Welcome Guest! To enable all features please Login or Register.

Notification

Icon
Error

MỘT CUỘC TUYỂN LỰA CA SĨ
viethoaiphuong
#1 Posted : Tuesday, December 16, 2008 4:00:00 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
MỘT CUỘC TUYỂN LỰA CA SĨ
Thomas Thompson <lotritham1941@ …> _ Date: 2008/12/17


MỜI ĐỌC: TUYỂN LỰA CA SỈ TẬP 01

Tại một văn phòng tuyển lựa ca sĩ tại quận Cam nước Mỹ: ban giám khảo gồm có ba người, một nam, hai nữ. Thí sinh là một người đàn ông khoảng 50 tuổi. Ông ta có vóc người cao lớn, khuôn mặt xương xương và dài như mặt ngựa, với "mái tây hiên nguyệt gác chênh vênh" (răng vẩu) Sau vài câu chào hỏi ngắn gọn, vị nhạc sĩ chánh chủ khảo kiêm chủ nhân trung tâm ca nhạc Sống Giang vừa nhìn vào tờ resume vừa hỏi:
- Xin lỗi, xin anh Chí Phèo cho biết nghệ danh của anh là gì?
Thí sinh trả lời bằng giọng bắc Hà Nam Ninh chính cống:
- À, nghệ danh của tôi nà "Con Ve Sầu Mùa Ðông"!
Ban giám khảo hơi khựng người trước cái nghệ danh hơi lạ đời, tuy nhiên vì thời gian quá gấp rút, còn nhiều thí sinh khác đang chờ bên ngoài nên họ phải vào đề ngay:
- Vâng, thưa anh Ve Sầu Mùa Ðông, xin anh cho biết anh chuyên hát loại nhạc nào?
- Thí sinh Chí Phèo bèn nói huyên thuyên:
- - Tôi nà ca sĩ thượng hạng, đã từng được nhà lước ta phong tặng danh hiệu "nghệ sĩ nhân dân". Còn nhạc thì bất cứ nhạc gì tôi cũng hát được tuốt: nhạc xanh, nhạc đỏ, nhạc tím, nhạc vàng! Ðây lày ông hãy xem lày, đây nà cái nít (list) niệt kê tất cả nhân chứng sống đang còn sống ở Việt Lam, họ đã từng biết tôi đã từng nà ca sĩ lổi tiếng ở trong lước!!!
- Vừa nói, thí sinh Chí Phèo vừa dí một tờ giấy vào mặt ông giám khảo, để ép buộc ông ta phải đọc. Vị giám khảo nữ thấy vậy bèn xua tay:
- - Anh Chí Phèo à, chúng tôi đang tuyển lựa tài năng ca sĩ và tuyển lựa trực tiếp, nghĩa là chúng tôi cần anh biểu diễn, hát ngay cho chúng tôi nghe chớ chúng tôi không cần nhân chứng!
- Thí sinh Chí Phèo hơi tái mặt, tuy nhiên ông ta vẫn tiếp tục móc trong cặp táp ra một xấp giấy khác, xìa ra trước mặt ban giám khảo:
- - Ðây lày, các vị hãy xem, đây nà tất cả các giấy khen và bằng khen mà tôi đã được bộ thông tin văn hóa chứng nhận tôi nà nghệ sĩ nhân dân, một ca sĩ có giọng ca vàng thượng hảo hạng ở trong lước, không có ca sĩ nào địch lổi! Quý vị không tin ư? Thì đây, đây nà hình ảnh của các vị ninh mục ở trong lước đã từng biết tôi nà ca sĩ lổi tiếng, quý vị hãy xem! Tôi có ghi cẩn thận số phôn tay, số điện thoại nhà, nếu quý vị muốn "chếch" thì cứ việc, "lô bóp lầm" (no problem)!
- Ông nhạc sĩ chánh chủ khảo hơi bực bội:
- - Anh Chí Phèo à, khi ra thông báo tuyển lựa ca sĩ, chúng tôi đã ra điều kiện là mỗi ca sĩ phải hát cho chúng tôi ba bài hát tự chọn. Thậm chí, chúng tôi chỉ cần nghe anh hát một bài thôi là có thể biết anh là người có thực tài hay không! Chúng tôi không cần resume hay nhân chứng, hay những bằng khen, giấy khen, huy chương của nhà nước việt cộng đã cấp cho anh! Mấy thứ đó không đáng tin đâu! Anh có thực tài hay không, cứ hát cho chúng tôi nghe một bài là chúng tôi biết liền!
- Mặc dù bị kê tủ đứng nhưng "ca sĩ" Chí Phèo vẫn cứ trơ mặt lỳ:
- - Khổ quá, tôi lói như thế mà quý vị không tin ư? Tôi đã từng năn nộn dưới gầm sân khấu, ủa quên, năn nộn trên sân khấu trên ba mươi lăm rồi! Huân chương, huy chương của nhà lước ban tặng nhiều không kể xiết. Ðây lày, quý vị hãy xem, đây nà danh sách những nhân chứng sống, họ nà HÀNG XÓM của tôi đấy. Họ sẵn sàng nàm chứng cho tôi, xác nhận tôi đúng nà ca sĩ có nghệ danh "CON VE SẦU MÙA ÐÔNG" chính hiệu. Họ cũng sẵn sàng xác nhận tôi chính nà người đã biết ca hát núc còn ở truồng tắm mưa từ thuở bé!!! Tôi có số phôn, số phấc (fax) của họ đây, có cả địa chỉ của họ ở Việt Lam nữa, quý vị có muốn "chếch" (check) không?
- Ðến lúc này thì ông chánh chủ khảo thật sự tức giận:
- - Anh Chí Phèo! Sao anh "phèo" quá vậy? Tụi tôi không có thì giờ để đùa giỡn với anh! Bây giờ tụi tôi yêu cầu anh hát ngay cho chúng tôi ba bài hát do anh tự chọn. Nếu không thì xin mời anh đi ra ngoài để chúng tôi kêu thí sinh khác!
- Bị phản ứng khá mạnh, Chí Phèo đâm ra hoảng, nói sảng:
- - Khoan, hẵng gượm đã, để tớ cho cậu xem cái lày: - đây nà ảnh của nhà văn lổi tiếng đã từng ở tù chung với tớ đấy nhé! Nhà văn lày đang sống ở quận Cam đây. Ông ta sẵn sàng nàm chứng cho tớ, xác nhận tớ đúng nà ca sĩ "CON VE SẦU MÙA ÐÔNG" chính cống bà nang trọc! Chính tớ đã ca cho ông ta nghe nhiều nần khi còn ở trong tù! Ðây nà số phôn nhà của ông ta. Còn đây nà số phấc (fax) của ông ta. Cậu cứ gọi đến ông ta mà xác minh ní nịch!
- Vị nữ giám khảo bực quá nói gay gắt:
- - Cái chúng tôi đang cần là cái tài năng thật sự của anh. Prove it! (hãy chứng minh đi) Sao anh cứ đánh trống lãng, cứ đưa hết nhân chứng này tới nhân chứng nọ ra để làm gì? Anh có phải là ca sĩ không? Nếu anh có thực tài thì hãy hát liền cho chúng tôi nghe một bài. Nếu thấy được thì chúng tôi sẽ ký hợp đồng với anh ngay tức thì! Còn nếu không được thì xin mời anh đi ra ngoài! Chuyện anh bị ở tù ở Việt Nam không có liên quan gì đến việc tuyển lựa ca sĩ của chúng tôi!
- Bị dồn vào thế bí, Chí Phèo bèn đánh bài tẩu mã:
- - À, quý vị cần tớ hát niền bây giờ à? Bây giờ tớ không có .... HỨNG để hát! Tuy nhiên, tớ có thâu sẵn giọng ca oanh vàng của tớ vào cuộn băng cát xét "đề mô" (hát thử) đây lày. Quý vị cứ nghe thì biết!
- Ông giám khảo dứt khoát xua tay đuổi Chí Phèo ra ngoài:
- - Thôi, cám ơn. Xin mời ông đi ra ngoài! Làm nghề ca sĩ mà phải có hứng mới hát được thì chết rồi! Nói cho ông nghe, nghề ca sĩ là phải có mặt để hát ở khắp mọi nơi, ở ngoài trời cũng như ở trong rạp; hát ban ngày cũng như hát lúc nửa đêm về sáng, hát bất cứ lúc nào mà khán giả yêu cầu. Vào thời chiến, có những ca sĩ phải ra tận ngoài tiền tuyến để hát phục vụ cho các chiến sĩ nữa đó! Thôi, go out!
- Thế là "ca sĩ" Chí Phèo tiu nghỉu bước ra khỏi phòng tuyển lựa ca sĩ! Còn lại ba người giám khảo bình luận với nhau:
- - Thằng cha này có vẻ khùng điên và mờ ám quá!
- - Nó lấy nghệ danh "Con Ve Sầu Mùa Ðông" là mình biết nó là thằng bịp rồi! Con ve nó chỉ ca hát vào mùa hè mà thôi, chớ có khi nào ve sầu mà hát vào mùa đông! Bởi vậy, dứt khoát thằng này không phải là ca sĩ, mà chỉ là một thằng bị bệnh tâm thần như thằng tướng hải quân giả mạo vừa rồi, mới bị đưa ra tòa!

