Welcome Guest! To enable all features please Login or Register.

Notification

Icon
Error

5 Pages<12345>
Nguyễn Ngọc Tư
Song Anh
#41 Posted : Monday, March 20, 2006 9:40:01 PM(UTC)
Song Anh

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 1,004
Points: 18

S.A cũng " mê " N.N.Tư như Anh Ba vậy, xin phép cho S.A đưa thêm bài này lên nha :

Cánh đồng bất tận

1.

Con kinh nhỏ nằm vắt qua một cánh đồng rộng. Và khi chúng tôi quyết định dừng lại, mùa hạn hung hãn dường như cũng gom hết nắng đổ xuống nơi này. Những cây lúa chết non trên đồng, thân đã khô cong như tàn nhang chưa rụng, nắm vào bàn tay là nát vụn. Cha tôi tháo cái khung tre chắn dưới sàn ghe, bầy vịt lúc nhúc chen ra, cuống quýt, nháo nhào quẫy ngụp xuống mặt nước váng phèn. Một lớp phèn mới, vàng sẫm quánh lại trên bộ lông của những con vịt đói, nhớp nháp bám trên vai Điền khi nó trầm mình bơi đi cặm cọc, giăng lưới rào bầy vịt lại. Tôi bưng cái cà ràng lên bờ, nhóm củi.

Rồi ngọn lửa hoi hót thở dưới nồi cơm đã lên tim, người đàn bà vẫn còn nằm trên ghe. Ngay cả ý định ngồi dậy cũng xao xác tan mau dưới những tiếng rên dài. Môi chị sưng vểu ra, xanh dờn. Và tay, và chân, và dưới cái áo mà tôi đã đắp cho là một cái áo khác đã bị xé tả tơi phơi những mảng thịt người ta cấu nhéo tím ngắt.

Và những chân tóc trên đầu chị cũng đang tụ máu. Người ta đã lòn tay, ngoay chúng để kéo chị lê lết hết một quãng đường xóm, trước khi dừng chân một chút ở nhà máy chà gạo. Họ giằng ném, họ quăng quật chị trên cái nền vương vãi trấu. Vai nữ chính, một người đàn bà xốc xếch đã lạc giọng, đôi lúc lả đi vì ghen tuông và kiệt sức. Nhưng đám đông rạo rực chung quanh đã vực tinh thần chị ta dậy, họ dùng chân đá vói vào cái thân xác tả tơi kia bằng vẻ hằn học, hả hê, quên phứt vụ lúa thất bát cháy khô trên đồng, quên nỗi lo đói no giữa mùa giáp hạt. Cuộc vui hẳn sẽ dài, nếu như không có một ý tưởng mới nảy ra trong cơn phấn khích. Họ dùng dao phay chạt mái tóc dày kia, dục dặc, hì hục như phạt một nắm cỏ cứng và khô. Khi đuôi tóc dứt lìa, được tự do, chị vùng dậy, lao nhanh xuống ghe chúng tôi như một tiếng thét, lăn qua chân tôi, đến chỗ cha, làm đổ những bao trấu cha vừa mới xếp.

Đám người ngơ ngác mấy giây để chấp nhận việc con mồi bỏ chạy. Tôi mất mấy giây để háo hức thấy mình nghĩa hiệp như Lục Vân Tiên, tôi lồm cồm xô ghe dạt khỏi bờ, sợ hãi và sung sướng, tôi cầm sào chống thục mạng ra giữa sông, mắt không rời đám người đang tràn ra mé bờ chực lao xuống, nhảy nhót điên cuồng. Rồi tiếng chửi rủa chói lói chìm đi, tiếng bầy vịt tao tác kêu dưới sạp chìm đi, trong tôi chỉ có âm thanh của chiếc máy Koler4 nổ khan, rung bần bật dưới tay Điền, khạc ra những đám khói khét lẹt, đen ngòm. Khói trôi về phía sau chúng tôi, mờ nhoè những bóng người đang tuyệt vọng ngó theo, bàn tay nào đó cầm nắm tóc của chị vẫy lên phơ phất phơ phất …

Cha tôi không đóng vai trò gì trong cuộc tháo chạy ấy, ông im lặng, khi đã đi khá xa, cha ra đằng mũi cầm sào. Tôi bò vào trong ghe, lấy áo đắp lên người chị, sao cho che được đôi vú rách bươm và khoảng đùi rướm máu. Chị cười mếu máo, nói cảm ơn bằng mắt và thiếp đi.

Suốt một quãng đường, chị không hề thay đổi thế nằm, im lìm, lạnh ngắt như người chết. Trong ghe chỉ trôi mênh mang những tiếng rên khi dài, khi ngắn, khi thiu thỉu buồn xo, lúc nghe như tiếng nấc nghẹn ngào…

Nhờ vậy mà chúng tôi biết chị còn sống, để đi với chúng tôi gần hết con sông Bìm Bịp, đến cánh đồng hoang vắng này. Điền hơi lo lắng khi nghe chị vẫn còn rên rỉ, nghĩ là chị đã đói, nó hối tôi nấu cơm mau. Nó thấy tiếc vì trên ghe chỉ còn mấy con khô sặt mặn chát, “tui nuốt còn không vô, nói chi…”

Nhưng chiều hôm đó và cả ngày sau, chị không ăn. Chị từ chối cả uống nước, đợi đôi môi khô đã bắt đầu nứt ra, chị mới chịu hớp một vài ngụm ít ỏi, dường như chỉ đủ ướt môi. Đói và khát, nhưng chị còn sợ đau hơn. Người ta đã đổ keo dán sắt vào cửa mình của chị…

Tôi nói lại với cha và Điền trong bữa cơm. Tôi nghe hai người lặng đi, tiếng đũa tre khua vào miệng chén ngưng bặt. Điền ngó tôi và tôi thì đọc được sự ghê sợ, kinh tởm cồn lên trong mắt cha. Điền chan nước vào chén, lua vội vàng rồi men theo con đường đất dọc mé kinh, nó đi vào trong xóm. Tôi dặn vói theo, ghé tiệm mua giùm ngàn rưỡi đường cát.

Chắc gió đã bạt mất lời tôi, khi quay về, Điền không mang theo gì, nó lẳng lặng xòe tay trước mặt tôi, tay nó dính một lớp gì đó, bóng mượt, trong suốt, và đang khô quánh lại, khiến những ngón tay đơ ra như đá. Điền bảo, “Keo dán sắt…”. Dường như những người sản xuất ra loại keo này cũng không ngờ nó nhiều công dụng đến thế. Hai chị em tôi tỉ mẩn lột lớp keo ra, mảng da non trên bàn tay nó bỏng đỏ nhừ, tươm máu. Chúng tôi cùng ngó về chỗ khoang ghe, nghe tiếng thở thênh thang cùng gió…



2.

Cánh đồng không có tên. Nhưng với tôi và Điền, chẳng có nơi nào là vô danh, chúng tôi nhắc, chúng tôi gọi tên bằng những kỷ niệm mà chúng tôi có trên mỗi cánh đồng. Chỗ chị em tôi trồng cây, chỗ Điền bị rắn cắn, chỗ tôi có kỳ kinh nguyệt đầu tiên… Và mai này khi trôi dạt đến một nơi nào khác, nhắc đến cánh đồng này với cái tên của chị, chắc chúng tôi sẽ xốn xang.

Sáng sớm ngày thứ ba, chị ngồi dậy được, ngó quanh, chị hỏi, “Trời đất ơi, chỗ nào mà vắng tanh vậy nè”. Làng xóm xa xa đằng phía những rặng dừa xanh thẩm. Đồng đất trống trơn, trên đôi bờ kinh chơ vơ những cây gòn. Hai đứa nhỏ đầu mướt sương đang hí húi trộn thức ăn cho vịt, nhìn chị ngạc nhiên đến ngây ngất. Giọng nói chị không bị thương tích gì hết, trong vắt và ngọt ngào.

Chị hỏi “Tắm ở đâu, mấy cưng ?”. Tôi chỉ xuống kinh. Chị ngó những váng phèn, ngao ngán. Điền nói, đằng kia có một cái ao.

Đó là một hố bom cũ, bình bát mọc quanh, rau muống chằng chịt phủ kín mặt nước, cọng rau ốm nhằng, đỏ au. Chỗ này, hôm qua, Điền đã câu được những con cá thát lát ú mềm. Chị trầm mình dưới đó rất lâu, chẳng kỳ cọ gì, chỉ để nước lạnh chườm dịu lại những chỗ đau. Lúc chị lên bờ, tôi thấy máu lợn cợn theo những giọt nước nhỏ xuống giữa hai đùi, chắc chị đã làm gì với chỗ keo dán ác nghiệt ấy. Rồi cũng lâu lắc, cũng cà nhắc từng bước ngắn như lúc đi, chị với tôi quay lại bờ kinh. Điền hí hửng khi thấy chị chịu mặc chiếc áo sơ-mi thẫm phèn và cái quần cụt quăn queo của nó.

Chỉ có cha lầm lì dọn cỏ quanh chòi. Chỉ có cha là hờ hững với thành quả của hai chị em tôi. Không chấp thái độ lạt lẽo của cha, chị ngó về phía người đàn ông đang vồng lưng trong nắng sớm, chếnh choáng: “Ba mấy cưng đẹp trai dễ sợ…”.

Vì lẽ đó ? Có phải vì cha mà chị ở lại với chúng tôi, trên một cánh đồng vắng ngắt. Những vết thương đã lành rất mau. Chị cười, bị đánh hoài riết cũng quen. Tôi hỏi chị làm gì để bị đánh. Chị cười, “Làm đĩ”. Rồi có lẽ chị áy náy vì quá sỗ sàng với chúng tôi, chị vò đầu Điền “chắc mấy cưng không biết đâu…”.

Điền nhìn tôi cười. Chúng tôi đã gặp nhiều, rất nhiều người phụ nữ giống chị. Cứ mỗi mùa gặt, họ lại dập dìu trên đê, lượn lờ quanh lều của những thợ gặt, những người đàn ông giữ lúa và bọn nuôi vịt chạy đồng. Họ cố làm ra vẻ trẻ trung, tươi tắn nhưng mặt và cổ đã nhão, nhìn kỹ phát ứa nước mắt. Đêm đến, sau các đụn lúa, họ thả tiếng cười chút chít, tiếng thở mơn man… lên trời, làm nhiều người đàn bà đang cắm cúi nấu cơm, cho con bú trong lều thắt lòng lại. Tối nào mua rượu cho cha, chúng tôi cũng đi ngang qua những đôi người. Chúng tôi nhận ra họ ngay, khi không còn mảnh vải nào trên người họ vẫn điềm nhiên cười khúc khích và uốn éo thân mình chứ không trơ ra ngượng ngịu, cam chịu như những người phụ nữ quê. Sáng sau, họ xiêu xiêu biến mất, đem theo mớ tiền công ít ỏi suốt một ngày làm việc quần quật của đám đàn ông.

Chị, cũng giống như họ, chớm tàn tạ, đói rã ruột ở thị thành mới chạy xuống quê, cất cái quán nhỏ, giả đò buôn bán bánh kẹo lặt vặt, thực chất là làm nghề. Ở đó đàn ông dễ tính và thiệt thà. Chị sống nhờ những món tiền họ cắm câu đêm đêm, bằng tiền bán lúa, dừa khô hay những buồng chuối chín. Cũng có lúc thu hoạch bất ngờ, khi chị mồi chài một người đàn ông vào trò chơi giường chiếu, suốt hai ngày đêm, và chị được một triệu hai. Đó là vốn vay xoá đói giảm nghèo, khi về tới nhà, với tám trăm ngàn còn lại trong túi, hẳn người đàn ông ấy não nề biết bao nhiêu, oán chị biết bao nhiêu khi thấy vợ con nheo nhóc bu quanh nồi khoai luộc trong nhập nhoạng nắng chiều.

- Ăn trên mồ hôi nước mắt của người ta nên lâu lâu bị đánh cũng đáng đời, hen mấy cưng ?

Chị nói, và ngã nghiêng cười, dường như chị thấy mình trả giá vậy cũng vừa. “Mà hên nghen, nhờ vậy mà gặp được mấy cưng, được ở chung vầy, vui thiệt vui...”.

Cha không vui, vì có thêm một miệng ăn. Bầy vịt cũng không vui, chúng mổ vào chân chị mỗi khi chị bước qua rào, “bà ở đây làm chi để phần ăn của tụi tui bị xén bớt, trong máng độn toàn là trấu ngán thấy ông thấy cha, đã vậy còn bắt tụi tui đẻ trứng để nuôi bà”. Chị nhảy xổm ra, la oai oái, sau lại cười (mà con mắt đung đưa phía cha) “mai mốt mấy con vịt quỷ này sẽ khoái chị, mấy hồi…”.

Nhưng tôi và Điền biết thể nào chị cũng ra đi, trong mỏi mòn. Quãng thời gian chị bên chúng tôi, vì thế cũng mong manh. Nhiều khi lùa vịt ăn mót một đỗi đồng, nghĩ chị bỏ đi, Điền thảng thốt chạy về.

- Mấy cưng thương chị thiệt hả ? Tội chưa… !?? ”.

Chị ngạc nhiên, thấy nước mắt ràn rụa trên má thằng Điền (mà chị không biết là nó bị bệnh chảy nước mắt sống từ hồi chín tuổi). Thật cảm động khi đời đánh ta tả tơi bầm dập, vậy mà hai đứa nhỏ này lại trìu mến, quyến luyến lạ lùng. Thêm một lý do nữa để chị ở lại với chúng tôi, trong một mùa hạn nóng bỏng, bất thường.

Mùa đến sớm. Vì vậy mà nắng rất dài. Mới rồi, chúng tôi dừng chân ở một xóm nhỏ bên bờ sông lớn mênh mang. Mỉa mai, người ở đây lại không có nước để dùng (như chúng tôi đi trên đất dằng dặc mà không có cục đất chọi chim). Người họ đầy ghẻ chóc, những đứa trẻ gãi đến bật máu. Họ đi mua nước ngọt bằng xuồng chèo, nín thở để nước khỏi sánh ra ngoài vì đường xa, nước mắc. Buổi chiều đi làm mướn về, họ tụt xuống ao tắm táp thứ nước chua lét vì phèn, rồi xối lại đúng hai gàu. Nước vo cơm dùng để rửa rau, rửa rau xong dành rửa cá. Con nít ba tuổi đã biết quý nước, mắc lắm cũng ráng chạy ra vườn đái vô chậu ớt, chậu hành (báo hại cây rụi lá). Ở đó, có người con trai bảo, “ước làm sao trước lúc má tui chết, bà được tắm một bữa đã đời”. Câu nói này làm tôi thương anh ta quá chừng. Hôm tôi đi, anh tần ngần đứng bên hè, hỏi nhỏ “Không biết em có muốn ở lại với… má tui?!”. Tôi lắc đầu, hai gàu nước ít ỏi của má anh, tôi nỡ nào sẻ nửa ?

Tôi giục cha rời khỏi cái xóm tàn tạ đó. Những cánh đồng chúng tôi qua, lúa chết khô khi mới trổ bông. Người ta không thể trồng đậu, trồng dưa vì thiếu nước. Bầy con nít giỡn nhoi trên những con kinh khô trơ lòng.

Chỗ chúng tôi cắm lều cầm vịt, nước đã sắc lại thẫm một màu vàng u ám. Nhưng chúng tôi chẳng có chỗ nào để đi nữa, từ bờ bên kia của sông Bìm Bịp là vùng đệm cho những cánh rừng tràm lớn. Mùa này, người ta lấy nước từ tất cả các dòng sông nhỏ, các con kinh để bơm vào rừng, chống cháy. Chúng tôi cũng không thể ngược sông Bìm Bịp băng qua vùng Kiên Hà, ở đó họ kiểm dịch thú y rất gắt gao. Và dịch cúm gia cầm nghe đâu vẫn còn bùng phát khắp đồng bằng.

Để bầy vịt khỏi bị chôn sống (điều đó đồng nghĩa với việc đứt vốn cho mùa sau), bọn tôi quyết định vẫn cầm chúng ở đây. Chúng được nuôi trong sự mỏi mòn. Ngày ngày, tôi lùa vịt đi ăn mót những bông lúa khô quắt queo trên đồng, không có nước chúng bì bạch, chậm rì và chẳng thể đi xa. Trứng thưa thớt, những quả trứng chúng đẻ ra cũng chai ngắt, dài nhằng, nhẹ tênh, vỏ dày sần sượng. Đòi hỏi gì nữa ở những con vịt đã già, đã đẻ quần quật suốt ba mùa trước, đã vô vọng vì ngày càng khó tìm lúa và cám trong máng thức ăn. Ngay cả nước để chúng tắm táp cũng chua lét vì phèn.

Mà, mùa mưa vẫn còn xa lắm.

Ngày ngày, Điền rủ chị đi giăng lưới, nhắp cá và tát những cái mương cạn. Cá ăn không hết, chị đem vô xóm bán và hãnh diện đưa cho cha vài mươi ngàn thừa sau khi đã sắm ít quần áo. Mắt chị nhìn cha đầy khiêu khích, “Cuộc đeo đuổi vẫn còn dài, cưng à…”.

Chị đổ lì. Chị tìm mọi cách để sà vào cha. Một bữa chị bảo Điền xuống ghe ngủ với tôi, còn chị sẽ lên chòi. Đó là một đêm tối nhờ nhờ, trôi trên trời một mảnh trăng mỏng leo lét. Điền ngọ nguậy, xoay trở liên tục, nó kêu khó ngủ, đòi nghe tôi hát, bài gì cũng được. Nhưng Điền vẫn thao thức, dường như giọng hát tôi không át được tiếng sột soạt rạo rực trong cái chòi nhỏ trên bờ. Điền chê ngủ ghe chòng chành quá chừng. Tôi biết lòng nó đang chao.

