Welcome Guest! To enable all features please Login or Register.

Notification

Icon
Error

3 Pages123>
Những Suy Nghĩ giúp cho Sự Suy Nghĩ về Cuộc Đời, Con Người ... và ...
viethoaiphuong
#1 Posted : Monday, September 1, 2008 4:00:00 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
* gởi bởi Đinh Lâm Thanh - Paris :
Xin gởi đến Quý Vị bài tham luận trình bày trong Ngày Gặp Gỡ Văn Hoá Việt Nam Hải Ngoại, tổ chức tại Bruxelles vương quốc Bỉ, từ chiếu thứ Sáu 29.8 đến sáng thứ Hai 01.9.2008 tại với sự tham dự của nhiều vị đến từ Anh Quốc, Pháp Quốc, Bỉ Quốc, Đức Quốc, Hòa Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Việt Nam…







TƯƠNG QUAN GIỮA

VĂN HÓA VÀ CHÍNH TRỊ



***





Kính thưa quý vị,



Từ sáng đến giờ các vị lãnh đạo tinh thần, các triết gia, quý vị ti ến sĩ, quý giáo sư đại học cũng như những nhà nghiên cứu khoa học đã đề cập thật chi tiết nhiều khía cạnh chung quanh vấn đề văn hóa. Đến lượt tôi, tôi hân hạnh được ban t ổ chức dành thời giờ để kết thúc ngày thuyết trình hôm nay bằng một bài tham luận.



Với tư cách một người cầm bút, một tù nhân chính trị cũng như một người tranh đấu tôi chân thành cám ơn ban tổ chức và xin trình bày đề tài ‘Tương Quan Giữa Chính Trị Và Văn Hóa’ mà tôi nghĩ rằng nh ững ý nghĩ tôi đưa ra có thể mang lại một vài điều cần thiết đối với việc bảo tồn và phát triển gia sản của chúng ta trong trận chiến văn hóa ngày hôm nay.



Kính thưa qúy vị,



Gần đây, một vài tổ chức văn học nghệ thuật thường đưa ra chủ trương rằng hoạt động văn hóa phải hoàn toàn tách khỏi môi trường chính trị. Vừa nghe qua thì đúng là văn hóa phải vượt ra ngoài tất cả xung đột ý thức hệ. Nhưng để ý suy nghĩ, nếu chủ trương nầy xuất phát từ nhà nước Việt Nam, thì đây chính là một kế hoạch chính trị được lồng vào không ngoài mục đích để phục vụ chế độ.





Tôi đồng ý rằng, nền văn hóa nhân loại phải vượt lên tất cả những vướng mắc nhất thời, nếu loay hoay vào những biến chuyển chính trị để tìm một hướng đi cho văn hóa thì có thể chúng ta đã đi ra ngoài mục tiêu tốt đẹp nhằm phục vụ con người. Nhưng đó chỉ là lý thuyết dù trong thời bình và dưới ảnh hưởng tự do dân chủ của một quốc gia đã có sẵn nền tảng văn minh vững chắc, đôi lúc cũng không thể tách chính trị và văn hóa ra làm hai lãnh vực riêng biệt. Huống gì so với hiện tình đặc biệt của chúng ta, một đất nước cai trị bởi Cộng sản và dân tộc bị phân hóa làm hai với hai nền văn hóa chống đối nhau thì vấn đề tách rời chính trị ra khỏi văn hóa không thể xảy ra.



Thật vậy, lãnh vực văn hóa và chính trị của một dân tộc bị phân hóa làm hai bởi một cuộc chiến tranh ý thức hệ không ranh giới thì hai lãnh vực nầy cần phải được kết hợp, dung hòa đồng thời bổ túc lẫn nhau để bảo vệ và phát triển nền văn hóa nhân bản đưa đời sống con người đến Chân Thiện Mỹ.



Một câu hỏi xin đưa ra : Vậy đối với Việt Nam chúng ta, dựa vào chế độ chính trị để làm nền tảng phát triển văn hóa, hay, phải dùng văn hóa để cãi tạo và xây dựng chế độ ?



Dù hiểu theo chiều nào thì văn hóa và chính trị là hai hành động lúc nào cũng phải liên quan mật thiết với nhau. Đất lành sinh trái ngọt hoặc nói ngược lại, cây tốt khó mọc từ bùn dơ. Vậy có thể kết luận, chế độ chính trị tốt tự nhiên sẽ nẩy sinh một nền văn hóa tự do nhân bản và ngược lại một nền văn hóa nô bộc là công cụ giúp cho chế độ càng ngày càng thêm độc tài thối nát.



Trước khi đề cập đến hai nền văn hóa riêng biệt cũng như hai khuynh hướng chính trị đối nghịch của Việt Nam tại quốc nội cũng như người Việt Quốc Gia hải ngoại, xin quý vị đừng đơn giản hóa và đóng khung hai danh từ ‘văn hóa’ cũng như ‘chính trị’ trong một nghĩa hạn hẹp, mà đề nghị có một hướng nhìn bao quát rộng lớn hơn.



Không thể hạn chế nền văn hóa của một dân tộc chỉ vỏn vẹn nằm trong phạm vi văn chương, ngôn ngữ và nghệ thuật mà cần phải đề cập đến truyền thống, phong tục cổ truyền, tập quán nhân gian, tôn giáo, y phục, ẩm thực… Cũng vậy, đối với hành động chính trị, không nên gò bó bằng những hình thức bên ngoài như hội họp xuống đường hô hào đá đảo mà phải nghĩ đến mục đích tối hậu của các hành động để tạo một tinh thần yêu nước, thương đồng bào, hướng về đất tổ. Vậy để được khách quan, cần nghiên cứu nhiều chi tiết dưới nh ững lãnh vực khác nhau trong chiều hướng phục vụ đời sống tinh thần lẫn vật chất của con người để người làm chính trị có một lối nhìn bao quát hơn. Đối với hành động văn hóa, nhất là hoàn cảnh chúng ta hiện giờ, cũng cần nới rộng phạm vi hoạt động ra, song song với các chương trình tranh đấu, xây dựng, bảo vệ lý tưởng, sự toàn vẹn quê hương và hạnh phúc của nhân dân Việt Nam để những suy nghĩ của người làm văn hóa khỏi bị lệch lạc.



Nói đến văn hóa và chính trị của Việt Nam trước và sau 1975 cũng như trong và ngoài nước thì thật không đơn giản. Từ việc thay đổi chế độ trong nước rồi nền văn hóa đỏ ra đời, đến môi trường tự do với các phong trào cách mạng đời sống Âu-Mỹ và việc bảo vệ văn hóa cổ truyền ở hải ngoại, là những ưu tư của những người hằng quan tâm đến vận nước và gia tài văn hóa dân tộc.



Chúng ta không thể khách quan xem việc bảo tồn văn hóa Việt Nam một cách đơn giải như dưới thời bình và trong một chế độ tự do dân chủ, vì nền văn hóa của tổ tiên để lại đã bị đổi chiều trong quốc nội và đang bị phá sản tại hải ngoại. Việc bảo tồn văn hóa của chúng ta không thuận buồm xuôi gió mà phải đương đầu trực diện trước một cuộc chiến khốc liệt, không ranh giới, không quy ước. Đó là cuộc chiến ý thức hệ giữa Tự Do và Cộng Sản mà văn hóa chính là vũ khí của chiến trường để đối đầu với nhau.



Nếu xét về lượng, trận chiến hiện nay giữa ta và địch không cân xứng cả chính trị lẫn văn hóa. Cộng sản đã dốc toàn lực để ăn thua đủ trong giai đoạn quyết liệt một mất một còn với chúng ta. Hà Nội đã tung hết khả năng, từ vật lực đến nhân lực, đánh một lượt hai mặt chính trị lẫn văn hóa vào cộng đồng người Việt Quốc Gia. Chúng đã xử dụng môi trường văn hóa làm bàn đạp cho thế chính trị, hai mặt trận phối hợp nhịp nhàng và đồng bộ với nhau. Cộng đồng chúng ta trong thế bị động và chỉ có chống đở. Lượng đã yếu mà còn bị một số tổ chức hải ngoại kêu gọi loại bỏ yếu tố chính trị ra ngoài chương trình phát triển và bảo tồn văn hóa là một điều bất lợi cho công cuộc tranh đấu hiện nay. Nếu chúng ta thiếu lý tưởng không có tinh thần để chống đở, bảo tồn và phát triển văn hóa cổ truyền dân tộc Việt Nam thì xem như chưa đánh đã thua ! Trước một đối thủ dư thừa nhân-vật-lực cộng thêm những thủ đoạn tráo trở gian manh, nếu chúng ta không sức, thiếu khả năng và sáng suốt thì chắc chắn chúng ta sẽ đi vào con đường hỏa mù mà kẻ thù đã giăng ra.



Không thể thuần túy và đơn giản kêu gọi giới trẻ theo học tiếng Việt, nghe một buổi thuyềt trình hay đọc vài cuốn sách là xong việc bảo tồn và phát triển văn hóa như chương trình của một vài tổ chức đề ra. Nếu chỉ có thế thì không khác gì chúng ta mời giới trẻ đến xem một cuộc triển lãm, nghe một chương trình ca nhạc xong rồi ai về nhà nấy. Như vậy làm văn hóa trong tình hình chính trị hiện nay thì chẳng đi đến đâu mà còn đem lại một kết quả ngược chiều. Điều quan trọng là phải biết tạo cho mọi người, nhất là thành phần trẻ có một tinh thần yêu nước, biết đâu là nguồn gốc dân tộc, đâu là lịch sử oai hùng, đâu là di sản của tổ tiên. Phải làm thế nào cho thế hệ trẻ hiểu được nỗi khổ tâm kẻ ra đi cũng như cảm thông thân phận của người ở lại, phải biết đâu là chính nghĩa, đâu là con đường phải tiến tới để mai kia còn quay về phục vụ quê hương.



Trước các chương trình đầu độc ru ngủ qua văn hóa của Cộng sản, chúng ta cũng phải dựa theo con đường chính trị để phát huy tính chất nhân bản đ ể chống lại văn hóa vô sản, dùng tôn giáo đối đầu văn hóa vô thần, lấy tình người cãi tạo văn hóa loài thú !



Trong lúc địch ru ngủ chúng ta bằng văn hóa đỏ mà những người trong cộng đồng làm văn hóa bằng hình th ức thụ động, chống đở hoặc chạy theo chiêu bài ‘loại chính trị ra khỏi văn hóa’, thì không khác gì chưa ra trận chúng ta đã đầu hàng vô điều kiện. Tóm lại trong hoàn cảnh hiện tại chúng ta không thể tách rời ‘chiến tranh văn hóa’ ra khỏi ‘chiến tranh chính trị’. Hai mặt trận phải song song hổ trợ cho nhau để đối đầu với Cộng sản khi chúng dùng văn hóa để phục vụ mưu đồ chính trị bất chánh. Nếu chúng ta muốn bảo tồn văn hóa nhân bản mà loại hẳn vấn đề chính trị ra ngoài thì lấy gì làm căn bản cho trận chiến không biên giới ngày nay ?



Xin ghi nhớ, chúng ta là những chiến sĩ trong cuộc chiến giữa hai nền văn hóa nhân bản và văn hóa vô sản. Kẻ thù với khả năng dư thừa sẵn có, chúng đang lấn áp chúng ta trên mọi lãnh vực. Nếu những nhà làm văn hóa không tiếp tay với Cộng đồng Người Việt Quốc Gia thì xin cứ làm văn hóa theo đường lối thuần túy, đừng hô hào lên tiếng đòi hỏi loại bỏ yếu tố chính trị ra ngoài vòng chiến. Thái độ và hành động nầy không khác gì việc tiếp sức cho kẻ thù, phá hoại công cuộc tranh đấu chung của toàn thể dân tộc Việt Nam hiện nay.



Xin chân thành cám ơn Quý Vị.



Bruxelles, 30.8.2008
viethoaiphuong
#2 Posted : Sunday, September 7, 2008 5:10:27 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
Thói trẻ con của người lớn… rất lớn

Thượng sĩ già



Bạn thân mến, đời người khi tới một độ tuổi nào đó thì thường hay ngồi lại hoài niệm quá khứ, tới độ ấy người ta gọi là tuổi già, dù hoàn cảnh sống khiến người ấy vẫn hăng say với công việc. Ngủ thập tri thiên mệnh. Có lẽ người ta biết rằng bản thân không còn làm được những việc mà thời thanh niên họ từng làm, cả sự sốc nỗi hồn nhiên và lòng nhiệt tình tuổi trẻ. Nhưng chuyện Thượng sĩ tui sắp nói tới không phải là chuyện "trẻ khôn qua già lú lại" ấy. Sự lú lại vô tội của người già khác với trò trẻ con của người lớn, thậm chí rất lớn, khi chính họ đường đường là "phương diện quốc gia, quan trên trông xuống người ta trông vào". Chuyện ăn không được, khuấy cho hôi của nhà cầm quyền Hà Nội, đang "hiệp đồng chiến đấu" có cả công an với dùi cui, hơi cay, cả những "đoàn viên thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh" mang cả áo có in chữ, có cả hệ thống truyền thông cả tiếng lẫn hình, được xếp vào loại "lưỡi gỗ, loa rè". Như vậy coi như cuộc vận động "học tập đạo đức HCM " đã thấm ra da và ăn sâu vào não trạng của "thế hệ HCM". Lối hành xử bẩn thỉu, trẻ con của nhà cầm quyền trong khi cuộc vận động "đang lên" khiến nhiều người có tuổi phải hoài niệm quá khứ. Thứ quá khứ kinh hoàng một thời chưa chịu qua đi gắn với tên tuổi không phải cha già mà là "bố già" họ Hồ ấy.

Nhiều năm trở lại đây, bên nhà rộ lên chuyện khiếu kiện. Theo nhà cầm quyền thường dùng là "khiếu kiện có tính chất đông người". Đúng là như vậy thật, khi người ta cùng đường, dù biết ở xứ do cộng sản toàn trị, chuyện kiện nhà cầm quyền, hay kiện cá nhân một cán bộ đồng nghĩa với "con kiến kiện củ khoai". Biết làm sao hơn khi chẳng còn gì để mất. Ngậm miệng cũng trắng tay, mà há miệng cũng tay trắng… may đâu. Đi khiếu kiện trong thời buổi nầy chỉ biết tự an ủi mình bằng chữ "may đâu", vì thực tế hết 99 phần trăm là đi không, về không, chưa kể tới những tốn phí khó mà xoay xở nếu không là… nợ như chúa chổm.

Hẳn không ai đang yên đang lành lại chọn cái chuyện "vô phúc đáo tụng đình", và cũng không ai hiểu Mác hơn những tín đồ cộng sản là "ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh". Lại cũng theo kinh nghiệm của cả loài người thì chính nơi nào chủ nghĩa Mác được tôn vinh, nơi ấy chính là một địa ngục trần gian, đồng nghĩa với độc tài, toàn trị, đàn áp và diệt chủng. Chẳng thế mà cả châu Âu đã ra đời một nghị quyết là 1481, cáo trạng tội diệt chủng của chủ nghĩa cộng sản.Những thứ mâu thuẩn cứ tồn tại một cách lòng vòng, theo các nhà triết học thì cho là "mâu thuẫn nội tại". Có nghĩa là tự nó mâu thuẫn lấy nó.

Trở lại chuyện bên nhà, mấy hôm gần đây, giáo dân và các cha xứ nhà thờ xứ Thái Hà, Hà Nội cùng nhau cầu nguyện tại linh địa của họ. Mãnh đất với những chứng tích có trước ngày cộng sản chiếm miền Bắc Việt Nam. Cho tới hôm nay, mùa thu năm 2008, cách cái mùa thu 19/8/1945 những 63 năm mà hậu quả như còn mới hôm qua, khi cộng sản cứ là cộng sản, có chơi riêng hay chơi chung với cộng đồng thế giới. Không ngoa ngữ khi nói rằng "tin cộng sản chỉ có bán lúa giống mà ăn".

Chuyện thì phải có đầu có đủa, số là hồi đầu năm 2008, giáo dân xứ Thái Hà tập trung cầu nguyện nơi linh địa của mình, trùng hợp với giáo dân khu vực Tòa Khâm sứ cũng cùng cầu nguyện chung quanh Tòa khâm sứ. Hai xứ đạo cách nhau không bao xa, khi cùng nằm trong thủ đô Hà Nội. Thực ra thì dưới nhiều hình thức như gửi đơn thư kiến nghị, đề nghị, yêu cầu trả lại những nơi nầy đã thực hiện nhiều năm về trước, chẳng qua vì sự "im lặng đáng sợ" (từ ngữ kiểu cộng sản) từ các phía thuộc nhà chức trách, theo ngôn ngữ mộc mạc dân dã là "lì" của nhà cầm quyền các cấp, mà sau nó là những toan tính "tinh vi " và tư lợi. Phải khách quan nhìn nhận rằng mỗi ngày người công giáo khắp nơi đổ về một đông ở hai nơi nầy, cũng thật kính phục nề nếp của tín hữu Công giáo. Họ chỉ cùng nhau cầu nguyện trong trật tự khi quanh đó, công an nhà cầm quyền cộng sản rất đông và đủ dạng, sắc phục có, thường phục có,giả dạng thường dân có. Tệ hơn là ngụy trang thành những "tay anh chị" mà từ ngữ trong nước thường gọi là "xã hội đen" tìm mọi cớ gây hấn. Thời điểm nầy với cộng sản khá nhiều tình hình "nhạy cảm" không thể lặng thinh khi truyền thông "lề bên phải" đã mở hết Volume thóa mạ, "sáng kiến chế tạo" ra nhiều bài báo qui chụp cho xứ đạo nhưng không thay đổi được gì. Có lẽ cái bộ chóp là bộ chính trị thao thức nhiều đêm, trợn tròn con mắt và nghiến răng tới trẹo quai hàm thi hành khổ nhục kế "lùi" bằng cách cho "xuất tướng" là đích thân Nguyễn Tấn Dũng "kinh lý". Cơ hội vàng cho truyền thông đổi chiều có vẽ nhà nước đang là "của dân" lắng nghe người công giáo rồi "hứa cuội sẽ xem xét giải quyết". Phần vì thấy giáo dân rét lạnh trong cái rét "nàng Bân" cơn rét đậm, rét hại ở phía Bắc. Phần khác, dù có "láo như Việt cộng" thì Dũng cũng là thủ tướng, cái ghế, cái sĩ diện, cái danh giá không đáng đổi vài ngàn mét vuông đất. Đức cha Ngô Quang Kiệt sau đó đã khuyên thiện các con chiên ngoan của ngài về nghỉ chờ… mua cục mỡ vuốt đuôi nhà cầm quyền vì láo. Chuyện giả như thật ấy chỉ phôi pha với Tòa Khâm sứ, nhưng lại là ngòi cho Thái hà trong cuộc… tái chiếm như hiện tại.

Cầu nguyện hòa bình mà xem chừng như cuộc đấu trí của cả hai phía,nó na ná cuộc "ngưng bắn da beo" sau hiệp định ngừng bắn 1973. Bên thì an tâm chiến tranh chấm dứt ai về nhà nấy, kẻ lại lợi dụng tình hình biến trướng lấn chiếm thành sự đã rồi. Đã rồi là mất cả miền Nam vào tay cộng sản, xé toạc hiệp định Paris về chiến cuộc Việt Nam, và những mất mát nhỏ khác là học tập cải tạo, cải tạo công thương nghiệp, là mượn nhà, là hợp tác hóa đất đai, là, là… là ăn cướp cạn có vũ trang và "pháp lý".

Không hề quá đáng chút nào khi dùng từ ngữ như vậy cho cái chủ nghĩa nầy, cùng những kẻ nhân danh chủ nghĩa để tóm thâu bầu gánh không chút nương tay với mọi thành phần khác không phải họ. Thái Hà chỉ là một trong hằng trăm ngàn ví dụ.

Nhà cầm quyền cộng sản chỉ tồn tại chính thức từ năm 1954 sau khi người Pháp rút khỏi Việt Nam, trên mãnh đất có gần 5 ngàn năm văn hiến, ấy thế mà họ không chịu công nhận tính kế thừa của lịch sử, sau khi chiếm toàn miền Bắc, bất kể là của ai trưng thu về một mối dưới cái lý "nòng súng" của họ, hằng trăm ngàn người lương thiện, ngủ một đêm tới sáng bị thay đổi thành phần xã hội, từ nông dân, thậm chí bần cố nông trở thành "địa chủ" chỉ vì cách mạng "thấy ghét". Đơn giản chỉ có vậy là mạng sống kể như chấm dứt từ đây, và ngày nầy năm tới là ngày giỗ. Xét cho rành mạch thì mọi thứ tài sản kể cả đất đều có hành trình của nó.Nhân sinh quí thích chí, có người làm ra của mua vàng để cho con cháu, có người lại thích tiêu xài cho cuộc sống, kẻ khác lại thích mua con trâu sào ruộng, tất thảy đều là ki cóp. Việt Nam là một nước nghèo sống nhờ nông nghiệp bao đời, chưa cũng là không có "thứ địa chủ" do chiếm hữu mà có. Nếu có là sau "cách mạng" tên địa chủ to đầu lắm của là đảng cộng sản, khi ban hành luật đất đai với câu "mào đầu" . Đất đai là sở hữu toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý. Nhà nước là ai? Của ai? Chẳng cần phải phân tích là đảng cộng sản.

Mấy hôm nay, nghe chuyện báo đăng đài đọc hằng ngày thấy mà chán. Báo chủ công nhất là Hà Nội mới, đài chủ công là VTV. Những cái tít rất kêu, rất ấn tượng, tạo ra "bức xúc" cho những thường dân thiếu động não về cộng sản hầu tìm kiếm dư luận thiên hướng, có lợi cho cộng sản. Thực chất cộng sản đang sợ một "bệnh dịch" một thứ tiêu chảy cấp, tên gọi khác của chứng thổ tả đã làm con bệnh mất sức đề kháng vì thói ăn càng uống đại. Sợ vì Thái Hà là một khởi đầu cho cả trăm, ngàn Thái Hà khắp cả nước. Cái tít: "Đã sai còn lớn tiếng" trên báo Hà Nội mới, lu loa về vụ phá tường rào chắn lối của một số giáo dân. Có sáu người bị bắt, có cả cuộc họp báo quốc tế do ông tướng công an Nguyễn Đức Nhanh một thời bao che cho vụ phim sex Vàng Anh, cũng cái đài truyền hình cứu cánh cho Vàng Anh bằng một cuộc "chia tay Vàng Anh" làm dư luận… chửi. Ai sai? Và ai lớn tiếng? nếu không nói ngay như dân gian thường nói "gà đẻ gà cục tác, bác đẻ bác la làng" thì còn ai vào đây nữa? Ai trồng khoai đất nầy mà không phải cộng sản? So sánh hành vi phá vài mét tường rào cũ kỹ với ngày nào họ cướp phá tất thảy vật kiến trúc trên đất trong khuôn viên 60 ngàn mét vuông của họ đạo, chưa kể tội xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng tâm linh. Có ai lớn tiếng không hay chỉ có tiếng súng AK là lớn? Ai đã khởi tố ai trong thời điểm ấy? Ai lên tiếng to về dựng chứng từ giả rằng Linh mục Vũ Ngọc Bích hiến, tặng cho "cách mạng". Sao không trưng ra để Thái Hà xuôi tay về không? Toàn là trò "trẻ ranh" chứ không còn là trẻ con nghịch ngợm kiểu lương thiện. Thế mà họ luôn to mồm đánh bóng cho cái gọi là xã hộI "của dân, do dân và vì dân" hay "công bằng ,dân chủ, văn minh". Khi sử dụng bạo lực đàn áp không xong, chia đất bán nền tư túi không đặng. Trò trẻ ranh nhất là UBND thành phố Hà nội ra quyết định số 733 ngày 27/8 với nội dung: "Song song với quyết định khởi tố vụ án hình sự của công an quận Đống Đa, Ủy ban Nhân dân TP Hà Nội cũng có lệnh thu hồi toàn bộ diện tích đất tranh chấp với giáo xứ Thái Hà để dùng cho mục đích công.

UBND TP đã có công văn số 733 hôm 27/8 về việc mà giới chức gọi là 'tiếp tục xử lý vi phạm trong quản lý và sử dụng đất'.

Công văn này yêu cầu Sở tài nguyên và môi trường thành phố Hà Nội thu hồi toàn bộ diện tích đất tại khu vực 178 phố Nguyễn Lương Bằng, phường Quang Trung, quận Đống Đa để giao cho UBND quận Đống Đa 'quản lý, nghiên cứu, điều chỉnh quy hoạch và lập dự án đầu tư xây dựng công trình phục vụ chung cho dân cư khu vực'.

Nguồn BBC Việt ngữ.

Chia không được, bán không xong những "người lớn" vừa lớn tuổi, vừa làm "ông lớn" của Hà Nội chơi một trò con nít như trên. Những đứa trẻ bắn bi gọi việc tương tự như thế của chúng với nhau là "thù vặt" là ăn không được khuấy cho hôi, "Tao mà không cướp thì mầy cũng chả còn" quả chỉ có "đỉnh cao trí tệ" của đảng ta mới có suy nghĩ như thế. Trong lịch sử loài người, trải qua nhiều hình thức thống trị khác nhau. Có lẽ chưa và chắc không có hình thức nào của một nhà cầm quyền hành xử tương tự. Đáng ghi vào Guiness để đời cho con cháu mai sau. Cuộc vận động "lớn" học tập đạo đức Hồ Chí Minh, hóa ra là học tập cái cách vô cớ con dâu tố cha chồng cưỡng hiếp, làm "cơ sở" cho sự giết người cho "có lý hơn". Đạo đức như vậy mà suy tôn cái nỗi gì?

Tưởng như thế đã hết? Không thực ra thì chỉ mới bắt đầu, khi vào đêm 31/8/2008 công an đã xịt hơi cay vào trong đoàn người đang cầu nguyện, không từ cả những đứa trẻ mà họ cam kết với quốc tế về "quyền trẻ em". Những người già thì mới bị đánh bằng dùi cui tối hôm trước. Trẻ không tha, già không chừa. Bẩn thỉu nhất là trước khi "hành sự" họ cắt điện. Nhà cầm quyền hay ăn trộm? Truyền hình thì đưa tin lệch lạc sai sự thật. Phải chăng "tôi yêu nhất, quí nhất là sự trung thực, ghét nhất, giận nhất là sự giả dối". Ở đây "con tim (chưa) chân chính không có nói dối, chỉ biết nói láo của Nguyễn Tấn Dũng là như vậy? Cũng một phiên Chit Chat khác của Lê Doãn Hợp thì quản lý là quản có đạo lý và pháp lý" khi việc giáo xứ Thái hà thiếu tới cả hai: cả đạo lẫn pháp lý.