(còn tiếp )
viethoaiphuong
#2 Posted : Wednesday, December 17, 2008 7:22:02 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
TUYỂN LỰA CA SỈ PHẦN 02:


LIÊN TƯỞNG ÐẾN TRƯỜNG HỢP ÔNG NGUYỄN CHÍ THIỆN:

Qua câu chuyện tuyển lựa ca sĩ nêu trên, chúng ta liên tưởng đến trường hợp ông Nguyễn Chí Thiện.
GIẢ SỬ kể từ khi ông Thiện được định cư tại Mỹ, ông vẫn tiếp tục sáng tác đều đều những bài thơ rực lửa, lên án tội ác của cộng sản và chống cộng đến "dư thừa sức đạn bắn" thì có lẽ không có ai đặt nghi vấn về ông làm gì. Vì sao? Bởi vì hữu xạ tự nhiên hương. Cái tài của ông tự nó biện minh cho ông, mạnh còn hơn ngàn lần những nhân chứng hay những sự giảo nghiệm chữ viết.
Một người đã đạt đến trình độ làm được những bài thơ xuất thần, tuyệt tác như tác giả Vô Danh thì chắc chắn có đủ trình độ để làm được thơ ứng khẩu. Trong suốt 13 năm qua, đã có rất nhiều cơ hội cho ông Thiện làm thơ ứng khẩu, ví dụ như những lần sinh hoạt trong các buổi biểu tình, các buổi lễ tưởng niệm, các buổi hội thảo ..v..v.. Rồi có những biến cố chính trị lớn xảy ra, ví dụ như những tên đầu gấu Khải, Triết, Dũng đi qua Mỹ ăn xin, những đoàn văn công của việt cộng, biến cố Viet Weekly, vụ Trung Cộng xâm chiếm hải đảo Hoàng Sa và Trường Sa, vụ dân oan trong nước, vụ tòa Khâm Sứ Hà Nội, vụ đấu tranh của giáo dân công giáo Thái Hà. Tuy nhiên, hầu như qua các sự kiện và các biến cố nêu trên, người ta không thấy ông Thiện sáng tác được một bài thơ nào! Hay nói một cách ví von, "khẩu súng" thơ của ông đã .... hết đạn! (Thật ra, làm đếch gì có đạn mà hết! Chỉ đeo khẩu súng nhựa cho oai thôi!)
Ông Võ Ðại Tôn sau 10 năm ở tù cộng sản, khi trở về Úc, ông vẫn tiếp tục sáng tác thơ và thơ của ông ta vẫn hay như lúc trước. Ông ta là nhà thơ thứ thiệt thì trước sau ông vẫn là nhà thơ. Cái tài của ông không ai có thể tước bỏ hay tranh đoạt được. Không có ai dám nghi ngờ ông là thi sĩ dỏm.
Trong biến cố tên Trần Văn Trường treo cờ máu tại phố Bolsa hồi năm 1998, có những đêm có khoảng gần 20 ngàn người tham dự biểu tình! Những tiếng hô vang "đả đảo cộng sản" vang xa hàng chục cây số! Trong bầu không khí rừng rực lửa đấu tranh như vậy, nhạc sĩ Nhật Ngân đã có hứng khởi viết ngay bài hát "Lửa Bolsa" trong lúc ông đang tham dự biểu tình, rồi sau đó đưa ngay cho đài phát thanh, các "ca sĩ dã chiến" tập hát trong vòng 30 phút rồi phát thanh ngay để đáp ứng kịp tình hình thời sự đang nóng bỏng!
Nhạc sĩ Nhật Ngân là người có thực tài, có thể "ứng khẩu" để viết nhạc liền tại chỗ.
Xin đưa thêm một ví dụ khác: Trong truyện Tam Quốc Chí, có nhân vật là Tào Thực, con trai thứ tư của Tào Tháo rất giỏi thi phú, được thiên hạ xưng tụng là thiên tài "thất bộ thành thi" (bước đi bảy bước là làm xong một bài thơ) Khi Tào Tháo chết, Tào Phi nối ngôi, thấy Tào Thực lúc nào cũng say sưa rượu chè, Phi bèn ra lệnh:
- Ta nghe đồn nhà ngươi có tài "thất bộ thành thi", vậy ngươi hãy chứng minh cái tài của ngươi xem? Nếu ngươi làm không được thì ta e rằng ngươi sẽ khó giữ được cái đầu của ngươi trên cổ!
Nghe người anh nói như vậy, Tào Thực bèn thưa:
- Xin đại huynh cho đề tài, đệ sẽ "thất bộ thành thi" ngay .
Tào Phi bèn chỉ vào bức tranh treo trên tường, có hai con trâu đang húc nhau:
- Ngươi hãy bước đi bảy bước rồi sáng tác một bài thơ về bức tranh đó xem sao!
Thế là Tào Thực bèn biểu diễn thiên tài "thất bộ thành thi", vừa xong bảy bước thì ông cũng vừa đọc xong câu thơ kết thúc! Tào Phi cảm phục tài của người em và nhờ đó mà Tào Thực thoát chết!
Thế còn "thiên tài" của thi sởi Nguyễn Chí Thiện thì sao? Có "thất bộ thành thi" được không, hay mười ba năm liên tiếp bị táo bón, không rặn ra được một bài thơ nào? Xin đừng đề cập đếp tập "Hạt Máu Thơ". Ðó chỉ là một sự lăng nhục ngôn ngữ tiếng Việt và sự "lạy ông con ở bụi này", tự ông Thiện đi tố cáo ông Thiện!
Trong hai bài viết trước, tôi đã thách đố ông Thiện làm được ba bài thơ liên quan đến ba biến cố lịch sử lớn: dân oan, Thái Hà-Khâm Sứ và Hoàng Sa-Trường Sa. Tôi không dám đòi hỏi ông phải xuất khẩu thành thi hay thất bộ thành thi mà chỉ mong ông ngồi ở nhà, một tuần lễ làm .... MỘT bài thơ thôi cũng được! Không lẽ ông đã từng "sáng tác" trên 600 bài thơ rồi mà bây giờ làm thêm ba bài nữa không được? Không lẽ ông đã từng "sáng tác" bài Ðồng Lầy dài trên 400 câu thơ mà bây giờ làm một bài thơ khoảng chừng 15 câu, cũng không làm được?

Nếu ông chứng minh được thực tài của ông thì TÔI SẼ NGƯNG NGAY, KHÔNG THÉC MÉC gì đến nghi vấn "Ai là tác giả của tập thơ Vô Ðề nữa"!
Tôi nhớ hồi năm 1998, lúc ngồi uống cà phê với mấy người bạn, có người đã lên tiếng:
- Quái lạ, ông Nguyễn Chí Thiện sang Mỹ đã được bốn năm rồi mà sao không thấy ông ta làm bài thơ nào hết? Ðộc giả đang mong chờ được thưởng thức những sáng tác mới của ông ta, chờ đến mỏi con mắt! Sao lạ thế nhỉ?
Một người bạn nêu nghi vấn:
- Hay, không khéo thằng cha này là đồ giả mạo cũng chưa biết chừng! Tác giả Vô Danh đã bị việt cộng giết chết rồi! Ông nhà báo Thế Huy đã viết một bài phân tích mà tôi thấy rất xác đáng. Nhưng theo tôi, không cần phải dài dòng chứng minh lý lịch hay giảo nghiệm chữ viết làm gì cho mất thì giờ. Khi mình gặp mặt ông Nguyễn Chí Thiện, nếu muốn thử tài, cứ xin ông ta "xuất khẩu thành thi" về một đề tài nào đó như thằng Tào Phi ra đề tài cho Tào Thực trong truyện Tam quốc Chí. Thực hay giả, biết liền! Cũng ví như một người tự xưng là có bằng TIẾN SĨ TOÁN HỌC thì phải giải được tất cả loại toán từ trình độ đại học trở xuống. Nếu khi có người nghi ngờ, yêu cầu ông "tiến sĩ" này giải mấy bài toán lớp 12 mà ông ta từ chối nhiều lần vì lý do KHÔNG CÓ "HỨNG" thì ta có thể kết luận đó là tiến sĩ dỏm! Chuyện này đã từng xảy ra ở Việt Nam!
Một người khác lên tiếng:
- Nhưng nếu giả sử ông Thiện này là điệp viên của việt cộng mà thằng này nó thực sự có tài xuất khẩu thành thi thì sao?
Ông nêu nghi vấn đáp lời:
- Thơ của tác giả Vô Danh thấy vậy mà rất khó bắt chước. Ông ta đã từng tâm sự, thơ của ông không phải là thơ. Nó thực như tù đày, như chết chóc, như đau thương. Nó kinh khủng như đảng, đoàn, như lãnh tụ, như trung ương. Mình cứ tưởng nó bình dân, cứ viết bừa là thành ra thơ của ông Vô Danh, nhưng không phải dễ dàng thế đâu! Hầu như trong bất cứ bài thơ nào của ông Vô Danh cũng có những Ý TƯỞNG MỚI LẠ. Người bắt chước có thể làm những bài thơ câu tám chữ, bắt chước cách gieo vần, bắt chước giọng điệu nhưng những Ý TƯỞNG VÀ NHỮNG TÂM SỰ của thi sĩ Vô Danh thì không thể nào bịa ra được! Ý tưởng và tâm sự của thi sĩ Vô Danh chính là "DNA" hoặc dấu tay của riêng ông ta, không thể nào trùng hợp với bất cứ người nào khác!