Điền có những ngày bối rối. Nó hay hỏi tôi, “người ta thương mẹ ra làm sao?”. Mặt nó dãn ra, khi biết cây kẹp tóc, trái dừa tươi hay con cá thác lác… mà nó dành cho chị cũng giống hệt như người ta vẫn thường cho mẹ. Và niềm nhớ lúc đi xa, nỗi khao khát được nằm gần, được dụi mũi mình vào da thịt người đó… cũng tự nhiên như ý nghĩ bình thường nhất của những đứa con. Nhưng những nghi hoặc vẫn loay hoay trong mắt Điền, và nó quyết định chịu đựng một mình, khám phá một mình. Thí dụ như đêm nay, cái gì khiến tim ta đau nhói, cái gì làm cho ta cảm thấy giận dữ, nặng nề ?

Khi tôi thức dậy, Điền đã mệt mỏi thiếp đi, nó nằm co quắp, hai tay kẹp giữa đùi, mặt buồn như phủ một lớp sương giá. Chị bước ra khỏi chòi, khoan khoái vươn vai. Sự ưng ý, mãn nguyện lấp lánh trên khoé mắt. Khuôn mặt chị tràn ngập ánh sánh, như chị vừa mở ra một cánh cửa mặt trời. Có một con đường nào đó trãi dài trước chị. Chị cười, bảo :

- Hồi hôm sương nhiều ghê, nó nhiểu lên mặt chị hoài, nhột gần chết.

Rồi chị giành nấu cơm. Chị xoắn tay áo lên hì hụi thổi lửa, đầu tóc xấp xãi dính đầy vảy cá. Trông chị như bà vợ tảo tần. Hình ảnh ấy làm tôi ứa nước mắt, nhưng cha tôi chỉ lạt lẽo nhếch cười. Vì cái cười đó mà tôi ứa nước mắt thêm lần nữa.

Cha đưa chị một ít tiền ngay trong bữa cơm, khi nhà đủ mặt, “Tôi trả cho hồi hôm…”. Rồi cha điềm nhiên phủi đít đủng đỉnh đứng lên, sự khinh miệt và đắc thắng no nê trong mắt. Chị nhét tiền vào trong áo ngực, cười, “Trời ơi, ba mấy cưng sộp quá chừng”.

Điền và tôi rủ chị đi câu (Chúng tôi cho là chị buồn, dù chuyện đó khá tức cười, làm điếm được trả tiền mà buồn nỗi gì). Suốt buổi, không dính con cá nào, chị nói, “Mắc cười quá, tới mấy con cá quỷ này còn chê chị”. Câu nói nghe tỉnh bơ, bâng quơ mà tủi vô phương. Điền lặng bắt con cá rô lội xuống mương, lặn sâu, móc cá vô lưỡi câu của chị. Lúc nó trồi đầu lên thì đã thấy chị cười.

Trưa ấy chúng tôi trầm nghịch dưới nước rất lâu. Chị cười nôn khi thấy bùn bám dưới mũi tôi xám xanh như bộ râu củ ấu. Tự dưng nét mặt chị bỗng âu yếm lạ, như đang nựng nịu một đứa bé con và thằng em trai mười bảy tuổi của tôi đứng đực ra, chết lặng trong nỗi ngượng ngùng. Nước cồn cào chỗ bụng nó, tôi biết chị đang táo tợn làm gì đó phía dưới. Rồi phát hiện ra một mất mát lớn lao, chị thảng thốt kêu lên :

- Trời đất ơi, sao vầy nè, cưng ?

Chị toàn hỏi những câu hỏi khó. Chỉ nghe thôi đã đau, nói chi trả lời. Thí dụ như có lần chị hỏi “Má mấy cưng đâu ?”, “Nhà mấy cưng ở chỗ nào ?”, thằng Điền đổ quạu :

- Biết chết liền!


3.


Những chiều ghe chúng tôi đi ngang qua những người đàn bà ngồi giặt giũ dưới bến sông, tôi hay hỏi lòng, có phải tôi vừa ngang qua má đó không. Tôi cố giữ trong lòng hình ảnh má nhưng rồi ngày càng tuyệt vọng khi thấy nó nhạt nhòa dần, cứ nghĩ mai này gặp lại mà không nhận ra nhau, lòng nghe buồn thiệt buồn.

Má tôi hay mang xoong chảo ra bực sông chùi lọ nghẹ, sẵn đón ghe hàna(bông mua ít rau cải tươi và bán lại những quày chuối chín bói trong vườn. Dần dần, buổi chiều, đám thương hồ hay lại neo ghe chỗ mấy cây mấm trước nhà. Một người bảo không sao xa được người đàn bà có cái cười làm lấp lánh cả khúc sông. Má tôi nguýt dài :

- Dóc…

Người đàn ông cười hề hề, thề “ Tôi nói láo cô Hai cho xe đụng chết ngắc” (Ngay lập tức, Điền thì thầm, “thằng chả ở dưới ghe kiếm đâu ra chiếc xe, nói dóc…”, và bằng cái vẻ ác cảm lạ lùng, thằng Điền biểu tôi nhìn khuôn mặt và tấm lưng trần chi chít những nốt ruồi của ông ta, bảo “Tại hồi đó má ổng mới sanh ổng ra quên lấy lồng bàn đậy, nên ruồi bu tùm lum”).

Cho dù người đàn ông ấy có quá nhiều nốt ruồi, cho dù chẳng cao ráo, đầu ít tóc… nhưng với chiếc ghe chở đầy vải vóc, những người đàn bà lam lũ quê tôi vẫn thường trông ngóng ông ta. Tất cả họ đều trở thành trẻ thơ khi bước chân lên ghe, họ tíu tít, háo hức, họ thèm muốn đến bồn chồn rồi dùng dằng trở lên bờ với tâm trạng tiếc nuối, ngậm ngùi, thấy mình già khi ngang qua bồ lúa vừa hót bớt một lỏm, thằng cha bán vải lấy mấy giạ mà như khứa một ít tuổi xuân đi. Cả đời, cái bồ lúa luôn làm lòng họ đau đáu, khi nghĩ tới bệnh tật, chuyện cất lại cái nhà, hay dựng vợ gã chồng cho con cái.

Bồ lúa nhà tôi đã cạn từ sau Tết. Điều đó làm má tôi hơi buồn, nhưng người bán vải xăng xái bảo, “Cô Hai cứ coi đi, không mua cũng được – rồi ông ta sửng sốt khi thấy má rạo rực khi ướm thử những khúc vải rực rỡ lên người – Chèn ơi, coi nó bình thường vậy mà khoác lên mình cô Hai lại thấy sang quá trời”. Má bỗng nhiên thắc thỏm :

- Dóc…

Tôi chưa bao giờ thấy cái màu đỏ lạ lùng ấy. Đỏ hơn bông bụp ngoài sân, đỏ hơn máu. Má ngó chúng tôi, hỏi: “Gì mà nhìn trân trân vậy hai đứa ?”. Tôi nói, “Má lạ quá hà, nhìn không ra”. Má mừng quýnh, “Thiệt hả ?”. Tôi muốn khóc quá chừng, má con xa lạ với nhau mà sao lại mừng ?

Một bữa tôi chiêm bao, chẳng đầu chẳng cuối gì, chỉ thấy vía má giãy dụa trong tấm vải đỏ lạ lùng kia nhưng nó thít chặt, riết lấy, siết dần cho tới khi má thành một con bướm nhỏ, chấp chới bay về phía mặt trời. Giật mình thức dậy mới hay mình ngủ quên trong kẹt bồ lúa, con chó Phèn ngoài hè nôn nóng cào đất rột rẹt chỗ cái lổ chui (Chắc má tưởng hai chị em tôi đi chơi nên chốt cửa trước cửa sau mất rồi). Mà Điền ngồi ém ngay đó, lì ra, không cục cựa, mình nó mướt mồ hôi, không có vẻ gì là nó đang khóc, nhưng nước mắt chảy ròng ròng. Tôi ôm đầu nó, giấu ánh nhìn của nó vào ngực mình.

Đứa mười tuổi quay lưng lại, đứa chín tuổi úp mặt vô áo chị nó, nhưng cả hai vẫn như thấy rõ ràng, trên chiếc giường tre quen thuộc, má oằn uốn người dưới tấm lưng chơm chởm những nốt ruồi. Họ cấu víu. Vật vã. Rên xiết.

Đó là hình ảnh ấn tượng cuối cùng của má tôi trên nền một cái nhà nhỏ, đằng trước có bộ bàn chữ U, bộ vạc tre, rồi đến một cái bồ lúa nhỏ dựng gần giường ngủ, và gian bếp thấp. Quanh hè, dài theo những lối đi ra vườn, ra bến là những cục đá tảng, những thân dừa chẻ hai, cha tôi đã hì hục lót để suốt một mùa mưa, chân má tôi không bị dính sình bùn.

Suốt nhiều năm sau đó, tôi không dám nhớ má, bởi ngay vừa khi nghĩ đến má, ngay lập tức hình ảnh ấy hiện ra. Theo đó là rực rỡ trên da thịt màu vải má tôi vừa đổi được (không phải bằng tiền, hay lúa). Mà, đáng lẽ phải nhớ tới khúc má nằm võng hát đưa mình ngủ ấy, hay đoạn má ngồi giặt áo bên hè, hay má cúi đầu giữa vầng khói mơ màng, thổi lửa bếp ung…

Má có rất nhiều hình ảnh đẹp, và cả khuôn mặt lo lắng của má khi chiều ấy vẫn còn đẹp, nhìn thấy nước mắt không ngừng tuôn rơi trên mặt thằng Điền, má thảng thốt hỏi : “Mèn ơi, mắt con sao vậy ?. Tôi trả lời, day day chậm rãi, “Chắc tại nó nhìn thấy chuyện bậy đó, má. Trưa nay nó ngủ kẹt bồ lúa”. Má chết lặng nhìn tôi, cái nhìn như lịm đi trên khuôn mặt đẹp não nề. Không thể giải thích vì sao tôi lại hể hả.
Và tôi luôn nghĩ rằng chính vì câu nói đó mà má tôi ra đi.

Tôi chạy qua nhà hàng xóm, nói với thím Tư rằng má đi mất tiêu rồi. Cả xóm tưng bừng, kẻ mừng vì vợ mình chưa bỏ theo trai, người vui vì con đàn bà đẹp nhất xóm đã đi rồi, khỏi lo ông chồng suốt ngày thòm thèm dòm ngó, cũng có người buồn, ghe vải chắc chẳng quay lại xóm này. Mọi người bàn ra tán vào, xôn xao, bắt tôi nhớ lại coi trước lúc đi má tôi có hành động gì đặc biệt mang tính dự báo không? Chuyện này quan trọng lắm, nó cho người ta tự kiểm tra trình độ trải nghiệm, suy đoán. Thí dụ như nhà nào có người mới mất họ kêu lên, hèn chi đêm trước có nghe chim cú kêu, thê thiết lắm. Thí dụ như nhà nào bị mất trộm, họ bảo nhau, hồi hôm tui nghe tiếng chó sủa thiệt kỳ, là tui nghi rồi… Nhưng chuyện ra đi của má tôi không mấy ly kỳ...

- Hồi chiều má con không nấu cơm…

- Vậy sao ?

- Má con nằm trên giường thở dài…

- Vậy hả ? Thở ra làm sao ?

Tôi hết biết tả. Tiếng thở thườn thượt, nghe buồn mênh mông, chảy từng giọt như nước mắt. Má tôi thở dài khi ghe cha ghé bến vì biết mai mốt cha lại đi. Má tôi thở dài khi tắm, khi nước trôi dài trên làn da trắng như bông bưởi. Lúc ngồi vá những bộ quần áo cũ. Mỗi lần ghe vải ghé trước bến, má cũng thở dài, tay bối rối nắn vào hai túi áo mỏng kẹp lép. Thở dài cả khi thằng Điền bảo cho con xin tiền mua kẹo, má ơi.

Mọi người không thất vọng, họ cho thời gian lùi lại xa xa, thì ra cũng đã có điềm báo trước mối nhân duyên này tan rã, ngay cái bữa đầu tiên, ngay lần gặp đầu tiên. Má tôi ngồi khóc bên bực con sông Dài, cha tôi chèo ghe đi ngang, đã qua khỏi một quãng nhưng vì mủi lòng, cha quay mũi lại. Cha hỏi, cô về đâu tôi cho quá giang. Má tôi ngước lên, mặt ràn rụa nước, “tôi cũng không biết về đâu”. Cha tôi chở người con gái tội nghiệp này về nhà, và trong thời gian suy nghĩ tính coi mình đi đâu, má yêu cha mất rồi, sau đấy thì đẻ hai chị em tôi. Rõ ràng, quá rõ ràng, thấy chưa, má tôi chỉ quá giang một khúc đời rồi đi, ai cũng linh tính vậy, chỉ cha tôi là không, nên bây giờ mới khóc hận, cười đau.

Tới đây thì hết chuyện nói, hàng xóm ra về. Giống hệt như vừa tan đêm hát, họ xì xào đi vào trong đêm, tiếng chó sủa rộ lên dài theo những con đường xóm. Tôi và Điền nằm nhìn trân tráo lên nóc mùng, nghe gió hui hút trên những ngọn tre già bên hè. Một hồi, thím Tư qua, thím kêu hai chị em tôi qua nhà thím ngủ.

Sáng sau, thím đi chợ, tới bến tàu, cho hay “Vợ Út Vũ bỏ nhà. Theo trai” Ông chủ chiếc đò chạy tuyến Hưng Khánh nói lại với mấy bà bạn hàng, và chiều lại cha tôi mới nhận được lời nhắn ấy khi đang lên đòn dong cho một ngôi nhà gần chợ Hội. Nghe nói cha tôi còn cười, giọng ra vẻ giận, “Bộ hết chuyện giỡn rồi sao, cha nội ?”. Có vẻ khó tin, khi một người nghĩ rằng, chỉ cần mình hết lòng yêu thương, gánh hết sự kiếm sống nhọc nhằn thì sẽ được đền đáp xứng đáng. Có vẻ buồn cười… Và cha tuột xuống đất, run rẩy…

Quãng hành trình về nhà có vẻ rất dài và khắc nghiệt, nó vắt kiệt cha tôi. Cha cười cay đắng, khi thấy quần áo má còn treo trong nhà, còn cả cái khăn tắm và đôi dép Lào cũ, như thể má đang chơi bên xóm, chỉ cần thằng Điền kêu má sẽ xấp xãi chạy về, mừng húm hỏi “Đi chuyến này nữa là đủ tiền mua ti vi màu, phải hôn anh ?”.

Coi kỹ thì má không đem theo gì. Chi tiết đó làm đau lòng người ở lại, nó cho thấy người đi đã chẳng suy nghĩ, đắn đo, đã không một chút trù trừ, chỉ rũ mình cái rột, sạch trơn, vậy thôi.

Cha đem tất cả đồ đạc của má đem đốt. Khói bay mù mịt trong nhà, mùi vải, mùi nhựa cháy khét lẹt, những cái áo hồng áo tím rúm ró lại, chảy thành những giọt tro. Cha nhìn ngọn lửa, mặt đanh lại, rồi mắt bỗng rực lên, ngây ngất vì một ý nghĩ mới lạ.

Chúng tôi dong ghe đi, quặn lòng ngoái lại căn nhà đang quay quắt dãy dụa trong lửa đỏ. Nghe vẳng theo âm thanh lốp bốp rất giòn của những thanh gỗ cháy, và tiếng xóm giềng í ới gọi nhau. Chắc chắn sẽ có người vỗ đùi cái đét, “Hồi hôm qua, ngó cái mặt u ám của Út Vũ, tui nghi thể nào thằng chả cũng đốt nhà. Nghi đâu có đó, thiệt là y như để vậy, các cha”.

Kể nhiều chuyện như vậy là để trả lời chị, nhà tôi, má tôi, rốt cuộc đã trở thành tro bụi mất rồi. Nên khi hết mùa lúa chín, những người nuôi vịt chạy đồng khác đã trở về nhà còn chúng tôi lại tiếp tục lang thang.

Đàn vịt đưa chúng tôi đi hết cánh đồng này đến cánh đồng khác. Đôi khi không hẳn vì cuộc sống, chúng là cái cớ để chúng tôi sống đời du mục, tới những chỗ vắng người. Ở đó, ít ai phát hiện ra sự khác thường của gia đình tôi, và ít hỏi cái câu, “Má mấy đứa nhỏ đâu?”. Để cha phải buột lòng nói “chết rồi!” và cười lạt khi nghe người nào đó kêu lên : “Mèn ơi, tội hai đứa nhỏ hôn”.



4.

Lần đầu tiên hai chị em tôi lạc giữa đồng. Cơn mưa buổi xế chiều làm tắt rụi ánh mặt trời, và đêm tối nhanh chóng ập xuống. Mưa giăng bốn bề, những rặng vườn trở nên xa vời, mờ mịt, căn lều và chiếc ghe của mình nằm ở phía nào vậy ta, Điền hoang mang hỏi. Chúng tôi lội xom xom xuống một mé vườn và rã rời tuyệt vọng xua bầy vịt quay ra. Cha tôi đã bỏ về ghe từ giữa trưa, có thể cha đã uống rượu say và ngủ mất tiêu. Có thể cha còn thức nhưng cha không đi tìm. Khóc đã đời, một hồi, thấy trời ngày càng tối, chúng tôi quyết định buông trôi, tha thểu đi theo bầy vịt, biết đâu…

May sao, chúng nhớ đường về. Khi nhìn thấy ánh đèn chong leo lét đầu ghe, chúng tôi mừng như chết đi sống lại, Điền nắm tay tôi chạy như điên, nước đồng văng sáng trắng. Bầy vịt tao tác một phen (báo hại đêm đó tụi nó nín đẻ). Cha tôi ngồi chờ bên cạnh cây roi.