Không thể nói rằng chỉ có quận Đống Đa, hay thành phố Hà Nội, mà phải hiểu sau bức "rèm thưa" ấy còn có cả một cái trung ương đảng cộng sản lèo lái từng giờ. Một cái đảng suy nghĩ như vậy, mà điều hành "lãnh đạo" đất nước, ngày hôm nay kinh tế phát triển mới là chuyện "lạ". Còn như hiện tại rồi xuống hố cả nước chuyện ấy đã "nằm trong kế hoạch". Họ có phải là những người tuổi lớn và làm lớn? Hành vi, lới nói, thậm chí lời hứa không bằng đứa trẻ thiểu năng trí tuệ. Vì sao?

Bạn thân mến, trước một sự việc cả thế giới đều biết, chỉ có người trong nước là không biết cụ thể và minh bạch, chỉ biết theo dẫn lệch của truyền thông của đảng. Tuy nhiên, dù có lèo lái ra sao, người dân đã hiểu rằng trong thời hội nhập, đã có một giáo xứ dùng kinh để lấn tiếng sung, dùng đức tin chọi với bạo quyền. Người vẫn đổ về Thái Hà mỗi lúc một đông, sự hiệp thông đã sang tới Úc và một số quốc gia dân chủ khác, nó đã nằm trong tờ trình trên bàn ông Bush để rạch ròi câu nói của ông ta rằng "có sự tiến bộ về tự do tôn giáo" cùng việc rút tên khỏi CPC mà chính ông ta quyết định. Người công giáo Việt Nam không lầm thì hà cớ gì ông Bush và thế giới lại lầm khi chơi với "chú Cuội"? Nhưng bộ phim Thái Hà là phim dài nhiều tập, chỉ mới vài tập đầu mà đã ly kỳ, rung rợn. Xin dừng thư ở đây và sẽ chiếu tiếp tới bạn những tập kế với những pha ly kỳ hấp dẫn.
Mến chào bạn.



Thượng sĩ già
viethoaiphuong
#3 Posted : Monday, September 8, 2008 5:59:00 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
Thái Hà !
Hành Trình Của Một Tội Ác


Sĩ Ngoáy

Đã sai còn lớn tiếng - Đã lớn tiếng còn làm càn - Đã làm càn còn độc đoán - Đã độc đoán còn dối trá.
Nhân cái sự kiện giáo xứ Thái Hà mấy ngày nay! Thôi thì không biết bắt đầu từ đâu, kẻ quê muà này đành phải mượn cái tít đầu bài báo của quí bổn báo "Hà Nội Mới" để rồi chắp nối các sự kiện, nhằm làm sáng tỏ cái sự vụ có phần khép kín cho cả một quá trình tội ác có tên là "Thái Hà" này xem ai đúng ai sai!
Xin bắt đầu cái qui trình ấy từ "Đã sai còn lớn tiếng-Đã lớn tiếng còn làm càn-Đã làm càn còn độc đoán- cho tới đã độc đoán còn dối trá" của cái tập đoàn độc tài toàn trị Hà Nội hiện nay.

Ai sai và nguồn gốc của cái sai?
Trước hết là bắt nguồn từ cái SAI của một nhà nước quen thói hành xử "pháp luật trong tay ta" đã có từ thời kỳ đầu "cách mạng". Ấy là cái việc quá khứ từ khi áp dụng cái chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa. Việc ép các nhà tư sản địa chủ và các tổ chức tôn giáo trao lại tài sản (trong đó có ruông đất) là mục đích "vô sản". Mọi tài sản đều do nhà nước công nông nắm giữ. Nhưng nó được che lấp một cách rất chi là nhân đạo, tử tế là trước hết vận động chủ tài sản tự nguyện hiến nộp cho "nhà nước"
Cái cách vận động dùng "bạo lực cách mạng" để đấu tố như thời cải cách ruộng đất vẫn là dấu ấn hãi hùng trong ký ức con người. Đồng thời tuân theo lời day bảo của ông thầy Lenin "tôn giáo là thuốc phiện" để rồi huy động cả một bộ máy cai trị vào việc tuyên truyền kết tội bêu xấu tôn giáo, nhất là Công giáo.
Để rồi là cái kết quả mà đảng đã đạt được, cả một thời cái xã hội này thấm nhuần theo lời dạy của đảng coi người công giáo như kẻ thù, là thành phần theo địch. Tính mạng của những thành phần này luôn trong trạng thái nơm nớp lo sợ bất an... Vì vậy cái lệnh trưng thu kia được đưa ra, không một kẻ nào dám cả gan chống đối và nghiễm nhiên tài sản của Công giáo (cũng nằm trong diện cải tạo cùng các thành phần khác, như địa chủ, tư sản đã) bị nhà nước quốc hữu hoá.
Nhưng khi cái thành trì của CNXH bị sụp đổ, chủ nghĩa Max đã bị phá sản, thời thế đã thay đổi và cái chế độ "XHCN tươi đẹp" này đã tuy vẫn bám giữ, khoác lên mình cái vỏ bọc chủ nghĩa Max để tồn tại. Nhưng thực chất là đã đầu hàng thoả hiệp với chủ nghĩa tư bản, thì lên xử sự cuộc chơi một cách sòng phẳng "Cái gì của Seda hãy trả lại cho Seda", nên học tập người anh em Trung Quốc (Trả lại tài sản bị tịch thu) chứ không nên làm cái trò đầu "Ngô mình Sở". Chấp nhận nhiều thành phần kinh tế và công nhận tự do tín ngưỡng, nhưng tài sản của họ lại lấp liếm ém nhẹm đi, không chịu trả lại tài sản trước kia đã chiếm đoạt cho chủ nhân cũ của nó một cách tiểu nhân như vậy!
Đẩy đất nước vào thảm họa dân tộc bằng cách triệt tiêu các thành phần xã hội, triệt tiêu giá trị tinh thần đạo lý thông qua chính sách triệt tiêu tôn giáo. Đó là sai lầm lớn nhất của một chế độ phi nhân. Đã sai lại không chịu cải tà qui chính để sửa đổi. Vẫn theo thói quen hành xử độc tài độc đoán, áp chế một cách tuỳ tiện ngu xuẩn. Vẫn dựa trên căn bản của những chính sách sai lầm đó để đi thì chắc chắn sẽ gây lên hậu hoạ trong tương lai.
Và hôm nay cái hậu quả đó đã được bộc lộ, gây lên những bức xúc mâu thuẫn trong dân là điều không tránh khỏi. Vụ việc giáo xứ Thái Hà là một điển hình cho chính sách sai trái đó.

Chính sách độc tài dựa trên sự cai trị tuỳ tiện có tính áp chế.
Một nhà nước độc tài thường không tuân theo pháp luật do chính nó đẻ ra. Các chính sách thường mang tính tuỳ tiện áp chế. Trong vụ giáo dân Thái Hà này ta thấy sự tuỳ tiện được thể hiện rất rõ rệt trong việc kiện toàn văn bản.
Nó có đảm bảo tính pháp lý cuả một quốc gia hay chỉ là trò đùa!!! Nếu vậy thì bất kỳ ông bí thư, giám đốc nào cũng có quyền bán tài sản đất đai của công mà không cần hỏi ý kiến tập thể!
Thảo nào mà Tàu nó cũng dựa vào bức thư của ông Phạm Văn Đồng làm cơ sở để chiếm đất chiếm biển mà các ngài đành há miệng mắc quai !!!
Cái sai rất tuỳ tiện nữa mà ta dễ dàng nhận thấy sự hở sườn, đó là các chứng cứ được đưa ra là của bên giao! Thế còn chứng cứ của bên nhận đâu???? "Về tình con người thì tôi cho ông cái gì thì chí ít tôi cũng nhận được một lời cảm ơn chứ đâu phaỉ kẻ vô ơn như thế!". Vậy mà đây là một chính thể có dấu ấn quốc huy hẳn hoi, sao không có môt văn bản nào như biên bản hay quyết định vv.. để công nhận hay xác nhận việc bàn giao, tiếp nhận đã hoàn thành??? Hỡi những nhà cai trị vĩ đại! Các ngài đã hành xử theo luật từ thời nào vậy! Thời cổ La Mã hay thời An Dương Vương chắc cũng không có cách cai trị tuỳ tiện như các ngài! Vậy là các ngài đã SAI.

Từ cái sai của nhà cai trị dẫn đến cái đúng của giáo dân
Thời thế thay đổi, tuy ngày nay giáo dân được đối xử rộng mở hơn xưa, cái dớp bi qui là thành phần thuốc phiện vẫn còn dây dớt. Họ vẫn bị phân biệt đối xử. Trong khi đa số các thành phần khác trong xã hội được cấp đất để sinh sống và sinh hoạt. Nhưng Công giáo thì không được hưởng cái ơn mưa móc ấy của đảng, trong khi bao thế hệ người Công giáo vẫn chỉ được sử dụng những phần đất của mình từ đời ông cha để lại.
Do biết thân phận dân đen "thành phần thuốc phiện" thấp cổ bé họng, chỉ dám làm đơn xin lại phần đất bị chiếm đoạt gần 50 năm qua đã 12 năm trời dòng rã. Nhưng chỉ nhận được sự đưa đẩy hết từ ông lớn đến ông bé. Giá như vị đại diện giáo dân khi đó, biết được cái tài ngoại giao quan hệ của doanh nhân Lã Thị Kim Oanh mà nhờ vả thì đâu đến nông nỗi như ngày hôm nay. Nghe đâu doanh nhân này đã được đưa vào cuốn kỷ lục ghinet về tộc độ hoàn thành thủ tục hợp thức sử dụng đất, chỉ trong 1 (một) ngày đã có được quyết định thu hồi và quyết định trao quyền sử dụng đất ở 84 Hoàng Quốc Việt-Hà Nội (Trường hợp này nhà cai trị thật xứng đáng là công bộc của dân). Nói vậy thôi chứ theo như tôi được biết, cái khó khăn nhất cho nhà thờ là cho đến nay khu vực duy nhất ở Việt Nam mà giặc tham nhũng chưa thâm nhập được vào chính là nhà thờ. Làm sao mà họ chấp nhận cách xin này!
Quá bức xúc với việc chờ đợi 12 năm chưa được giải quyết và khi thấy cái doanh nghiệp phá sản có dấu hiệu bán đất, giáo dân mới tự ý "phá hoại tài sản" ngay trên mảnh đất của mình. Rồi rước tưọng thánh, ảnh đức mẹ lập bàn thờ để đòi lại đất xưa kia của ông cha mình.

Ai lớn tiếng hơn ai?
Rồi sự kiện đã tới mức lời qua tiếng lại giưa hai thế lực. Một bên là cái thế lực nhỏ bé, định dùng sức mạnh của lòng nhân từ mà chúa ban cho "...Đem thứ tha vào nơi tội lỗi, đem yêu thương vào nơi thù hận..." để cảm hoá đối phương, tin tưởng vào chính nghĩa nhân từ sẽ thắng phi nghĩa bạo tàn và phía bên kia, với sức mạnh của kẻ cai trị có đủ thứ quyền lực trong tay và đặc trưng cho bản chất của quỉ Satan bạo quyền, đã đối đáp lại lời kinh hoà bình của giáo dân bằng hệ thống loa sắt có tần suất lớn, tìm cách vu khống, bôi nhọ những linh mục bề trên, bằng những lời hạ tiện bẩn thỉu.
Vậy thì ai là kẻ quấy rối trật tự nơi công cộng hơn ai? Rõ ràng giáo dân cầu nguyện hành lễ trong trật tự ở nơi xưa kia cha ông họ hàng ngày hành lễ, chứ đâu phải tuỳ tiện nơi công cộng, có khác gì nghi lễ bên Phật giáo rước tượng Phật trên đường tới chùa. Sao không thấy ông nhà nước vu cho các vãi làm mất trật tự nơi công cộng?? Và chắc chắn lời cầu nguyện không thể lớn tiếng bằng âm thanh được phát ra từ những cái loa sắt của ông "nhà nước"!!! Lớn tiếng, cậy quyền thế để "cả vú lấp miệng em", sử dụng thủ đoạn "dùng loa vu khống" để át tiếng "cầu nguyện hoà bình". Y chang khẩu hiệu "tiếng hát át tiếng bom" xưa kia, nay chỉ khác "tiếng loa át tiếng cầu nguyện". Kết hợp với thủ đoạn đó là "chính quyền nhân dân" đã huy động bộ máy tuyên truyền báo đài sẵn có trong tay để lớn tiếng vu khống, chụp mũ giáo dân và giới tu sĩ, nhằm chuẩn bị dọn đường để thực hiện những âm mưu kế tiếp. Thật là lũ vô thần, mất hết lưong tri đạo lý. Vậy là đã rõ "Ai đã sai lại con lớn tiếng" ????

Đã lớn tiếng còn làm càn
Tiếp theo cái cách đối phó là dùng cái công cụ pháp luật để làm càn! Vậy đã dùng đến pháp luật để xử lý rồi sao lại làm càn, làm bậy được? Xin thưa cái luật pháp ở Việt Nam nay nó lạ lắm. Đến ngay đến thánh tiên sư cha cái lão Thạch Lặc bên Tàu cũng còn phải chịu thua. Nó quay quắt và xảo trá đến độ tráo trở, trí trá. Về bản chất pháp luật chỉ là công cụ để cai trị dân, nó chỉ đúng với kẻ nào dám chống lại đảng. Vì vậy đã là công cụ nó được xử dụng rất tuỳ tiện, thích áp dụng với ai là quyền của đảng-nhà nước. Kẻ nào vô phúc mà pháp luật đến gõ cửa thì coi như đi tong và hồng phúc nhà ai to bằng cái đình, thì được nó lơ đi.
Dẫn chứng ư! Ngay trên cái địa bàn thủ đô này có biết bao cảnh chiếm đất phá tường của nhau, thậm chí có nhà ông bà già mười mấy năm nay bị chiếm mất lối đi, phải bắc thang để vào nhà, suốt bao năm trời gõ của đủ các loại quan, báo chí thậm chí phải dũng cảm vượt qua thân phận "bút nô" của mình để kêu giời kêu đất lên trước cái thảm trạng ấy. Vậy mà có ma nào nhòm ngó đến.
Còn bây giờ kẻ được cho là đang làm chủ mảnh đất ấy là công ty may Chiến Thắng chưa thấy có ý kiến gì, chưa làm đơn tố cáo đề nghị khởi tố kẻ phá hoại, mà nay lại thấy cơ quan công an sốt sắng lắm vậy! Sáng đưa giấy triệu tập, chỉ chưa đầy 3 tiếng sau đã có lệnh khởi tố bắt tạm giam? Không hiểu với cái tội phá hoại tài sản chỉ là một bức tưòng cũ và đựoc thực hiện cách đó cả tuần lễ, không thấy ai nói gì chỉ ra quay phim chụp ảnh. Thì đùng một cái lại có lệnh bắt tam giam một cách "khẩn cấp". Cứ như là những kẻ đó phá hoại bức tường Belin không bằng! Liệu có cái luật nào trên thế giới, từ cổ chí kim nó lại kỳ lạ vậy? Có lẽ chỉ có ở Việt Nam giữa thế kỷ 21 này mà thôi. Chỉ có kẻ độc tài bất chấp đạo lý, bất chấp tất cả hành xử hơn cả đảng cướp mới dám làm càn vậy thôi!
Nhưng đừng nghĩ kẻ làm càn này nó vô tình cạn nghĩ. Nó càn nhưng không cạn... Trái lại nó rất gian manh và xảo quyệt! Nó cũng biết người mềm kẻ rắn. Bởi cái vụ Thái Hà này đã được các đồng chí an ninh đưa vào chuyên án để phân tích và xủ lý, đồng thời tìm ra cách đối phó hữu hiệu nhất. Mặc dù các vị linh mục chủ chăn đã đứng ra nhận lãnh trách nhiệm và xin chịu bị bắt thay cho con chiên của họ, nhưng các đồng chí "công an nhân dân" không chịu bắt mà chỉ bắt những kẻ vô danh để đánh đòn phủ đầu mà thôi!Chứ các đồng chí cũng nhận được sự chỉ đạo rồi, chớ có dại mà "đổ dầu vào lửa" mà không biết chừng nó lại lan rộng ra thì giời cứu. Chỉ xử lý trong phạm vi có thể để làm chủ được tình hình. Vì các cha bề trên là linh hồn của giáo dân, lại là người của giáo hội quản lý "rứt dây sẽ động rừng" là điều kiêng kỵ nhất trong binh pháp.
Ngay cả đến việc cho ác ôn dùng dùi cui điện để đánh cha đánh mẹ nó cũng phải làm vào ban đêm nhập nhèm để cãi xoá. Không khác gì vụ đàn áp dân oan tại trụ sở quốc hội II tại Sài Gòn tháng 10 năm ngoái. Kẻo ban ngày ban mặt, bàn dân thiên hạ nhìn thấy, lại mang tiếng là không vâng theo lời bác dặn là "đối với dân thì kính trong lễ phép" Đúng là cái cách hành xử của kẻ tiểu nhân "cắn càn" chỉ tìm thấy ở những kẻ được gọi là lưu manh trong một xã hội man rợ mà thôi.

Đã làm càn rồi còn độc đoán trắng trợn
Cái độc đoán ở đây là xử lý việc đã rồi. Hàng bao năm giáo dân Thái Hà đâm đơn đòi đất không được giải quyết, nay lại độc đoán trắng trợn lệnh cho thuộc cấp ra quyết định thu hồi đất. Kẻ bị thu hồi đất ở đây đương nhiên là kẻ đang được hợp thức hoá quyền sử dụng là công ty may Chiến Thắng. Cũng có nghĩa là nhà thờ Thái Hà đứng bên lề của cuộc chơi. Hoặc giả nhà thờ đạo Thiên chúa làm gì có đất ở Việt Nam, nếu muốn sang bên "nước chúa" mà đòi. Mặc nhiên điều đó là giáo dân Thái Hà vẫn có thể dùng cái quyền sở hữu đất của mình từ thời Pháp thuộc, thời ông Hoàng Cao Khải để đòi lại, vì họ mua bằng tiền, chứ không phải được thực dân đế quốc chia cho hay là dùng vũ lực để cướp như ai đó. Chỉ có điều cụôc chiến pháp lý hai bên đưa ra là các văn bản linh mục Vũ Ngọc Bích có đầy đủ tính pháp lý hay không! Xin hãy cứ chiểu theo luật pháp Việt Nam mà áp dụng.
Còn nếu cái luật pháp đó bị bẻ cong thì toà án sẽ là nơi giáo dân kiện cái cơ quan "nhà nước CHXHCNVN" này. Vì xét ra nó chỉ là một tổ chức được gọi với cái tên "nhà nước", được người dân đóng thuế để thuê cái công cụ nhà nước này có nhiệm vụ và chức năng "quản lý và điều hành" xã hội mà thôi! Vì vậy nó là chủ thể, đại diện cho tổ chức "nhà nước", phải bình đẳng và tuân thủ pháp luật như các tổ chức cá nhân khác trong xã hội. Chứ nó không phải là thứ siêu quyền lực của một thế lực siêu hình nào đó.
Nếu toà án chỉ là công cụ của thứ siêu quyền lực nào đó không đáng tin cậy thì toà án quốc tế sẽ là nơi giáo dân Thái Hà đòi đưa công lý ra ánh sáng. Nơi đó sẽ không có chỗ cho bất kỳ thế lực đen tối nào dám ngăn cản công lý và bước tiến của loài người. Cái sân chơi toàn cầu này rất công bằng, sẽ không có sự ưu tiên nào dành cho những thế lực độc tài độc tài.

Đã độc tài trắng trợn lại trắng trợn dối trá bịp bợm.
Cái màn tiếp theo của chuyên án Thái Hà này là cuộc họp báo để bưng bít che đậy cho những việc làm dối trá nhằm che mắt thiên hạ khi có nguy cơ vụ việc Thái Hà bung ra trên phạm vi toàn thế giới. Với cái cách hành xử một chiều, độc diễn, vẫn cái tuồng diễn dân chủ khi mời các nhà báo nước ngoài tới dự (không khác gì vụ xử cha Lý cho họ ngồi phòng bên theo dõi tivi). Bản chất cuộc họp báo ở đây là chứng minh phải có đối chất và đối lập phản biện. Nhưng với những chứng cứ thông tin một chiều quen thuộc họ cứ nghĩ các nhà báo nước ngoài cũng như con dân VN, ngu ngơ bảo sao nghe vậy, ông giám đốc CA Hà Nội thao thao bất tuyệt nêu ra những lý lẽ chứng cứ có tính độc diễn....
Rồi việc dựa vào giấy... Loại văn bản gì tôi cũng không biết nữa, mà chỉ thấy trích đoạn sau đây của LM Vũ Ngọc Bích "... Tôi đề nghị Ủy ban hành chính khu phố Đống Đa chấp nhận cho tôi được giao lại để Nhà nước quản lý những diện tích đất và những bất động sản có trên mặt đất kê khai. Kèm theo là những giấy tờ để làm chứng gồm có đất nhà thờ Nam Đồng. Kể từ ngày được chấp thuận bàn giao, số đất và những bất động sản có trên mặt đất của tôi đã khai sẽ thuộc quyền quản lý của Nhà nước". Không biết những văn bản đó có được trưng ra cho báo giới chứng kiến mục sở thị hay không? Hay chỉ là những lời nói vu vơ????
Nếu có tại sao phải chờ họp báo mới công bố? Và như ông phó chủ tịch thành phố đã nêu lên là "Nhiều lần giải thích nhưng nhà thờ không chấp nhận". Nhưng theo như lời các LM trong buổi gặp với ông chủ tịch UBND quận Đống Đa lại nói là chưa bao giờ được nhìn thấy văn bản nào về việc bàn giao đất nhà thờ Thái Hà. Vậy thì ở đây ai đúng ai sai! Tại sao trong cuộc họp báo không có đại diện nhà thờ để xác nhận hay phản bác điều đó? Không cần có sự giải thích, chỉ cần nhìn vào bản chất sẽ thấy ai nói đúng! Nhà nước cộng sản VN từ xưa tới nay thật thà ra sao mọi người đều biết ????
Hơn nữa, nếu cứ dựa vào nội dung trích đọan này thì có lẽ nhà thờ nên qui tội LM Vũ Ngọc Bích tội "phản chúa" vì trong khu đất Thái Hà hiện nay vẫn còn cả bàn thờ Ðức Mẹ và khu hang đá. Lẽ nào con chiên của Chúa lại bàn giao Chúa cho kẻ ngoại đạo??? Hơn nữa trong hành trình 12 năm (1996-2008) đi đòi đất, không thấy cha Bích cũng như ông "nhà nước" nhắc nhở gì đến chuyện hiến đất, chỉ từ khi cha Bích mất, năm 2004, mới thấy ông nhà nước nêu ra bằng chứng này? Thật kỳ lạ khi sống thì không có văn bản, khi chết mới trưng văn bản ra? Hay bây giờ ông nhà nước mới tìm thấy ????
Sự dối trá bịp bợm đến mức trắng trợn khi giám đốc CA Nguyễn đức Nhanh leo lẻo chối là không có sự đàn áp giáo dân mà chẳng qua có sự xô xát nho nhỏ, khi có một số người quá khích mà LL công an chỉ dùng "công cụ hỗ trợ" giải tán đám đông mà thôi! Vậy những cuốn băng ghi hình, những bức ảnh mà thông tấn xã tôn giáo VietCatholic đã đưa ra, khuôn mặt đẫm máu thất thần vì sợ hãi của bà mẹ giáo dân và rất nhiều nhân chứng sống đã chứng kiến màn trấn áp ngoạn mục mà mọi người được xem qua mạng intenet. Liệu những chứng cứ này có tính thuyết phục hơn lời ông giám đốc CA hay không ???

Nhân chứng và sự thật!
Trong vụ giáo xứ Thái Hà! Chúng ta chỉ cần nghe nội dung cuộc đối thoại của LM Nguyễn Ngọc Nam Phong và LM Nguyễn Văn Khải với chủ tịch UBND quận Đống Đa, hẳn mọi người sẽ nhận biết được bản chất của sự việc. Từ tiếng nói đại diện cho giáo dân, đại diện cho công lý và lẽ phải, các vị linh mục đã nêu lên cái thực trạng đau lòng của một dân tộc đang trên đà suy vong do đảng CSVN đem lại.
Tất cả nguyên nhân đều do từ chế độ độc tài mà ra. Từ lợi ích cá nhân và bản chất ngoan cố không chịu tự bỏ con đưòng phản dân hại nước. Nhà nước độc tài sẽ không bao giờ chịu thua bởi họ biết rằng nếu thua keo này sẽ kéo theo hiệu ứng đomino, hàng bao nhiêu đất đai của tôn giáo của những dân oan bi họ dùng thủ đoạn và quyền lực cướp đoạt. Giáo dân Thái Hà cũng như bao người dân vô tội khác còn phải chịu cảnh bất công khi nào chế độ này con tồn tại!
- Một đất nước có nhiều nhà thờ, trường học được mở mang thì đó là một xã hội tốt đẹp.
Vì nhà trường là nơi dạy dỗ phát triển tương lai con người. Nhà thờ là nơi sinh hoạt tinh thần tư tưởng, hướng con người tới các giá trị đạo lý nhân bản.
- Một đất nước mọc lên nhiều nhà tù và trại lính. Thì đó là một chế độ bao tàn thối nát.
Nhà tù và trại lính chính là công cụ của một chế độ bạo tàn tạo ra để đàn áp, áp bức nhân dân và bảo vệ chế độ phi nhân.
Suy ngẫm từ điều này và chúng ta thấy ở Việt Nam hiện nay ra sao?
Sau bao năm sống dưới cái chế độ được coi là "tươi đẹp" này, chỗ nào cũng thấy nhan nhãn là trại lính! Từ công an phường quận huyện, cho tới thị xã thành phố, công an bộ, công an TW chỗ nào có vị trí đẹp nhất chỗ đó là trụ sở của công an. Thậm chí trụ sở của công an còn to hơn trụ sở của chính quyền. Trại giam cũng vậy! Tỉnh nào cũng có ít nhất 2 nhà tù và hàng chục trại giam TW lớn nhỏ trải đều khắp đất nước.
Còn trường học, nhà thờ ư? Giáo xứ Thái Hà là một minh chứng cho chế độ đó!

Việt Nam ngày 31/8/2008
Sĩ Ngoáy
viethoaiphuong
#4 Posted : Wednesday, September 10, 2008 7:41:56 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
Mất Nước



Kinh Mỵ Châu


1. CHÍNH KINH

Vào cuối thời Hùng, có Triệu Đà mang quân xâm lấn nước ta. Vì vậy An Dương Vương xây thành để phòng thủ. Nhưng thành cứ sập đổ mãi. Sau nhờ thần Kim Qui tới giúp, mới xây được Loa Thành. Thần Kim Qui còn để lại cái móng làm lãy nỏ, bắn một phát là giết cả vạn người.

