quote:
Gởi bởi PC
Về việc các giáo sĩ vào truyền đạo và sáng chế ra chữ Quốc Ngữ thì lãnh vực còn mở rộng quá, PC không đủ dữ kiện để xem con đường đi của họ tới những đâu lúc đầu tiên để biết họ dựa vào cách phát âm của miền nào để chế tác chữ QN. Nhưng gọi tiếng người miền Bắc nói là chuẩn xác hơn trong Nam qua các thí dụ trên thì Sklang lại quên các âm mà người Bắc không phân biệt, như S và X, D và GI, TR và GI. Cho nên khi chúng ta cho là người Bắc viết / nói đúng chính tả hơn người Nam thì chúng ta chỉ mới nói tới các chữ như bạn Sklang liệt kê ở trên mà không thấy các chữ mà PC vừa kê. Người Bắc hay Nam gì cũng đều có những người viết sai chính tả. Mỗi người miền có những cái sai khác nhau. Cho nên khi nhìn cái sai chính tả của một người viết, ta có thể tạm đoán được đương sự là người Nam hay Bắc. Trong cuốn Hồn Bướm Mơ Tiên, PC có thấy ông Khái Hưng viết sai các chữ như sơi cơm (thay vì xơi).
Một vấn đề rất thú vị cần được khảo cứu là tại sao trên con đường Nam tiến, người Việt chúng ta lại đổi giọng và nhất là thêm sự phân biệt các âm S và X, D và GI, TR và GI. Cái tệ hại nhất là họ lại bỏ đi sự phát ra các âm mà Sklang liệt kê ở trên. Có thêm các âm đó, ngôn ngữ Việt có thêm sự phong phú. PC nói phong phú mà không cho là chuẩn xác vì cái chúng ta gọi là đúng, là tiêu chuẩn lại thuộc phạm trù ước lệ (do quy định mà có). Mà hễ nói tới quy định, ước lệ là nói tới một quyền lực áp đặt lên trên. Như hiện giờ do quyền lực nhà nước mà các chữ có y đều đa số viết thành i. Thành ra cách viết này chỉ được coi là chuẩn xác theo quan điểm giáo dục, văn hóa trong nước VN hiện nay chớ các người ở ngòai và chịu ảnh hưởng sâu đậm nền giáo dục trước 75 chưa chắc họ đồng ý.
Sklang là người thứ hai mà PC nghe nói là có sự khác biệt trong phát âm giữa I và Y.
Xin nói thêm là có người nêu ra rằng D và V người Nam phát âm khác nhau chớ không phải là một như xưa nay nhiều người tưởng. Khi phát âm chữ V (thí dụ vui vẻ) hai môi chạm lại trước khi phát ra tiếng.
PC thân mến,
Về các thắc mắc mà PC nêu ra, tôi có thể góp ý với PC, như sau.
1
VÀI DÒNG VỀ CHỮ QUỐC NGỮ
Các giáo sĩ Âu Châu đến Việt NamTừ Thế Kỷ 16, đã có các giáo sĩ Âu Châu đến Việt Nam để truyền đạo Thiên Chúa La Mã (Roman Catholic, ngày nay gọi là Công Giáo), nhưng tới Thế Kỷ 17 thì các giáo sĩ mới ở lại hẳn tại Việt Nam.
Giáo Đoàn Đàng Trong (Miền Nam) do Giáo Sĩ Francesco Busomi lập ra năm 1615, và Giáo Đoàn Đàng Ngòai (Miền Bắc) do Giáo Sĩ Alexandre de Rhodes lập ra năm 1627. Như vậy, một cách chánh thức, các giáo sĩ Âu Châu đã truyền đạo tại Miền Nam trước, rồi sau đó, mới ra Miền Bắc.
Các giáo sĩ Âu Châu sang truyền đạo tại Việt Nam, hoặc thuộc Dòng Tên, lập ra năm 1534, hoặc thuộc Hội Truyền Giáo Ngọai Quốc, lập ra ở Paris năm 1663. Các giáo sĩ nầy là người của nhiều nước: Pháp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Ý . . .