(còn tiếp)
Binh Nguyen
#3 Posted : Wednesday, December 17, 2008 10:42:34 PM(UTC)
Binh Nguyen

Rank: Advanced Member

Groups: Registered, Editors
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 4,945
Points: 1,581
Location: Đông Bắc Gia Trang

Thanks: 1 times
Was thanked: 36 time(s) in 35 post(s)
Hình như nói câu gì vào cũng không được. Xin lỗi chị Việt Hoài Phương nha. Rose

BN.
viethoaiphuong
#4 Posted : Friday, December 19, 2008 1:31:53 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
quote:
Gởi bởi Binh Nguyen

Hình như nói câu gì vào cũng không được. Xin lỗi chị Việt Hoài Phương nha. Rose

BN.



Xin chào BN,
Chúc BN ngày vui vẻ và cầu mong BN hưởng mùa Giáng Sinh thật an lành và êm đềm.
Còn lại VHP luôn nghĩ viết lách là một cái nợ với chữ nghĩa & nghĩa đời của người cầm bút. Tuy nhiên mỗi người mỗi vẻ và tùy thuộc vào thế giới quan và nhân sinh quan của mình trước một vấn đề nào đó mà người ta quan tâm.
VHP rất xin lỗi nếu bài vở do mình đem về nơi nào đó mà làm cho nhiều người, thậm chí dù chỉ một người không mấy hài lòng. Nhưng thiết nghĩ việc của mình làm là với ý tốt chứ không hề xấu, nên VHP vẫn "gánh" về.
Hôm nay, để thay đổi không khí topic nầy VHP xin mời BN và quý anh chị và quý bạn hữu nhà PNV xem một tác phẩm nghệ thuật thuần túy nghệ thuật cũng của tác giả viết "Một cuộc tuyển lựa ca sĩ" nhỉ. ( Thomas Thompson ông còn hay ký dưới bài của ông : Lỗ Hòa Thượng )

pps Ru Chưa Hết Nửa Câu Hò _ theo như thị hiếu của VHP là một tác phẩm : hình ảnh đẹp, lời thơ đẹp... tuy xót xa nhiều và giọng ca của Tâm Đoan rất dễ thương.


Thomas Thompson <lotritham1941@ …> _ Date: 2008/12/18

RU CHƯA HẾT NỮA CÂU HÒ
Binh Nguyen
#5 Posted : Friday, December 19, 2008 8:01:13 AM(UTC)
Binh Nguyen

Rank: Advanced Member

Groups: Registered, Editors
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 4,945
Points: 1,581
Location: Đông Bắc Gia Trang

Thanks: 1 times
Was thanked: 36 time(s) in 35 post(s)
quote:
Gởi bởi viethoaiphuong

quote:
Gởi bởi Binh Nguyen

Hình như nói câu gì vào cũng không được. Xin lỗi chị Việt Hoài Phương nha. Rose

BN.



[green]Xin chào BN,
Chúc BN ngày vui vẻ và cầu mong BN hưởng mùa Giáng Sinh thật an lành và êm đềm.




Cám ơn chị Việt Hoài Phương đã cho em lời chúc. RoseRose

Em cũng xin chúc chị một mùa Giáng Sinh vui tươi và một năm mới hạnh phúc.

Rose

BN.
viethoaiphuong
#6 Posted : Sunday, December 21, 2008 5:08:07 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
Mời BN và quý tỷ tỷ & quý bạn hữu & quý em út nhà PNV thưởng lãm lời chúc Giáng Sinh và Năm Mới rất ngoạn mục sau đây.
Có lẽ tác giả Thomas Thompson cũng không hề nghĩ vào một ngày đẹp trời hay là bão gió... nơi cuối năm 2008, ông lại bước chân ( một cách bắt buộc ) vào cõi ảo dành riêng "phái đẹp" PNV nầy đây nhỉ?
Nhưng VHP cũng "nhắn thầm" với ông là _ tội vạ đâu thì nhỏ VHP nầy nó gánh hết được mà.
Rose heart
VHP


Thomas Thompson <lotritham1941@ …> _ Date: 2008/12/22

MERY CHRISTMAS AND HAPPY NEW YEAR LỖ TRÍ THÂM PPS




viethoaiphuong
#7 Posted : Friday, August 14, 2009 6:17:52 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)

Nguyễn Chí Thiện Soán Đoạt Thi Phẩm Vô Đề

Lê Trung Nhân


Kính thưa các bậc Cao Minh Tiền Bối

Thưa quý độc giả trong nước cũng như hải ngoại.


Loạt bài viết này xác định về con người thật của thi sĩ Vô Danh người đã viết ra tập thơ Vô Đề. Trong gần 30 năm qua hàng trăm ngàn độc giả người Việt cũng như người ngoại quốc đã nêu ra nhiều nghi vấn chung quanh tập thơ Vô Đề để xác nhận tác giả Vô Danh. Hôm nay để giải đáp các câu hỏi đó trong loạt bài viết này Lê Trung Nhân xin đưa ra một cái nhìn rất mới để đọc giả khắp nơi hiểu thêm về con người thật của tác giả Vô Danh qua tập thơ Vô Đề. Những giải đáp này dựa trên các câu thơ trong tập thơ Vô Đề một thiên trường ca bất tử của nhân dân Việt Nam trong công cuộc đấu tranh tiêu diệt tập đoàn Việt Gian Hồ Chí Minh cũng như các thế lực gian ác đã và đang tiếp tay giúp đỡ bọn Việt Gian Cộng sản hiện nay.



Trong một dịp nào đó một người “Anh ?” đưa tập thơ này cho ông Châu Kim Nhân. Sau đó tập thơ này đã đến tay ông chủ nhiệm tạp chí Văn Nghệ Tiền Phong. Ông chủ nhiệm VNTP đã cho in tập thơ này để phổ biến theo sự mong ước của tác giả, với tên tác giả là Khuyết Danh (Vô Danh), dưới tên đề “Bản Chúc Thư Của Một Người Việt Nam” do nhà sách Tú Quỳnh in ấn và phát hành vào năm 1980. Nhưng tập thơ đã bị một nhóm người vì mưu đồ bất chính họ đã phỏng tay trên cho in ra và đặt tên cho tập thơ Vô Đề là: “Tiếng Vọng Từ Đáy Vực”, nhưng vẫn để là tác giả Khuyết Danh ...



Theo một nguồn tin “mật” đến nay đã được tiết lộ cho người viết thì chẳng có người Anh hay nhân viên sứ quán Anh nào từ Hà Nội đưa tập thơ ra hải ngoại cả . Nhắc lại: Không có người Anh hay nhân viên sứ quán Anh nào từ Hà Nội đưa tập thơ ra hải ngoại. Nhưng một điều chắc chắn người viết có thể tiết lộ là tập thơ Vô Đề được đưa ra hải ngoại do một Linh Mục từ Việt Nam đem ra nước ngoài . Thời gian này Đức Thánh Cha John Paul II vừa lên ngôi Giáo Hoàng. Ngài nhậm chức vào ngày 16 tháng 10 năm 1978. Tức khoảng một (1) năm trước khi tập thơ Vô Đề được một Linh Mục nói trên mang đi từ Việt Nam ra ngoại quốc để phổ biến. Thời gian tới đây sẽ tiết lộ thân thế vị linh mục khả kính này. Ngài đã không quản ngại và bất chấp đến cái chết có thể đe dọa tính mạng của ngài để mang tập thơ Vô Đề ra hải ngoại …. Đến nay tháng 8/2009 có lẽ Hà Nội khi đọc bài viết này mới biết rằng mình đã bị một quả lừa để đời. Nhưng đã muộn .



