Welcome Guest! To enable all features please Login or Register.

Notification

Icon
Error

Những bài học về thơ Đường Luật
viethoaiphuong
#1 Posted : Thursday, February 5, 2009 4:00:00 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
Thơ Ðường Luật
Cách Gieo Vần, Nguyên Tắc Đối, và Luật Bằng Trắc


Vĩnh Liêm

Thơ Đường Luật còn có những tên gọi khác nhau như: Thơ Đường, Đường Thi, Thất Ngôn Bát Cú và Thất Ngôn Bát Cú Đường Luật. Thơ Đường Luật có 2 loại: Tứ Tuyệt (tức mỗi câu có 7 chữ và mỗi bài có 4 câu) và Bát Cú (tức mỗi câu có 7 chữ và mỗi bài có 8 câu). Trong bài này, người viết chỉ lạm bàn tới thể Thất Ngôn Bát Cú mà thôi.

I. Cách Gieo Vần-Thơ Đường Luật có luật lệ nhất định của nó, bạn không thể biến chế một cách khác được. Cách gieo vần như sau:
- Suốt bài thơ chỉ gieo theo một vần mà thôi. Ví dụ: Vần ôi thì đi với ôi, vần ta thì đi với ta hoặc tà.
- Trong bài thơ có 5 vần được gieo ở cuối câu đầu (tức câu số 1) và ở cuối các câu chẵn (tức câu 2, 4, 6 và 8).
- Gieo vần thì phải hiệp vận (tức cho đúng vận của nó). Ví dụ: hòn, non, mòn, con... Nếu gieo vần mưa với mây thì bị lạc vận. Còn nếu gieo vần không hiệp với nhau thì gọi là cưỡng vận hay ép vận, chẳng hạn như: in với tiên.

II. Nguyên Tắc Đối-Các câu đối với nhau phải thật chỉnh, cả về ý, về tình, về thể loại từ ngữ, v.v... Thể loại từ ngữ tức tính từ phải đối với tính từ, danh từ phải đối với danh từ, động từ phải đối với động từ, v.v...
Trong bài thơ có 4 phần: Đề (gồm có Phá đề và Thừa đề), Thực hoặc Trạng, Luận, và Kết.

1. Đề gồm có hai phần:
- Phá đề (câu thứ 1):
Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà,
- Thừa đề (câu thứ 2):
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
2. Thực hoặc trạng (câu thứ 3 và câu thứ 4): Hai câu này phải đối với nhau.
Lom khom dưới núi, tiều vài chú,
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.
Ghi chú: Lom khom đối với lác đác (trạng tự) và bằng đối với trắc. Tiều đối với chợ (danh từ) và bằng đối với trắc. Chú đối với nhà (danh từ) và trắc đối với bằng.

3. Luận (câu thứ 5 và câu thứ 6): Luận có nghĩa là luận bàn. Hai câu này bàn bạc
thêm về nội dung của bài thơ, về phong cảnh hay về tình cảm. Hai câu này phải đối với nhau.
Nhớ nước, đau lòng con quốc quốc,
Thương nhà, mỏi miệng cái gia gia.
Ghi chú: Nhớ đối với thương (động từ) và trắc đối với bằng. Nước đối với nhà (danh từ) và trắc đối với bằng. Đau lòng đối với mỏi miệng (trạng từ) và bằng đối với trắc. Con quốc quốc đối với cái gia gia (danh từ) và trắc đối với bằng
4. Kết (câu thứ 7 và câu thứ 8): Hai câu kết không nhất thiết phải đối nhau, nhưng phải giữ luật bằng trắc.
Dừng chân đứng lại: trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng ta với ta.
(Bà Huyện Thanh Quan: Qua Đèo Ngang)
Ghi chú: Dừng chân là vần bằng đối với một mảnh là vần trắc; đứng lại là vần trắc đối với tình riêng là vần bằng; nước là vần trắc đối với ta là vần bằng.
III. Luật Bằng Trắc-Luật Bằng Trắc gồm có Thanh, Luật, và Niêm.

1. Thanh-Gồm có Thanh Bằng và Thanh Trắc.
a. Thanh Bằng-là những tiếng hay chữ không có dấu (như: minh, lan, thanh, hoa...) và những tiếng hay chữ có dấu huyền (như: người, trời, tình...).
b. Thanh trắc-Là những tiếng hay chữ có dấu sắc ( '} dấu hỏi ( ?) dấu ngã ( ~} và dấu nặng ( .). Ví dụ: lá, bát, tưởng, nh, mũ, cũ, tự, trọ ...
2. Luật-Thơ bát cú làm theo hai luật: Luật Bằng và Luật Trắc.
a. Luật Bằng-Chữ thứ hai ở câu đầu thuộc vần Bằng. Ví dụ:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
(1) Luật Bằng Vần Bằng-Cách dùng mẫu tự và viết tắt như sau: B là Bằng, T là Trắc và V là Vần. Luật Bằng Vần Bằng như sau:

1. B B T T T B B (V)
2. T T B B T T B (V)
3. T T B B B T T
4. B B T T T B B (V)
5. B B T T B B T
6. T T B B T T B (V)
7. T T B B B T T
8. B B T T T B B (V)

Ví dụ:
Cô hàng lấy sách cắp ra đây!
Xem thử truyện nào thú lại say.
Nữ tú có bao xin xếp cả,
Phương hoa phỏng liệu có còn hay...?
Tuyển phu mặc ý tìm cho kỹ,
Chinh phụ thế nào bán lấy may.
Kỳ ngộ bích câu xin tiện hỏi,
Giá tiền cả đó tính sao vay.
(Hồ Xuân Hương-Hỏi Cô Hàng Sách)

b. Luật Trắc-Chữ thứ hai ở câu đầu thuộc vần Trắc. Ví dụ:
Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà

(1) Luật Trắc Vần Bằng-Luật Trắc Vần Bằng như sau:

1. T T B B T T B (V)
2. B B T T T B B (V)
3. B B T T B B T
4. T T B B T T B (V)
5. T T B B B T T
6. B B T T T B B (V)
7. B B T T B B T
8. T T B B T T B (V)

Ví dụ:
Văng vẳng tai nghe tiếng khóc gì?
Thương chồng nên khóc tỉ tì ti.
Ngọt bùi, thiếp nhớ mùi cam thảo,
Cay đắng, chàng ơi, vị quế chi.
Thạch nhũ, trần bì, sao để lại,
Quy thân, liên nhục, tẩm mang đi.
Dao cầu, thiếp biết trao ai nhỉ?
Sinh ký, chàng ơi, tử tắc quy.
(Hồ Xuân Hương-Bà Lang Khóc Chồng)

Chú Thích: Những chữ có gạch ở dưới (chữ thứ 2, 4 và 6) đều phải theo đúng luật, còn những chữ khác (trừ chữ ở cuối câu) có thể không cần phải theo luật. Mẹo để nhớ:
Nhất (chữ thứ 1), tam (chữ thứ 3), ngũ (chữ thứ 5) bất luận
Nhị (chữ thứ 2), tứ (chữ thứ 4), lục (chữ thứ 6) phân minh
Nghĩa là chữ thứ nhất, thứ ba và thứ năm không kể (bất luận), tức không nhất thiết phải theo đúng luật; còn chữ thứ hai, thứ tư và thứ sáu thì bắt buộc phải theo luật (phân minh). Nếu không theo luật thì gọi là thất luật.