Thấy vậy, Triệu Đà cho con là Trọng Thủy kết hôn với công chúa Mỵ Châu. Trong thời gian ở tại Loa Thành, Trọng Thủy được Mỵ Châu cho coi chiếc nỏ thần, và chàng đã tráo cái lãy nỏ.

Lấy được lãy nỏ thần, Trọng Thủy liền về nước và cùng Triệu Đà mang quân qua đánh Loa Thành. Khi biết nỏ thần hết linh nghiệm, An Dương Vương đem Mỵ Châu lên ngựa chạy trốn.

Dọc đường Mỵ Châu nhổ lông ngỗng nơi chiếc áo đang mặc để làm dấu cho Trọng Thủy tìm theo. Thấy thế, An Dương Vương rút gươm chém Mỵ Châu. Máu nàng chảy xuống biển hóa thành ngọc trai.

Trọng Thủy chiếm được Loa Thành, nhưng thương nhớ vợ nên nhảy xuống giếng mà chết. Từ đó lấy nước giếng ấy mà rửa thì ngọc trai thành sáng đẹp hơn.

* * * *

DIỄN KINH

2. GIỚI THIỆU VIỆC GIỮ NƯỚC

Việc Triệu Đà từ phương Bắc đem quân xâm lấn, và việc An Dương Vương xây Loa Thành, được coi là những sự kiện lịch sử. Từ lâu, di tích của một thành của làng Cổ Loa, cách Hà Nội 15 cây số, luôn được coi là thành của An Dương Vương.

Dầu thành ở Cổ Loa có thực sự là thành của An Dương Vương hay không, việc An Dương Vương xây Loa Thành và làm mất nước, đã là đề tài suy tư của nhiều thế hệ.

Và rồi, với hơn hai ngàn năm tích lũy và truyền đạt, kinh nghiệm trên đã trở thành bài học dạy việc Giữ Nước.

Nhìn dưới khía cạnh Bài Học Làm Người, Kinh Mỵ Châu cũng nói lên diễn tiến của một con người làm mất chính mình, để bị tha hóa.

Tuy nhiên, bài này chỉ bàn về phương diện Giữ Nước (*1).

* * * *

3. BÀI HỌC HỒN NƯỚC

3.1 Giặc Xâm Lấn

Trước hết, Kinh đưa ra bối cảnh làm khung cho Bài Học Giữ Nước. Đó là việc Triệu Đà đem quân xâm lấn. Những nhân vật chính trong Kinh là An Dương Vương, Mỵ Châu và Trọng Thủy.

Trong tinh thần văn hóa Việt, An Dương Vương và Mỵ Châu và Mỵ Châu biểu trưng cho Rồng và Tiên trong việc Giữ Nước. Phần Trọng Thủy, chàng là con Triệu Đà, là hiện thân của tham vọng thống trị phương Bắc.

* *

3.2 Bỏ Hồn Nước

a. Để chống Triệu Đà, An Dương Vương khởi công xây Loa Thành.

Điểm đặc biệt là trong suốt dòng lịch sử của dân tộc, chưa bao giờ có việc xây thành kiên cố cho vua chúa. Từ ngày lập quốc, trong mấy ngàn năm, nước ta không hề xây thành. Các Vua Hùng luôn sống gần dân và cùng dân chia sẻ mọi trách nhiệm.

Vì vậy, việc xây Loa Thành đánh dấu quan niệm Giữ Nước đặc biệt của An Dương Vương. Quan niệm này đi ngược lại truyền thống từ ngàn xưa của dân tộc, và do đó, xa lạ với nếp sống của người dân đương thời.

*

b. Ngoài ra, sự kiện thành sập nhiều lần lại chứng tỏ hoàn cảnh đất nước lúc đó không đủ cung ứng cho việc xây thành.

Như vậy, chẳng những An Dương Vương đã lìa xa tinh thần dân, mà còn lìa xa đời sống thực tế, xa thực trạng hiện hữu của đất nước.

*

c. Khi thành sập nhiều lần, đáng lý An Dương Vương phải tìm hiểu và thay đổi kế hoạch, để chẳng những ứng hợp với hiện trạng, mà còn tận dụng được sức mạnh thiết thực của dân nước. Nhưng An Dương Vương lại đi cậy nhờ tài trí của thần Kim Qui.

Như thế, Loa Thành còn nói lên khuynh hướng vọng ngoại của An Dương Vương.

Nhìn chung Bộ Kinh Việt, việc lìa bỏ tinh thần dân tộc của An Dương Vương lại càng rõ rệt. Ở các Kinh Tiết Liêu và Phù Đổng, khi cần An Dân và Cứu Nước, Tiết Liêu và Vua Hùng đều khẩn cầu Tổ về chỉ dạy. Ở đây, An Dương Vương không cầu Tổ, mà lại đi cầu người phương xa đến.

*

d. Chẳng những giúp xây được Loa Thành, Kim Qui còn cho thêm cái móng chân đề làm lãy nỏ. Với móng chân của Kim Qui, cái nỏ trở thành nỏ thần, bắn một phát giết vạn người.

Với chiếc nỏ thần này, tài thiện nghệ nổi tiếng của dân Lạc Việt chúng ta cũng trở thành vô dụng. Từ nay, cả tài năng xuất chúng của dân nước cũng không còn cần thiết cho việc giữ nước.

Thế là, với hai vũ khí an toàn, với thành vững để thủ và với nỏ thần để công, từ nay việc giữ nước chỉ còn tùy thuộc vào một mình Kim Qui (*2).

* *

3.3 Nhận Hồn Giặc

a. Đã xa nếp sống người dân, đã chỉ cậy nhờ người ngoài, An Dương Vương lại đem công chúa Mỵ Châu gả cho Trọng Thủy. Mỵ Châu là biểu tượng của tinh thần Việt. Trọng Thủy con của của giặc Triệu Đà.

Đang là một tên xâm lăng, khiến An Dương Vương phải xây thành để chống cự. Trọng Thủy bỗng ngang nhiên bước vào tung hoành tận thâm cung Loa Thành. Đang là một tên giặc nguy hiểm, Trọng Thủy trở thành người đầu gối tay ấp của nàng tiên Mỵ Châu.

Như vậy, từ chỗ tùy thuộc vào người ngoài, An Dương Vương bước tới giai đoạn rước giặc vào nhà. Và nàng Tiên Mỵ Châu, biểu tượng cho tâm hồn Việt, cũng đã chấp nhận giặc, ôm ấp giặc.

*

b. Cớ sự đã vậy, mà nàng Mỵ Châu còn tiến thêm một bước. Nàng yêu chiều Trọng Thủy đến nỗi đưa nỏ thần cho Trọng Thủy coi.

Tuy không hoàn hảo, nhưng đất nước đang được tạm thời sống trong yên ổn nhờ có thành vững nỏ thần. Thế mà sau khi cho giặc phá thủng thành vững, giờ đây Mỵ Châu còn theo ý giặc, trao luôn nỏ thần.

Mỵ Châu đã coi ý giặc hơn sự an toàn của dân nước. Nàng đã yêu qúy giặc hơn đồng bào, hơn quê hương. Còn gì Nước, còn là Dân?

*

c. Nhưng nàng vẫn cho là chưa đủ. Trên lưng ngựa cùng cha chạy trốn, Mỵ Châu còn nhổ lông ngỗng nơi chiếc áo đang mặc, để ghi dấu cho Trọng Thủy tìm theo.

Thực là chua chát. Nàng tiên Việt đã hoàn toàn quên mình vì giặc! Giờ đây, người nàng chỉ còn chiếc áo lông ngỗng, hình ảnh cuối cùng của Tiên, mà nàng cũng nhẫn tâm rứt bỏ để làm dấu dẫn đường cho giặc (*3).

*

d. Lông đã nhổ, lớp áo tiên mỏng manh bên ngoài cũng không còn, nên Mỵ Châu gục chết. Lâu nay, tuy tâm hồn đã đổi thay, nhưng nàng vẫn còn giữ chiếc áo Tiên. Giờ đây nàng lộ nguyên hình. Nàng là giặc.

Mỵ Châu là Tiên, là biểu tượng cho tinh thần, cho ý thức văn hóa trong việc Giữ Nước. Nay đã mất Tiên.

Mất theo nàng, theo An Dương Vương, là cả Nước, cả Dân. Chua chát, đắng cay!

* *

3.4 Diễn Tiến Mất Hồn Nước

Thế là An Dương Vương và Mỵ Châu đã làm cho Nước mất Nhà tan.

Đó cũng chỉ vì “Rồng” An Dương Vương đã từ bỏ truyền thống, xa lìa hiện trạng dân nước, để rồi đi cậy nhờ và lệ thuộc người ngoài.

Từ đó nàng “Tiên” Mỵ Châu lại chấp nhận việc kết thân với giặc, rồi làm theo ý giặc, quên mình vì giặc, và chết cho giặc!

An Dương Vương và Mỵ Châu đã để Hồn Nước dần dần tiêu hao với những quyến rũ hào nhoáng của những lợi ích hời hợt.

Khi nền tảng dân tộc bị phai lạt nơi bất cứ dạng thức nào của đời sống dân nước, thì tại phần đó, nước đã bắt đầu mất.

* Dưới khía cạnh Con Người, đây cũng là diễn tiến Con Người đánh mất chính tâm hồn mình. Điều đáng sợ là diễn tiến rất tuần tự, nên nhiều khi mình đã đánh mất chính mình, đã trở thành giặc, đã làm hại mình, mà mình cũng không ngờ.

HỒN MẤT TRƯỚC, NƯỚC MẤT SAU!

* * * *

4. BÀI HỌC DÂN NƯỚC

4.1 Bỏ Dân

a. Việc bỏ mất Hồn Nước luôn luôn kéo theo việc bỏ dân, làm mất dân. Khi giới quyền chức đã tin tưởng và ỷ lại vào người ngoài, thì người dân trong nước bị rẻ rúng khinh khi và bị coi là phương tiện để phục vụ quyền lợi riêng của nhóm người thống trị.

Sự kiện An Dương Vương quyết định xây thành đã tố cáo việc ông bỏ quên trách nhiệm chăm sóc đời sống cho toàn thể mọi người dân trong nước.

Trước đây, mọi người đều là con dân, đều được ông chăm sóc. Nhưng từ nay, với quyết định xây thành của ông, những kẻ ở ngoài thành sẽ bị phó mặc cho bất trắc.

*

b. Thế mà thành lại hư sập nhiều lần. Gánh nặng lại đổ xuống trên người dân. Dân phải chịu sưu cao thuế nặng, mưa nắng dãi dầu, gia đình ly tán, vợ con nheo nhóc.

Đã hết lo cho dân, An Dương Vương lại hành hạ dân, bắt dân phục vụ ông.

*

c. Khi xây xong thành, An Dương Vương đã thực sự sống xa cách dân.

Trước kia, trong suốt mấy ngàn năm, các vua dân Việt đã không hề xây thành, mà luôn sống với dân, chia sẻ cuộc sống người dân. Nhưng nay, An Dương Vương rút mình vô trong vỏ ốc.

Đối với ông, dân bây giờ chỉ còn có nghĩa là nhóm người đang lo phục dịch ông ở trong thành (*5).

*

d. Thêm vào vòng thành vỏ ốc, chiếc nỏ thần của Kim Qui càng làm cho An Dương Vương xa dân hơn.

Đã hết gần dân, giờ đây ông lại không cần dân. Một phát nỏ thần có thể giết hàng vạn quân giặc, nên sự góp sức của dân không cần thiết nữa. Trong việc giữ nước, người dân đã trở thành thừa thãi, thành người ngoại cuộc.

Chẳng những vậy, từ nay, ngoài đám phục dịch trong thành, toàn thể dân trong nước đều ở trong tầm sát hại của nỏ thần. An Dương Vương coi dân như giặc (*6).

* *

4.2 Thành Giặc

a. Từ chỗ đối xử với dân như giặc, An Dương Vương đem Mỵ Châu gả cho Trọng Thủy, hoàng tử của giặc.

Với việc thông gia giữa hai dòng vua, An Dương Vương đã tạo ra giai cấp đặc quyền. Ông muốn từ nay gia đình ông phải là dòng họ đặc biệt, không còn liên hệ với dân. Ông hoàn toàn tách rời dân, tách rời truyền thống văn hóa đặt nền tảng trên bài học: nàng công chúa lấy người không khố.

*

b. Thế là An Dương Vương đã rước giặc vào cung. Ông hủy bỏ công dụng của Loa Thành, và bỏ quên những người ở trong thành.

Giờ đây ông chỉ còn biết có gia đình ông. Quanh ông chỉ còn có hai người: một là Mỵ Châu, hai là tên giặc nằm vùng Trọng Thủy.

*

c. An Dương Vương chỉ còn Mỵ Châu là con, là dân, người dân cuối cùng. Vì vậy, ông giao cho Mỵ Châu trách nhiệm gìn giữ chiếc nỏ thần, báu vật bạo lực thần thánh của ông. Ông tập trung quyền lực vào gia đình, vào những người thân cận ông.

Với việc tập trung quyền lực, từ nay người dân trở thành miếng mồi ngon cho tham vọng không đáy của nhóm quyền chức. Ai làm chủ nỏ thần, ai nắm giữ quyền lực, người đó có toàn quyền trên sinh mạng và tài sản của dân.

*

d. Vì vậy, Trọng Thủy đã dùng thủ đoạn đoạt cái lãy nỏ khỏi tay Mỵ Châu một cách dễ dàng. Sau đó nhóm đặc quyền tranh nhau xương máu của dân. Người dân trở thành mối lợi, món hàng, của bọn người chỉ còn biết tư lợi và quyền lực.

Kết qủa của tranh chấp quyền lực là tai họa giáng xuống trên người dân. Ách thống trị theo chân Trọng Thủy và Triệu Đà trùm lên toàn thể dân nước.

* *

4.3 Dân và Việc Giữ Nước

Bài Học Dân Nước thực thấm thía. Bỏ trách nhiệm chăm sóc dân, hành hạ dân, xa lánh dân, coi dân như thù địch, để chỉ dựa vào thành lũy, vào nỏ thần, vào nhóm đặc quyền, vào bạo lực, thì rồi, việc giữ nước chỉ còn là những thủ đoạn tranh quyền đoạt lợi. Người dân trở thành mục tiêu cho bóc lột, cho bạo hành. Giữ nước trở thành cướp nước.

GIỮ NƯỚC LÀ VIỆC CỦA TOÀN DÂN. Dân không giữ nước thì giặc giữ! Không cho dân giữ nước là cướp nước.

* * * *

5. BÀI HỌC SỨC NƯỚC

5.1 Sức Do Dân

Dưới khía cạnh Sức Nước, khi An Dương Vương từ bỏ truyền thống và xa lìa cuộc sống người dân, để quyết định xây thành, chính là lúc ông làm băng họai sức mạnh xã hội của nước.

Việc xây thành làm hao tổn của cải, tài năng và nhân lực của nước. Vậy mà thành còn bị hư sập nhiều lần, nên sức mạnh kinh tế lại càng suy sụp thêm.

Khi sống trong thành, xa dân, không còn biết đến đời sống người dân, An Dương Vương bỏ mất sức mạnh chính trị.

Khi được nỏ thần, khi không còn vận dụng sức dân, khi làm cho dân thấy mình trở thành người ngoại cuộc thừa thãi, chính là lúc An Dương Vương đánh mất sức mạnh tinh thần trong công cuộc Giữ Nước.

* *

5.2 Sức Chiến Đấu

a. Làm mất dân, An Dương Vương đã bỏ mất những sức mạnh nền tảng của việc Giữ Nước. Nhưng ông cũng chưa thấy nguy cơ vì ông đặt trọn niềm tin vào Loa Thành và Nỏ Thần. Loa Thành bảo đảm thế thủ an toàn, và Nỏ Thần đang làm mọi người khiếp sợ.

Loa Thành và Nỏ Thần là biểu trưng của sức mạnh quân sự, khả năng giữ nước cuối cùng của An Dương Vương.

*

b. Nhưng rồi ông thua kém trên mặt trận ngoại giao, khi bị rơi vào thủ đoạn của giặc. Sau khi hao tốn biết bao công qũy để xây thành ngăn giặc, ông lại long trọng rước giặc vào tận thâm cung. Chính ông đã loại bỏ công dụng của sức mạnh phòng thủ của ông.

Thành đã bị phá lũng, An Dương Vương chỉ còn chiếc Nỏ Thần. Nhưng ông lại bị thua ở mặt trận gián điệp. Trọng Thủy biến đã biến Mỵ Châu thành nội tuyến, và nàng đã tiết lộ bí mật quốc phòng.

Khi để Trọng Thủy đánh tráo lãy nỏ, trao vũ khí giữ nước cuối cùng vào tay giặc, An Dương Vương đã để mất luôn sức mạnh kỹ thuật.

KHÔNG SỨC MẠNH LẤY GÌ GIỮ NƯỚC?

* * * *

6. BÀI HỌC ĐẤT NƯỚC

Công cuộc giữ nước bộc lộ rõ ràng nhất trong việc bảo vệ từng tấc đất của quê hương. Thế mà An Dương Vương dám bỏ mất dần.

Trước kia, chưa xây Loa thành, An Dương Vương đã để tâm chăm sóc toàn thể đất nước.

Nhưng khi xây thành, ông chỉ còn giữ lại mảnh đất trong thành. Đối với ông, đất nước ta không còn trải rộng ra khắp bờ cõi, mà thu hẹp lại trong hào lũy. Ông chểnh mảng trong việc giữ nước, để chỉ chú tâm tới cái làng mà ông đang ở.

Thế nhưng, khi lo cưới chồng cho Mỵ Châu, rước tên giặc Trọng Thủy vào nội cung, An Dương Vương lại vì tình nhà mà hủy bỏ sự phòng thủ của thành. Ông chỉ còn thấy có cái nhà của ông.

Và rồi, khi để Mỵ Châu trao nỏ thần vào tay giặc, ông đã không giữ nổi mấy chục thước đất cuối cùng. An Dương Vương đã thực sự không còn đất sống.

* * * *

7. ẢO TƯỞNG GIỮ NƯỚC

Thế là hết, An Dương Vương đã để mất Hồn Nước, để mất Dân Nước, để mất Sức Nước, và cũng đã mất Đất Nước.

Tuy nhiên, ông vẫn không ngờ, ông vẫn tưởng ông đang giữ nước.

Thực vậy, dầu Hồn Nước có mất, cũng chỉ có nghĩa là ông đã thực hiện quan niệm của riêng ông; dầu người Dân đã bị loại ra khỏi việc giữ nước, nhưng nhờ đó ông lại càng dễ thống trị hơn; dầu Trọng Thủy là con giặc, nhưng đã trở thành con ông; dầu Mỵ Châu nằm trong tay giặc, nhưng nàng vẫn còn mặc áo lông ngỗng; dầu giặc có tung hoành ở thâm cung, nhưng vòng thành bên ngoài vẫn kiên cố vô song; và dầu lẫy thần đã bị tráo, chiếc nỏ vẫn còn nguyên hình dạng cũ.

Tất cả đều cho An Dương Vương ảo tưởng là đất nước vẫn an toàn, là ông đang hoàn thành nhiệm vụ giữ nước một cách tuyệt hảo.

Nhưng qủa thực, sở dĩ đất nước còn, và ông vẫn còn như đang giữ nước, không phải là vì ông phòng thủ hữu hiệu, mà vì giặc chưa xua quân tiến chiếm.

Vì vậy, khi Triệu Đà xua quân tới, An Dương Vương chỉ còn cách lên ngựa chạy trốn. Ông không còn gì. Tất cả đã bị giặc chiếm. Cả đứa con ngồi sau lưng cũng đã thuộc về giặc, cũng đã là giặc.

Ôi dân tộc đồng bào! Ôi giang sơn gấm vóc!

* * * *

8. VẤN ĐỀ GIỮ NƯỚC

8.1 Giặc Nước

Tuy Kinh liệt kê nhiều nhân vật góp phần làm mất nước, nhưng mọi nhân vật đều có thể quy về một mình An Dương Vương.

Chính An Dương Vương đã lìa bỏ truyền thống dân tộc mà quyết định xây thành. Chính ông đã nhờ thần Kim Quy, đã xin nỏ thần. Chính ông đã hành hạ dân, đã từ khước dân. Ông cũng đã đón rước Trọng Thủy, đã đặt nỏ thần trong tay Trọng Thủy. Chính ông đã cho Triệu Đà mọi điều kiện để đặt ách nô lệ lên toàn dân.

Trong diễn tiến đó, chúng ta có thể thấy tất cả đều chỉ là những giai đoạn của con người An Dương Vương.

Từ chỗ là một người chăm lo cho cuộc sống an thịnh của dân nước, như Tiết Liêu, ông đã để tham vọng cho ông ảo tưởng ông là thần thánh. Qua việc ông cấu kết với thần Kim Quy, qua việc xây xong thành và làm chủ chiếc nỏ thần, ông muốn toàn dân suy phục ông như một vị thần. Ông đã bỏ nguyên tắc nền tảng đầu tiên của người làm việc nước, là phải xác tín Thân Phận Là Người của mình (*7).

Từ chỗ coi mình là thần thánh, An Dương Vương khinh rẻ người dân, không còn nhớ tới điều kiện thứ hai của người làm việc nước, là mình đang Mang Nặng Trách Nhiệm. Ông dùng thành lũy để bảo vệ ông, và dùng nỏ thần để uy hiếp mọi người. Ông quyết tâm hưởng thụ, và bắt toàn dân phục vụ ông.

Thay vì cùng với toàn dân chia sẻ gánh nặng giữ nước, An Dương Vương chỉ còn chuyên dùng bạo lực của thành Ốc và nỏ thần.

Từ đó, ông tạo ra giai cấp đặc quyền. Ông chọn một hoàng tử để làm phò mã, dầu đó là con của giặc. Ông còn tập trung quyền lực vào gia đình của riêng ông. Ông giao trọn việc giữ nước, giờ đây chỉ còn cái nỏ thần, vào tay đứa con gái ngờ nghệch của ông.

Từ đây, đối với ông, dân chỉ là một lũ nô lệ phải luôn luôn cúi đầu khuất phục.

Thế là, đối với nước, đối với dân, ông không còn là người giữ nước, mà đã trở thành tên giặc cướp nước. Ông trở thành Triệu Đà.

*

b. Như vậy, làm vua, làm việc nước, nhiều khi còn có nghĩa là giặc nước.

* Người giữ nước tuyệt hảo là người cùng với toàn dân chia sẻ cuộc sống. Mọi người đều chung phần trách nhiệm giữ nước. Tuy ở tầm độ khác nhau, nhưng mọi chức vụ đều là trách nhiệm.

Nếp sống này đã được thể hiện trong nhiều giai đoạn của lịch sử Việt, và được kết tinh trong Kinh Tiết Liêu, Chữ Đồng, An Tiêm, và Vọng Phu.

* Là thời suy thoái khi An Dương Vương xây thành và đặt dân dưới sự kìm tỏa của nỏ thần. Đó là chế độ, dầu dưới bất cứ danh xưng cao quý nào, mà xây dựng trên võ lực, trên lý của kẻ mạnh, trên mạnh được yếu thua.

* Khi An Dương Vương tiếp nhận hoàng tử ngoại bang và trao nỏ thần cho con gái, chính là lúc thành lập chế độ gồm giai cấp đặc quyền, nắm giữ mọi quyền hành, và hưởng thụ trên xương máu người dân (*8).

* An Dương Vương thành Triệu Đà là hình thức lộ liễu nhất của thống trị, chuyên chế, đế quốc, thực dân, đảng trị, thủ đoạn, mị dân.

* *

8.2 Yếu Tố Giữ Nước

a. Muốn giữ Nước thì phải giữ Hồn Nước, giữ Dân Nước, giữ Sức Nước, và giữ Đất Nước.

Hồn nước được giữ bằng việc sống thực và phát huy truyền thống cao quý của dân tộc. Dân Nước có được là nhờ chăm sóc đời sống người dân và để dân chia sẽ trách nhiệm giữ nước. Sức Nước mạnh được là nhờ các cơ cấu xã hội, chính trị, kinh tế, và tổ chức quân sự thích đáng và hữu hiệu. Đất nước chỉ còn, khi thực sự được các yếu tố trên bảo vệ một cách trọn vẹn.

Có được cả bốn, giữ được cả bốn, thì quê hương thanh bình thịnh vượng, đồng bào hạnh phúc yên vui.

*

b. Nếu mất Đất, vì quân xâm lăng tràn ngập, nhưng vẫn còn Hồn, còn Dân, còn Sức, thì ngày quật khởi ở trong tầm tay (*9a).

Nếu mất Đất, mất Sức, mà còn Dân, còn Hồn, thì lo gì không có ngày vùng dậy (*9b).

Nếu mất Đất, Sức tan và Dân bị phân tán, mà còn Hồn Nước, thì tuy cần thời gian, vẫn còn cơ hội có lại Dân, có lại Sức và có lại Đất (*9c).

Nếu mất Hồn Nước, dầu còn Đất, còn Sức, còn Dân, thì cũng đã khô cạn sức sống, cái xác không hồn, ma giặc sắp ám (*9d).

Nếu mất Hồn, mất Dân, thì Sức và Đất trở thành những khí cụ đầy bất trắc, cực kỳ nguy hiểm (*9e).

Nếu mất Hồn, mất Da6n, mất cả Sức, thì giang sơn gấm vóc của Tổ Tiên đang là miếng mồi ngon nằm bên miệng giặc.

Và nếu giặc đã ra tay, như thảm trạng quê hương đồng bào ta hiện nay, thì Tổ minh hiển đã dạy cách có lại, cách Cứu Nước, ở KINH PHÙ ĐỔNG (*10).

* * * *

9. BÀI HỌC NƯỚC VÀ NHÀ

9.1 Đền Tội Hại Nước

Bi kịch Loa Thành thất thủ đưa tới việc Mỵ Châu bị chết dưới lữa gươm của An Dương Vương.

Mỵ Châu đã đền tội vì trách nhiệm trong việc làm mất nước. Nhưng sự thể ra nông nỗi đó cũng chỉ vì nàng quá yêu thương và tin tưởng chồng.

Tổ Tiên ta thưởng phạt phân minh. Có tội làm hại nước thì phải chết. Nhưng nàng đã trọn tình nhà, thì thưởng phần tình nhà.

Tình nhà của Mỵ Châu đã được Tổ Tiên phong thưởng bằng cách cho máu nàng chảy xuống biển và được giống trai nuốt vào mà hóa thành ngọc.