Sau này, đã tự học cách định hướng bằng bằng mặt trời, bằng sao đêm, bằng gió, bằng ngọn cây… nghĩ tới lần lạc đồng, thấy cười quá chừng. Mắc cười hơn là Điền, vốn rất sành sỏi đường đi nước bước, lại bị lạc lần nữa, giữa ban ngày. Nó loay hoay ở giữa một gò đất chùm gọng leo dày mịt, không biết vô đó bằng đường nào nhưng chẳng thể quay ra, có người đàn bà bưng rổ bánh quy lại, biểu nó ăn. Đói quá, thằng Điền ngốn gần chục cái. Lúc tôi tìm được nó nhờ tiếng rên ư ử, bụng nó đã lặc lè, và miệng đầy sình đất. Quay đi quay lại không có bóng người, chỉ có cái mả lạng nằm sát đất, rời rợi cỏ xanh.

Những ngày sau này, tôi một mình trở lại gò đất, nhưng chờ hoài không thấy ma hiện ra. Nghe thằng Điền kể, người đàn bà đó thiệt hiền, chỉ đau đáu vuốt tóc nó và ánh nhìn chan chứa thương yêu. Tôi nghe mà khóc muốn chết, sao con ma đó không chịu giấu tôi giùm cái.

Rồi tôi ngồi quẹt tay lau nước mắt đi, kỹ càng, để gương mặt an nhiên, ráo hoảnh. Tôi quyết không để cha thấy mình buồn, quyết không để cha bật ra cái câu “Chịu hết nổi cái cảnh sống này rồi hả ? Chừng nào đi ?”.

Cha vẫn thường đánh chị em tôi, thường đánh khi vừa ngủ dậy. Đó là khi người ta thấy hoang hoải, chán chường, sau một giấc dài, mở mắt ra, vẫn gió đìu hiu, vẫn nắng võ vàng trên những cánh đồng hoang lạnh. Và tôi tự nhớ lại coi hồi sáng này, hồi trưa này mình đã làm gì giống má, kho cá bỏ quá nhiều tiêu? Hay vì tôi buộc tóc nhong nhỏng? Hay tại tôi ngồi bắt chí cho thằng Điền ?

Hay tại tôi càng lớn càng giống má. Có bữa, nửa đêm thằng Điền thức giấc, nhìn thấy tôi day lưng lại lui cui vá áo, nó thảng thốt kêu “Má ơi!”. Tôi cảm thấy mình thất vọng đến rã rời. Những thói quen, những cái gì liên quan đến má tôi phủi gần sạch rồi, nhưng tôi làm sao có thể từ bỏ hình hài này.

Tôi đành để cha đánh để ông bớt đau chút lòng. Sau này chị em tôi không day dứt chi cho mệt, vì hiểu thấu ra, mình bị đòn chỉ vì là con của má, vậy thôi.

Với chúng tôi, quãng thời gian ấy vẫn còn vui lắm, sau này, cha tôi chán không đánh nữa. Cha ơ thờ, lạt lẽo, chuyện gì cần nói thì nói vài câu nhát gừng. Cha giao bầy vịt cho hai đứa tôi, lúc rảnh ngồi gọt đẽo những cán dao, tấm thớt hay lẳng lặng vác cần câu đi câu cá, vừa bán được tiền, vừa khỏi phải nhìn những đứa con của một bà mẹ bạc lòng. Thành ra, cái ghe thấy nhỏ, lại rộng vô cùng tận, loay hoay chỉ ba con người, nhưng nhiều năm trôi qua, hai chị em tôi vẫn cảm thấy xa cách cha. Có lần, khi đi trên sông, thằng Điền giả đò té chìm ngỉm mất tăm, tôi giả đò kêu la chói lói, cha hơi giật mình hoảng hốt, dợm lao xuống nước, nhưng rồi cha điềm nhiên ngồi lại, tiếp tục gọt đẻo, chắc là nhớ ra thằng Điền đã lặn lội nước sông từ năm bốn tuổi, sức mấy mà chết trôi.

Chúng tôi biết là khó đòi hỏi gì hơn nữa, chỉ một chút xao lòng của cha, là mừng lắm rồi. Cha giống như đồ vật bằng gốm vừa qua cơn lửa lớn, vẫn hình dáng ấy nhưng đã rạn nứt, nên chúng tôi chỉ dám đứng xa mà nhìn, mủ mỉ nâng niu, nếu không thì vỡ mất.

Và chiếc ghe, cánh đồng, dòng sông thênh thang mãi…

Tôi và Điền buộc phải tự học lấy cách sống. Nhiều khi dễ đến không ngờ… Nhờ Điền bị rắn hổ đất cắn mà chúng tôi biết được cách phân biệt vết răng của rắn độc. Nó để lại trên cổ chân Điền một cặp vết răng như hai cái lổ nhỏ, sâu hoắm. Tất nhiên, phải nhờ người thợ gặt tốt bụng vác thằng Điền chạy một đỗi đồng để tới ông thầy lấy nọc rắn, nó mới giữ được cái mạng để rút… kinh nghiệm. Sau này, một lần băng qua một đám cỏ dày, đến lượt tôi bị rắn cắn, tôi kêu, Điền ơi, chắc Hai chết trước à. Thằng Điền nhìn vết thương nó cười, nói không sao, số Hai sống lâu lắm, hai hàng răng tươm máu giống hệt nhau như vầy, chắc cú là rắn bông súng cắn chơi thôi. Và nhìn bướm bay, nhìn mây trôi tôi biết ngày nắng hay mưa. Nghe bìm bịp kêu chúng tôi biết nước lên. Dừng ghe ở một tuyến kinh nào, thằng Điền trèo lên ngọn cây cao, ngó bao quát cánh đồng và tính toán xem có thể cầm vịt ở đấy bao lâu thì hết thức ăn, đúng chóc. Hay chúng tôi tự phán đoán ở đâu vụ mùa đến sớm, vùng nào lại trễ tràng để rời cánh đồng này, chúng tôi đến ngay một cánh đồng khác, ngay khi lúa vừa chín tới.

Thành ra, mùa du mục của chúng tôi kéo dài liên tục từ mùa mưa sang nắng, rồi lại mưa. Nhiều lúc tôi hơi nhớ con - người. Họ ở trong cái xóm nhỏ kia, chỉ cách chỗ chúng tôi dựng trại vài ba công đất. Họ lúc nhúc trên thị trấn kia, nơi chúng tôi vẫn thường ghé lại mua gạo, cám, mắm muối… dự trữ cho những chuyến chạy đồng xa. Và họ ở gần ngay đây, họ vừa gặt lúa vừa nói chuyện tục tĩu rồi cười vang bên bầy vịt đang rúc rích tìm thức ăn, nhưng tôi vẫn nhớ...

Có lẽ vì cuộc sống của họ ngày càng xa lạ, với chúng tôi. Họ có nhà để về, chúng tôi thì không. Họ sống giữa chòm xóm đông đúc, chúng tôi thì không. Họ ngủ với những giấc mơ đẹp, chúng tôi thì không. Nằm chèo queo, co rúm, chen chúc nhau trên sạp ghe, chúng tôi đánh mất thói quen chiêm bao. Điều này làm tôi và Điền buồn biết bao nhiêu, vì cách duy nhất để được nhìn lại hình bóng má cũng tan rồi. Mà, thí dụ như những cơn chiêm bao quay trở lại, chúng tôi không biết chắc là hình ảnh ấy của má có xuất hiện hay không.


5.


Mùa khô năm tôi mười ba tuổi, bầy vịt lăn ra chết gió. Để kiếm sống, cha tôi quay lại với nghề thợ mộc. Cha nhận đóng giường, tủ cho một vài nhà trong xóm Bàu Sen, chúng tôi neo ghe lại đó dài ngày.

Cái cảm giác đang ở xóm cũ (có ngôi nhà cũ) vây riết lấy chúng tôi (chữ “chúng tôi” tôi không kể cha vào). Những trưa xế ngồi ngoài hàng ba một nhà trong xóm, tôi tước lá dừa thắt cào cào châu chấu, Điền ngó nắng rưng rưng ngoài sân, nói “sao gió ở đây giống hệt gió nhà mình”. Hai đứa tôi muốn khóc.

Chị chủ nhà ngần ngại nói với cha, “Ngó mặt hai đứa con anh thấy thương quá, thấy… không bình thường”. Cha tôi cười nhẹ, “Vậy hả ? Ờ ờ…”.

Đứa con gái chị chủ nhà trạc tuổi thằng Điền, rủ chúng tôi vào nhà chơi. Nhưng nó luôn nhận được những cái lắc đầu. Chúng tôi sợ quá cái bồ lúa trong nhà, hình ảnh nó làm cả hai chị em ngạt thở. Thật lạ làm sao, khi mà chúng tôi đã quen dần với những - hình - ảnh - giống - mình (tức là bị bỏ giữa đời chơi vơi), thí dụ như nhìn một chiếc đũa gãy, cái nắp nồi vỡ, hay bầy gà con lạc mẹ nhao nhác… Nhưng không quên được, cái bồ lúa ngai ngái mùi cứt trâu, giữa nó và vách nhà là một khoảng hơi tối nhưng rất thu hút trẻ con. Chúng hay giả bộ đó là nhà của riêng chúng, để bày biện, nấu nướng, đóng vai chồng vợ, vai má con. Để lúc bị đòn, chúng cũng chui tọt vào đó, khóc một mình, nhiều khi ngủ quên luôn (và người lớn thì hãi hùng, sao không thấy đứa nhỏ đâu, nó bỏ đi về ngoại, nội? hay đã vô ý trợt chân té xuống đìa ?). Cái kẹt bồ lúa, cũng đã từng là thiên đường mơ mộng của hai chị em tôi, bẻ trái trứng cá làm cơm, muổng dừa là chén, giả đò “ăn” no, giả đò tối rồi, đi ngủ, một bữa kia chơi chán lăn ra ngủ thiệt, thức dậy bỗng thấy cuộc đời mình thay đổi quá trời đất, như đã sống qua một kiếp rồi. Nhưng chín mười tuổi đã đủ để gọi là một kiếp người chưa ?

Chúng tôi chẳng phải những đứa trẻ bình thường, cuối cùng nhỏ con chị chủ nhà cũng nhận ra, nó bỏ mặc. Nó là một đứa trẻ xinh đẹp nhưng hỗn hào, cái kỉnh, nó chẳng khi nào kêu má ơi má à, khi cần, nó chỉ cộc lốc bảo, tui đói bụng quá bà ơi. Người mẹ phân bua với cha tôi, “Tại ba nó mê theo vợ bé nên không ai dạy…”.

Chị cũng bận rộn, te tái cắp nón đi suốt, tìm ông thầy này, bà cốt kia, để thỉnh bùa chú cho ông chồng quay lại. Và mỗi khi thất bại, chị lại quả quyết là bùa của tình địch mạnh hơn. Nói như vậy dường như để cho tâm bớt đau trước sự thay lòng. Chị có cả một kho tàng về chuyện đồng cốt, những người có khả năng thấu đáo cõi âm, cõi trời và cõi người. Họ biết chữa bệnh (có thể lấy từ bụng ta ra một nùi tóc với cái lưỡi dao cạo, hay dùng hột gà luộc lăn trên da thịt ta, sau đó bẻ cái trứng ra cho ta coi một nhúm lông… chó mực), cũng biết dùng những tấm bùa được vẽ bằng máu… lưỡi để ếm chết người và cuối cùng, họ đem được người ta yêu trở lại. Chỗ này khá mắc cười, bởi tấm bùa có linh nghiệm thiệt thì người quay về cũng không phải của - mình. Những săn sóc nâng niu, những lời nói ngọt ngào… tất cả đều không thật (mình biết tỏng tòng tong là nhờ bùa ngãi chớ thương yêu gì). Và cái cười dịu dàng kia, ánh mắt ấm áp kia, nụ hôn ngọt ngào kia, vòng tay nồng nàn kia… cũng vậy. Đó là chưa kể phải thoi thóp lo âu một ngày bùa thiêng hết tác dụng, thằng đàn...
Song Anh
#42 Posted : Saturday, April 8, 2006 8:09:30 PM(UTC)
Song Anh

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 1,004
Points: 18


Mới đây S.A đọc được bài báo nói về Nguyễn Ngọc Tư bị kiểm điểm về nội dung truyện ngắn "Cánh Đồng Bất Tận"...thật là...bất ngờ và thất vọng...về cái lối suy nghĩ về văn học nước mình hiện giờ...mà tiếc cho những tài năng bị " chèn ép tư tưởng " như thế này...
Riêng đối với S.A , truyện viết sâu sắc...có một lối viết rất riêng... S.A đọc thấy có gì đâu...mà cho là "phản động"... cuộc đời đâu phải lúc nào cũng đẹp hết đâu...nếu được vậy thì mọi người đâu cần phải " chen chút " nhau xin lên Thiên đàng...phải có " cái xấu " thì mình mới nhận thức được "cái đẹp" chớ...
S.A gởi các ACE tham khảo...mong được sự góp ý của các anh chị " cầm bút " của PNV nói riêng , trong và ngoài nước nói chung....

Mời các anh chị em cùng tham khảo:



Thứ Bảy, 08/04/2006, 08:11 (GMT+7)

Cánh đồng bất tận không phản động nhưng...


Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư đang ký tặng sách cho bạn đọc - Ảnh: T.T.D.
TT - Tác phẩm Cánh đồng bất tận (NXB Trẻ) của Nguyễn Ngọc Tư ở Cà Mau đã thu hút sự quan tâm đặc biệt của bạn đọc. Nhưng mới đây, cơ quan chức năng tỉnh Cà Mau đã yêu cầu kiểm điểm nhà văn Nguyễn Ngọc Tư về những nội dung trong tác phẩm này.

Sáng 7-4, ông Dương Việt Thắng và ông Trần Văn Hiện - trưởng và phó Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Cà Mau - đã có buổi trao đổi với Tuổi Trẻ.

* Dư luận cho rằng nhà văn Nguyễn Ngọc Tư (NNT) - tác giả truyện ngắn Cánh đồng bất tận (CĐBT) - vừa bị Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Cà Mau đề nghị Hội Văn học nghệ thuật tỉnh kiểm điểm “phê phán tác giả một cách nghiêm khắc”. Điều này có không, thưa ông?

- Ông Dương Việt Thắng: Đúng là chúng tôi có buổi làm việc với lãnh đạo Hội VHNT, sau khi xem xét những vấn đề dư luận phản ánh, chúng tôi đã đề nghị có ý kiến về các mặt tích cực, hạn chế và đề nghị Hội VHNT kiểm điểm tác giả.


Ông Dương Việt Thắng
* Nhưng từ tháng 9-2005 đã có nhiều báo, tạp chí trung ương địa phương đăng tải, bình phẩm truyện CĐBT. Vậy tại sao mãi đến 27-3-2006 Ban Tuyên giáo tỉnh mới có thông báo kiểm điểm NNT, thưa ông?

- Thì ngay lúc đầu tôi có đọc cũng chưa thấy ai nói gì. Sau đó có nhiều ý kiến khen chê trái ngược nhau gọi, gửi về Ban Tuyên giáo tỉnh ủy. Ngay lúc đó chúng tôi định làm việc nhưng các đồng chí trong Hội VHNT bận việc, đồng chí chủ tịch hội bị bệnh phải phẫu thuật, phải chờ. Nhà văn NNT nằm trong biên chế của hội nên phải gặp thủ trưởng của nhà văn mới làm việc được.

Ngày 24-3- 2006 chúng tôi đã làm việc với lãnh đạo Hội VHNT gồm các đồng chí Mười Thanh (chủ tịch hội) và hai phó chủ tịch hội Lê Đình Trường, Hoàng Thêm. Đã nhận xét những ý kiến khen chê.

* Ý kiến đó thế nào, nhiều không, thưa ông?

- Sau khi CĐBT ra mắt độc giả, có rất nhiều ý kiến. Khen thì nhiều - ông Thắng cười xòa nói - nhất là khi báo Tuổi Trẻ và cả Đài truyền hình VTV giới thiệu, đăng tải. Nhưng cũng không ít ý kiến chê rất dữ.

Có độc giả Việt kiều và cả các nhà nghiên cứu phê bình văn học cho rằng đây là thứ văn chương phản động, thậm chí là chống cộng; tục tĩu dâm ô; chống lại chủ trương của Đảng và Nhà nước. Chủ yếu là chị em phụ nữ, tại vì họ giận!

* Cụ thể giận ra sao, thưa ông?

- Vùng đất tác phẩm thể hiện chủ yếu ở Cà Mau, huyện Đầm Dơi là nơi có nhiều địa danh lịch sử như Bàu Sen, đầm Bìm Bịp... Đó là ý kiến của nhiều người, trong đó có số cán bộ đã gửi về cho ngành văn hóa và cá nhân lãnh đạo tỉnh ủy, có cả dịch giả nghiên cứu văn hóa Nguyễn Kim Dân ở P.3, Q.Bình Thạnh, TP.HCM. Thể hiện ý kiến bằng các văn bản thư từ, có ý kiến còn đề nghị tổ chức hội thảo nữa.

* Ông đánh giá ra sao về nội dung ý kiến của độc giả?

