Welcome Guest! To enable all features please Login or Register.

Notification

Icon
Error

5 Pages<1234>»
Nguyễn Ngọc Tư
Vi_Hoang
#21 Posted : Friday, November 19, 2004 6:22:36 AM(UTC)
Vi_Hoang

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 1,407
Points: 48
Woman
Location: California, Santa An a

Was thanked: 1 time(s) in 1 post(s)
quote:
Gởi bởi tonka
Đồ ... đểu Angry

Cám ơn AB post truyện hay.



Chết rồi! bây giờ đến phiên Tonka chửi anh Ba Ton là đồ.....đểu rồi đó hả!
Chửi xong rồi lại cảm ơn nữa chứ, chắc là cảm ơn anh Ba đả cho cơ hội cho Tonka chửi. Đứng là vừa đánh, vừa vuốt phải không Tonka? hi..hi....Dead
Phượng Các
#22 Posted : Friday, November 19, 2004 10:29:06 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
Thấy anh Ba gõ mấy truyện của Nguyễn Ngọc Tư, các bạn có nghĩ là các truyện của các nhà văn nữ thì nên mang vào đăng trong mục "Các Nhà Văn Nữ" hay không? Còn mục Văn này thì chỉ dành đăng bài của chúng ta (các members) sáng tác - hoặc văn của các nhà văn nam mà mình thích muốn giới thiệu hay cần thảo luận với độc giả PNV. Anh Ba nghĩ sao? Nếu anh OK thì anh mở giùm một topic Nguyễn Ngọc Tư bên Các Nhà Văn Nữ, topic đầu anh dành để viết tiểu sử và hình NNT (nếu chưa có tài liệu thì anh để trống chờ điền vào sau), sau đó thì anh rinh giùm các truyện của bà vào đó. Vậy là cám ơn anh lắm lắm. beerchug
hc
#23 Posted : Friday, November 19, 2004 11:40:07 AM(UTC)
hc

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 261
Points: 0

À há, truyện của NNT thì phải đưa qua bên Nữ tác giả chớ, hổm rày AB....lẩm cẩm chăng, bị mấy chị em...quay quá xá nên ảnh...rối bòng bong rồi TongueTongue
Tonka
#24 Posted : Friday, November 19, 2004 2:04:31 PM(UTC)
Tonka

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,643
Points: 1,524

Thanks: 95 times
Was thanked: 201 time(s) in 189 post(s)
quote:
Gởi bởi Vi_Hoang
Chết rồi! bây giờ đến phiên Tonka chửi anh Ba Ton là đồ.....đểu rồi đó hả!



Dạ em mắng cái anh chàng cù lần lửa Lương dùm cho cô Bông Tongue
Vi_Hoang
#25 Posted : Friday, November 19, 2004 7:54:04 PM(UTC)
Vi_Hoang

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 1,407
Points: 48
Woman
Location: California, Santa An a

Was thanked: 1 time(s) in 1 post(s)
quote:
[i]Gởi bởi tonka

Dạ em mắng cái anh chàng cù lần lửa Lương dùm cho cô Bông Tongue



Nếu đả là cù lần lửa thì không thể đểu được, hai thứ trái ngược hẳn nhau đó Tonka.
Smile
#26 Posted : Sunday, November 21, 2004 4:16:15 AM(UTC)
Smile

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 30
Points: 0

Em phụ với anh Ba type thêm dzài truyện nữa hén. Em cũng có 2 tập "Giao Thừa" và "Ngọn đèn không tắt" của Nguyễn Ngọc Tư mua từ năm ngoái. mí anh chị đồng ý hôn dzi???
Anh Ba
#27 Posted : Sunday, November 21, 2004 4:44:32 AM(UTC)
Anh Ba

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 953
Points: 0

quote:
Em phụ với anh Ba type thêm dzài truyện nữa hén. Em cũng có 2 tập "Giao Thừa" và "Ngọn đèn không tắt" của Nguyễn Ngọc Tư mua từ năm ngoái. mí anh chị đồng ý hôn dzi???

Thêm một fan của NNT...Smile. Đồng ý hai tay hai chưn...

quote:
Thấy anh Ba gõ mấy truyện của Nguyễn Ngọc Tư, các bạn có nghĩ là các truyện của các nhà văn nữ thì nên mang vào đăng trong mục "Các Nhà Văn Nữ" hay không? Còn mục Văn này thì chỉ dành đăng bài của chúng ta (các members) sáng tác - hoặc văn của các nhà văn nam mà mình thích muốn giới thiệu hay cần thảo luận với độc giả PNV. Anh Ba nghĩ sao? Nếu anh OK thì anh mở giùm một topic Nguyễn Ngọc Tư bên Các Nhà Văn Nữ, topic đầu anh dành để viết tiểu sử và hình NNT (nếu chưa có tài liệu thì anh để trống chờ điền vào sau), sau đó thì anh rinh giùm các truyện của bà vào đó. Vậy là cám ơn anh lắm lắm. beerchug


Từ từ tui làm việc này nghen chi PC, mấy bữa nay bận quá...Smile

quote:
Bông hét :
- Chê thân tui dơ dáy, nhơ nhớp nên không dám động vô tui chớ gì. Vậy mà thương tui sao ? Đồ xấu xí, đồ khùng.
Đồ ... đểu Angry


Hmmm...bà hàng xóm, bà nhớ nha...Angry. bà đọc lại cái đoạn ni đi....

quote:
Lương vịn một tay vô be xuồng, một tay vuốt nước trên mặt. Trong lòng anh nghĩ rất nhiều mà không nói được lời nào. Anh khờ khạo không có năng khiếu nói, lâu rày anh chỉ biết cười. Lương mà khùng ? Lương chỉ không muốn mình giống như bao thằng đàn ông khác, nhìn Bông như nhìn một món đồ chơi. Bông là Bông, là con gái, là người.

Xí....[}:)][}:)]
Smile
#28 Posted : Monday, November 22, 2004 3:05:10 AM(UTC)
Smile

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 30
Points: 0

Ngày đã qua

Tác giả : Nguyễn Ngọc Tư .
Trích trong Giao Thừa, tập truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư.




Mồng hai Tểt, Nguyên về quê. Khi chiếc xe tốc hành đút đít vô tới cổng cư xá, anh trèo lên mà bụng vẫn còn ngờ ngợ không biết mình có khoá nước trong nhad tắm chưa. Anh tự hỏi, mình gấp gáp gì, thời gian còn rất dài.
Nguyên quê Tân Thành nhưng làm việc ở Sài Gòn, một năm ba trăm sáu mươi lăm ngày anh chỉ gặp đám bạn bè ruột ràng được mấy ngày sau Tết. Rồi tiếp tục guồng chân chạy như điên với thời gian. Thành lệ, năm nào cũng vậy, bọn Hoà, Chi, Thi, Tiệp cũng chờ anh về rồi kéo nhau đi dọc dọc giăng giăng như bầy kiến đi thăm hết thay nhà thầy cô, bạn bè cũ. Nhà Thi sẽ đến cuối cùng. Đến Thi thì cả bọn đều say ngà ngà, vì ngà say nên chổ này chơi vui nhất.
Nguyên về, từ con đường Hoàng Diệu nhà Hoà đã mở ra một ngõ nhỏ ăn xéo qua ngã Đậu Đỏ nhà Thi. Nguyên không biết nên anh chạy lòng vòng qua mấy cái bùng binh. Xe cộ ken cứng. Cánh Hoà Chi cùng chung xe chắc đã tới nhà Thi lâu rồi. Mà, Tiệp ngồi đằng sau không nói gì về con đường mới. Chị sợ cứ mở miệng nhắc lại, lòng sẽ đau.
Rồi Nguyên chạy xe qua đầu hẻm, chạy dưới tán cây bàng cành cội xơ rơ. Bây giờ là mùa lá rụng nhiều. Mùi nước cốt dừa ngầy ngậy là đà bay ra từ quán đậu đỏ bánh lọt thơm bựng mũi. Nguyên nghe thèm cồn cào còn lòng Tiệp thì cuộn đau. Mùi thơm quen thuộc dây theo Tiệp đến chổ quẹo trái. Tiệp ngao ngán nghĩ, “nó còn hành hạ mình đến chừng nào?”.
Tiệp không định về đây. CHị không muốn nhìn lại con đường nhỏ lát gạch quanh co mỗi trưa chiều tan sở đi về, ngôi nhà có hàng rào bông trang đỏ, gian bếp ngày hai ba lượt ấm lửa, nước chảy lon ton xuống chiếc thau rửa rau... Và một đứa con trai, và một người chồng mới đây thôi đã trở thành chồng cũ. Nhưng Nguyên bảo, tụi mình chơi với nhau từ nhỏ, hồi đó hứa làm sao, dù có chuyện gì cũng không bỏ nhau. Tết nhứt mà không về đốt hai nén nhang cho ông bà già là bậy. Chi nói một câu đầy ý nghĩa, “không có Tiệp làm sao vui được”. Tiệp gật đầu, chị bảo :
- Nghĩ lại, thì đâu có thù oán giận hờn gì mà không thèm nhìn mặt.
Thi thấy có Tiệp theo Nguyên thì mừng lắm. Anh cứ sướng sướng cười cười hoài, “cứ tưởng là Tiệp không tới...”. Tiệp lừ mắt ý bảo thôi đi. Nguyên dừng xe tắt máy, như muốn được hưởng cái thâm nghiêm của con hẻm ngày xưa. Nhưng quả khác trưứoc nhiều, anh dựng cái chân chỏi xe, ngó muốn trẹo cổ mới thấy được vạch trời xanh thẩm. Thi vò đầu Nguyên, “Trời đất, làm gì mà mới mấy tháng tóc mầy rụng thê thảm vậy. Ốm, già quá?”. Nguyên cười xoà :
- Thì tóc mầy cũng bạc trắng. Suy nghĩ gì nhiều vậy?
Thi nói nhanh:
- Tao có suy nghĩ buồn phiền gì đâu. Tại tao xấu máu mà. Ngủ một đêm thức dậy soi kiến thấy mình già, đâu cần lâu lắc gì mậy.
Rồi Thi đẩy Nguyên, bảo Tiệp vô nhà. Nguyên dừng lại tháo giày ở ngạch cửa, lòng bảo lòng, bữa nay hãy vui như trước đây đã từng vui. Thi thì nghĩ, hoàn cảnh như vầy, còn đủ sức để trợn trạo vui. Chỉ không biết Tiệp nghĩ gì, chị ngẫng cao đầu khi qua cửa. Chị hỏi trống không:
- Nhện Con đâu rồi?
Thi trả lời :
- Hồi sáng này anh Trực Tết cơ quan, chở nó qua bển thì nó buồn, anh điện thoại biểu cô út Nhên Con rước nó đi chơi. Chắc tới chiều mới về.
Nguyên ngồi xuống chiếc võng lưới sát tường :
- Cha, tao nhớ Nhện Con quá. Chắc bây giờ nó ớn bộn hen?
- Ừ, hình nó mới chụp kìa
Nguyên buột miệng:
- Sao mặt thằng con chúng ta buồn vậy?
Rồi anh chợt giật mình, hoàn cảnh như vầy sao đứa trẻ có thể vui. Anh hối hận nhìn Tiệp cắn hột dưa. Khuôn mặt xinh đẹp của chị toát ra cái vẻ lơ đãng một cách đau lòng.
Hoà, Chi ở đằng sau vừa tằng lăng tíu líu đóng tủ này, mở tủ khác dọn đồ ăn, vừa n chuyện vói lên:
- Đường bằng gang tay hai người không muốn đi, lại lòng vòng cho phí cuộc đời. Tụi nầy làm cá xong rồi. Hai người có số sung sướng thiệt.
Rồi không đợi Tiệp trả lời, Chi đã quay sang nhằn Thi sao mà để ngay trên sàn nước một đống chén dĩa dơ vậy, không rửa ch đâu mà ăn. Quần áo thì nùi ghê gớm. Trên bếp đầy vunk cá khô đã khét nghẹt. Chi thắc mắc giọng rất ư chị hai (tất nhiên không phủ nhận chị lú nầy cực kỳ ...bề thế)
- Không hiểu ông Thi nầy vắng con Tiệp rồi sống làm sao?
Thi cười :
- Thì cũng cố lên. Mà, bình thường cha con tui ngon lành lắm à. Tại Tết nhứt Chi phải cho người ta bê bối một tí.
Hoà, Chi tỉ mỉ một cách thiệt thà. Nhà Thi có món gì hai vợ chồng đã bày đủ món đó. Tiệp sắp xếp tiệc trên sàn gạch. Ngoài mấy món năm ngoái, năm kia, năm kỉa năm kìa thấy hoài là tôm khô, củ kiệu, dưa chua, dưa hấu, còn có cái lẩu cá lóc nhúng cơm mẻ. Khi mọi người ngồi quây lại, trong lòng chợt nghe rưng rưng một mái ấm nồng nàn. Đâu phải dịp nào, lúc nào muốn cũng đông đủ như vậy. Chi giục:
- Cái con Tiệp nầy, mầy khách sáo quá đi, cầm đũa lên chớ, mầy đang nghĩ là ngồi ở nhà ai, hả? Còn anh Thi, rót rượu ra, tụi ta chúc mừng năm mới.
Thi rót rượu ra mấy cái ly nhỏ như trứng cút. Uống, chúc mừng năm mới, chúc tụi ta vạn sự như ý, an khang thịnh vượng. Nguyên cười, “Sao người ta lại có tật chúc toàn chuyện không có, cụ thể lại đi”. Vậy thì phải chúc như vầy, chúc Thi vui vẻ, làm công tác thanh tra, vô việc không đối mặt với bạn cũ đẻ khỏi lâm vô cảnh đánh cũng lỡ mà kùi cũng dở. Tiêu chí vậy thôi. Chúc Hoà, Chi buôn may bán đắt, cuối năm trời xui đất xụi có một đứa con. Hoà nói dể ợt, đợt nầy bồng bế nhau đi Từ Dũ lần nữa mà vô phương thì xin một đứa con nuôi về. làm gì làm cũng có một đứa con gái, gả cho Nhện Con. Sau nầy già, khỏi sợ thằng rể điên điển. Cạn nữa đi chớ, trăm phần trăm, chúc Nguyên mau ... về hưu để có thời gian ở lại quê chơi với bạn bè. Cuối cùng chúc Tiệp hạnh phúc, thăng tiến, thể nào cũng lên chức giám đốc chi nhánh thời trang Bình San. Tiệp liếm môi:
- Cảm ơn nhiều, nhưng đừng chúc mất công. Em sẽ chuyển đi thành phố.
Thi rót tràn ly rượu. Có vẻ đã kiềm chế, nhưng anh không giấu được sự thảng thốt. Nguyên cũng ngạc nhiên không kém:
- Bất ngờ vậy? Tiệp tính từ bao giờ?
- Lâu rồi. Nhưng em muốn mọi người bất ngờ. Năm mới em muốn mình sẽ mới.
Hoà cười ặc ặc trong cổ, đưa cái ly lên ngang đầu:
- Tụi mình là chim trời. Có đứa muốn bay đi, có đứa muốn bay về. Mà chọn đi hay về thì cũng vậy, như thằng cha Nguyên này nè, mười chín năm rồi với tụi mình có gì khác đâu. Dzô cái nữa đi, chúc tụi ta sống hoài, sống lâu trăm tuổi để còn chơi với nhau dài dài.
Có lẻ đã uống nhiều trước khi đến đây nên Nguyên cạn ly nầy, mặt anh xanh xao và nhợt nhạt. Anh thất thần:
- Lại chúc chuyện vói không tới. Làm sao chắc sống tới trăm năm?
Thi khẽ cười, rót cho Nguyên không đầy như ly của những người khác. Hoà nói Thi thiên vị. Nhưng Tết nhứt uống không so đo, cho bao nhiêu uống bấy nhiêu. Thi nói: “Ông Nguyên phải luôn luôn tỉnh táo để chăn dắt đám say tụi nầy. Hồi nào giờ vậy, mai mốt cũng vậy”. Nguyên tự dưng thấy lòng mình trĩu nặng. Anh đề nghị đánh bài. Ừ thì đánh bài, để có cớ cho vợi hơi rượu đi, để hò hét cho xôm tụ nhóm. Hồi còn đi học, ở ký túc xá, không tiền, rãnh rỗi, đâu dám đi chơi ở ngoài, thấy cái gì cũng thèm chịu gì thấu. Vậy là ở nhà đánh bài. Không máu me, không nặng đỏ đen. Lúc trẻ thua thì quỳ gối, trét lọ nghẹ, búng lỗ tai, lỗ mũi. Lớn rồi thì chuyển qua uống rượu, phạt ca. Mà ca thì không ai muốn Chi thua, chị có giọng hát cực kỳ tệ. Sau nầy đổi lại đánh bài ăn có, người ta hỏi cái gì, người thua cũng chịu “có”. Hồi đó Hoà với Chi hục hặc như chó với mèo, có lần Thi cắt cớ hỏi Chi có yêu Hoà không, Chi quạu quọ “Ừ”. Thua ván nữa, Tiệp hỏi Chi đang tính lấy Hoà làm chồng phải không, Chi tức thiếu điều khóc nhưng cũng bảo “Có”. Ai mà biết được ra trường anh chị lại câu tay nhau làm đám cưới. Có đứa than, cách chơi nầy độc tài quá, Nguyên đề nghị ai thua chỉ bị hỏi một câu. Muốn trả lời sao cũng được nhưng phải thực lòng. Cho nên có lần Tiệp hỏi Thi có đi bia ôm không, Thi bảo “Có”. Tiệp giận từ mùng hai tới mùng năm mới xả cảng. Những khi rỗi rãi, Nguyên nằm nhớ lại thời đã qua và anh nhận ra rằng bọn anh đã chơi rất nhiều ván bài định mệnh. Mười một năm trước, Hoà hỏi Tiệp có thương Thi không. Tiệp gật. Vì cái gật đầu đó mà Nguyên ở lại làm ăn tại thành phố, anh biết mình chảng còn hy vọng gì nữa rồi. Có lần Thi hỏi lại:
- Tao cưới Tiệp, mầy có buồn tao không?
Anh lắc đầu. Rồi có lần Chi hỏi:
- Không cưới vợ, ở vậy chờ ai?
Lần đó, Nguyên nói dối, bảo là chờ duyên tới. Mà duyên thì đâu phải muốn gặp là gặp. Cũng có yêu hai ba lần đó chớ, nhưng hết thảy tréo cẳng ngỗng hết, biết làm sao. Ai cũng biết là Nguyên nói dối, anh không quên được Tiệp chớ gì. Họ phạt anh uống liền một hơi ba cốc rượu đầy. Nước mắt anh trào ra, anh nhăn mặt, rượu gì mà cay dữ vậy. Chỉ Thi, mà không, có khi cả Tiệp nữa hiểu được ý nghĩa những giọt nước mắt kia.
Năm nay phải bắt phe lại. Chi với Thi một phe. Tiệp với Hoà một phe. Nguyên ngồi cạnh Tiệp buông rèm chấp chính cho tiệp. Những lá bài còn bóng giấy được chia ra. Hoà lơ đãng nói:
- Y chang năm ngoái hen.
Trời đất, thời gian mà, sao mà giống năm ngoái được. Năm ngoái Chi còn thon thả chớ đâu có phì ra như cái eo bánh mì, năm ngoái Hoà còn sáng sáng ra đá cầu với đám trẻ chớ đâu có tự dưng trở chứng muốn chơi chim, chơi cây cảnh tao nhã như mấy ông già đâu. Năm ngoái Nguyên đâu co gầy rạc, xệch xạc. Năm ngoái, Thi ngồi đằng sau Tiệp làm cô vấn an ninh chớ đâu phải Nguyên. Năm ngoái, họ còn là chồng vợ. Nhưng ai dám chắc, trong lòng họ hết thương nhau?
Nhất là khi bắt bài lên tay, Thi bảo: “Ông Nguyên phải coi chừng em Tiệp, cái tánh bốc đồng ngẫu hứng không bỏ được đâu, từ đây ông phải chăm sóc Tiệp dài dài”, nhưng Nguyên đọc trong mắt Thi lời gửi gắm khác. Anh vẫn nhớ khi chuyện Thi đỗ vỡ, Thi đi công tác có ghé anh, hai đứa kêu bia về uống. Nguyên hỏi Thi tại sao lại tới nông nỗi vợ một nơi, chồng một ngã. Thi bảo tại không hợp nhau. Đừng hỏi tại sao, không thể kể ti tỉ chuyện lụn vụn trong cuộc sống vợ chồng được đâu. Nguyên hỏi có người thứ ba không, Thi bảo phải chi có để căm ghứt nhau cho đỡ khổ. Rồi khi Nguyên đã say mèm, Thi hỏi lại anh có còn yêu Tiệp không. Anh đã không nói dối, với Thi. Hai thằng từng ngủ chung giường, từng ăn chung mâm khi Nguyên ra thị xã trọ học. MÁ Thi hiền, thương hai đứa như nhau, chủ nhật Nguyên về quê, cõng ra một túm gạo lứt, má giận. Suốt một thời thơ ấu, Nguyên lớn lên bên Thi, thì làm sao có thể nói dối. Nghe anh, Thi chồm qua mấy chai bia lỏng chỏng lấy tay câu lấy vai Nguyên, nghẹn ngào:
- Phải chi hồi đó tao đừng cưới Tiệp, Tiệp sống với mầy biết đâu đỡ khổ hơn với tao.
Nguyên không nghĩ vậy. Thi không hiểu đâu. Bây giờ anh càng không nghĩ đến điều đó. Anh không có thời gian nữa, anh không còn chút gì để cho mình nữa. Anh gấp gáp lắm.
Bắt đầu từ tháng Năm rồi, Nguyên mắc cái bệnh bồn chồn. Anh muốn làm cái gì đó, trước khi không kịp nữa. Làm cho những người mà anh yêu thương. Một lần điện thoại về, anh Bảo Thi, nhắn với Hoà, Chi, Tiệp, anh sẽ tạo ra một mẫu nhồi bông mới, không phải thú mà là người. Hoà ốm, cao, mặt chữ điền, cạnh nào ra cạnh đó. Chi ú na ú núc, cái miệng rộng, cái mũi to bè bè nhưng đôi mắt rất đẹp, đôi mắt tròn xoe. Thi dong dỏng người, lưng tôm, trán cao, mũi thẳng, miệng mím lại cương quyết.Tiệp tóc dài, khuông mặt tròn dình, miệng lúc nào cũng như cười, mắt lúc nào cũng như hỏi. Và anh sẽ tạo anh...
- Nhồi bông tụi mình để làm gì? Để khi không còn bên nhau nữa thì tụi bông gòn đứng kề nhau à?
Thi để con ách cơ xuống, trông như một trái tim son, mắt anh ngầu lên. Nguyên nhìn vào nét mặt thi bối rối, anh muốn nhìn đi chổ khác mà không biết nhìn đâu. Hoà bỏ xuống từng lá bài cho một sảnh dài tràng giang đại hải:
- Thằng Thi đúng à. tụi mình mà đem nhồi bông thì y chang con thỏ ăn củ cải của Nhện Con, làm sao đánh bài, rồi làm sao mà uống rượu. Xong – Hoà khoan khoái – Tao về nhứt, đã thiệt.
Thi quăng bài ngang, khàn khàn giọng mũi biểu nghỉ chơi. Anh nói anh say lắm rồi, say muốn khóc luôn đây. Chi nhằn, thấy tướng mạnh dạn vậy mà có tật không bỏ, hễ say là đòi khóc. Thi mơ màng, “Hỏng hiểu sao muốn quên mấy chuyện mà càng uống nhiều, càng nhớ đứt ruột”. Hỏi chuyện gì, Thi nói chuyệnc ủa ngày xưa. Nhớ một đêm ba mươi ba má Chi đã vượt biên bỏ một mình chị ở lại sau một năm giải phóng, nhớ Hoà ở tù bốn tháng mười chín ngày vì tội cho dân phá rừng để sống khi còn làm việc ở lâm trường, nhớ Nguyên ngày đầu lập nghiệp, cái xưởng sản xuất đồ chơi tẹp nhẹp như ổ mèo, khói bụi mịt mù. Nguyên buổi sáng ăn bánh mì không, chiều ăn bánh mì uống nước lã. Nhớ tiệp hồi sinh Nhện Con, thai ép tim, phải chuyển viện tận thành phố để cứu mẹ, cứu con, số tiền dành dụm từ ngày cưới, dành dụm từ những buổi chiều tan sở, Thi gò lưng đi đổ cơm cặn về cho Tiệp nuôi heo đã lo thầy thuốc tan tành... Những ngày khổ đau, khó khăn cũng qua rồi. Chi thắc mắc:
- Biết bao nhiêu chuyện bự bự vậy mà tụi mình cũng vượt qua hen. Soa hay vậy không biết?
Có thể vì họ chưa bao giờ ngừng chiến đấu và hy vọng về một ngày mới tốt đẹp hơn. Có thể vì họ tin và yêu biết bao nhiêu cuộc đời này. Nguyên nghĩ khác:
- Bởi vì chúng ta chưa bao giờ bỏ nhau – Anh bắt đầu nổi hứng văn chương - Bởi vì chỉ có cái chết mới chia lìa được mấy đứa mình.
Thi nhìn Nguyên chằm chằm:
- Mày bệnh hả?
- Không, tao khoẻ.
- Chắc không?
- Chắc như bắp luột – Nguyên cười.
Thi nhăn mặt:
- Vậy mà mở miệng ra là nói chuyện chết. Hồi còn học tiểu học, mầy còn nhớ trường Nguyễn không? Trường nằm đâu lưng với chùa, bữa nào tụi mình cũng leo rào qua chơi bắn đạn dưới gốc bồ đề. Thấy người ta vái, mấy đứa cũng bày đứng vái, cho tụi con chơi với nhau hoài, tới một trăm tuổi luôn. Mầy năm nay bao nhiêu rồi, Nguyên? Bốn ba, Tụi tao cũng tròm trèm. Còn lâu tụi mình mới chết. Còn năm mươi bảy cái Tết nữa mà, Nguyên.
Nguyên nhìn ra cửa. Trời đang lặn xuống cái vạch trời thăm thẳm. Đêm xang xái lại buông màn. Anh thấy thích cái cảnh chiều qua như thế nầy, anh thấy yêu cuộc sống nầy, cái cuộc sống mà anh hít được, thở được. Anh bảo:
- Chắn mùng sáu tao quay về thành phố. Công chuyện quá trời...
Không ai lên tiếng cầm anh lại. Thi nhìn Tiệp, Tiệp lên tiếng, “Em sẽ đi cùng để lo thủ tục chuyển việc”. Chi nói bây giờ hứng sảng rồi, Chi mắc ca, chị muốn tặng Nguyên một bài. Cả bọn khủng khiếp quá nhưng trợn trạo biểu ca đi. Chi ca “Đừng tuyệt vọng, Tôi ơi, đừng tuyệt vọng...” Tự nhiên như cái đập oà vỡ, trừ Nguyên, cả bốn đều nghẹn ngào, nức nở.
Aha, vở kịch đời đã hạ màn khi chưa hết vở. Thử uống từng ấy rượu, coi có ai kìm nén được mình không. Đã cố lắm rồi, Tiệp đi Sài Gòn cũng nằm trong kịch, Thi kể chuyện xưa cũng nằm trong kịch suốt, la lối cho to, cười làm như hể hả, nói chuyện cười, cụng ly chan chát... Cũng đừng để nghe trong nhau mỗi người cuộn lên ngàn tiếng thở dài. Làm sao vui được như những ngày cũ. Làm sao được vui như những ngày cũ. Cả bốn người kia chua xót nghĩ, mình diễn được tới đây là vĩ đại lắm rồi.
Chỉ có Nguyên, anh dỗ, “Trời ơi mới mùng ba Tết mà khóc kiểu này cả năm xui lắm đó. Mà, chuyện gì vậy, có gì không?
Đâu có gì, lúc sáng, khi Nguyên còn tắm trong nhà Hoà, điện thoại cầm tay Nguyên reo. Hoà nghe máy, lại đùa mình là Nguyên. Cái giọng nữ đó (Hoà mô tả là khủng khiếp hơn giọng Chi), mắng té tát, hỏi tại sao không xạ trị đúng thời kỳ, ung thư phổi thời kỳ giữa rồi chớ giỡn sao. Tìm trong công ty, thư ký nói không có, gọi máy thì tắt máy. Cổ hỏi gằng gằng rằng anh còn yêu sự sống không? Hoà chết lặng đi, rất lâu, lâu lắm...
Vậy mà Nguyên bây giờ tỉnh rụi, anh đang cố hết sức mình để diễn cho mọi người vui. Hoà bậm môi lại để cười:
- Có rảnh thì gọi điện thoại về cho bác sĩ Phương. Ờ Phương hay Dương ta? Nói với cổ, mồng sáu ông về, mà thôi, đừng thèm nói, ông hát vô máy câu này nè “Tôi là ai, là ai, mà yêu quá đời này”. Phải chiến đấu chớ Nguyên, chiến đấu tới cùng. Bữa nay nữa thôi, ông không nhậu nhẹt nữa, để sống, coi như đây là bữa rượu cuối cùng của ông.
Hình như thời gian lầm lẫn, mà số phận cũng lầm. Đối với những người như thế, ngày hôm qua đã ở lại mãi, trong lòng.