Cách phong thưởng này chẳng những không kỳ lạ, mà lại nằm trong hệ thống giá trị của văn hóa Việt. Những kẻ trọn tình nhà như người em trong Kinh Trầu Cau, người vợ trong Kinh Vọng Phu, trái tim của Trương Chi, và ở đây, máu của Mỵ Châu, tất cả đều hóa thành đá ngọc, nghĩa là đã trở thành trường tồn với thời gian, được qúy chuộng, và được làm nền tảng xây dựng lâu dài.

* *

9.3 Đền Tội Hại Nhà

Về phần Trọng Thủy, dầu thành công trong mưu đồ xâm chiếm, nhưng chàng nhớ vợ và nhảy xuống giếng mà chết.

Chàng đã vì ý đồ xâm lăng, mà phụ nghĩa vợ chồng, thì chàng cũng phải chết. Vì danh lợi mà không trọn Tình Nhà, thì cuộc đời cũng không đáng sống, thì không có quyền sống.

* *

9.4 Vừa Nhà Vừa Nước

Vì tình nhà mà hại nước thì phải chết. Vì quyền lực mà hại nhà, thì cũng phải chết.

Đây là tuyệt đỉnh bài học làm người của văn hóa Việt. Bài học này đi ngược hẳn chủ trương của nhiều văn hóa khác.

Với cái chết của Mỵ Châu, Tổ Tiên ta đã xử tử hình các chủ thuyết cá nhân vị kỷ. Với việc Trọng Thủy nhảy xuống giếng, các chủ thuyết tập thể bá quyền cũng bị nhận chết theo.

Con người chỉ có thể sống xứng đáng, trọn vẹn và hạnh phúc khi thể hiện đầy đủ các đặc tính bẩm sinh vừa cá thể vừa xã hội của mình.

CÓ NHÀ MÀ CŨNG CÓ NƯỚC, CÓ NƯỚC MÀ CŨNG CÓ NHÀ. Tiên Rồng Song Hiệp hoàn chỉnh.

* * * *

10.1 Tình Nghĩa

Mỵ Châu và Trọng Thủy đều đã chết. Nhưng thực cảm động khi những viên ngọc do máu Mỵ Châu lại trở thành sáng đẹp hơn, nhờ rửa trong nước giếng chôn xác chồng.

Nàng đã yêu thương và tin tưởng chồng đến nỗi giao phó cả nước non, đã đưa nỏ thần cho chàng xem. Nàng đã yêu chàng trong tuyệt vọng đến liều lĩnh, khi nhổ lông ngỗng làm dấu hiệu trên đường chạy trốn chàng. Và giờ đây, cả những giọt máu của nàng cũng tươi sáng lên khi được tắm trong nước tẩm xác chàng.

Ôi tình nghĩa nàng Tiên Việt! Nàng đã sống trọn Tình Yêu của Văn Hóa Việt. Nàng đã thể hiện những nguyên tắc của Thân Thương Tột Cùng: Quyết chẳng lìa nhau, Sẵn sàng chết cho nhau, và Mãi mãi có nhau.

Chỉ tiếc là nàng đã không ứng dụng nguyên tắc tắc đầu tiên, là hai người phải Giống nhau như đúc, tức là phải tìm hiểu nhau, phải gặp nhau trọn vẹn, nên nàng đã không nhận ra Trọng Thủy, và bị giặc lừa gạt.

* *

10.2 Hệ Thống Làng Thôn

Với truyền thống ngàn năm của nếp sống Việt, với kinh nghiệm đau đớn của Loa Thành, Tổ Tiên ta quyết không xây thành cho vua chúa, không tập trung bạo lực.

Sống đúng nguyên tắc Giữ nước là việc của toàn dân, các Ngài lập hệ thống phòng thủ nơi toàn dân. Làng thôn của dân trở thành một mạng lưới thành lũy và lực lượng trải rộng khắp đất nước (*11).

Với thể chế Làng Nước, làng Việt chính là trung tâm sinh hoạt tự lập tự chủ của người dân, mà cũng là sức mạnh của dân tộc.

Trước mọi cuộc xâm lăng thuộc mọi lãnh vực, trước mọi mưu đồ làm tổn hại cuộc sống hạnh phúc của người dân, hệ thống làng thôn đã luôn luôn là cơ cấu chính yếu giúp dân ta bảo toàn lực lượng, phục hồi sức mạnh, và vùng lên phá giặc (*12).

Mỗi làng là một chiến lũy, toàn dân là chiến sĩ.

* * * *

GHI CHÚ: (Sẽ viết sau).


Mời quý bạn nghe ca khúc có gởi kèm trong bài viết này ! Gởi bởi KV _ người lặng lẽ ...

http://www.youtube.com/s...skLQ1uTdTJi2bh5gKMkrfVSm
viethoaiphuong
#5 Posted : Thursday, September 11, 2008 5:06:24 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
Kinh Tiên Rồng


1. CHÍNH KINH

Giống dân Việt khởi đầu từ khi một bà Tiên và một ông Rồng phối hiệp nhau, và bà Tiên sinh ra cái bọc chứa một trăm người con. Sau đó ông Rồng nói với bà Tiên: "Ta là giống Rồng, nàng thuộc dòng Tiên, nên nàng đem năm mươi con lên núi, ta đem năm mươi con xuống biển. Khi cần thì gọi, ta về ngay."

Từ đó dòng giống Việt ngày một phát triển.


* * * *


DIỄN KINH

2. DẪN NHẬP

2.1 Nhìn Chung

a. Tiên được quan niệm là người sống ở núi, hiền từ, thánh thoát, sống mãi không chết... Nghe nói tới tiên, nghe ca tụng Tiên, nhưng chưa ai thực sự gặp một bà Tiên. Không biết có Tiên thực hay không.

Giống Rồng cũng vậy. Rồng được coi là chủ tể của biển cả, làm gió làm mưa, thiên biến vạn hóa... Nhưng cũng chưa ai gặp Rồng, thấy hình vẽ Rồng cũng nhiều, đủ loại đủ kiểu... nhưng không ai dám quả quyết là có giống Rồng hay không.


*

b. Vậy mà nguồn gốc một giống người, người Tộc Việt, lại được lưu truyền là do sự phối hiệp giữa một bà Tiên và một ông Rồng.

Nếu Tiên và Rồng giống như hình ảnh long và phụng hiện nay, thì chuyện kết hiệp thực là trái khuấy. Việc truyền sinh càng vô lý hơn.

Lại nữa, Mẹ Tiên thêm lạ kỳ, mẹ không sinh sản một cách bình thường, mà sinh ra cái bọc chứa một trăm đứa con. Mẹ là chim hay là cá? Nhưng sao lại sinh ra những Con Người?

Và rồi, không biết vì sao mà một hôm cha Rồng bỗng lý luận về nguồn gốc của mình để đòi chia tay và chia con. Năm mươi con theo mẹ Tiên về quê ngoại trên núi, năm mươi con theo cha Rồng về biển cả vẫy vùng.

Ðã đòi chia tay và chia con, vậy mà cha Rồng lại nói thêm: Khi cần thì gọi, ta về ngaỵ Tưởng rằng tình nghĩa đã dứt, lưu luyến không còn, mà sao vẫn hẹn hò? Vậy thì chia làm gì? Ðã chia nhau kẻ lên núi, người xuống biển, thì sao còn gọi nhau được? Mà nếu có gọi, làm sao có thể về được ngay? Không lý thời đó đã có hệ thống viễn liên, phương tiện phản lực?... (*1)


* *

2.2 Nhận Ðịnh

a. Xét theo thông thường, truyền thuyết về nguồn gốc của dân Việt như vậy là gồm toàn những chuyện lạ lùng khó tin.

Thực khó tin chuyện có Tiên, có Rồng. Thực vô lý khi hai loài hoàn toàn khác biệt nhau, như Tiên và Rồng, lại lấy nhau và sinh được con cái. Tin làm sao được chuyện sinh cái bọc chứa một trăm con người.

Nguồn gốc đã dị kỳ, tình tiết lại càng quái lạ. tại sao khi dạy về nguồn gốc dân tộc, Tổ Tiên ta lại nói tới việc chia tay và chia con? Không lý Tổ Tiên muốn nêu gương vợ chồng không nên sống đời ở kiếp với nhau?

Khi đã chia tay chia con, thì sao cha Rồng lại thêm: hễ gọi thì về ngay ? Truyền thuyết thêm chi tiết đó để làm gì? Tại sao phải chia con, và tại sao phải chia đồng đều?

Nhưng điều đáng kinh ngạc hơn, là tại sao các tình tiết kỳ dị đó, chẳng những đã không được sửa đổi, mà còn được truyền tụng phổ cập trong toàn dân, và được trang trọng truyền miệng từ đời này qua đời khác, trải hơn năm sáu ngàn năm? Truyền dậy nhau như vậy để làm gì?


*
b. Nếu chỉ để dạy những chuyện khó tin như bà Tiên ông Rồng, nếu chỉ để kể những chuyện vô lý như Tiên Rồng sinh ra bọc chứa một trăm con người, nếu chỉ nêu những gương không đẹp như ly dị, chia con... thì không lý do nào Tổ Tiên ta lại phải cố công phổ biến cho mọi người, và truyền miệng ghi nhớ ròng rã suốt hai ba trăm đời không dứt.

Chắc chắn những tình tiết có vẽ kỳ quặc đó phải chứa đựng những ẩn ý khác thường và quan trọng đặc biệt, thì Tổ Tiên mới dụng tâm lưu truyền nguyên vẹn như thế. Vấn đề là chúng ta có thấu hiểu nổi hay không.

Do đó, chúng ta không thể nghe và hiểu loại chuyện này một cách bình thường. Bổn phận của chúng ta là khám phá và khai thác cái gia tài quý báu đang tiềm ẩn trong đó. Nếu không, thực uổng công Tổ Tiên mấy trăm đời đã liên tục trao truyền đến chúng ta.


* * * *

3. NHẬN DIỆN CON NGƯỜI

3.1 Biểu Tượng về Con Người

a. Có lẽ chúng ta quá câu nệ và duy vật, khi cương quyết đòi hỏi Tiên và Rồng của truyền thuyết phải là những sinh vật có thực và có thể cùng nhau truyền sinh.

Trong cuộc sống thường ngày, dầu luôn miệng nhắc tới Tiên, nhưng có bao giờ ta cảm thấy cần phải gặp mặt, hoặc tìm hiểu đích xác về một nàng Tiên? Chúng ta sẳn sàng hiểu chữ Tiên với nhiều nghĩa bóng bảy tốt đẹp, mà không cần thực tại của Tiên.

Ta cũng thường nhắc tới Rồng với nhiều đức tính đặc thù. Nhưng không ai màng tới việc tìm cho ra một con Rồng thực.


*
b. Vậy thì, khi kể chuyện Tiên Rồng, tổ Tiên không buộc ta phải tin như đó là hai sinh vật có thực. Tiên và Rồng chỉ là hai biểu tượng: Biểu Tượng Tiên và Biểu Tượng Rồng.

Tiên là biểu tượng, vì hễ nói tới Tiên, chúng ta nghĩ ngay tới hình ảnh của xinh đẹp, dịu hiền, từ tâm, khoan ái, yêu thương... mà cũng thoát tục, siêu phàm, như thần như thánh, trường sinh bất tử, sống động nhưng vượt thời gian vượt không gian.

Cũng vậy, Rồng biểu trưng cho oai dũng trổi vượt, cho sức mạnh vô song, sức sống vô tận, biến hóa không lường, như linh như hiển... khi thì ẩn mình dưới đáy biển cả, lúc lại vẫy vùng trên tầng trời cao, làm mây làm mưa, giáng ơn giáng phước (*2).


*

c. Như vậy, khi nói chúng ta là kết tinh của việc Tiên Rồng phối hiệp, Tổ Tiên diễn đạt nhận thức của các Ngài về Con Người.

Khi nói chúng ta là dòng giống Tiên Rồng, Tổ Tiên muốn diễn tả Con Người là một hiệp thể sinh động, là kết tinh hoàn hảo của mọi đặc tính bộc lộ qua hai Biểu Tượng Tiên và Rồng.

Là hiệp thể do Tiên Rồng phối hiệp, có nghĩa là Con Người vừa biến hóa như Rồng vừa trường cửu như Tiên, vừa vật thể vừa siêu phàm, vừa trong thời không vừa vượt thời không, vừa linh động vừa thường hằng, vừa xinh đẹp dịu hiền vừa hùng dũng cương quyết, vừa tình vừa lý, vừa chan chứa yêu thương lại vừa uy lực vô song.


*

d. Lại nữa, vì là truyền thuyết của dân Việt, nên khi Kinh nhấn mạnh đây là nguồn gốc của tất cả mọi người Việt, thì cũng có nghĩa là không loại trừ bất cứ con người nào.

Tổ Tiên nhấn mạnh rằng đây là biểu tượng của Con Người, tức là của toàn thể mọi người, không trừ ai (*3).

* *

3.2 Tiên Rồng Song Hiệp

a. Tổ Tiên không chỉ diễn đạt những đặc tính nhận diện nơi Con Người, mà còn đặc biệt nhấn mạnh tới tỷ lệ giữa những đặc tính đó.

Khi cha Rồng nói: Năm mươi con theo mẹ, năm mươi con theo cha, chính là xác quyết sự tương đồng tuyệt đối giữa hai nhóm đặc biệt trong Con Người: một nửa do Mẹ, một nửa do Cha, năm mươi phần trăm là Tiên, năm mươi phần trăm là Rồng.

Như vậy, Con Người là một hiêp thể toàn hảo của hai nhóm đặc tính Tiên và Rồng tương đồng tuyệt đốị Con Người là kết tinh của Tiên Rồng song hiệp (*4).

* Trong toàn bộ nhận diện Con Người qua cuộc sống, văn hóa Việt khám phá ra rằng mọi đặc tính của Con Người đều có thể đúc kết trong biểu tượng Tiên Rồng Song Hiệp. Tiên Rồng Song Hiệp bàng bạc khắp nơi, trong mọi tương quan và sinh hoạt của Con Người.

Vì vậy, theo văn hóa Việt, Tiên Rồng Song Hiệp là nhận thức nền tảng thâm sâu nhất trong việc nhận diện toàn thể Con Người, và Cuộc Sống Con Người.

Ta có thể gọi là nguyên lý. Nguyên lý TIÊN RỒNG SONG HIỆP (*5).


*

b. Lại nữa, khi cha Rồng nêu rõ: Tiên lên núi, Rồng về biển, chính là muốn chú trọng tới sự vẹn toàn của mỗi nhóm đặc tính Tiên và Rồng được nhận diện trong Con Người.

Do Tiên Rồng phối hiệp, Con Người là một hiệp thể tự tại, toàn nhất, bất khả phân. Tuy nhiên, không phải vì vậy mà những đặc tính của hai nhóm Tiên và Rồng bị pha chế hay biến đổi.

Mỗi nhóm vẫn nguyên vẹn và thể hiện đầy đủ mọi điểm đặc thù của mình, như đang sinh động nơi môi trường thích hợp nhất, như Tiên đang ở núi cao, như Rồng đang vẫy vùng giữa biển khơi (*6).


*

c. Ngoài ra, việc Cha Rồng nhắc nhở Mẹ Tiên: “khi cần thì gọi, ta về ngay,” cũng lại là một nhận định đích xác về cuộc sống con người.

Tuy Con Người là thể hiệp toàn nhất Tiên Rồng Song Hiệp, nhưng trong thực tại cuộc sống, nhiều khi một số đặc tính lại tỏ hiện rõ rệt, trong khi một số đặc tính có thể như thiếu vắng.

Dầu vậy, lúc cần thì phần thiếu vắng lại có mặt ngaỵ Nhóm đặc tính đó chỉ ẩn diện,và vẫn luôn luôn hiện hữu trong Con Ngườị Ta không thể vì sự thiếu vắng bên ngoài mà chối bỏ sự hiện hữu của nó (*7).


Nhận thức về Con Người cần phải đầy đủ, trọn vẹn.


* * * *

4. NỀN TẢNG XÃ HỘI LOÀI NGƯỜI

4.1 Ðặc Tính Xã Hội Bẩm Sinh

a. Cùng với việc đặt nền tảng cho nhận thức về Con Người, Kinh Tiên Rồng đặt nền tảng cho Xã Hội Loài Người.

Khi Tiên Rồng là biểu tượng cho hai nhóm đặc tính được nhận diện nơi Con Người, thì Một Bọc Trăm Con không còn là cái bao lúc nhúc một trăm đứa bé nữa.

Một Bọc Trăm Con chính là hình ảnh biểu trưng một nhóm người sống quây quần và liên hưởng với nhau tức là cộng đoàn, hay xã hội.

Biểu tượng Tiên Rồng sinh Một Bọc Trăm Con nêu lên hình ảnh: ngay từ khởi thủy, khi khởi sinh loài người là đồng thời có cả Một Trăm Con Người cùng một lúc. Ðã không hề có một Con Người đơn độc. Hể có Con Người là có cộng đoàn (*8).

Ðây là điểm tuyệt diệu đầu tiên của biểu tượng Một Bọc Trăm Con: Văn hóa Việt xác quyết Ðặc Tính Xã Hội Bẩm Sinh của Con Người.


*

b. Như thế, với biểu tượng Tiên Rồng Phối Hiệp, Kinh Tiên Rồng xác quyết đặc tính hiệp thể tự tại của từng Con Người, và với Một Bọc Trăm Con, Kinh xác quyết đặc tính xã hội của mọi Con Người.

Hai đặc tính cá thể và xã hội được xác định đồng thời bởi Kinh Tiên Rồng, đã biểu lộ tính chất đặc biệt của văn hóa Việt.

Ðây chính là nền tảng chỉ đạo trọn nếp sống dân Việt suốt mấy ngàn năm, và đã tạo ra một nền văn hóa đặc thù.


* *

4.2 Hai Nguyên Lý Xã Hội

a. Như vậy, với biểu tượng Tiên Rồng phối hiệp và sinh ra Một Bọc Trăm Con, văn hóa Việt xác quyết rằng mọi Con Người trong xã hội đều do cùng một mẹ một cha và được sinh ra cùng một lần.

Xác quyết nầy khác biệt với nền tảng của nhiều nền văn hóa khác. Nhiều văn hóa đã phân chia xã hội loài người thành nhiều giai cấp, và chủ trương quyền thống trị là đặc ân thiên phú của một dòng họ, hoặc một giống dân (*9).

Ðang khi đó văn hóa Việt dùng biểu tượng Một Bọc Trăm Con để lưu truyền nền tảng của một xã hội Loài Người bình đẳng tột cùng và thân thương tột cùng.


*

b. Không có gì diễn tả đầy đủ sự bình đẳng giữa Con Người với Con Người bằng hình ảnh: ngay ở cấu thành, ngay tự khởi nguyên, con người nào cũng được hưởng nhận cùng một sức sống từ mẹ từ cha, trong cùng một lúc. Mọi người đều ra đời cùng một lần, trong một cái bọc.

Tự nguồn gốc, giữa Con Người không thể có bắt cứ một dị biệt nào: chẳng những không di biệt về sức sống, về di truyền, mà cũng không bị dị biệt cả về tuổi tác, hoặc về ngôi thứ giữa anh em. Mọi người hòan tòan như nhau, hoàn toàn bằng nhau.

Qua biểu tượng Một Bọc Trăm Con, văn hóa Việt đã nêu lên nguyên lý sâu vững nhất cho Xã Hội Loài Người về bình đẳng: con người bình đẳng tự căn nguyên, BÌNH ĐẲNG TỘT CÙNG.


*

c. Ngoài ra có xã hội nào thân thương bằng những anh chị em ruột thịt, cùng do một mẹ một cha?

Tuy vậy, anh chị em ruột cũng ít khi thương yêu nhau đồng đềụ Anh chị thường thương yêu chăm sóc cho em nhiều hơn là đứa em lo lắng cho anh chị. Do đó, khi nhấn mạnh rằng mọi người còn được sinh ra một lượt với nhau, Tổ Tiên muốn nhấn mạnh tới sự đồng nhất ngay cả trong sự yêu thương nhau.

Trong biểu tượng Một Bọc Trăm Con, trăm anh em giống nhau như đúc, giống nhau hoàn toàn về mọi phương diện. Giữa họ, không có gì dị biệt, nên không có gì xung khắc, cũng không có gì hạn chế hay cản trở họ thương yêu nhaụ sự khắng khít giữa họ thực chan chứa, trọn vẹn, và đồng đềụ Họ thương nhau tận tình.

Trong đời sống thực tế, không hề có những người được cha mẹ sinh ra cùng một lúc và hoàn toàn giống nhaụ Vì vậy, tình thân thương của Trăm Anh Em cùng Một Bọc, vượt quá mọi kinh nghiệm yêu thương thường tình của chúng tạ Ðây là tình THÂN THƯƠNG TỘT CÙNG.

Sự diễn đạt của Tổ Tiên thực tuyệt diệu!

d. Một Bọc Trăm Con, mọi người là Anh Em Cùng Một Bọc, là biểu tượng của Xã Hội Loài Người, mà cũng là diễn đạt hai nguyên lý nền tảng hoàn hảo thâm sâu nhất của Xã Hội loài người, là Bình Ðảng Tột Cùng và Thân Thương Tột Cùng (*10).

Ðể đưa vào hiện thực, để nền tảng xã hội được thể hiện trọn vẹn trong cuộc sống, Tổ Tiên ta đã khai triển chi tiết và thực tiễn ở Kinh Chữ Ðồng và Kinh Trầu Cau.


* * * *

5. TIÊN RỒNG SONG HIỆP TRONG VĂN HÓA VIỆT

5.1 Tính Cách Phổ Quát

a. Phần này, ở đây cũng như ở các Kinh khác, đòi hỏi công trình khảo cứu sâu rộng vào tận nếp sống thường ngày của đại chúng. Ở đây, chỉ nêu vài nét đại cương với những điểm đặc trưng.

Cần nhấn mạnh đến việc thực sự tìm hiểu thấu đáo ở cuộc sống, phong tục, tâm tư... của đại đa số dân chúng, chứ không chỉ lặp lại những sáo ngữ, những luận điều sẵn có trong sách vở, hoặc uốn nắn theo thành kiến, giáo điều.


*

b. Trong suốt mấy ngàn năm, dòng giống Việt, đặc biệt dân tộc Việt Nam, đã sống một nếp sống thể hiện toàn diện nền tảng Tiên Rồng Song Hiệp.

Tuy có những thời suy thoái, nhưng đã có nhiều giai đoạn dân tộc Việt sống đúng di huấn của Tổ Tiên, đặt nền tảng trên Kinh Tiên Rồng. Nhờ đó, dân Việt đã phát huy được một nền văn hóa đặc thù, với nhiều nét đặc trưng.

Lịch sử chứng minh rằng: thời kỳ nào sống đúng Văn Hóa tiên Rồng, thời kỳ đó dân Việt được sống trọn vẹn Con Người nhất, được hạnh phúc nhất, và đất nước được thịnh vượng hùng cường nhất.

Ở những giai đoạn đó của lịch sử và văn hóa Việt, trong mọi khía cạnh của Cuộc Sống Con Người, từ cá nhân đến gia đình, làng xóm, dân nước, qua chính trị, kinh tế, xã hội, tôn giáo, quân sự ... nguyên lý Tiên Rồng Song Hiệp luôn được ứng dụng triệt để. Nhờ đó, văn hóa Việt luôn kết hợp thành công những yếu tố nhiều khi như đối nghịch.


* *

5.2 Mỗi Người luôn cố gắng sống thực trọn vẹn Con Người Tiên Rồng. Mọi người thể hiện cuộc sống vừa thể chất vừa tinh thần, vừa tình vừa lý, vừa trí vừa nhân, vừa dũng cảm vừa hiền hòa, vừa lo ăn mặc vừa để thảnh thơi, vừa cho hiện tại vừa cho tương lai, vừa cho cá nhân vừa cho tập thể ... năm mươi theo mẹ năm mươi theo cha, song hiệp hoàn chỉnh.


* *

5.3 Gia Ðình là nền tảng sống thực và pháp triển toàn diện Cuộc Sống Con Người, mà cũng vừa là đơn vị cấu thành dân nước. Trong gia đình, vợ chồng sống vừa tình vừa nghĩa, vừa yêu thương vừa kính trọng, vừa thể xác vừa tinh thần, năm mươi Tiên năm mươi Rồng.

Vợ chồng luôn bình đẳng, cả khi cúng tế... Không có cảnh chồng chúa vợ tôi như văn hóa Hoa . Luôn theo tiêu chuẩn thuận vợ thuận chồng... Thích con trai mà thương con gáị Vô nam dụng nữ... có vợ chồng mà cũng có thân tộc. Có gia đình mà cũng có làng nước.


* *

5.4 Xã Hội có trên có dưới mà không có thống trị. Nay là dân, mai là quan, mốt lại là dân . Có khác biệt mà không có ngăn cách. Có nhân tước mà cũng có thiên tước. có giầu nghèo mà không có chế độ nô lệ.

Có pháp lý mà cũng có tình nghĩa... Bảo bọc che chở, đầy tình đủ lý... Có tập thể mà cũng có cá nhân. Có ta mà cũng có người. Có gần mà cũng có xa. Có nước mà cũng có nhà.


* *

5.5 Chính Trị. Có thể chế đặc thù gồm cả làng cả nước, nên vừa có vua quan mà cũng vừa có nếp sống dân chủ. Chăn dắt dân mà cũng tùy thuộc dân. Có lãnh đạo mà không có thống trị. Có triều đại mà không có giai cấp đặc quyền.

Có mưu lược mà cũng có đạo lý. Có uy nước mà cũng có tình dân. Có tài mà cũng có đức... Với người tại thế mà cũng với người khuất mặt.


* *

5.6 Kinh Tế. Mục tiêu chính là phát triển, để tất cả mọi người cùng được hưởng cơm no áo ấm và tăng trưởng trọn vẹn.

Có cần kiệm mà cũng có thảnh thơi. Muốn tiền của mà cũng chẳng sợ nghèo. Không chịu thiếu mà cũng chẳng chịu thừa.

Sự bình sản dựa trên cộng tác tương thân và cơ chế thích đáng, chớ không dựa trên đấu tranh hay bức chế. Theo chế độ rút thăm chia đất định kỳ, để vừa hữu sản mà cũng vừa vô sản. Không để kinh tế làm lũng đoạn Cuộc Sống Con Người, và gây nguy hại cho xã hội, cho làng nước.


* *

5.7 Quốc Phòng, Quân Sự. Giữ nước là việc của toàn dân. Làng xã vừa là đơn vị xã hội, vừa là đơn vị chiến đấu. Vừa là lũy tre làng vừa là thành trì chống giặc. Để giữ nước mà cũng để giữ nhà.