Sáng tạo chữ quốc ngữThời kỳ đó, chữ viết của Người Việt là Chữ Hán (mượn của Tàu), và Chữ Nôm, biến thể từ Chữ Hán, là lọai chữ ghi âm tiếng nói của Người Việt. Có thể nói, Chữ Nôm là chữ viết riêng đầu tiên của Người Việt. Tuy là chữ viết riêng, Chữ Nôm phải lệ thuộc vào Chữ Hán: muốn học Chữ Nôm, phải vòng qua Chữ Hán, nghĩa là, phải biết Chữ Hán, trước khi biết Chữ Nôm.
Nhận thấy cả hai lọai chữ nầy đều khó học và khó viết, và hầu hết dân gian Việt Nam đều mù chữ, các giáo sĩ đã dùng các chữ cái La Tinh, và các dấu của các ngôn ngữ Âu Châu, để sáng tạo một lọai chữ mới, ghi âm tiếng nói của Người Việt, nhưng dễ học và dễ viết hơn Chữ Nôm. Đó là
chữ quốc ngự. Buổi đầu, chữ quốc ngữ chỉ dùng để dịch thánh kinh, và viết sách đạo, cho nhu cầu truyền giáo của các giáo sĩ Âu Châu.
Giáo Sĩ Alexandre de Rhodes (1591-1660)Sáng tạo chữ quốc ngữ là công trình của một số giáo sĩ Bồ Đào Nha, Pháp, Tây Ban Nha . . . Nhưng người có công lớn nhứt trong công trình đó, là Giáo Sĩ Alexandre de Rhodes. Ông là người đầu tiên đem in những sách viết bằng chữ quốc ngữ.
Giáo Sĩ Alexandre de Rhodes là Người Pháp, và thuộc Dòng Tên. Cuối năm 1621, ông được cử sang Việt Nam, trong Giáo Đoàn Đàng Trong.
Ông học Tiếng Việt trong sáu tháng, và nói được khá rành rẽ. Vì vậy, ông được cử ra Đàng Ngòai để lập một giáo đoàn mới, Giáo Đoàn Đàng Ngòai (Miền Bắc). Ông ở Đàng Ngòai được hơn ba năm, từ 1627 đến 1630.
Sau, ông bị Chúa Trịnh Tráng đuổi. Ông sang Macao, nhưng hễ có dịp, ông lại trở lại Việt Nam. Năm 1645, ông rời Việt Nam trở về Âu Châu.
Trong hơn bảy năm ở Việt Nam, Giáo Sĩ Alexandre de Rhodes đã nghiên cứu phong tục và lịch sử Người Việt khá am tường. Ông đã viết nhiều cuốn sách có giá trị:
-
Lịch Sử Bắc Kỳ ------------------ (viết bằng Chữ La Tinh)
-
Tự Điển Việt-Bồ-La ------------(cuốn tự điển đầu tiên viết bằng chữ quốc ngữ)
-
Phép Giảng Tám Ngày ------------ (viết bằng chữ quốc ngữ)
Cuốn tự điển chữ quốc ngữ đầu tiênCuốn tự điển của Alexandre de Rhodes, nhan đề Dictionarivm Annamiticvm, Lusitanvm, et Latinvm (Tự Điển An Nam, Bồ Đào Nha, và La Tinh), in tại Rome năm 1651, là cuốn tự điển viết bằng chữ quốc ngữ đầu tiên, còn lưu lại đến ngày nay. Để in cuốn tự điển nầy, nhà in của Giáo Hội La Mã đã đúc chữ quốc ngữ lần đầu tiên. Theo bài tựa, tác giả cho biết đã tham khảo các cuốn sách sau đây:
-
Tự Vựng An Nam-Bồ Đào Nhacủa Giáo Sĩ Gaspar de Amaral, Người Bồ Đào Nha
-
Tự Vựng Bồ Đào Nha-An Namcủa Giáo Sĩ Antoine de Barbosa, Người Bồ Đào Nha
Hai cuốn tự điển nầy đều là sách chép tay, và hiện nay không còn tìm thấy.
Cuốn tự điển của Alexandre de Rhodes, không chỉ là một tài liệu để khảo cứu về âm, vần, và cách viết chữ quốc ngữ vào nửa đầu Thế Kỷ 17, mà còn là một tài liệu lịch sử vô giá cho các nhà ngữ học, và những người biên soạn tự điển sau nầy.
Chữ quốc ngữ được điều chỉnh theo thời gianSo sánh chữ quốc ngữ trong tự điển đầu tiên của Alexandre de Rhodes, và chữ quốc ngữ ngày nay, người ta biết được sự phát triển của chữ quốc ngữ trong hơn ba thế kỷ.