3. Niêm-Những chữ phải đi cặp với nhau và dính với nhau.

Ví du:Luật Bằng Vần Bằng.
Câu 1 niêm với câu 8
1.B B T T T B B (V)
Câu 2 niêm với câu 3
2. T T B B T T B (V)
3. T T B B B T T
Câu 4 niêm với câu 5
4. B B T T T B B (V)
5. B B T T B B T
Câu 6 niêm với câu 7
6. T T B B T T B (V)
7. T T B B B T T
Câu 8 niêm với câu 1
8.B B T T T B B (V)

Ví dụ: Luật Trắc Vần Bằng.
Câu 1 niêm với câu 8
1. T T B B T T B (V)
Câu 2 niêm với câu 3
2. B B T T T B B (V)
3. B B T T B B T
Câu 4 niêm với câu 5
4. T T B B T T B (V)
5. T T B B B T T
Câu 6 niêm với câu 7
6. B B T T T B B (V)
7. B B T T B B T
Câu 8 niêm với câu 1
8. T T B B T T B (V)

Cũng có trường hợp nhà thơ làm sai luật, thay vì đang ở Luật Bằng thì lại đổi sang Luật Trắc. Vì Niêm không đi với nhau nên gọi là Thất Niêm.

Ví dụ: Dùng bài thơ Cảnh Làm Lẽ (Lấy Chồng Chung) của Hồ Xuân Hương (đúng niêm luật) để đổi sang thất niêm (xem chữ thứ 2 có gạch dưới):

Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng,
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung!
Năm thì mười họa, nên chăng chớ,
Một tháng đôi lần, có cũng không...
Cố đấm ăn xôi, xôi lại hỏng,
Cầm bằng làm mướn, mướn không công.
Thân này ví biết dường này nhỉ,
Thà trước thôi đành ở vậy xong.

Đổi thành thất niêm:

Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng,
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung!
Cố đấm ăn xôi, xôi lại hỏng (thất niêm),
Cầm bằng làm mướn, mướn không công.
Năm thì mười họa, nên chăng chớ,
Một tháng đôi lần, có cũng không...
Thân này ví biết dường này nhỉ,
Thà trước thôi đành ở vậy xong.

Chú ý: Dù chỉ đặt sai có một câu (câu thứ 3) nhưng bị thất niêm toàn bài thơ. Thế mới biết luật thơ Đường khắt khe biết dường nào!

Khi làm thơ Đường Luật thì phải giữ cho đúng niêm luật. Nếu không, dù bài thơ của bạn có nội dung hay mấy đi nữa thì cũng không thể chấp nhận được.

Vĩnh Liêm
(Đức Phố, 15 tháng 9 năm 2001)


viethoaiphuong
#2 Posted : Friday, February 6, 2009 2:07:06 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
Thơ Đường luật (Luật thi)

Tiền Mộc Yêm, tác giả sách Ðường Ẩm Thẩm Thể nói rằng: “Luật đây là sáu luật, là luật hòa hợp âm thanh. Luật thơ cũng giống như kỷ luật dụng binh, pháp luật hình án, nghiêm ngặt chặt chẽ, không được vi phạm”. Có thể giải thích thêm về thể cách của luật thi như sau:

a. Trong một câu, bằng trắc cần phải điều tiết.
b. Trong khoảng hai câu liền nhau, sự đối ngẫu cần phải khéo.
c. Trong một bài, âm thanh cần phải chọn sao cho có sự cao thấp, bổng trầm.
Tóm lại, ba điều kiện cần thiết của luật thi là niêm, luật và đối.

Về đối ngẫu, Lưu Hiệp đời Lục Triều, tác giả sách Văn Tâm Ðiêu Long, đã phân biệt bốn cách là: Ngôn đối, Sự đối, Chính đối và Phản đối. Ngôn đối là đối bằng lời suông. Sự đối là đối bằng điển cố. Hai câu mỗi câu trình bày một sự việc nhưng nói lên cùng một ý, là chính đối. Nếu hai sự việc đó trái ngược nhau, thì gọi là phản đối. Sự đối và phản đối khó làm hơn và có giá trị hơn là ngôn đối và chính đối.

Ðến thời Sơ Ðường, Thượng Quan Nghi phân biệt sáu cách đối là:

1. Chính danh đối, như càn khôn đối với nhật nguyệt.
2. Ðồng loại đối, như hoa diệp đối với thảo mao.
3. Liên châu đối, như tiêu tiêu đối với hách hách.
4. Song thanh đối, như hoàng hòe đối với lục liễu.
5. Ðiệp vận đối, như bàng hoàng đối với phóng khoáng.
6. Song nghĩ đối, như xuân thụ đối với thu trì.
(theo sách Thi uyển loại cách)

Một bài luật thi hoàn chỉnh dùng vào việc ứng chế, ứng thí, có thể định nghĩa là một bài thơ tám câu hoặc năm chữ ngũ ngôn luật thi hoặc bảy chữ thất ngôn luật thi, phải theo những qui tắc nhất định về niêm, luật; bốn câu 3,4 và 5,6 phải đối nhau từng đôi một.

Ngoài những bài có bốn câu giữa đối nhau, cũng có những bài hoặc sáu câu toàn đối, hoặc tám câu toàn đối.

Về vận, bài luật thi bắt buộc phải dùng vận chính (không được dùng vận thông, vận chuyển), căn cứ vào cuốn qui định vận bộ do triều đình ban hành. Ðời Ðường Huyền Tông có cuốn “Vận Anh”, cải biên theo cuốn “Thiết Vận” của Lục Pháp Ngôn đời Tùy, rồi cuốn “Ðường Vận” của Tôn Miễn, bổ khuyết sách trên.

Về việc dàn ý, bài luật thi vốn có bố cục như sau: các câu 1, 2 là khởi (khai), các câu 3, 4 là thừa, các câu 5, 6 là chuyển, các câu 7, 8 là hợp (hạp). Ngoài các câu đầu và kết ra, trong những câu giữa, muốn nói gì cũng được, không có lệ nhất định. Chỉ trong những khoa thi về sau, bài luật thi mới có bố cục chật hẹp (phá, thừa, thực, luận, kết).