Có quân sĩ mà cũng có toàn dân. Đang là dân mà cũng đang là quân... Có võ mà cũng có văn. Có tài mà cũng có đức.

Vừa du kích mà cũng vừa diện địa. Vừa uy lực mà cũng vừa mưu lược. Vừa đánh giặc mà cũng lo cứu người.


* *

5.8 Niềm Tin. Sống đạo Người mà cũng sống đạo Trời. Vừa thờ Trời mà cũng vừa thờ Người. Đạo tại tâm nhưng trọng nghi lễ. Cho tập thể mà cũng cho cá nhân. Cho hiện tại mà cũng cho quá khứ vị lai... Cõi dương sao cõi âm vậy.

Lấy nếp sống truyền thống làm tiêu chuẩn hòa hợp tinh hoa các tôn giáo. Sẵn sàng đón nhận chân lý của tôn giáo, mà cũng quyết liệt gạt bỏ những thực hành không thích hợp.


* *

5.9 Tóm lại, Văn Hóa Việt đã đặt nền tảng trên Kinh Tiên Rống, trên nguyên lý Tiên Rồng Song Hiệp.

Ở những nơi và những thời xảy ra sự phối hiệp không hoàn chỉnh, hoặc thiên về bên này hay nghiêng về bên kia, đều là những giai đoạn hạnh phúc Con Người bị khiếm khuyết, như tình trạng nhân loại hiện nay.

Con đường sáng của dân tộc, cũng như của toàn thể nhân loại, là phục hưng và phát huy nền Văn Hóa Tiên Rồng của Tổ Tiên.

GHI CHÚ:

(*1) Cần chú ý đến sự khác biệt giữa câu chuyện truyền miệng và các bản văn. Về sự tích con cháu Tiên Rồng này, bản văn xưa nhất còn lưu truyền là bài Truyện Hồng Bàng trong Lĩnh Nam Chích Quái của Trần Thế Pháp viết cách đây hơn năm trăm năm (bản dịch Lê Hữu Mục, Huế 1960, tr 43-45).
Điều đáng tiếc là bản văn này đã vì những lý do văn hóa

(sẽ viết sau).
viethoaiphuong
#6 Posted : Thursday, September 11, 2008 5:08:20 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
Tiếng Gọi Bạn...

http://kimvo.net/TranQuocToan.htm
( bấm vào link này nghe ca khúc )

Ở mọi thời và mọi nơi, thanh niên luôn luôn là sức mạnh và là rường cột của xã hội. Ðó là việc dĩ nhiên, vì trước và sau tuổi thanh niên có ai muốn gánh vác việc lớn cũng trở thành khó khăn. Việc lớn không do người trẻ đảm trách, thì không lý lại giao cho người sức mỏi trí mệt hay giao cho các em chưa đủ thời gian khôn lớn. Tuổi thanh niên chúng ta, đặc điểm chính là chúng ta DÁM, dám thấy và dám làm.

Chúng ta dám, là dám thấy việc phải làm và dám làm việc đã thấy. Dám là dám đối diện với thực tại và dám nhìn thẳng vào tương lai. Dám là dám đương đầu với khó khăn và dám biến chướng ngại thành phương tiện. Dám là dám từ bỏ cái đang có để thực hiện điều cao qúy hơn. Dám là dám nhận trách nhiệm với chính mình, với gia đình, với dân tộc và với cả nhân loại.

Với những cái dám đó, chúng ta không chỉ dám bằng hứng chí, bằng hăng say, cũng không chỉ dám bằng lý trí, bằng suy tư, bằng chứng cớ, mà còn dám với tất cả tâm hồn, với trọn cuộc sống, tức là dám cảm nhận và dám sống thực với những cái dám của mình.

Dám là đặc tính của thanh niên. Chừng nào bạn còn dám, chừng đó bạn còn là thanh niên.

Là người Thanh Niên Việt hôm nay, chúng ta có dám không. Có dám nhận trách nhiệm đi làm lịch sử của Tuổi Thanh Niên của mình hay không? Nếu dám, bạn là thanh niên. Nếu không, dầu ở bất cứ tuổi nào, bạn cũng không còn là thanh niên.

Dám thấy chính mình, này người bạn trẻ, điều đầu tiên là chúng ta dám thấy tầm độ và giới hạn của mình, dám nhận ra khả năng và thân phận của mình trước thực tế cuộc sống. Nhưng đồng thời, cũng dám thấy tiềm năng của mình để dự phóng cho một tương lai tươi sáng hơn, khả quan hơn. Đó là bạn dám hãnh diện vì mình là mình.

Dầu rằng tùy theo tầm độ, nhưng chắc chắn mọi người thanh niên chúng ta đều có thể vượt tiến cao hơn. Tương lai tươi sáng hơn, tốt đẹp hơn, nếu chúng ta dám. Cái dám lớn hơn của thanh niên là dám thấy và dám khẳng định với chính mình, về trách nhiệm của mình đối với những người chung quanh. Bạn có dám không?

Chung quanh chúng ta, gần chúng ta nhất, là thân thuộc chúng ta. Thanh niên có dám thấy và dám hiên ngang nhận trách nhiệm của mình đối với gia đình. Trách niệm đó, không chỉ với người đang sống, mà còn có cả với người đã chết và với con cháu chưa sinh ra (quang tiền dư hậu).

Bạn có dám, dám làm cho gia đình bạn hãnh diện và sung sướng vì bạn không? Nếu có, bạn là Thanh Niên Việt Nam thế hệ ngày nay!

Và rồi, còn một cái dám quan trọng nhất, đó là thanh niên dám nhìn thẳng vào trạng huống của đồng bào, và của cả nhân loại. Bạn đừng quên chúng ta cũng là thanh niên của nhân loại.

Dân tộc chúng ta đang khốn khổ nghèo nàn, nhân loại đang bị các trào lưu suy thoái làm băng hoại. Bạn có dám thấy không? Có dám đối diện không? Có dám đương đầu không? Câu trả lời là tùy bạn. Nhưng nếu bạn dám, bạn xứng đáng là thanh niên, là rường cột của dân tộc và của nhân loại! Bạn đang khắc khoải vì đồng bào khốn khổ lầm than. Bạn đang băn khoăn vì mấy tỷ người nghèo đói bệnh tật.

Ðói nghèo, khốn khổ, không phải vì địa cầu thiếu tài nguyên, cũng không phải vì con người không đủ khả năng khai thác tài nguyên đó. Nhưng, như bạn đã biết, phần lớn loài người đang đói khổ cũng chỉ vì phần nhỏ kia ích kỷ, tàn ác và phá họai đời sống hạnh phúc loài người.

Núp dưới chiêu bài chủ nghĩa đấu tranh tiến bộ, một nhóm người dựa trên các chủ thuyết và thể chế khiếm khuyết để hoành hành thao túng. Dưới hình thức này hay hình thức khác, các chế độ hiện nay đều chỉ có một mục tiêu tối hậu là trợ giúp những kẻ có ưu thế và đặc quyền, được thêm phương tiện ép buộc kẻ khác phục vụ cho họ.

Ðó là nguyên nhân chính đã làm cho hầu hết nhân loại chịu cơ cực khốn đốn. Tất cả cũng đều do sự phân phối bất công, gây ra do những tham lam, những lạm dụng, những hoang phí, những hống hách của nhóm đặc quyền, ích kỷ hại nhân, chiếm ưu thế.

Vấn đề qủa thực căn bản, đến nỗi không thể chỉ giải quyết ở các khía cạnh như kinh tế, kỹ thuật hay chính trị, quân sự… Vấn đề chính là Cải Hóa Xã Hội, để mỗi người có thể sống cuộc sống một cách đích thực và trọn vẹn. Như thế có nghĩa là phải thay đổi các thể chế và cách sống hiện tại bằng một xã hội có cơ cấu và phương thức sinh hoạt đặt nền tảng đích thực và trọn vẹn trên mọi đặc tính của Con Người.

Vấn đề to lớn lắm phải không bạn? Dĩ nhiên việc của thanh niên là phải to lớn, vì còn là vấn đề của toàn thể nhân loại. To lớn nhưng không nan giải. Chúng ta đã thấy vấn đề và Văn Hóa Việt, được hệ thống hóa trong Bộ Kinh Việt, đã cho chúng ta phương thức giải quyết.

Mấu chốt còn lại là Bạn. Bạn có dám hay không? Bạn có dám dấn thân, có dám đương đầu, có dám biến chướng ngại thành phương tiện, hay không?

Bạn đang thấy đời sống chênh vênh, mất hết ý nghĩa, không nơi bám víu, không biết sống để làm gì. Bạn đang đau khổ vì con người bị hạ xuống thành thú vật, thành máy móc… Nhưng Bạn đừng lo, Văn Hóa Việt, tóm kết trong Bộ Kinh Việt, đã chỉ dẫn bạn sống đầy đủ ý nghĩa cuộc đời, sống một đời sống -- với chính bạn và với người chung quanh -- để bạn hưởng hạnh phúc, sống đầy đủ một cuộc sống thật sự là Con Người, đích thực và trọn vẹn.

Văn Hóa Việt, đúc kết trong Bộ Kinh Việt, cũng nêu mẫu mực hướng dẫn đời sống gia đình, với từng chi tiết, từng giai đoạn, từng vấn đề -- ngay từ lúc hai người nam và nữ sắp gặp nhau, cho tới từng cách đối xử, cách sống thực tình nghĩa... -- với nhau, cũng như với đại gia đình, với xã hội, với việc chung, việc nước.

Văn Hóa Việt cũng nêu lên từ những nguyên lý nền tảng, đến những nguyên tắc hành động, những cơ chế, những hình thức, những chương trình chi tiết ứng dụng trong đời sống... -- với mẫu mực cho từng người, từng gia đình, từng nhóm người, từng cộng đồng địa phương, cho cả nước, và cho cả nhân loại… -- ở trong từng lãnh vực, từng tầm độ trách nhiệm, từng công tác, từng giai đoạn… -- cho những người trách nhiệm tối cao, cũng như cho mọi cấp liên hệ... Tất cả được liệt kê rõ ràng, lớp lang, thống hợp và thực tế ngay trong cuộc sống.

Văn Hóa Việt chúng ta, người Việt Nam chúng ta, Thanh Niên Việt chúng ta, đang nắm giữ bí quyết hạnh phúc của nhân loại! Chúng ta đang cầm trong tay chìa khóa giải thoát nhân loại khỏi ngục tù các chủ nghĩa hôm nay. Và chúng ta đã sẵn sàng, đã chia nhau đi khắp nơi trên thế giới để đem ánh sáng mới cho nhân loại, mở đầu một kỷ nguyên thanh bình an lạc đích thực, xứng với Con Người!

Bạn ngỡ ngàng sao? Này đây: Nguyên nhân chính của thảm họa nhân loại hôm nay là vì các chủ thuyết hiện thời đã nhận định sai lạc về Con Người, và do đó đã đặt nền tảng gỉa tạo cho Xã Hội loài người. Khi quan niệm con người chỉ là con thú tiến bộ hay chỉ được đối xử như một sinh vật tiêu thụ và sản xuất, khi chỉ nhìn nhận con người với một số đặc tính và chối bỏ các đặc tính khác, khi chủ trương con người đối xử với nhau bằng hận thù, bằng đấu tranh, bằng mánh khóe đạp lên xác nhau mà tiến… thì làm sao con người có thể an vui hạnh phúc?

Nhưng may mắn thay cho nhân loại: Văn Hóa Việt, mà tinh hoa đúc kết sơ khởi trong Bộ Kinh Việt, đã có giải pháp thích đáng cho tất cả! Đã có nhiều chi tiết ở bản văn Bộ Kinh Việt, và nơi đây chúng ta vắn tắt số điểm chính yếu.

Điểm quan trọng đầu tiên là giải quyết những sai lầm nền tảng về Con Người và về Xã Hội Loài Người. Vấn đề đã được giải quyết thỏa đáng trong tinh túy của câu chuyện Con Cháu Tiên Rồng, tương đồng tuyệt đối, 50 con theo mẹ 50 con theo cha, và qua biểu tượng mọi người ở trong Một Bọc chứa một trăm anh em ruột thịt. Kinh Tiên Rồng là bản nhận diện chính xác và trọn vẹn về con người và về xã hội loài người.

Qua Kinh Tiên Rồng, chúng ta nhận ra Con Người là một hiệp thể gồm cả bốn Sức Sống thân lực, trí năng, lẫn tâm tình và tuệ linh. Con Người toàn nhất, tự tại, bất khả phân, nhưng đồng thời Con Người cũng bẩm sinh là thành phần của xã hội. Trong cùng một lúc, khởi sự có Con Người là có 100 người. Không hề có Con Người đơn độc như những nền văn hóa khác.

Với Kinh Tiên Rồng, chẳng những chúng ta giải quyết được những xung đột và sai lầm của chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tập thể, mà còn giúp chúng ta thay đổi vận hành thế giới thoát cơn tao loạn của chủ trương đấu tranh sinh tồn hay mâu thuẫn nội tại. Ở cấu thành cũng như ở mọi sinh hoạt của con người, luôn luôn phải có sự hòa hiệp đúng đắn và đầy đủ, Song Hiệp, giữa hai cấu tố tương đồng, được biểu trưng qua Tiên và Rồng, như giữa cá nhân và cộng đồng, giữa gia đình và làng nước, giữa vật chất và tinh thần, giữa tình và lý, giữa vợ và chồng, giữa kinh tế và đời sống...

Các chủ thuyết hôm nay đã thất bại trong cố gắng tiêu diệt bất công, vì chúng đã tạo ra những giai cấp mới! Chúng lầm tưởng chúng đã giải phóng Con Người, thì thực tế chúng lại nô lệ hóa Con Người khủng khiếp hơn. Nhưng Kinh Chữ Đồng của Văn Hóa Việt, với chàng Chữ Đồng không khố và nàng công chúa Tiên Dung, đã đưa ra, chẳng những quan niệm mà còn nguyên tắc sống và phương thức hành động, để xã hội được thực sự bình đẳng, loại trừ giai cấp, loại trừ đặc quyền, loại trừ lạm dụng, ỷ lại quyền thế, kỳ thị chủng tộc…

Có thể bạn ngạc nhiên. Nhưng mọi sự rành rành ra đó. Bạn cứ việc tìm hiều và phê phán. Chắc chắn bạn sẽ xác tín, sẽ hãnh diện.

Bạn đang ngao ngán vì thế giới đầy hận thù, gian xảo, lường gạt, mạnh được yếu thua. Bạn thấy rõ thế giới băng hoại vì tình người biến thành tình khỉ đột, tranh ăn dành thắng, vì gia đình bị suy thoái, tan rã, vì Con Người ngày thêm cô độc, đơn côi, bơ vơ vất vưởng! Nhưng này bạn, Kinh Trầu Cau đã đặt nền tảng cho sự liên hệ đích thực giữa Người và Người, cũng như cho cách sống thực những mối ràng buộc thiết yếu, thực tại và cao qúy của Con Người.

Không phải chỉ lý thuyết suông, mà còn là những phương thức thực tế, áp dụng từ trong cội nguồn tâm tư, đến việc thể hiện nơi cuộc sống hàng ngày và thành quả sinh động trước mắt... Bạn thấy quan niệm sống cũ, dựa trên nhân nghĩa lễ trí tín, cũng đã mất hết ý nghĩa? Bạn có biết tại sao không? Bạn đang nắm chìa khóa để giải quyết đó.

Hơn ai hết, bạn có kinh nghiệm chua cay về những thể chế độc tài đảng trị. Bạn đã ghê tởm những cán bộ hống hách. Bạn cũng thấy rõ những tệ đoan của xã hội dân chủ chuyên chế ở nhiều quốc gia, với nạn dân chủ đấu thầu dựa trên quảng cáo, mị dân, và đầy dẫy thủ đoạn. Chắc chắn bạn ngao ngán khi thấy nhan nhản bọn gian manh len lỏi nắm được quyền chức, để rồi chúng dùng mánh khóe đặt ra đủ thứ điều luật và dành mọi ưu tiên, đặc quyền cho chúng.

Bạn nên biết rằng, với hai Kinh Tiết Liêu và An Tiêm, với tinh thần và thể chế phân biệt rõ ràng hai hệ thống tổ chức Nước và Làng, Tổ Tiên ta đã đặt nền tảng vững chắc cho một nếp sống dân chủ đúng nghĩa, trung thực và thực tiễn, bảo đảm hữu hiệu và vững chắc cho cuộc sống tự do và hạnh phúc cho mọi người.

Bạn thấy cảnh trọng nam khinh nữ, nhiều khi đến quá đáng, lố bịch. Chúng ta cũng đã nghe rộn ràng về phong trào giải phóng phụ nữ, để rồi ngày nay thấy kết quả là: với phong trào đó, người phụ nữ, sau khi thoát khỏi bốn vách nhà, thì lại bị tha hóa nhiều hơn, bị đối xử như đàn ông, bị biến thành đàn ông.

Bạn thấy đời sống gia đình đang bị hủy diệt. Tình yêu nam nữ bị xuyên tạc thành trò chơi tình dục dơ nhớp đê tiện. Con người bị kéo ra khỏi tổ ấm, để chỉ còn là những con thú đơn độc bơ vơ trước quyền lực cai trị máy móc vô tâm. May thay, Văn Hóa Việt với Kinh Vọng Phu, chẳng những đã xóa bỏ sự phân cách gỉa tạo, mà còn đưa phương thức thể hiện trọn vẹn các chức năng nam nữ, trong cuộc sống gia đình cũng như ngoài xã hội, giúp tạo nên một nếp sống hạnh phúc cho con người.

Tiến bộ khoa học kỹ thuật và kinh tế đã giúp đời sống vật chất thêm nhiều thoải mái, tiện nghi. Nhưng này bạn, bạn lại đang khổ tâm khi thấy cơ khí đã lấn áp và nhận chìm tâm hồn con người. Bạn không thể chịu nổi cuộc sống nô lệ cho máy móc. Bạn nổi loạn khi phải ngoi ngóp trong xã hội được khuôn rập theo các phản ứng và cách sống đã khảo sát nơi thú vật. Thì đây, Kinh Trương Chi chỉ cho bạn sống cuộc sống đích thực Con Người, với tâm hồn chứa chan tình cảm, với hạnh phúc đích thực, tràn đầy ý nghĩa và đáng sống.

Bạn chán ngán trước sự tranh thắng của các chủ nghĩa và triết thuyết hôm nay. Nào là duy tâm, duy linh, duy nghiệm, duy vật, duy lý... nào là chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa tập thể, chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa bá quyền... và thứ nào cũng cho mình là đúng, cũng tranh phần thắng… để rồi chính nhân loại, chính Con Người, ngày một khốn khổ hơn, lụn bại hơn, tha hóa hơn.

Này bạn đã từ mấy ngàn năm nay, Tổ Tiên cũng đã đồng ý với bạn, và cũng đã lên án tất cả các chủ thuyết và chủ nghĩa khiếm khuyết đó! Chẳng những Tổ Tiên lên án, mà còn chỉ cho chúng ta thấy nguyên nhân, cũng như tiến trình và hậu quả tai hại của chúng đối với Xã Hội loài người, cũng như đối với mỗi một Con Người! Tất cả đều rõ ràng trong Kinh Mỵ Châu với câu chuyện bi thương cùa An Dương Vương, Mỵ Châu và Trọng Thủy.

Và rồi, vì thấy rõ sự tha hóa con người như thế, Tổ Tiên lại cũng đã thương cho chúng ta cả một sách lược cứu nguy nhân loại. Kinh Phù Đổng chẳng những dạy phương thức cứu nước cho mỗi người, cho tổ chức và cho cả dân tộc, mà đồng thời, lồng trong đó, còn là một kế hoạch vĩ đại cho việc Cải Hóa Con Người và Cải Hóa Xã Hội Loài Người.

Kinh khởi sự với những việc nêu rõ những điều kiện, những đức tính cần thiết để cải hóa từng người, rồi từ một người tới một tổ chức, từ một tổ chức đến mọi người khác. Kinh duyệt qua từng giai đoạn, từng công tác, từng hành động... -- từ việc vận động tinh thần, tới các điều kiện đoàn kết, qua phương thức phát hiện tiềm năng, đến cách thế điều hợp, ứng biến và tập trung sức mạnh.

Kinh còn nêu rõ vấn đề vai trò của các chủ lực, của toàn dân, của tổ chức, của phương tiện... rồi cả những thái độ và những phương thức để khỏi rơi vào nạn lộng quyền, áp bức. Tất cả đều được chỉ dẫn từng bước cụ thể, từng giai đoạn thực tế, để từng người, từng nhóm người và toàn thể nhân loại, trở về với Con Người đích thực và để Xã Hội cũng được trở thành đích thực, trọn vẹn là xã hội của loài người.

Tóm lại, với chín Kinh của Bộ Kinh Việt, Văn Hóa Việt đã nhận định và phân tích đích xác về chính Con Người và đang sống động hiện thực, cũng như về mọi trạng huống của đời sống Con Người, và đã đưa ra những nguyên tắc và những mẫu mực làm nền tảng cho cuộc sống an lạc hạnh phúc. Đây chính là con đường mà nhân loại đang khổ công tìm kiếm. Và đây cũng là sứ mạng của Dân Tộc Việt Nam đối với tương lai nhân loại.

Chúng ta vui mừng vì nhân loại đã có lối thoát, chúng ta hăng say với sứ mạng cao cả. Nhưng này bạn, chúng ta khởi sự từ đâu? Dĩ nhiên là từ bạn, từ chúng ta, từ chính con người của mỗi chúng ta. Nhưng cùng với chúng ta, trong chúng ta, trước sứ mạng cao cả đối với toàn thể nhân loại, còn phải có dân tộc Việt Nam.

Thời đại mới của nhân loại khởi nguồn từ Văn Hóa Việt, từ dân tộc Việt. Vì vậy, hơn bất cứ dân tộc nào khác trên thế giới, người Việt Nam, dân tộc Việt Nam, có nhiều điều kiện, và sẵn sàng nhất để làm mẫu mực và phát huy công cuộc cải hóa trọng đại này. Dầu không ý thức rõ ràng và đầy đủ, mọi người Việt Nam, từ trong máu, trong quan niệm sẵn có, trong cách suy tư và phản ứng truyền thống, đã và đang sống tinh hoa văn hóa của Tổ Tiên.

Giờ đây, chỉ cần minh định một cách có hệ thống và thực tế, là bất cứ người Việt Nam nào cũng có thể dễ dàng phục hồi và phát huy nếp sống đem hạnh phúc đích thực cho Con Người.

Dân tộc Việt Nam, đất nước Việt Nam là cái nôi, là cội nguồn, là mầm sống phát sinh một thời đại mới cho nhân loại, thời đại mà Con Người được sống trọn vẹn chính mình, trong phát triển, an lạc và hạnh phúc đích thực. Thế nên, sứ mạng của thanh niên, trong giai đoạn này, là phục hưng và phát huy nếp sống Con Người Toàn Vẹn đang tiềm tàng trong dân tộc Việt Nam, để làm mẫu mực và đà tiến cho toàn thể nhân loại.

Thế nhưng hiện nay dân tộc Việt Nam đã bị thủ tiêu nếp sống con người, băng hoại xã hôi và xóa bỏ văn hóa dân tộc, bóp chết mầm sống hạnh phúc của nhân loại. Vì vậy, công tác đầu tiên của thanh niên, như bạn đã thấy, chính là chúng ta phải giải cứu dân tộc Việt Nam. Công tác này chẳng những ưu tiên và khẩn thiết, mà còn là trách nhiệm cao cả của bất cứ ai đang thao thức về kiếp sống Con Người.

Vì đã mang sẵn trong bản thân, dầu tiềm tàng, một nếp sống phát huy con người đích thực và trọn vẹn, nên hơn bất cứ dân tộc nào khác, người Việt Nam, từ quan niệm sống, tới cách thức xử sự, liên hệ tình cảm, và đời sống tâm linh, đều hoàn toàn khác xa và trái ngược với chủ trương duy vật duy lợi. Và cũng vì vậy, người Việt Nam đang phải gánh chịu khổ nạn một cách nặng nề hơn bất cứ dân tộc nào khác, chẳng những nặng ở phần vật chất, mà đặc biệt nặng ở phần tinh thần, phần tâm hồn Con Người.

Vì vậy, nếu chỉ với tính cách con người đau khổ, thì trong hiện tại, dân tộc Việt Nam đang cần được giải cứu sớm nhất. Nếu nhìn về tương lai, thì tất cả mọi người đều có bổn phận giải thoát mau chóng dân tộc Việt Nam, để cứu vãn cứ điểm cuối cùng, mà cũng là mầm sống trong thời đại mới của nhân loại.

Nếu không được hơn tám chục triệu dân Việt, ở trong cũng như ngoài nước, làm mẫu mực và huy động, nhân loại sẽ bị chậm bước trên đường tiến vào kỷ nguyên an lạc thanh bình, nhiều tỷ người sẽ phải kéo lê thêm cuộc đời thú vật khổ đau. Giải cứu dân tộc Việt Nam thoát tai kiếp hôm nay, chính là khởi công giải cứu nhân loại khỏi kiếp sống khốn cùng bất xứng, và giúp đưa mấy tỷ con người mau tới hạnh phúc đích thực.

Với tư cách Thanh Niên Việt, chúng ta còn mang trọng trách nặng nề hơn bất cứ ai khác. Với dân tộc đồng bào, ngoài liên hệ giữa người với người, chúng ta còn liên hệ mật thiết chẳng những về giòng giống, máu mủ, thể xác, mà còn cả tinh thần, tâm tư, văn hóa… Hơn bất cứ ai khác, người Thanh Niên Việt phải là người cảm thông nhiều nhất về khổ đau mọi mặt của đồng bào mình. Hơn bất cứ ai khác, chúng ta phải là người xác tín trọn vẹn về sứ mệnh của mình đối với dân tộc, cũng như về sứ mạng đặc biệt của dân tộc đối với nhân loại.

Người Thanh Niên Việt, hơn bất cứ ai khác, mang sứ mạng tối cao để dấn thân cho tiền đồ của dân tộc và của toàn thể Nhân Loại. Sứ mạng thực trọng đại, công tác thực to lớn và phức tạp. Nhưng khi chúng ta là thanh niên, khi chúng ta dám, dám nhìn thẳng vào tương lai và dám hiên ngang nhận lãnh sứ mạng, thì chắc chắn chúng ta sẽ thành công.