Sau đó Cộng sản Hà Nội vì nhìn thấy những nguy hiểm với những vần thơ trong tập thơ Vô Đề có sức thuyết phục quần chúng trong và ngoài nước rất cao, nên chúng vội vàng tung ra một nhân vật có xuất sứ rất mơ hồ tên là Nguyễn Chí Thiện. Vậy ai tạo dựng lên chuyện Nguyễn Chí Thiện là tác giả tập thơ Vô Đề từ năm 1980? Và với mục đích gì!. Phần dưới đây Lê Trung Nhân sẽ lần lượt phân tích từng bài thơ một để so sánh sự khác biệt giữa Nguyễn Chí Thiện người đã soán đoạt tập thơ Vô Đề, đồng thời để hàng triệu độc giả Việt cũng như ngoại quốc hiểu thêm sự thật và con người rất thật của Nguyễn Chí Thiện hiện đang sống tại Hoa Kỳ .



Tác giả Vô Danh là ai mà ông đã dâng hết trái tim yêu cho tổ quốc Việt Nam, ông là ai mà ông đã dâng hết cả cuộc đời của ông cho đất nước trong công cuộc chiến đấu chống lại kẻ thù Cộng sản cũng như kẻ nội thù tay sai cho Cộng Sản. Tác giả Vô Danh không muốn ai tuyên dương ông, tác giả Vô Danh chỉ muốn mọi người Việt Nam phải hiểu thật rõ tội ác của bọn thực dân đỏ Cộng sản. Tập thơ Vô Đề đã trở thành bia miệng lịch sử cho nhiều thế kỷ nữa để cho ngàn đời sau hiểu rằng đã có một giai đoạn trong thế kỷ 20, dân tộc Việt đã bị chính những kẻ Nội Xâm, Nội Thù Cộng sản du nhập một chủ nghĩa và chính sách cai trị bóc lột nô lệ người Việt Nam kinh khiếp nhất gọi là Cộng sản Mác Xít, Lê Nin Nít do Hồ Chí Minh đem về để tàn phá đất nước và dân tộc Việt Nam tới mức kiệt quệ, diệt chủng như chúng ta đã nhìn thấy ngày hôm nay .



Trong đống bùn Cộng sản hôi thối nhơ nhớp đã nở ra một đóa “Hoa Vô Danh” chúng ta có thể gọi là đóa “Hoa Sen Vô Danh”. Hoa Sen Vô Danh đã sống và nở lên giữa lòng chế lao tù Cộng sản, dù đang sống trong cảnh đau khổ đày đọa nhưng ông vẫn nuôi một ý chí mãnh liệt là phải phanh phui, tố cáo, tội ác của bọn ác quỷ lưu manh, tàn bạo tàn ác, tự nhận là Cộng sản, chúng đã làm cho cả nước Việt đã trở thành một trại tù cung cấp lao động nô lệ. Ông phải tố giác tội ác của chúng cho cả thế giới này hiểu rằng: toàn dân Việt đã trở thành tù nhân nô lệ của chế độ sài lang Cộng sản. Con người Việt Nam từ trẻ con cho đến người già đều bị chúng bắt ở tù trong, tù ngoài, tù đủ cách, đủ kiểu, nhân dân Việt Nam đã bị một bọn quỷ mang mặt người cộng sản hành hạ bằng đủ loại cực hình, làm cho toàn thể dân tộc Việt đang sống dở, chết dở.



“Hoa Sen Vô Danh” ông đã kín đáo làm thơ diễn tả nỗi kinh hoàng của cả một dân tộc phải sống dưới ách tàn bạo nghiệt ngã của Cộng sản, cảnh tù tội khủng khiếp mà hàng nhiều triệu người dân Việt đã và đang phải gánh chịu. “Hoa Sen Vô Danh” (tác giả Vô Danh) muốn phổ biến tập thơ mang theo tất cả nỗi cơ hàn tủi nhục của cả dân tộc Việt phải được đem ra cho thế giới biết, cho nhân loại và cho hậu thế, mà không bao giờ nghĩ đến được vinh danh hay nổi danh và nhất là để lãnh giải thưởng dù là giải thưởng nào. Tác giả Vô Danh hiện nay đang sống đâu đó trên mảnh đất Việt Nam , có thể sau khi tiêu diệt Cộng sản xong thì người ta mới có thể công bố tông tích của ông ? Nhưng dù muốn hay không có lẽ sau này chúng ta phải đặt ra một Ủy Ban truy tầm tung tích thi sĩ Vô Danh để chúng ta có thể vinh danh ông trước lịch sử, trước dân tộc, trước Văn Học Quốc Gia và Thế Giới.



Tác giả Vô Danh có lẽ cũng không muốn đưa ra tên tuổi để ông được nổi danh, nổi tiếng, nguyện vọng duy nhất của ông là tập thơ làm bằng máu và nước mắt của cả một dân tộc cũng như của ông đã làm trong khoảng 20 năm dài phải được phổ biến với thế giời bên ngoài. Tập thơ đã thể hiện sự đau khổ thầm lặng và ghê rợn của toàn thể dân tộc Việt Nam dưới bạo quyền Cộng sản công an trị! Hoa Sen Vô Danh là người duy nhất có đủ tài năng thực hiện những án văn thơ bất tử để thể hiện sự đọa đày của cả ột dân tộc trong ngục tù Cộng sản. Khi tập thơ được đưa ra hải ngoại thì tập thơ tồn tại với lịch sử văn học trong dân gian, và được phổ biến thành tài liệu chống Cộng, trở thành nhân chứng bia miệng về tội ác Cộng sản, và đó là điều quan trọng và cần thiết, nên thời đó Cộng sản Hà Nội vô cùng lo sợ. Vì vậy chúng phải lập ra cả một kế hoạch rộng lớn và tinh vi để đối phó tình hình cũng như chận đứng các cuộc cách mạng bạo lực có thể xảy ra trên cả nước .



Sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng nội dung tập thơ Vô Đề, thì Hà Nội đã tìm được một người tương đương về tuổi tác với ông Vô Danh, nhưng kiếm một người có trình độ Pháp văn khá như thi sĩ Vô Danh ở miền Bắc vào năm 1980 có lẽ không phải dễ! (đọc giả nên nhớ Nguyễn Chí Thiện không biết Pháp mà chỉ được cho học thuộc lòng vài đoạn văn Pháp và học thuộc lòng một số truyện Tây phương. Điều này đã được chứng minh tại khách sạn Ramada Inn qua sự “giảo nghiệm” đọc văn “chính tả” của bà chủ nhiệm chủ bút hệ thống báo Sài Gòn Nhỏ là bà Đào Nương - Hoàng Dược Thảo. Ban đọc cũng có thể xem buổi “giảo nghiệm” này qua hệ thống youtube - link dưới đây .

http://www.youtube. com/watch? v=9-egPeaV0DM&feature=related



Added
10:22
Nguyễn Chí Thiện Họp Báo - phần 5/12




Dù sao thì người ta cũng chỉ biết đến Nguyễn Chí Thiện sau năm 1979, hay là sau khi tập thơ Vô Đề của thi sĩ Vô Danh đã được phổ biến tại hải ngoại. Sau khi đào tạo và huấn luyện Nguyễn Chí Thiện trở thành tác giả “tập thơ Vô Đề”, Cộng sản đã cho lệnh các báo chí ngoại vi của chúng ở hải ngoại phải gây ấn tượng với tên tuổi Nguyễn Chí Thiện chính là tác giả tập thơ Vô Đề, đến nỗi mỗi người Việt hải ngoại đều yên chí tác giả Vô Danh chính là Nguyễn Chí Thiện! Những người được Cộng sản cho xuất ngoại để phao tin và làm “nhân chứng” như: ông Trần Nhu và Minh Thi cũng được Cộng sản gài khéo cho ở cùng “tù” với Nguyễn Chí Thiện, để ông Thiện “đọc thơ” cho họ nghe và gây ấn tượng là họ đã gặp thi sĩ Nguyễn Chí Thiện!



Người viết bài này kính cẩn mong rằng thi sĩ Vô Danh dù tuổi đã cao nhưng cầu chúc cho ông có nhiều sức khỏe. Nếu ta hiểu Cộng sản thì chúng ta phải hiểu rằng chúng lợi dụng bất cứ một tình huống nào để đạt mục tiêu tuyên vận chính trị của chúng ở hải ngoại. Lê Trung Nhân cũng sẵn sàng đón nhận mọi sự đóng góp thêm, kể cả sự phê phán của quí độc giả để giúp cho vấn đề lịch sử, một nghi án thơ văn, được sáng tỏ, rõ ràng.