"Thể thơ Đường luật, về hình thức, các nhà thi học đều công nhận là toàn hảo. Nhưng nó chỉ thích hợp với những tình cảm đã được tiết chế, với những tâm hồn trầm tĩnh, với những người nặng về đời sống nội tâm. Nó không còn thích hợp với người hiện đại, bởi lòng luôn bị ngoại cảnh chi phối, rất ít khi được yên tĩnh, ung dung, nhịp lòng và nhịp thơ không thể hài hòa với nhau được thỏa đáng".

Thơ có nhiều thể, thể nào cũng có ưu điểm, khuyết điểm hoặc nhược điểm. Chúng ta chọn thể thơ Đường luật là vì thể thơ này thích hợp với tâm hồn của chúng ta. Thể thơ này đã bị các nhà Thơ Mới đả kích dữ dội ngót mười năm từ 1932 đến 1941. Bị công kích, đả đảo ngay khi thể thơ mới ra đời, đã bị một số danh gia, như Lý Thái Bạch, Hàn Sơn ... chỉ trích nặng lời, chớ chẳng đợi đến các thi nhân sanh sau hàng ngàn năm.
Bị đả kích mà vẫn tồn tại bởi có những ưu điểm. Trừ những kẻ thiên kiến, những người không độ lượng, không ai phủ nhận, không ai nỡ hủy diệt, trái lại còn rũ lòng ấp ủ nâng niu.

Để mở đầu phần Thi Pháp Thơ Đường Luật, hôm nay Hoàng Thứ Lang xin trích bàn về Phép dụng tự.

Thơ Đường thường dùng thực tự ít dùng hư tự.
Các nhà thi học đời sau thường nhận xét rằng: "Thơ mà dùng hư tự không hay". Đó là lời của Triệu Mạnh Phủ đời Nguyên. Người đồng thời cùng họ Triệu là Phạm Phanh nói thêm: "Thơ dùng nhiều thực tự thì mạnh, dùng nhiều hư tự thì yếu". Tạ Trăn cũng nói: "Dùng nhiều thực tự thì ý giản mà câu mạnh, dùng nhiều hư tự thì ý phồn mà lời yếu".
Xét kỹ thì Cổ Thi thường dùng hư tự, Luật Thi thường dùng thực tự. Đường nhân hay dùng thực tự, Tống nhân hay dùng hư tự.

Nói là chuyên dùng, ưa dùng ... là chuyên dùng nhiều, ưa dùng nhiều tự loại này hơn tự loại kia đó thôi. Hư tự dùng để đẩy đưa lời thơ, để gắn nối chữ này với chữ nọ. Dùng nhiều thực tự quá câu thơ thành nặng nề. Dùng nhiều hư tự quá câu thơ trở nên lỏng lẻo bên lời, cạn cợt bên ý. Phải sử dụng sao cho thích ứng, cho cân xứng. Như thế mới là diệu thủ.

Trong làng thơ Quốc âm, bà Huyện Thanh Quan hay dùng thực tự, bà Hồ Xuân Hương hay dùng hư tự. Tôn Thọ Tường thường dùng thực tự, Trần Tế Xương thường dùng hư tự.

Dùng nhiều thực tự thì thơ cô đọng chững chàng. Dùng hư tự vừa phải thì thơ nhẹ nhàng bay bướm. Xin dẫn chứng:

Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
(Bà Huyện Thanh Quan)

Bát canh Quảng Võ ơn còn nhớ
Chén rượu Hồng Môn lệ khó ngăn
(Tôn Thọ Tường)

Tóc vướng hơi hương vườn thúy liễu
Lòng nương tiếng địch bến vi lô
(Tú Xương)

Sóng lớp phế hưng coi đã rộn
Chuông hồi kim cổ lắng càng mau
(Bà Huyện Thanh Quan)

Nghi ngút tro tàn nền đạo nghĩa
Lờ mờ bụi đóng cửa trâm anh
(Tôn Thọ Tường)

Thà không trời đất không chi cả
Còn có non sông có lẽ nào
(Phan Sào Nam)

Chiếc bá buồn vì phận mỏng mênh
Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh
Lưng khoang tình nghĩa dường lai láng
Nửa mạn phong ba luống bập bềnh
Cầm lái mặc ai lăm đổ bến
Giang chèo thây khách rắp xuôi ghềnh
Ấy ai thăm ván căm lòng vậy
Ngán nỗi ôm đàn những tấp tênh
(Hồ Xuân Hương)

Đó là những câu dùng hư tự nhiều mà hay, nhất là câu thơ của Phan Sào Nam thật là hy hữu.

Dùng hư tự mà không khéo thì câu thơ thành non nớt, không truyền được cảm, mặc dù trong thơ có nhiều tình:

Trên đài hiu hắt ngọn đèn hoa
Gang tấc xem bằng mấy dặm xa
Một kiếp đã đành rằng để vậy
Chín trùng có thấu đến chăng là
Ỏi tai ngán nỗi đàn ve gảy
Tan mặt buồn tênh cái nhện sa
Ví biết thân này chi khó bấy
Quyền môn chen chúc chẳng bằng thà

Đó là một bài thơ được truyền tụng nhan đề CUNG OÁN.
Trong sách "Phép làm thơ" của Diên Hương chép là của Ôn Như Hầu. Theo Quách Tấn nhận xét thì không phải, vì bút pháp của Ôn Như Hầu rất già dặn, chải chuốt. Thơ trong Cung Oán Ngâm Khúc đã nổi danh là điêu luyện đến mức, và những câu sau đây, chỉ vài câu còn truyền tụng thôi, cũng đủ chứng minh rằng những câu thơ quá dễ dãi trên đây không phải là di sản của Ôn Như Hầu:

Cõi thế lênh đênh thuyền hạo kiếp
Lẽ trời lồng lộng võng huyền cơ
(Cảm tác - Ôn Như Hầu)

Man mác cảnh đâu ngoài vạn dặm
Bâng khuâng chuyện những mấy trăm năm
(Nghe ếch kêu - Ôn Như Hầu)

Lời thơ tự nhiên, lưu loát chớ không quê vụng như bài CUNG OÁN trên.

Bài CUNG OÁN có nhiều chữ dư, tức là những chữ không cần thiết, chỉ đem vào cho đủ vế mà thôi. Chúng ta nên tránh.
Chẳng những tránh dùng chữ thừa, mà còn tránh dùng một chữ đến 2 hoặc 3 lần, trừ khi cố ý nhấn mạnh, cố ý làm nổi bật một tứ thơ.