Anh Ba
#29 Posted : Wednesday, November 24, 2004 1:56:27 AM(UTC)
Anh Ba

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 953
Points: 0

Nguyễn Thị Ngọc Tư - nhà văn của xóm ao bèo.

Ở xóm Bà Điều (Cà Mau), có một phụ nữ mới 27 tuổi, ngày ngày gánh rau ra chợ bán nuôi sống gia đình, được bình chọn là một trong số 10 gương mặt văn chương trẻ tiêu biểu của VN. Ngọc Tư tâm sự những câu chuyện của chị đều có bóng dáng của xóm nghèo nơi mình đang sinh sống.

Tuổi thơ của Ngọc Tư là những chuỗi ngày vất vả, đi học về, chân trái chưa bước vào nhà thì chân phải đã phải bước ra với luống cần, mồng tơi... Đang tuổi ăn tuổi học mà sớm tối lặn hụp với đám rau nên người chị gầy đét, hầu như lúc nào trên tay cũng có dấu xước vì cắt rau khứa, có hôm gánh nước bị vỏ ốc múc luôn một lõm thịt gót chân cà nhắc cả tháng trời chị vẫn cắn răng bám luống rau.

Đúng lúc nhà chật vật thì ông ngoại bị tai biến liệt giường, thế là mẹ chị bảo: “Tư ơi! Thôi con nghỉ học ở nhà lo hái rau, chăm sóc ông ngoại nghe!”. Tư chỉ năn nỉ một lần: “Má cho con học thêm một tuần nữa thôi”. Những buổi học cuối cùng cứ ngắn dần và rồi cuộc đời học sinh của Tư kết thúc. Chín năm đến lớp thế cũng đã đủ, chị tự an ủi và bù đắp cho mình bằng những trang nhật ký... Thấy con có khiếu văn chương, cha chị động viên: “Nghĩ gì viết nấy, viết điều gì con đã trải qua”.

Ba truyện ngắn đầu tay của Tư viết về tình bạn ở đồng quê đã được cha đem gửi thử ở tạp chí Văn nghệ Cà Mau. Cả ba đều được đăng báo. “Con nhỏ học hành dở dang này viết được đó”. Ông tổng biên tập vừa nói vừa xoa đầu Tư dặn dò: “Viết nữa đi con!”. Thế là ngày xuống ao, ra liếp rẫy, tối về chị lại viết say sưa.

Mọi người khuyên chị nộp hồ sơ vào tạp chí Văn Nghệ Cà Mau thử việc. Năm ấy tách tỉnh, thiếu nhân sự, Tư được chọn vào làm văn thư và học việc phóng viên. Viết tin, viết bài, lại viết truyện ngắn. Hôm cơn bão số 5 ập vào đất Mũi, chị tất tả đi thực tế đến cửa biển Khánh Hội, sông Đốc, đất Mũi... Cảnh làng quê hoang tàn, cảnh cụ bà khóc con đời ngư phủ hẩm hiu… đã thành ký sự Nỗi niềm sau cơn bão dữ. Tư bảo đọc lại ký sự này thấy mình viết hơi… sên sến, nhưng tác phẩm này đã giúp chị đoạt giải ba báo chí của tỉnh năm 1997.

“Được giải thưởng quy ra lúa chẳng là bao nhưng đã cho mình chút hy vọng là nếu mình cố gắng có thể viết tốt hơn”, chị giải thích. Cái “công nghệ” cho ra đời hết tác phẩm này đến tác phẩm khác của chị được khẳng định là rất... đơn giản: viết là viết, bất kỳ lúc nào, không sắp đặt, không bố cục, cứ thế đoạn sau cuốn theo đoạn trước. Viết gần gũi như chính đời thường ăn nói, đi đứng thô thô kệch kệch của mình.

Ngọc Tư viết như đang trong tâm trạng của nhân vật, của chính đất đai hào sảng Cà Mau. Sau một chùm năm truyện ngắn Nỗi buồn rất lạ, Lý con sáo sang sông, Chuyện của Điệp, Ngọn đèn không tắt, Ngổn ngang... chị như cảm thấy mình đã nói hộ được ước mơ của người dân nghèo khó vùng quê, nói ra những yêu lầm yêu lỡ yêu không thành cũng từ cái nghèo mà ra. Những nhân vật, cốt truyện tủn mủn ấy không hề có một nguyên mẫu nào trước đó, cứ đi cứ tìm như bắt sâu đuổi gà trong luống rau nhà mình mà thành chùm truyện ngắn về làng quê.

Năm 2001, chị đoạt giải B của Hội Nhà văn VN, rồi giải cho tác giả trẻ nhất của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các hội văn học nghệ thuật VN. Bao nhiêu bằng khen, tiền thưởng có được Tư đều đem về cho mẹ, bà chẳng khen chẳng chê chỉ nói mỗi câu: “Mày tả bà già trong truyện sao giống tao quá. Phải chi được học lên đại học chắc bà già trong truyện sẽ khá hơn phải không con?”.

Cuộc sống đời thường của Tư diễn tả chỉ là “sáng đạp xe đưa con đi nhà trẻ, trưa nội trợ cá rau, không văn vẻ gì cả”, nhiều người vặn vẹo: “Sao viết văn mà lấy chồng sớm thế?”, chị giải thích: “Có gia đình cách đây 4 năm, chồng là anh thợ bạc - cuộc hợp hôn không hẹn mà có... hạnh phúc. Mình nghĩ chuyện viết văn là chuyện của cả đời, còn đường chồng con cũng song trùng cả đời đấy thôi! Quan trọng là không để có chồng mà xuống dốc ”.

(Theo Tuổi Trẻ)
Anh Ba
#30 Posted : Wednesday, November 24, 2004 2:00:40 AM(UTC)
Anh Ba

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 953
Points: 0

Smile
#31 Posted : Thursday, November 25, 2004 10:55:30 PM(UTC)
Smile

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 30
Points: 0

Lý con sáo sang sông

Tác giả : Nguyễn Ngọc Tư
Trích trong tập Ngọn Đèn Không Tắt nhà xuất bán trẻ

Bấc về. Như thể trong đời này chỉ còn gió. Gió lạnh căm căm mà khô nẻ môi người ta. Da tôi mốc cời. Tàu chạy lừ lừ dọc theo dòng sông, những quảng không có nhà, sậy mọc thành. Những bông sậy chín mềm, trắng phau phau. Đã nhiều bông lìa cành, trùng trình bay. Nước mặn rin rít da. Nghe gió này là mùa cưới đến.
Nét chữ không bay bướm trong tấm thiệp mộc của Út Thà mang cho tôi một cảm giác lạ lùng. Vui, buồn, chua sót lẫn lộn. má tôi bảo : “Con về sớm mấy ngày cho thằng Phi đỡ buồn”. Tôi lật lịch khẽ cười, má à, có những nỗi buồn không ai trị được đâu. Nó day dứt tháng năm, nó dài dăng dẳng. Người yêu đi lấy chồng mà, biết nhiêu người tự tử.
Cái lần gần đây nhất tôi đi Tân Thuận có ghé qua nhà, Phi đang lui cui đóng giường, Thà cũng qua chơi, vo gạo ngaòi sàn lãn, dì Tư, má Phi lột bông súng nấu canh chua, Phi nói nữa đùa nữa thật: “Đóng giường mới cưới vợ chơi”. “Cưới ai?”. “Út Thà”. Nghe tiếng kêu cùng tiếng cười giòn trong bếp. Tôi ở lại ăn cơm chiều. Một bữa cơm đầy ắp tiếng cười rộn rã. Khói ấm bùng nở trên những tia nắng xuyên qua khe lá. Họ làm tôi vui quá.
Vậy thì làm sao đến nông nỗi này?
Phi cười cười, từ từ rồi nói. Nhưng dì Tư thì chắt lưỡi hít hà lúc tôi bước chân vô nhà. Dì có vẻ giận Thà lắm. Phi nhún vai thì thầm :
- Má tao cằn nhằn nhức mình muốn chết.
Tôi hiểu dì Tư như hiểu má tôi. Trong lòng mọi người thằng Phi tội nghiệp lẽ ra phải được hạnh phúc. Nó hy sinh quá nhiều rồi. Với má tôi, bà thương Phi như con ruột. Phi từng trọ học ở nhà tôi gần tròn năm. Có lần nó về thăm nhà, rồi không trở lên học nữa. Dì Tư kể, lần đó, nó đem cây cúp móng tay về, nằn nặc đòi cắt cho ba má. Khi nâng cái chân của dượng lên, nó rớt nước mắt. Những móng chân thúi sạm, kẻ chân nước ăn lở đến xương. “Con thấy ba má con cực khổ con chịu không nổi, dì Hai à”. Phi trở lên lấy đồ, từ giã bạn học, từ giã cả nhà chúng tôi. Má tôi khóc.
Rồi dượng Tư chết, thằng Phi là trụ cột trong nhà chống đỡ cho người mẹ và hai đứa em gái. Mùa mưa nó xoay trần với mười tám công ruộng. Trở bấc là nó lang bạc kỳ hồ. Nó sắm dàn nhạc cũ đi hát phục vụ đám tiệc. Ban nhạc nhỏ, gồm sáu, bảy người trong xóm, già có, trẻ có, vừa đờn vừa ca. Phi có giọng ca hay nức tiếng nên ban nhạc của nó khá đắt khách. Nói Phi ai cũng buột miệng khen “Thằng đó ca mùi rụng rún”. Trăm ngã sông, ngàn lối xóm, Phi rành rẽ đất này như một ông thổ địa. Có lần, nó rủ tôi đi chơi cho biết, dặn : “về đừng viết báo nghen cha nội!”, nhưng không kìm được, viết ngay về loại hình sinh hoạt văn hoá nông thôn này. Lần ấy, tôi phát hiện ra, Phi càng uống say càng ca thần sầu. Lời ca rõ tiếng vành vành, làn hơi ấm áp. Giọng của nó không giống Út Trà Ôn, Minh cảnh hay Minh Vương, chỉ là của Phi thôi. Nó thuộc nhiều bài nhạc, bài ca cải lương, nhiều vô kể. Tôi ngạc nhiên về một thằng Phi mặc áo phèn đi cắm câu với một thằng Phi nghệ sĩ mặc cái quần kaki mười hai túi trên sân khấu lót bằng bộ ván ngựa. Khuya, Phi rủ tôi xuống ghe nằm, nó gác chân lên bụng tôi, kê tay lên đầu làm gối.
- Mày hát hay vậy sao không kiếm dịp đi thi?
Nó cười :
- Thôi, giọng ca tao, thiếu sông, thiếu nước, coi như hết hay rồi.
Tôi ngó sao trời, lan man một nỗi sợ hãi mơ hồ, có người thợ xây không xây nổi cho mình ngôi nhà, có người thợ mộc nằm đất ngủ lạnh, Phi chuyên đi hát phục vụ cho đám cưới người ta, bao giờ mới hát cưới mình đây?
- Chừng nào mày cưới Út Thà? Quen người ta ba năm rồi, ngâm tới chừng nào?
- Không biết, lo cho con Minh, con Thuý trước đã. Ba năm nữa tụi nó mới ra trường. Tụi nó học ở thành phố mới một năm mà về chê dàn nhạc tao là đồ dỏm, đồ cũ. Tao giận tụi nó, thì nhờ mấy món đồ cổ đó mà tao mới nuôi nổi tụi nó vào đại học. Cũng tội nghiệp, hai đứa nó biết lỡ lời nên buồn hiu. Tao thương tụi nó quá.
- Vậy không thương Út Thà sao?
- Thương, thương thiệt.
Thương mà sao không biết tính làm sao.

Nhà Út Thà ngó xéo bên sông. Hôm nay là nhóm họ, qua đám dừa nước thưa, thấy đằng trước rạp đã lùm xùm những tàu dừa bẻ vòng nguyệt, lá đùng đình vắt xoà quanh mấy cây cột rạp ốp bẹ chuối non. Phi ngượng nghịu:
- Lẻ ra tao phải qua bển phụ một tay.
- Sao vậy?
- Bữa trước gặp ngoài chợ huyện tao lỡ nói dóc là kệt không về. Lúc đó tao tưởng là không chịu nổi.
- Bây giờ chịu nổi rồi à?
- Ừ!
Phi nói có vẻ nhẹ nhàng như thể nó đã chuẩn bị điều này lâu lắm rồi. hai đứa nằm trên cái võng giăng ngoài chái dựa hàng lơn nước. Tôi nghe rất rõ gió cuộn thành lọn, lăn miết trên da mình. Có nổi buồn nào đó đang thở rất mạnh. Dì Tư buồn tình chèo xuồng về bên ngoại chắc chiều mới về. Một chút ai ngờ Út Thà qua. Cô mang cho chúng tôi một tiếng cười giòn.
- Em biết anh Kiên bữa nay về mà.
Phi nạt :
- Ở bên nhà đang lu bu …
- Thiếu gì người làm. Còn em, qua đây lần này rồi lâu lắm mới qua nữa. Mà biết đâu là … lần cuối.
Chữ “lần cuối” Thà buông xuống, lạnh như bấc cuộn gai ốc trên tay tôi. Thà chợt cười (lại cười giòn):
- Hai người nằm làm gì, nhậu đi!
Tôi với Phi trợn mắt nhìn nhau, nghe tiếng bước chân Thà lẹp xẹp vào bếp. Thà rành từng ngóc ngách nhà Phi nên nên không lâu lôi ra từ bộ vạc tre chai rượu trắng với dĩa mắm lóc xé trộn gừng. Một chút bổ sung thêm chén khế chua xắt lát. Chúng tôi kéo lại ngồi với nhau. Và với gió. Út Thà là con gái nhưng uống rượu khá mạnh. Phi nãy giờ không nói gì,, ngó Thà lom lom:
- Làm gì ngộ vậy Thà…?
- Uống rượu cho dể nói chuyện.
- Chuyện gì?
- Chuyện anh Phi nói gạt, ảnh tránh em. Đám cưới em mà ảnh còn không qua vậy mà nói thương em. Tụi mình là bạn bè, anh Kiên coi phải không?
Tôi cười cười, chịu Thà thôi. Khi chúng tôi còn nhỏ, thật tình là có dạo tôi tranh Thà với Phi. Bởi vì Thà có đôi mắt một mí nhưng đen, mái tóc đen, khuôn mặt xinh xinh duyên dáng và cũng bởi vì cô nói chuyện rất cuốn hút, thuyết phục người ta, điều này với các cô gái quê là rất hiếm hoi.
- Nghe nói Thà lấy chồng về Cái Nước?
- Dạ, xa lắm, chắc lâu lâu mới về một lần. Anh Kiên đi công tác ngang chợ
Rau Dừa, nhớ ghé nhà máy Phú Phong thăm em. Anh Phi cũng vậy nghen!
Phi “Ừ”, nâng ly uống “chóc”.
- Sanh con cứ lấy tên anh mà đặt.
- Dạ, nhưng vái trời cho nó đừng ca hay như anh. Có nhiều cô mê lắm.
Thà cười. Tôi ngơ ngác giữa đôi bạn thân. Họ đang đứng ở bên bờ chia xa mà thanh thản vậy sao? Tôi đùa:
- Uổng công anh nhường em cho thằng Phi, nghe tin Thà lấy chồng như trời sập. Quả tình anh giận em lắm…
Thà bảo không uống nữa, trở bộ duỗi chân.
- Em biết, ai không hiểu chuyện thì giận em lắm. Lần đó, bên chồng em qua hỏi, ba má em hẹn bảy ngày trả lời. Trước đó em đã từ chối bốn mối rồi. Một mình em chạy máy đi lòng vòng kiếm anh Phi. Cực khổ lắm. Kiếm được rồi hỏi ảnh tính sao? Ảnh kêu em về. Song ảnh chạy xuống tắt qua Rau Dừa, dò hỏi kỹ bên chồng em. Hỏi từ ông già, bà già cho tới đứa con nít trong xóm xong ảnh về kêu em ra nói một câu: “Em lấy chồng đi”. Hai đứa ngồi ngoài bực tính kỹ lắm. Em thấy chắc không chờ được nữa rồi. Con gái xóm em mười bảy, mười tám tuổi có chồng, em đã hai bốn rồi, ba má em như ngồi trên đống lửa. Nói cho kỹ, chuyến này là anh Phi gả em. Ảnh nói bên chồng em khá giả, lại đàng hoàng, xứ đó ai cũng biết tiếng chịu khó làm ăn. Xét cho cùng, em cũng có lỗi, em không chắc lòng chắc dạ với anh Phi. Mỗi khi ảnh đi, em nhớ ảnh lắm, em nhớ giọng ca của ảnh. Rồi tưuởng tượng ra biết nhiêu cô cũng ngồi nhớ ảnh như em. Ảnh đi hoài, mai mốt biết ảnh có về cưới em không? Có câu “Bậu lỡ thời như giấy trôi sông…”. Anh Kiên nghe chưa? ĐÓ, lỗi của em là nhiêu đó đó. Nghĩ lại cuối cùng em không xứng với cái tình của anh Phi. Tụi em, thương nhau không lấy được nhau thì không có thù hằn đâm chém đâu anh Kiên à. Khổ cái, đám cưới em ảnh trốn không qua coi như không tha thứ cho em rồi.
Phi phì cười:
- Thôi mà, anh lỡ lần này thôi, Thà ơi.
Thà nói xong, má đã bừng hồng. Đôi mắt cô đen và trong lắm. Đôi mắt Phi cũng đen và trong lắm. Trong lòng tôi tự nhiên muốn ôm choàng hai đứa bạn vào lòng. Ba chúng tôi ngồi với nhau như ngày xưa, lúc nhà tôi còn ở đây, chưa ngụp mặt dưới dòng sông loẻ. Trước nhà tôi có giàn mướp vàng hoa. Nhứng đứa trẻ lấy đó làm nhà, sống đầm ấm, và chúng yêu thương nhau cho tới bây giờ. Phi giục :
- Thôi nói bao nhiêu đó đủ rồi, Thà về đi…
- Dạ.
- Đừng buồn anh.
- Không buồn đâu. Mai mốt em có con, tối ngày nựng nịu nó, thời gian đâu mà buồn. Em mê con nít lắm.
- Nhớ sanh hai đứa thôi, đúng chính sách. Sanh nhiều mau già, dể chết – Phi dặn thêm.
Chúng tôi đều cười. Cái mất mất rồi, cái còn hình như vẫn còn đó. Tôi cảm thấy hơi ấm từ lòng mình ấm phừng lên mặt. Chắc tại rượu ngon. Thà về, xuống tới bến còn quay lại phân trần:
- Sao tự nhiên em qua đậy lãng xẹt vậy không biết?
Cô cười giòn. Tôi có cảm giác cái cười níu chật vật làn nước mắt chực rơi ra. Thì là người mà, có phải cây cỏ đâu. Phi không tiễn Thà mà ngồi trên nhà gõ chén ca, giọng ca thêm rượu thần sầu.
“Ở ở … Ai xui mà con sáo cái nò sang sông cái nò sang sông. Cho nên mà con sáo ở ở sổ lồng cái kìa bay xa cái kìa bay xa, cái lý em ở, cái lý chàng đi …”
Tôi xin thề với thiên thần thổ địa rằng chưa bao giờ được nghe một bài Lý con sáo sang sông điệu Bạc Liêu đứt ruột như vậy. Nó mênh mang, sâu rứt những nỗi nhớ thương từ tim, từ máu. Tôi buột miệng : “ Thì mày đưa con sáo của mày sang sông chớ ai”. Phi ngưng hát, miệng lầm bầm : “Chớ bắt người ta chờ mình tới chừng nào?”.
Dì Tư về. Có vẻ như dì về đã lâu. Bà hỏi : “Sao tự nhiên tụi bây nhậu vậy?” mà không đợi chúng tôi trả lời, ngồi thừ rất lâu. Rồi bà kể chuyện thằng em họ xa của Phi vì ghen tuông mà đam chết người bị bắt lên trên huyện. Bà chắt lưỡi: “ Sao tụi trẻ bây giờ coi trọng chuyện trai gái vậy không biết”. Phi quạt mạnh tay cho những bụi than hồng trong bán ủi bay lên, tủm tỉm cười: “Bà già muốn nhắn gởi tao đó”.
Chạng vạng, chúng tôi xuống xuồng qua sông. Dì Tư biết chúng tôi đi đâu nhưng hỏi cho có:
- Con đi đâu vậy Phi?
Phi trả lời, giọng cố nghiêm túc:
- Con đi ca, má à!
Smile
#32 Posted : Friday, November 26, 2004 3:58:40 PM(UTC)
Smile