Tháng 11 năm 1995, một con bài rất đặc biệt và quan trọng của Cộng sản Hà Nội có tên là Nguyễn Chí Thiện đã được đưa sang Mỹ hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, Nguyễn Chí Thiện có một lý lịch quá khứ rất mơ hồ và nhiều mâu thuẫn. Mặc dù Cộng sản Hà Nội đã nhiều năm khổ công đào tạo dàn dựng con bài Nguyễn Chí Thiện, nhưng sau một thời gian ngắn đến Mỹ nhiều người đã nhìn ra chân tướng Nguyễn ChíThiện một tên gián điệp văn hóa. Đặc biệt nhất là về lý lịch của Nguyễn Chí Thiện do chính Nguyễn Chí Thiện tự khai rất mâu thuẫn, tiền hậu bất nhất. Ví dụ như về cuộc đời “tù” đến những 27 năm dài của Nguyễn Chí Thiện “bị” cùm kẹp, tra tấn, đói khát và nhất là Nguyễn Chí Thiện bị “bệnh” ho Lao đến thời kỳ thứ 3 (hết thuốc chửa trị). Nhưng hiện nay vào tháng 8 năm 2009 người ta vẫn còn thấy Nguyễn Chí Thiện khỏe mạnh dù tuổi đã 70 nhưng Nguyễn Chí Thiện hút thuốc lá liên miên và không có triệu chứng bệnh tật gì cả và theo lời của nhà văn Phan Nhật Nam cũng là “hiền huynh của Nguyễn Chí Thiện cho biết thì Nguyễn Chí Thiện đã hút hết 1 bao (gói) thuốc lá mỗi ngày. Mặc dù trước đây Nguyễn Chí Thiện có tiết lộ rằng Nguyễn Chí Thiện bị bệnh “Ho Lao” và “mỗi lần ho như vậy thì tôi (Thiện) khạc ra cả cốc máu” (sic) (xin đọc giả vào địa chỉ website dưới đây để nghe lại). Nay trong loạt bài: Nguyễn Chí Thiện Soán Đoạt Thi Phẩm Vô Đề. Lê Trung Nhân xin lần lượt nêu lên hàng trăm điểm mâu thuẫn vô lý chính cá nhân rất thật của Nguyễn Chí Thiện nói ra và tư tưởng của tác giả Vô Danh trong tập thơ Vô Đề (từ đây xin gọi là tác giả Vô Danh và thơ Vô Đề để dễ nhớ), mà từ nhiều năm qua ít có ai đọc và để ý từng bài từng câu thơ trong tác phẩm trường ca Vô Đề bất tử này .



Thường thì trong lãnh vực tình báo, gián điệp thì người ta có thể hóa trang, giả dạng, đánh cắp các tài liệu mật, đánh tráo các tin tức có tính cách bí mật quốc gia để làm “phản tin”. Người A có thể hóa trang thành ông B ..v.v.. điều này đối với các tay tổ gián điệp nhà nghề thì thật rất dễ dàng như họ lấy đồng trong túi . Nhưng riêng tập thơ Vô Đề của tác giả Vô Danh thì thật là khó đánh tráo hay ăn cắp . Vì sao ? Vì Tư Tưởng thì không bao giờ có thể đánh cắp hay đánh tráo được . Quả thật trong tập thơ Vô Đề tác giả Vô Danh đã tiên đoán được điều này và ông đã nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong tập thơ của ông , vì lẽ viết trước cho nên ông đã dùng những ngôn từ cũng như mốc thời gian và đặc biệt là tư tưởng của ông đã lồng trong nhiều bài thơ , khiến cho đối phương nếu có đánh tráo hay đánh cắp cũng trở nên phản tác dụng, vì không hiểu tư tưởng của tác giả trong tập thơ Vô Đề đã chuyên chở những gì và thơ (tôi) tâm sự hay nói với ai (“bạn hay Thù”). Vì vậy nhân vật Nguyễn Chí Thiện đã có một thời gian dài do nhiều tổ chức tình báo thượng thặng bao che, nhưng cuối cùng rồi thì cũng bị lật mặt và ngày nay rõ ràng Nguyễn Chí Thiện là tên tình báo gián điệp cho Cộng sản Hà Nội đang nấp dưới vỏ bọc người quốc gia để chống Cộng dùm cho đảng và để cứu đảng thoát khỏi tình hình bế tắc và đặc biệt là những bế tắc từ giữa năm 2008 cho đến nay .



Trong loạt này viết này Trung Nhân sẽ lần lượt nêu ra từng bài thơ một, từng điểm cũng như từng mốc thời gian trong tập thơ Vô Đề, để chứng minh Nguyễn Chí Thiện là người không có tư tưởng đấu tranh gì cả . Nguyễn Chí Thiện chỉ là người được Hà Nội và giới “tình báo” ... Tầu đào tạo để soán đoạt tập thơ Vô Đề của tác giả Vô Danh với nhiều dụng ý ... (trong một bài khác sẽ viết ra . Loạt bài viết này Lê Trung Nhân chỉ chủ ý cho đọc giả khắp nơi hiểu rằng Nguyễn Chí Thiện chỉ là một tên tay sai được đưa sang Mỹ để đánh lừa người Việt tị nạn Cộng sản). Nhưng tựu chung lại thì vẫn là ngăn chận một cuộc cách mạng võ lực có thể xảy ra bởi những người Việt Quốc gia Chân chính trong nước cũng như hải ngoại .



Mời quý đọc giả đọc bài “Nếu Một Ngày Mai” là một trong 198 bài thơ trong tập thơ Vô Đề để thấy Nguyễn Chí Thiện không đủ tuổi đời và sự hiểu biết để viết ra bài thơ này, thì làm sao Nguyễn Chí Thiện có thể viết ra nhiều bài thơ khác trong tập thơ Vô Đề ?!





Bài 1:

“Nếu Một Ngày Mai ...”



1) Nếu một ngày mai tôi phải chết

2) Thời lòng tôi cũng chẳng tiếc đời xuân

3) Đời đáng yêu đáng quý vô ngần

4) Song đau khổ đã cướp phần hương sắc



5) Trong đêm vắng nhìn sao buồn xa lắc

6) Hồn chìm buông theo quá vãng thời gian

7) Trong phút giây quên thực tế bạo tàn

8) Quên tất cả nỗi cơ hàn cay đắng...



9) Giòng lịch sử đưa tôi về mấy chặng

10) Những lâu đài cung điện thuở vàng son

11) Cảnh hiển vinh kiệu võng với lọng tròn

12) Cảnh hàn sĩ canh tàn còn đọc sách



13) Tôi gặp lại những nhà nho thanh bạch

14) Sống an bần, xa cách bụi phồn hoa

15) Những gái quê trong trắng, hiền hòa

16) Ngồi giặt lụa bên bờ hồ nước tóe



17) Tôi mơ thấy những hội hè vui vẻ

18) Những đêm vàng đập lúa dưới trăng trong

19) Tôi vuốt ve bao hình ảnh trong lòng

20) Tim còn vọng tiếng hò ngân bát ngát

21) Tiếng nhịp nhàng thoi cửi lướt trên khung

22) Tôi mến yêu cảnh rừng núi mịt mùng

23) Đầy hiểm bí và tràn lan sức sống



24) Tôi thương nhớ cả tiếng cồng báo động

25) Cả những con đường, những hắc điếm âm u

26) Cảnh chiến chinh ngựa hí với quân hò

27) Tôi cũng thấy tâm hồn tôi đuối đắm!



28) Tại làm sao? Rõ ràng tôi biết lắm

29) Cuộc đời xưa còn có những vua quan

30) Bao bất công còn đầy rẫy lan tràn,

31) Sao tôi chỉ mơ toàn hương sắc thắm

32) Toàn sắc mầu lộng lẫy đượm hồn thơ

33) Mà lãng quên bao bóng dáng nhạt mờ?

34) Phải chăng vì cuộc sống bây giờ

36) Đầy ung độc tự buồng gan, lá phổi

36) Còn xưa là mụn lở ở da thôi!.



Thơ Vô Đề tác giả Vô Danh (1960)



Bài thơ trên tác giả Vô Danh viết vào năm 1960 được chia ra làm 7 đoạn. Trong đó có 5 đoạn ngắn mỗi đoạn 4 câu và 2 đoạn dài hơn 4 câu. Đoạn số 5 từ câu 17 đến câu 23 (7 câu). Đoạn 7 từ câu 28 đến câu 36 (9 câu). Người đọc thơ chỉ nhìn cách sắp câu thơ thì cũng đã hiểu tác giả viết bài thơ này phải có dụng ý rõ ràng.





