồi Tình cảnh nhà ai nông nổi ấy Quạt mo phe phẩy một mình tôi (Trần Tế Xương)
Chúng ta nhận thấy câu đầu có 3 trường bình thanh trên 4, âm thanh nghe không được hài mỹ bằng những câu mà thanh độ điều hoà là các câu dưới.
2. Điệp âm:
Điệp thanh thì bằng vào thanh độ và chú trọng hai bình thanh là đoản bình và trường bình. Về điệp âm thì lưu ý đến những tiếng cùng một âm căn, như ban bàn bán bản bãn bạn, thanh thành thánh thảnh thãnh thạnh ... những chữ mà một hay nhiều mẫu tự đứng trước hoặc đứng sau giống nhau, như ba bốn bữa, mây man mác, núi nặng nề ... bối rối mối, mây vây cây v.v... Những chữ đồng âm mà để gần nhau, nhất là ba hoặc bốn chữ cùng một lượt, thì nghe như nói cà lăm, nói lắp bắp, rất chướng tai (cacophonie).
Thí dụ:
Thượng toạ thiền trung sư sự sứ Đình tiền túy tửu phụ phù phu
Đường về xóm cũ mây man mác Nhớ đến người xưa nặng nỗi niềm
Gặp mặt cô nàng tôi bối rối May nhờ lúc ấy tối rồi thôi
Chúng ta cùng đọc và nhận xét bài thơ sau đây:
Vô Đề
Tiếng gà bên gối tẻ tè te Bóng ác trông ra loé loẽ loè Non mấy trùng cao chon chót vót Hoa năm sắc nở lỏe lòe loe Chim tình bậu bạn kìa kia kĩa Ong nghĩa vua tôi nhẹ nhẻ nhe Danh lợi không màng ti tí tị Ngủ trưa chưa dậy khỏe khòe khoe
Nguyễn Thượng Hiền
3. Điệp vận:
Tương tự như điệp thanh. Điệp vận ở chữ thứ 4 và chữ thứ 7. Nhất là ở những câu luật trắc vần bằng.
Thí dụ:
Người hỡi Nghiêm Lăng có biết chăng Lòng ta ý gã mấy ai bằng
Thôi thôi dại sớm thời khôn sớm Nhắn kẻ chưa què chớ vội khoe
Hai đứa chung dòng nước Cửu Long Thương nhau chẳng gặp nát tan lòng
Bẽ bàng lối cũ hoa chào gió Thổn thức canh trường nhạn khóc sương
Quyên rầu rĩ tiếng chùng dây sắt Nhạn lẻ loi đường thẹn bóng gương
Đứng chéo trông theo cảnh hắt heo Đường đi thiên thẹo quán cheo leo
Khi dang thẳng cánh bù khi cúi Chiến đứng không thôi lại chiến ngồi
Trai đu gối hạc khom khom cật Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng
Xiếu mai chi dám tình trăng gió Bồ liễu thôi đành phận mỏng manh
Thơ Thất Ngôn chẳng những tránh điệp vận ở những câu có vần, mà phải tránh cả ở những câu không vần nữa. Và chẳng những phải tránh ở chữ thứ 4 thứ 7, mà còn phải tránh cả ở những chữ thứ 2 và thứ 6 nữa.
Thí dụ:
Tình quê ấp ủ mùi hương cũ Tin bạn mơ màng bóng nhạn xa
Nghĩ mình vốn cũng đa tình lắm Mà dạ người thương chẳng tỏ tường
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Điệp vận ở chữ thứ 4 và thứ 7 gọi là Đại Vận. Điệp vận ở chữ thứ 2 và thứ 6 gọi là Tiểu Vận. Cả hai đều là bệnh của thơ. Những điểm này sẽ được nói thêm trong phần Thi Bệnh sắp tới.
Hoàng Thứ Lang
|