- Qua buổi làm việc (với Hội VHNT tỉnh) đã có ý kiến thống nhất: nói truyện ngắn CĐBT là phản động và chống cộng là không phải. Chúng tôi không cho là như vậy, không thể qua một truyện ngắn, một tác giả mà đánh giá như vậy được.

Còn nói là dâm ô tục tĩu cũng không phải đâu bởi trong truyện chỉ có vài ý nhỏ thôi, không thể đánh giá được.

* Thế còn ý kiến cho rằng NNT ám chỉ về địa danh “bôi nhọ” địa phương?

- Về vấn đề địa danh, tôi nghĩ không chỉ có Cà Mau mà NNT đã nói chung cho cả vùng Tây Nam bộ.

* Cụ thể hơn, ông thấy thế nào?

- Về chủ đề tư tưởng, tôi đã đọc đi đọc lại nhiều lần. Tôi thấy nói cái xấu nhiều quá! Và cũng cô đọng quá! Những nhân vật ông già, con cháu, gái làm đĩ..., kể cả cán bộ xã đều là nhân vật xấu. Quan điểm chúng tôi không phải không cho nói cái xấu, nói không biện chứng.

Tốt xấu bao giờ cũng có cả hai, tỉ lệ phải như thế nào đó. Nói xấu trong tác phẩm này có nhiều tình tiết đã nói quá hiện thực. Không đúng!

* Ông có thể nêu ra vài điển hình?

- Ví dụ như miêu tả gái điếm mà NNT dùng từ “dập dìu trên bờ đê” thì làm gì có. Hay như đoạn viết có nội dung: sau đợt dập dịch cúm gia cầm xong thì một phụ nữ đã buồn tiếc của mà uống thuốc tự vận.

Thực tế trong cả nước đến nay vẫn chưa có người tự vận như vậy mà chỉ có thể buồn chán thôi. Người nuôi có gia cầm bị tiêu hủy đều được bồi thường tiền. Hoặc như chi tiết: ông già chơi đĩ xong đã trả tiền cho đĩ ngay trước mặt con là không có.

Từ những chi tiết như thế, chúng tôi cho rằng tác phẩm này không có tác dụng giáo dục xã hội, giáo dục con người. Tôi không viết văn nhưng tôi biết chức năng của văn học là chức năng giáo dục và định hướng.

Mặc dù mặt trái của kinh tế thị trường có cái xấu, cái xuống cấp nhưng đa số vẫn tốt. Nói vậy để con người còn niềm tin, lạc quan hơn với cuộc sống.

* Ông đánh giá mức độ phản ứng giữa CĐBT lần này so với Cù lao Tràm của những năm đầu đổi mới thế nào, thưa ông?

- Cù lao Tràm cũng có nói tốt dù thời kỳ mới đổi mới nói về mặt trái hơi nhiều! Sau này lại có Cái đêm hôm ấy đêm gì của một tác giả ở Thanh Hóa cũng bị phản ứng! Ý tôi muốn nói trong một tác phẩm có tốt có xấu cho tròn trịa vậy thôi, không thì thiếu tính giáo dục.

Người đọc sẽ thấy bi quan. Tiến sĩ Thái Văn Long - giám đốc Sở GD-ĐT tỉnh Cà Mau - có nói không nên cho học sinh coi CĐBT vì đọc xong học sinh sẽ hiểu “xã hội dập dìu đĩ”. Có cựu chiến binh tên Nguyễn Hiền Thân ở Bà Rịa - Vũng Tàu sau khi đọc xong CĐBT đã tát cô con gái của mình chỉ vì con của ông khen CĐBT hay!

* Ông nhận định sao về hai luồng ý kiến khen chê?

- Phải chờ ý kiến của các nhà phê bình văn học. Vụ trưởng Vụ VH Đỗ Kim Cuông có gặp tôi nói riêng: nhận thức tư tưởng của NNT còn non kém chứ không có chống cộng gì đâu! Chúng tôi đề nghị hội tạo điều kiện cho nhà văn nâng cao nhận thức nghiệp vụ chuyên môn. Chứ như hiện nay NNT mới học xong lớp 11 mà thôi!

* Thực tế NNT đã bị kiểm điểm chưa và kiểm điểm đến mức nào, thưa ông?

- Mục đích chính của lần mổ xẻ này là để nhà văn có dịp nhìn lại và sáng tác tốt hơn. Cũng nhẹ nhàng thôi, không có gì cay cú hay gay gắt cho dù có ý kiến còn đòi bài trừ, trục xuất nhà văn ra khỏi địa bàn.

* Trở lại với CĐBT, thưa ông Thắng, ông có nghĩ CĐBT nói cái xấu là có hại không? Văn học nghệ thuật được quyền hư cấu không, thưa ông?

- Nói cái xấu để thức tỉnh là điều tốt. Nhưng nói gì thì nói cũng phải có tính định hướng. Anh hình dung xem, trẻ mới lớn lên mà đọc CĐBT sẽ thấy cái này sao mà quá trời vậy! Trẻ sẽ hoài nghi quá đi chứ.

Đúng là sáng tác văn học nghệ thuật được quyền hư cấu nhưng phải trên cơ sở sự thật. Nói quá thành bác Ba Phi rồi! Nói quá mà nói về cái tốt, nhân cách hóa sẽ có tính xây dựng. Theo tôi, hư cấu như thế tốt.

* Vậy ông có thể cho biết có bao nhiêu phần trăm sự thật trong CĐBT? Ông đánh giá sao về nhà văn này!

- Tôi đánh giá cao phong cách ngôn ngữ thể hiện - đặc điểm đặc sản miền Nam - của NNT. Tôi không thể cân đo giá trị một tác phẩm văn học như làm kinh tế được.

* Xin cảm ơn ông!

TRẦN ĐỨC thực hiện

Đề nghị:

- Hội Văn học nghệ thuật kiểm điểm phê phán tác giả một cách nghiêm khắc, rút kinh nghiệm khi viết, cần phải có thực tiễn cuộc sống, cái đẹp, cái tốt mà xã hội đang xây dựng và phát triển. Tất nhiên, cần phê phán cái chưa tốt, nhưng phải đúng hiện thực và có định hướng cho con người đến cái chân - thiện - mỹ.

- Hội Văn học nghệ thuật nên thường xuyên có định hướng cho người viết, sáng tác nên những tác phẩm hay, có phê phán nhưng phải thận trọng tránh gây nên một phản ứng xã hội gay gắt đối với tác phẩm.

- Thường xuyên tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tất cả hội viên ở các lĩnh vực (có Nguyễn Ngọc Tư) được tham gia học tập lý luận chính trị, trau dồi đạo đức phẩm chất, nâng cao ý thức trách nhiệm của người cầm bút, nâng cao nghiệp vụ chuyên môn.

Riêng nội dung trả lời phỏng vấn với một số báo thiếu trách nhiệm, đề nghị Đảng, Đoàn nơi Nguyễn Ngọc Tư sinh hoạt giáo dục và kiểm điểm.

(Trích báo cáo ngày 27-3-2006 của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Cà Mau)





Copyright (C) 2004 Tuoi Tre Online
Tonka
#43 Posted : Sunday, April 9, 2006 1:07:57 PM(UTC)
Tonka

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,649
Points: 1,542

Thanks: 95 times
Was thanked: 204 time(s) in 192 post(s)
Những chuyện như thế này đã, đang và sẽ còn xảy ra dài dài. Sao SA ngạc nhiên quá vậy, bộ chưa nghe qua bao giờ sao Eight Ball
Song Anh
#44 Posted : Sunday, April 9, 2006 6:20:09 PM(UTC)
Song Anh

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 1,004
Points: 18

quote:
Gởi bởi tonka

Những chuyện như thế này đã, đang và sẽ còn xảy ra dài dài. Sao SA ngạc nhiên quá vậy, bộ chưa nghe qua bao giờ sao Eight Ball



S.A cũng biết thế chớ... người ta phản ứng như thế tức là người ta cũng cảm nhận được cái tài thiên phú của N.N.Tư rồi... nhưng N.N.Tư là người thật thà và chất phác...cô ấy nghĩ sao thì viết vậy... trời thương cho " cái duyên " viết lách..., S.A e cô ấy không đủ " mồm mép " để mà biện luận cho cái " nghiệp văn" của mình...cô ấy mà nản chí không sáng tác nữa thì uỗng phí đi " một cây Bút lạ " , thuần chất phương ngữ Nam Bộ...Sad

Cái xã hội nào cũng có bề phải và bề trái của nó, người mình cứ khư khư " Áo mặc sao qua khỏi đầu "... cứ như tích " Ông Vua cởi truồng ấy "... thật là bất mãn quá đi....SadSadSad

S.A thấy cái lối suy nghĩ bây giờ ở miệt vườn Cà Mau ... mà không khỏi thở dài vì nó nhắc cho S.A nhớ "ngày xưa" có bài học..." Nos ancêtres sont des Gaulois " ( Tổ tiên ta là người Gaulois )...trong khi mình thì " mắt hí , mũi tẹt , da vàng "...không có chi là Gaulois hết ráo....Eight Ball

Tonka
#45 Posted : Monday, April 10, 2006 12:07:13 AM(UTC)
Tonka

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,649
Points: 1,542

Thanks: 95 times
Was thanked: 204 time(s) in 192 post(s)
NNT bây giờ chỉ có nước nín thở qua đò thôi, đó mới là thượng sách, chờ mọi chuyện lắng xuống và qua đi thì lại tiếp tục Blush Biết sao hơn Question
Phượng Các
#46 Posted : Monday, April 10, 2006 12:25:21 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
quote:
Gởi bởi Song Anh
cô ấy mà nản chí không sáng tác nữa

viết lách mà thấy như cái nghiệp rồi thì có kề dao vô cổ người ta cũng cứ viết hà, khỏi lo SA ơi.....Smile

linhvang
#47 Posted : Monday, April 10, 2006 1:57:05 AM(UTC)
linhvang

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Editors
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 4,933
Points: 1,248
Woman
Location: University Place, Washington State, USA

Thanks: 23 times
Was thanked: 45 time(s) in 43 post(s)
quote:
Gởi bởi Phượng Các


viết lách mà thấy như cái nghiệp rồi thì có kề dao vô cổ người ta cũng cứ viết hà, khỏi lo SA ơi.....Smile


Big Smile
Song Anh
#48 Posted : Monday, April 10, 2006 5:37:45 AM(UTC)
Song Anh

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 1,004
Points: 18

quote:
Gởi bởi linhvang

quote:
Gởi bởi Phượng Các


viết lách mà thấy như cái nghiệp rồi thì có kề dao vô cổ người ta cũng cứ viết hà, khỏi lo SA ơi.....Smile


Big Smile



Vậy S.A bắt đầu " kề dao vô cổ " ai trước đây...??? Question
Chị nào cũng " hạ bút thành văn " hết á...Tên và Bút danh kể không xiết......Eight Ball

Với cái nụ cười này..."Big Smile"...chắc bắt đầu bằng chị Linh Vang quá hà...Tongue.
S.A đi " mài dao " đây nghen...
TongueBig Smile
Phượng Các
#49 Posted : Monday, April 10, 2006 8:47:40 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
quote:
Gởi bởi Song Anh
Chị nào cũng " hạ bút thành văn " hết á...Tên và Bút danh kể không xiết......Eight Ball


PC chỉ có một bài in trong tuyển tập PNV, không biết Song Anh có coi chưa. Hạ bút văn...g cán gáo! Shy Ngó "bộ vó" Tongue SA thì đoán có lẽ SA cũng thuộc hàng bút mặc văn chương, có phải?
Song Anh
#50 Posted : Monday, April 10, 2006 5:51:18 PM(UTC)
Song Anh

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 1,004
Points: 18

quote:
Gởi bởi Phượng Các

quote:
Gởi bởi Song Anh
Chị nào cũng " hạ bút thành văn " hết á...Tên và Bút danh kể không xiết......Eight Ball


PC chỉ có một bài in trong tuyển tập PNV, không biết Song Anh có coi chưa. Hạ bút văn...g cán gáo! Shy Ngó "bộ vó" Tongue SA thì đoán có lẽ SA cũng thuộc hàng bút mặc văn chương, có phải?



Big SmileBig SmileBig Smile, chị PC ơi...Mà chị ngó " bộ vó " S.A ra sao mà " đoán có lẽ...cũng thuộc hàng bút mặc văn chương "???
Chị đoán thử xem coi nha S.A thuộc thể loại văn chương nào nha??? Cóc , Nhái , Chàng hiu hay Ễnh Ương đây...???
S.A là người thích tự do , "ngao du sơn thủy "
Chị mà đoán được...S.A về " đầu dưới trướng" của chị đấy...Smile
beerchugRose


Phượng Các
#51 Posted : Monday, April 10, 2006 9:42:48 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
quote:
Gởi bởi Song Anh
S.A là người thích tự do , "ngao du sơn thủy "


Vậy thì SA nên treo hai câu đối của Trần Tế Xương lên cột:

Cực nhân gian chi phẩm giá, phong nguyệt tình hòai
Tối thế thượng chi phong lưu, giang hồ khí cốt


beerchugRose

Song Anh
#52 Posted : Monday, April 10, 2006 11:03:12 PM(UTC)
Song Anh

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 1,004
Points: 18

quote:
Gởi bởi Phượng Các
Vậy thì SA nên treo hai câu đối của Trần Tế Xương lên cột:

Cực nhân gian chi phẩm giá, phong nguyệt tình hòai
Tối thế thượng chi phong lưu, giang hồ khí cốt




Chị PC à ,
S.A cũng xin mượn ý của cụ Tú Xương rằng :
" Nhập thế cục bất khả vô văn tự ,
Chẳng hay ho cũng húng hắng một vài bài "...

Chớ thật sự S.A không dám treo lên cột 2 câu đối chị gởi ở trên đâu vì...con người thật của S.A...chẳng có gì để "tâm tình với trăng gió" , mà cũng...chẳng có chi gọi là "cốt cách giang hồ "...hết chị à...

SmilebeerchugRose

linhvang
#53 Posted : Tuesday, April 11, 2006 4:25:45 AM(UTC)
linhvang

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Editors
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 4,933
Points: 1,248
Woman
Location: University Place, Washington State, USA

Thanks: 23 times
Was thanked: 45 time(s) in 43 post(s)
quote:
Gởi bởi Song Anh


Với cái nụ cười này..."Big Smile"...chắc bắt đầu bằng chị Linh Vang quá hà...Tongue.
S.A đi " mài dao " đây nghen...
TongueBig Smile


Thôi tha cho LV đi, LV hiền lắm, thấy máu me là sợ rồi, hãy đem cất con dao đi nha...
Để LV...sống mà viết tùy bút cho SA đọc chứ há. Cho SA một cái hoa hồng nè, không cười nữa đâu. Rose
Phượng Các
#54 Posted : Friday, April 14, 2006 10:49:11 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
Sự cảnh báo của văn học


TTCT - 1. Nguyễn Ngọc Tư quê ở Tân Duyệt. Cách đây 40 năm ở Tân Duyệt có nhà văn nữ Trần Thị Ng.H., dì của nhà văn Lê Đình Trường của Hội Văn nghệ Cà Mau hôm nay.

Trên tạp chí Thời Tập xuất bản ở Sài Gòn trước đây có mục “Nơi tôi đang sống”, Trần Thị Ng.H. viết một tạp bút về ngôi nhà của má ở xã Tân Duyệt. Ngôi nhà ấy ở Tân Duyệt theo tôi có thể nó là thiên đường. Xung quanh nhà cây trái xum xuê bốn mùa gió lộng. Trên mặt đất rau diệu, rau ngổ, rau đắng mọc tràn lan. Con cái về, má xách cần câu ra bờ ao, lát sau má đem vô nhà rổ cá rô mề rồi nấu nồi canh tập tàng với rau cỏ ngoài vườn.

Đọc xong tôi mê, tương tư làng Tân Duyệt cũng như mê Đồng quê của Phi Vân, Hương rừng Cà Mau của Sơn Nam, Đất rừng phương Nam của Đoàn Giỏi. Trời đã như chiều theo ý tôi. Năm 1978 khi Cà Mau bắt đầu phá rừng nuôi tôm, môi trường vẫn còn khá. Nhà văn Văn Định quê ở Cả Bát hùn với người em mở vuông tôm ở rạch Sào Lưới giáp biển. Giữa rừng, làng mạc hoang vắng, anh Văn Định không biết tôi đi đâu. Thì ra tôi mê mẩn vẻ hoang vu phì nhiêu của xứ Cà Mau, cánh đồng đẹp xinh như anh đã viết nên lội bộ từ Sào Lưới về Cả Bát; đi về trong ngày quãng đường dài gần 40 cây số để ngắm cảnh.

Lần thứ hai năm 1983, mùng 1 tết tôi theo vợ chồng Nguyễn Trọng Tín vừa mới sinh con, ẵm cháu về thăm quê bên đầm Bà Tường. Có cả Nguyễn Trọng Nghĩa lúc đó còn học Trường viết văn Nguyễn Du. Nguyễn Trọng Tín thì mùng 10 mới trở về Cà Mau. Nguyễn Trọng Nghĩa mùng 7 phải lên Sài Gòn mua vé ra Hà Nội.

Mùng 5 tết không có đò chạy dòng sông vắng tanh, gió man mác đùa những giề lục bình, xe cộ cũng không có, nhà cửa cất sâu vào trong nên con đường thăm thẳm chẳng một bóng người. Rơi vào chỗ đặng đừng, Nguyễn Trọng Nghĩa đành lội bộ. Tôi muốn ở lại nhưng chẳng mấy dịp được đi như vậy, đất rừng phương Nam và cánh đồng Cà Mau đã lôi cuốn tôi đi theo Trọng Nghĩa.