Lỗi bị trùng chữ rất thường xảy ra. Đến các bậc lão luyện vẫn nhiều khi vấp phải. Như Tố Như trong bài Vọng Phu Thạch.
Nhưng vì bài thơ có giá trị của viên ngọc liên thành, cho nên những vết nhỏ kia có thể bỏ qua. Tuy nhiên nếu viên ngọc toàn mỹ thì càng quý bội phần.

Tản Đà thỉnh thoảng cũng không tránh khỏi. Tiên sinh có bài THEO VOI ĂN BÃ MÍA cũng bị phạm lỗi này.

Chúng ta không phải như Tố Như, Tản Đà nên đừng bắt chước.
Huống nữa đã là lỗi thì dù là của bậc đại gia văn chương đi nữa cũng không nên lấy đó làm gương.

Tránh những chữ vô dụng, tránh những chữ trùng điệp.
Lại còn phải tránh:
1. Điệp thanh.
2. Điệp âm.
3. Điệp vận.

Trong bài Phép dụng tự có đề cập đến việc bài thơ phải tránh:
1. Điệp thanh
2. Điệp âm
3. Điệp vận

Hôm nay xin được tiếp tục bàn về ba điểm trên. Trong phạm vi bài này chỉ bàn về Thơ Thất Ngôn Luật Thi mà thôi (Thơ Ngũ Ngôn Luật Thi sẽ bàn vào một dịp khác).


1. Điệp thanh:

Chữ thứ 4 và chữ thứ 7 trong các câu luật trắc vần bằng. Hai chữ ấy đều bình thanh thì thượng đoản hạ trường, hoặc ngược lại (thượng trường hạ đoản), chớ đừng dùng cả hai hoặc đều đoản hay đều trường.
Thí dụ 1 (cả hai đều cùng đoản bình thanh):

Thành Loa vừa thấy xây vua Thục
Ải Lạng quanh coi đuổi giặc Ngô
(Nguyễn Đỉnh Ngọc)

Câu thơ không có tiếng ngân, hơi thơ đọc xong là đứt không đủ sức đi vào lòng người đọc người nghe.

Tuy vậy vẫn còn đỡ hơn chữ thứ 4 và chữ thứ 7 đều cùng trường.
Thí dụ 2 (cả hai đều cùng trường bình thanh):

Nõn nà sắc nước nhờ ơn nước
Ngào ngạt hương trời ngát dặm trời
(Lê Thánh Tôn)

Câu thơ quặp ở giữa lưng như bụi chuối bị gió thổi gãy, âm hưởng nghe chìm lỉm như tiếng trống bị đùn da. Lỗi này nên tránh.

Thượng đoản hạ trường hoặc thượng trường hạ đoản thay đổi nhau thì câu thơ mới hài hảo.

Tuy nhiên nếu chữ thứ 4 có một trường bình thanh đứng kề thì câu thơ lại đọc nghe êm tai.
Thí dụ:

Thay mười tám triệu người ăn nói
Mở bốn ngàn năm mặt nước non
(Trần Tế Xương)

Mấy hàng tóc bạc từng dâu bể
Một tấm lòng son giải núi sông
(Đặng Xuân Bảng)

Nói tóm lại trong một câu Thất Ngôn thì có hoặc 4 tiếng bằng 3 tiếng trắc, hoặc 4 tiếng trắc 3 tiếng bằng thì những tiếng bằng trắc ấy phải có thanh độ khác nhau, câu thơ mới giàu âm nhạc. Trong mỗi câu ít nhất là phải có 1 tiếng trường bình thì nghe mới êm. Nhưng chớ nên dùng nhiều trường bình quá. Nhiều trường bình làm cho câu thơ yếu ớt, giọng trầm trầm khó nghe. Trong một câu Thất Ngôn có 4 tiếng bằng thì dùng 2 tiếng trường bình là vừa. Nếu một câu có 3 tiếng bằng mà dùng trường bình cả 3, hoặc 4 tiếng bằng mà dùng đến 3 trường bình thì câu thơ nghe không được du dương trầm bổng, mặc dù không phạm lỗi gì cả.
Thí dụ:

Trời làm đá nát lại vàng sôi
Thiên hạ trông mưa đứng lại ngồi
Ngày trước biết gì ăn với ngủ
Bây giờ lo cả nước cùng nôi
Trâu mừng ruộng nẻ cày không được
Cá sợ ao khô vượt cả rồi
Tình cảnh nhà ai nông nổi ấy
Quạt mo phe phẩy một mình tôi
(Trần Tế Xương)

Chúng ta nhận thấy câu đầu có 3 trường bình thanh trên 4, âm thanh nghe không được hài mỹ bằng những câu mà thanh độ điều hoà là các câu dưới.

2. Điệp âm:

Điệp thanh thì bằng vào thanh độ và chú trọng hai bình thanh là đoản bình và trường bình.
Về điệp âm thì lưu ý đến những tiếng cùng một âm căn, như ban bàn bán bản bãn bạn, thanh thành thánh thảnh thãnh thạnh ... những chữ mà một hay nhiều mẫu tự đứng trước hoặc đứng sau giống nhau, như ba bốn bữa, mây man mác, núi nặng nề ... bối rối mối, mây vây cây v.v... Những chữ đồng âm mà để gần nhau, nhất là ba hoặc bốn chữ cùng một lượt, thì nghe như nói cà lăm, nói lắp bắp, rất chướng tai (cacophonie).

Thí dụ:

Thượng toạ thiền trung sư sự sứ
Đình tiền túy tửu phụ phù phu

Đường về xóm cũ mây man mác
Nhớ đến người xưa nặng nỗi niềm

Gặp mặt cô nàng tôi bối rối
May nhờ lúc ấy tối rồi thôi

Chúng ta cùng đọc và nhận xét bài thơ sau đây:

Vô Đề

Tiếng gà bên gối tẻ tè te
Bóng ác trông ra loé loẽ loè
Non mấy trùng cao chon chót vót
Hoa năm sắc nở lỏe lòe loe
Chim tình bậu bạn kìa kia kĩa
Ong nghĩa vua tôi nhẹ nhẻ nhe
Danh lợi không màng ti tí tị
Ngủ trưa chưa dậy khỏe khòe khoe

Nguyễn Thượng Hiền

3. Điệp vận:

Tương tự như điệp thanh. Điệp vận ở chữ thứ 4 và chữ thứ 7.
Nhất là ở những câu luật trắc vần bằng.