Viễn ảnh thành công của chúng ta, này bạn, không căn cứ trên cơ hội thuận lợi hay phương tiện dồi dào, nhưng nhờ ở chúng ta nhất quyết dấn thân và có sẵn sàng những phương thức hữu hiệu. Chúng ta chắc chắn thành công vì, ở Kinh Phù Đổng, Tổ Tiên linh hiển đã để lại cho chúng ta cả một kế hoạch chi tiết từng bước, từ khởi đầu cho đến chung cuộc. Dĩ nhiên, việc cứu nước là của toàn dân. Nhưng không thể có toàn dân, toàn dân không thể đồng tâm nhất trí, nếu không có một nhóm người giúp gây lại ý thức và điều hợp tổng quát. Do đó, Kinh Phù Đổng đã khởi đầu với chính Bạn. Bạn là hiện thân của Vua Hùng. Giờ đây mỗi người chúng ta, cũng như Vua Hùng, đang quyết tâm tận lực cứu Dân cứu Nước.

Và cũng như với Vua Hùng, Kinh xác định những đức tính thiết yếu của chúng ta, là dám nhận thực hiện trạng phũ phàng, dám tin tưởng tuyệt đối vào sức sống siêu việt của truyền thống văn hóa dân tộc, dám lột xác để thích ứng với mọi tình thế mới, và dám dấn thân, quyết làm đến thành công. Kinh Phù đổng đã đề ra cả một sách lược chi tiết để cứu nước thành công. Nhưng điều kỳ diệu là, ở Kinh Phù Đổng, công cuộc Cứu Nước và Cải Hóa Xã Hội lại lồng chung làm một với nhau.

Khi chúng ta theo đúng sách lược Phù Đổng mà thực thi sứ mạng cứu nước, thì đồng thời cũng chính là lúc chúng ta thể hiện chương trình cải hóa xã hội hiện hữu. Khi chúng ta vận động tinh thần dân tộc, thức tỉnh mọi người đứng lên nhận lãnh trách nhiệm của mình, khi chúng ta vận dụng tập trung sức mạnh và phương tiện để dân tộc vươn vai, để mọi tài nguyên trở thành sức thần phá giặc... thì kết qủa tất nhiên là chúng ta giải cứu được quê hương thoát nạn nội xâm, nhưng đồng thời đó cũng chính là lúc chúng ta cải hóa con người, từ những tâm tư sâu thẳm nhất cho đến mọi khía cạnh trong cuộc sống thực tại.

Khi sống thực theo Văn Hóa Việt, khi hoạt động cứu nước, là lúc chúng ta thể hiện trọn vẹn chính Con Người của mình trong cuộc sống, chúng ta hưởng hạnh phúc ngay trong khi thực thi sứ mạng của mình. Và như thế là, chúng ta khởi đầu cuộc sống đích thực của Con Người trong Thời Đại Mới.

Mặt Trời Văn Hóa Việt đã bừng lên soi sáng nhân loại, bí quyết giải cứu Con Người đang ở trong tay chúng ta. Con đường đã vạch, phương thức đã sẵn, giờ hành động đã điểm, Người Thanh Niên Việt Nam tiến lên! Đem ánh sáng thần diệu Tiên Rồng mở đầu Một Kỷ Nguyên Mới.


VB_PVB
Répondre Transférer
viethoaiphuong
#7 Posted : Thursday, September 11, 2008 6:19:14 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
Đưa Người Vào Lịch Sử

Đinh Tấn Lực

Quả thật đảng ta có rất nhiều cách sáng tạo để đưa người vào lịch sử. Nhiều vô kể. Hồ hởi biết bao! Phấn khích dường nào! Lê Văn Tám chỉ là một ép-si-lôn. Chứ không thì ta đã chẳng từng có thành ngữ biến thành khẩu hiệu “ra ngõ gặp anh hùng”. Tiếc thay, những tháng ngày rậm rực đó đã qua mau, qua vội, qua mất biệt thiệt rồi. Nay, vào thời A-còng sang A-péc tới chạm ngưỡng Vê-kép-Tê-O, thực tiễn lại đổi mới hai từ “ra ngõ” thành “ra tòa”.
Hãy kiểm thử một đoạn trí nhớ:
Từ Ts Nguyễn Thanh Giang đến Ts Nguyễn Xuân Tụ.
Từ Bs Phạm Hồng Sơn đến Lm Nguyễn Văn Lý.
Từ Ms Nguyễn Công Chính đến Dn Phạm Bá Hải.
Từ Nb Nguyễn Vũ Bình đến Ls Lê Quốc Quân.
Từ Ls Nguyễn Văn Đài đến Ls Lê Thị Công Nhân.
Từ Ks Nguyễn Thế Vũ đến Ts Nguyễn Quốc Quân.
Từ Pv Nguyễn Thị Thanh Vân đến Nv Trần Khải Thanh Thủy.
Từ Ms Nguyễn Hồng Quang đến Ls Trần Thị Thùy Trang…
Và rất nhiều người khác nữa, nhớ không xuể, kể không hết.
Hầu hết đều ra tòa.
Hầu hết đều bước chân vào lịch sử bằng phong thái đởm lược trong những trường hợp khác nhau. Có người, có thể là nhân vật đầu tiên của cả thế giới, và được cả thế giới biết đến, vì đã bị một bàn tay vũ phu bịt miệng giữa tòa và ngay trước ống kính truyền hình. Có người, cũng có thể là lần đầu tiên trong loài người văn minh, vì bài dịch một định nghĩa trên mạng của sứ quán nước ngoài. Có người, lần đầu tiên vượt mặt bộ Công an nước nhà, tán phát cuộn băng ghi âm toàn bộ cuộc thẩm vấn ra tới các đài phát thanh ở nước ngoài. Có người, cần được ghi vào sử sách Guy-nét Việt Nam, đã bị một nữ sĩ quan công an thẩm vấn lột truồng vê hạ bộ… v.v…
Hầu hết đều bị bạo quyền phủ trùm lên hoạt động xã hội của họ một tội danh hình sự hay kinh tế. Cho dù dàn báo chí chính quy vẫn rầm rộ luân phiên khuếch âm lời lên án chính trị họ là “tên”, “bọn”, “lũ”, “bè lũ” phản động, khủng bố, hay tay sai thế lực thù địch nước ngoài….
Gần nhất là Blogger Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, bút danh Hoàng Hải. Bị đảng và nhà nước ta ghim vào sổ đen về “tội” công khai bày tỏ lòng yêu nước, tham gia các cuộc tuần hành phản đối Trung Quốc tóm thu một phần Vịnh Bắc Bộ cùng các đảo trong hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của ta. Bị đảng và nhà nước ta, đặc biệt là bộ Bốn Tờ, chiếu cố về “tội” công khai cầm bút ngoài luồng, nhất quyết không khép mình vào hành lang lề phải mà Bộ trưởng Lê Doãn Hợp và Thứ trưởng Đỗ Quý Doãn đang canh giữ. Bị đảng và nhà nước bắt giam ngay trước khi ngọn đuốc thế vận Bắc Kinh tạt ngang Thành Phố một cách “an toàn và trọng thị”. Nhưng lại bị ra tòa xử kín với một tội danh kinh tế.
Điếu Cày cũng là nhân vật đầu tiên trong lịch sử nước ta bị áp án sơ thẩm 2 năm rưỡi về tội “trốn thuế cho thuê nhà gây nguy hiểm cho cộng đồng”.
Đội tuyển nhà nước đã giăng dây và bày binh bố trận khắp sân rồi sau đó tự ý đá thủng lưới nhà: Lại thêm một lần nữa, đảng và nhà nước ta sử dụng đòn vọt trong nhà để che dấu mọi khuất tất ngoài ngõ. Lần này còn là để tung khói mù khỏa lấp mối đe dọa đốt nhà từ thằng bụng phệ hàng xóm. Biết đâu còn là một món quà khấu tặng đứa hàng xóm hung hăng đó nữa.
Đã bảo là đảng và nhà nước ta có lắm chiêu thức sáng tạo tài tình để đưa người vào lịch sử mà! Chỉ có cái bản chất côn đồ của nó thì vẫn trước sau không đổi.
Sáng sớm 10-9-2008, lực lượng an ninh thành phố đã cho bố trí quanh tòa án quận 3 một đội ngũ công an và đầu gấu như thể quân đội đồng minh đổ bộ Normandie ngày D. Một số đồng bào đã được công an huơ dùi cui mời về nhà hoặc “xéo ngay đi!”, kể cả thân nhân của nghi can có giấy mời của tòa. Một số khác bị chận từ nhà hoặc trên đường từ nhà đến tòa án.
Do đó, phụ bản của khẩu hiệu “gặp anh hùng” trong thời đại này còn là “trên đường ra chứng kiến các phiên tòa chính trị” nữa.
Phôn nháy liên tục. Những tin nóng truyền tai bảo rằng các Bloggers Uyên Vũ, Trăng Đêm, Song Chi, Tạ Phong Tần, Thiên Sầu, Đông A… đều bị công an gây khó dễ trên đường đến dự phiên tòa.
Bạn Đông A bị CA canh giữ suốt, ngay tại văn phòng. Đến khi Đông A tìm cách tự giải phóng để đi đến tòa án Q3, thì CA đến nhà Đông A bắt ông thân sinh của bạn ấy đi lên tòa để buộc Đông A phải quay về nhà.
Trăng Đêm bị giấy mời lên CA Q6, không ghi lý do.
Thiên Sầu thì bị bắt ngay tại cổng tòa án Q3 và bị đưa về CA phường 6 quận 3 cho đến 1 giờ trưa…
AnhBaSG thì bị CA chận lại lúc đang trên đuờng đưa con đi học sáng nay, và sau đó bị đưa vào đồn CA Kinh Tế cho đến giờ chấm dứt phiên tòa mới được thả ra.
Dù đang ngồi trong nhà giam, dù bị cản ngang chận dọc trên đường tới tòa, hay dù đang đứng bào chữa giữa tòa, họ đều là những con người nhất quyết không cúi đầu trước dối trá hay cong gối trước bạo quyền. Tất cả đều là những người chân trong chân ngoài bước vào lịch sử, cho dù đảng ta có phải hé cổng hay không.
Họ không đang đọc sử hay chép sử.
Họ đang viết sử, bằng tâm huyết với con em, nhiệt thành với bằng hữu, chân tình với sự thật, và nặng lòng với đất nước.
Họ viết sử bằng niềm tin, bằng tình người, bằng tay không, bằng yêu thương, và bằng chính nghĩa.
Họ viết sử bằng cách rọi đèn vào các ngóc ngách tăm tối của từng chính sách.
Họ viết sử bằng những tờ truyền đơn cổ võ đấu tranh bất bạo động.
Họ viết sử bằng tấm bản đồ mến yêu in trên ngực áo.
Họ viết sử bằng lời khẳng định cương thổ sơn hà trên nón bảo hiểm.
Họ viết sử bằng lời từ chối lệnh trục xuất cho đi tỵ nạn nước ngoài.
Họ viết sử bằng biểu ngữ căng trên nóc nhà thờ: “Tự Do Hay Là Chết”.
Họ viết sử bằng cả những trực diện đau đớn thân xác và căng thẳng thần kinh với những tay lưu manh, côn đồ, đầu gấu xã hội đen cho dù có mặc hay không mặc sắc phục, có đeo hay không đeo quân hàm, có cầm hay không cầm dùi cui, roi điện.
Không thể không tính sổ về những điều này trong cái giá phải trả cho Tự Do Dân Chủ của dân tộc và cho sự vẹn toàn lãnh thổ của đất nước.
Không thể nào quên được. Cái giá này rất lớn.
11-9-2008
Đinh Tấn Lực – Chung cư Nguyễn Thiện Thuật – Q3 – TP/HCM.
viethoaiphuong
#8 Posted : Monday, September 15, 2008 5:35:26 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
Hào Khí Diên Hồng Có Thực Cao Hơn Thế Không?

Đây là một cuộc giằng co tam giác: Hà Nội - Bắc Kinh – Việt Tộc.


Hà Nội thẳng tay khủng bố Việt Tộc, nhưng lại khấu đầu thần phục Bắc Kinh.


Bắc Kinh không ngán đàn em Hà Nội, chỉ ngại tính bất khuất kiên cường của Việt Tộc.


Việt Tộc bị trói tay bởi chính quyền của họ, nhưng nhất định không sợ Tàu khựa.


Trong cuộc chơi tay ba đó, khi người dân Việt không sợ chính quyền của họ nữa, thì đó chính là lúc họ chuyển nhượng trọn vẹn cho nhà cầm quyền Hà Nội cả hai nỗi sợ: vừa sợ quan thầy, vừa sợ nhân dân.


Rõ ràng là Dân Việt không sợ chính quyền của họ nữa: Họ sẵn sàng đi tù!


Kể ra cũng không dễ dàng gì…


Tại linh địa Thái Hà, các giáo dân đã nhẫm lời Thánh Phêrô: "Lạy Chúa, với Chúa, con sẵn sàng vào tù và có chết cũng cam", rồi đọc một đoạn lời Chúa: "Vậy anh em đừng sợ người ta. Thật ra, không có gì che dấu mà sẽ không được tỏ lộ, không có gì bí mật, mà người ta sẽ không biết. Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng" (Mt 10, 26-27).


Điều đó đã được LM Jos. Hoàng Kim Toan giảng rộng ra: Đừng Sợ! Đó là lời mời gọi của Chúa hôm nay, đi cùng với Chúa, sống là sống cho Ngài và chết cũng là chết cho Ngài nên chẳng còn gì sợ hãi. Hãy can đảm lên!


Điều đó đã từng được Đức Tổng giám mục Hà Nội Ngô Quang Kiệt khẳng định vào cuối năm 2007, trong cuộc cầu nguyện 40 đêm ngày để đòi lại đất Toà Khâm Sứ Hà Nội: "Nếu có ai vì cầu nguyện mà phải đi tù, thì tôi sẵn sàng đi tù thay cho họ!".


Điều đó lại được Đức Giám mục địa phận Thái Bình Nguyễn Văn Sang tái khẳng định mới đây bằng lời tuyên bố là "Xin chào tất cả mọi người, tôi sẽ đi tù!", khi ngài được phỏng vấn về việc nhà cầm quyền đe dọa "sẽ xử lý những ai tới cầu nguyện ở mảnh đất đang tranh tụng ở Thái Hà?".


Điều đó không chỉ là cách bày tỏ của những vị chủ chiên. VietCatholic News trích thuật điện thư của một giáo dân cho biết: "Tại Dòng Chúa Cứu Thế ở Thái Hà, các tu sĩ đã dọn dẹp nhà cửa, sắp xếp ngăn nắp tài liệu, kinh sách... chuẩn bị cho việc công an bắt các cha và kèm theo khám nhà Dòng. Có tin từ công an đưa ra ngoài là người mà Công an đang nhắm tới và muốn bắt đầu tiên là linh mục NVK"…. "Chúng tôi đã chuẩn bị cho việc công an sẽ bắt thêm những người 'tích cực' tham gia, tình nguyện hướng dẫn anh em giáo dân khắp nơi về cầu nguyện. Những người này đang gói ghém đồ đạc để mang theo nếu phải vào tù. Họ cũng thu dọn nhà cửa, chuẩn bị người ở nhà để khi công an bắt, khám nhà có người ở lại trông nhà".


Điều đó có nghĩa là mọi người, cả giám mục, linh mục và giáo dân Công Giáo Việt Nam… đều đã sẵn sàng vào tù để tranh đấu cho quyền tự do hành đạo và đòi lại tài sản bị chính quyền CSVN cưỡng đoạt nhiều thập kỷ qua. Riêng trong ngày 10-9-2008 (cùng ngày với phiên tòa áp án Blogger Điếu Cày ở Sài Gòn), đã có ba giám mục cùng đến Thái Hà dâng lễ cầu nguyện cho Tu viện Thái Hà của Dòng Chúa Cứu Thế giáo xứ Thái Hà và các giáo dân đang bị công an giam giữ.

Điều đó đã giảng giải thật rõ ý nghĩa của Thông Điệp Thái Hà: "…Đã đến lúc chúng tôi muốn một giải pháp, và phải là một giải pháp công bằng chúng tôi mới chịu. Chúng tôi tranh đấu trong ôn hoà, nhưng chúng tôi tranh đấu". (Pascal Nguyễn Ngọc Tỉnh, ofm).


Điều đó đã được tác giả J.B. Nguyễn Hữu Vinh đúc kết và vinh danh tinh thần Thái Hà lẫm liệt bằng một câu hỏi: "Vậy với hệ thống súng đạn, nhà tù của nhà nước sao không phát huy tác dụng? Kể ra cũng không dễ dàng, khi (giám mục, linh mục và giáo dân) họ sẵn sàng vào tù, sẵn sàng chịu chết, nếu chính nhà nước muốn phong Thánh cho họ".


Gian nan là nợ anh hùng phải vay…


Điều đó đã từng xảy ra và thành công nhiều nơi khác nhau trên thế giới từ thế kỷ trước.


"Ngay từ thời khởi động các cuộc đấu tranh bất bạo động bên Ấn (sau cuộc bộ hành ra biển muối của Thánh Gandhi), khi mà người dân lũ lượt xếp hàng để (sẵn sàng chịu đòn dùi cui và) sẵn sàng vào tù, thì những hù dọa tạo sợ hãi cũng đã là chuyện cổ tích. Ở vào thời đại mà nội dung thẩm vấn của công an (Việt Nam) đã lần lượt lên mạng toàn cầu, và người dân nhắc nhau cùng mặc áo trắng ra đường để bày tỏ thái độ đối đầu bất bạo động với một chế độ độc tài độc đảng, thì xem ra thì những đòn hù dọa dơ bẩn đó càng mang nặng tính cổ tích". Tác giả Trần Ngọc Hà đã viết như thế trong bài Xú Quyền (tháng 2-2007).


Trong cuộc đấu tranh đòi hỏi bình quyền cho người da đen ở thành phố Nashville bên Mỹ, sinh viên trường đại học ở đó (cả da đen lẫn da trắng) đã luyện tập và thực hành các kỹ thuật đấu tranh bất bạo động, bao gồm cả kỹ thuật "làm đầy các nhà tù" và cùng lúc, làm đầy các trang báo. Họ sẵn sàng vào tù và đã lần lượt vào tù, đến mức thành phố không thể quản lý (nói theo cách của BT Lê Doãn Hợp là không thể …quản có lý) nổi tập thể sinh viên tình nguyện đi tù đó. Sau cùng, họ thành công, đồng loạt cất bước ra khỏi nhà tù để nghe viên thị trưởng công nhận quyền bình đẳng của người da màu tại đây. Họ trở thành những sinh viên tiên phong cho phong trào tranh đấu giành quyền bình đẳng cho người da đen trên toàn nước Mỹ vào đầu thập kỷ 1960s.


Điều đó cũng từng xảy ra từ trước, ngay trên đất nước này.


Hãy lướt qua một đoạn ở bài Chui trong sổ tay thường dân của tác giả Tưởng Năng Tiến (từ hồi tháng 10-2001): "Tương tự, tu sĩ và giáo dân của mọi tôn giáo cũng thôi kiếp sống chui nhủi mà họ đã phải chịu đựng từ hơn nửa thế kỷ qua - như thuyết pháp chui, giảng đạo chui, cầu nguyện chui, dự lễ chui, phong chức chui. Họ đã cương quyết đứng lên đòi lại quyền 'tự do tôn giáo hay là chết', và sẵn sàng vào tù hay tự thiêu để bày tỏ sự quyết liệt của mình".


Bức Thông Điệp Phật Đản PL 2551 của Đức Đệ Tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang có viết về một mùa hoa Vô Ưu nở rộ trong thời Pháp Nạn: "Chừng nào dân tộc Việt Nam chưa có tự do tôn giáo, chưa có dân chủ và nhân quyền thực sự, chừng đó GHPGVNTN còn bị bách hại gian truân và sẽ chấp nhận gian truân không bì quyện. Đức Phật dạy : 'Nầy các con ! Các con hãy lên đường vì hạnh phúc của nhân loại và chư thiên'.Dẫu rằng, đó là con đường vạn dặm, con đường đầy dẫy nội ma ngoại chướng ; nhưng chúng ta là con Phật, là hậu duệ của Trì Địa Bồ Tát, của Phú Lâu Na, chúng ta đã chẳng sờn lòng nản chí, không mỏi mệt ươn hèn ; chúng ta đã không sợ khó, không sợ mọi gian nguy khổ cực, thậm chí có thể phải hy sinh tánh mạng ; chúng ta đã vượt qua không biết bao nhiêu chướng ngại từ bên trong đến bên ngoài, trong đó có những chướng ngại cơ hồ như không thể vượt qua được. Nhưng chúng ta đã vượt qua tất cả, bằng ý chí kim cương bất hoại".


"Tôi vẫn còn đứng ở Cấm Thành và bỗng dưng nhớ về cả Sài Gòn lẫn Hà Nội. Tôi nhớ đến Sài Gòn vì ở đó tôi có một ông Thầy cũ. Thầy tôi tên tục là Đặng Phúc Tuệ thì ít người biết, nhưng khi xuất gia Thầy mang tên Thích Quảng Ðộ thì cả thế giới đều hay. Thầy là người cũng từng nhiều năm lao cải, cũng bao nhiêu lần bị mấy ông công an bắt dẫn về Chùa. Nhiều đến độ đã có lần Thầy bảo với tôi 'thời gian tôi ở tù nhiều bằng thời gian tôi ngồi tụng kinh niệm Phật'. Nhớ mãi có lần nghe tin Thầy vừa được "tha", tôi vội vã gọi điện về mừng Thầy thoát nạn. Thầy thật vui khi nghe tiếng tôi, nhưng bảo ngay 'có gì mà mừng hả con. Thầy mới thoát một nhà tù nhỏ, bây giờ sống ở một nhà tù lớn hơn'. Bây giờ đứng đây mới hiểu hết ý Thầy, mới biết ở quê hương tôi cũng có… Cấm Thành". Phóng viên Nguyễn Khanh của đài RFA đã viết như vậy vào ngày 23-8-2008, trong bài Nhật ký Bắc Kinh, kỳ 15: Cấm Thành.


Lời Mở Đầu quyển Cội Tùng Trước Gió của GS Nguyễn Cao Can viết về quảng đời (hơn 26 năm bị tù đày, giam cầm và quản chế) của Hòa thượng Thích Quảng Độ có đoạn:
"Hai câu thơ của Hòa thượng Thích Quảng Độ trong tác phẩm Thơ Tù: 'Lao xao sóng vỗ ngọn tùng - Gian nan là nợ anh hùng phải vay'… Thơ đã phần nào phản ánh cuộc đời của Người, đầy nguy nan trước thời cuộc, vì Đạo pháp ngửa nghiêng, vì Dân tộc đọa đày, vì nhân tình điên đảo, bị tù tội và giam hãm suốt 30 năm trường… Cuộc đời của Người là một thông điệp sống, một trượng phu "uy vũ bất năng khuất" trước danh lợi, bạo quyền, một hành hoạt Đại Bi Vô Uý Tâm của một Đại tăng thực hành Bồ Tát Đạo".
"Lời Kêu Gọi Cho Dân Chủ Việt Nam" với một chương trình thực hiện chính trị 8 điểm của Hòa thượng Thích Quảng Độ (tháng 2-2001) đã là một thông điệp bức phá sự sợ hãi cho nhân dân cả nước. Đến Tết Ất Dậu, 2005, Hòa thượng Thích Quảng Độ gửi tiếp "Thư Chúc Xuân" (tức "Lời kêu gọi về Con Đường Dân Chủ Đa Nguyên Cho Việt Nam") đến chư vị nhân sĩ, trí thức, văn nghệ sĩ và đồng bào các giới trong và ngoài nước, kêu gọi hãy đồng tâm kết hợp cho tiến trình dân chủ hóa Việt Nam với mô thức ba đảng.
Tháng 3 năm 2005, trong bài xã luận Có Thể Nào Việt Nam Sẽ Trở Thành Iraq – tác giả CLAUDIA ROSETT viết rằng: Bác sĩ Nguyễn Đan Quế được thả tù, nhưng chưa có dấu hiệu nào cho thấy chế độ hà khắc dã man sẽ nới lỏng hơn, ông nói: "Rất có thể là tôi chỉ bị đổi từ nhà tù nhỏ ra nhà tù lớn mà thôi". Trường hợp thả tù của ông có thể nhìn như là thả con tin chính trị, như hiện nay Việt Nam đang mặc cả với Hoa Kỳ về vấn đề mới đây Việt Nam bị coi là những "quốc gia đáng quan tâm" vì có những hành động mà theo như tổ chức Quan Trắc Nhân Quyền (Human Rights Watch) cho rằng: "Việt Nam là một trong những nước vi phạm quyền tự do tôn giáo thô bạo nhất trên thế giới". Cơ quan Nhà Tự Do (Freedom House) thì liệt kê Việt Nam trong bảng danh sách hiếm hoi: một trong số ít những quốc gia có chế độ đàn áp và hà khắc nhất.
Cùng thời điểm đó, ngày 7-3-2005, Thượng Tọa Thích Thiện Minh, bị nhà cầm quyền CSVN giam tù 26 năm, được thả hôm Tết cho biết và xác nhận trong thư gởi Ủy Ban Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế của Hoa Kỳ (USCIRF) rằng: "Sự việc CS Hà Nội trả tự do chỉ là sự chuyển đổi từ nhà tù nhỏ ra nhà tù lớn…".

Chúng tôi không sợ hãi…

Trích đoạn Thông điệp của Hòa thượng Thích Quảng Độ gửi đến khóa họp thường niên lần thứ 61 của Ủy hội Nhân Quyền LHQ tại Thụy Sĩ, ngày 8-4-2005:
"Thông điệp này kêu gọi quý vị hãy giúp cho tiếng nói của chúng tôi lan truyền ra thế giới. Mỗi ngày, các nhà dân chủ Việt Nam phải đối diện với bao hiểm nguy để giữ cho ý chí tự do hiện hữu. Chúng tôi không sợ hãi, nhưng chúng tôi biết rằng không thể thắng trận một mình. Chúng tôi cần được cộng đồng quốc tế hậu thuẫn, chúng tôi cần các nhà dân chủ trên toàn thế gới hậu thuẫn".
Ngày 06-11-2005, trong bài 'Đòn Kẻ Chợ' Của Hà Nội, tác giả Nguyên Việt viết rằng: "Chúng tôi còn được biết ông Hoàng Minh Chính từng thổ lộ với anh em là ông sẵn sàng vào tù thêm lần nữa, sẵn sàng chết trong tù để tố cáo chế độ độc tài đảng trị của Hà Nội, và để bảo toàn danh dự của mình".
Bài giới thiệu Giải Rafto năm 2006 trao cho Người Bảo vệ Nhân quyền Việt Nam viết rằng : "Hội đồng Chỉ đạo Quỹ Tài trợ Rafto quyết định tặng thưởng năm 2006 Giải Tưởng niệm Giáo sư Thorolf Rafto cho một trong những người Việt Nam lỗi lạc nhất đã không ngừng bảo vệ dân chủ, tự do tôn giáo và nhân quyền : Hòa thượng Thích Quảng Độ. Đoạt giải này, vì suốt ba mươi năm qua Hòa thượng dũng cảm và kiên trì chống đối ôn hòa chế độ Cộng sản Việt Nam, và trở thành biểu tượng cho phong trào dân chủ đang bùng lên trên toàn quốc...".