Việc phát triển và hoàn thiện chữ quốc ngữ có thể đã xảy ra như sau.
Khi đến Việt Nam, các giáo sĩ truyền đạo ở miền nào, hay địa phương nào, thì chỉ nghe cách phát âm của miền đó, hay của địa phương đó. Về sau, khi đã đi khắp ba miền của đất nước Việt Nam, các giáo sĩ mới nhận thấy rằng, tuy Tiếng Việt là thống nhứt trên toàn cõi Việt Nam, nhưng dân gian ba miền có cách phát âm tương đối khác biệt nhau. Do đó, các giáo sĩ đã điều chỉnh một số phụ âm và nguyên âm cho hợp lý, thống nhứt, và chính xác, như chữ quốc ngữ ngày nay.
Đóng góp của Giáo Sĩ Tabert vào đầu Thế Kỷ 19Năm 1838, Giáo Sĩ Tabert biên soạn cuốn
Nam Việt Dương Hiệp Tự Vựng (Dictionarium Annamitico-Latinum), trong đó mỗi Tiếng Việt đều có kèm Chữ Nôm. Cách viết chữ quốc ngữ trong cuốn sách nầy của Tabert gần giống như cách viết chữ quốc ngữ ngày nay.
Như vậy là, gần 200 năm sau khi cuốn tự điển đầu tiên của Alexandre de Rhodes ra đời, cách viết còn thô sơ, chữ quốc ngữ trong cuốn tự vựng của Tabert đã được hoàn thiện gần giống như chữ quốc ngữ ngày nay.
Đóng góp của Hùinh Tịnh Của và Trương Vĩnh KýHùinh Tịnh Của (1834-1881) viết cuốn
Đại Nam Quốc Âm Tự Vị, được in năm 1895, bằng chữ quốc ngữ, khoảng 50,000 đến 60,000 chữ các lọai - chiếc và đôi - gồm có Chữ Việt thuần và Chữ Hán Việt. Đây là cuốn tự điển Việt Nam đầu tiên, được viết rất công phu, có in Chữ Nôm và Chữ Hán kèm theo Chữ Việt thuần và Chữ Hán Việt. Có thể gọi, đó là tự điển
Hán-Nôm-Quốc Ngữ.Trương Vĩnh Ký (1837-1898) viết
Grammaire de la langue annamite (1883) và
Petit dictionnaire francais annamite (1884), và là người đầu tiên đã phiên âm tác phẩm
Đoạn Trường Tân Thanh (Truyện Kiều) từ Chữ Nôm ra chữ quốc ngữ (1875), nhờ đó, số đông dân gian đọc được tác phẩm nầy của Nguyễn Du, vì số người biết Chữ Nôm không đáng kể.
Chữ quốc ngữ trở thành chữ viết chánh thức của Việt NamNăm 1882, chánh quyền thuộc địa Pháp chánh thức cho dùng chữ quốc ngữ trên các văn thư hành chánh, và giảng dạy tại các trường học ở Nam Kỳ. Khi các khoa thi Hán học được bãi bỏ ở Bắc Kỳ năm 1915, và ở Trung Kỳ năm 1919, chữ quốc ngữ mới được phổ biến khắp Việt Nam.
Chữ Nôm là phó sản của Chữ Hán. Ngày xưa, Người Việt cần nhiều năm để học viết Chữ Hán và Chữ Nôm; ngày nay, trẻ con Lớp Một, hay người lớn tuổi, chỉ cần từ sáu tháng đến một năm, là có thể viết và đọc chữ quốc ngữ. Thuở Hán Nôm, người biết chữ rất hiếm hoi; hầu hết dân gian đều mù chữ; chỉ có các sĩ phu mới có sách vở, và sách vở được đọc trang trọng trong các thư phòng. Ngày nay, với chữ quốc ngữ, người phu quét đường cũng có thể dừng chổi để đọc báo bên vỉa hè hay dưới bóng cây.
(Đến đây, có lẽ PC đã có cái nhìn tổng quát và sơ lược về chữ quốc ngữ. Còn rất nhiều điều để nói về chữ quốc ngữ; trong một dịp khác, tôi sẽ viết tiếp, để PC đọc. PC có vui vẻ bằng lòng không?) Ghi chú:PC có nhận xét rất đúng, về cách dân gian Miền Nam, trước đây, phát âm chữ V: "hai môi chạm lại trước khi phát ra tiếng." Trong tự điển của Alexandre de Rhodes, chữ
vua được viết là
bvua. Ít có người nhận ra một cách tinh tế, cách phát âm chữ V của dân gian Miền Nam, như PC.