Thí dụ:

Người hỡi Nghiêm Lăng có biết chăng
Lòng ta ý gã mấy ai bằng

Thôi thôi dại sớm thời khôn sớm
Nhắn kẻ chưa què chớ vội khoe

Hai đứa chung dòng nước Cửu Long
Thương nhau chẳng gặp nát tan lòng

Bẽ bàng lối cũ hoa chào gió
Thổn thức canh trường nhạn khóc sương

Quyên rầu rĩ tiếng chùng dây sắt
Nhạn lẻ loi đường thẹn bóng gương

Đứng chéo trông theo cảnh hắt heo
Đường đi thiên thẹo quán cheo leo

Khi dang thẳng cánh bù khi cúi
Chiến đứng không thôi lại chiến ngồi

Trai đu gối hạc khom khom cật
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng

Xiếu mai chi dám tình trăng gió
Bồ liễu thôi đành phận mỏng manh


Thơ Thất Ngôn chẳng những tránh điệp vận ở những câu có vần, mà phải tránh cả ở những câu không vần nữa. Và chẳng những phải tránh ở chữ thứ 4 thứ 7, mà còn phải tránh cả ở những chữ thứ 2 và thứ 6 nữa.

Thí dụ:

Tình quê ấp ủ mùi hương cũ
Tin bạn mơ màng bóng nhạn xa

Nghĩ mình vốn cũng đa tình lắm
Mà dạ người thương chẳng tỏ tường

Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia

Điệp vận ở chữ thứ 4 và thứ 7 gọi là Đại Vận.
Điệp vận ở chữ thứ 2 và thứ 6 gọi là Tiểu Vận.
Cả hai đều là bệnh của thơ.
Những điểm này sẽ được nói thêm trong phần Thi Bệnh sắp tới.

Hoàng Thứ Lang
viethoaiphuong
#3 Posted : Tuesday, February 10, 2009 6:12:30 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
BÀI IX - CÁC THỂ THỨC HỌA THƠ ĐƯỜNG LUẬT

Có 2 thể thức họa thơ Đường luật là: Họa Hạn Vận và Họa Phóng Vận.

1. HỌA HẠN VẬN:
Họa hạn vận là phải theo sự hạn định trước. Người ta ra đề và cho vần nào thì mình phải dùng vần ấy. Thể Họa Hạn Vận nầy khác với thể Họa Phóng Vận, vì họa hạn vận không có bài xướng để dựa theo mà họa, hơn thế nữa, ta phải:
- Diễn tả ý thơ theo đầu đề đã ra sẵn.
- Dùng đúng 5 vần hạn định (trong 8 câu) và phải hạ vần đúng theo thứ tự đã hạn định.
Thí dụ: Cuộc thi thơ do học giả Phan Kế Bính tổ chức như sau:
a. Ðầu đề (nội dung) là:

Trống treo ai dám đánh thùng
Bậu không ai dám dở mùng chun vô

b. Năm vần hạn định theo thứ tự là: xô - cô - vô - ô - rô.
Bài thơ sát với đầu đề, hạ đúng 5 vần hạn định, được giải nhất mà tác giả lại là một thiền sư chân tu !!! ... như sau đây:

Nào phải là ai dám giục xô
Thuận tình trước hết tự nơi cô
Có cho mới dám trao dùi đánh
Không hẹn nào ai đẩy cửa vô
Mảng sướng kể gì thân lễ nghĩa
Ham vui quên hết chuyện dâm ô
Thói hư thuần thước xưa còn lạc
Đừng học làm chi gióng nhảy rô


Còn có một lối hoạ hạn vận rất khó. Hoàng Thứ Lang kể lại một câu chuyện như sau:
Mùa Hè năm 1926, trong dịp thi sĩ Đão Sĩ Nhã đến thăm gia đình họ Phan ở Hưng Yên. Ông khách Đào Sĩ Nhã thách lão thi sĩ Phan Mạnh Danh làm một bài thơ Nôm Đường luật với các điều kiện sau:
- Đầu đề: Xuân Khuê
- Hạn 5 vần: chờ - hờ - thưa - tơ - thơ
- Phải dùng 19 chữ: một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám, chín, mười, trăm, ngàn, vạn, đôi, cặp, nửa, trượng, thước, tấc.
Sau đây là bài thơ Nôm hoạ hạn vận của lão thi sĩ Phan Mạnh Danh:

Xuân Khuê

Một mong hai đợi bốn ba chờ
Mười hẹn đêm trăng tám hững hờ
Nửa gối năm canh gà gáy giục
Tấc mây sáu cánh nhạn tin thưa
Trăm lần cặp mắt đôi hàng lệ
Chín khúc bên lòng vạn mối tơ
Ngàn trượng thành sầu đo thước khó
Biếng đem bảy vẻ dệt nên thơ

Phan Mạnh Danh


2. HỌA PHÓNG VẬN
Họa Phóng Vận là phỏng theo vần của bài xướng để họa lại mà các vần trong bài họa phải theo y như các vần trong bài xướng, còn ý nghĩa thì hoặc phụ theo cho rộng thêm, hoặc trái hẳn lại (phản đề).
Họa phóng vận còn chia ra 4 hình thức là: Họa Nguyên Vận, Họa Đảo Vận, Họa Hoán Vận và Hoạ Tá Vận.
a. Họa Nguyên Vận: là họa đúng 5 vần của bài xướng và hạ vần cũng đúng y theo thứ tự như cách hạ vần của bài xướng. Trong cách họa nguyên vận thường thì có bao hàm họa ý (hoặc đối ý) và đối luật với bài xướng. Nếu không đối luật được thì cũng có thể họa luật.
b. Họa Đảo Vận: là họa ngược thứ tự của 5 vần từ dưới lên trên, thay vì họa nguyên vận là họa từ trên xuống còn họa đảo vận là họa từ dưới lên.
c. Họa Hoán Vận: là thay đổi thứ tự vị trí các vần của bài xướng tùy theo ý người họa, sắp xếp lại sao cho vần điệu nghe êm tai hơn cách sắp xếp của bài xướng.
d. Họa Tá Vận: Tá vận là mượn vần. Họa tá vận là bài họa chỉ mượn 5 vần của bài xướng để làm một bài khác mà nội dung hoàn toàn không liên quan gì đến bài xướng cả. Cách họa này ngày nay hầu hết được người ta làm rất nhiều vì dễ làm.


CHÚ Ý QUAN TRỌNG: Trong thể thức Họa Vận, không được dùng trùng từ thứ 6 trong các câu có vần của bài xướng. Tức là không được dùng lại từ đứng trước của 5 vần bài xướng. Nói dễ hiểu là không được dùng lại chữ thứ 6 ở các câu 1-2-4-6-8 của bài xướng. Càng tránh dùng trùng từ trong toàn bài của bài xướng càng tốt, ngoại trừ những từ đặc biệt không thể tránh được.