Trong bản Thông Ðiệp Xuân Đinh Hợi, 2007, Hòa Thượng Viện Trưởng Viện Hóa Đạo Thích Quảng Độ đã gửi lời nhắn nhủ: "Tôi kêu gọi chư Tăng Ni, Phật tử trong và ngoài nước, bằng đức tính Vô Úy - không sợ hãi - mỗi người là một Ứng thân của Chánh pháp, tức Pháp thân thường trú, để viên thành thực tại toàn giác và thực tại biến động …Bằng đức tính Vô Úy - không sợ hãi - mà thực hiện tự do tín ngưỡng, bình đẳng tôn giáo và công bình xã hội".
Sáng thứ ba ngày 17/7/2007, tại cuộc biểu tình đòi công lý của hàng ngàn dân oan thuộc 19 tỉnh Nam bộ, Trung bộ và 9 quận tại Saigon đã bước sang tuần thứ 4 tại Văn phòng Quốc hội II, số 194 đường Hoàng Văn Thụ, Phường 10, Quận Phú Nhuận, HT Thích Quảng Độ - đại diện cho Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN), đã khéo léo vượt qua bao khó khăn vì bị quản chế để đến tận nơi, kịp thời chia sẻ oan tình, ủy lạo và tiếp tế cho đồng bào. Vị Bồ tát Vô Úy đã nói: "Đồng bào có nhà có cửa, có cơ nghiệp, mà nay phải dầm sương dải nắng như thế này, rồi đòi hỏi như thế này mà chẳng được giải quyết. Muốn cho tình trạng này không còn xảy ra nữa, thì chúng ta phải đòi hỏi cho bằng được nhân quyền, công lý và công bằng xã hội. Buộc họ phải trả lại cái quyền sống và quyền làm người cho ta, là vấn đề quan trọng nhất. Muốn như thế, thì phải chấm dứt cái nạn độc quyền cai trị. Bởi vì độc quyền nó đưa đến bao nhiêu thối nát và bất công như thế này đây… Mỗi người góp một phần, chúng ta tiếp tục đòi hỏi cho bằng được tự do, nhân quyền và công lý. Phải đòi hỏi một chế độ đa nguyên, đa đảng, đại diện đầy đủ cho 80 triệu dân".


Ta Là Một…


Điều đó không chỉ dành riêng cho giáo dân, linh mục, giám mục, phật tử, tăng ni, hòa thượng… Quần chúng nhân dân đã biểu lộ tinh thần vô úy – không sợ hãi đó bằng nhiều cách khác nhau, tại nhiều địa bàn khác nhau: Thái Bình đốt trụ sở UBND huyện. Đông Anh bắt công an làm con tin. Quỳnh Lưu trói gô Chủ tịch xã….


Một bài báo trên Diễn Đàn Nhà Đất TP/HC luận bàn về một hy vọng số người "sẵn sàng đi tù vì đất" sẽ giảm bớt. Một bài phỏng vấn trên báo NLD ra ngày 29-10-2006 cho biết: "Thiếu tướng Trịnh Xuân Thu (Phó Tổng cục trưởng Tổng cục An ninh) kể, cách đây ít lâu, ở Giao Thủy (Nam Định) khiếu kiện không được giải quyết, người dân đã nói với cán bộ dân vận: "Tôi phải có những hành động đến mức phạm tội và tôi sẵn sàng đi tù. Chỉ có khi tôi đi tù thì ở trên mới chú ý giải quyết cho dân, mới phanh phui được cán bộ tiêu cực".


Điểm nóng bật lên khắp nước. Trà Cỗ, Xuân Lộc, Tây Nguyên, Thái Bình, Nghệ An, Tiền Giang, Long An, Bến Tre, Đồng Tháp, Vĩnh Long, An Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh, Vĩnh long, Bình Dương, Tây Ninh, Bình Phước, Lâm Đồng, Cần Thơ, Hậu Giang, Cà Mau, Bình Thuận… Hà Nội, và cả 9 quận ở thành phố Saigon: Gò Vấp, Bình Chánh, Bình Thạnh, quận 4, 5, 6, 7, 9, 12….


Tiếp đó, phản ứng Ta Là Một của Tuổi Trẻ Việt Nam trong tháng 12-2007 là một tuyên ngôn chính trị để hồi đáp lời tuyên bố về đơn vị hành chính Tam Sa của Trung Quốc, trước đại sứ quán TQ ở Hà Nội và tổng lãnh sự quán TQ ở Sài Gòn….


Gần nhất là phản ứng của giới trẻ về bản án "trốn thuế" mà nhà nước áp đặt cho Blogger Điếu Cày. Đơn cử một nhận định của Sinh Viên Sư Phạm: "Nếu cấp phúc thẩm cũng y án thì đảng ta loại trừ được một người bất đồng chính kiến trong 30 tháng. Đó là cái 'lợi'. Nhưng sinh viên chúng tôi càng mất lòng tin. Dân càng mất lòng tin. Sẽ có nhiều người khác thay thế chú Điếu Cày. Đảng rất biết điều đó. Nhưng đảng hết kế khả thi rồi. Thương thay !".


Họ khẳng định là có nhiều người thay thế cho từng người bị bắt. Rõ ràng là họ không sợ cái vũ khí bắt bớ sau cùng đó của nhà nước nữa. Họ hóa giải những đòn bẩn. Họ vô hiệu hóa bạo lực. Bằng một tinh thần vô úy nhân rộng: Sẵn Sàng Đi Tù.


Những Lãnh Đạo Ngày Mai…


Vào năm 1977 tại Tiệp Khắc, nữ GS TS Dana Niemcova, cùng với chồng là một bác sĩ, là hai người trong số 240 nhân vật ký tên vào bản Hiến Chương 77. Bà nhận định rằng những bài viết hay tham luận chỉ trích độc tài dù nặng nề và đúng đắn tới đâu cũng khó chuyển đổi được chế độ độc tài đương nhiệm nếu không có sức mạnh của đại khối quần chúng tham gia. Giới trí thức cần phải lên phương án chiến lược cho quần chúng đấu tranh. Và bởi đó, giới trí thức đã sẵn sàng vào tù, mất việc, mất thu nhập, và mất cả vị trí từng có trong xã hội. Hệ quả? Bà Dana Niemcova, ngay sau khi ký tên vào Hiến Chương 77, đã bị chế độ bãi chức giáo sư và trở thành một lao công tại viện đại học mà bà từng giảng dạy. Thành quả? Bà Niemcova cùng giới trí thức dũng cảm và đầy tinh thần trách nhiệm ký tên vào Hiến Chương 77 đã lãnh đạo giới trẻ Tiệp Khắc hoàn thành cuộc Cách Mạng Nhung lừng lẫy của Tiệp Khắc mười mấy năm sau đó.


Ở Việt Nam, đó là những nhân vật đấu tranh cho dân chủ nhân quyền. Trong dịp thăm viếng VN tuần trước, ngay vào ngày nhà nước áp án sơ thẩm cho Điếu Cày, Thứ trưởng bộ Ngoại Giao Mỹ Negroponte đã đề cập đến họ bằng danh xưng "Các đại diện của xã hội dân sự" của VN.


Có thể tạm liệt kê một vài trường hợp tiêu biểu:


Nhà văn Hoàng Tiến dõng dạc trả lại thẻ cử tri và chuẩn bị balô sẵn sàng đi tù.

Blogger BaoThu gửi thư ngỏ cho Người lính già Vũ Cao Quận: "Đừng! Đừng!Dù có uất ức như thế nào chăng nữa đ/c vẫn phải sống,sống để tiếp tục đấu tranh,sống để viết,viết nhiều hơn nữa và để….sẵn sàng vào tù vì đủ các thứ 'tội' 'chống phá', 'phản động' mà người ta sẵn sàng úp lên cái đầu bạc của đ/c. Một thằng tù gần 80 tuổi như đ/c, hoặc quá 80 như tôi chắc càng làm thế giới văn minh xôn xao và...cũng không… dễ phục vụ cho các anh cai tù đâu đ/c ạ! …Tôi chỉ có một điều phản đối kịch liệt đ/c đó mà thôi!".


Bản Lên tiếng của Khối 8406 về việc chiến sĩ Nguyễn Vũ Bình vừa ra khỏi nhà tù nhỏ: "Chúng tôi xin chúc mừng Anh gặp lại gia đình, gặp lại người vợ can đảm, cũng như trở lại hàng ngũ các chiến sĩ đã và đang đem cả mạng sống mình khôi phục sự sống đích thực cho cả dân tộc, đã và đang noi gương Anh, chấp nhận đi vào nhà tù nhỏ để dân tộc ra khỏi nhà tù lớn mang tên 'Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam', đã và đang chịu đựng gian khổ đàn áp để dân tộc sớm được sống trong an bình tự do, đã và đang dũng cảm đương đầu với độc tài độc đảng để dân tộc mau vui hưởng chế độ đa đảng đa nguyên".


Trong cuộc phỏng vấn dành riêng cho Ban Việt Ngữ Ðài Á Châu Tự Do, ông Phương Nam đã khẳng định: "Tôi cũng đã nói với Công An, và hôm nay trên diễn đàn này, tôi cũng muốn nhắc lại một lần nữa quan điểm của tôi rằng tôi đã sẵn sàng bước vào một nhà tù nhỏ để dân tộc này sớm bước ra khỏi nhà tù lớn. Nhà tù lớn ấy hiện nay mang tên là Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam".


Hãy nghe lại lần nũa những lời khẳng khái đến vang dội bốn ngàn năm lịch sử nước nhà của LS Lê Thị Công Nhân: "Tôi sẽ chiến đấu tới cùng dù chỉ còn một mình tôi....Và Cộng Sản đừng hòng mong tôi thỏa hiệp chứ đừng nói là đầu hàng. ... Gia đình tôi đã chuẩn bị cho trường hợp xấu nhất, đó là tôi sẽ bị khởi tố và có thể bị đi tù, nhưng tôi khẳng định một lần nữa đó vẫn chưa phải là điều tồi tệ nhất có thể xảy ra".


Đưa tin về phiên toà xử phúc thẩm hai luật sư Nguyễn Văn Đài và Lê Thị Công Nhân ngày 27-11-2007, hãng thông tấn quốc tế AFP đã dẫn lời Luật Sư Lê Thị Công Nhân tuyên bố tại tòa: "Cho dù hôm nay tôi được thả thì điều đó cũng chỉ như chuyển tôi từ nhà tù nhỏ sang nhà tù lớn nên tôi sẽ tiếp tục nêu quan điểm của tôi".


LS Lê Thị Công Nhân cũng đã từ chối lời đề nghị chấp nhận quy chế tỵ nạn chính trị để không bị đẩy ra khỏi nước.


"Đầu thần chưa rơi" và hào khí Diên Hồng của ta năm xưa có thực cao hơn thế không? Chủ chiên của ta đã dõng dạc như thế! Bồ tát Vô úy của ta đã ứng thân như thế! Trí thức của ta đã can trường như thế! Lãnh đạo tương lai của ta đã anh dũng như thế! Nhân dân của ta đã đồng cam cộng khổ triền miên như thế! Lòng dạ và mặt mũi nào ta chỉ ngồi yên nhìn cộng sản tiếp tục khấu đầu trước ngoại bang?


Hãy ôn hòa nhưng quyết liệt xuống đường để bẻ gãy một mối trong mớ giằng co tam giác nói trên. Để chỉ còn Việt Tộc dũng trí và hào hùng đối đầu với dã tâm của Bắc Kinh.

14-9-2008, kỷ niệm 50 năm công hàm dâng đảo của Phạm Văn Đồng.
Đinh Tấn Lực – Chung cư Nguyễn Thiện Thuật – Q3 – TP/HCM.
viethoaiphuong
#9 Posted : Monday, September 15, 2008 6:49:25 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
Mặc Cảm Chiêu Hồi
và Khát Vọng Tự Do

Trần Trung Đạo

Cộng sản còn sống bởi vì nhiều người nghĩ rằng cộng sản đã chết. Nếu cho rằng cộng sản đã chết thì trước khi chết cộng sản sống ở đâu? Liên Xô sau Cách mạng 1917 có phải là cộng sản không? Liên Xô dưới thời Stalin có phải là cộng sản không? Trung Quốc dưới thời Mao với những “nhà máy luyện kim sau hè” và công xã nhân dân có phải là cộng sản không? Bắc Hàn dưới thời Kim Nhật Thành có phải là cộng sản không? Campuchia dưới thời Pol Pot có phải là cộng sản không? Việt Nam dưới thời Hồ Chí Minh với Cải cách Ruộng đất và Nhân văn - Giai phẩm có phải là cộng sản không? Tất cả đều không và đều có, đều khác nhau và đều giống nhau. Không, bởi vì chưa có nước cộng sản nào kể cả Liên Xô với những kế hoạch 5 năm đầy tham vọng, đạt được những bước phát triển kinh tế có thể giải thích đúng với lý thuyết của Mác; và đều giống nhau, vì tất cả đều dùng những phương tiện mà lý thuyết Mác - Lê đã đề cao, đó là áp dụng bạo lực không thương tiếc đối với các thành phần xã hội cản trở bước tiến hay chống đối lại các mục tiêu của Đảng Cộng sản...

Xem tiếp
http://take2tango.com/default.aspx?display=5034
viethoaiphuong
#10 Posted : Monday, September 15, 2008 8:20:24 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)

Sách Lược Cứu Nước

Kinh Phù Đổng

1. CHÍNH KINH

Vào thời Vua Hùng, có giặc Ân xâm lấn nước ta. Vua Hùng làm đủ cách nhưng vẫn không ngăn được giặc.

Nhà vua liền lập đàn cầu xin Tổ về giúp. Trong một cơn mưa to gío lớn, bỗng có một cụ gìa áo đỏ, hình dung cổ quái, đến đùa giỡn với đám trẻ con ở ngã ba đường.

Dầu thấy lạ, Vua Hùng cũng đến xin Cụ chỉ cách để cứu nước. Cụ cười nói: "Nhà vua hãy sai sứ đi khắp nơi mà tìm!"

Theo lời Tổ dạy, Vua Hùng liền sai người chia nhau đi khắp nơi để loan tin Tổ về và tìm người cứu nước.

Đang khi đó, tại làng Phù Ðổng, có một em bé đã ba tuổi mà không biết nói cười đi đứng gì cả. Nhưng khi nghe sứ vua rao tin, Cậu liền bật nói.

Cậu xin sứ cho Cậu một con ngựa sắt và một roi sắt để Cậu phá giặc. Từ đó, láng giềng đem gạo vải tới giúp Cậu ăn mặc, và Cậu lớn lên như thổi.

Khi sứ vua đem ngựa và roi tới, Cậu bé Phù Ðổng liền vươn vai thành người to lớn. Khi Cậu nhảy lên ngựa sắt thì ngựa liền cử động và phun lửa.
Với ngựa lửa roi sắt, Cậu đánh bọn giặc một trận tơi bời. Khi roi sắt gãy, Cậu nhổ tre mà đánh. Ngựa cũng phun lửa cháy mất mấy làng.

Giặc tan, Cậu cỡi ngựa lên núi mà về trời.

Các gốc tre Cậu đã xử dụng, lại hóa thành tre la ngà.

Vua Hùng phong Cậu là Phù Ðổng Thiên Vương.



DIỄN KINH



2. CỨU NƯỚC VÀ CẢI HÓA

Theo nội dung, Kinh Phù Đổng là Kinh Cứu Nước, vì Kinh chính là sách lược cho đại cuộc phục quốc, mà cũng là phương thức hành động cho tổ chức cứu nước, và là chương trình sống cho bất cứ ai quyết tâm phá giặc.

Dưới khía cạnh Con Người và Xã Hội, Kinh Phù Đổng lại là Kinh Cải Hóa, cải hóa từng người cũng như cải hóa toàn thể nhân loại. Kinh đưa phương thức cải hóa chúng ta khỏi tất cả mọi thứ giặc.

Trong giai đoạn thống khổ này của dân tộc Việt và của cả nhân loại, chúng ta cần học hỏi tháu đáo và ứng dụng kỹ càng vừa bài học Cứu Nước, vừa bài học Cải Hóa.

Công cuộc thực to lớn và phức tạp. Cần thực nhiều người tận tâm tận lực, và chung tài chung đức, để khai triển chi tiết bài học thâm sâu và ứng dụng thích đáng mọi người.

Ở đây chỉ nhìn đại cương như là sơ đồ của sách lược cứu nước.

* * * *

3. NGƯỜI CỨU NƯỚC

3.1 Giặc Xâm Lấn

Để dạy cách Cứu Nước, Tổ Tiên đã khởi đầu với sự kiện nước bị giặc xâm lăng (*1). Việc giặc Ân xâm lấn nước ta có thể là một sự kiện lịch sử. Nếu câu ghi ở sử Trung Hoa "Ân Cao Tôn phạt Qủy Phương tam niên" là xác thực, thì đúng là vua Ân đã xua quân vào nước ta.

Thời nhà Ân bên Tàu cũng là thời Hùng ở nước ta, và lúc đó nước ta gồm cả vùng đất thuộc ngôi sao Quỷ, theo sự phân giới bầu trời ứng với mặt đất của thời xưa (*2).

Do đó, nhân việc kể đi kể lại chiến tích chống ngoại xâm này, Tổ Tiên ta đã gói ghém thêm nhiều bài học quan trọng cho việc Cứu Nước và Cứu Người.

* *

3.2 Nhận Chân Thực Trạng

Trước nạn xâm lăng, nước nhục dân khổ, Vua Hùng đã làm hết cách, nhưng vẫn không ngăn được giặc.

Tuy là bối cảnh của câu chuyện, nhưng đây cũng là yếu tố quan trọng cho việc chuẩn bị cứu nước. Đã làm hết sức, đã tận lực, nhưng thua. Giờ đây nước mất nhà tan, mọi phương thức chống giặc đều vô hiệu, mọi lực lượng đều tan rã, lòng dân phân tán, đồng minh quay mặt… giặc lại thừa thắng, giặc thêm oan nghiệt, giặc gây tang tóc cho đồng bào, cho đất nước, cho giống nòi…

Thực vậy, để có thể thực sự khởi đầu công cuộc cứu nước, trước hết phải nhận chân được thảm trạng mất nước. Nếu không lượng định chính xác sức mạnh của giặc và tình trạng yếu kém của ta, ở mọi phương diện, chúng ta hoặc sẽ lạc quan trái mùa, hoặc quá sợ giặc, hoặc không nhận ra giặc.

Đây là điều kiện đầu tiên của Người Cứu Nước, tức là phải nhận chân thực trạng, biết giặc biết ta.

* *

3.3 Sống Lại Hồn Nước

a. Vua Hùng cầu Tổ

[1]. Trong ngõ bí của thời cuộc, trong phũ phàng của thực trạng mất nước, Tổ Tiên cho bùng lên một vừng sáng hy vọng chói chang: Vua Hùng lập đàn cầu Tổ về giúp.

Việc lập đàn chứng tỏ lòng thành và ý thức của Vua Hùng về tầm mức quan trọng vượt bực qua công cuộc cứu nước. Cứu một người đã khó thay, huống nữa là cứu cả một dân, một nước, cả giống dòng, lịch sử.

Tổ là biểu trưng cho Tinh Thần, cho Sức Sống tối cao, Hồn Thiêng của Dân Tộc. Ngài là nguồn gốc, mà cũng là sự sống còn, là niềm hy vọng, và là tụ điểm của toàn dân (*3).

Cầu Tổ là bộc lộ niềm tin bất diệt, niềm hy vọng tuyệt đối vào sức sống vô biên, và truyền thống siêu việt của Dân Tộc.

Ðây chính là nền tảng đích thực của công cuộc Cứu Dân Cứu Nước. Bất cứ nền tảng nào khác sẽ đều đưa đến kết quả là biến dân nước thành vong nô của ngoại bang, của tà thuyết, hoặc của cường quyền bạo lực (*4).

[2]. Ngoài ra, việc cầu Tổ còn nối kết cách tuyệt diệu Kinh Phù Đổng với Kinh Tiên Rồng và Kinh Tiết Liêu. Ở Kinh Tiên Rồng, Cha Rồng đã dặn: "Khi cần thì gọi, Ta về ngay." Ở Kinh Tiết Liêu, khi Tiết Liêu thành tâm việc an dân thịnh nước, Tổ cũng về giúp.

Thời bình mà Tổ còn thương như vậy, huống chi thời loạn lạc khổ đau. Con cháu có lúc nào cần Tổ thương giúp bằng khi đất nước đại nạn, đồng bào thống khổ? Con cháu đã khẩn thiết kêu cầu, vua Hùng đã lập đàn, và Tổ đã về giúp.

b. Cụ Tổ Hiện Về

[1]. Trong một cơn mưa to gío lớn, bỗng có một ông cụ gìa xuất hiện.

Mưa gío chính là điềm báo sự linh hiển của Cha Rồng. Rồng chủ tể việc mưa gío ở biển cả, nên Rồng linh thì biển động. Ðây là phần giới thiệu bản chất của Cụ Gìa, tức tinh hoa văn hóa Việt.

Cụ gìa lại mặc áo đỏ, là màu tượng trưng cho phong tục, cho nếp sống truyền thống của dân tộc Việt suốt mấy ngàn năm. Khảo cổ hiện nay đã phát hiện nhiều di tích chứng tỏ ngay cả từ sáu bảy ngàn năm trước, dân Việt đã dùng màu đỏ và mặt trời làm biểu hiệu của mình.

* Như vậy, Cụ Gìa đã mang hai dấu hiệu, một thuộc bản chất, một thuộc đặc trưng, chứng tỏ Cụ qủa thực là Tổ, là sức sống đích thực của dân tộc Việt. Cụ chính là biểu tượng của nền văn hóa, của phong tục, của truyền thống, của tinh thần dân tộc.

[2]. Nhưng Cụ lại có hình dung cổ quái. Sở dĩ Cụ bị coi là cổ quái, chỉ vì con cháu đã quên Cụ, không còn quen thuộc với Cụ nữa. Ở Kinh Tiết Liêu, trong thời mọi người đang sống hạnh phúc theo đúng truyền thống Tổ Tiên, thì Cụ Tổ được nhận ra là người qua81c thước phi phàm.

Ðây là nhát búa bổ vào đầu chúng ta. Khi mất nước chính là lúc con cháu thường đã xa lạ với Tổ Tiên, đã quên Tổ, đã mất tinh thần dân tộc, mất niềm tin nơi chính mình. Bài học Hồn mất trước Nước mất sau ở Kinh Mỵ Châu đã thực rõ ràng và thấm thía.

*

c. Tổ về với dân

[1]. Nhưng dầu con cháu có xa lạ, Tổ cũng đã về. Cụ về và đùa giỡn với đám trẻ con ở ngã ba đường.

Theo quan niệm truyền thống thì trẻ con, con đỏ, con dân, là biểu trưng của đại chúng. Họ là những người đơn sơ thành thật, sống theo những bộc phát tự nhiên và thuần hậu của Con Người (*5).

Ngòai ra, ngã ba đường chính là nơi dân chúng tụ họp, là chợ chòm hỏm của thời xưa.

Như vậy, Cụ đã không về trên đàn, không về với vua quan, nhưng về giữa đám đại chúng bình dân.

Lịch sử cho thấy, xưa cũng như nay, thời suy thoái là lúc giới quyền chức sao lãng văn hóa dân tộc để vọng ngoại và cầu ngoại nhiều nhất. Trong các thời kỳ đó, truyền thống, tinh thần, và ý thức dân tộc, chỉ còn thấy ở giới thường dân, ở đầu đường góc chợ (*6).

[2]. Lại nữa, không phải Tổ chỉ hiện về một cách oai vệ trong giây lát, mà Tổ còn đùa giỡn, còn hoà mình với đám trẻ con. Tổ cùng chung cuộc sống, cùng chung tâm hồn với đại chúng. Tổ ở trong đại chúng. Tổ là đại chúng.

Như vậy, ai muốn gặp Tổ thì phải tìm tới, phải để tâm hồn mình hoà nhập đại chúng, chớ không phải hời hợt bên ngoài (*7).

*

d. Ðể nhận biết Tổ, để thực sự nhận biết đích xác đâu là truyền thống dân tộc, Kinh đã nêu rõ mọi yếu tố, từ bản chất, qua nét đặc trưng, qua chính phản ứng của chúng ta, tới cả hạng người, cả nơi chốn và cả những điều kiện tâm lý cần thiết (*8).

Kinh Phù Đổng đặt nền tảng công cuộc cứu nước trên niềm tin tuyệt đối vào Sức Sống Truyền Thống nơi Toàn Dân.

* *

3.4 Lột Xác

a. Người dám đến với đại chúng để tìm gặp Tổ, chính là vua Hùng. Vì quyết tâm cứu nước, nên dầu thấy những cảnh tượng bất thường của Cụ Gìa, Vua Hùng cũng tìm tới gặp Cụ và xin Cụ dạy cách cứu nước.

Vua đã lập đàn cầu Tổ. Trên đàn có ngai qúy để Tổ về ngự, có hương trầm nghi ngút, đèn nến sáng ngời. Vua quan thì thân thanh tâm tịnh, thành tâm thành ý. Dân chúng thì vây quanh khẩn cầu thống thiết. Nơi đàn uy nghi trang trọng như thế, nên ai ai cũng trông chờ Tổ về, sẽ linh hiển tại đàn, oai vệ chưa từng thấy.

Ngờ đâu, trên đàn chưa có dấu hiển linh, thì ở ngã ba đường lại co1 một cụ già tới đùa giỡn.

Phải thành tâm cùng tột, tuệ linh sáng ngời như Vua Hùng, mới có thể nhận ra đó không phải là quái nhân quấy rối, mà là chính Cụ Tổ đã về.

Tuy đã lập đàn, đã chuẩn bị mọi sự, tức là đã dự tính nhiều kế hoạch, nhiều chương trình, nhưng Vua Hùng nhất quyết gạt bỏ tất cả để tới ngã ba đường gặp Cụ Gìa cổ quái, và học cách cứu nước (*9).

*

b. đây là điểm đột phá quan trọng cho người muốn cứu nước. Lột xác.