Quãng đường từ đầm Bà Tường về đến Cà Mau dài 70 cây số, từ 4g sáng hai đứa xách mấy đòn bánh tét, vừa đi vừa ngắm cảnh, lội đến 9g tối tới nơi. Cà Mau đối với tôi mãi vẫn là một vùng đất bí ẩn, nơi đã sinh ra nhiều anh hùng, sinh ra nhiều nhà văn tài hoa dù họ chẳng có học hành gì bằng tôi (bằng cấp cho nhà văn là chỗ sống cho hết mình, là đại học trường đời).

Ấn tượng tốt đẹp về đất đai, làng mạc của Cà Mau luôn sống trong tôi, thỉnh thoảng tôi nhớ các địa danh đầm Bà Tường, Rau Dừa, Nhà Phấn. Nhưng nay ấn tượng ấy đã hết, buồn lắm. Buồn vì cảnh các con sông do tàu gắn máy, xe hơi chạy ầm ầm, hai bên bờ sông lở lói, nhà cửa đôi ba lần di dời mà chẳng có biện pháp gì ngăn chặn. Rừng, vườn tược, đê điều phá tan hoang để nuôi tôm. Không còn một bóng cây, không còn rau cỏ mọc tràn lan trên đất, ngay cá đồng cũng trở nên quí hiếm.

Cánh đồng chan chát nằm trơ trụi trong nắng nhiệt đới. Không còn gì để ngắm ở một nơi từng nổi tiếng đất rừng cuối trời phương Nam. Đua nhau nuôi tôm, tôm đua nhau bệnh chết, người sống cầm cự qua ngày. Cho dù có trúng mùa tôm đi nữa, dưới khung cảnh tan hoang ấy con người sống như thế nào? Đem so với Tân Duyệt rợp bóng cây, bốn mùa gió lộng của nhà văn Trần Thị Ng.H. với khung cảnh Tân Duyệt hiện nay, đến rau cũng không trồng được, thử hỏi Nguyễn Ngọc Tư hay bất cứ ai muốn phản ánh cuộc sống hiện tại ở đó thì phản ánh như thế nào cho phải đạo? (Ai thử về Cà Mau mà coi tôi nói có gì sai).

2. Bây giờ nói về Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư, tôi xin được phép kéo theo Cánh đồng cỏ chát của Võ Đắc Danh. Có một thế hệ người trẻ ở Cà Mau lớn lên giữa khung cảnh làng xóm đổ vỡ bắt đầu phản kháng. Hãy đọc lời mở đầu Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư: “Tôi hiểu biết về Phật giáo không nhiều, vớ được quyển sách nào đọc cái ấy. Cũng có điều hiểu được, học được, làm được, nhưng nhiều điều buộc phải bó tay... Trời ơi, mình giận muốn chết, muốn gào thét, muốn cào cấu, muốn đập phá mà không cho mình nhúc nhích. Sao có thể hả hê? Đạt được đạo mới khó làm sao...”.

Thật rõ ràng đây là bức xúc của tuổi trẻ. Ngọc Tư đúng là không biết nhiều đạo Phật nhưng hiểu lờ mờ luật nhân quả. Những gì người đối xử tàn tệ với thiên nhiên phải trả giá rất đắt về sau này. Nếu như Võ Đắc Danh phản kháng bằng bút ký qua Cánh đồng cỏ chát thì Ngọc Tư phản kháng trước cảnh môi trường bị phá hủy, sự nghèo khổ thiếu thốn của người nông dân qua hư cấu văn học.

Trí tưởng tượng của một người, của một nhà văn cho dù giỏi cách mấy cũng thua sự thật ngoài đời. Tôi xin phép được kể một chuyện, cách đây 20 năm, tứ giác Long Xuyên chưa chuyển vụ còn làm lúa mùa. Đến mùa lúa dân tứ xứ tới cắt lúa, trong số đó có cả giới “chị em ta”. Cứ một giạ lúa là một lần đi khách. Đám du kích không có lúa thì chơi chùa gọi là lấy xâu. Cuối mùa, các cô không lao động nhưng mà “có công” khác vẫn có cả trăm giạ lúa bơi xuồng về.

Lúc đó tôi dạy học vùng này chứng kiến hết, chứ không tưởng tượng ra. Và tôi viết bài ký “Môi trường văn hóa An Giang còn bỏ trống”. Ông giám đốc sở văn hóa thông tin cho tôi đi nói xấu tỉnh nhà, nói xấu người nông dân, báo cáo lên ban tuyên huấn. Từ đây cây bút của tôi như sượng lại, mặc dù bài ký được tuần báo Văn Nghệ (TP.HCM) tặng thưởng giải A.

Bây giờ câu chuyện cũ xì được lặp lại qua Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư. Nếu là một người thật tình tha thiết với quê hương, lẽ ra khi đọc xong Cánh đồng bất tận, những ai có trách nhiệm phải tự hỏi chúng ta đã làm gì để bộ mặt đồng quê trở nên như vậy.

Phải thấy hồi chuông cảnh báo trong Cánh đồng bất tận về sự hủy hoại môi trường dẫn đến tình trạng con người sống như bản năng. Bất tận còn ngầm nghĩa đâu được phép bất tận, đã đến giới hạn của nó. Ai không biết, riêng tôi cảm ơn nhà văn Nguyễn Ngọc Tư đã nói hộ giùm tôi những gì mình đã từng cảm nhận.

NGÔ KHẮC TÀI
Song Anh
#55 Posted : Saturday, April 15, 2006 8:16:47 AM(UTC)
Song Anh

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 1,004
Points: 18

‘Cánh đồng bất tận’ và việc kiểm điểm Nguyễn Ngọc Tư
Tào Văn An

1. Về tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư

Trước khi Cánh đồng bất tận ra đời, tôi đã đọc khá nhiều truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư. Tôi thích giọng văn nhẹ nhàng, sệt chất Nam bộ của chị. Những truyện ngắn của chị (đã được in trong các tập Ngọn đèn không tắt, Giao thừa, Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, những truyện đầu trong tập Cánh đồng bất tận) bao giờ cũng có chừng mực khi diễn tả về hạnh phúc và cả nỗi buồn đau, bất hạnh của con người. Chị nhìn cuộc sống và những người xung quanh mình bằng một tấm lòng khoan dung, độ lượng… Dường như chị cho rằng chẳng có ai là hạnh phúc trọn vẹn và cũng chẳng có ai là đau khổ đến tận cùng và trong khá nhiều tác phẩm, dường như chị cũng không đụng chạm nhiều đến sự tuyệt đối của cái tốt và cái xấu… Hãy vui với những hạnh phúc nho nhỏ mà mình may mắn có được và cũng đừng tuyệt vọng…


Đến khi đọc Cánh đồng bất tận, tôi thực sự bất ngờ. Bất ngờ vì sự thay đổi trong giọng văn, trong cách nhìn, trong sự suy ngẫm về cuộc đời. Vẫn những lời văn đặc sệt chất Nam Bộ, nhưng cái nhìn về cuộc sống không còn bình yên, phẳng lặng như trước mà dữ dội, chua xót, cay đắng… Chi không còn dễ tính như trước nữa. Chị không chấp nhận cái tính “biện chứng” là phải nói cả “tốt xấu với một tỷ lệ như thế nào đó” mà tỏ rõ thái độ quyết liệt của mình trước hiện thực cuộc đời. Chỉ riêng việc dũng cảm nói lên suy nghĩ, (có thể chưa hoàn toàn là chân lý) nỗi cay đắng, xót xa của chị (nếu là người có kinh nghiệm sống hơn chắc sẽ dè dặt khi nói về những nỗi bất hạnh trong xã hội ta) khi viết Cánh đồng bất tận cũng làm cho những người ít quan tâm đến văn học quý mến chị. Tôi nghĩ, có lẽ sau khi viết xong Cánh đồng bất tận, chị sẽ mệt nhoài… Và có lẽ bây giờ, tôi ngại rằng sau khi có quyết định đề nghị kiểm điểm chị của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Tỉnh Cà Mau, chị sẽ càng mệt mỏi nhiều hơn nữa… Nhưng tôi hy vọng, nếu còn tiếp tục viết, Nguyễn Ngọc Tư sẽ không viết theo kiểu “tỷ lệ như thế nào đó” như có người đề nghị.


Đọc một tác phẩm văn học, thích hay không thích tùy thuộc vào nhiều yếu tố: tạng người, trình độ văn hóa, chính trị, vốn sống, năng lực cảm thụ thẩm mĩ… và mỗi người đều có quyền nêu lên những cảm nghĩ, đồng tình hoặc phản đối của mình… Những góp ý chân tình, chỉ ra đúng đắn những thành công và cả những hạn chế đối với một nhà văn trẻ là điều cần thiết và đáng quý biết bao nhiêu!


Tôi mong muốn trước khi tổ chức kiểm điểm Nguyễn Ngọc Tư về "Cánh đồng bất tận" và “những trả lời phỏng vấn thiếu trách nhiệm với một số báo” của chị, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Tỉnh Cà Mau cần tổ chức một cuộc hội thảo hoặc tọa đàm về tác phẩm này để tránh đi cái nhìn chủ quan, phiến diện của mình.


2. Về bài trả lời phỏng vấn của ông Dương Việt Thắng và ông Trần Văn Hiện, trưởng và phó Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Cà Mau trên báo Tuổi Trẻ
2.1. Về chủ đề tư tưởng: “Về chủ đề tư tưởng, tôi đã đọc đi đọc lại nhiều lần. Tôi thấy nói cái xấu nhiều quá! Và cũng cô đọng quá! (Ý này là khen hay chê?). Những nhân vật ông già, con cháu, gái làm đĩ… kể cả cán bộ xã đều là nhân vật xấu. Quan điểm chúng tôi không phải không cho nói cái xấu, nói không biện chứng. Tốt xấu bao giờ cũng có cả hai, tỷ lệ phải như thế nào đó” (Tuổi Trẻ, thứ 7 ngày 8/4/06).
Tôi thực sự không hiểu tại sao ông Dương Việt Thắng lại nói về chủ đề tư tưởng tác phẩm mà chỉ nói “tôi thấy nói cái xấu nhiều quá”. Sao lại có thể đánh đồng việc nói cái xấu nhiều hoặc cái tốt nhiều với chủ đề tư tưởng của tác phẩm? Mở đầu truyện Kiều, Nguyễn Du viết “Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”. Một phần quan trọng của chủ đề tư tưởng của Truyện Kiều là “đau đớn lòng” chứ không phải chỉ “những điều trông thấy”. Bao nhiêu hình ảnh và tâm trạng xót xa về lòng thù hận, bao nhiêu tâm trạng về nỗi cay cực, cảm thông cho thân phận bất hạnh của con người mà nhà văn đã thể hiện trong tác phẩm này được ông Thắng nhìn nhận như thế nào để nói về chủ đề tư tưởng? Biết bao nhiêu tác phẩm lớn ở Việt Nam và trên thế giới xưa nay đã đánh động lương tri của con người khi viết về cái xấu nhiều quá! Và biết bao nhiêu tác phẩm viết về cái tốt nhiều quá mà người ta vứt ngay vào sọt rác sau khi đọc?

2.2. Về vấn đề văn học và hiện thực cuộc đời. Ông Thắng đề cập khá nhiều về vấn đề có tính chất lý luận này.“Tốt xấu bao giờ cũng có cả hai, tỷ lệ phải như thế nào đó. Nói xấu trong tác phẩm này có nhiều tình tiết đã nói quá hiện thực. Không đúng”. Ở một câu trả lời khác, ông nói: “nói quá thành bác Ba Phi rồi. Nói quá mà nói về cái tốt, nhân cách hóa sẽ có tính xây dựng. Theo tôi như thế tốt”. “Ý tôi muốn nói trong một tác phẩm có tốt có xấu cho tròn trịa vậy thôi, không thì thiếu tính giáo dục”. Trong những ý kiến vừa được trích dẫn (hy vọng không làm sai lệch ý của ông Thắng) có một số vấn đề cần trao đổi:
- “Tỷ lệ như thế nào đó” là bao nhiêu cho vừa phải, cho “tròn trịa”?
- Tại sao “Nói xấu trong tác phẩm này có nhiều tình tiết đã nói quá hiện thực. Không đúng” mà “Nói quá mà nói về cái tốt, nhân cách hóa sẽ có tính xây dựng. Theo tôi như thế tốt”?

Những ý kiến vừa nêu trên của ông Thắng thực ra không hoàn toàn xa lạ với những người làm công tác văn học nghệ thuật trong những năm trước thời kỳ đổi mới, đặc biệt là trong thời kỳ chiến tranh chống Mỹ. Do yêu cầu về chính trị và hoàn cảnh chiến tranh ác liệt, các nhà văn đã tự giác - ở những mức độ khác nhau - hạn chế tối đa việc phản ánh phần bi thương mất mát, những cái xấu, thiếu sót trong đời sống xã hội.

Trong đời sống hòa bình, đặc biệt là sau Đại hội VI, vấn đề phản ánh hiện thực đã được mở rộng và điều chỉnh với sự xuất hiện của những cây bút đã có nhiều thành tựu từ trong chiến tranh như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Lê Lựu, Ma Văn Kháng đến những cây bút trẻ khác như Nguyễn Mạnh Tuấn, Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Nguyễn Khắc Trường, Phan Thị Vàng Anh… Những điều ông Thắng nói về việc phản ánh cái tốt cái xấu (đúng hơn là ông nói: nói quá về cái tốt, cái xấu) có thể được ít nhiều người đồng tình cách đây hơn 20 năm thì bây giờ đã trở nên khó thể thông cảm được (trước kia cũng hiếm có nhà lý luận nào đòi hỏi tỷ lệ phần trăm tốt xấu trong một tác phẩm).

2.3. Về chức năng của văn học.

Trong bài trả lời phỏng vấn, ông Thắng và “Báo cáo của Ban Tuyên huấn Tỉnh Ủy Cà Mau” chú ý đến chức năng giáo dục và định hướng của tác phẩm văn học, đòi hỏi tác phẩm phải “có định hướng cho con người đến cái chân thiện mỹ”. Và “Anh hình dung xem, trẻ mới lớn lên mà đọc Cánh đồng bất tận, sẽ thấy cái này sao mà quá trời vậy! Trẻ sẽ hoài nghi quá đi chứ.”… Quả là chúng ta không ai không mong muốn văn học nghệ thuật giáo dục và định hướng cho con người đến chân thiện mỹ. Ông bà ta coi “văn là đạo”, “văn tải đạo” nhưng ở mỗi thời kỳ, chúng ta hiểu sự “tải đạo” đó khác nhau. Ông bà ta chẳng đã từng khuyên:

"Làm trai chớ đọc Phan Trần
Làm gái chớ kể Thúy Vân Thúy Kiều"

Văn học gắn với đạo đức nhưng thể hiện đạo đức theo cách riêng của mình. Nếu không chúng ta chỉ cần học đạo đức là đủ và văn học không còn lý do tồn tại nữa. (Ở đây tôi chưa bàn tới tác phẩm Cánh đồng bất tận có tác dụng giáo dục, nhận thức và định hướng như thế nào).

Trong bài trả lời phỏng vấn, ông Thắng nhắc đến ý kiến của TS Thái văn Long, Giám đốc Sở GD và ĐT và hành động của một cựu chiến binh như sau:

“TS Thái văn Long, Giám đốc Sở GD và ĐT tỉnh Cà Mau có nói không nên cho học sinh coi Cánh đồng bất tận vì đọc xong học sinh “sẽ hiểu xã hội dập dìu đĩ”. Có cựu chiến binh… ở Bà Rịa Vũng Tàu sau khi đọc xong Cánh đồng bất tận đã tát cô con gái của mình chỉ vì con của ông khen Cánh đồng bất tận hay”. Khi đưa ra những dẫn chứng về ý kiến và phản ứng của các người này như thế, hẳn ông cũng đồng ý với ý kiến của ông GĐ Sở và hành động của người cựu chiến binh trong việc dạy con?

Một tác phẩm văn học ra đời không phải cho tất cả mọi lứa tuổi cùng đọc được vì vậy ý kiến của ông Long không phải là không có lý. Hẳn tác phẩm Trăm năm cô đơn của Marquez, nhà văn được giải Nobel Văn học cũng không phải dành cho mọi lứa tuổi? Và có biết bao nhiêu chuyện trong đời chúng ta chỉ có thể trao đổi với nhau mà chưa thể nói hết với các cháu vị thành niên? Có biết bao nhiêu tác phẩm mà chúng ta biết là hay mà chúng ta chưa thể để cho con trẻ đọc? Và còn vai trò của người thầy giáo dạy văn, vai trò hướng dẫn cho con cái đọc sách của các bậc phụ huynh?

Tôi không biết con gái của ông cựu chiến binh bao nhiêu tuổi và đang học lớp mấy, và tôi cũng không thể nào hình dung nổi cô bé sẽ cảm thấy thế nào sau khi bị cha tát - nếu điều đó là sự thực - như ông Thắng nói? Cách dạy con như thế liệu có hướng chúng đến với lẽ phải trong đời? Khi ông Thắng trích ý kiến của ông Thân, xin hỏi thật - ông có đồng tình với cách dạy con như thế?