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 30
Points: 0

Mèn đéc ơi.
Tranh thủ gõ mấy bữa ni (rình rình hổng có ông BOSS thì gõ).hi`hi`...
Em tính mắc đền anh Ba vì cái tội không nói cho em biết, nhưng mà coi lại thì.... ảnh cũng bị kìa (Bởi yêu thương) nên...tha !
Phượng Các
#33 Posted : Friday, November 26, 2004 7:24:45 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
Nguyễn Ngọc Tư, đặc sản miền nam

Tiểu Hằng Ngôn


Nếu bạn theo dõi văn chương Việt Nam mấy năm gần đây, và nhất là nếu bạn sinh trưởng ở miền Nam, hẳn bạn đã biết Nguyễn Ngọc Tư. Cô là một nhà văn, còn trẻ (sinh năm 1977), quê quán ở Cà Mau và hiện vẫn sống ở vùng đất Mũi. Năm 2000, tập truyện đầu tay Ngọn Đèn Không Tắt của cô được giải Sáng tác văn học tuổi 20 lần II của Hội Nhà văn TP HCM, và năm 2003 tập truyện Giao Thừa của cô cũng được một giải thưởng của Hội Văn học – Nghệ thuật Việt Nam. Ngoài ra cô còn là một khuôn mặt quen thuộc trên các tạp chí qua nhiều tạp văn, tạp bút.



Nguyễn Ngọc Tư, ngòi bút trẻ ấy, rõ ràng đã tạo được một chỗ đứng khu biệt cho mình. Nhiều người cho rằng cái độc đáo của Nguyễn Ngọc Tư là sự chân chất mộc mạc tươm ra từ mỗi truyện cô viết. Đúng, và dưới đây sẽ nói thêm. Song, trước hết, cái đầu tiên làm người đọc choáng váng (cách thích thú), là nồng độ phương ngữ miền Nam trong truyện của Nguyễn Ngọc Tư. Nếu bạn là người Nam, và nhất là nếu bạn đã xa quê hương lâu năm, thì chỉ những chữ mà Nguyễn Ngọc Tư dùng cũng đủ làm bạn sống lại những ngày thơ ấu xa xôi ấy. Từ vựng của Nguyễn Ngọc Tư không quý phái hay độc sáng (như của Mai Ninh chẳng hạn) nhưng, đối nghịch, đó là một từ vựng dân dã, lấy thẳng từ cuộc sống chung quanh. Sự phong phú của phương ngữ trong tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư là tích tụ của một thính giác tinh nhạy và trọn vẹn nghe và nhớ.

Nhiều người nghĩ rằng, nói chung, văn chương miền Nam (dù gì cũng là vùng đất mới) không thể so được với sự chỉn chu truyền thống của văn chương miền Trung, miền Bắc. Nguyễn Ngọc Tư sẽ làm những người đó phải nghĩ lại. Đọc truyện của Nguyễn Ngọc Tư, họ sẽ khám phá rằng nếu dùng đúng chỗ, trong tay một tác giả cẩn trọng, phương ngữ mộc mạc miền Nam, giọng điệu dân dã miền Nam hoàn toàn có khả năng cấu tạo một nhánh văn chương đặc biệt, không giống, nhưng chuẩn mực không kém những miền khác. Mỗi truyện viết của Nguyễn Ngọc Tư là một bữa ăn văn chương thịnh soạn, dọn bày chu đáo, gồm toàn đặc sản miệt vườn, với những vật liệu hảo hạng, tươi sống.

Đàng khác, hiển nhiên, cái bất lợi của một tác phẩm nhiều phương ngữ là nó khó được những người không quen với phương ngữ ấy cảm nhận hoàn toàn (và tất nhiên còn là thử thách khó hơn cho người muốn chuyển nó sang một ngôn ngữ khác). Đối với những độc giả này, tác phẩm ấy chỉ là một công trình gợi tò mò, hoặc hấp dẫn vì lý do khác, mà phương ngữ là một chướng ngại cảm nhận.

Song, nhìn kỹ, sự hấp dẫn của truyện Nguyễn Ngọc Tư không phải ở kho từ vựng miền Nam dồi dào của cô, nhưng ở chỗ sử dụng phương ngữ tối đa và đúng chỗ vào những câu chuyện thật “ miền Nam ”. Đó là miền Nam của tỉnh lẻ, của ruộng vườn, và nhất là của sông, của mưa (Dòng Nhớ, Chợ nổi Cà mau- chút tình sông nuớc, Qua cầu nhớ người, Nhớ sông, Nước chảy mây trôi). Đó là miền Nam đã thái bình nhưng vẫn còn dấu chiến tranh - không ở sự điêu tàn vì bom đạn mà ở những vết thương trong đời người (Ngọn đèn không tắt, Mối tình năm cũ).

Trong cách chọn lựa tình tiết, cốt truyện, Nguyễn Ngọc Tư đã trung thành (một cách khó giải thích) với cái “ tình tự ” Nam bộ của quê hương cô. Chỉ những người sống và lớn lên ở một địa phương, thật sự mến yêu họ hàng làng xóm của mình, mới thể hiện tình tự với quê hương mình được như thế. Và, bởi ở đâu cũng có cái đặc thù, chính tính đặc thù lại là cái phổ quát nhất. Sự cá biệt của phương ngữ, khi được sử dụng để diễn đạt những tình tự phổ quát của con người, có khả năng vạch ra cái chung của cái riêng.

Câu nói của Vũ Hạnh về kịch miền Nam “ Sự giản dị, thoải mái và hồn nhiên của kịch miền Nam đều hướng về đạo nghĩa ” (khi ông phê bình Kim Cương), cũng có thể áp dụng cho văn xuôi miền Nam. Nguyễn Ngọc Tư rất Nam như thế đó.



Văn của Nguyễn Ngọc Tư nghe như nhạc. Nhiều câu trong trẻo và buồn (nhưng không nghẹn ngào) như một bản vọng cổ hoài lang. Như cô viết : “ tự dưng nghe buồn, nghe thất vọng quá trời đất ” (Một mái nhà), nhưng hình như cô không muốn người khác buồn theo cô. Giọng buồn của Nguyễn Ngọc Tư không là tiếng than vãn thì thầm của một người lớn tuổi, nhưng là một lời thốt, lửng lơ, đứt ngang, nhưng rất đủ, của một người trẻ bổng nhiên phát giác những bất hạnh của cuộc đời, mà vẫn hi vọng. Văn Nguyễn Ngọc Tư là văn của lời nói. Cách ngắt câu của cô là cách ngắt của âm điệu. Cái tài của Nguyễn Ngọc Tư là đem những cảnh tượng rất bình thường, khoanh lại, biến nó thành châu báu “ Cãi qua cãi lại, hai má con ngã ngửa ra, ủa, hơi đâu mà nói chuyện của người ta.” (Nhà cổ)

Hồ Anh Thái, và vài người nữa, đã có khen “ cách dẫn truyện gọn gàng, sự cắt cảnh chuyển lớp chính xác ” của Nguyễn Ngọc Tư, nhưng chưa thấy ai nói đến cấu trúc câu của cô. Mới và độc đáo. Lối bắt đầu với chữ Mà, rồi một dấu phẩy. Hoặc lối chen vào giữa câu một chi tiết trong ngoặc đơn : “ Hai đứa tôi ngồi đâu đó (chỗ mà ai cũng nhìn thấy) nói chuyện chơi, có lúc, chẳng cần nói gì ” (Nhà cổ). Hoặc lối dứt câu bằng một thán từ có âm bổng: “ Sao tự nhiên em qua đây lãng xẹt vậy không biết ? ” (Lý con sáo sang sông)

Nhân vật trong truyện của Nguyễn Ngọc Tư hay khóc, và nhiều lúc cô khuyến khích nhân vật của mình khóc.

“ Mãi dì Thấm không mở lời nói được, chỉ khóc là khóc, nức nở ồ ồ, nhìn cảnh mọi người xúc động, hỉ mũi rột rẹt nhưng không ai bước ra dỗ cho dì nín. Cho đến khi ông Mười xuất hiện, ông bảo, “ mấy chú làm ơn dừng lại một chút ” rồi cầm cái khăn rằn lau nước mắt cho dì Thấm, dì như trẻ con, lau khô rồi nước mắt lại trào ra. Ông Mười vẫn nhẫn nại chậm chiếc khăn lên khuôn mặt chớm già của dì, không nói gì hết, khuôn mặt bì sì của ông hơi dúm lại, dường như ông cũng đau lắm, xót lắm ” (Mối tình năm cũ)

Hay là:

“ Nhưng không phải buồn Phương lấy vợ, tôi buồn là vì chiều nay, Nhân Phủ đã sụp đổ trong lòng.

Rồi họ, và cả má tôi đều bảo tôi khóc đi. ” (Nhà cổ)

Nhưng, để ý : cái khóc của Nguyễn Ngọc Tư là vì thương yêu, không vì oán giận. Không phải là cái khóc nghẹn ngào, day dứt, ủ rũ. Đây là cái khóc ào ào như cơn mưa miền Nam, và người đọc biết (hay mong mỏi) chỉ khoảnh khác thì mưa sẽ tạnh, nắng sẽ lên và nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư sẽ quẹt nước mắt xông vai trở lại cuộc sống bận rộn của mình.

Chính vì Nguyễn Ngọc Tư còn trẻ, cô nhìn cuộc sống bằng cặp mắt trong sáng (khác với lạc quan) và trung thực. Cô không giả vờ dằn vặt nội tâm như nhiều nhà văn (không chỉ ở Việt Nam) ham đòi thời thượng. Nhưng Nguyễn Ngọc Tư không ngây thơ “ chuyện đời ”. Cô nhìn, cô nghe, cô biết hết. Nguyễn Ngọc Tư là một chứng nhân trung thực và tinh nhạy. Không phải chứng nhân cho những vụ việc hung hăng, thô bạo, nhưng cho những mảnh đời đơn dị, bình thường. (Truyện Nguyễn Ngọc Tư không có người lừa đảo, không có kẻ sát nhân. Có lẽ trong truyện của cô cái tội lớn nhất là tội ... ngoại tình.) Nếu lúc gần đây truyện của Nguyễn Ngọc Tư có “ buồn ” hơn, ấy không phải vì mắt cô đã nhạt đi màu hồng (hãy mong thế), nhưng vì tầm nhìn của nó xa hơn và, trong quãng không gian mở rộng đó, cô thấy thêm những chuyện đời dang dở. Cô không buồn hơn, nhưng lọt vào mắt cô là những mảng đời buồn hơn.

Nhưng đừng tưởng Ngưyễn Ngọc Tư là người hời hợt. Quả vậy, những truyện – nhất là những truyện sau này – đều là về những mối tình không trọn. Chẳng phải đổ vỡ, nhưng không trọn. Những mối tình đó không phải chỉ của người già, mà còn là những mối tình của thế hệ cô (Ngổn ngang) – hay thứ tự phải ngược lại ? Nhìn cho kỹ, sự dang dở đó không phải lỗi của ai. Nguyễn Ngọc Tư chấp nhận nhưng không than oán, mà cũng không ra vẻ cứng rắn kiểu anh hùng rơm.

Những cặp “ tình nhân ” (tạm gọi) trong truyện của Nguyễn Ngọc Tư không bao giờ hôn nhau (như cô sẽ hỏi : ai làm chuyện kỳ vậy ?). Nhiều lắm, thì chỉ như :

“ Quí mặc áo đứt mất tiêu cái nút trên, lồ lộ ra mảng ngực ráp nắng. Trong Đậm nhiều khi dậy lên một cái gì rưng rức khó tả, chỉ mong nép đầu vào đó để quên nhọc nhằn, để quên nỗi cô độc lùi lũi trong đời.” (Giao thừa)

hay là:

“ Nó ngồi sau lưng thầy ... mà lòng nghe dịu ngọt lạ thường, chợt nghe thèm đến rớt nước mắt được nép mặt vào lưng, được choàng tay ôm eo thầy.” (Nước chảy mây trôi)

Phần nào, sự chuyên biệt của Nguyễn Ngọc Tư vào những truyện loại này có thể làm người đọc lo ngại. Chằng lẽ nghiệp văn của cô sẽ khoanh trong thể loại những mối tình không trọn, những ký sự đồng quê ? Quả là Nguyễn Ngọc Tư có tài thiên phú, cô viết rất nhanh, rất khoẻ (trong vòng ba năm đã ra bốn tập truyện ngắn). Nhưng cái đáng lo là chỗ đó. Người ta bắt đầu thấy quá quen thuộc với truyện của cô. Chúng na ná như nhau, và dù rằng mỗi truyện vẫn đáng đọc, vẫn cho người đọc những giờ phút thú vị, nhưng sao ấy, chúng không còn để lại cái ấn tượng sâu đậm của những truyện mấy năm đầu. Đến lúc nào đó, nhà văn không thể chỉ sử dụng cái thiên bẩm của mình. Nhà văn phải đổ mồ hôi, xót con mắt, lả ngón tay (hay cho độc giả cảm tưởng ấy). Sự quanh quẩn trong những không gian, hoàn cảnh quen thuộc có thể là cái chớp đèn vàng (nhưng chưa đỏ) trên con đường văn chương của Nguyễn Ngọc Tư.



Nhiều người so sánh cô với Sơn Nam. Nhưng Sơn Nam là người viết ký sự giỏi, hầu như là nhà nghiên cứu, nhà dân dã học chuyên nghiệp. Nguyễn Ngọc Tư không như vậy, cô là nhà văn chuyên môn. Những cây bút khác ở miền Nam liền trước Nguyễn Ngọc Tư (như Lê Văn Thảo, Nguyễn Quang Sáng) là thế hệ của chiến tranh giành độc lập. Tuy Nguyễn Ngọc Tư không phải mang nhiệm vụ (gánh nặng ?) đó nữa, quá khứ ấy được cô đưa vào truyện một cách rất tự nhiên (Mối tình năm cũ, Ngọn đèn không tắt). Có lẽ Nguyễn Ngọc Tư không biết là chính cái trẻ của cô, cái tính “ tỉnh nhỏ ” của cô đã cho cô một lợi thế rất lớn. Đó là cô không bị hành trang của thế hệ trước làm nặng vai, hay bị ảnh hưởng của những người đi trước (trong thư riêng gởi một độc giả, Nguyễn Ngọc Tư cho biết chưa từng đọc Võ Phiến, chẳng hạn).

Một đặc điểm của Nguyễn Ngọc Tư là hình như cô đã chớm thấy sự khác biệt giữa cô – như một nhà văn – và những người khác (chẳng hạn như trong Một mái nhà, Nguyệt - người bạn không biết viết văn). Đây là một điềm tốt nhưng cũng là một dấu hiệu nguy hiểm. Tốt vì cô ý thức trách nhiệm (trong chừng mực nào đó) của mình, nhưng nguy hiểm vì nó có thể gây một tự giác quá độ về chỗ đứng của cô – như một nhà văn - đối với xã hội. Nhà văn, theo tôi nghĩ, vừa phải đứng trong vừa phải đứng ngoài dòng cuộc sống. Song Nguyễn Ngọc Tư lại có vẻ thành thật tiếc nuối cuộc sống bình dị của những người không viết văn. Đặt vấn đề cách khác, những nhà văn trẻ Việt Nam như Nguyễn Ngọc Tư, từ trước đến giờ vẫn sống với cái bẩm sinh của mình, sẽ ra sao khi biết được nhiều hơn về văn đàn (thế giới), khi ý thức hơn “ nghề văn ” của nhà văn ? Đó là những câu hỏi lớn, định đoạt chỗ đứng tương lai của nhà văn đó trong khu vườn văn học.

Một cái “ bệnh ” của những người viết trẻ bây giờ là mặc cảm (hay đua đòi) phải dùng một bút pháp mới, mô tả xã hội tân thời (thường được xem như đồng nghĩa với lối sống thị thành), đôi khi phải làm ra vẻ biết nhiều, học rộng. Nguyễn Ngọc Tư không cần “ làm dáng ” kiểu ấy. Cái mới trong văn Nguyễn Ngọc Tư chính là cái cũ, cái lạ ở cô là tài khui mở những sinh hoạt thân thuộc trước mắt. Nguyễn Ngọc Tư không “ vén màn ” cho người đọc thấy cái chưa từng thấy, cô không dẫn dắt ta khám phá những ngõ ngách của nội tâm mà ta chưa từng biết (một điều cũng rất cần, nhưng để những nhà văn khác). Cô chỉ đưa ra một tấm gương rất trong, thật sáng, để chúng ta nhìn thấy những sinh hoạt, tình tự rất thường. Và qua đó, lạ thay, như một tiếng đàn cộng hưởng, ta khám phá cái phong phú của chính đời ta.

Tuổi trẻ của Nguyễn Ngọc Tư làm người đọc vừa mong đợi, vừa âu lo. Mong rằng tài năng của cô sẽ chín ra, sẽ lớn thêm. Nhưng lo rằng, với tuổi đời, giọng văn tươi mát đó sẽ không còn thích hơp với những đề tài có gam màu sậm hơn. (Nhưng khoảng cách hai năm, từ Ngọn Đèn Chưa Tắt sang Giao Thừa, sự tiến bộ của cô – đúng ra là sự thích ứng với kinh nghiệm sống của cô, buồn hơn, thâm thúy hơn – làm người đọc hi vọng.)

Chúng ta mong sự trưởng thành của Nguyễn Ngọc Tư sẽ là sự trưởng thành của thế hệ trẻ Việt Nam. Ta mong cô sẽ tiếp tục là một người ghi chép chân thật những chuyển biến của đời sống dân tộc. Nếu cô làm được điều đó thì chúng ta thật cám ơn cô. Tài năng của cô đúng là thiên phú. Nguyễn Ngọc Tư là một đặc sản của miền nam.