1) Nếu một ngày mai tôi phải chết

2) Thời lòng tôi cũng chẳng tiếc đời xuân

3) Đời đáng yêu đáng quý vô ngần

4) Song đau khổ đã cướp phần hương sắc



Từ câu 1 đến câu 4 tác giả rất yêu mến cuộc đời nhưng hiện tại cuộc sống quá đau khổ khi nhìn chung quanh người người ai cũng than oán và nếu sống mà không làm gì được cho cuộc sống, cho xã hội (cuộc đời) này được hạnh phúc thì thà như chết đi để không nhìn thấy cảnh đau khổ nửa, cho nên khi ông đang sống hôm nay nhưng chỉ muốn mình được chết ngày mai thôi .



Câu 1 &2 Nguyễn Chí Thiện sinh năm 1939 thì đến năm 1960 mới 21 tuổi thì làm sao có thể “chẳng tiếc đời xuân”. Câu 3&4 “song đau khổ đã cướp phần hương sắc”, “cướp phần hương sắc” câu này chúng ta phải hiểu rằng tác giả đã lớn hơn cái tuổi 21 và được nhiều người biết đến trong quá khứ nên mới có “hương” (có danh tiếng) và nay “hương” đã bị “cướp” (ám chỉ công sản) mất đi nên ông mới viết rằng “cướp phần hương sắc”. Hương và sắc đã mất cũng là thời của tuổi trai trẻ đã qua đi .Vì cuộc sống hiện tại dưới sự cai trị của tập đoàn sài lang Cộng sản, ông đã nhìn thấy thân ông cũng như những người chung quanh ông đã sống quá đau khổ.





5) Trong đêm vắng nhìn sao buồn xa lắc

6) Hồn chìm buông theo quá vãng thời gian

7) Trong phút giây quên thực tế bạo tàn

8) Quên tất cả nỗi cơ hàn cay đắng...




Từ câu 5 đến câu 8. Trong những đêm tối tác giả ngồi hồi tưởng lại thời gian quá khứ đã đi xa vào quên lãng, bỗng trong giây phút phải đối diện với thực thế quá tàn bạo của chế độ sài lang Cộng sản, trong lòng tác giả như bừng lên sức sống quên đi những nỗi cơ hàn, cay đắng, tàn bạo trước mắt. Trong những đêm vắng lặng ngồi nhìn các vì sao trên trời tác giả hồi tưởng lại cuộc đời đã qua. “Quá vãng thời gian” là cả một quá khứ xa xôi, chứ trong một thời gian ngắn 5 hay 7 năm thì không thể gọi là quá vãng thời gian được. Câu 6 “quá vãng thời gian” là cả một quá khứ xa xôi.Vậy Nguyễn Chí Thiện ở tuổi (21) của năm 1960 thì không thể gọi là “quá vãng thời gian”



9) Giòng lịch sử đưa tôi về mấy chặng

10) Những lâu đài cung điện thuở vàng son

11) Cảnh hiển vinh kiệu võng với lọng tròn

12) Cảnh hàn sĩ canh tàn còn đọc sách -



9) Giòng lịch sử đưa tôi về mấy chặng .

Tức là thời gian sinh hoạt của lịch sử dài đăng đẳng, lịch sử quá khứ cuộc đời của tác giả chia ra làm “mấy chặng”. Từ câu 9 đến câu 12 tác giả hồi tưởng lại thời gian của cuộc đời mình đã thấy đã sống qua nhiều chặng đường lịch sử của đất đất nước.



10) Những lâu đài cung điện thuở vàng son .

11) Cảnh hiển vinh kiệu võng với lọng tròn



Vậy “lâu đài cung điện thuở vàng son” là tuổi nào? Thuở nào. (lập lại) Chí Thiện sinh năm 1939 đến năm 1960 Nguyễn Chí Thiện được bao nhiêu tuổi để thừa hưởng “lâu đài cung điện” của “thuở vàng son”. Gia đình Nguyễn Chí Thiện thì nghèo hèn. Vì “Bố mẹ chỉ có cái nhà ở phố Lò Đúc phải bán đi (vào năm 1956) chữa bệnh “hết mẹ” nó cả tiền” (sic) (lời của Nguyễn Chí Thiện), thì làm sao Thiện có “cái “thuở vàng son”?!. Năm 1945 Cộng sản đã vào Hà Nội thì Nguyễn Chí Thiện chỉ mới được 6 tuổi làm sao Thiện có được cái “thuở vàng son”. Năm 1954 chia đôi đất nước thì Nguyễn Chí Thiện với 16 tuổi đầu (tuổi hỉ mủi chưa sạch) thì làm sao Thiện biết được “Cảnh hiển vinh kiệu võng với lọng tròn”.



Trong lứa tuổi nào trước năm 1945 (trước khi Cộng sản vào Hà Nội) thì mới còn thấy được cảnh ông Nghè vinh qui có kiệu võng có lọng tròn. Vậy xin lấy mốc thời gian vào năm 1945 thì tác giả bài thơ này đã ở tuổi 20 hay 25 tuổi có học, gia đình khá giả nên ông có đi thi, cho nên ông mới đủ hiểu biết để mơ cái cảnh vinh qui có võng, có lọng. Cảnh ông Nghè vinh qui bái tổ thì mới có cảnh: “ngựa anh đi trước võng nàng theo sau”. Vậy chắc rằng sinh năm 1939 thì không bao giờ được thấy để có thể mơ mộng cái “cảnh hiển vinh kiệu võng với lọng tròn”.

Người và cảnh phải sống cùng thời và xảy ra trong thời đại đang sống đó nên tác giả mới nối tiếc quá khứ để viết ra lời thơ trên.



12) Cảnh hàn sỉ canh tàn còn đọc sách. Khi Cộng sản vào chiếm Hà Nội vào năm 1945 thì chắc chắn không bao giờ còn nhìn thấy “cảnh hàn sỉ canh tàn còn đọc sách”. Năm này (1945) Nguyễn Chí Thiện sinh năm 1939 mới lên 6 tuổi (lập lại). Và một điều chắc chắn là khi Cộng sản vào Hà Nội năm 1945 thì tất cả các sách vở xưa chúng thường gọi là sách vở “đồi trụy” của thời phong kiến phải bị “trưng thu” (tịch thu) và cấm đọc. Nên cảnh các “hàn sỉ canh tàn còn đọc sách” thì rõ ràng là cảnh các ông Đồ Nho xưa trên dưới 30 tuổi, nằm chong đèn đọc sách vào ban đêm. Thời Pháp đã Tây học rồi mà hàn sĩ vẫn còn nối tiếc thuở xa xưa Nho học, nên hàn sĩ vẫn sống cảnh thanh bần và vẫn còn đọc sách (Nho học). Vì sau năm 1945 miền Bắc là xã hội Cộng sản và dĩ nhiên là không bao giờ còn có Nho Học trong xã hội Cộng sản.





13) Tôi gặp lại những nhà nho thanh bạch

14) Sống an bần, xa cách bụi phồn hoa

15) Những gái quê trong trắng, hiền hòa

16) Ngồi giặt lụa bên bờ hồ nước tóe



13) Tôi gặp lại những nhà nho thanh bạch

14) Sống an bần, xa cách bụi phồn hoa



Khi người Pháp ký hiệp ước để vào lại Việt Nam thì đã không còn một xã hội Việt Nam với ông Nghè, ông Tú, ông Cử (tri huyện) có một đời sống thanh bạch hơn người, những thành phần Nho Học này đã không còn có địa vị trong xã hội như trước. Người Pháp họ loại bỏ các khoa thi Nho ông Nghè, ông Tú, ông Cử để trám vào đó bằng ông Huyện, ông phủ, ông thư ký lục hay ông Tham Tá . Nên thời đó có thơ rằng:



* Biết rày thuở trước đi làm quách

* Chẳng ký không thông cũng cậu bồi.

Tú Xương



Những người như ông Tú Xương, ông Cử đã thất thời lỡ vận, họ bị loại hẳn ra ngoài lề xã hội, họ sống nghèo nhưng thanh bạch, thì cảnh sống này phải là cảnh sống ở thôn quê chứ không thể là cảnh sống thành phố ở Hà Nội hay Hải Phòng nơi Nguyễn Chí Thiện sinh ra và lớn lên. Vì lỡ vận nên những lớp người này họ đã lui về quê ẩn thân, tránh xa nơi phồn hoa đô hội của thị tứ. Những nhà Nho này đã “sống an bần xa cách bụi phồn hoa” đây cũng là cảnh sinh thái của xã hội thôn quê miền Bắc, miền Trung Bắc thời đó.