2.4. Vấn đề đánh giá một tác phẩm và tác giả cụ thể

Khi được hỏi: “Ông có thể cho biết có bao nhiêu phần trăm sự thực trong Cánh đồng bất tận? Ông đánh giá sao về nhà văn này?” thì ông Thắng đã không trả lời có bao nhiêu phần trăm sự thực trong tác phẩm này mà chỉ cho biết : “Tôi đánh giá cao phong cách ngôn ngữ thể hiện - của Nguyễn Ngọc Tư. Tôi không thể cân đo giá trị của một tác phẩm văn học như làm kinh tế được”.
Đánh giá cao phong cách ngôn ngữ thể hiện (!) nhưng lại không thể chỉ ra, không thấy được giá trị của tác phẩm thì làm sao lại chỉ đạo “Hội văn học nghệ thuật kiểm điểm, phê phán (chứ không phải phê bình) tác giả một cách nghiêm khắc” được? Cách làm như thế liệu có thể làm cho nhà văn tiến bộ lên chăng?

2.5. Vấn đề học vấn và bằng cấp

Tôi nghĩ có lẽ đây là vấn đề khá nhạy cảm đối với nhiều người. Báo chí đã tốn khá nhiều giấy bút để nói đến những người có trình độ rất cao, có nhiều sáng tạo trên các lĩnh vực khác nhau của cuộc sống nhưng lại không có điều kiện (hoặc không muốn) để có tấm bằng làm hành trang vào đời và cũng có không ít kẻ mua bằng cấp… Học ở nhà trường là cần thiết nhưng không phải ai cũng có đủ điều kiện để cắp sách đến trường (điều này hẳn ông Thắng phải hiểu hơn ai hết). Hẳn chị Nguyễn Ngọc Tư đã từng đau buồn trong thời học sinh khi phải nghỉ học để bước vào cuộc đời nhọc nhằn kiếm sống? Ông Thắng không trực tiếp nêu ý kiến của mình nhưng mượn lời của ông Vụ trưởng văn hóa Đỗ Kim Cuông mà rằng: “nhận thức tư tưởng của Nguyễn Ngọc Tư còn non kém chứ không có chống cộng gì đâu! (may cho Nguyễn Ngọc Tư!). Chúng tôi đề nghị hội tạo điều kiện cho nhà văn nâng cao nghiệp vụ nhận thức chuyên môn. Chứ như hiện nay Nguyễn Ngọc Tư mới học xong lớp 11 mà thôi. (Ý sau cũng là ý của ông Cuông hay của riêng ông Thắng tôi không rõ). Có bao nhiêu người là thạc sĩ, tiến sĩ ngành ngữ văn (chứ không phải những ngành khác) có được những trang viết thấm đẫm chất văn chương và tình người như Nguyễn Ngọc Tư?
3. Kết luận

Tôi có tham dự một buổi thảo luận cùng với lớp Ngữ văn - trong đó học viên hầu hết là các thầy cô giáo dạy văn ở Đồng bằng sông Cửu Long - về một số vấn đề liên quan đến tác phẩm Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư. Không ít thầy cô giáo đã ghìm nước mắt của mình lại khi phát biểu về lòng thù hận, về tình yêu, về sự dốt nát, về sự phản trắc, về nỗi cô đơn, về thân phận con người… trong tác phẩm này. Nhưng vượt lên trên tất cả, điều mà các thầy cô nhận ra ở Cánh đồng bất tận là tấm lòng bao dung đối với sự lỡ lầm, là sự căm ghét cái ác, cái xấu và sự khao khát cho con trẻ có được (và mọi người) một cuộc sống “tươi tỉnh” và “vui vẻ” mà Nguyễn Ngọc Tư đã thể hiện trên trang giấy.

Tôi cũng muốn nhắc lại lời tâm sự của Nguyễn Ngọc Tư khi viết Cánh đồng bất tận để nói thêm về sự thực và tưởng tượng trong tác phẩm này: “Tôi cũng bàng hoàng, khi viết. Tôi thường tự hào về trí tưởng tượng của mình nhưng thấy chóng mặt, ngộp thở với chi tiết có thật mà tôi nghe được, giữa đời. Tôi thú nhận là đã sao chép cuộc sống, bởi tưởng tượng chỉ là trò bỏ đi. Nhưng xin các bạn đừng ngạc nhiên, tôi chưa từng tưởng tượng chuyện con người lại tra tấn bằng cách bắt lươn sống chui vào cửa mình người phụ nữ, đá thốc vào bụng người đang mang thai... nhưng những ai đi qua chiến tranh không hề thấy lạ. Tôi cảm giác khi cái ác lên ngôi trong phần con, phần người chết ngắc...” (TT 21/11/2005).

Tôi không coi "Cánh đồng bất tận" là tác phẩm hay nhất trong văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới nhưng đây là một trong số không nhiều những tác phẩm đã làm tôi và nhiều người rơi nước mắt.

Tao van An, tvan@ctu.edu.vn



Song Anh
#56 Posted : Monday, April 17, 2006 6:53:24 PM(UTC)
Song Anh

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 1,004
Points: 18



Buồn thay, nguyên mẫu vẫn cứ nhiều..Một tác giả cùng đọat giải Văn học tuổi 20 tâm tình với Nguyễn Ngọc Tư và chúng ta.
-----
NGUYỄN THỊ THU HIỀN


Đồ rằng cụ cố Hồng còn sống, cụ lại cứ mãi làu bàu câu này. Nói theo kiểu Nam Bộ:" chuyện xưa rồi", hay nói vui: " xưa như Diễm". Vậy mà ít nhiều cứ phải mệt mỏi bởi những chuyện không đâu, phải không Tư- ít nhiều mệt mỏi? Thời gian để dành cho một cuốn sách hay, một trang viết dang dở hoặc một bộ phim hoạt hình cùng lũ nhóc nhà mình lại hơn.



May thay, Tuổi trẻ đã khép lại diễn đàn về Cánh đồng bất tận và về tác giả " bị tai tiếng" ( nếu để " nổ" thì có lẽ diễn đàn mãi... bất tận). Sau 5 ngày mở ra diễn đàn (tính đến chiều ngày 12-4-2006), bạn bè và người yêu mến Tư có để tâm theo dõi sẽ thống kê được 1 con số ý nghĩa như Tuổi trẻ đã công bố: có 868 ý kiến, trong đó có 855 ý kiến ủng hộ và 13 ý kiến phản đối.



Còn nhớ năm 2000 gặp Tư ở Sài Gòn khi cùng nhau đi nhận giải Văn học tuổi 20. Những 20 ngày ấy thật vô tư với những trang viết đầu đời, chúng tôi : Tư, tôi, Phong Điệp, Vũ Đình Giang, Nguyễn Thị Việt Hà, Nguyễn Thị Thanh Bình được nhà văn Nguyễn Quang Sáng gọi vui là những con rồng bởi cùng tuổi Bính Thìn ( 1976) và nhận giải trong năm con rồng của thiên niên kỉ mới. Vô tư, chúng tôi chẳng để tâm tới lời ì xèo về việc có ưu ái hay không khi Tư đoạt giải nhất cho tập " Ngọn đèn không tắt". Về đến đất văn chương kinh kì- đất khắc nghiệt cho những lời đồn đại, càng nghe vẳng tiếng ì xèo. Chẳng thấy có gì phải băn khoăn trước những trang viết trong sáng, ăm ắp tình người của bạn mình, giản dị như áo sơmi trắng quần tây đen bạn mặc ngay cả khi nhận giải. Có chăng, chỉ thấy dự cảm mơ hồ cho con đường văn chương khắc nghiệt mà bạn và mình đang dấn tới.



Giờ đây bạn khẳng định được qua tác phẩm rồi lại gặp " nạn", chợt nhớ dự cảm mơ hồ... Tôi cũng đã có lúc gặp " nạn" ở 1 tỉnh miền núi khi "dám" viết về góc khuất của đời sống giáo viên miền núi để ông trưởng ban tuyên giáo tỉnh thậm chí chẳng buồn đọc nhưng " bèn" nghe lời khích bác của 1 cá nhân mà đập bàn đập ghế, hòng xua tôi khỏi " môi trường miền núi trong lành" giống như kiểu giờ có người gần xa đánh tiếng Tư "lưu vong".



Mới đó mà đã 5 năm...



Thời gian và va vấp sẽ khiến chúng tôi " già" đi và sẽ dần quên đi những chuyện không đâu này. Viết và viết vẫn là điều đáng nói. Và sẽ vẫn không tránh khỏi những chuyện không đâu?...



Sau 30 năm giải phóng đất nước, không phải những người trẻ chúng tôi không loay hoay: viết gì? Lịch sử anh hùng chúng tôi cảm nhận rất rõ qua từng trang sách hay qua hồi ức của ông bà, cha mẹ mình. Nhưng nỗi đau thì chúng tôi phải tự cảm nhận, như thế sẽ thấm hơn? Tâm sự trên Tuổi trẻ ngày 21- 11-2005, Tư nhắc những chuyện dã tâm được nghe đã xảy ra trong chiến tranh: kẻ địch bắt lươn sống chui vào cửa mình của người phụ nữ, đá thốc vào bụng người đang mang thai... Ngày nay chắc (hi vọng thế) không còn những chuyện khủng khiếp đó. Nhưng chuyện một nhóm người vì lòng ghen tuông thù hận mà tạt axít vào nhau đầy rẫy trên báo chí hay chuyện lấy keo dán sắt đổ vào cửa mình của kẻ vì giạ lúa, con vịt mà làm điếm trong " Cánh đồng bất tận" của Tư thì kém gì kiểu đó đâu. Ai cũng muốn quên cái ác, hướng tới môi trường trong lành nhưng xã hội nào cũng chứa trong nó những cá nhân tha hóa. Không lẽ người viết quay lưng? Nói nghe có vẻ to tát nhưng thực thế. Không lẽ báo chí đăng, công an thi hành án... mà những người viết ( được coi là trẻ- tiên phong) lại quay lưng?



Chúng tôi không quay lưng và nhân đây cũng xin đừng khiến chúng tôi mỏi mệt bởi những chuyện không đâu. Không lẽ những người trẻ lại phải than ít nhiều mỏi mệt như cụ cố Hồng lẩm cẩm? Tất nhiên, trong nghị- lực- viết hay còn gọi là nỗ lực sáng tạo thường xem nhẹ những chuyện không đâu, thậm chí đôi khi chúng tôi vẫn nói vui với nhau theo " tinh thần A.Q" rằng chính những chuyện không đâu này lại là chất xúc tác, là nguyên mẫu chẳng cần kiếm đâu xa... Có thể trở thành nguyên mẫu bất tận nếu mãi lặp lại những con người mang danh chức năng này nọ luôn chực dò xét, chụp mũ, bắt bẻ, đòi hỏi, dạy dỗ ... người khác, nhất là những người trẻ (mà họ cho là trẻ người non dạ) dầu họ làm đúng, không có gì sai trái? Có thể lắm nhưng ai biết được người cầm bút chân chính cũng chẳng mong có mặt những nhân vật như thế trong tác phẩm của mình khi phải lấy từ nguyên mẫu. Điều này cùng chung tâm trạng với ông T, ông L hay ông Y, ông Z nào đó khi không thích Tư " làm xấu" cánh đồng, người nông dân quê mình cho cả nước, cho thế giới biết (!). Buồn thay, nguyên mẫu vẫn cứ nhiều. Người nông dân chưa hết khổ và những người " nhân danh" mang học hàm, học vị vẫn cứ ngồi trên để phán xét " một cách triệt để" cũng vẫn còn, không phải rơi rớt như tàn dư của những gì bảo thủ trì trệ xã hội đã hòng loại bỏ mà ngang nhiên, " vị thế" vô cùng.



Không như con chim sợ cành cong- đó là bản lĩnh của người viết nhưng ám ảnh dù chỉ là vô thức sẽ làm oải những dòng văn. Càng trẻ, đời sống càng bộn bề, chúng tôi càng thấy tiếc từng thời khắc. Ai đó nhàn rỗi tẩn mẩn ngồi chẻ cọng rau muống ra làm năm, làm bảy đừng biến mình thành lẩm cẩm mà lặp lại lời than của cụ cố Hồng.



Hà Nội 16- 4- 2006

Tựa đề của tác giả : Lại " Biết rồi, khổ lắm, cứ nói mãi..."







Phượng Các
#57 Posted : Wednesday, April 19, 2006 7:48:49 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
Chủ Nhật, 16/04/2006, 08:02 (GMT+7)

Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư: Từ nơi này tôi đã đến với nhiều nơi


Nguyễn Ngọc Tư và con trai 4 tuổi - Ảnh: Trần Hữu Dũng

TT - Những ngày diễn ra “Đối thoại với Cánh đồng bất tận”, ngay sau bài phỏng vấn ông trưởng Ban tuyên giáo Tỉnh ủy Cà Mau xung quanh bản đề nghị Hội VHNT Cà Mau “kiểm điểm nghiêm khắc” Nguyễn Ngọc Tư (N.N.T.), chúng tôi thường lo lắng hỏi nhà văn trẻ, Tư có sao không?.

Lần nào cũng chỉ nhận được một câu trả lời “tôi không sao”, từ tốn và ngắn gọn. Chỉ đến khi diễn đàn chuẩn bị khép lại, nghe lời đề nghị trả lời phỏng vấn của TT, N.N.T. mới gửi đến một câu: “Chuyện báo mình làm, tôi cảm động lắm. Nhưng không phải tôi đón nhận nó với tất cả niềm vui. Vì tôi thấy hơi mất mát, có người là bạn mình, là người mình kính trọng, bỗng qua cơn sóng gió này...”.

N.N.T. chẳng viết hết câu. Cô gái 30 tuổi trở nên già dặn quá khi bảo mình ngấm thế thái nhân tình như thể đã trải qua mười năm.Qua email, chúng tôi bắt đầu một cuộc trò chuyện.

* Khi nghe tin mình bị đề nghị kiểm điểm, Tư có ngạc nhiên, như rất nhiều người đã ngạc nhiên?

- Tôi không gọi đó là cuộc “kiểm điểm sâu sắc” vì hôm ban lãnh đạo hội làm việc với tôi cũng rất nhẹ nhõm, giống như những buổi sáng thường ngày hay ngồi uống trà cùng nhau. Các anh, các chú đã dùng câu chữ, lời lẽ giản dị, nhẹ nhàng nhất có thể để tránh làm tôi đau, để tôi có thể quên mau chuyện này.

Nhưng trước đó, thật ra tôi đã rất ngạc nhiên, ngỡ ngàng khi đọc được bài phản ứng (bằng cách nào đó đã được photo chuyền tay khắp Cà Mau) của cô Dân, của anh Lực (thạc sĩ Vưu Nghị Lực - TT)... Còn bây giờ, chuyện bị rầy này nọ không làm tôi bối rối nữa. Chỉ tiếc là con đường đến một buổi sáng nhẹ nhàng đã không được nhẹ nhàng...

Những bài viết, những chỉ trích, dù tôi không phục vì họ đã không nói đúng về mình, tôi vẫn thấy đau. Ngạc nhiên là tôi lại có cảm giác đó khi đã quá quen với chuyện khen chê... Vậy mới thấy mình già mà chưa lớn. Tôi cố tỏ ra tỉnh bơ, cười ha ha ha, chợt nhớ lời ai đó “người ta mắng mình giống như đem quà tới, mình không lấy tất họ phải mang về... xài”. Nhưng rồi đối diện với lòng, tôi biết mình đang tự xuýt xoa, an ủi...

* Nhưng, không chỉ có người viết phải trả giá, cả người đọc cũng phải trả giá. Một người cha đã tát con gái mình chỉ vì nó khen CĐBT hay. Chắc Tư còn nhớ câu chuyện mà ông trưởng ban tuyên giáo đã nêu. Người ta tát con người ta mà sao mình lại cảm thấy rát...

- Tôi nghĩ người con gái ấy đã hứng chịu sự giận dữ thay cho mình. Đây cũng là hiện thực cuộc sống mà tôi không tưởng tượng được. Tôi tưởng đâu khi ta khóc, ta cười, ta day dứt, ta phẫn nộ, ta mắng nhiếc, giày vò một tác phẩm (và người viết ra nó) đã là giới hạn cuối cùng. Đâu ngờ...

* Cho đến lúc này, sau tất cả những khen chê, những phê phán và cả kết án, nhà văn N.N.T. có cảm thấy hối tiếc vì những gì mình đã viết?

- Không, nói hối tiếc là quay lưng với chính mình, với những bạn đọc đang yêu mến CĐBT. Tôi hạnh phúc vì có rất nhiều người hiểu mình, chia sẻ với mình. Ngay hôm ngồi với ban lãnh đạo hội, tôi cũng bảo bề nào tôi cũng đáng bị rầy, vì công việc cơ quan, vì cách cư xử, cách ăn nói... nhưng về CĐBT thì tôi không thể nói lời xin lỗi. Tôi chỉ buồn, nói sao cho chị hiểu bây giờ, với quê hương, như thể tôi phát hiện mình đang yêu đơn phương...

* Còn với người vợ, người mẹ N.N.T.?

- Sướng nhất là về tới nhà. Ở đó không có tí sóng gió nào. Thằng con vẽ chứ O chưa tròn, ba nó thì chỉ thích đọc mấy tạp chí về vi tính. Chẳng ai nói gì về văn chương. Tôi khoái quá chừng, bão rùng rùng ngoài kia mà mái ấm của mình vẫn bình yên.

* Trong cuộc đối thoại với CĐBT, gửi thư cho TT, nhiều người nói rằng họ rơi vào sự phân vân. Là độc giả họ mong muốn được đọc những tác phẩm mỗi lúc một sâu sắc hơn, mãnh liệt hơn của chị; nhưng mặt khác, nhân danh một người đàn ông - một người đàn bà có xung quanh mình cả một gia đình đông đúc, với mẹ cha, con cái, anh em, họ lại nghĩ về chị “về một thái độ thỏa hiệp phải chăng. Thôi, thì đành...”. N.N.T. có nỗi phân vân đó?