Tiểu Hằng Ngôn

Dayton, 25 - 1- 2004
Phượng Các
#34 Posted : Saturday, November 27, 2004 3:16:27 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
Nhớ Đất

Nguyễn Ngọc Tư


Nửa đời xiêu lạc, thím về. Hỏi thím đã đi đâu, thím đi nhiều lắm, tới biển, tới rừng, qua biết bao con sông, nhìn biết bao là cảnh đẹp… Nhưng sao lại về ? Nhớ đất. Trời, đất mà nhớ gì, ai để ý đâu mà nhớ. Vậy thì con Tư mầy có bao giờ lênh đênh trên chợ nổi quê mình chưa? Những buổi chiều tà, chợ nổi đìu hiu bập bềnh đậu hết một vạt áo nắng vàng hoe hoe, đỏ hoe hoe. Những người đàn bà cúi đầu ngó chăm chăm xới nồi cơm nghi ngút khói, những người đàn ông xếp bằng ngồi trên mui ghe vấn những điếu thuốc to đùng bằng đầu ngón chân cái, phì phà nhả khói lên trời. Những đứa trẻ con ngồi tênh hênh trên mũi ghe câu cá chốt, cá mè. Con Tư mầy phải sống trên ghe thím vài năm mới được, sống trên chiếc ghe dài bảy thước ngang hai thước mới thấy buồn chân. Con Tư mầy phải coi mấy đứa con nít dưới ghe, mỗi lần ghé bến tụi nó lại chạy te te lên bờ, cuống quýt rượt đuổi nhau, những đôi chân trần trụi thoăn thoắt nhảy trên cái bến gồ ghề đất. Mầy phải biết cái cảnh trồng nụm nịu ít bụi hẹ, ít cây rau thơm, vài cây ớt ốm nhom trong cái khạp bễ mói hiểu thím nhớ đất cỡ nào. Thím biết biển rồi, trời ơi, biển rộng hãi hùng luôn. Thím cũng biết rừng, đâu phải đám dừa nước có chút tẳn nầy đâu, rừng đước, rừng tràm kìa con ơi, ở trong đó có khỉ nè, có cọp nè, có chim về làm tổ sát dưới đất. Nhưng thím lại thèm nhiều thứ lắm, thèm cái hơi ấm khi đi ngang qua bồ lúa (cái thời thím nhỏ xíu, thím chuyên chui vô kẹt bồ lúa ngủ trốn đòn), thím thèm cái mùi nước đái của con kiến vàng mỗi lần ra mé ao hái chanh, hái tắc, rồi đám mùng tơi bò rợp trên mái lá lợp che hàng lơn nước, khoảng sân cá rô lóc láng lừ khi bắt đầu mùa mưa tới, bầy con nít nhà thím dọc sình lẫm đẫm đi bắt cá lên, và những hạt lúa còn sót lại hồi mùa trước âm ỉ nứt mầm, chen đất lên xanh nhuốt ? Con Tư mầy nói thím sướng là đứng núi nầy trông núi nọ, là mơ thấy đang chèo mũi trên một chiếc ghe đi trong đầm đìa sương sớm. Còn thím, hồi ở dưới ghe thím lúc nào cũng chiêm bao thấy lớn tồng ngồng rồi mà còn chạy xấp xãi trên cánh đồng tay kéo con diều lộng gió. Con không biết sao, những ai sinh ra lớn lên, lấy vợ, lấy chồng trên ghe mới quen, mới không nhớ đất, chớ thím từ đất ra đi mà, thím không thèm, không nhớ sao được. Nhưng sống trên chợ nổi lâu vậy lên bờ cũng nhớ, con người ta kỳ cục thiệt. Những âm thanh ồn ả buổi sớm, đìu hiu buổi chiều. Tiếng ti vi ghe nầy đờn "bông hoa nhỏ", trên chiếc ghe khác, ai đó dò cái đài khọt khẹt tìm chương trình ca cải lương. Vợ chồng cãi nhau, trẻ nít xúm lại đánh bài tiến lên, đứa ngồi đứa quỳ, mặt đầy lọ nghẹ. Gia đình này gia đình kia sao gần gủi như ở chung nhà vậy. Bên này ăn cơm với mắm chưng nghe rõ ràng ghe bên kia mùi cá chốt kho sả ớt, bữa cơm tự nhiên ngon kỳ cục. Đám đàn ông bên những bữa rượu sương sương tụm trên mui ghe ca vọng cổ. Gió đàn lời ca vừa buồn vừa mát, trong lao động có nghĩ ngơi, trong nỗi cơ cực cũng có khi vui sướng, nhưng không hiểu làm sao thím vẫn nghĩ về đất, con à. Bây giờ thím lên bờ thiệt, thím làm gì hả, thím vét lục bình dưới mấy cái đìa để cho cá vô ở, thím vừa đào thêm mấy cái họng ao để mưa xập xoài vầy, cá từ ruộng lóc vô cho dễ. Thím xin rơm về trồng rau, đó, mấy luống bạc hà vừa bắt rễ, coi ngon lành hôn ? Bạc hà bắt phân rơm như thím bắt vô đất, tươi tốt bắt ham. Thím vừa ngâm giống xong, cha, hôm rồi nghe mưa đầu mùa gõ tinh tang xuống cái máng xối, thím không ngủ được, lòng nó bổi hổi làm sao đâu á, như hồi xưa, thím nằm tính coi khoảng mấy trận mưa nữa thì giúc giống cho kịp xuống đồng đất vừa chớm dẻo. Chỉ chừng năm bảy ngày nữa, ra sau vườn thím coi, lúa nó lên nhu nhú xanh cái màu đẹp dễ sợ luôn cho mà thấy. Rồi tự nhiên trong thím có lại cái cảm giác tim đập thậm thà thậm thịch mỗi lần nghe giá lúa lên xuống, vậy là dì quen được rồi, quen với đất được rồi. Thím còn tính lên giồng trồng đu đủ với gừng, tết tới sẵn của nhà thím chia cho hàng xóm ngào mứt dẻo ăn lấy thảo… Coi con Tư bây kìa, sao thím nói cái gì con cũng nhăn nhó vậy. Con nghe thím nói con ngán quá trời. Có đất cực thân thêm chớ sướng gì thím ? Trời, nói tới cỡ đó mà con còn chưa hiểu, thím bịnh mà, bịnh "mê đất", hiểu hông? Không hiểu hả, vậy thì thím nói câu này cho gọn, cả đời thím chỉ thèm cái hồi nằm xuống, thím được nhắm mắt bình yên trong mảnh - đất - của - mình.
Phượng Các
#35 Posted : Saturday, November 27, 2004 3:19:18 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)

Chờ Đợi Những Mùa Tôm

Nguyễn Ngọc Tư



Cứ mỗi lần gặp, bác lại nhắc ba, hỏi thăm ông bạn già ra đi từ mùa chuyển dịch. Ba bỏ phố về đồng, đào vuông, nuôi tôm. Con thưa, Ba con khỏe, nhưng ốm nhom, đen thui thùi lùi, cằn cỗi người đi. Như cây dừa Xiêm đầu liếp, khi nước bắt đầu thấm vào thớ đất mặn mòi, con người cũng khác. Khi nào rảnh, con mời bác về thăm ba con chơi. Chỗ ba con ở không xa nhà mấy, qua cây cầu có con đường nhỏ dẫn xuống mé sông, qua chuyến đò ngang, men theo cái bờ đã lở như cá chốt rỉa sẽ đến đập Bộ Phát. Lần theo mé kinh nhỏ, bác sẽ gặp ba con. Không biết bây giờ ba con đang làm gì. Nắng này, chắc ba con đi trồng cỏ nước mặn cho cỏ bò che phủ mặt nước, để nước đừng nóng lên. Chắc ba đang đóng lại cái cống tháo nước bằng gỗ. Chắc ba đang hì hụp xúc sình bồi lên cái bờ vuông vừa lở chiều qua… Mà có thể, bây giờ ba con đang ngồi uống trà, má con nấu bữa cơm chiều, con cá phi kho khô tỏa mùi mặn nồng trên bếp, má kể sáng này thấy được con tôm rồi, nó bằng ngón tay cái vầy nè. Hai ông bà cười, mơ về những giấc mơ xa xôi lắm. Con tin rằng, bác sẽ giật mình khi nhìn thấy ba má con như chính con giật mình khi nửa tháng, mười bữa mới gặp. Ông bà già đi nhanh, cái già tranh thủ từng ngày, từng giờ, mót máy từng khoảnh khắc của cuộc đời. Chỉ mới một mùa tôm thôi, bác à, nhưng đó là mùa tôm người nông dân vùng chuyển dịch vắt kiệt mình ra trước bao nỗi cực nhọc, buồn vui. Con vẫn tin rằng, làm vuông nuôi tôm làm cho người ta sống cùng, sống tận với cảm xúc của mình nhất. Vui thôi là vui cái hồi bắt đầu cất căn chòi nhỏ. Mỗi chuyến đi về, ba má con xách theo nào nồi niêu xoong chảo, nào là mùng mền chiếu gối. Ba con nói vui "cảnh nầy y chang tui với bà vừa mới cưới, được ra riêng". Một mái ấm dựng lên trên góc đất, nằm cặp mé kinh. Một chiếc xuồng nho nhỏ buộc đằng trước nhà. Dưới ruộng, đất đang cắt, đang đào, bờ bao ngạn lờ mờ hiện ra trong làn nước. Dọc theo xóm, nhà nào, người nào cũng hồ hởi. Nửa đêm, gió thổi hiu hút, trở mình nhớ nhà, nhớ đám con cháu ở nhà, tụi nó lúc nào cũng cười giỡn, cãi vả eo xèo, cãi cũng vui thiệt là vui. Rồi ba hỏi má, mình bỏ nhà, lặn lội vô đây để làm cái gì bà ha ? Má không nói vì cái gì, má chỉ an ủi, cùng lắm hai mùa tôm, có chút vốn kha khá rồi mình sẽ về. Cái hồi đó sao mà hy vọng tràn đầy, hy vọng lênh láng. Phải chăng vì niềm hy vọng khao khát vươn lên nên khổ cực tới đâu ba má con cũng chịu. Một đêm vài ba lần, ba má con thức dậy, đi rảo một vòng vuông, canh con nước ... Mức nước ngoài sông không cao, kinh cạn, đón con nước nửa đêm, hai ông bà ì ạch khiêng máy ra tát vô đầm nuôi. Chập chờn một chút, má choàng thức, rủ ba hì hụi đem máy vô chòi. Bác cũng biết, chuyện tiếp nước cho tôm từ cơ sở hạ tầng trồng lúa cũ đang là một trong nhiều khó khăn của chương trình chuyển dịch ở tỉnh mình. Nên chuyện nước ra nước vào ở chỗ ba con như một tiểu tiết, một chấm nhỏ mờ mịt trong 200ha chuyển từ đất trồng lúa sang nuôi tôm trong tỉnh. Không ai bảo ai, bà con ở xóm kinh tự lo, tự xoay xở riêng mình như hồi nào giờ vậy, nhà nước lo được bao thì hay bấy nhiêu. Có tủi thân, tủi phận thì lủi thủi than thở với nhau chơi, vậy thôi. Nhà nước còn phải lo tỉ tỉ chuyện lớn, chuyện mất còn khác. Những đêm mưa, sợ nước dâng ngập bờ, dầm mình đi tháo nước, những ngày nắng, lặn lội xúc từng gàu sình từ đáy đầm lên… Ba má con an ủi nhau, hồi trước giờ có khi nào nhà mình hỏng cực. Nào là trồng cải, trồng ngò đội đi chợ, nào là mua so đũa về làm nấm rơm, nào là đi mua lúa hàng xáo, rồi làm hai ba vụ lúa… Có làm gì mà không cực khổ, dậy sớm thức khuya. Nhưng không làm nghề gì khắc nghiệt như nuôi tôm, y như trên chiến trường, "thắng làm vua, thua làm giặc", mà là giặc nghèo, giặc đói mới chết. Ba tháng nhọc nhằn, ba tháng rót vào lòng đầy hy vọng, tôm chết. Lúc đầu còn chết từng vuông, từng chòm, sau chết cả vạt đồng, cả xóm, cả vùng. Tôm chết như người ta trở một bàn tay. Lẹ ghê, ngủ một đêm sáng dậy thấy tôm lụi vô bờ, nằm dại khờ trên gờ đất, ngọn cỏ, ngọn rong. Vớt từng con tôm nhỏ bằng ngón tay út lên lòng rưng rức, đứt ruột. Tở phở hỏi nhau làm sao mà tôm nó chết vậy kìa ? Có ai làm gì nó đâu mà nó chết, mình quý nó còn hơn mạng mình nữa mà? Tôm chết rồi làm sao cứu đây ? Cho nó uống thuốc gì, chích thuốc gì ? Ý trời, Anh là cán bộ ngoài tỉnh vô làm vuông, bộ không biết sao ? Làm sao biết được. Bụng xót như xát muối, te tái chạy đầu trên đầu dưới hỏi nhau những câu ngớ ngẩn mắc cười. Tôm chết rồi, cũng hệt như bà con ở xứ mình, ba má con mới biết mình hỏng nặng về kỷ thuật. Lăn lộn cuộc đời nông dân ngót năm mươi năm không có chút kinh nghiệm nào có thể đem vào chuyện này, má con nằm gác tay trên trán, thở dài, rút ra kết luận. Má tá hỏa khi biết hầu hết tôm giống trên thị trường không hề được kiểm dịch, đúng quy trình phải quăng cả trăm ký vôi bột mà mình xài có hai ba chục ký… Báo chí than bà con mình thiếu thông tin, thiếu hiểu biết rầm trời, các chú "ở trên" nhằn, bà con mình nóng vội quá. Nhưng bà con họ chờ bao lâu rồi hở bác, lâu quá là lâu rồi, từ đời cày cấy này qua đời trồng tỉa khác, họ kỳ vọng cái ngày vươn lên. Tôm chết, giống như một luồng nước lạnh tạt vào ngọn lửa trong lòng của mỗi người. Nhưng ngọn lửa ấy không tàn lụi, nó vẫn rạo rực cao ngọn từ tro ướt. Đã tắt hy vọng đổi đời từ cây lúa, người ta chờ đợi những mùa tôm. Ba má con chắc là bị "sốc", bác cũng biết, gì thì má con làm ruộng cũng giỏi có tiếng tăm mà. Bà cảm thấy buồn lắm. Hai ông bà gầy rộc, sọp người đi. Ba con thôi làm thơ. Con không biết tại sao. Con vẫn thầm mong ba làm thơ lại. Trời đất ơi, bây giờ ba mà làm thơ được chắc là hay lắm. Những bài thơ không chỉ có tình yêu nam nữ, không chỉ có bức bách đời thường, mà nó còn mang nặng những niềm vui nỗi buồn lớn lao, đông đúc của người nông dân. Ba con kể chuyện vui. Ba nói có chú nào ở đầu kinh dưới hồi thả tôm tới giờ không thấy nó nổi lên chơi chơi như bầy cá mẹ ròng ròng hay cá chép, cá mè, dượng vái đất nước ông bà cho chú thấy bầy tôm, cúng gì chú cũng chịu. Ai dè, bầy tôm nổi thiệt, nhưng mà lúc nó nổi lên tức là đã nhiễm bệnh rồi, và tôm chết đỏ đầm. Chú mới vái lại, ông bà phò hộ dùm con, khỏi thấy cũng được. Ông bà nào phò hộ nổi hả bác ? Trước những hiểu biết mịt mờ về con tôm, người nông dân cũng biết mếu máo cười mình. Ba con nói chuyện vui. Ba nói nuôi tôm trước sau gì cũng giàu, hỏng giàu cái nầy mình giàu cái khác. Chẳng hạn như không có tôm thì mình múc nước dưới đầm lên nấu lại thành muối, muối bây giờ bán cũng có tiền lắm chớ, giỡn sao. Nghe cứ buồn cười không chịu được, đau lòng không chịu được. Tôm lại thử lòng chịu đựng của nông dân, tụi nó mở đợt chết thêm vài ba đợt nữa. Đó là lý do tại sao lúc bác hỏi ba con giờ giàu chưa, con phì cười. Đợt tôm đầu, bán lai rai lấy lại được chút vốn mua con giống, ba má con đã là quán quân xóm kinh rồi. Má con bắt tép bạc lấy tiền mua đồ ăn mắm muối. Má nói, làm gì làm cũng đừng đụng vô mớ tiền bán tôm, đó là tiền gối đầu cho vụ sau, mùa sau. Bác cũng biết tài tháo vát của má con hồi chiến tranh, bây giờ cũng vậy. Má định ra kế hoạch sản xuất, má đi học hỏi kinh nghiệm của những người nuôi tôm đi trước. Má luôn luôn vực cả nhà khỏi chán nản, tuyệt vọng. Má con có nhiều "bài" lắm, má nói tổ tiên họ Mạc của má linh thiêng lắm, hỏng lẽ nào ông bà để mình khổ hoài, má nói, một ký tép bạc, tép đất cũng ăn đứt giạ lúa theo giá bây giờ. Với ba, để thắp hy vọng như ngọn đèn không tắt, má nói về tụi con. Con bắt đầu biết vì lẽ gì mà ông bà dầm dãi. Không có cái gì riêng cho ba má con đâu, bác à, như bác, như hàng vạn người cha, người mẹ khác vậy thôi một lòng lo cho đám con. Nên có hai người già trên đồng trống hốc, gió giật mái chòi. Nắng đỏ ngầu. Mưa trắng xóa. Bà tóc bạc như nhuộm ở tuổi 50, sáng sáng xách nhúm tép đất ra đầu kinh xáng bán rồi về ngoài nhà, bơi vài xuồng gạo bỏ mối có, bán lẻ có. Chiều vô vuông đặt lú, nấu cơm. Ông già gầy gò, đen đúa mỗi tháng một lần về họp chi bộ, sẵn thăm nhà luôn. Thời gian còn lại lặn ngụp dưới ao đầm, vớt rong, trồng cỏ, vét bùn, đắp bờ. Sáng sáng, chiều chiều, đi xách nước ngọt bên kinh, hai tay lặc lè hai thùng qua cầu khỉ. Không ti vi, không sách báo, chỉ cái đài con con. Có họp hành gì người ta mời ba, má đốc ba đi, ba nói "Chân tui đóng phèn quá bà à", má năn nỉ, "ông mà chịu đi tui cạo bớt cho". Đêm, người canh chòi trên, người chèo queo chòi dưới. May mà còn những giấc ngủ nhọc nhằn sau khi đã trằn trọc thỏa thuê. "Thượng đế ban cho chúng ta hy vọng và giấc ngủ để đền bù cho những nỗi lo lắng của cuộc đời". Mà, bác đừng nghe con kể lể rồi thương xót ba con, rồi nghĩ "tội nghiệp, cái thằng hồi đó làm cán bộ oanh liệt vậy mà bây giờ sống khổ quá (nói cho văn vẻ chớ có oanh liệt khỉ khô gì)". Nếu có thương xin bác thương nhiều bà con khác, họ nghèo, chan chát chỉ chờ có con tôm, tôm càng chết nhiều, họ càng khổ. Má con còn ở nhà mảnh ruộng lúa đang xanh, còn cái quán nhỏ bán buôn cám gạo sống cũng được. Ba con thì giàu lắm, giàu gió giàu trăng, giàu bạn bè. Cái chòi lá của ba con vô cửa phải cúi người vậy mà không lúc nào ngớt khách. Bà con ở xóm kinh đi qua ghé uống ly trà, đi lại ghé ăn miếng bánh. Không có thông tin báo chí ba thôi buồn lòng vì vụ tham nhũng này, vụ tiêu cực kia, thôi buồn vì nhìn thấy cảnh gay mắt, chướng tai. Đôi lúc người ta thèm sống một cuộc sống như thế. Thèm sống với những lo lắng, ước mơ rất thường tình. Thèm ngồi trong một căn chòi thấp sũng nhưng đầy gió, vây quanh ly trà đượm khói, những người nông dân áo phèn, nước rõ long tong từ ống quần đầy bùn đất, nghe trên đài tiếng nói Việt Nam đang tường thuật trực tiếp trận bóng đá chung kết cúp quốc gia mà tức mình, "vụ tôm này mà suôn sẻ, thu hoạch xong, tui chạy ra chợ rinh liền cái ti vi tổ chảng về xúm lại coi cho đã". Nhắc tôm là rôm rả chuyện con tôm, chuyện kỷ thuật mới, chuyện con nước, con giống, chuyện sáng nay giá tôm sụt mất năm ngàn đồng một ký. Má con góp chuyện "Chỉ sợ tôm nhiều, giá cả đi vô con đường rẻ bèo như giá lúa, lúa ế mình còn để ăn được, chớ mấy ông "ở trển" lo không nổi đầu ra cho tôm, để dồn đống đó ăn ngán chịu gì thấu". Má và con tin rằng, dù lần lữa rồi thì những mùa tôm sẽ tới, bác à. Nó sẽ tới để thay đổi số phận, cuộc đời mỗi người, nó tới để đỉnh đạc báo rằng, chủ trương của nhà nước mình là đúng đắn, rằng cổ tích ngày xưa là có thật. Những con người lam lũ cực nhọc cả đời xứng đáng được trả công. Hồi nhỏ tới giờ con được dạy là phải biết hy vọng, lạc quan nhìn cuộc đời, bác à.
Phượng Các
#36 Posted : Saturday, November 27, 2004 3:21:46 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)