Vậy chắc chắn tác giả tập thơ Vô Đề phải là người lớn tuổi sinh và lớn lên trước năm 1930 và chắc chắn cả miền Bắc sau năm 1945 thì không ai còn biết hay nghe nói đến “những nhà Nho thanh bạch” có lối sống thanh bần khép kín này nửa .



15) Những gái quê trong trắng, hiền hòa

16) Ngồi giặt lụa bên bờ hồ nước tóe



2 câu này diễn tả cảnh bình yên của một xã hội mà cảnh sống này chỉ có trước năm 1945 mà thôi. Thời đó mỗi tỉnh thì có 1 hay 2 xã ví dụ như Nam Định thì có xã phương Đễ Diệp, làng Hành Thiện hay làng Báo Đáp thì mỗi làng như vậy họ có hàng trăm khung cửi, khi các cô gái đã dệt xong vải thì đem đi giặt, nhưng vải thì vẫn còn sợi nên họ phải đem ra suối ngâm nước, ngâm nước xong rồi đập, đập xong thì ngâm với hồ. Sau đó lại đem phơi, vải ngâm hồ phơi khô thì lúc đó vải mới cứng lên để xếp thành xấp vải. Vậy thì năm 1945 trở đi thì tất cả đều phải trưng dụng vào hợp tác xã, trai gái thì xung vào các khu “hợp tác xã” hay đi vào “du kích” để khủng bố hay bắn giết đồng bào hoặc canh chừng lẫn nhau, thì làm sao còn có “những gái quê trong trắng, hiền hòa”, còn đâu cái cảnh “với em anh chăn tầm, với em anh dệt lụa, ta sẽ là vợ chồng !”. Cảnh ngâm vải để “giặt lụa bên bờ hồ nước toé” chắc chắn không thể xảy ra trong xã hội Cộng sản sau năm 1945. Một điều đọc giả và các thế hệ sinh sau năm 1945 hay sau này nên nhớ rằng: những cô gái dệt vải, dệt lụa không phải là những gia đình nghèo khó. Mà ngược lại những cô gái này là con cái của những gia đình khá giả vào thời trước năm 1945, nhà nào nuôi tằm dệt lụa, hoặc dệt vải phải là những gia đình giàu có, chỉ một khung cửi dệt vải thì xem như là một gia sản lớn của những gia đình nghèo khổ rồi. Vậy sinh vào năm 1939 thì Nguyễn Chí Thiện đã “thấy” cảnh dệt lụa này ở đâu ? hay Nguyễn Chí Thiện đã “sống” với cảnh này vào lúc nào để nhìn cảnh gái quê trong trắng ... ngồi dệt lụa? . Nếu thấy thì thấy khi nào với cái tuổi lên 6 này để viết thành thơ ?!





17) Tôi mơ thấy những hội hè vui vẻ

18) Những đêm vàng đập lúa dưới trăng trong

19) Tôi vuốt ve bao hình ảnh trong lòng

20) Tim còn vọng tiếng hò ngân bát ngát

21) Tiếng nhịp nhàng thoi cửi lướt trên khung

22) Tôi mến yêu cảnh rừng núi mịt mùng

23) Đầy hiểm bí và tràn lan sức sống



17) Tôi mơ thấy những hội hè vui vẻ

18) Những đêm vàng đập lúa dưới trăng trong

Câu 17 trên đây thiết nghĩ ở đây phải mở một dấu ngoặc để giải thích cho đọc giả khắp nơi hiểu rõ thế nào là “hội hè vui vẻ”.

Đối với phong tục tập quán của người Việt Nam tự xa xưa, đất nước Việt đã là một đất nước nông nghiệp, nên người Việt từ xưa chỉ có đi làm vào vụ mùa mà thôi. Tức là mùa lúa chín thì đi gặt lúa hoặc vào mùa đi cấy lúa. Lúa mùa chín vào tháng 5 thì đi gặt, khoảng tháng 6 thì hết việc. Ngày đi gặt đem lúa về, để đến đêm đêm mới đập lúa. Trăng tháng 5 thì sáng tỏ và trong vắt nên trai gái thức suốt đêm vừa hát, vừa hò, vừa đập lúa và những ngày mùa như vậy với “những đêm vàng đập lúa dưới trăng trong” thì đâu đâu cũng vui như ngày hội mở .



Trong một năm người dân sống trong cảnh thanh bình đó họ chỉ làm việc chừng độ 3 tháng rưởi thì xong việc. Sau đó rồi nghỉ ngơi vì nhà nông thì chỉ có bao nhiêu việc làm đó thôi. Vì là một nước văn minh nông nghiệp cho nên họ thảnh thơi, vì thảnh thơi mới có nhiều lễ hội đình đám. Vì vậy từ ngàn xưa trong dân gian ông cha ta đã có những câu ca dao như sau:



- Tháng giêng ăn Tết ở nhà

- Tháng hai cờ bạc tháng ba hội hè

- Tháng tư đong đậu nấu chè

- Ăn Tết Đoan Ngọ trở về tháng 5

............ ......... ......... ......... ..

Ca Dao



“Tôi mơ thấy những hội hè vui vẻ”. Miền Hà Đông cách Hà Nội vài chục cây số, từ Bông Đỏ đi vào thì có “hội Chùa Hương”. Bài thơ “đi Chùa Hương” của thi sĩ Nguyễn Nhược Pháp đã nói lên cảm nghĩ của ông khi ông đi dự lễ “hội Chùa Hương” (* xin xem bài Đi Chùa Hương ở phần cuối). Lễ “hội Chùa Hương” được tổ chức gần một tháng chứ không phải vài ngày, nên lễ hội Chùa Hương này đã qui tụ rất đông người, có thể nói thời đó mà có khoảng 500 ngàn người từ khắp nơi xa xôi họ đổ về Hà Đông để dự buổi lễ hội này. Từ Thanh Hóa trở ra cách khoảng 160 cây số từ người giàu có đến kẻ trung lưu hay người nghèo, đâu đâu người ta cũng tấp nập đổ về đây xem lễ hội này. Người giàu có thì đi ngựa hay võng lộng. Người nghèo thì cơm nắm, gạo gói thì họ gánh hay quảy và đi bộ. Đây là hình ảnh rất thật của hội Chùa Hương trong những ngày lễ hội như bài thơ “đi Chùa Hương” thi sĩ Nguyễn Nhược Pháp đã mô tả.



Lễ hội chùa Thầy ở Quảng Yên thì tổ chức khoảng 10 ngày. Chùa Vạn Kiếp thờ Đức Thánh Trần, chùa Linh Tự thờ Tướng quân Trần Khánh Dư. Nam Định thì có hội Đồng Phù. Lễ Hội đền Mẹ Liễu Hạnh tức Công Chúa Tiên Dung. Lễ hội từ đầu tháng 3 cho đến mồng 10 tháng 3. Lễ hội 2 vị Nữ Anh Hùng Trưng Trắc, Trưng Nhị. Từ Nam Định, Thanh Hóa, Thái Bình hàng vạn bàng dân, người người chen nhau đi xem lễ hội như nước chảy, đường đi rợp người. Còn những lễ hội khác như: Bơi Đăm, Rước Giá, Hội Thầy, Bơi Thuyền, Hội Đánh Cờ Người (nữ sĩ Hồ Xuân Hương có mô tả qua bài thơ “Cờ Người”). Trai gái đứng xen lẫn vào nhau chen nhau để xem hội vô cùng vui nhộn . Tiếng cười tiếng nói không lúc nào dứt. Chứng tỏ những lễ hội và cảnh tả như trên không thể nào có được sau năm 1945 lúc đó Nguyễn Chí Thiện mới lên 6 tuổi. Vậy chắc chắn cảnh tượng này không bao giờ có trong tư tưởng của Nguyễn Chí Thiện để Thiện có thể “cảm hứng” và viết ra những vần thơ trên.



Ở đây chúng ta phải hiểu tác giả tập thơ Vô Đề chắc chắn phải sống và lớn lên trong những thập niên 30’s, 35’s và 40’s, nên ông mới có thể ngồi mơ tưởng nhớ lại thế nào là “thấy những hội hè vui vẻ” mà ông đã diễn tả những cảnh “hội hè” ở câu 17.