Hoạ Thơ bao gồm 2 phần chính quan trọng sau đây:
Đã có một bài thơ sẵn trước gọi là Bài Xướng. Bài xướng có thể chọn 1 bài đã có sẵn từ xưa, từ trước, hoặc 1 bài do 1 người khác làm trước "thách đố" cho người khác đáp lại. Người đáp lại thì bài reply đó gọi là Bài Họa. Bài họa phải có ít nhất 3 yếu tố quan trọng sau đây:
1. Họa vần: 5 vần tức là 5 tiếng (chữ) cuối của các câu 1-2-4-6-8 mà người xướng đã ra như thế nào thì người họa phải theo đúng y chang 5 vần đó, không được vì bí hay kẹt mà sửa đổi. Chỉ cần sai 1 trong vần kể trên thì bài họa coi như bị hỏng, và như vậy gọi là bị Xuất Vận nghĩa là bị ra khỏi vần đã hạn định cho mình, dĩ nhiên bài họa đó bị Fail.
2. Bài xướng nói lên ý (main idea) gì thì bài họa cũng phải nói lên ý đó hoặc tán rộng nghĩa ra thêm.
3. Bài xướng gieo luật gì thì bài họa phải đối lại luật đó (trong xướng họa có hàm nghĩa đối đáp). Thí dụ bài xướng luật trắc thì bài họa phải luật bằng và ngược lại.
4. Ngoài ra bài họa có thể đối ý lại bài xướng, thí dụ bài xướng khen 1 vấn đề gì thì bài họa có thể chê vấn đề đó (gọi là phản đề, nhưng không bắt buộc).
Tóm lại 3 yếu tố 1-2-3 là cần thiết cho 1 bài họa xuất sắc.
Sau đây là một thí dụ về xướng họa điển hình để làm mẫu. Hai bài này nổi tiếng trong văn học Việt Nam.

Bài Xướng:

TÔN PHU NHÂN QUI THỤC
(của Tôn Thọ Tường)

Cật ngựa thanh gươm vẹn chữ tòng
Ngàn thu rạng tiết gái Giang Đông
Lìa Ngô bịn rịn chòm mây bạc
Về Hán trau tria mảnh má hồng
Son phấn thà cam dày gió bụi
Đá vàng chi để thẹn non sông
Ai về nhắn với Châu Công Cẩn
Thà mất lòng anh được bụng chồng


Bài Họa:

TÔN PHU NHÂN QUI THỤC
(của Phan Văn Trị)

Cài trâm sửa áo vẹn câu tòng
Mặt ngả trời chiều biệt cõi Đông
Ngút tỏa trời Ngô ùn sắc trắng
Duyên về đất Thục đượm màu hồng
Hai vai tơ tóc bền trời đất
Một gánh cương thường nặng núi sông
Anh hỡi Tôn Quyền anh có biết
Trai ngay thờ chúa gái thờ chồng

Những bài thơ minh họa cho các thể thức Họa Thơ.

1. HOẠ HẠN VẬN:
Thí dụ:

- Hạn đề:
"Trống treo ai dám đánh thùng
Bậu không ai dám dở mùng chun vô"

- Hạn vận:
Xô - Cô - Vô - Ô - Rô

Bài họa:

Nào phải là ai dám giục xô
Thuận tình trước hết tự nơi cô
Có cho mới dám trao dùi đánh
Không hẹn nào ai đẩy cửa vô
Mảng sướng kể gì thân lễ nghĩa
Ham vui quên hết chuyện dâm ô
Thói hư thuần thước xưa còn lạc
Đừng học làm chi giống nhảy rô

2. HỌA PHÓNG VẬN:
Thí dụ 1:

a. Họa nguyên vận:

Bài xướng:

TƯƠNG TƯ

Tương giang hai đứa ở hai nơi
Uống cạn dòng sông nhớ trọn đời
Chỉ thắm xe lơi người mộng hỡi
Tơ hồng buộc lỏng bạn lòng ơi
Vần thơ nức nở mi nhòa lệ
Nét chữ run run ý cạn lời
Định số an bài mang khổ hận
Đêm trường thổn thức máu tim rơi

Hoàng Thứ Lang
11/8/05


Bài họa:

TƯƠNG TƯ

Mỏi gót phiêu bồng khắp mọi nơi
Về đâu trên vạn nẻo đường đời
Mưa buồn đổ mãi mưa buồn hỡi
Tuyết trắng rơi hoài tuyết trắng ơi
Muốn nhắn đôi câu mà nghẹn ý
Mong trao mấy tiếng lại ngăn lời
Dòng sông ly biệt nào chia lối
Ngắm dải Ngân Hà đếm lệ rơi

Hoàng Thứ Lang
11/8/05

b. Họa đảo vận:

Bài xướng:

TƯƠNG TƯ

Tương giang hai đứa ở hai nơi
Uống cạn dòng sông nhớ trọn đời
Chỉ thắm xe lơi người mộng hỡi
Tơ hồng buộc lỏng bạn lòng ơi
Vần thơ nức nở mi nhòa lệ
Nét chữ run run ý cạn lời
Định số an bài mang khổ hận
Đêm trường thổn thức máu tim rơi

Hoàng Thứ Lang
11/8/05


Bài họa:

TƯƠNG TƯ

Lất phất bên thềm tuyết trắng rơi
Niềm riêng ấp úng chẳng nên lời
Hai hàng lệ tủi than trời hỡi
Một áng thơ sầu khóc bạn ơi
Rẽ yến chia oanh hờn số kiếp
Lìa loan rã phụng lỡ duyên đời
Sông Tương uống cạn dòng thương nhớ
Giang vĩ giang đầu đứa mỗi nơi

Hoàng Thứ Lang
11/8/05

c. Họa Hoán Vận:

Bài xướng:

TƯƠNG TƯ

Tương giang hai đứa ở hai nơi
Uống cạn dòng sông nhớ trọn đời
Chỉ thắm xe lơi người mộng hỡi
Tơ hồng buộc lỏng bạn lòng ơi
Vần thơ nức nở mi nhòa lệ
Nét chữ run run ý cạn lời
Định số an bài mang khổ hận
Đêm trường thổn thức máu tim rơi

Hoàng Thứ Lang
11/8/05


Bài họa:

TƯƠNG TƯ

Gởi gió nhờ mây nhắn mấy lời
Trao người yêu dấu của tôi ơi
Đường mơ vạn nẻo đành riêng lối
Bến mộng đôi bờ phải khác nơi
Bóng chiếc phòng đơn sầu lệ đổ
Đèn khuya gác vắng tủi châu rơi
Ai xui hai đứa mình dang dở
Chẳng trọn cùng nhau suốt cuộc đời

Hoàng Thứ Lang
11/8/05

d. Họa Tá Vận (mượn vần):

Bài xướng:

TRUNG THU

Trăng thu toả sáng nhớ xa xăm
Tháng tám chờ trông đến bữa rằm
Mẹ dán lồng đèn chơi suốt sáng
Cha làm trống ếch đánh quanh năm
Xa rồi cảnh cũ lòng se lạnh
Tiếc mãi ngày xưa lệ ướt dầm
Chiếc lá chao mình trong gió sớm
Nghe chừng vọng lại thoáng dư âm

Hoàng Thứ Lang
Oct 05, 2006


Bài họa:

XIN XĂM

Mẹ dẫn lên chùa để thỉnh xăm
Hôm nay trăng sáng đúng đêm rằm
Cầu xin phúc lộc vào nguyên tháng
Khấn nguyện bình an đến trọn năm
Giữa Hạ oi nồng đừng nắng gắt
Trung Thu mát mẻ chớ mưa dầm
Đưa tay vói rút ồ hên quá
Thượng thượng ngon lành chẳng bị âm

Bạch Mai
Oct 06, 2006

Hoạ thơ Đường luật

Họa vần là sáng tác một bài thơ thường gọi là bài họa dựa trên hệ thống vần của một bài thơ có trước thường gọi là bài xướng.
Thơ Đường luật có nhiều thể như thất ngôn tứ tuyệt, thất ngôn bát cú, ngũ ngôn tứ tuyệt, ngũ ngôn bát cú.
Nếu thể thơ thất ngôn bát cú thì toàn bài có năm vần là chữ cuối cùng của các câu 1, 2, 4, 6, 8.
Những chữ vần thường là thanh bằng (có một số bài làm theo vần trắc, thì các chữ ở vị trí này là thanh trắc).
Sau khi có bài xướng, người làm thơ họa sáng tác một bài khác, dùng lại đúng năm chữ vần của bài thơ xướng, với điều kiện chỉ dùng chữ cuối, không được dùng chữ kế cuối.
Nếu dùng lại chữ kế cuối là phạm nguyên tắc "khắc lục", là lỗi cấm kỵ trong họa vần thơ Đường luật.

Bài họa phải diễn đạt lại ý chính (nội dung) của bài xướng, không được lạc đề.

Thường là bài họa phải đối luật với bài xướng, nếu bài xướng luật bằng thì bài họa phải luật trắc và ngược lại. Kẹt lắm mới làm bài họa đồng luật với bài xướng.

Thí dụ:

Bài xướng:

Vườn rau Cẩm Tú

Thầy cho xới lại mảnh vườn hoang
Cẩm Tú đem phân ủ mấy hàng
Củ cải gieo gần dây mướp đắng
Su hào tỉa cạnh gốc khoai lang
Thì là diếp cá lên muôn lối
Húng đổi cần tây mọc khắp đàng
Tứ phía rau xanh nhìn mát mắt
Tha hồ cải thiện bữa ăn...sang

Cẩm Tú


Bài hoạ::

Vườn rau Cẩm Tú

Cẩm Tú gieo trồng mảnh đất hoang
Rau xanh thẳng tắp rất ngay hàng
Ngò om óng mượt bên giàn mướp
Húng quế thơm lừng kế luống lang
Bí rợ tần ô lên bít lối
Dưa leo ớt hiểm mọc đầy đàng
Chiều chiều đứng ngắm lòng thanh thản
Cuộc sống quê nghèo ngẫm lại...sang

Hoàng Thứ Lang

Không được dùng lại chữ thứ 6 (chữ kế cuối) trong các câu cước vận (câu 1-2-4-6-8) của bài xướng và tất cả những bài đã hoạ trước.
5 chữ vần của bài hoạ không được khác nghĩa với 5 chữ vần của bài xướng.
Coi như bài hoạ là bản copy những nét căn bản về ý và vần của bài xướng, vì vậy bài hoạ phải cùng một tựa đề với bài xướng.
Hoạ thơ Đường luật không đến nổi quá khó nhưng không phải dễ dàng như nhiều người đã lầm tưởng !
Hoạ sai một vần gọi là xuất vận: không được.
Hoạ sai nghĩa một vần gọi là xuất ý: không được.

Bài đọc thêm

Xướng hoạ thơ Đường luật là có hàm ý đối hoạ ở trong đó.
Người ta xướng ra mình phải đối đáp lại, vì vậy nếu chỉ một bài xướng và một bài hoạ thì bài hoạ bắt buộc phải đối luật với bài xướng. Thí dụ bài Tôn Phu Nhân Qui Thục xướng của Tôn Thọ Tường, hoạ của Phan Văn Trị.
Trường hợp bất khả kháng không thể đối luật được thì có thể châm chế hoạ đồng luật, nhưng bài hoạ đồng luật sẽ bị giảm giá trị vì không đáp ứng đúng thể thức xướng hoạ đúng cách.
Bắt đầu những bài hoạ sau đó (nếu có) thì có thể dùng luật gì cũng được.

Hoạ thơ là "vẽ lại" hình ảnh của bài xướng cho nên phải trung thực với bài xướng về ý cũng như vần.
Hoạ sai ý bài xướng là không đạt.
Hoạ sai bất cứ chữ vần nào của bài xướng gọi là xuất vận: không đạt. Xuất vận là đi ra khỏi sự hạn định về vần của bài xướng.
Hoạ sai nghĩa bất cứ chữ vần nào của bài xướng gọi là xuất ý: không đạt. Xuất ý là đi ra khỏi ý nghĩa chữ vần của bài xướng.

Hoạ thơ Đường luật đúng cách rất khó.

Khi bạn bè (thi hữu) chung vui xướng hoạ với nhau, có thể dùng thể thức Hoạ Tá Vận (tức là mượn vần) để hoạ những vần tử vận và tử ý. Cách nầy không đạt nhưng cốt là để cùng nhau vui vẻ mà thôi. Nhưng cũng không nên đi xa thi đề (nội dung của bài xướng). Thí dụ bài Cảm Vịnh Cây Mai xướng của Tôn Thọ Tường, hoạ của Đông Hồ.

Lấy thí dụ tử vận xót xa không thể nào hoạ nguyên vận theo chính hoạ được. Chúng ta có thể hoạ tá vận (mượn vần) theo bàng hoạ là xa xa, từ xa, đàng xa v.v... chẳng hạn. Dĩ nhiên là sai nghĩa của chữ xót xa rồi (bởi vậy mới bị xuất ý: không đạt), nhưng cốt để cùng nhau vui vẻ mà thôi.

Chúng ta học thơ Đường luật chính thể, cho nên phải học kỹ về chính luật, chính vận, chính đối, chính hoạ.

Thông vận, bàng đối và bàng hoạ... không xuất sắc.

Làm thơ, nếu dùng thông vận thì nên dùng cận vận mà không nên dùng viễn vận. Viễn vận và cưỡng vận không hay, hạn chế dùng.