Một Dòng Xuôi Chảy Miết

Nguyễn Ngọc Tư


Bữa nhậu gần tàn. Kim đã uống gần hết một lượt để từ giã ra về thì có anh thanh niên hào hển chạy lại hỏi thăm anh Kim nhà văn, còn dò đi hỏi lại có đúng là Kim viết mấy cái truyện về về những người chăn vịt mới được đọc trên đài. Kim gật đầu. Anh ta cười cái phào: - Vậy thì may quá. Tôi tính xong mùa lúa này sẽ lên trển tìm cho được anh. Vợ tôi cứ biểu hoài... Kim ngờ ngợ, không biết mình có dây dưa chuyện gì với vợ chồng anh chàng này đây. Anh hỏi," Tôi giúp gì được cho anh ?". Anh chàng nọ ngần ngừ nhìn quanh rồi hỏi" Tôi có thể nói chuyện này cho một mình anh nghe được không?", Kim dại gì mà không gật đầu, ở lại, dễ gì rụp một cái có thể rời khỏi chiếu nhậu. Vậy mà cũng xà quần cả buổi, chờ cho anh chàng nọ uống chào sân hết cả thảy chín ly rượu trắng mới đi được. Hai người xuống cái bến bùm xùm những lùm đậu cộ, Kim chờ tàu Khánh Hội lên . - Anh viết mấy cái truyện chăn vịt hay thiệt, sành sỏi như người trong nghề, nghe bắt mê. Chắc anh đi nhiều chỗ, gặp nhiều người lắm. Tôi đang suốt lúa, nghe có nhà văn Trần Kim về Rạch Giồng để viết về vụ hè thu, tôi bỏ dãi chạy ra đây. Không biết anh nhà văn có biết người nuôi vịt chạy đồng nào tên Sáng, trạc ba sáu, ba bảy tuổi không ? Dà, vợ tôi nó trông gặp anh Sáng này tới mỏi con mắt nhưng trời đất mênh mông, tôi hỏi cùng khắp rồi, mà chưa thấy tăm hơi đâu hết. Chuyện của ba người chúng tôi cũng dài lắm anh à, anh biết, hai người với nhau thì dễ, thêm người thứ ba rắc rối lắm. Tôi không biết quê Sáng ở đâu, mấy lần nghe loáng thoáng ở An Bình, Phước Long gì đó. Mùa gặt năm nào anh cũng xuôi ghe chở bầy vịt đổi đồng về xóm Rạch Giồng này. Rồi cất cái chòi lợp bằng lá chuối, quây lưới cầm vịt trên khúc đê trồng so đũa. Từ chỗ này, mỗi ngày anh lang thang lùa vịt đi ăn khắp cả vạt đồng, qua tới vườn xóm Lung. Tới khi người ta bừa đất chuẩn bị sạ vụ mới, Sáng lại ra đi. Tôi thường trông Sáng mỗi khi mùa lúa mới về. Hai mươi hai tuổi, ông già tôi đã giao cho cái máy suốt Bình Thủy, hễ lúa chín là tôi tha thủi một mình ngủ giữ máy giữa đồng khơi. Anh nhà văn không biết chớ, ngủ trên đồng buồn thê thiết lắm. Gió thì hiu hút, gió thổi rơm rạ tả tơi, trời sao vằng vặc, đất mênh mông. Đang thèm hơi người nên gặp được ai là thương, là quý ngay người ấy. Vì vậy mà tôi quý Sáng. Những đi cho vịt đi ăn xa, chạng vạng không về kịp, Sáng cũng hay cầm vịt giữa đồng, hai đứa tôi ôm rơm tụm lại nhóm lửa, đánh bài tiến lên, uống ít ly cho ấm người. Xong rồi ca khơi khơi vài câu vọng cổ. Tôi hay hỏi Sáng chuyện đồng bãi mùa màng này nọ, về những nơi mà anh đã đi qua. Sáng lớn hơn tôi chừng năm tuổi nhưng anh già dặn, chững chạc trầm lặng hơn tôi, hơn cả tuổi của anh nhiều. Ban ngày, anh hay lội lại, khi thì xoắn tay xách lúa tiếp, lúc cho máy ăn để chúng tôi lua vội bữa trưa, có khi giúp vác cái thùng suốt lội ròng rã mươi công đất gò. Tôi ngại lắm, nhưng Sáng chỉ cười, "Một mình cũng buồn, tôi phải kiếm một việc gì đó để làm để khỏi phải mơ biến thành vịt". Ai sống một mình cũng buồn hết, anh nhà văn à. Nhưng Sáng ngon hơn tôi nhiều, anh kể đã nuôi vịt chạy đồng bảy năm. Tính ra thì cỡ mười lăm, mười sáu tuổi anh đã dầu dãi giang hồ. Tôi ngẩn ngơ, "Sao ông hay vậy ? Sống một mình ? Tôi mà lúc cúc một mình trên đồng khơi thể nào cũng điên". Sáng cười, nhiều người ở cạnh tôi lắm chớ. Ai đâu. Không có ở đây, nhưng tôi luôn nghĩ về họ. Tôi hỏi Sáng nghĩ tới ai. Sáng chỉ cười. Anh để ý coi, những người ít nói thì hay cười, không phải vì vui mà vì để khỏi trả lời. Rồi tự nhiên Sáng hỏi ngược lại rằng tôi đang nghĩ tới ai. Tôi nói tôi nghĩ tới Xuyến, tên của vợ tôi bây giờ. Cùng xóm mà, thương lúc nào cũng không nhớ, có thể hồi mười bảy hay hai mươi hay chừng tám chín tuổi gì đó… Tôi nói thiệt, hồi thương cổ, tôi lội tới lội lui thiếu điều sạt bờ dừa nhà ông già vợ. Tới lúc chiêm bao cũng thấy Xuyến là đậm lắm rồi. Mà chiêm bao ngộ lắm, lặp đi lặp lại hoài cũng cái cảnh tôi nắm tay em Xuyến xuống bến, nhưng không có chiếc xuồng nào, chờ một hồi thấy có người bơi lại, không thấy rõ mặt (thường thì chiêm bao ít thấy rõ mặt người), chỉ thấy cái lưng hơi khom, vai bè bè… giống như Sáng vậy, tới đó rồi thôi, giấc mơ đứt đoạn. Tôi kể cho Sáng nghe, hơi hồ nghi "Sao trong câu chuyện của tôi và Xuyến lại có ông vậy ta ?". Sáng chỉ cười, cái cười làm tôi quên mau, chuyện chiêm bao mà. Sáng cũng biết Xuyến, chỗ anh cầm vịt ngang với hậu vườn nhà Xuyến. Sáng hay qua nhà uống trà, nói chuyện mùa màng chơi với ông già vợ tôi. Có bữa anh nằm tâm sự, "Cứ mỗi lần cặp ghe vịt vô bến thấy thím Hai khum cái tay che nắng hỏi ai in thằng Sáng, thấy cô Xuyến chạy ra cửa nhoẻn cười thấy lòng vui như được trở về nhà". Cũng nghe nhiều người thắc mắc, thằng Sáng chắc có gì với con Xuyến, chớ không sao năm nào cũng cầm vịt ngay trân chỗ đó, năm nào cũng mua cho Xuyến khi thì khúc vải, lúc là cây dù… nhưng tôi ỷ y, cũng biết bao nhiêu người lui tới nhà Xuyến rồi, thấy tôi mài miết còn chịu hổng nổi dạt ra. Sáng thì một năm ở đây chừng ba mươi bữa, tôi đâu có ngán. Với lại tôi tin Sáng lắm, chính anh biểu tôi chỗ đó được, bước tới đi. Tôi bước tới. Bữa nay, anh nhà văn về gấp quá, nếu không thì lại nhà tôi chơi, cho biết mặt vợ tôi. Cổ đẹp, giỏi mà hiền lắm. Hiền nhưng làm toàn chuyện động trời. Tôi bị một lần, bây giờ đang ngủ nhiều lúc còn bàng hoàng thức dậy, ngồi coi có đúng người nằm cạnh mình là Xuyến không. Có lần, Xuyến băng đồng tìm tôi, cổ khóc, đã lỡ thương người khác rồi, nên không thể làm đám cưới, không thể lấy tôi làm chồng. Không có đám cưới nào vào rằm tháng Chạp này. Anh nhà văn không biết cảnh này đâu. Tôi ngồi chết lặng. Cay đắng, bỡ ngỡ, đau đớn, bàng hoàng không sao tả được. Có gì bằng vợ sắp cưới của mình lại hồi hôn. Tôi cứ ngồi lặng, đầu thì tăm tăm cái câu hỏi, "Vậy là sao ?" Đâu biết. Tôi hỏi Xuyến vậy chớ em đã thương ai. Xuyến trả lời, "Anh Sáng". Tôi thuận miệng hỏi bừa "Sáng nào ?", Xuyến nhìn tôi, "Anh biết mà…". Sao lại là Sáng ? Sao lại là cái người mà mới hôm qua thôi tôi còn rủ anh ở lại dự đám cưới, còn nhờ anh làm chú rễ phụ cho bữa đó tôi đỡ run. Sao anh lại nhận lời, rồi bây giờ… ? Dưng không tôi mất đi hai con người mà mình thương yêu nhất, đau lòng vậy mà Xuyến còn thút thít, "Anh đừng giận anh Sáng mà hại ảnh, tại em hết, chớ ảnh có nói gì đâu". Dường như Xuyến đọc được trong mắt tôi những tia hằn học. Nhưng mà tôi đâu có tử tế, cao thượng dữ vậy, tôi không giận Xuyến, thương quá, không thể giận, nhưng Sáng thì khác… Mà, anh nhà văn nè, theo anh thì con vịt nó có sinh mạng không ? Bà nội tôi nói cỏ cây cũng có sinh mạng vậy là đúng ? Anh biết không, có lần vì nóng giận mà tôi huỷ đi cả thảy một ngàn hai trăm mười bảy sinh mạng. Anh nhà văn sửng sốt hả, ghê quá phải hôn. Tôi lúc đó cũng vậy, cũng cảm giác như mình đang gây tội ác. Tôi nhớ hoài cái cảnh mình đứng trong một buổi sáng đầy sương. Xung quanh tôi vịt nằm chết sắp lớp, không khí nồng nặc mùi thuốc trừ sâu. Tôi giở một con vịt lên, dưới đôi cánh nó là một quả trứng vỡ be bét, chắc nó đã từng giãy giụa, đau đớn lắm mới đập nát cả trứng của mình. Sáng đứng tần ngần trong quây lưới, hơi ngơ ngác, như trong lòng bị đổ vỡ cái gì đó quý giá lắm. Nhưng không phải vì ngủ một đêm thức dậy đã trắng tay, cái cảnh người làm nghề nuôi vịt chạy đồng không lạ. Dường như Sáng xúc động, đau đớn vì những lời tôi nói, cái cây bị đốn thường không ngã về phía có ngàm búa, chắc Sáng cũng không ngờ rằng người bỏ thuốc vô mẻ lúa của bầy vịt là tôi, và vì Xuyến mà tôi làm việc đó. - Nếu chuyện Xuyến thương tôi là thật, Sáng bảo, thì đó là chuyện buồn nhất đời tôi. Tôi không chờ đợi điều đó. Tôi không tin. Có lẽ Sáng cũng biết tôi không tin, anh hỏi tôi có muốn nghe chuyện nhà anh không ? Tôi bảo không, anh nhà văn biết, hoàn cảnh đó mà ngồi nghe chuyện gì nữa, nhưng Sáng cứ kể. Sáng mồ côi cha từ mười tuổi, má anh cũng mất đã ba năm. Đó là người đàn bà sống hết đời không được mấy ngày vui, mấy ngày nhàn nhã. Cái xóm Rạch Giồng bé nhỏ này cũng đã giữ lại niềm vui nửa đời còn lại của má anh. Sáng còn một người em gái (hồi trước anh hay đùa là sẽ gã em cho tôi). Nhưng hai anh em không ở chung nhà, cả một quãng dài không gặp, anh quên cả khuôn mặt của nó. Hôm cúng giáp năm má anh, bày dĩa vịt luộc phay với nải chuối chín lên bàn, lòng Sáng bất chợt cồn cào. Sáng quyết định về Rạch Giồng. Vì nhớ má và vì muốn gặp em. Hôm gặp, em gái anh đi hái ổi cho một bầy em trai, em gái nhỏ. Nó giống má anh như tạc, giống từ vóc dáng đến cốt cách. Nhìn nó đứng chia ổi cho đám em mà thấy dịu dàng, nồng hậu biết bao. Nhưng anh chỉ đứng xa xa nhìn. Như hồi còn mạnh giỏi, má Sáng hay xuôi ghe lại trước nhà, lén nhìn. Sáng hỏi sao không chạy lại nói cho nó biết. Má anh biểu, hồi xưa, má hứa là sẽ không trở lại. Sáng nói cần gì phải giữ lời. Má anh nghiêm mặt, "phải giữ chớ, làm người ai lại phản trắc". Rồi má anh bảo, má nhớ em con thì buồn chút vậy, nhưng còn có thể nhìn nó lớn lên, còn không nhờ người ta, con nhỏ đâu còn. Đó là đứa em mà Sáng mắc một món nợ lớn. Cái hồi nghèo không đồng xu cạo gió, không cục đất chọi chim, ba anh lại trốn quân dịch nên cả nhà Sáng bồng bế nhau xuống ghe trôi nổi làm mướn khắp nơi. Sáng còn bồng nèo nẹo bên nách thì má anh sinh em bé. Hoàn cảnh khó khăn, Sáng hồi đó ốm đói quặt quẹo, hay đau, mũi lúc nào cũng chảy nước chèm nhẹp. Em nhỏ lại bị sài đẹn, khóc ngằn khóc ngặt, không bú được. Không thể cứu một lúc cả hai, má anh buộc phải cho người ta đứa em gái nhỏ. Nghe Sáng kể lờ mờ tôi nhận ra một sự thật. Là Xuyến. Không thể tin được, bàng hoàng quá phải không anh nhà văn. Giống như cải lương, ừ tuồng gì mà Vũ Linh đau khổ tới lăn ra đất vừa giãy vừa khóc đó, Hòn Vọng Phu, ờ, hơi giống Hòn Vọng Phu. Vợ tôi hồi đó cũng khờ quá. Thương thầm Sáng mà không chịu nói thẳng, cứ nói xa nói gần. Hỏi Sáng sao không lấy vợ, anh trả lời, chờ cô Xuyến lấy chồng cái đã. Hỏi sao cứ mỗi lần về Rạch Giồng lại mua quà cho chi vậy, Sáng trả lời, tôi chẳng còn ai, cô Xuyến là người thân nhất. Thân nhất rồi mai mốt em có chồng, anh Sáng có buồn không, Sáng trả lời, Chuyện vui của cô mà, tôi nói buồn coi sao được, nhưng nói thiệt, tôi buồn, cô nhỏ đi rồi, đâu còn gặp nữa, năm tới tôi xuống buồn cho mà coi. Sáng trả lời thật lòng, nhưng cũng thật thận trọng từng chữ để khỏi phải hớ hênh, Xuyến thì cứ tưởng Sáng gửi tình vào trong ấy. Rồi một bữa Xuyến đi gom củi ngoài hậu vườn, gặp Sáng, Sáng bảo, anh cầm vịt ở đây hết mùa nầy rồi chắc lâu lắm mới quay trở lại. Hết mùa gặt nầy, anh sẽ rã bầy để mua cái gì có giá trị một chút làm quà cưới cho Xuyến, anh hứa sẽ ở lại đưa dâu qua tới nhà trai. Những lời nói đó là Xuyến mủi lòng khủng khiếp, cô quyết định không lấy tôi. Xuyến nói tôi buồn còn nhiều người an ủi, nhưng Sáng buồn chỉ có một mình, tụi vịt tối ngày lạc cạc có biết gì đâu ? Nhưng sau cái hôm đàn vịt của Sáng lăn ra chết không còn một con, Sáng đã đi khỏi Rạch Giồng. Tôi đứng nhìn chiếc ghe khuất mất sau doi dừa nướclặng lẽ làm một cuộc tiễn đưa. Tối lại, Xuyến tuyệt vọng hỏi tôi sao Sáng đi mất tiêu mà không từ giã gì cổ hết ? Tôi bảo không biết. Cứ mỗi lần có chiếc ghe bầu nào đi ngang qua, Xuyến lại chạy chấp chới theo triền sông tới khi chiếc ghe khuất dạng mới thôi. Nhớ lại cái cảnh đó, tới bây giờ tôi còn thương. Không giống như chuyện Mỵ Châu, Trọng Thủy, Sáng đã không còn con vịt nào để rứt lông để lại để tôi với Xuyến lần theo dấu. Vậy mới vất vả. Anh nhà văn à, anh đi nhiều, nghe truyện, tôi chắc anh lăn lộn trong giới nuôi vịt chạy đồng dữ lắm. Nếu mai nầy anh còn tính đi tiếp, có gặp anh Sáng, nhắn dùm ảnh là vợ chồng tôi chờ ở Rạch Giồng. Hồi đó, Sáng đi là để cho vợ tôi nó khỏi đau đớn, bẽ bàng, để giữ lời hứa muôn năm với ông bà già vợ tôi. Nhưng bây giờ, hết thảy mọi người đều mong anh trở lại, thâm tình cũng như nước dưới sông, có chảy đi đâu, có chém vè ở đâu cũng hợp lại một dòng xuôi chảy mãi.
Phượng Các
#37 Posted : Saturday, November 27, 2004 3:23:23 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
Mối Tình Năm Cũ

Nguyễn Ngọc Tư


Đoàn làm phim tài liệu về nhà báo liệt sỹ Nguyễn Thọ tạm trú ở trụ sở ấp văn hóa. Họ đã ở lại Mỹ Hưng thêm năm ngày, nhưng vẫn chưa mời được dì Thấm tham gia. Trần Hưng, tác giả kiêm đạo diễn phim, vốn là người kỷ tính, cầu toàn, anh bảo, làm phim Nguyễn Thọ mà không quay được chân dung người yêu ông, mối tình năm cũ của ông thì thà ở nhà chăn heo vợ còn sướng hơn. Nên cả đoàn phải nán chờ trong căn nhà bỏ phế bấy lâu, đất nền bị heo ủi lục cục lòn hòn, bìm bìm leo xanh rờn một bên rèm cửa. Mấy ông già trong xóm lại thấy cảnh tình nheo nhóc, thở dài, tụi bây ở lì vậy không biết có ăn thua gì hôn đây, thằng Mười, chồng con Thấm tánh tình khó khăn, ngang ngược, hổng giống ai… Nên chỉ con người này thản nhiên khi thấy đài truyền hình Xê Tê tới, thản nhiên biểu vợ từ chối. Ngoài ông Mười ra, ở đây, ai cũng muốn được vô phim để kể về một Nguyễn Thọ anh dũng, tài hoa, đứa con thương nhớ của vùng đất Mỹ Hưng này, cho nói chút xíu thôi cũng được. Với Nguyễn Thọ thì làm phim nhiều tập mới xứng, nhóc chuyện. Hai mươi sáu năm rồi, nhưng mỗi ông già bà già đều nhớ thằng Thọ về lần nào cũng chui vô bếp lục cơm nguội ăn với mắm sống, có bộ đồ nhuộm pin đèn mặc chết bỏ luôn. Đám bạn đồng lứa nhớ Nguyễn Thọ hồi nhỏ đen thui, mặt mũi lúc nào cũng đóng rong rêu vì mới lặn lội dưới đìa lên, hiền mà cộc dễ sợ. Mấy ông bạn cùng tổ công tác vừa đọc truyện "Mối tình nho nhỏ" của Nguyễn Thọ vừa khóc, "Hỏng có nhà văn nào được như nó, viết truyện ngắn mà ai cũng mê, thuộc lòng như bài ca cải lương, đám cưới, đám giỗ, đám ma đều đem ra làm văn nghệ được hết". Có ông khóc tồ tồ, "Cuống rún thằng Thọ còn chôn ở đất này mà tụi ác ôn không biết đã thủ tiêu xương cốt nó ở đâu ?". Trần Hưng rất hài lòng với những đoạn phim vừa thu được, nó nổi bật lên phần đời của người chiến sỹ này, giản dị mà cao quý, bình thường mà phi thường. Và chỉ thiếu một câu chuyện tình nữa thôi, một chân dung nữa thôi, bộ phim sẽ sâu sắc, xúc động lắm. Chỉ cần dì Thấm thôi. Nhưng đã cầu cứu chính quyền, thằng Thảo từ bên ngoại dong về năn nỉ má nó, lớp trưởng bối ở xóm cũng lại bảo, "Thằng Mười mầy cho con Thấm nó đi một lần nữa thôi. Chuyện làm phim phiếc nầy nọ coi vậy cũng là làm việc nước" nhưng ông Mười vẫn nín thinh, ngồi vấn thuốc, uống trà, nhìn xa xôi. Mấy ông già dội ra, chống gậy te te về, bụng chửi, cái thằng, coi mặt chữ điền bự vậy, cái miệng rộng vậy mà ích kỷ, hẹp hòi. Nó không cho con Thấm đi chắc tại ghen chớ gì. Thằng Thọ chết ngắc rồi mà còn ghen. Bảy năm trước, lúc ông Mười đem hết thảy bốn chín cái thư của Nguyễn Thọ gửi dì Thấm đem đốt hết, cũng không ai cản được. Mấy ông viết sử của tỉnh kêu trời, đồng đội đồng chí của Nguyễn Thọ cũng kêu trời, phải chi còn, đem in vô tập những bức thư tình hay nhất (mặc dù chưa ai được xem Nguyễn Thọ viết ra làm sao). Nhưng thư đã thành tro rồi, ông Mười nói ông không cần biết chuyện giữ gìn bút tích của Nguyễn Thọ để làm tư liệu lịch sử, lưu lại cho thế hệ mai sau gì hết, ông thấy chướng mắt nên đốt, có bậy thì đem ông bỏ tù đi. Nhưng có ai bị bỏ tù với lý do lãng xẹt như vậy đâu. Chỉ thằng Thảo, con của dì Thấm và Nguyễn Thọ là buồn lòng, bỏ về ngoại ở. Dì Út Thía không chồng ôm đứa cháu nhỏ vô lòng, biểu mai mốt lớn rồi cháu hiểu. Có gì mà phải đợi lớn, hồi đó tới giờ, thằng Thảo có chọi chết gà nhà nào, có bẻ trộm trái ở vườn ai, bà con đều xuề xòa bỏ qua, nó là con Nguyễn Thọ mà, tội nghiệp… Họ còn bảo ở ngoài tỉnh nhiều đứa cậy ông cha mình có công còn làm chuyện bậy dữ hơn nữa kìa… Chỉ có ông Mười là răn đe, dạy dỗ, ghìm nó như ghìm con ngựa bất kham. Thằng Thảo trở nên đàng hoàng, tử tế, nhưng gặp bất cứ chuyện gì, trong lòng nó cũng có vết tì, tại mình hỏng phải là con ruột của ổng… lâu ngày, ý nghĩ ấy đầy như nước lên tròm trèm trên mặt đập. Và khi ông Mười ngồi dựa cái cà ràng đốt xấp thơ của ba Thọ, nước đã vỡ bờ, nó lầm lì xếp hai cái quần cụt với mấy cái áo bỏ xuống bến đón tàu. Dì Thấm không thể giữ nó lại. Ông Mười lặng lẽ ngồi đốt thuốc, ngó cái lưng tôm của thằng Thảo dưới bến, lòng trĩu như đeo đá. Ông mà không thương nó à, không thương nó sao ? Ông thương nó bằng chang con ruột ông đó chớ. Bây giờ nó không hiểu, chừng nào nó lớn, yêu thương ai đó, nó sẽ biết mà. Thằng Thảo đi rồi, nhà thành ra nặng nề, dì Thấm, người hiểu ông Mười nhất cũng giận, không thèm nói chuyện, có gọi thì cũng trổng không, "coi nhà dùm cái", "Còn thuốc gò hút hôn ? Đi chợ nè", "Cơm chín rồi nghen", ông Mười buồn cười quá, hỏi "Cơm ai nấu ?", dì trả lời "...nấu chớ ai". Chuyện nguôi nguôi đi, nhà vẫn buồn, nhưng ông Mười không đau lòng như những bữa từ ngoài ruộng về, ông nhìn thấy vợ cầm xấp thư ở góc nhà, ngồi khóc lặng. Ông thương vợ, cứ nhớ hoài vầy thì đời được mấy ngày vui. Ông đem thư đi giấu trong kẹt bồ lúa, dì vẫn tìm ra, vẫn những bữa đi đâu xa về, dượng thấy đôi mắt vợ mình sưng húp. Buộc lòng ông đem thư đi đốt. Chỉ còn cách đó mới tìm lại nụ cười nhẹ nhõm đậu trên khuôn mặt nhẹ nhõm, vô tư lự như những ngày dì Thấm mới mười tám, hai mươi. Cả đời, ông chỉ mong người trong nhà hiểu mình chứ trông gì người thiên hạ. Với cái tánh lầm lì, lạnh lùng, ít nói, có nói cũng chậm rãi, huỡn đãi, thật khó để bộc bạch mình trước người. Về Mỹ Hưng với dì Thấm từ sau giải phóng, ông chưa cãi cọ, mếch lòng ai, suốt ngày chăm chút cho mảnh ruộng miếng vườn, cho bốn đứa con vừa chung vừa riêng nhưng đất quê vợ mãi mãi không yêu ông như một đứa con ruột thịt. Vì ông lấy người yêu duy nhất của Nguyễn Thọ làm vợ (đáng lẽ phải để dành), rồi sau đó không cho vợ đi dự những cuộc họp mặt, hội thảo về Nguyễn Thọ (làm vậy không phải là quay lưng với quá khứ sao ?) và cũng vì cách ông dạy thằng Thảo (đáng lẽ con của Nguyễn Thọ phải được nâng niu, chìu chuộng). Mặt mày thì đen sì, không biết vui hay buồn, già đầu rồi chưa nói câu nào nghe ngọt ngào với vợ. Ông Mười nghe, buồn quá mà cười. Ngay bữa đầu Hưng đến, vừa bảo làm phim về Nguyễn Thọ ông Mười đã chụp cái nón lá lên đầu, bảo phải đi cưa củi. Hưng nấn ná lại với dì Thấm, hỏi dì có ngại không khi kể một chút về Nguyễn Thọ, đoạn ổng với dì yêu nhau ấy mà. Dì cười, ngẩng lên, khoé miệng nhẹ tênh, lắc đầu. Dì không ngại, với làng xóm láng giềng và cả với chồng. Thương người tử tế như anh Thọ thì ngại gì với bà con, lấy ngay thằng ác ôn nào mới mắc cở chớ, còn với ông Mười, dì kể rồi, bộc bạch hết chuyện xưa rồi, từ hồi hai người gặp nhau ở nhà máy chà Xã Chọt. Dì thuật tường tận những chỗ hai người gặp nhau, cả những lời thề hẹn. Dì rót trà mời Hưng, rồi bần thần nhìn ra sân, chỗ ông Mười hì hụi kéo cưa một mình, lưng đẫm mồ hôi, dì bảo, thiệt tình tui hỏng có gì giấu ổng đâu, nhưng chuyện hồi đó với anh Thọ… tôi nhớ hỏng hết. Già rồi… Khách ra về thì trời đổ mưa tro, mưa mà nắng vẫn chang chang trên đầu, trời hầm hập nóng, dì Thấm đi te ra chỗ đống củi, tần ngần nhìn chồng một chút rồi đằng hắng. Ông Mười không ngẩng lên. Dì lại e hèm, ngoảnh nhìn quanh quất, kiếm chuyện để nói : - Củi bằng cườm tay để tui bửa cũng được, ông cưa chi mắc công hôn ? Ông không ngẩng lên : - Mắc công gì, mớ bình bát nầy khô quá, tôi có bửa thử, nghe dội búa, sức tôi còn vậy, ốm yếu như bà sao chịu nổi. Dì không nói nữa, ngồi dưới gốc ô môi, bới lại cái bới tóc nhỏ teo ngắt như trái cau. Ông Mười chợt ngẩng lên, đưa khuỷu tay lau mồ hôi chảy tràn trên mặt, hỏi : - Tính đi không ? - Không. Đi gì mà đi, lu bu muốn chết. Lên phim hỏng biết nói cái gì, hư truyền hình của người ta. Giọng dì tỉnh rụi, như để bảo chồng đừng lo, chuyện phim gì đó dì không để bụng, không thèm quan tâm đâu. Tối sau Trần Hưng rủ thêm vài người tới nhà dì Thấm, anh không quên xách theo chai rượu với mớ khô cá kèo mua đằng đầu xóm. Anh nghĩ con người này không dễ thuyết phục đâu, đem rượu lại coi có mở lòng ổng ra được không. Nhưng anh lầm, càng uống ông Mười càng im lặng, chỉ có đôi mắt là dữ tợn lên, đỏ ngầu ngầu dưới hai đám lông mày rậm rì chớm bạc phát ra những tia nhìn như xoáy thấu người khác. Nhậu đã đời cả đám cà xình cà xang về chỗ trụ sở ấp văn hóa mà không nói được gì hết, không thể nói. Trần Hưng nằm ngẫm nghĩ, thấy vừa rồi mình giống như con diều hâu ngồi nhậu với một con gà trống đang xù lông thủ thế bảo vệ vợ con nó. Lần thứ ba Trần Hưng lại nhà dì Thấm, anh đi một mình. Và thêm một chai rượu nữa. Anh thôi làm diều hâu mà là một con gà trống hiểu biết khác, anh nói anh tới để từ giã, ngày mai đoàn phim về để làm hậu kỳ cho kịp ra mắt Ngày báo chí Việt Nam. Anh cười xòa, bị trắc trở như vầy cũng buồn, nhưng không sao đâu, có lần đi làm phim tụi tôi còn bị người ta vác dá rượt. Làm công việc này có lúc cũng đi moi móc nỗi đau của người khác ra, dày đi dày lại... Tôi cũng thương vợ như anh Mười đây, nhìn thấy vợ nó đau khổ, buồn bực chuyện gì, tôi cũng xót ruột lắm". Đôi mắt ông Mười dịu lại, ông xoay mãi ly rượu trong tay, rồi hớp từng hớp một, từ tốn như uống trà. Một hồi Hưng khật khừng đứng dậy từ giã, ông Mười mới lên tiếng, "mai vợ chồng tôi lại". Hưng nghe mừng như đánh lôtô trong bụng, thì ra trên đời nầy, ai cũng khao khát gặp được tri âm, gặp được người hiểu lòng mình. Sáng sau, ông Mười lấy xuồng đưa dì Thấm theo kinh Cỏ Chát ra Gò Cây Quao. Nghe chồng biểu thì đi vậy chớ lòng dì Thấm cũng bần thần. Cuối vàm con kinh này là nhà ngoại dì Thấm, nhưng lần nào qua cúng giỗ, dì đều chèo vòng qua kinh Nhà Lầu để về. Bởi vì mỗi lần đi ngang, dì đều không nén được nỗi đau. Dưới kinh ngó lên, có thể thấy chòm cây xanh rì giữa đồng khơi. Ở đó, hồi xưa là chỗ hẹn hò, dì quen thuộc từng bụi cây ngọn cỏ, từng bờ đất. Nguyễn Thọ cũng đã hy sinh ở đó, chỗ mé đìa lục bình, bên cây quao cụt ngọn. Vì vậy mà Trần Hưng mới dắt mọi người ra Gò Cây Quao để quay cảnh kết, anh còn chu đáo rước cả thằng Thảo về. Đất đồng mùa này đã cày, bờ mẫu chơ vơ những bụi cỏ ống, bụi rạ bị đốt cháy nham nhở. Một đoàn người lặc lè đi dưới cái nắng tháng ba như chó le lưỡi. Ông Mười ngồi lại dưới xuồng, đốt thuốc, đăm đăm ngó khói lên trời. Tới chỗ chòm quao lớn giữa đồng, họ dừng lại. Trong khi đoàn làm phim đang chỉnh trang máy, chọn góc quay, mọi người xúm lại cái cây có nhiều vết đạn nhất, kéo thằng Thảo lại, nhắc chuyện cũ mèm, "Hồi đó ba mầy núp ở đây nè, một mình nó ở lại chặn cho tụi thằng Ninh dẫn đám thanh niên rút. Để coi hồi đó inh là là tháng năm hen, anh Tám, cả xóm lúc đó cà núp cà ló vừa dòm chừng máy bay vừa cấy lúa…". Dì Thấm cứ lựng bựng không biết đứng đâu, ngồi đâu. Thằng Thảo kéo tay dì, tí ta tí tởn : "Ba Thọ chết ở đây nè má, lại coi đi". Dì rầy, có gì mà coi. Trần Hưng lôi ra trong túi áo xấp hình Nguyễn Thọ đưa dì Thấm, đây là tư liệu quý giá nằm trong mớ hồ sơ bên Mỹ mới gởi ngược về. Trên những tấm hình trắng đen cũ kỷ hiện lên một hình người nằm cạnh cây súng đã gãy (nghe nói chính anh đập gãy sau khi bắn đến viên đạn cuối cùng). Một vuông ngực vỡ toác. Đôi mắt và đôi tay bị bọn ác ôn băm nát. Cái lồng ngực từng chứa một cháy tim đỏ thắm, đôi mắt đã từng nhìn người yêu chan chứa, đôi tay đã từng iu ấp một đôi tay… Dì Thấm run rẩy nhìn những bức hình, hức lên một tiếng rồi rủ xuống như tàu chuối héo. Trần Hưng chỉ chờ có vậy, anh là tay trùm trong việc dẫn dắt cảm xúc, anh hối người quay phim hướng vào khuôn mặt của dì Thấm đang đầm đìa nước. Trời ơi, cảnh này xúc động lắm, chân thực lắm, mấy nhỏ diễn viên chuyên nghiệp nhìn đây mà học. Trong một tích tắc, thằng Thảo lặng đi, nó nhìn không ra, không hiểu được người mẹ hồn hậu mủ mỉ hay cười của nó mới đây bỗng biến mất đâu rồi chỉ còn lại một người đang quay quắt đau thương, vắt kiệt mình như cọng rạ cuối nắng. Mãi dì Thấm không mở lời nói được, chỉ khóc là khóc, nức nở ồ ồ, nhìn cảnh mọi người xúc động, hỉ mũi rột rẹt nhưng không ai bước ra dỗ cho dì nín. Cho đến khi ông Mười xuất hiện, ông bảo, "mấy chú làm ơn dừng lại một chút" rồi cầm cái khăn rằn lau nước mắt cho dì Thấm, dì như trẻ con, lau khô rồi nước mắt lại trào ra. Ông Mười vẫn nhẫn nại chậm chiếc khăn lên khuôn mặt chớm già của dì, không nói gì hết, khuôn mặt bì sì của ông hơi dúm lại, dường như ông cũng đau lắm, xót lắm. Cậu quay phim hỏi, quay nữa hôn, Hưng gật, xong lắc đầu, thôi, cảm thấy mình hơi có một chút nhẫn tâm. Cuối tháng Sáu, phim được chiếu trên truyền hình, phim thiệt là hay, thiệt xúc động, chân thực, đúng với phong cách Trần Hưng. Tất nhiên, phim không có cảnh ông Mười lau nước mắt cho vợ, nhưng những người có mặt chứng kiến buổi quay phim hôm ấy, cả thằng Thảo, là nhớ, cứ mỗi lần màn hình lướt qua vẻ mặt đau đớn, đẫm nước mắt của dì Thấm, họ lại nhớ tới một chiếc khăn, một bàn tay thô, một tấm lưng rộng...
Phượng Các
#38 Posted : Saturday, November 27, 2004 3:25:20 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)