- Lâu rồi, tôi phát hiện việc tôi viết văn không chỉ đem đến niềm vui, tự hào cho cha mẹ, bạn bè, chồng con tôi mà còn đem đến những lo lắng, bất an. Buồn cười, lần nào tôi gặp nạn gì đó thì tôi cũng phải đi an ủi ngược lại ba má mình. Có thể tôi đã quen với cái gọi là “trường văn trận bút”, còn những người thân thì không tránh được cảm giác ngộp, choáng váng.

Lúc gặp chuyện, họ lại quên tôi là người viết văn, chỉ nhớ tôi là đứa con gái bé bỏng, thiệt thòi... Nhưng tôi thì không thể xử sự như vậy, ngoài gia đình, tôi còn là một người viết văn. Đó là một cuộc sống rất khác thường. Tôi hay nghĩ không viết câu chuyện ấy, số phận ấy thì những nhà văn khác có viết giùm mình không? Tại sao mình chờ đợi, đùn đẩy cho người khác trong khi mình làm được?

* Nhưng sau đận này, có không ít ý kiến lo ngại. Rồi lại như con chim sợ cành cong, không khéo khi viết Tư sẽ dòm trước ngó sau dữ lắm...

- Bây giờ tôi nói không sao thì chính tôi cũng buồn cười. Tôi nói mình sẽ vững vàng nhưng không chắc là chẳng bị ám ảnh dù chỉ là vô thức. Chỉ những tác phẩm mới trả lời rằng tôi còn nhớ vết thương đó không. Tôi vẫn nghĩ sau này mình viết lại càng khó hơn trước, kiểu nào thì cũng sẽ có bạn đọc nghĩ tôi đang dòm trước ngó sau. Khi tôi quên liệu bạn đọc đã quên, và nhìn tôi một cách thanh thản?

* Vậy Tư có dự định gì mới cho sáng tác của mình không? Và vẫn tiếp tục viết những câu chuyện về nông thôn, hay là chuyển sang đời sống thị thành sôi nổi và nhộn nhịp?

- Hôm trước gặp một người bạn, biết tôi ở thành phố đã gần 10 năm người bạn chưng hửng, tưởng đâu tôi đang sống trong một cái chòi nào đó giữa đồng mà viết. Tôi bỗng nảy ra ý nghĩ bao giờ mình phải về đồng, biết đâu lúc đấy mình mới có thể viết về đời sống thị thành. Bởi khi còn trẻ tôi đã viết về người già, biết đâu về già sẽ viết hay về con nít.

* Nhưng lúc này, chưa già và chưa về đồng, thì Tư vẫn tiếp tục viết về người nông dân?

- Không viết về họ thì viết về ai bây giờ. Và ai viết về họ hở chị?

* Mấy ngày trước có một email ngắn ngủi nhờ TT nhắn mời nhà văn Nguyễn Ngọc Tư về Sài Gòn sống... Bạn đọc này không tham gia tranh luận về tác phẩm, chỉ không yên tâm về tác giả thôi.

- Qua báo Tuổi Trẻ, tôi xin cảm ơn người bạn ấy (và vài người bạn nữa, cũng ý này, gọi trực tiếp đến tôi). Nhưng chưa bao giờ tôi nghĩ tới điều này, dù mảy may. Những cái tưởng chừng rất khó khăn, cực kỳ khó khăn tôi đã trải qua rồi, khi nhìn lại thì thấy chẳng khó khăn gì lắm đến nỗi không sống được. Ngộ vậy đó.

Từ nơi này, tôi đã nhìn được rất xa, đã sống với nhiều nơi, làm bạn với nhiều người, vậy cũng hạnh phúc lắm rồi. Một khi ra đi, tôi buộc phải làm khách ở cái nơi từng là nhà mình, cảm giác đó chắc là buồn lắm. Ở đây, dù tôi có yêu đơn phương (chắc là cũng hơi buồn) nhưng bản thân việc yêu đã là sống, là vui.

* N.N.T. lại nói đến tình yêu đơn phương. Chắc là buồn nên cô nói vậy. Bởi hơn lúc nào hết, hơn ai hết, những ngày qua tình yêu ấy đã được đáp trả qua hàng trăm lá thư gửi về TT của bạn đọc Cà Mau, và không chỉ Cà Mau. Những lá thư nồng nhiệt, tha thiết y như cách N.N.T. đã tha thiết nồng nhiệt với quê hương mình.Ai cũng có quyền được yêu quê hương mình theo cách của mình, phải không bạn!

THÚY NGA thực hiện

http://www.tuoitre.com.vn/
Phượng Các
#58 Posted : Wednesday, April 19, 2006 2:06:15 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
quote:
Gởi bởi Phượng Các
Tôi cố tỏ ra tỉnh bơ, cười ha ha ha, chợt nhớ lời ai đó “người ta mắng mình giống như đem quà tới, mình không lấy tất họ phải mang về... xài”.

Phật Thích Ca

Phượng Các
#59 Posted : Friday, April 21, 2006 12:56:00 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
Thứ Sáu, 21/04/2006, 05:23 (GMT+7)

Xung quanh hai báo cáo của ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Cà Mau:

Nguyễn Ngọc Tư bị “kiểm điểm nghiêm khắc” vì điều gì?


Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư - giải I Văn học tuổi 20 lần 2 tại lễ trao giải Văn học tuổi 20 lần 3-2005 - Ảnh: N.C.T.

TT - Ngày 12-4-2006, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Cà Mau tiếp tục ký một báo cáo (số 41-BC/TG) về “Đại biểu HĐND Nguyễn Ngọc Tư và truyện ngắn Cánh đồng bất tận”. Văn bản cho rằng vừa qua báo Tuổi Trẻ và một số văn nghệ sĩ ngộ nhận về việc “kiểm điểm nghiêm khắc, rút kinh nghiệm” đối với Nguyễn Ngọc Tư.

Để rộng đường dư luận, Tuổi Trẻ trích đăng báo cáo số 41 của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Cà Mau (có so sánh báo cáo số 35 ngày 27-3-2006).

41: kiểm điểm vì trả lời phỏng vấn trên báo thiếu trách nhiệm!

Mở đầu báo cáo số 41, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Cà Mau cho rằng: “Vừa qua báo Tuổi Trẻ và một số văn nghệ sĩ ngộ nhận về việc “kiểm điểm nghiêm khắc rút kinh nghiệm” đối với Nguyễn Ngọc Tư - tác giả truyện ngắn Cánh đồng bất tận, cho đó là chụp mũ đối với văn nghệ sĩ”.

Vậy “kiểm điểm nghiêm khắc, rút kinh nghiệm” về việc gì? Văn bản viết tiếp: “...Nguyễn Ngọc Tư là cán bộ, viên chức của Nhà nước, sinh hoạt tại Hội Văn học nghệ thuật, đồng thời là một đại biểu HĐND tỉnh Cà Mau nhưng trả lời với báo Doanh Nhân Sài Gòn và tạp chí Bông Sen xuân Bính Tuất đã phỏng vấn như sau: Ngoài việc ở Hội Văn nghệ Cà Mau, làm “nghị sĩ” của tỉnh, người ta giao cho Tư công việc gì vậy? Có lần Tư bảo làm cho biết là làm sao?

Ngọc Tư trả lời: “Đó là công việc tệ nhất của em. Em thấy ngán ngẩm mỗi khi vào kỳ họp... Cơ quan cũng phàn nàn sao em chẳng nói gì ở diễn đàn cho văn nghệ sĩ dễ thở một chút. Nhưng em cảm thấy bất lực, em có cảm giác không chống được guồng máy đã gài chế độ tự động”, “Em định ra khỏi HĐND nhưng người ta bảo muốn ra khỏi cũng phải nghị quyết này nọ, mất công lắm, rốt cuộc em là nghị sĩ vật giờ”, “hội đồng ư”...

Ngoài ra, Nguyễn Ngọc Tư có viết trên báo Tuổi Trẻ xuân Bính Tuất có đoạn: “Tôi vẫn viết theo cảm xúc hồn nhiên của mình chứ chẳng ý thức nghĩa vụ, trách nhiệm gì đâu...” và Nguyễn Ngọc Tư còn viết bài khác nói về nông dân khẳng định: “Tôi nhận ra 80% dân số VN, con số này giống như cua óp, nghĩa là có vẻ hùng hồn, to tát vậy chứ trong ruột teo héo, rỗng không”.

Qua trả lời như trên, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Cà Mau thấy với tư cách là cán bộ, viên chức nhà nước, đại biểu HĐND mà trả lời như thế là thiếu trách nhiệm, coi thường cơ quan quyền lực ở địa phương, làm mất uy tín HĐND, làm giảm sút niềm tin của cử tri đối với đại biểu HĐND và xem thường nông dân VN.

Từ đó Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy có báo cáo đề nghị Đảng, Đoàn - nơi Nguyễn Ngọc Tư sinh hoạt - giáo dục, kiểm điểm nghiêm khắc về phát ngôn thiếu trách nhiệm”. (*)

Về truyện ngắn Cánh đồng bất tận, báo cáo nói rằng “có hai luồng ý kiến khác nhau khá phức tạp, nhưng đa số là phản ứng nội dung không tốt, tập trung nhiều đối tượng, lứa tuổi phản ứng khá gay gắt, thậm chí đòi thu hồi cho là không mang tính giáo dục...”.

Báo cáo kết luận: “Như vậy, truyện ngắn Cánh đồng bất tận thiếu tính giáo dục cho xã hội, giáo dục con người và thiếu tính định hướng chân - thiện - mỹ để con người vươn tới. Cho nên Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy đề nghị Hội Văn học nghệ thuật thường xuyên có định hướng chính trị cho hội viên (trong đó có Nguyễn Ngọc Tư) được học tập lý luận chính trị và chuyên môn nghiệp vụ để nâng cao ý thức trách nhiệm của người cầm bút cách mạng”. (*)

_____________

35: kiểm điểm vì Cánh đồng bất tận thiếu tính giáo dục!

Truyện ngắn Cánh đồng bất tận của tác giả Nguyễn Ngọc Tư, do Nhà xuất bản Trẻ phát hành tháng 11-2005.

Sau khi xuất bản, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy đã tiếp nhận hai luồng ý kiến: đồng tình và không đồng tình; số không đồng tình phản ứng gay gắt, cho rằng tác phẩm Cánh đồng bất tận không có tính tư tưởng giáo dục, bôi đen xã hội nông thôn ngày nay. Vì thế diễn ra tranh luận, dư luận khá phức tạp thời gian qua.

Trước tình hình đó, ngày 24-3-2006, lãnh đạo Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy có buổi làm việc với lãnh đạo Hội Văn học nghệ thuật. Sau khi phân tích, xem xét những vấn đề mà dư luận phản ảnh, đồng chí trưởng Ban Tuyên giáo có ý kiến như sau:

1. Mặt tích cực (báo cáo nêu ba điểm về nhà văn Nguyễn Ngọc Tư): có năng lực, tư duy sáng tạo; có nhiều tác phẩm được phát hành rộng rãi, được độc giả mến mộ; cách suy nghĩ, cách viết gần gũi với cuộc sống, mộc mạc, chất phác chân tình).

2. Mặt hạn chế cần lưu ý:

- Trong truyện ngắn Cánh đồng bất tận miêu tả cái xấu của xã hội nông thôn, câu từ hơi nặng nề, để ám chỉ con người bần cùng túng quẫn, không lối thoát, một cuộc sống quá cùng cực, bí lối, chỉ biết “làm gái, đổi thân xác lấy cuộc sống”. (Có thể đọc ở trang 158, 160, 161, 168, 169, 190, 203).

- Cánh đồng bất tận thiếu tính tư tưởng, giáo dục xã hội, giáo dục con người, thiếu tính văn hóa nghệ thuật góp phần xây dựng xã hội tốt đẹp mà xuyên tạc chê bai nhiều, gây bất lợi.

- Phê phán xã hội, nói cái xấu, mặt trái, hư cấu vượt quá hiện thực, cái không tốt nhiều hơn, không định hướng cho con người đi đến tương lai cuộc sống, hướng tới cái đẹp.

3. Đề nghị:

- Hội Văn học nghệ thuật kiểm điểm phê phán tác giả một cách nghiêm khắc rút kinh nghiệm khi viết, cần phải có thực tiễn cuộc sống, cái đẹp, cái tốt mà xã hội đang xây dựng và phát triển (*). Tất nhiên, cần phê phán cái chưa tốt, nhưng phải đúng hiện thực và có định hướng cho con người đến cái chân - thiện - mỹ.

- Hội Văn học nghệ thuật nên thường xuyên có định hướng cho người viết sáng tác những tác phẩm hay, có phê phán nhưng phải thận trọng tránh gây nên một phản ứng xã hội gay gắt đối với tác phẩm.

- Thường xuyên tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tất cả hội viên ở các lĩnh vực (có Nguyễn Ngọc Tư) được tham gia học tập lý luận chính trị, trau dồi đạo đức phẩm chất, nâng cao ý thức trách nhiệm của người cầm bút, nâng cao nghiệp vụ chuyên môn.

Riêng nội dung trả lời phỏng vấn với một số báo thiếu trách nhiệm đề nghị đảng, đoàn nơi Nguyễn Ngọc Tư sinh hoạt giáo dục và kiểm điểm. (*)

tuoitre online
Song Anh
#60 Posted : Wednesday, May 10, 2006 6:48:33 AM(UTC)
Song Anh

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 1,004
Points: 18

Vẽ cây, vẽ chim

Cao Huy Thuần




Tôi nghe tin nhà văn Nguyễn Ngọc Tư bị kiểm điểm cứ tưởng như chuyện đùa. Nhà văn này, và tác phẩm của cô, đôn hậu, trong sáng như một khung trời xanh. Ai tưởng tượng được sấm sét có thể nổ trên bầu trời thanh bình đó? Cô bị đánh mà ai cũng thấy đau. Cây viết trên bàn như cũng rùng mình. Kim đồng hồ quặn một phút mặc niệm. Cho văn chương.

Từ khi đọc "Cánh đồng bất tận" tôi đã muốn viết một thư cho tác giả mà chưa có dịp. Bỗng nhiên đây là dịp tốt. Không phải tôi định viết về cả tác phẩm: chỉ về một trang trong đó thôi. Không ngờ trang đó bây giờ ăn khớp với thời sự văn chương, cho phép tôi vừa gởi lòng đến tác giả, vừa mặc niệm với kim đồng hồ. Đó là mấy câu mở đầu cho truyện "Cánh đồng bất tận":

"Tôi hiểu biết về Phật giáo không nhiều, vớ được quyển sách nào thì đọc cái ấy. Cũng có điều hiểu được, học được, làm được, nhưng nhiều điều buộc phải "bó tay". Ví dụ như mấy lời này: "Khi nào bạn bực tức, giận dữ, hãy bất động! Ngay tại đó! Đừng cử động! Đừng làm gì cả! Đừng nói gì – dù chỉ một lời. Hãy yên lặng và bất động hoàn toàn. Tuyệt đối không biết gì đến kẻ hoặc sự việc làm cho mình giận dữ (Hạn chế sân hận, trải rộng tình thương - Tỳ kheo Visuddacaraz). Trời ơi, mình giận muốn chết, muốn gào thét, muốn cào cấu, muốn đập phá mà không cho mình nhúc nhích, sao có thể hả hê? Đạt được đạo mới khó làm sao ..."

Đọc lại những hàng trên trong hoàn cảnh mới, tôi có cảm tưởng bây giờ tác giả đã ... đạt đạo. Chắc chắn cô đã không đập phá, cào cấu. Chắc chắn cô đã cần một sự yên lặng "tuyệt đối" để suy nghĩ, để hành động sao cho đúng. Nhà sư kia cũng chỉ nói bấy nhiêu thôi, nhưng lời nói hùng hồn quá và đã đến không đúng lúc. Giận là chuyện thường ngày. Nhiều khi là cần thiết, là hay, nếu đó là giận bất công, giận áp bức, giận cái xấu. Vấn đề là mình phản ứng thế nào, có muốn làm Trương Phi hay không, có muốn đốt nhà hay không khi giận con chuột. Cô Tư đã đem chuyện giận ra để mở đầu, tôi cũng bắt chước cô đi vào chuyện giận trước. Không chừng giữa cái giận và cái hứng sáng tạo của nhà văn có một khoảng trống yên lặng nào đó giống nhau chăng.

Kinh nghiệm của tôi về cái giận là tôi rất khổ mỗi khi giận. Tôi rất khổ và khổ rất lâu mỗi khi cãi cọ với ai. Biết như thế nhưng vẫn giận, vẫn cãi. Vậy thì làm sao vẫn cãi, vẫn giận, mà đừng khổ? Chiến lược thì rất rõ: đừng để cái giận nó kéo mình đi. Nhưng chiến thuật là thế nào? Kinh nghiệm riêng của tôi là thế này: làm bất cứ một hành động gì, cử chỉ gì, ý nghĩ gì không có chút liên quan nào với cơn giận đang bốc. Rót một ly nước. Uống một ngụm. Nhìn chậu hoa đang héo và nghĩ: hôm qua quên tưới nước cho nó. Sắp lại một quyển sách vào kệ. Nhìn hai con ngựa đang đùa với nhau trong bức tranh trên tường. Nghe theo tiếng xe đang chạy ngoài đường. Tiếng nói chuyện của trẻ con đi học về. Trong khi cơn giận đang kéo mình đi, nghĩ đến bất cứ một cái gì khác là để cắt đứt nó. Một hình ảnh đẹp. Một người thân. Một câu thơ. Một câu kinh. Nghĩ đến thôi, không cần đọc, nghĩ chớp một cái, rồi nếu bám theo được một chữ thì cố bám. Câu kinh nằm lòng của tôi là:



Chận được cơn giận

Khi đang bùng lên

Như thể hãm được

Xe chạy có đà

Thì người như vậy

Như Lai gọi là

Người lái xe giỏi

Còn những người khác

Chỉ cầm cương hờ.