Luật bất luận trong thơ Đường luật chính thể
Người xưa đã nghiên cứu, cân nhắc rất kỹ càng chu đáo khi đặt ra luật thơ chính luật cho thơ Đường luật. Theo chính luật thì bài thơ sẽ có âm điệu du dương trầm bổng đọc hoặc ngâm nga rất êm tai truyền cảm. Thơ không phải chỉ để đọc mà còn để ngâm vịnh nữa, cho nên âm điệu rất quan trọng vì nó tạo ra nhạc tính cho bài thơ. Do đó người ta nói trong thơ có nhạc trong nhạc có thơ là bởi lẽ đó. Bài thơ mà không tuân theo thanh luật tức là luật về âm thanh hay nói khác đi nếu bài thơ mà không tuân theo luật thơ khi đọc lên thì nghe rất chỏi tai, ngâm vịnh thì bị chỏi miệng trẹo lưỡi mà trong thơ gọi là khổ độc.
Tuy nhiên trong một vài trường hợp đặc biệt, có những chữ không thể sửa đổi để khép vào khuôn khổ của luật thơ (chính luật) được. Đó là những chữ thuộc về thành ngữ, điển tích, chuyên ngữ, thuật ngữ, danh từ riêng ... Vì vậy mà người ta đặt thêm luật bất luận để áp dụng cho những trường hợp đặc biệt này. Nhưng luật bất luận cũng có sự qui định chặt chẽ phải tuân theo một cách nghiêm ngặt không thua gì chính luật.
Một vài thí dụ về thành ngữ, điển tích, chuyên ngữ, thuật ngữ, danh từ riêng không thể sửa theo chính luật được, như sau:

- Thành ngữ: tang điền thương hải, học tài thi mạng, tháo củi sổ lồng ...
- Điển tích: kết cỏ ngậm vành, nghiêng nước nghiêng thành, bình rơi trâm gãy ...
- Chuyên ngữ, thuật ngữ: tam bộ cửu hậu, tứ chẩn bát cương, cữu hư hoãn bổ ...
- Danh từ riêng: Mỵ Châu, Thúy Kiều, Kim Trọng, Đạm Tiên, Bá Nha, Tử Kỳ ...

So sánh đối chiếu với chính luật:

- Thành ngữ: non thề biển hẹn, quốc phá gia vong, nhà tan cửa nát ...
- Điển tích: cử án tề mi, thiên kiều bá mỵ, chim sa cá lặn, hoa tường liễu ngõ ...
- Chuyên ngữ, thuật ngữ: tứ chứng nan y, đau chân há miệng, bảng hổ danh đề ...
- Danh từ riêng: Ngưu Lang, Chức Nữ, Trương Chi, Trọng Thủy, Lưu Thần, Nguyễn Triệu ...

Vì những sự kiện đặc biệt như đã dẫn chứng trên nên luật bất luận được ra đời để áp dụng cho những từ ngữ đặc biệt không thể sửa đổi này.
Sau đây là bảng luật bất luận cho thơ Đường luật chính thể:

1. LUẬT BẰNG VẦN BẰNG:

b - B - t - T - T - B - B (vần)
t - T - b - B - T - T - B (vần)
t - T - b - B - B - T - T (đối câu 4)
b - B - t - T - T - B - B (vần) (đối câu 3)
b - B - t - T - B - B - T (đối câu 6)
t - T - b - B - T - T- B (vần) (đối câu 5)
t - T - b - B - B - T - T
b - B - t - T - T - B - B (vần)


2. LUẬT TRẮC VẦN BẰNG:

t - T - b - B - T - T - B (vần)
b - B - t - T - T - B - B (vần)
b - B - t - T - B - B - T (đối câu 4)
t - T - b - B - T - T - B (vần) (đối câu 3)
t - T - b - B - B - T - T (đối câu 6)
b - B - t - T - T - B - B (vần) (đối câu 5)
b - B - t - T - B - B - T
t - T - b - B - T - T - B (vần)


Ghi chú quan trọng:

- Những chữ viết hoa đứng ở vị trí 2-4-5-6-7 của mỗi câu bắt buộc phải giữ theo đúng chính luật.
- Những chữ viết thường đứng ở vị trí thứ 1-3 không bắt buộc phải giữ đúng theo chính luật. Tuy nhiên chỗ mà theo chính luật là trắc ta làm ra bằng thì không sao nhưng chỗ mà theo chính luật là bằng thì không nên làm ra trắc. Riêng chữ thứ 1 có thể linh hoạt hơn, gặp chỗ là bằng cũng có thể làm ra trắc nếu không thể tìm ra chữ khác hay hơn để thay thế. Trường hợp bất khả kháng, đối đế lắm cũng có thể áp dụng cho chữ thứ 3 giống như chữ thứ 1, nghĩa là đáng lẽ bằng mà vì kẹt phải làm ra trắc. Tuy nhiên không nên lạm dụng luật bất luận mà làm bài thơ trắc trở không êm tai.
Bằng là suông sẻ, trắc là trắc trở, vì vậy chỗ đáng trắc mà làm ra bằng thì suông sẻ, nhưng chỗ đáng bằng mà làm ra trắc thì trắc trở, không nên.
Bài thơ thí dụ làm mẫu để minh hoạ cho luật bất luận:

1. Luật trắc:

Tôn Phu Nhân Qui Thục
(Bài xướng)

Cật ngựa thanh gươm vẹn chữ tòng
Ngàn thu rạng tiết gái Giang đông
Lìa Ngô bịn rịn chòm mây bạc
Về Hán trau tria mảnh má hồng
Son phấn thà cam dày gió bụi
Má hồng chi để thẹn non sông
Ai về nhắn với Chu Công Cẩn
Thà mất lòng anh đặng bụng chồng

Tôn Thọ Tường


2. Luật bằng:

Tôn Phu Nhân Qui Thục
(Bài hoạ)

Cài trâm sửa áo vẹn câu tòng
Mặt ngả trời chiều biệt cõi đông
Khói toả đồi Ngô ùn sắc trắng
Duyên về đất Thục đượm màu hồng
Hai vai tơ tóc bền trời đất
Một gánh cang thường nặng núi sông
Anh hỡi Tôn Quyền anh có biết
Trai ngay thờ chúa gái thờ chồng

Phan Văn Trị

Ghi chú: đây là 2 bài thơ xướng hoạ nổi tiếng trong văn học sử Việt Nam, chúng ta nhận thấy tác giả áp dụng luật bất luận đúng y như trong phần giải thích ở trên, và dùng cũng rất hạn chế.
Users browsing this topic
Guest (2)
Forum Jump  
You cannot post new topics in this forum.
You cannot reply to topics in this forum.
You cannot delete your posts in this forum.
You cannot edit your posts in this forum.
You cannot create polls in this forum.
You cannot vote in polls in this forum.