Huệ Lấy Chồng

Nguyễn Ngọc Tư


Vẫn còn tiếng lụp cụp rộn ràng của mấy cây dao chặt vào mặt thớt mù u. Vẫn tiếng nói cười xao động từng chòm nhóm của các chị, các dì trong nhà bếp. Tiếng máy đèn chạy tạch tè. Đằng trước rạp, nhóm ca cải lương dạo đờn lửng ta lửng tửng rồi ai đó vô câu vọng cổ ngọt xớt. Không biết vô tình hay cố ý, anh chàng nọ kê micro gần miệng mà uống rượu. Nghe đánh cái chóc giòn thiệt giòn rồi khà ra tuồng như cay đắng lắm, chua xót lắm, bắt thèm. Huệ với Điềm ngồi xếp quần áo trong buồng. Điềm bò lại cửa sổ mở chốt, đẩy hai cánh cửa lá sách sơn xanh ra, trời khuya sâu hun hút, nó la lên : - Trời, gió mát ghê hen. Huệ gật đầu, ừ, mát, gió chạy nghe thông thống trong lòng. Nghe rõ ràng mùi xoài cát trái mùa chín son ngoài song cửa. Tự dưng Huệ thấy nhớ nhà ghê lắm. Ngồi ngay ở nhà mà cũng nhớ thiếu điều rớt nước mắt cái độp xuống mặt chiếu bông. Lúc nảy, ăn cháo khuya xong, ba Huệ biểu cả nhà ra đằng trước, ông đốt nhang khấn trước bàn thờ làm lễ xuất giá cho con gái út. Chưa đủ lễ thì má Huệ đã khóc òa. Mấy chế, mấy dì ở nhà dưới chạy lên, bắt khóc theo, nước mắt nước mũi lòng thòng. Thành ra ai cũng xúm lại khóc nên không có màn dặn dò như mấy những lễ xuất giá khác. Huệ nghĩ vậy mà tốt, nó đỡ buồn tủi. Điềm dặn, "Bây giờ mầy khóc cho đã đi, để mai lúc rước dâu thì ráng nhịn, cô dâu mà khóc, son phấn trôi tèm lem, thấy rầu lắm". Trời đất, buồn thương ở trong lòng, lúc nào tràn đầy thì phải khóc cho vơi chứ có phải rót nước ra từ cái ấm, lúc nào muốn rót thì rót, lúc nào không muốn thì thôi. Con gái lấy chồng, hỏi ai không tủi ? - Hồi sáng này, lúc đi chợ mua đồ về tao thấy ông Thi đi ngang nhà mình. Điềm rũ cái áo bà ba hường làm cái đèn chao ngọn, nó lên tiếng. Huệ ra bộ dửng dưng : - Ừ ! - Thấy cái mặt ổng buồn, đứt ruột lắm. - Ừ ! Điềm trở giọng quạo quọ : - Ừ, ừ hoài. Phải chuyện mầy với ổng mà thành, đám nầy vui biết bao nhiêu không. Huệ cười, biểu Điềm nói nho nhỏ thôi rồi cái giọng lại nửa dửng dưng nửa phân trần : - Thành gì mà thành, người ta đã nói là không có tiền sắm trầu cau. - Sạo, trầu cau rẻ rề, mà, sao lại có tiền đi cưới người khác. Huệ cười, người ta vậy, mầy còn nhắc làm chi. Mà, sao bữa nay gió lạnh quá chừng, gió te tái đưa tới một tiếng gà đang gáy, nghe từng giọt, từng tiếng buồn thỉu. Cái vali da mới màu vôi đã đầy quần áo. Đồ của Huệ không có bao nhiêu, cũ hết rồi, đồ bên chồng cho mới nhiều, tới mười hai bộ. Điềm nhắc : - Còn tập chép bài ca, mầy đem theo không ? - Ừ, đem theo, chút nữa tao quên rồi. Mà, đem theo chắc cũng không làm gì hết. Về bên nhà chồng không biết còn rảnh rổi vừa đưa võng vừa ngêu ngao hát. Nhà Thuấn vườn rộng, ruộng cũng nhiều, công chuyện chắc vô số. Thuấn kể, chỉ tính bẹ dừa khô rụng xuống, má Thuấn đã đi chặt mãn một năm còn chưa giáp vườn. "Nhưng em đừng sợ, về bển, ba má với anh không cho em làm gì nặng nề đâu", Thuấn nói thêm. Huệ cười, cực khổ nó không sợ, chỉ sợ không được vui. Nghĩ lại, có chồng vừa hiền vừa giỏi như Thuấn, lại thương mình như vậy làm gì mà không vui. Huệ lại chỗ đầu nằm, giở gối lên, nâng niu ấp trong tay tập chép bài ca đã cũ. Nhắm mắt, nó vẫn lật ra ngay cái trang có nét chữ nắn nót của Thi, dưới bài hát "Nhẫn cỏ", Thi ghi thêm hai câu thơ "Trăm năm ai chớ bỏ ai. Chỉ thêu nên gấm, sắt mài nên kim". Con Điềm thường bảo, người ta lấy thơ để thay lời thề hẹn đó. - Tao tội nghiệp ông Thi quá, mà tao cũng tội nghiệp mầy nữa. - Điềm vừa nằm xuống, vừa thở dài cái thượt. Huệ kêu Điềm ngủ đi rồi lụi hụi xuống giường, nó nói nó còn quên sợi dây nịt. Điềm xì một cái, "mầy có tật tiếc đồ cũ". Huệ gắt, "Kệ tao. Ngủ đi". Huệ bò lại chỗ cửa sổ và ngồi đó, đưa mắt nhìn xa thẳm màu đêm. Huệ ngồi đó thật lâu, đến má ghé vô buồng biểu Huệ nhắm mắt một chút đi, ngày mai rước dâu mệt lắm. Huệ dạ, thổi phù cho tắt đèn. Con Điềm vốn mê ngủ, đặt lưng xuống chưa bao lâu đã thở sâu. Huệ lại thắp đèn coi bây giờ là mấy giờ rồi giở vali ra, nói thầm trong bụng : "Không biết mình có quên gì không ta ?" Nó làm như lỡ quên món gì sau này không có dịp về lấy nữa. Mà, từ Đất Cháy qua nhà Thuấn có bao xa, chạy xuồng băng tắt qua Đầm, rẽ theo kinh Thợ Rèn chừng mười lăm phút là tới. Nhưng với đứa con gái theo chồng, quãng đường đó cũng chở thương, chở nhớ. Chế Lê, chế thứ ba của Huệ lấy chồng sát bên nhà, chỉ cách một hào ranh mà còn khóc lu bù. Hồi đó, Huệ cười, chế cú cái cóc lên đầu nó," Sau này có chồng rồi biết, cưng ". Huệ không tin, nó biết mình rắn rỏi lắm, sức mấy mới khóc. Té ra không phải vậy, nó cũng là một đứa lạc lòng. Sáng mai thôi nó sẽ xuống võ rồi về ở miết nhà người ta. Nhớ cái cối xây bột dựa hàng kệ đựng tiêu tỏi, dầu ăn, nước mắm... Con mèo ngủ thiu thiu trên đầu bộ ngựa, mấy cái võng giăng quây quần quanh bồ lúa. Lối vô nhà trải đất đỏ, người đi ra đi vô đã mòn mấy hòn tròn tròn trọc lóc. Lối này đổ ra con đường xóm xáng múc hôn hang chạy dài tới Vịnh Dừa. Đi chút nữa là tới đám trâm bầu, chỗ con đập vào xóm Kinh Cụt, bẹ dừa kéo xuồng nằm vảnh cổ, có bẹ đã khô quắt, có bẹ còn tươi thơm. Xóm kinh ăn sâu vô đồng. từ vườn nhà Huệ dòm xéo về phía tây, bỏ cánh đồng lúa lơ thơ gốc rạ là một vệt xanh rờn của dừa, của chuối. Và nhà Thi ở đó. Huệ với Thi quen nhau hồi nhỏ. Thi có tật khoái đi tắt đường đồng đâm thẳng vô vườn nhà Huệ để đến trường. Tan học về, nó có thể nhẩn nha, lang thang đồng khơi thả diều cho tới chạng vạng. Có bữa tan trường, Thi về cùng Huệ, Thi hỏi, "tao thấy con gà mái nhà mầy đẻ bậy đống rơm sau hè, sao mầy không làm ổ ?" Huệ xụ mặt xuống, môi trề ra "Gà nhà tao, kệ tao." Thi mất hứng, càu nhàu :"Con gái gì... vô duyên". Đó là chuyện hồi nhỏ, chớ khi hai đứa lớn lên, Thi nhận ra Huệ có duyên, đã có duyên mà còn đẹp nữa. Thi học lớp trung cấp sư phạm xong về dạy trường cấp II Ấp Chín. Thi dạy lớp sáu, ngay lớp con bé Mén con anh Hai Mận học. Huệ đi họp phụ huynh hoài. Vô đó, không phát biểu gì, thẹn thò ngồi cuối dãy bàn, cũng không để ý coi Thi nói gì, chỉ nhìn Thi cười. Trời đất quỹ thần ơi, người gì cười hiền thấy thương quá. Hồi xưa, lúc còn con nít đứa nào cũng hôi nắng, cũng lùi bùn sình, đâu phải như bây giờ. Ở chợ hay ở quê gì rồi người ta cũng lớn lên. Ở xóm này, người biết tụi nó thương nhau đầu tiên là con Điềm, nhỏ bạn thân nhất của Huệ, người thứ nhì, thứ ba biết là chú thím Mười Ba. Chú Mười Ba bán quán cà phê cặp bờ kinh xáng. Quán chú buổi sáng toàn đàn ông, buổi trưa của mấy thím đàn bà, ôm đứa con nẹo một bên vú nói chuyện làng trên xóm dưới. Buổi chiều, tụi con nít tụ lại quán chạy lòng vòng trong sân chơi. Riêng buổi tối, quán chạy máy đèn chiếu phim bộ Hồng Kông phục vụ cho đám thanh niên. Có lần coi bộ phim kiếm hiệp "Thiên Long Bát Bộ", tới đoạn A Châu chết, con Huệ nước mắt rịn rịn, chắc lưỡi như nói với con Điềm: "Ước gì trên đời này có ai thương tao như ông Kiều Phong thương A Châu, chắc tao sướng tới chết luôn quá". Con Điềm cười, ngó ra sau lưng, nói xa xôi, "Có chớ, sao mà không?". Thi ở đằng sau, kế dãy ghế Huệ ngồi, hít đầm đìa hương tóc thơm của cô bạn gái, mỉm cười. Ra về, Thi thả chầm chậm theo tới chỗ quẹo vô nhà Huệ, Thi mới níu tay Huệ lại, Thi nói rằng:"Ông Kiều Phong đó mà nhằm gì, có người còn thương Huệ hơn..." Tay Huệ ấp vào giữa tay Thi líu ríu. Sáng ra Bà Hai, má Huệ nói với thím Mười Ba :" Làm gì hồi đầu hôm nầy mấy con chó nhà tôi sủa ong ỏng hoài vậy không biết ?" Thím cười, chó sủa chuyện vui. Rồi con Điềm làm nhân chứng cho mối tình của Huệ. Gặp Thi ở đâu, Thi nói cái gì Huệ đều kể cho Điềm nghe. Nhiều lúc Điềm phải nạt, " Trời ơi, mầy kể cho tao nghe hoài, tao phát ghen luôn đây nè". Mai mốt đây, hai đứa phải lấy chồng (con gái ở quê nuôi lớn không để lấy chồng thì làm gì ?), Điềm ước gì mình gặp được một người tử tế, hiền hậu, có học thức như Thi, lấy được người chồng mà tự mình tìm hiểu, yêu thương như Huệ. Huệ cười, chưa gì hết mà chồng chồng vợ vợ, nghe kỳ. Nói vậy, nhưng lòng Huệ nghe ấm ran, nó mơ tới một mái nhà sớm chiều khói tỏa, buổi sáng nó rang cơm cho Thi lót lòng đi dạy, trưa đón Thi về chăm chút nồi canh chua bông súng ăn với cá sặc kho khô. Thương thì thương vậy, nhưng nhắc chuyện cưới, thấy không gấp gáp được. Nhà Thi đã nghèo mà anh em lại đông. Má Thi giao, đứa nào nấy làm để cưới vợ riêng. Lương Thi thì ít lắm, dư dả bao nhiêu. Vì vậy mà Thi xin đổi ra Rạch Ráng dạy trường huyện. Thi tính, ra ngoài đó Thi dạy thêm giờ, chắc lương lên được hai trăm mấy, để dành không bao lâu nữa đủ tiền lễ để cưới Huệ rồi. Huệ cười, cưới vợ chớ đâu phải mua vợ đâu mà phải tốn nhiều tiền. Thi bảo, không cần rình rang nhưng cũng phải có năm sáu bộ đồ, đôi bông, sợi dây chuyền cho Huệ không phải tủi chứ. Những lúc nhớ Thi, Huệ ngồi mơ về đám cưới, bữa đó, chắc là vui lắm. Hết học kỳ đầu, tự nhiên bặt cả tháng Thi không về, có về cũng chui nhủi trong nhà, ốm như ma đói. Huệ hỏi hoài, nhưng Thi cúi đầu, tìm được ánh mắt Thi đã khó, mong gì Thi nói ra. Chuyện Thi thế là thôi rồi, mấy thím buổi trưa ngồi quán chú Mười Ba cong miệng nói với nhau, nghe phong thanh Thi đi lại với con gái trưởng phòng giáo dục huyện, cô nọ mang thai, chuẩn bị cưới. Đâu nè, thầy Thi đâu có tệ như vậy. Ừ, nhưng nghe nói thầy Thi bị "gài" như trong Lan và Điệp. Tội nghiệp. Tội nghiệp ai? Thì Thi chớ ai, ở đời ngược ngạo vậy đó. Thi cưới vợ xong rồi nhưng vẫn thường tha thểu về ở lì trong này. Huệ gặp Thi giữa đường muốn cười nhưng Thi lầm lũi cúi mặt. Huệ lấy chồng. Thím Mười Ba chép miệng, giọng không biết khen hay chê:"Con Huệ nó dứt tình lẹ quá ha, dứt cái "rụp". Huệ cười, thấy đâu có chê Thuấn được cái gì, Thuấn biết Huệ từng thương Thi mà anh cũng bước tới. Huệ bây giờ, còn chờ ai nữa ? Huệ chuẩn bị cho đám gã mình từ mấy tháng trước. Suốt ngày nó cặm cụi ngoài vườn. Lá dừa khô bó láng vo, tề đầu tề đít chất đầy giàn bếp, dựng qua tới bồ lúa. Củi phơi từ lúc chớm hết mưa, lổn nhổn ngoài sân. Mớ cọng dừa đã róc lá dựng ngoài giàn, chưa khô hẳn thì đám bìm bìm đã leo xanh rờn, nó cũng dỡ xuống, chặt phơi. Chuyện gì nó cũng giành làm một mình, làm từ sáng sớm tới chạng vạng, không đi coi phim nữa mà tối tối nằm nhà nghe cải lương hoặc đưa võng cò kẹt, hát "Thương nhớ nhớ mãi không thôi. Chàng mới ra về chị em tôi thương nhớ...". Điềm tới chơi thường, như giữ Huệ, sợ Huệ vì Thi mà làm chuyện dại. Sợ vậy thôi, chớ Huệ vẫn roi rói, người ta thấy nó không thèm rớt một giọt nước mắt nào như nó với Thi chưa từng có duyên dẻ gì nhau. Điềm hỏi "Sao tao không thấy mầy buồn gì hết ?". Huệ cười, "Tao quên ông Thi mất tiêu rồi, tệ quá, nhớ làm chi ?" Hồi đám cưới Thi, Huệ chép miệng tiếc, phải chi Thi mời... Không được mời nên mới nằm nhà, gió đưa tiếng hát ngang qua đồng lúc gần. lúc xa thăm thẳm. Hôm gần đám, Thuấn chạy xuồng qua chở Huệ đi chợ. Hai đứa mua nhiều thứ, cuối cùng dắt nhau tới tiệm tạp hóa lựa bốn trái tim bằng giấy đỏ lớn bằng cái thúng để Huệ dán bên nhà hai trái, buồng cưới nhà Thuấn hai trái. Lúc Huệ giở mấy trái tim coi kỷ coi có thủng lổ không thì thấy Thi đằng cuối chợ đứng nhìn. Huệ cười ráo hoảnh. Tưởng Huệ không thấy, Thuấn quay qua, nhắc nhỏ, "Thi kìa, em ! ". Huệ cười, ừ, Thi đó, Thi chớ ai, rồi biểu người bán hàng lựa thêm cho hai chữ Song Hỷ mới lại gần chào, Huệ biểu, "Thi đừng có nhìn tui trân trối vậy, tui cũng phải lấy chồng chớ, phải hôn. Mà anh nhớ đối xử với người ta tốt như đối xử với tui vậy nghen". Thi gượng gạo cười rồi cắn môi quay đi. Thuấn nhìn theo, nắm tay Huệ, nắm rất chặt, nửa như để an ủi, nửa lại giống như rịt lấy, như sợ Huệ bỏ chạy đi mất. Huệ mắc cười, đó là lần đầu tiên từ lúc xuống mối, tới ăn trầu uống rượu rồi chuẩn bị cưới Thuấn mới nắm tay cô. Thì phải vậy thôi, mai mốt là vợ chồng rồi... ... Huệ ngồi chỗ cửa sổ cho tới lúc gà gáy rộ. Bà Hai lủi thủi đốt cây đèn cóc ngồi lột tỏi, không biết có phải tỏi nồng hay không mà mũi bà sụt sịt, nước mắt kèm nhèm. Bà con cô bác cũng trở dậy râm ran. Thức ăn đãi buổi mai đã làm sẵn từ hôm qua một mớ nhưng thịt kho tàu vẫn chưa thấm lắm, lớp mỡ chưa trong. Than bắt lửa cháy lép bép. Huệ kêu Điềm dậy, sửa soạn ra chợ xã đánh tóc, làm mặt. Điềm ngồi dậy, tay lò mò kiếm cây kẹp tóc, giọng tỉnh queo nhưng hơi bàng hoàng : - Trời ! Sáng rồi sao ? Mau vậy ? Đám thanh niên đằng trước quét qua nền rạp, xếp bàn ghế ra. Nhóm ca cải lương đã mỏi mòn ngoẹo vào nhau ngủ mê mệt, thay vô đó là băng nhạc đám cưới xập xình "Ô vui quá xá là vui..." Xuống xuồng, Huệ giành lái máy. Điềm ngồi co ro đằng trước mũi, than lạnh quá chừng đi. Gió này mà không lạnh sao được. Một tháng mười ba ngày nữa là Tết rồi còn gì. Và sau tết nầy, mấy thím ngồi quán trưa bảo nhau, "Vợ chồng con Huệ có về". Trong tiếng máy Koler 4 nổ lùng bùng, tự dưng Huệ bảo : - Ừ, lạnh quá, Điềm ha ? Xuồng từ từ chạy tới đập nhỏ đầu xóm Kinh Cụt. Đám trâm bầu đứng im lặng, xơ rơ. Huệ bất ngờ xuống máy chạy chậm, chiếc xuồng khật khừng. Nó ngơ ngẩn ngó lên bờ, trong lòng chao chát một nỗi thèm muốn. Nó muốn chạy vô xóm, tới nhà Thi, gặp anh và nói cho anh hay rằng nó hết thương Thi rồi, nó quên anh, quên thiệt. Nhưng nói để làm gì, ta ?
Phượng Các
#39 Posted : Saturday, November 27, 2004 3:27:32 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)