Nghĩ như vậy để làm gì? Để tạo khoảng trống giữa cơn giận và thân miệng. Để tay chân đừng làm bậy, miệng đừng nói bậy. Làm một cái gì, nói một câu gì trong khi giận là thêm cũi cho lửa. Tất nhiên, không phải lúc nào tôi cũng thành công; nhưng càng ngày tôi càng bớt thất bại.

Nếu tôi giận quá, không nghĩ gì khác được, thì chiến thuật thứ hai được đem ra: nhìn cơn giận. Nhìn nó đến, nhìn nó đang hành hạ mình, nhìn nó bốc lửa, nhìn nó thiêu đốt, cứ để nó thiêu đốt, nhìn nó hạ lửa, nhìn than hồng ... Cơn giận đang muốn cuốn tôi theo nó; tôi hãm nó lại không được thì tôi nhìn nó đi. Vấn đề không phải là cố làm mất nó: sức mấy mà nó mất. Vấn đề là phải ý thức về nó, đừng để mất ý thức. Cơn giận không muốn gì hơn là mình đổ nó lên đầu người khác. Mình nhìn theo nó thì mình tránh được chuyện đó, tránh làm nô lệ. Nhìn theo nó cũng là để tạo khoảng trống trước bước chân nó đi.

Hai chiến thuật đó được hỗ trợ thêm bằng một suy nghĩ căn bản: phải biết phân biệt con người và hành động, có hành động ác nhưng không có con người ác. Nếu giận, hãy giận cái hành động, đừng giận con người. Người gây cái ác cũng chỉ là nạn nhân của hàng trăm yếu tố bên ngoài; họ đáng thương hơn là đáng giận và nên thương họ. Hơn ai hết, chắc bây giờ cô Tư đang thấm điều này. Chung quanh tôi ở đây, chung quanh cô Tư ở bên nhà, dường như ai cũng biết gởi cái giận của mình vào đâu cho đúng chỗ. Dường như ai cũng biết giận và biết thương, biết giận cái gì, biết thương ai. Giận cái hành động chứ không giận người thì không đổ giận lên đầu người khác bằng thân, bằng miệng. Tức là tạo khoảng trống đó thôi !

Tôi học được câu chuyện này trong sách. Hãy tưởng tượng ta đang chèo thuyền dạo chơi êm ả trên sông một buổi chiều sương mù. Thuyền đang nhẹ trôi như vậy thì, ô hay, bỗng hiện ra từ trong mù sương một chiếc thuyền của ai cứ nhắm thẳng vào thuyền ta mà xông tới. Choảng! Nó đâm vào ta rồi. Giận quá, ta muốn la lối, chửi mắng một trận nên thân, nhưng nhìn lại thì thuyền kia trống trơn, chẳng có ai trong đó. Làm gì bây giờ? Chửi đổng trời đất một tiếng rồi cũng im thôi. Nhưng ví thử bây giờ thuyền kia không trống mà có người chèo, chuyện gì sẽ xảy ra? Trời đất sụp đổ, xô xát, không chừng đổ máu. Cái gì làm hai tình trạng khác nhau? Chỉ thế thôi: một bên có người khác để ta trút cơn giận, một bên chẳng có ai nên cơn giận tự tiêu. Vậy thì phải chăng hãy suy nghĩ về cái trống thì mình làm chủ được cơn giận?

Cho nên các người học thiền phải học ngồi. Học thở. Thở vào thì biết thở vào, thở ra thì biết thở ra. Thở như vậy để làm gì? Để chú tâm? Không hẳn. Để rốt cuộc chỉ còn hơi thở mà không còn người thở. Chỉ còn thở vào, chỉ còn thở ra, như gió thổi qua cửa trống. Cái gì bên ngoài cũng vào ra như vậy. Con chim hót trên mái nhà? Thì tiếng chim đi vào, tiếng chim đi ra. Không có người để thích thú: chà, con chim mùa xuân đã về. Cũng không có người để bực dọc: chà, con chim làm ồn quá không để cho người ta thở. Cái gì trống thì không vướng mắc. Cơn giận cũng thế. Cơn giận đi vào, cơn giận đi ra, như tiếng chim. Học thiền là học mở cửa. Mở cửa cho tất cả đi vào, kể cả cơn giận. Mở cửa cho tất cả đi ra, kể cả chính mình. Quên mình đi là cứu cánh của học thiền. Bởi vì quên mình thì mới có tất cả. Cái vỏ lúa không quên mình, không làm trống mình đi, thì cây lúa không mọc được. Khúc củi không quên mình đi thì lửa không rực bốc. Có nhiều khi khúc củi không chịu quên mình: khi đó thì không có lửa, chỉ khói cay mắt. Lửa bốc lên không phải từ gỗ, mà từ cái trống của gỗ. Cô Tư đâu có cần theo đạo Phật, nhưng cô Tư biết trống hơn bao nhiêu người học thiền. Có người phỏng vấn cô về chuyện nhà văn thế này thế kia, cô trả lời: "tôi vẫn không nghĩ mình là nhà này nhà nọ". Cô trống như vậy thì khó đánh cô lắm. Đánh vào khoảng trống thì tự mình mất đà, đã không trúng ai mà còn ngã chúi. Hơn thế nữa, cô biết cô trống thì cô nhìn ai mà chẳng thấy người đó cũng trống? Cô sẽ nghĩ: đâu có ai đánh mình! Ấy là một mớ thành kiến, một mớ mê muội đang biểu diễn mấy đường quyền đó thôi, có con cá nào đâu mà chém cái thớt!

Thế là từ chuyện giận của cô Tư tôi đã đi qua chuyện trống của thiền mất rồi. Nhưng thiền và sáng tạo nghệ thuật thì có gì khác nhau đâu! Cả hai bên đều nhắm vào cái chỗ trống ấy! Đây, tôi kể chuyện nghệ thuật. Đời xưa, có người thợ mộc vâng lệnh vua đẽo một cái giá chuông. Ông đẽo tài tình thế nào mà khi chuông đánh lên, tiếng ngân nga như đi vào tận tâm can của cả thiên hạ. Hỏi ông bí quyết, ông bảo: có gì đâu, tôi ăn chay nằm đất cho lòng thanh tịnh, rồi tôi quên mất lợi lộc vua ban, quên mất thưởng phạt, quên cả triều đình chức tước, quên luôn thân thể tứ chi của tôi, cứ thế tôi đi vào rừng, tôi ngắm thân cây, ngắm thiên nhiên hiển lộ trong thân cây, lựa cây nào tràn đầy thiên nhiên nhất, rồi sau đó, sau đó, chỉ sau đó thôi, tôi mới mường tượng ra cái giá chuông sẽ đẽo. Ông thợ mộc vứt hết; ông vứt hết thì ông mới có tất cả, có tất cả thiên nhiên trong ông. Thiên nhiên đó bắt gặp thiên nhiên cuồn cuộn trong thân cây, làm sao chuông không ngân nga tiếng thần? Ông vứt hết, vứt luôn ra khỏi đầu cái định kiến, cái chấp trước về giá chuông; với cái đầu trống trơn như vậy, giá chuông ông đẽo làm sao không khác giá chuông của cả thiên hạ từ xưa đến nay? Chuyện ấy, tôi kể lại từ ông Trang Tử.

Cùng nói chuyện nghệ thuật cả thì đời nay cũng vậy, bên Tây cũng vậy thôi. Ai cũng biết những tranh vẽ cây nổi tiếng của Matisse. Nhà danh họa ấy đã vẽ cây như thế nào? Ông thú thực: bao nhiêu lần ông đã vẽ cây nhưng chẳng lần nào thành công. Lúc đầu, ông bê cả cái cây vào tranh, nghĩa là cái cây thế nào thì ông vẽ thế ấy. Kết quả làm ông nản, vì ông thấy tranh không có hồn, chẳng nói được gì về mối cảm xúc của ông về cây. Tiếp theo, ông cố đưa vào tranh chỉ tình cảm, xúc động của ông mà thôi, nhưng ông lại bị choáng ngợp trước vẽ đẹp của thân cây, trước sức vóc lực lưỡng của thân ấy và bí ẩn chứa đựng trong đó, đến nỗi ông chỉ vẽ thêm được một hai cành thôi rồi ngưng nửa chừng. Vậy mà, lạ thật, khi ông nhìn cây trong lúc không có ý định vẽ thì lại thấy toàn thể cây từ thấp lên cao. Cứ thế, dù cảm nhận được cây từ gốc đến ngọn, hễ cầm cọ vẽ là ông bị thân cây chiếm trọn đầu óc. Vẽ thân cây xong, đến khi thêm cành lá, lá cành tuồng như chỉ để cắt nghĩa đây là cái cây, chẳng đem lại chút rung động nào. Mãi hoài như vậy, rất lâu, hễ động đến cành lá là y như ông bị dội lui, rất khổ sở. Cho đến một hôm, không có ý định gì trước, ông vớ tập giấy viết thư và thử vẽ cành lá bằng cách đơn giản nhất: mỗi lúc cây từ từ hiện ra dưới ngòi bút, ông lại thấy lá cành mọc ra.

Đó là đoạn thư ông viết cho người bạn tâm giao. Ông vẽ cảnh không được vì vướng tình, tình quá đầy. Ông vẽ tình cũng không được vì vướng cảnh, cảnh rào rạc thần hồn. Đầy ắp tình, đầy ắp cảnh, đầu ông lại còn đầy ắp cái ý định vẽ. Chưa vẽ mà đầu đã bị đóng khung trong ý định, làm sao bức tranh vọt ra? Phải mở cửa cho nó! Phải làm trống cái đầu! Cho nên Matisse chỉ vẽ được cây khi không có ý định gì trước.

Ông viết rõ trong bức thư: "Tôi nghe nói các ông thầy dạy vẽ bên Tàu dặn học trò: vẽ cây, hãy có cái cảm giác trèo lên với nó khi bắt đầu vẽ từ gốc". Làm sao trèo lên dần dần với cây trong tranh nếu không sống trọn vẹn với nó và chỉ với nó mà thôi? Làm sao sống trọn vẹn với chỉ một mình nó nếu không vứt bỏ hết tất cả ra khỏi đầu, nếu không làm trống cái đầu?

Matisse viết thêm trong một thư khác: để vẽ cây thực sự, đừng bao giờ có "một hình ảnh đã tạo ra trước". Ông giải thích: "Tôi không lý luận khi tôi vẽ: các họa sư Trung Quôc bảo rằng khi vẽ cây phải trèo lên với nó. Tôi cũng làm như vậy. Nhưng đừng nói trong khi vẽ: tôi đang trèo lên với nó đây và lý luận trên đó. Khi tôi làm một việc gì, tôi không tìm kiếm, tôi chỉ cho". Matisse nói: chỉ cho. Có khác gì các ông thiền sư đâu: chỉ làm, chỉ ngồi, chỉ thở. Cho, làm, ngồi, thở là có. Còn tất cả là không. Từ đâu thổi tới phơi phới ngọn gió trong tranh Matisse? Từ cái trống đó. Ông thổ lộ:"Hình như nỗi vui toát ra trong tranh của tôi bây giờ nhiều hơn trước; đó thực là điều mà tôi đã thử làm cách đây năm mươi năm. Phải trải qua bấy nhiêu năm tôi mới đạt được trình độ cho phép tôi nói được điều tôi muốn nói".

Diễn tả một cách khác, cụ thể hơn, nhưng cùng trên một ý phải biết vứt bỏ trong khi sáng tạo nghệ thuật, Picasso viết:"Ai cũng có một dự trữ như nhau về năng lượng. Người trung bình phung phí năng lượng của họ bằng trăm nghìn cách. Tôi, tôi dồn tất cả sức lực của tôi vào một hướng mà thôi: vẽ. Và tôi hy sinh tất cả mọi chuyện khác vì nó: hy sinh anh, hy sinh tất cả mọi người, kể cả tôi". Kể cả tôi! Chỉ còn vẽ thôi. Người vẽ cũng không còn. Cũng trống trơn. Vì không còn người đứng vẽ nữa cho nên Picasso có thể vẽ ba bốn giờ liên tục, không làm một cử chỉ nào thừa. Có người hỏi ông đứng lâu như thế có mệt không, ông lắc đầu: "Không. Khi tôi làm việc, tôi để cái thân của tôi ngoài cửa, như các người hồi giáo cất bỏ giày dép trước khi vào giáo đường. Trong tình trạng đó, cái thân chỉ nguyên vẹn hiện hữu dưới dạng cây cỏ, và chính vì vậy mà giới họa sĩ chúng tôi thường sống rất lâu".

Giống hệt như thiền, bí quyết của sáng tạo nghệ thuật là trở về lại với cái đầu trống trơn, cái đầu của đứa bé, cái sơ tâm, cái đầu chưa hề bị ảnh hưởng về bất cứ cái gì khác. Viết một câu văn cũng vậy, một câu thôi, không người cầm bút nào nảy ra được một ý hay, một tứ mới, nếu không vứt bỏ đi hết những gì đã học, đã đọc. Vậy thì cô Tư giận gì, giận ai, nếu người nào đó đổ tràn vào đầu cô một trăm cái chữ "phải": phải thế này, phải thế nọ? Người đó nói cái chuyện gì đâu đâu, nào có liên quan gì đến chuyện viết văn?

Trên kia, tôi nói: khi cơn giận nổi lên, tôi cố cắt đứt nó bằng một cử chỉ, một hình ảnh, một ý nghĩ, một câu thơ, một câu kinh ... Bây giờ, giận chuyện cô Tư, tôi cũng cắt đứt bằng một bài thơ, bài thơ mà tôi vốn thích từ ngày còn đi học, của Jacques Prévert, "Để vẽ chân dung một con chim":

Trước hết vẽ một cái lồng

với cánh cửa mở

sau đó vẽ

một cái gì xinh

một cái gì đơn sơ

một cái gì đẹp

một cái gì ích lợi

cho con chim.

Rồi đặt khung vải cạnh thân cây

trong vườn

trong rừng non

trong rừng già.

Nấp sau cây

không nói

không cử động ...

Đôi khi chim đến nhanh

nhưng cũng có khi hàng năm đằng đẵng

mới quyết định đến.

Đừng nản.

Chờ.

Chờ hàng năm cũng chẳng sao.

Chim đến nhanh hay chậm

chẳng liên hệ gì

với thành công của tác phẩm.

Khi chim đến

nếu nó đến

hãy im lặng thật sâu

chờ chim vào lồng

và khi chim vào rồi

nhè nhẹ đóng cửa lồng bằng bút vẽ.

Rồi

xóa hết nan lồng từng cái một

mà cố tránh đừng động đến lông chim.

Sau đó vẽ cây

chọn cành nào đẹp nhất để vẽ

cho chim.

Cũng vẽ lá cây xanh và hơi mát của gió

bụi mặt trời

tiếng côn trùng tỉ tê trong cỏ nóng bỏng mùa hạ.

Rồi chờ chim quyết định hót.

Nếu chim không hót

thế là điềm chẳng lành

dấu hiệu bức tranh vẽ xấu.

Nhưng nếu chim hót thì đó là điềm tốt

dấu hiệu bạn có thể ký tên.

Khi đó bạn nhẹ nhàng rất nhẹ nhàng

nhổ một lông chim

và viết tên bạn trên tranh nơi góc.



Tôi cam đoan với cô Tư, khi nào cô Tư "giận muốn chết", cô Tư hãy nghĩ đến con chim trong bài thơ, cơn giận sẽ đi qua. Cô Tư nhớ nghen: vẽ một cái lồng chim với cánh cửa mở; đặt cái lồng giữa thiên nhiên; con chim là thiên nhiên thì mình cũng phải thiên nhiên như nó; như vậy thì nó đang là mình và mình đang là nó, cả hai là một; chỉ lúc đó và chỉ lúc đó mới vẽ; và vẽ là mở cửa lồng ra, làm biến nó mất, như chính mình cũng mất; giữa thiên nhiên chỉ còn lồng lộng con chim, không biết chim trong tranh hay chim ngoài trời, tranh vẽ hay chính thiên nhiên tràn trề sức sống đang hót với chim, nồng với nắng hạ, xanh với lá non, tỉ tê với cỏ ... Mình nói chuyện sống trong sáng tạo nghệ thuật. Người kia nói chuyện chết. Hai chuyện có ăn nhậu gì với nhau đâu mà giận?



19-4-2006

Chú thích:

1.Về Matisse: "Lettre à André Rouveyre sur le dessin de l'arbre", Ecrits et propos sur l'art, H. Matisse et D. Fourcade, Paris, Hermann, 1991. Xem thêm: Cynthia Fleury, La joie de peindre, http://humanite.fr/journ...04-27/2005-04-27-633266

2.Về Picasso: François Jullien, Nourrir sa vie, Seuil, 2005, trang 164.

Bài đăng lần đầu trên Diễn Đàn và Văn Hoá Phật Giáo tháng 5/2006

Dùng bản tác giả gởi


Users browsing this topic
Guest
5 Pages<12345>
Forum Jump  
You cannot post new topics in this forum.
You cannot reply to topics in this forum.
You cannot delete your posts in this forum.
You cannot edit your posts in this forum.
You cannot create polls in this forum.
You cannot vote in polls in this forum.