Từ sông Lục Đầu ngoài biển đi vào chừng 10 cây số nơi đó có đền thờ Đức Thánh Trần mà con dân Việt ai ai cũng biết đó là đền Vạn Kiếp, đi qua đền Vạn Kiếp chừng 10 cây số nửa thì đến đền thờ đức Trần Khánh Dư gọi là đền Linh Tự. Ngày xưa “hội hè” ở những khu đền này vô cùng đông đúc. Vào ngày lễ hội những ông Từ chăm sóc đền thờ tự thường để trước đền một cái Nông (nông lớn bằng 3 cái nia dùng để phơi thóc - lúa) để đựng tiền do khách thập phương khắp nơi tụ tập về lễ hội vui chơi ở đây họ tặng tiền (loại tiền kẽm ngày xưa) cho đền để hương khói quanh năm. Người cho 1 đồng, 5 đồng 10 đồng họ bỏ vào cái nông này. Đền thờ Đức Thánh Trần Hưng Đạo thì chỉ có một nông đầy tiền, còn đền thờ Đức Trần Khánh Dư có đến 3 cái nông nhưng tiền đầy nông và còn chảy rớt ra bên ngoài đất. Nói như trên để thấy rằng văn hóa người Việt Nam chúng ta từ xưa cho đến nay không chuộng Vua nhưng chuộng những công thần và thờ người Anh Hùng. Vậy dịp đây xin viết lại những sự kiện lịch sử để các em, các cháu nhỏ ngày hôm nay hiểu được cũng như biết thêm về văn hóa của người Việt Nam chúng ta .



Trong thời nhà Trần 3 lần đánh đuổi quân Mông Cổ. Trận Vân Đồn (Vân Đồn tức vịnh Hạ Long bây giờ) là trận chiến quyết định chiến tình thuở đó. Tướng công Trần Khánh Dư đã thắng quân Nguyễn Hộ trong trận đánh quyết định này (Đức Thánh Trần đã biết trước quân tiếp viện cho nên Ngài đã sai tướng công Trần Khánh Dư nhận lãnh trách nhiệm quan trọng này). Nguyễn Hộ đã đưa khoảng 500 chiếc thuyền chở lương thực với 50 ngàn quân từ Quảng Đông tiếp viện cho mặt trận Bạch Đằng Giang đang bị quân đội của Đức Thánh Trần vây hảm. Quan quân nhà Nguyên chỉ có một độc đạo là phải đi qua vịnh Hạ Long để đến Bạch Đằng giang



Là một vị tướng tài ba và am hiểu địa hình (vì có một thời tướng Trần Khánh Dư đã sống và đi khắp vùng Lục Đầu để đốt than kiếm sống khi bị các tôn thất nhà Trần từ bỏ?!) nên Tướng Trần Khánh Dư đã dễ dàng bày binh bố trận để chiến thắng quân tiếp viện Nguyễn Hộ. Vừa tiêu hao quân viện trong trận Vân Đồn vừa thiếu lương thực để tiếp tế cho quân Nguyên trên sông Bạch Đằng cho nên quân Nguyên đã thua to trên cả hai mặt trận. Nếu tướng công Trần Khánh Dư không thể chiến thắng trận Vân Đồn thì Đức Thánh Trần cũng khó lòng có thể chiến thắng quân Nguyên tại khúc sông Bạch Đằng để chấm dứt nạn đao binh. Vì vậy ngay cửa đền của tướng công Trần Khánh Dư có hai câu đối rằng:



- Vân trận thắng ư đằng trận lược.

- Linh Từ so tự Kiếp Từ cao .

dịch nghĩa:

Nếu không thắng trận Vân Đồn thì làm sao có thể thắng được trận Bạch Đằng ?. Vậy nếu

đem ra để so sánh thì chiến công bên nào cao hơn.



Như trên có nói trong các ngày lễ hội, trước đền tướng công Trần Khánh Dư có đến 3 nông tiền nhưng đầy ấp rải ra ngoài đất. Như vậy chúng ta đủ thấy họ đi xem lễ hội bên khu đền thờ tướng công Trần Khánh Dư đông đúc đến mức nào. Đây cũng là một cách thầm kín ghi công những người công thần của đất nước. Nhưng tựu chung thì vẫn là Đức Thánh Trần đã toàn diện bày binh bố trận và cuộc chiến vẫn do Ngài điều khiển.



Với văn hóa của người Á Châu nói chung. Là người anh hùng thì ở đâu cũng giống nhau và chỉ có người anh hùng mới được kính mến mà thôi. Tướng Lý Long Tường có công giúp dân tộc Triều Tiên dẹp giặc Kim nay đã gần 1000 năm qua tên ông vẫn còn được người dân Triều Tiên thờ phụng gọi là “Bạch Mã Tướng Công” và người Triều Tiên cũng không phân biệt ông là người Việt hay người Đại Hàn.



Ngày 9 tháng 3 năm 1945 khi Nhật đảo chánh Pháp, một viên Tướng người Nhật có đi ngang qua sông Bạch Đằng nghe uy danh của Đức Thánh Trần nên ông xin được vào thăm đền Vạn Kiếp. Khi vào đền viên Tướng người Nhật này thấy 2 câu đối trước đền rằng:

- Vạn Kiếp hữu sơn giai kiếm khí

- Lục Đầu vô thủy bất thâu thanh



Khi đọc xong 2 câu đối trên dù là kẻ đang thắng trận nhưng viên Tướng người Nhật (tác giả quên tên) cũng phải quỳ xuống ngưỡng mộ người anh hùng (chứ không phải như tên Việt Gian Hồ Chí Minh để “Bác bác, tôi tôi” với Đức Thánh Trần, một hành động ngu xuẩn lại hổn láo với tiền nhân). Ông cuối đầu bước vào làm lễ bái. Lễ bái xong vì lòng cảm xúc nên ông làm lại bài thơ rằng:

- Thanh kỳ biệt hữu thử giang san

- Sản xuất anh hùng biểu thế gian

- Kiếm khí do kinh hồ lỗ phách

- Thu thanh túc sái thủy xàng xàng



nghĩa:

Đất nước non xanh này đẹp đẽ biết bao cho nên mới sinh ra người anh hùng làm tiêu biểu cho thế gian. Kiếm khí của Ngài đã làm thất vía kinh hồn quân thù Mông Cổ. Khi tôi đi qua đây nhìn sông Bạch Đằng nước chảy cuồn cuộn (thuỷ xàng xàng). Tôi nghe tiếng quân sĩ của Ngài hò reo khi xung chiến với quân Hồ (quân Nguyên - quân Hồ lỗ phách - dã man). Như trên đã nói các dân tộc Á Châu luôn quý người anh hùng bất kể chủng tộc hay màu da.



18) Những đêm vàng đập lúa dưới trăng trong

19) Tôi vuốt ve bao hình ảnh trong lòng

Sau năm 1945 cả miền Bắc đều vào “hợp tác xã” thì làm gì còn có cảnh “những đêm vàng đập lúa dưới trăng trong” nửa. Vậy chắc chắn cảnh sinh hoạt “đập lúa dưới trăng trong” phải là sinh hoạt của thời gian từ năm 1930 đến trước năm 1945. Đến đây tác giả Vô Danh đã chứng con người của ông với một kiến thức quảng bác già dặn trước khi Cộng sản vào chiếm Hà Nội năm 1945, (bạn đọc nên luôn nhớ Nguyễn Chí Thiện khai Thiện sinh năm 1939) năm này Nguyễn Chí Thiện mới lên 6 tuổi.



Ở miền Bắc thời xa xưa đó nơi nào cũng có hát Trống quân, hát Đúm, hát Hò, hát Quan Họ .v.v.. như ở vùng Bắc Ninh đâu đâu cũng có. Bởi vì tháng giêng, tháng hai, tháng ba làng nào cũng có “hội hè vui vẻ” thanh niên nam nữ già trẻ đều lễ hội vui chơi hát xướng như vậy và đó cũng là phong tục văn hóa của người Việt ta từ xưa đều như vậy. Nhưng sau năm 1945 thì làm sao còn có những cảnh như trên, và đến năm 1954 thì chia đôi đất nước cả miền Bắc đều bị kềm trong gọng kềm sắt nóng của Cộng sản, thì lại càng không bao giờ nghe tới những cảnh “hội hè vui vẻ” như câu thơ trên tác giả đã diễn tả.



Đến đây bạn đọc phải đọc lại câu số 9 (“giòng lịch sử đưa tôi về mấy chặng”) để thấy chặng đường lịch sử trước năm 1945 và sau năm 1945 khi Cộng sản đã làm chủ tình hình miền Bắc, những sinh hoạt xã hội hoàn toàn khác nhau mà tác giả Vô Danh đã sống qua. Nên khi so sánh hai chế độ tác giả Vô Danh vẫn mơ tưởng đến cái thời “phong kiến” dù sao thì nó vẫn còn đẹp đẽ và nhân bản gấp trăm ngàn lần xã hội Cộng sản sau năm 1945. Đó là lý do tại sao tác giả vẫn mơ tưởng về...
Users browsing this topic
Guest
Forum Jump  
You cannot post new topics in this forum.
You cannot reply to topics in this forum.
You cannot delete your posts in this forum.
You cannot edit your posts in this forum.
You cannot create polls in this forum.
You cannot vote in polls in this forum.