Chiều Vắng

Nguyễn Ngọc Tư


Ngày dì Út Thu Lý tròn bốn mươi bảy tuổi, dì từ giã thêm một lượt ba cái răng. Buồn quá trời đất, dì lại chùa Phấn, than với sư Huệ bây giờ không biết làm sao giáp mặt anh Tư Nhớ, răng cỏ trống hơ trống hốc vầy… Bà sư già nghe xong niệm Phật mà không nén được cười. Dì Út mượn gương, soi mình vào đấy, thấy tóc bạc, mặt nhăn, kỳ lạ thay, dì thấy cả một nỗi buồn rất lạ thăm thẳm trong lòng mình. Dì đứng đó một chút, rồi dì te tái cắp nón đi, hỏi đi đâu, dì bảo ra vườn thuốc. Nhà cậu Tư Nhớ cũng ở đó, xiêu xiêu giữa vườn thuốc Nam, quanh năm nồng nàn hương hoa cỏ. Nhưng cậu không có nhà, cậu đang dự đám tang trên Lung Dừa. Cậu “đuổi quỷ” trong đội đạo tỳ của Chữ thập đỏ xã. Gần mười lăm năm cầm đuốc múa quanh quan tài đến chai tay, lửa phà nám mặt, mấy lần ngậm dầu phun lửa bị sặc trối chết, càng lớn tuổi cậu càng tưng tửng, ai cũng nói, ổng bị sặc dầu quá trời đất như vậy mà không mát dây cũng uổng. Cậu nghèo, nhưng đèo bồng nuôi một thằng nhỏ mồ côi cha mẹ. Bình thường thì thằng Lụm kêu bằng tía, nhưng có lúc, kêu vậy cậu la thấu trời: "Mầy làm như tao già lắm vậy, kêu tao bằng anh đi, bằng thằng cũng được nữa”. Một tháng ăn cơm nhà chừng ba bữa, còn hai mươi bảy bữa cậu dọn vườn, chặt thuốc cho chùa nên được đãi cơm chay. Hết việc, cậu dắt thằng con lang thang làm mướn dài dài theo xóm, ăn cơm ở đó luôn. Đội đạo tỳ có việc thì hai cha con dùng cỗ đám tang, lắm lúc cậu về nhà biểu thằng Lụm: "Đổ nước mắm vô kho quẹt ăn. Tao ngán thịt heo thấu trời rồi”. Chỉ nhà dì Út Thu Lý là cậu không bao giờ lui tới. Hồi bà Hai má dì còn sống, ra đường chạm mặt, tránh không được, cậu mới mở miệng, giọng có một chút hằn học, một chút chua xót, một chút mỉa mai: “Thưa má!”, rồi cậu cun cút đi thẳng. Những chiều ngang qua nhà, thấy bà Hai bắc cái ghế ngồi ngoài hàng ba là cậu cởi quần dài, tụt xuống mé kinh, lội qua khỏi đoạn đó mới ngoi ngóp lên bờ. Đám trẻ trong nhà thấy cảnh đó cười ngắt nghẻo, chỉ dì Út Thu Lý là chua xót ngẩn ngơ, người coi tưng tưng vậy mà giận dai ghê hen. Rồi dì tự hỏi, nếu mình là anh ấy, thì mình có giận không? Giận. Bởi gió kia, mưa kia, những mái nhà chiều chiều khói tỏa kia, người phụ nữ đang na cái bụng bầu lặc lìa qua ngõ kia, và những đứa trẻ kia, cả thằng Lụm… hết thảy đều làm cho người đàn ông đó nhớ một mái ấm đã bị tước đoạt của mình. Bởi nếu con cậu còn sống, bây giờ chắc nó cao hơn thằng Lụm. Những khi ngồi nhớ lại, cậu ứa nước mắt, ước gì mình được nhìn thấy nó một lần, một lần thôi, sau này có sặc dầu hay chết hụt dưới mương, có lẫn lộn việc này việc khác, dứt khoát cậu sẽ không quên hình bóng vợ con mình. Nhưng cả mơ ước đó cũng bị má vợ cậu, bà Hai cướp đi mất. Khi dì Ba Thu Lê để lòng thương cậu Tư Nhớ, roi đòn mấy cũng không cản được, bà đã nghiến răng trèo trẹo khi nhắc tới cậu, "thằng ăn cướp". Sinh cả thảy cả sáu người con chỉ có hai đứa con gái: dì Út Thu Lý vụng về, đểnh đoảng như trẻ con, vui buồn ra mặt; bà Hai dồn hết tình thương cho con gái Thu Lê vén khéo, nhu mì. Hồi đó, dì Ba mới hai mươi tuổi, trong lòng người mẹ, dì còn non nớt, dại khờ. Ai mà ngờ một bữa dì bỏ bà đi… Nhà cậu Nhớ cách nhà bà một quãng đường xóm, những bữa đi ngang qua nhà, bà Hai nghe giận nhói ngực khi thấy con gái mình khép nép đi cạnh chồng. Cái nhìn van lơn và hối lỗi của cậu Tư Nhớ nhỏ nhoi trước biển lửa giận hờn trong trái tim người mẹ. Không bảo nhau nhưng cả hai người đều hy vọng, dù lâu lâu lắm nhưng sẽ có một ngày bà tha thứ. Hồi đó, gia tài của hai người chỉ có căn nhà dựng trong vườn chùa với chiếc xuồng. Dì Ba hay cười, an ủi: "Anh buồn gì, xóm mình đâu chỉ nhà mình nghèo…". Dì làm bánh bò, sáng sớm hai vợ chồng chèo bán dọc theo các xóm ven đầm, buổi chiều họ xin rơm chở về gieo cải, trồng rau trên liếp nhỏ kế bên nhà. Dạo đó, người ta dồn về nơi này để theo những con rạch ngoắt ngoéo ra cửa sông Thầy Xúi vượt biển tìm đất hứa. Nhiều bữa thấy người ta lỡ đường, vơ vất ngoài bờ bụi, khổ sở với bầy muỗi lá, cậu Tư cho quá giang, cho ngủ lại, san sẻ ít chén cơm nguội. Cậu với dì không hỏi họ đi đâu, làm gì, hỏi họ cũng không nói thiệt, chỉ nghĩ trong bụng, xứ sở mình ở đây mà hổng ở, đi làm chi cho cực thân vậy không biết. Cho tới một bữa trên đường chở rơm về, cậu bị công an xã bắt vì tội đưa người vượt biên. Cậu Tư Nhớ có kêu oan nhưng các anh công an cười, hỏi bà già vợ thưa mà còn oan ức gì? Cậu nghẹn lời, ngỡ ngàng và đau xót. Lúc đó là tháng năm, đôi vợ chồng trẻ đang nôn nao đếm ngược từng ngày chờ đến sang giêng sẽ đón đứa con ra đời… Bốn mươi ba ngày sau cậu Tư được minh oan. Lúc về thì cỏ đã mọc xanh lối vào. Giồng cải bên nhà trổ bông, ngồng cao tới ngực. Lúc về, chuột cắn rơm làm ổ trong cái cà ràng trên bếp. Lúc về, người cũ không còn ở chỗ cũ, nhà lạnh ngắt, buồn xo. Cậu Tư Nhớ uất quá vác cây mác chạy tới nhà bà Hai đòi người. Bà đứng chận ở cửa, mặt thản nhiên, lạnh tanh như đồng, bảo “Ở đây không có gì liên quan tới cậu. Con tôi nó ra chợ ở rồi, còn con cậu hả? Ra bãi rác ngoài trạm xá xã mà kiếm". Cậu Tư Nhớ hoài, nhớ đời đời kiếp kiếp cái vẻ mặt chai đá của bà Hai, cậu cười, sao con người đối với nhau có thể cạn ráo đến vậy. Cho đến bây giờ dì Thu Lý vẫn còn nhớ giọng cười của cậu hôm ấy, nó lạt nhách, không dư âm, như thể đá cười. Cho đến bây giờ, gặp dì, cậu vẫn hay cười như thế, có lúc cậu còn làm ngơ không thèm nói chuyện. Nhưng dì không giận, vì nghĩ nhà mình nợ anh ấy rất nhiều, cho tới khi má dì nằm xuống, món nợ ấy vẫn còn nguyên. Người ở xóm Rạch Ruộng ai cũng biết dì Út Thu Lý thương cậu Tư, họ dạy con nít ngạo chơi "Trồng tre trở gốc lên trời. Con chị qua đời rồi tới con em". Nghĩ cho nghiêm túc, hai người này cũng thật xứng đôi vừa lứa. Ngày nào dì Út cũng đi làm công ở chùa Phấn, hốt thuốc tiếp sư cô, lúc rảnh chạy qua nhà cậu Tư Nhớ quét cái nhà, lau bộ ván, cho chó mèo ăn. Dì coi nhà cậu như nhà mình, nên quen cái lối đi hẹp giữa bộ ván ngựa cũ kỹ và chiếc giường, quen với căn bếp nằm chếch phía trái, đó là một góc tù mù khói, nhưng đó là một chỗ ấm áp nhất. Mấy đứa con nít khen dì giống cô Tấm trong truyện cổ tích. Bây giờ gần hai mươi năm rồi, tóc đã trắng những sợi già, chuyện tình đó vẫn chưa đi tới đâu. Chiều nay lại, thay vì lòn tay qua lỗ mở cái móc khóa quen thuộc ra, dì Thu Lý tự nhiên giữ lễ, đứng chờ ngoài cửa. Thằng Lụm về trước, thấy dì, nó cười, hỏi: "Ủa, sao Út không vô?". Dì bảo: "Vô gì, nhà người ta mà". Thằng Lụm nhìn dì lom lom, nó thấy dì bữa nay lạ quá, không biết có phải tại rụng mấy cái răng không. Nhưng lúc đó đã nghe tiếng đá banh dội binh binh đằng xóm, nó rảnh đâu mà thắc mắc, vọt đi mất. Cậu Tư Nhớ qua khỏi lùm nhãn lồng, làm như không thấy dì Thu Lý, vạch cái cửa đi tuốt vô nhà. Cậu ra ngoài giàn ôm củi vô, rồi chổng mông thổi lửa nấu cơm nước, khuôn mặt cậu tỉnh rụi. Nước sôi, cậu đi rửa cái bình mẻ vòi, châm trà. Cậu chống rèm cửa sau lên, lau bộ ván ngựa đầy dấu chân gà, quét cái nhà vương vãi rác rồi ngồi uống trà. Cái vạt áo màu bông cà của dì Thu Lý vẫn phơ phất bên ngoài cửa. Muỗi kêu o e xà quần bên lỗ tai, giờ này muỗi bắt đầu bay khỏi đám lá đi kiếm hơi người. Ngoài sân chắc muỗi cũng nhiều… Cậu Tư hơi trù trừ giây lát rồi đứng lên, ra cửa trước nói trổng không: - Sao bữa nay mắc gì mà không vô nhà? Ngoài này muỗi cắn chết. Dì thở ra, cứ tưởng là thằng chả không mời. Dì cố nén cười, nghiêm mặt bước vào, đứng lừng khừng khách sáo như khách lạ. Cậu Tư coi bộ hơi bực: - Sao không ngồi đi? Coi chừng làm nhăn bộ ván tui nghen. Nói rồi, cậu đi gom mớ vỏ dừa khô vô nhen mẻ ung. Cậu ngồi thổi hoài cho đến khi lửa bùng lên, cậu lại vùi cho tắt. Rồi hì hụi chỗ này, hì hụi chỗ kia, không làm gì cũng lăng xăng. Sực nhớ ra, cậu lại đằng chái bếp lấy khúc ổi vừa được phơi dốt nắng, ngồi đẽo ngỏng cối, ngày mai, đằng nhà Tư Biểu có đám giỗ, thể nào cũng xài. Cậu sợ rảnh tay rồi phải mở lời nói với nhau. Mà cậu thì không biết nói gì hết, không muốn nói gì hết. Bởi mỗi khi gặp nhau, lòng người này chỉ toàn những oán giận, những nỗi đau, còn người kia tràn đầy niềm yêu thương vô vọng mà họ đã không còn ở tuổi hai mươi, ba mươi để nói ra tâm trạng ấy bằng lời. Nên chiều nay lặng lẽ lạ thường, có thể nghe rõ ràng tiếng muỗi kêu, tiếng xì xì mọng nước của thanh củi ướt cháy trong mẻ, tiếng lưỡi mác vót khứa ngọt vào cây ổi, tiếng trái dừa chuột khoét rụng đùng xuống hào ranh… Dì Thu Lý lên tiếng: - Anh Tư à… bữa nay em mới nhổ ba cái răng. - … - Tính luôn hôm rảy là bảy cái rồi đó. Thấy vậy mà già rồi… Cậu Tư Nhớ vẫn nín thinh, hì hụi gọt đẽo, thấy mình cũng thật nhẫn tâm. Kinh kệ mỗi ngày từ chùa Phấn vọng sang cùng tấm lòng chân thật của dì Út vẫn không làm cậu nguôi đi oán hận. Cậu mà đáp tình dì chẳng phải là đã tha thứ cho nhà đó sao; ngu sao, đâu có dễ vậy. Dì Thu Lý ngồi trên tấm ván đã cong vênh, nghe lòng trống không đã sạch sành sanh những niềm hy vọng cuối. Không biết làm sao cho hết bối rối, dì ngó quanh quất cho giống người xa lạ chơi. Dì nhìn chiếc quai nón bằng vải nhung đã phai màu treo ở đầu giường, cái áo bà ba màu bông cà bọc trong bọc ni lông treo trên vách cùng với chiếc cặp đỏ bằng nỉ (hôm chị Thu Lê theo chồng, nó chỉ đủ để ba bộ đồ với cái khăn tắm, dì Út lén má xếp giùm). Dì nói bằng một tiếng nhói: - Anh nhớ chị Ba em? Lần này cậu Tư Nhớ đổ quạu, vặc lại: - Bộ tui trâu bò sao mà không biết nhớ? Biết còn hỏi! Ờ, thì biết. Hơn hai mươi năm rồi cậu Tư với dì Thu Lê đã không gặp lại nhau. Mỗi bận lễ Tết, hay đằng nhà bà Hai tổ chức giỗ ông Hai, cậu đứng xa xa dòm ngó, nghe nhộn nhạo từng khúc ruột. Hổng biết cổ có về không ta? Thằng Lụm hiểu lòng cậu, nó chạy đi coi, nó kể ở ngoài chợ người ta về đầy nhóc, người nào người nấy đẹp đẹp không hà, tía. Nhưng trong đám người đẹp đó không có người cậu thương, dì Ba không về, dì viết thơ gởi bà Hai (lá thơ đó nhòe nước mắt) thưa rằng chắc chẳng bao giờ dì về quê nữa, quay lại đó, rồi làm sao, mặt mũi nào để gặp một người. Dì viết rằng, má ơi má đừng buồn, chừng nào nhắm mắt xuôi tay, con sẽ về để nằm trên đất nhà mình. Câu chuyện đó dì Thu Lý kể cho cậu Tư Nhớ nghe vào một ngày mưa gió, cậu đội áo mưa lại chữ thập đỏ xã, xin được giữ một chân đạo tỳ trong đội mai táng. Ai cũng hỏi sao tự nhiên đi làm cái nghề u ám vầy, cậu cười không nói. Chỉ có một người biết, càng biết nhiều càng nghe lòng buồn nhiều. Dì Ba Thu Lê bây giờ đã theo chồng sống ở nước ngoài, vò võ không con, dì cay đắng, "trời phạt vậy". Dì hay gởi thư, tiền và hình về nhà. Trong hình lúc nào cũng đeo nhiều đồ trang sức, mập mạp, đầy đặn, cười thật nhiều nhưng đôi mắt lại buồn thiu, luôn luôn ngó thẳng về phía trước mà ánh nhìn không có một chỗ vịn nào. Một người sống không quê hương, sống đầy mặc cảm, dằn vặt, sống mà đau đáu hoài chuyện cũ thì biết níu đâu bây giờ? Chiều nay ngồi trong nhà cậu Tư Nhớ, dì Út lại nhớ chị mình. Dì chợt nghe lòng quang quẻ lạ lùng, sao mình không giúp cho anh chị ấy gặp lại nhau một lần, bây giờ không làm, đợi tới chừng nào. Mình làm được mà, thí dụ như mình giả đò chết. Chị Ba Thu Lê nhất định sẽ về, sẽ gặp lại anh Tư Nhớ, dù bây giờ tóc xanh phai màu, gặp chơi vậy thôi chứ không thay đổi được gì hết. Nhưng thương nhớ nhau thì hội ngộ lúc còn đang sống, chứ đợi người âm kẻ dương làm chi… Đời vốn dĩ đâu có buồn dữ vậy. Dì Út Thu Lý ngồi ở đó tới chạng vạng, không nói thêm gì nữa, chỉ đau đáu ngắm cậu Tư, lòng tràn đầy thương yêu. Lúc về, dì mới lại gần, dạn dĩ gỡ cây mác vót trong tay cậu ra, nắm ngay lấy bàn tay nóng rực ấy, định cười, nhưng nhớ mấy cái răng cửa vừa nhổ nên thôi. Rồi dì bảo: "Mai mốt chế ba về, anh Tư à. Thiệt, mai mốt này…" Khi qua cửa dì Út Thu Lý mới hay, con mắt rửa bằng khói đã nhòe nước. Rồi những cơn gió tháng bảy đưa tin vui đến từng mái nhà trong xóm Rạch Chùa. Người ta bần thần, vậy a? Xa xứ biết bao lâu rồi, trôi dạt tận nước ngoài, cuối cùng người con gái đó cũng về thăm lại xóm Rạch. Cậu Tư cuống quýt hỏi thằng Lụm, có đúng cổ không, mậy? Đúng hả, về rồi hả, về một mình hả? Vậy a? Trời ơi! Gió thổi bời bời vào căn chòi của cậu Tư Nhớ, thốc cuộn những tàn tro xát vào những vết cắt trong lòng. Dì Thu Lý chỉ còn làm được một chút đó cho Tư Nhớ để trả cho cậu món nợ nhà dì đã vay, để cậu gặp lại người xưa. Nhưng cậu đã phụ lòng, khi dì Ba Thu Lê về, tận mặt nhau, cậu lắc đầu, cười, khẳng khái "Em Lê đâu có già, đâu có mập ú ù u như vầy". Cả ba người quay lưng lại với nhau, bưng mặt khóc, thương cho tuổi thanh xuân đã qua mất rồi.
Phượng Các
#40 Posted : Saturday, November 27, 2004 3:30:10 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)