2
PHÁT ÂM VÀ VIẾT THEO ĐỊA PHƯƠNG, KHÔNG PHẢI LÀ LỖI CHÁNH TẢ
Đi từ Miền Nam ra Miền Bắc, người ta có thể nghe dân gian ở các vùng khác nhau trên đất nước Việt Nam, phát âm và viết theo địa phương.
- Miền Tây (Lục Tỉnh)
Con cá gô gục gịch trong bụi gau găm.
(Con cá rô rục rịch trong bụi rau răm.)- Sài Gòn
Đi yề.
(Đi về.)- Quảng Ngãi
Hôm nay hạc hóa hạc.
(Hôm nay học hóa học.)- Huế
Đi dè dẹ.
(Đi nhè nhẹ.)- Hải Dương
Người Hà Lội nàm ăn phát đạt.
(Người Hà Nội làm ăn phát đạt.)- Hà Nội
Xài Gòn đông người quá.
(Sài Gòn đông người quá.)Con người sống ở đâu thì chịu ảnh hưởng môi trường ở đó. Cách phát âm, và viết theo phát âm, của địa phương mình sống, không nên được coi là lỗi chánh tả. Chẳng hạn, Người Mỹ viết
color, esthetics . . . Người Anh không coi là lỗi chánh tả, mặc dầu tại Anh, người ta viết
colour, aesthetics . . . Tiếng Tây Ban Nha tại Mexico cũng có phần nào khác với Tiếng Tây Ban Nha tại Tây Ban Nha, nhưng Người Tây Ban Nha không cho là người dân Mexico viết sai chánh tả.
Để mở mang bờ cõi, Người Việt tiến xuống Miền Nam. Đầu tiên, Người Việt gặp dân tộc Champa (Chiêm Thành); tiến xa hơn, gặp dân tộc Cam Bốt; về sau, lại gặp nhiều Người Tàu di cư đến Miền Nam. Sự pha trộn của nhiều nền văn hóa, và môi trường sống khác với Miền Bắc, tất cả đã làm cho ngôn ngữ và cách phát âm của dân gian Miền Nam không còn giống hoàn toàn với dân gian Miền Bắc.
(Về điểm nầy, có lẽ PC không đồng ý. Đúng không?)3
VỀ Y VÀ I
Dân tộc Việt Nam có tiếng nói, nhưng không có chữ viết. Do đó, Người Việt mượn Chữ Hán của Tàu để học hành và quản trị hành chánh. Đến Thế Kỷ 13, Người Việt có Chữ Nôm, là lọai chữ ghi âm tiếng nói của Người Việt. Tuy nhiên, Chữ Nôm không diễn tả được cách phát tinh tế của Người Việt.
Khi sáng tạo chữ quốc ngữ, cũng là chữ ghi âm như Chữ Nôm, các giáo sĩ Âu Châu đã khảo sát kỹ cách phát âm tinh tế đối với từng chữ, của Người Việt. Bởi vậy, các giáo sĩ đã dùng cả
dấu hỏi và
dấu ngã, các chữ cuối là N hay NG, là C hay T, các âm gốc là IM hay IÊM, IÊN hay IÊNG . . .
Tiếng Việt đã có từ ngàn xưa; chữ quốc ngữ chỉ mới có từ cuối Thế Kỷ 19. Nhưng cái hay của chữ quốc ngữ là, nó diễn tả được cách phát âm tinh tế của Người Việt.
Dầu cho bị cộng sản bắt viết là LÍ LUẬN, KÍ GIẢ . . . Người Việt vẫn phát âm là LÝ LUẬN, KÝ GIẢ . . . Cộng sản có thể bắt dân thay đổi mặt chữ, nhưng không thể bắt Người Việt thay đổi cách phát âm đã có từ ngàn xưa.
Ngôn ngữ không phải để đùa. Người nào bắt dân phải thay Y bằng I, người đó không phải là một nhà khoa học chân chính, mà chỉ là một kẻ độc tài, đi lạc trong khoa học ngôn ngữ. Thay Y bằng I là một việc làm phản khoa học.
SKlang