Sông Dài Con Cá Lội Đâu

Nguyễn Ngọc Tư



Lần nào về, bông súng cũng trổ hoa đầm đìa xóm Phố. Bông nở xòe kín mặt nước hố bom, ao làng, mé kinh. Dì Diệu nắm tay con Quỳnh, con gái nhỏ của dì Đào, đứng bên đường tim đau rưng rức, có phải tại mấy cái bông súng kia mà mình nhớ xóm Phố đau thương này không. Hay là tại hết thảy cây cỏ lá hoa, mái nhà nhang khói tỏa, lối xóm đầy bông dâm bụt đỏ, hết thảy hình ảnh đó đều cứa xót lòng dì. Xóm Phố giỗ hội vào ngày mười chín tháng bảy ta, ngày mà ba mươi bốn năm trước, B52 của giặc bỏ bom rải thảm xuống cái xóm chưa đầy năm mươi nóc gia này. Chỉ có những người tản cư ra chợ, đám thanh niên vô du kích ém trong đám lá bạt ngàn là còn sống sót. Ở xóm Phố bây giờ toàn là một lứa tuổi với dì Diệu. Gặp nhau khum khum bàn tay che nắng cho đỡ chói hỏi coi phải anh Năm, anh Bảy không, sao mà già quá vậy nè. Họ mới hỏi lại : - Vậy chớ cô Diệu có còn trẻ đâu. Ừ, có còn trẻ đâu, dì Diệu năm nay đã sáu mươi chín tuổi rồi, tóc đã ngã màu khô quánh của đất mà tóc vẫn dài, mỏng tanh bới gọn như củ tỏi. Dì Diệu rời xóm Phố lên giúp việc nhà dì Đào đã ba mươi bảy năm, chính vì vậy mà dì còn sống sót. Nhớ quê thì hơn hết thảy người ta, ngày nào cũng nhớ nhưng mỗi năm dì chỉ về một lần, là lần đám giỗ cả nhà dì cũng là giỗ hội xóm Phố, còn đám giỗ ba dì, dì Đào cho phép làm ở nhà, bữa giỗ đơn sơ, dì Diệu ngồi khóc lặng. Đám trẻ nhà dì Đào vẫn thường nghĩ, tại sao tụi nó cũng mất cha mà không đau đớn, ray rứt như dì Diệu. Dì Diệu không có chồng, đám trẻ cũng không nghe nói là đã thương ai. Coi lại cái tướng nhỏ thó quắt queo khô héo của dì chắc là chưa bao giờ dì yêu, vì tình yêu nuôi sống người ta mãnh liệt lắm. Năm nào cũng vậy, giao mùa dì Diệu là người hay trước nhất, khi cả nhà thức dậy, dì Húa bảo gió bấc về rồi, về lúc dì quét lá ngoài sân. Gió về là mùa Tết về, mùa cưới về. Dì Đào chép miệng, năm nào má cũng hứng nước mưa đầy mấy cái mái để coi có xài đám gã con chị con em không mà chờ hoài không thấy. Quỳnh là đứa cắc cớ, "Tụi con thì chắc còn lâu, hay là năm nay gã chồng cho dì Diệu nghen, má, chớ để gió này, dì Diệu lạnh chịu gì thấu". Hồi còn trẻ, chọc ghẹo là do thành ý, nhưng chọc hoài mà dì Diệu vẫn chưa lấy chồng, mỗi lần nhắc, miệng dì cười mà mắt dì rờn rợn một nỗi đau nào đó, dì Đào mới nạt mấy đứa con gái, biểu thôi đi. Quỳnh chắc chắn là ngày xưa dì Diệu có hứa hẹn ai với ở xóm Phố rồi, chỉ lạ là không nghe ai kể, nên về giỗ hội lần nào, Quỳnh cũng để ý coi hồi trẻ dì yêu ai trong đám đàn ông đen đúa, rụng răng này. Năm nay giỗ hội lớn vì trúng mùa, vì những người đi xa xiêu lạc hẹn nhau về, nhưng coi bộ không có ai là người yêu cũ của dì Diệu. Không ai nhắc chuyện tình yêu gì hết dù là lời nói vô tình. Nấu nướng xong, dọn lên cúng, mọi người rảnh tay, ngồi lại uống nước trà, ăn trầu, bánh mới nhắc chuyện con Tư thằng Tám, đứa đi xa, đứa hy sinh, hy sinh thì coi như vẫn còn ở đất này, đi xa thì về rồi, coi như đã đông đủ rồi. Ủa, nói đông đủ đâu có được, còn vắng mặt một người nghen. Không hiểu sao con Quỳnh thấy dì Diệu cúi đầu. Quỳnh muốn nghe thêm nhưng không ai nhắc gì về người đó nữa. Người trong xóm quay ra nói chuyện mùa lúa năm nay, mùa dưa, mùa trầu năm tới. Cậu Năm tổng kết lại, năm nay xóm Phố có nhiều cái mới nghen, một cây cầu bắc qua kinh Thầy Ký, cái đình thành hoàng được dựng lại trên nền đất cũ, mai mốt cúng đình mời hát bội về hát chơi. Thằng Bầu con cậu Năm bị ép uống chừng lóng tay rượu trong cốc, mặt đỏ sậm như xôi nếp cẩm thôi nhìn lén con Quỳnh vọt miệng, có cái mới nữa, xóm mình có một người điên. Sạo hoài mày. Tui nói thiệt mà, tui gặp ngoài chợ, ông đó điên rồi mà biết xóm Phố mình ngày xưa có một cái đình. Mọi người lặng thinh, họ nhìn nhau ngơ ngác. Thằng Bầu ngồi xếp bằng trên bộ ngựa, nó thẳng người lên, kể với tất cả niềm hứng khởi về phát hiện động trời của mình, rằng xóm Phố cũng có một người điên xiêu lạc. Thằng Bầu kể , thứ bảy rồi nó chở trầu đi chợ Cà Mau. Bữa đó dội chợ, trầu ế thấy thương luôn. Nó bưng mấy cà vung trầu lên ngồi bên mé chợ Công Chánh ngồi từ sáng sớm tới trưa mà không thấy ai mua, tức mình nó mới rao : "Ai mua trầu xóm Phố hôn. Trầu xóm Phố chịu khổ rồi nên vừa nồng vừa ngọt đây". Bài nầy là tự thằng Bầu sáng tác ra. Nó rao chừng vài quận thì ông già đó xuất hiện. Mới nhìn, Bầu không biết là ông điên, không phải như mấy người đứng trên đám hoa kiểng ngoài bùng binh, hát vang giữa trời nắng lửa, lại không giống như mấy ông trong chợ, miệng lẩm bẩm chửi chó mắng mèo bâng quơ. Tóc ông già dài, thưa thớt bờm xờm phủ xuống vai. Đôi tròng mắt trẻ thơ ngầu đục dấu dưới vũng ghèn tẹp nhẹp chảy hai bên sóng mũi thành dòng đùng đục, mái tóc nửa đen nửa bạc xác xơ, da đen ngầu, cái màu không phải giòn giòn như những cô gái miền biển mà lem nhem vì lâu ngày không rửa, vì gió bụi. Tay ông cầm xấp vé số quăn cả góc, bèo nhèo. Không biết ông uống cà phê hồi nào mà cái thứ nước đen đen thơm thơm đó chảy ròng ròng trên bộ râu lởm chởm, rối nùi. Nước chảy tới đâu ông già liếm tới đó, mắt nhắm nghiền, đôi môi héo queo chắp chắp ra bộ ngon lắm, vừa chép miệng ông già vừa nghiêng đầu hỏi : - Trầu xóm Phố ? Thiệt ? Thằng Bầu tả rằng ông già nói nhanh và tỉnh như chẳng hề mấp máy môi, như giọng nói phát ra từ cổ họng hệt mấy con cu gáy ở nhà nó. Thằng Bầu trả lời : - Thiệt. - Sạo. Trầu xóm Phố xanh ơi là xanh, lá bự vầy nè, ông già xòe cả hai bàn tay ra. Thằng Bầu cãi : - Nhưng bây giờ đất cằn rồi, trầu đâu có tốt nữa. - Vậy ? Giọng ông như thảng thốt, rồi ông nhón một lá trầu thành kính đưa vô miệng nhá một miếng, một miếng nữa rồi ngốn ngấu cả lá, mặt ông già rúm lại, nước mắt trào ra. Ông thè đầu lưỡi đỏ hỏn ra hít hà, ừ trầu xóm Phố thiệt rồi. Tin rằng đây đúng là trầu xóm Phố, ông già lại nghiêng đầu nhìn chằm chằm vào thằng Bầu : - Biết xóm Phố hả ? Thằng Bầu cười híc hác, nghĩ, ông này hỏi khờ quá : - Nhà tui ở đó chớ đâu mà không biết. - Thiệt ? - Ông già nói bằng cái giọng ngơ ngẩn xa xôi, ở xóm Phố cũng có đình, có hát bội, ừ hát bội Phàn Lê Huê. Còn xôi nữa, xôi ngon thì thôi đi chớ, nhưng tụi bây là con nít, đợi cúng xong mới được ăn nghen, ông già chỉ tay vô trán thằng Bầu, bảo, rồi ông mơ màng, có chim làm tổ trên ngọn cây dương, chim bay vầy nè, (ông già giang đôi tay ra, quạt quạt nhịp nhàng, có lúc ông nghiêng người như lúc cánh chim chao lượn), có lấy xuống rồi, em Chín biểu đem lên cây để lại, em Chín nói, tổ là nhà của chim, mình cũng có nhà, ai lấy nhà mình mình khổ lắm. Nhưng trả nhà lại rồi mà tụi nó hỏng thèm quay lại ở… Thằng Bầu ngạc nhiên, khi nó lớn lên, ngôi đình ấy đã không còn, ngay gần trường học, đình chỉ còn là đống đổ nát, bìm bịp leo dày bịt, xanh rờn. Mới đây thôi, chú Bảy trưởng ấp vận động đám thanh niên trong xóm dọn cỏ sân đình chuẩn bị xây lại. Bầu nghĩ chắc ông già này đi khỏi xóm Phố lâu rồi nên nhớ toàn là những chuyện năm nẳm nào không hà. Ông già chợt im lặng, dúi đầu cúi xuống xấp vé số cũ mèm, đếm lẩm nhẩm, đếm đi đếm lại cũng cỡ năm lượt, lại ngẩng lên như tính toán, suy nghĩ ghê lắm. Ngồi trong cái cảnh ế chợ, thằng Bầu cũng buồn, nó bắt chuyện với ông già chơi : - Cái đình cũ mất tiêu rồi… - Tổ chim mất rồi - ông già nối lời - Nhà em Chín cũng mất tiêu rồi. Sao cái gì cũng mất hết, tôi cũng mất luôn. Biết ai lấy không, ông già thì thào ra bộ bí hiểm, thằng Ngầu xã trưởng với thằng Mĩ, thằng Mĩ lông lá chớ ai. Bất chợt ông già òa khóc, không, hỏng phải tui đâu, tui có cầm súng bắn cháy tổ chim, cháy đình nhưng tôi hỏng bắn vô nhà em Chín, tôi hỏng có bắn ba em Chín, tôi không đốt nhà em Chín, không phải tôi à nghen, tôi đâu có làm được, tôi là thằng khùng mà, mấy người không thấy sao ? Ông già ngồi khóc như trẻ con, vừa khóc vừa nấc tức tưởi. Nước mắt rửa gương mặt ông già sáng sủa trở lại, ràn rụa trên đó những nếp nhăn sâu hoắm như ai lấy dao rạch nát. Thằng Bầu chút xíu nữa đã khóc theo vì thương, thì ra không phân biệt ai điên ai tỉnh, những giọt nước mắt lương thiện luôn xa xót lòng người. Mấy người buôn gánh bán bưng ngồi gần đó đều quay nhìn chăm chắm vào ông già, có người chép miệng, "tội nghiệp ổng, cái thằng bán trầu, người ta khùng muốn chết luôn mà chọc ghẹo ổng chi mậy ?". Thằng Bầu thấy bất nhẫn : - Thôi, đừng có khóc nữa, khóc thấy rầu thấy mẹ. Đình cũ mất nhưng mai mốt xây lại, mắc mớ gì mà khóc. Bất chợt ông già nín bặt, ông dè dặt hỏi : - Vậy … nhà mới có thề được hông ? - Ủa, thề vụ gì ? - Thề như vầy nè, "Sau nầy con mà phụ em Chín, quên em Chín, xin Thành Hoàng phạt con cho con sống dỡ chết dở đi". - Bây giờ người ta thương nhau đâu có ai thề nữa. - Vậy ? Ông già xửng vửng, rồi quên mau, ông lại ngẩng lên, trên môi đã sẵn nụ cười tí toác : - Có gặp em Chín không, sao… tự nhiên nhớ quá hà. - Nhớ cỡ nào ? - Còn chút xíu nữa chết. Bầu thích cái câu "chút xíu nữa là chết", câu đó rõ ràng là có duyên thì thôi đi. Nó cười, hỏi : - Em Chín đẹp lắm à ? - Đẹp chút xíu nữa là chết. Đẹp lắm, như… ông già ngừng lại, ngó lom lom vô mặt Bầu như để so sánh, rồi ông già thận trọng lắc đầu, hỏng giống, em Chín tóc dài, đẹp như Phàn Lê Huê. Bầu ngẫm nghĩ, ở xóm Phố không có ai tên Chín, đặt tên theo thứ chỉ có dì Bé Mười. Năm nay nó mười bảy tuổi rồi, người trong xóm nó rành sáu câu, không còn ai tên là Chín nữa. Nhưng nó không muốn ông già tắt hy vọng, nó cũng muốn giỡn cho vui - Em Chín của ông điên rồi. - Trời, thiệt hả, tội nghiệp quá. - Ừ, tội lắm, em Chín hay ra ngoài bờ sông ngồi hát rồi khóc, bả hát vầy nè, "Sông dài cá lội biệt tăm. Phải duyên chồng vợ trăm năm cũng về". Bả mặc đồ gì hả, áo đỏ, quần xanh, đầu gắn bông lồng đèn. - Trời ơi ? Ông già chồm lên, mắt mũi ông bắt đầu đỏ rựng, Bầu sợ ông lại khóc - Em Chín làm cô dâu đó, trời ơi, hồi nhỏ tôi hứa mà, khi nào hai đứa cưới tôi hái bông lồng đèn tặng em, tội quá, em điên còn chút xíu nữa chết mà em còn nhớ tới tôi, thiệt tình. Sao mình giởn kỳ vậy ta ? Bầu tự hỏi. Ông già mếu máo hỏi : - Em Chín của tui đâu rồi ? - Ở xóm Phố. - Sạo, xóm Phố không còn, em Chín không còn, tôi không còn. - Còn mà. - Thiệt hông ? Thề đi. - Thề, nói dóc sẽ trúng số độc đắc. - Vậy em Chín đâu rồi ? - Trốn rồi. - Vậy ? Ông thốt lên chưng hửng rồi lẩm bẩm, chắc vậy quá, chắc là chui vô kẹt bồ lúa rồi ngủ quên luôn trong đó. Em sợ tui sao ? Sao em sợ tui vậy ? Tui đi kiếm hoài mà không gặp, tôi nhớ lắm, em Chín ơi. Ba tiếng "Em Chín ơi" ông già hờ lên ai oán, thảm thương, như đã từng thương nhớ rất sâu, đã từng sầu thương vằng vặc. Bầu không biết diễn tả như mấy đứa học trò ngoài chợ (khi nói tới câu này, thằng Bầu liếc con Quỳnh một cái) nhưng lúc đó nó nhận ra trong cái ông già khùng khịu này có một cái gì đó bình thường quá, (Quỳnh vọt miệng, rất người), ừ, thằng Bầu gật gù kết luận, rất người.Thằng Bầu lại nhìn Quỳnh, "ước gì trên đời này tui gặp được người tui thương, sau này có điên tui nhớ cho đỡ buồn". Người trong đám giỗ bực quá gắt lên, cái thằng, toàn nói bậy, trở lại chuyện ông già đi, có phải ổng tên Lạc không, ổng có nói ổng tên Lạc không? - Không. Lạc là ai vậy ? Trời ơi… - Thằng Bầu nhảy dựng lên, có phải cái ông lính đồn Chệt bắn chết ba dì Diệu đó hôn ? Nhưng dì Diệu tên Diệu chớ đâu có phải em Chín gì đó. Hỏng phải, chắc hỏng phải, mà, hoàn cảnh cũng giống, con có hỏi sao mà bác không về xóm Phố tìm em Chín, ổng tội nghiệp lắm, ổng rút người lại, lấy tay bưng mặt, đôi bàn tay ông đầy ghẻ chóc, bông như da cắc kè, qua kẻ tay, ông già chỉ chừa ra một đôi mắt hấp háy, đầu lắc lia lịa : - Hỏng biết đường đi. Xóm Phố không còn, đình không còn, em Chín không còn, tôi không còn. Mà, tôi không dám gặp em Chín, tôi … tôi bắn vô ba em Chín vầy nè… - Ông già chừa một bàn tay che mặt, bàn tay kia hướng thẳng về phía trước, co ba ngón lại, mắt dại đanh đi, miệng ông hô "Pằng ! Pằng" rồi ông già ngẩn người ra như để nhớ lại và suy nghĩ, ba em Chín chết, em Chín đứng đó, em Chín la lên, trời ơi, đồ giết người, chắc là sợ con không hiểu, ông già giải thích thêm, cổ nói tôi là đồ giết người đó chớ hỏng có nói ai đâu, cổ nghỉ chơi, đâu thèm kêu tôi bằng anh nữa, nhưng… ông mếu máo, tôi không bắn thì thằng Ngầu xã trưởng giết cổ chết, tôi… tôi đâu có đành, rồi cái… ông già lại trầm ngâm, bảo, ba em Chín nằm vầy nè, con không kịp nắm tay ông già lại, ông nằm lăn ra nền chợ vương vãi rau dưa thối úa, chân ông co lại, tay cũng co, miệng há ra, bọt mép sủi tăm tăm rồi chảy ròng ròng hai bên khóe miệng. Ông già diễn lại một cái chết bạo liệt nhất mà từ khi lớn lên tới giờ con mới được thấy. Bà già bán muối nhìn con, lắc đầu, miệng làu bàu, Nữa, chọc ổng nữa rồi, cái thằng coi hỏng được". Con tính cãi, con có chọc gì đâu, nhưng thôi, con lại gần đỡ ổng dậy, nhưng lắc hoài ổng vẫn cứng đờ. Con giật mình thảng thốt áp tai lên bộ ngực ốm tong thoi thóp mấy nhánh be sườn của ổng. Con nghe ổng biểu nhỏ : "Không nhúc nhích được, chết là không nhúc nhích". - Không, con cười, vỗ về, bác còn sống, bác ngồi dậy đi. - Thiệt sao ? - Thiệt mà. - Vậy sao ba em Chín nằm như vầy rồi không dậy nữa ? Ông già lại khóc rưng rức. Con thở ra nhìn mọi người cầu cứu, có ai không ? có ai biết làm sao ông già ra tới nông nỗi này không chớ con không biết, con có biết gì đâu, mới mười bảy tuổi mà, học hành hỏng tới đâu, chăn trâu tưới trầu là giỏi thôi, làm sao mà con biết được những bi kịch, những mất mát xé lòng của cuộc chiến tranh ngày trước chớ. Mấy cậu coi phải không ? May mà con đỡ ổng ngồi dậy được, mới đó mà đã hệch miệng ra cười lơ láo rồi, trên gương mặt còn chảy tràn nước mắt. Ông phủi đít phẹp một cái, từ giã trống không, thôi, đi nghen. Có người hỏi, đi đâu vậy ông già, ông cười, đâu có biết. Con tự dưng nói vói theo, "Bác ơi về xóm Phố đi, em Chín đang chờ bác đó". Đó là cái câu tử tế nhất mà hồi nào giờ con mới nói được. Thằng Bầu kết luận. Cũng là kết thúc câu chuyện vui rằng xóm Phố có một người điên. Mọi người im lặng, mà không, chỉ người lớn im lặng, bởi vì họ vừa hiểu ra tại sao mấy chục năm rồi có một người không về xóm Phố, còn bọn trẻ thì bàn tán xôn xao, vậy là ông già đó vì bắn ngay trân ông già vợ cho nên phát điên chớ gì, phải hông mậy, hay là ổng bị Thành Hoàng phạt, nếu bị phạt là phạt oan rồi, ổng điên mà ổng nhớ chớ có quên đâu. Thằng Bầu lắc đầu, rảnh ra chợ hỏi ổng, tao đâu có biết, suy nghĩ lại, ông già thấy thương thiệt, coi vậy, điên mà đàng hoàng, chung tình, ở xóm mình chỉ còn mình dì Diệu chưa lấy chồng, dì Diệu à, con mà đưa dì lại với ổng con nói dì là em Chín, biết đâu ổng lành bịnh rồi sao, dì Diệu ơi, dì Diệu…". Nhưng dì Diệu không còn ngồi trong góc ván nữa, mọi người túa đi tìm, con Quỳnh thấy dì đang ngồi vịn lu nước ngoài sàn lãn, lưng dì cong oằn lại, vai dì run. Quỳnh giật mình, đỡ dì dậy, mặt dì đầm đìa nước, Quỳnh lấy khăn lau mặt dì rồi mà gương mặt già nua nhăn nheo vẫn ràn rụa. Thằng Bầu đứng đực ra kêu lên : - Ý, trời ơi, dì Diệu khóc. Dì đừng khóc, dì ơi, con giỡn thôi mà, đời nào con gã dì cho ông khùng đó, tụi con thương dì mà. Cậu Năm, dì Bé Mười nạt, mấy đứa nhỏ im đi, rồi chạy lại mỗi người một bên ôm chầm lấy dì Diệu, Dì Bé Mười biểu, đừng khóc nữa, chị Chín ơi, thôi đừng khóc nữa, chuyện ngày xưa đã qua rồi. Có tha thứ được thì tha thứ đi, cho lòng nó thanh thản. Dì Diệu nức nở, tui đâu biết là ra nông nổi vậy… Quỳnh không hiểu gì hết, hỏi Bầu hiểu không, Bầu cũng không, vậy mà nói rành người trong xóm như rành sáu câu vọng cổ. Í, đâu có nói vậy được, thế hệ mình với thế hệ ông già bà cả này thiệt xa nhau quá. Sáng sau, thằng Bầu lại chỗ dì Diệu bảo, lúc này cũng chưa vô vụ, chưa có gì làm, để nó theo dì ra thành phố tìm người. Con Quỳnh ngạc nhiên, tìm ai ? Ông già điên đó chớ ai. Trời đất, kiếm ổng làm gì ? Làm "đàng trai". Trong thành phố nhỏ, hai đứa Bầu, Quỳnh gặp biết bao nhiêu người điên dại, cũng có nhiều người điên biết khóc, nhưng người trăm năm của dì Diệu vẫn biền biệt bóng chim tăm cá. Có một hôm thằng Bầu chiêm bao thấy lưng một người cầm áo lội qua sông Thầy Ký, bên kia bờ, là xóm Phố, ngôi đình xóm Phố mái cong cong, chim về đậu mờ mờ trên nóc, dưới gốc dương là bóng người con gái tóc dài, tỉnh dậy không biết có phải ông già điên không, chắc là ổng rồi, chớ người bình thường thể nào cũng qua xóm bằng cầu hay qua đò chứ ai lại lội sông.
Users browsing this topic
Guest (16)
5 Pages<1234>»
Forum Jump  
You cannot post new topics in this forum.
You cannot reply to topics in this forum.
You cannot delete your posts in this forum.
You cannot edit your posts in this forum.
You cannot create polls in this forum.
You cannot vote in polls in this forum.