Không vượt nổi điểm đột phá này, không lột xác, không từ bỏ dự tính và phương thức cũ, không thể thích ứng với điều kiện và hoàn cảnh mới, không thể đón nhận kiến thức mới, không thể hội nhập vào tổ chức mới, không mở rộng tâm trí để đón nhận những bất ngờ, những cổ quái… thì không thể nghe Tổ nói, tức là không thể nhận ra những phương thức thực sự hữu hiệu cho việc cứu nước (*10).

Vượt điểm đột phá này, lột xác, thì có cơ may cứu nước mới ló dạng, mới được Tổ chỉ cách.

* *

a. Bất chấp sự phản đối của đám quần thần kênh kiệu, Vua Hùng đã bỏ đàn, đội mưa gió tới ngã ba đường và đã được Tổ dạy phương thức cứu nước.

Nhưng phương thức của Tổ lại cũng cổ quái. Tổ dạy vua sai sứ đi khắp nơi để tìm người cứu nước.

Thực là kỳ lạ. Tại sao Tổ không nói rõ vị cứu tinh đó là ai? Tại sao lại chỉ biểu cho người đi tìm? Nếu chỉ thế, thì tại sao Tổ lại phải hiện về? Vua Hùng đã chẳng đang tìm đó sao?

*

b. Nhưng, chỗ kỳ quái đó lại chính là bài học. Tổ nhắc nhở, Tổ chỉ dạy, chớ Tổ không thể làm thay cho chúng ta. Tổ không giết giặc, Tổ không chỉ huy, Tổ cũng không làm gián điệp, cũng không cho nỏ thần, hoặc thị uy tiêu diệt giặc.

Biết bao lần chúng ta cầu mong phép lạ điềm linh giết giặc thay chúng ta. Biết bao lần chúng ta than trách các Đấng Linh Thiêng không tích cực độ trì, để chúng ta khoanh tay nhìn giặc chết! Cũng vậy, bao lần chúng ta kết tội người khác, vì họ không làm cho chúng ta hưởng.

Vấn đề không phải là Tổ làm, mà là chúng ta biết và thực thi ý muốn của Tổ. Khi biết Tổ Tiên, và các Đấng Thiêng Liêng, muốn cứu dân lành, thì chính chúng ta phải tỏ ra là con thảo, là tín đồ thuận thành, bằng cách chính chúng ta ra công phá giặc cứu người, để hoàn thành ý muốn của các Ngài.

Chính chúng ta phải làm, phải dấn thân, thì mới cứu được nước.

* *

3.6 Tư Cách Người Cứu Nước

a. Vua Hùng đã được Tổ chỉ cách. Nhưng trước khi vua thể hiện ý Tổ, chúng ta thử nhìn lại giai đoạn qua.

Trước hết, Vua Hùng đã sống với thực trạng mất nước, và cũng khởi công từ thực trạng đó. Vua không nuối tiếc hão huyền, cũng không mơ mộng viển vông.

Tiếp đến, nhà vua tìm về nền tảng của công cuộc cứu nước. Nền tảng đó là Tổ, là Sức Sống, là Truyền Thống siêu việt đang tiềm tàng trong nếp sống của đại chúng.

Và rồi, với quyết tâm cứu nước, vua đã lột xác, đã sẵn sàng thích ứng và xử dụng mọi hoàn cảnh mới, mọi điều kiện mới.

Cuối cùng là dấn thân, không do dự, không ỷ lại, sẵn sàng biến mọi sự, cả những chướng ngại, thành phương tiện hữu hiệu.

*

b. Đó là Vua Hùng. Nhưng Vua Hùng là biểu tượng của con người cứu nước đích thực. Vì vậy những đức tính trên cũng chính là những điều kiện cần thiết cho bất cứ ai muốn thực sự góp phần vào việc phá giặc cứu dân.

* Nhìn chung với Kinh Mỵ Châu: ví An Dương Vương đã từ bỏ Hồn Nước, nên đưa tới mất Nước. Ở đây Vua Hùng đã gặp lại Tổ, đã sống lại Hồn Nước, nên khởi sự cứu nước.

* * * *

4. Phương Thức Cứu Nước

4.1 Theo Lời Tổ dạy

Vua Hùng đã lập đàn cầu Tổ và được Tổ dạy cách cứu nước.

Lời dạy của Tổ chính là phương thức cứu nước. Lời dạy của Tổ là ý muốn của Tổ, mà cũng là chính Tổ trong hiện thực và sống động trong hiện trạng đất nước.

Vì vậy, Theo lời Tổ Dạy sẽ là động lực mọi hành động của vua Hùng. Sở dĩ vua Hùng sai sứ đi tìm Người Cứu Nước, sở dĩ các sứ chịu đi, và sở dĩ toàn dân chịu nghe theo họ cũng chỉ vì Theo Lời Tổ Dạy.

Theo lời Tổ Dạy trở thành Sức Sống, trở thành Hồn Thiêng tạo dựng, thúc đẩy, điều hợp và hoàn thành Công Cuộc Cứu Nước.

Sức Sống này sẽ từ Vua Hùng truyền qua đoàn sứ nhân, và đoàn sứ nhân truyền qua toàn dân.

* *

4.2 Lên Đường Hành Động

Được Tổ chứng giám, được Tổ chỉ dạy, giờ đây vua Hùng mạnh dạn sai sứ lên đường.

Các sứ nhân chính là đại diện, là hiện thân của Vua Hùng. Họ là chính Vua Hùng đi đến với dân.

Như vậy, đoàn sứ nhân là Người Cứu Nước lên đường hành động. Họ dấn thân thể hiện sứ mạng theo Lời Tổ dạy. Họ đem Sức Sống của Tổ đến cho toàn dân. Nhờ họ, toàn dân mới nhận được sứ điệp của Tổ và mới cứu được nước.

Vai trò của đoàn sứ nhân, của tổ chức cứu nước đích thực, là vai trò nền tảng trong công cuộc cứu nước (*11).

* *

4.3 Đến Với Toàn Dân

Ðoàn sứ nhân lên đường, đoàn cán bộ đi hoạt động công tác tổ chức cứu nước. Các sứ nhân này đã chia nhau đi đến với người dân ở khắp nơi.

Mục tiêu hành động đầu tiên của tổ chức cứu nước là Dân, chớ họ chưa trực tiếp đối đầu với giặc. Công tác chính là vận động toàn dân đứng lên chống giặc. Có như thế thành công mới trọn vẹn (*12).

Họ đi khắp nơi, không bỏ sót, không từ khước bất cứ một nơi chốn hay một phạm vi nào. Nơi đó có thể là trong hay ngoài nước, nơi thân thiện hay ở ngay trong lòng địch… mà cũng là các lãnh vực như văn hóa, xã hội, kinh tế, chính trị, ngoại giao, quân sự, kỹ thuật, văn nghệ, giáo dục, thể thao, giải trí, truyền thông… hoặc là các cộng đồng, hội đoàn, chòm xóm, tộc họ, gia đình… hay là trí óc, con tim, cuộc sống của bất cứ ai… ở bất cứ nơi đâu, trong bất cứ hoàn cảnh hay sinh hoạt của Con Người, cá nhân cũng như tập thể.

Như thế, đoàn sứ nhân cũng cần có những khả năng thích ứng, để có thể phổ biến sứ điệp của Tổ tới cho mọi tầm độ, mọi hoàn cảnh, mọi con người đặc thù.

* *

4.4 Chia Nhau Công Tác

Họ chia nhau đi, không dồn chung một chỗ, không dành nhau một việc. Mỗi người tùy khả năng và hoàn cảnh riêng mà nhận phần trách nhiệm của mình. Có phân nhiệm mới có tổ chức (*13).

Tổ chức cứu nước là những con người cùng thể hiện các đức tính của sứ nhân, và theo hiện tình và khả năng linh động, mà chia nhau trách nhiệm hoàn thành các công tác thực thi sách lược cứu dân.

* * * *

5. Vận Ðộng Tinh Thần

5.1 Thức Tỉnh Niềm Tin

a. Ðoàn sứ nhân chia nhau đi khắp nơi để loan tin. Nhưng tin của họ thực là đơn sơ: Tổ đã về và sai đi tìm người cứu nước.

Nội dung tuy ngắn gọn, nhưng tác dụng lại hệ trọng. Tổ đã về và Tổ bảo đi tìm chứng tỏ Tổ đã độ trì cho công cuộc cứu nước, Tổ đã cho phương thức, và chắc chắn có người cứu được nước.

Chúng ta đã có Sức Sống, có sách lược, có nhân sự… Ðây là lúc khám phá, đây là lúc thực hiện! Dầu giặc đang mạnh, nhưng chắc chắn chúng ta sẽ thắng!

Có gì khích động và hứng khởi hơn để khơi dậy niềm Tự Tin Dân Tộc bằng nguồn tin tuyệt diệu này? Dầu ai có tuyệt vọng, cũng vụt phải hăng say, vui sướng!

*

Như vậy, đoàn sứ nhân đi loan tin khắp nơi, chính là thể hiện công tác đem Tinh Thần dân tộc đến cho toàn dân.

Nước mất vì dân quên Tổ, quên nếp sống truyền thống siêu việt của tổ tiên. Giờ đây, đoàn sứ nhân nhớ tới Tổ, thức tỉnh niềm tin, sống lại tinh thần và sức sống dân tộc.

* *

5.2 Nhận Lãnh Trách Nhiệm

Khi đến với dân, đoàn sứ nhân không chỉ loan tin, mà còn phải có hành động cụ thể: họ lục lạo tìm kiếm người cứu nước. Hoạt động này cũng gây tác dụng thiết yếu.

Khi đã phấn khởi nhờ sống lại niềm tin, mọi người cũng tiếp tay với đoàn sứ nhân mà đi tìm Người cứu nước.

Khi góp phần tìm kiếm như thế, chính là lúc mọi người đều thấm thía nạn mất nước. Do đó, mỗi người sẽ ý thức đích xác về phận vụ của mình trong công cuộc cứu nước. Mọi người sẽ lột xác, lãnh nhận trách nhiệm, và dấn thân chu toàn sứ mạng lịch sử (*14).

* *

5.3 Công Tác Đầu Tiên

Như vậy, đoàn sứ nhân loan tin và tìm kiếm chính là thực hiện công tác làm cho người dân sống lại Hồn Nước, ý thức nạn nước, nhận lãnh trách nhiệm, và dấn thân cứu nước.

Ðây cũng là công tác làm cho Mọi Người sống trọn nếp sống Việt, trở thành Người Dân Đích Thực, trở thành Người Cứu Nước.

* Nhìn chung Kinh Mỵ Châu: An Dương Vương làm mất nước, vì đã xa cách dân, loại dân ra khỏi việc nước. Giờ đây Vua Hùng , qua đoàn sứ nhân, đã tìm lại dân, giúp dân ý thức và chung phần việc nước.

* * * *

6. Thực Trạng Sức Nước

6.1 Sức Ở Làng Thôn

a. Mọi người đã cùng cố công tìm kiếm, và rồi tại làng Phù Ðổng họ đã gặp người cứu nước.

Việc gặp thấy người cứu nước tại một làng cũng là nét đặc trưng của văn hóa Việt. Kinh nhấn mạnh người cứu nước được tìm gặp ở trong làng, chớ không phải trong cung điện vua hay nơi đô thị.

Trong nếp sống dân ta, làng giữ một vai trò nền tảng. Thể chế làng nước đã được Tổ tiên đặc biệt chú trọng và lưu truyền trong lịch sử, cũng như Kinh An Tiêm.

*

b. Với thể chế và cơ cấu sinh hoạt tự lập trong lũy tre xanh, làng chính là nơi bảo toàn và hun đúc nếp sống thuần túy dân tộc ngay giữa thời giặc xâm lăng.

Trong suốt mấy ngàn năm, xa xưa cũng như hiện đại, mọi thứ giặc từ quân sự cho đến văn hóa, xã hội… dầu tới từ phương bắc, phương tây, hay phương đông, đều chỉ có thể hoành hành ở các đô thị. Trong làng thôn, những cố gắng muôn mặt của giặc vẫn luôn gặp bức tường ngăn cản.

Lịch sử cứu nước của dân tộc ta là một bản liệt kê không dứt những anh hùng áo vải, ở mọi tầm độ và mọi nơi mọi thời.

Dưới khía cạnh quân sự, làng lại là nơi huấn luyện mọi người trở thành nghĩa sĩ chống giặc. Chẳng những hệ thống canh gác nghiêm nhặt luôn luôn bảo đảm có người túc trực, mà các lò võ thuật còn đào tạo ra nhiều vị anh hùng, nhiều cấp chỉ huy (*15).

Làng là nơi phát xuất sức mạnh dân tộc, về mọi phương diện. Vì vậy, trong công cuộc cứu nước, làng giữ vai trò then chốt. Sức Nước phải được phục hồi từ làng thôn.

* *

6.2 Sức Là Người Dân

Tại làng, đã xuất hiện người cứu nước. Nhưng nhân vật này cũng kỳ lạ. Ðây chỉ là cậu bé ba tuổi.

Tính cách bé bỏng của cậu bé tượng trưng cho đại chúng, cho toàn dân. Lại nữa, cậu bé lên ba cũng phu2 hợp với khoản thời gian mà sử Trung Hoa ghi là Ân Cao Tôn xâm lấn nước ta.

Như vậy, cậu bé ba tuổi này chính là biểu tượng cho đại chúng, cho toàn dân. Vị cứu tinh chính là người dân.

* *

6.3 Sức Đang Tê Liệt

Dầu tê liệt câm nín, nhưng Cậu Bé lại lắng nghe.

Sống trong nạn nước, toàn dân, qua Cậu Bé Phù Ðổng, phải lặng im bất động. Tuy nhiên mọi người chúng ta đều luôn luôn nôn nóng trông chờ ngày được giải thoát khỏi ách giặc. Mọi người luôn nôn nóng trông chờ ngày gỉai thoát, mọi người vẫn sôi sục trông đợi dịp vùng lên, mọi người hằng lắng tai nghe ngóng mọi nguồn tin đem lại hy vọng cứu nước.

Vì vậy, khi sứ nhân vừa loan tin Tổ về, Cậu Bé đã cấp thời hưởng ứng. Khi nghe sứ nhân, chính là lúc Cậu Bé bùng lên niềm hy vọng, sống lại Hồn Nước.

* * * *

7. Sức Dân Bộc Lộ

7.1 Ðòi Hỏi Phương Tiện

a. Ðã gặp lại Tổ, đã sống lại niềm tin, Cậu Bé liền bật nói, toàn dân đều bật nói.

Bật nói là dám hiên ngang bộc lộ. Dầu mới chỉ bằng lời nói, đây cũng là dấu chỉ của lòng tự tin và phấn khởi. Từ đây người dân đã dám tự hào về mình, dám nói lên niềm tin tưởng của chính mình.

*

b. Cậu phát biểu lời đầu tiên là đòi ngựa và roi sắt. Cậu đòi hỏi phương tiện để phá giặc cứu nước.

Ðây là dấu chứng sức mạnh tinh thần đã bộc lộ. Khi thoát khỏi tình trạng câm nín, khi tinh thần đã được củng cố, khi ý thức được trách nhiệm với nước, điều đầu tiên người dân nghĩ tới là phương tiện chiến đấu.

*

c. Người dân đòi phương tiện chiến đấu cũng là dấu hiệu cho thấy các sứ nhân, tức tổ chức nòng cốt cứu nước đã thành công trong công tác thức tỉnh người dân.

Tại khúc quanh quyết định này, vai trò của sứ nhân cũng đổi khác.

Trước đây, sứ nhân nói cho dân nghe. Nay dân đã nghe và đã nói, thì sứ nhân lại trở thành người nghe dân.

Thực vậy, khi người dân đã thành tâm tiếp nhận và đã sống đúng tinh thần Tổ, thì tiếng dân trở thành tiếng của Tổ. Tiếng dân là ý Tổ trong hiện trạng của đất nước.

Vì vậy, giờ đây tiếng dân chính là phương thức thiết thực và hữu hiệu cho công cuộc cứu nước (*18).

Khúc quanh này đặc biệt rất quan trọng cho tổ chức cứu nước, chẳng những vì nó quyết định sự thành bại, mà còn thẩm định bản chất của tổ chức. Tổ chức không biến đổi, không trở thành người nghe dân, thì chắc chắn tổ chức đó không phải của dân (*19).

* *

7.2 Ðóng Góp Tài Sức

Từ đó, láng giềng từ đem gạo vải tới giúp Cậu ăn mặc. Khi đã tự tin, người dân tự động khởi công.

Ăn mặc là nhu cầu nền tảng của đời sống con người. Vì vậy, gạo vải là tất cả những thiết yếu cho công cuộc cứu nước.

Ðẹp thay cảnh toàn dân tấp nập góp gạo góp vải. Mọi người tự nguyện góp của góp công, cộng tài cộng đức.

Bao thiện chí bấy nhiêu nung nấu, bao tài năng bấy lâu che đạy, bao sức mạnh bấy lâu đè nén, bao phương tiện bấy lâu tích trữ, bao diệu kế bấy lâu ấp ủ… giờ đây tất đều bộc phát, tất cả đều bộc hiện, tất cả đều bùng lên (*20).

Khi đã lãnh nhận trách nhiệm, người dân tự nguyện đóng góp, tự túc chu cấp những nhu yếu cơ bản của cuộc chiến đấu.

* *

7.3 Tự Động Quây Quần

a. Tất cả gạo vải, mọi sự đóng góp đó, đều để giúp cho Cậu Bé Phù Ðổng ăn mặc. Tất cả tự nguyện của dân đều tập trung vào Cậu Bé.

Người dân chỉ quy tụ quanh Cậu Bé, chớ không tập họp theo các sứ nhân.

Trong giai đoạn đầu của công cuộc thức tỉnh, người dân chỉ mới tin tưởng vào những người thân cận quanh mình, trong tầm vóc làng thôn. Những gì sứ nhân hứa hẹn, dầu sao, cũng còn quá xa vời.

*

b. Lại nữa, theo đúng tâm trạng Con Người, người dân chỉ tự ý quy tụ quanh Cậu Bé Phù Ðổng, vì chính Cậu đã tỏ ra vài dấu hiệu đặc biệt, chỉ Cậu đáp ứng phần nào công tác tìm kiếm anh hùng cứu nước.

Dân chỉ quy tụ theo ai tỏ ra thực sự có tâm huyết, có tinh thần, hết lòng vì đại cuộc, dấn thân chu toàn sứ mạng chung (*21).

Có dân tự ý quy tụ chính là tiêu chuẩn để thẩm định một công cuộc đích thực của dân, do dân (*22).

* *

7.4 Vận Dụng Điều Hợp

Khi mọi người góp sức, Cậu Bé Phù Ðổng lớn nhanh như thổi. Gạo vải thu tích không phải để chất đống, mà tất cả đều được xử dụng làm tăng trưởng sức sống toàn diện.

Trong việc tập trung sức mạnh, vấn đề phân nhiệm và điều hợp giữ phần quan trọng hàng đầu. Sức mạnh toàn dân chỉ có thể thực sự hữu hiệu, khi được vận dụng và điều hợp đúng mức. Nếu không phân nhiệm, không định hướng, sự quy tụ sẽ trở thành hỗn loạn, phân hóa, và đối nghịch nội bộ.

* *

7.5 Bài Học Chung Sức

Ðây là giai đoạn tập trung năng lực toàn dân, mà cũng là bài học đoàn kết.

Mọi người vây quanh Cậu Bé Phù Ðổng, là vì họ đã sống lại niềm tin dân tộc, họ đã ý thức trách nhiệm cứu nước, họ đã tìm ra Cậu Bé, và Cậu Bé đã bật nói.

Như vậy, công tác kết hợp toàn dân đã thành công, chẳng những giúp cho mọi người sống thực tinh thần dân tộc và ý thức trách nhiệm, mà còn nhờ chứng tỏ kế sách hữu hiệu, qua một số hoạt động có kết qủa thực tiễn (*23).

Ðây là những điều kiện thiết yếu cho việc đoàn kết toàn dân. Khi không hội đủ các yếu tố này, việc đoàn kết chỉ là chòm xóm, giai đoạn và hời hợt theo các mục tiêu hạn hẹp. (*24).

* * * *

8. Phù Ðổng Vươn Vai

8.1 Sức Mạnh Phương Tiện

Sứ vua đem ngựa và roi sắt tới. Ngựa sắt và roi sắt chính là sức mạnh và phương tiện chiến đấu.

Ngựa và roi sắt cũng là biểu trưng của sức mạnh quân sự để phá giặc (*25).

Trong bầu khí mất nước và toàn dân vừa vùng lên góp tài góp của, thì ngựa và roi sắt chính là sự đóng góp của toàn dân.

* *

8.2 Sức Mạnh Tổ Chức

a. Tuy nhiên, sức mạnh phương tiện đó lại do sứ nhân đem tới.

Ðoàn sứ nhân, tức là tổ chức cứu nước đã đem Hồn Nước về với toàn dân, nhờ đó Toàn Dân vùng dậy. Giờ đây, đoàn sứ nhân còn phải điều hợp sức mạnh ở các tổ chức làng xã thành tầm vóc toàn nước, biến sự đóng góp của toàn dân thành sức mạnh chiến đấu chống giặc.

Sức mạnh này không chỉ nhấn mạnh ở lãnh vực quân sự, mà còn bao trùm mọi lãnh vực khác, như kinh tế, xã hội, chính trị, giáo dục, ngoại giao… ảnh hưởng tới cuộc chiến đấu (26).

*

b. Như vậy, phận vụ của tổ chức cứu nước còn là nhận rõ sức mạnh hiện thực tiềm ẩn trong dân nước, rồi tùy theo hoàn cảnh và điều kiện thực tế đương thời, mà ứng biến thành sức mạnh cứu nước hữu hiệu.

Việc tổ chức và điều hợp lại cần nhân sự, khả năng đặc biệt, và ngành nghề chuyên môn… Tất cả đều xác định đúng vai trò quan trọng của một tổ chức khả dĩ có đủ sức nhìn xa trông rộng để mà biết quyền biến với tình thế (*27).

* *

8.3 Sức Mạnh Hành Động

Khi nhận được ngựa và roi sắt, Cậu Bé liền vươn vai thành người cao lớn. Cậu đã ăn nhiều, đã lớn như thổi, nhưng phải chờ cho tới khi có ngựa và roi. Cậu mới vươn vai vượt tới tầm vóc đúng mức của mình (*28).

Trước đây, khi nghe về Tổ, Cậu đã bật nói, đã dám bộc lộ chính mình. Nhưng nay, có thêm ngựa và roi sắt, Cậu mới vùng dậy, mới đi đứng, mới hành động.

Dầu mọi người đã thức tỉnh, đã quyết tâm, nhưng phải có phương tiện thì toàn dân mới có thể ra tay, mới có thể đối đầu được với giặc.

* *

8.4 Sức mạnh Toàn Dân

Thế là, nhờ có sứ nhân trao ngựa sắt, Cậu Bé đã vươn vai. Nhưng khi cậu nhảy lên ngựa, thì ngựa sắt lại biến thành ngựa thần, sống động và phun lửa.

Ở Kinh Mỵ Châu, An Dương Vương đã ỷ vào thành ốc và nỏ thần để mất dân. Nỏ thần dầu bắn một phát giết cả vạn giặc, mà vì không có dân, nên mất hiệu nghiệm, không bằng gỗ đá. Ở đây, khi được sức mạnh dân tộc xử dụng, thì dầu là ngựa sắt cũng hóa thành ngựa thần.

Không có dân, nỏ thần thành nỏ gỗ. Có toàn dân, ngựa sắt hóa ngựa thần! Toàn dân vươn vai thì mọi sự cũng đều vươn theo. Sức mạnh của toàn dân làm cho mọi phương tiện trở thành hiệu lực cách thần kỳ, trở thành linh hiển.

Không có hình ảnh nào diễn tả sức mạnh và vai trò của toàn dân một cách rõ ràng và đầy đủ hơn (*29).

* * * *

9. Vùng Lên Ðuổi Giặc

9.1 Giành Lại Đất Nước

Ðã có Hồn Nước, đã có toàn dân. Sức mạnh đã tập trung, đây là lúc vùng lên đuổi giặc để giành lại Đất Nước. Với ngựa lửa roi sắt, vị anh hùng Phù Ðổng đã oai dũng đánh bọn giặc một trận tơi bời.

Khi toàn dân đã có tinh thần, đã có sức mạnh, đã có phương tiện, thì việc đuổi giặc ra khỏi bờ cõi, cũng là chuyện đương nhiên.

Lịch sử mấy ngàn năm đã nhiều lần minh chứng hùng hồn.

* *

9.2 Ngọn Roi Nhân Thứ

a. Ngựa lửa là sức mạnh của đấu tranh, nhưng Phù Ðổng lại dùng roi sắt. Hình ảnh dùng roi sắt nói lên lòng nhân thứ của Tổ Tiên.

Phù Ðổng dùng roi chứ không dùng gươm. Roi mang ý nghĩa sửa dạy, đánh phạt, dầu là roi sắt; còn gươm giáo luôn là vũ khí chém giết. Ngay trong ngôn ngữ chúng ta cũng dùng chữ đánh, dầu là giặc, đánh giặc. Cương quyết, dũng mãnh, nhưng không tàn bạo.

Ôi tinh thần nhân thứ, khoan dung, và qúy trọng con người của văn hóa Việt (*30).

*

a. Nhân thứ, nhưng chúng ta không nhẹ da, mù quáng. Từ bi hỷ xả như Phật mà còn có mười tám tầng địa ngục với đủ thứ khổ hình. Bác ái yêu thương như Chúa mà còn có hỏa ngục thiêu đốt muôn đời.

b. Ở Kinh Mỵ Châu, An Dương Vương đã trọng dụng Thành Ốc và Nỏ thần làm sức mạnh giữ nước. Tuy nhiên, vì ông bỏ Hồn Nước, bỏ Dân Nước, nên Sức Nước đó cũng bị giặc mưu mô chiếm đoạt. Vì đó, đã mất Nước.

Ở đây, để cứu nước, toàn Dân cũng cần Sức mạnh chiến đấu để đánh giặc. Tuy nhiên, thay vì cái Thành Ốc bất động, thì là Ngựa thần oai dũng; thay vì Nỏ thần bắn giết, thì là ngọn Roi sửa phạt.

Để phá giặc, không thể không dùng sức mạnh, đặc biệt sức mạnh quân sự. Có thể cải hóa từng cá nhân mà không cần võ lực, nhưng không thể chỉ dùng lý thuyết suông mà cải hóa một hệ thống giặc.

Quân sự là phương thức bất đắc dĩ, nhưng nó lại cần thiết. Không có quân sự, sức mạnh dân tộc không thể bộc phát đúng mức để đánh đuổi giặc.

* *

9.3 Tận Dụng Năng Lực

Tuy dùng ngọn roi nhân thứ, nhưng không phải nhân thứ mà là ủy mị, mà thiếu quyết tâm. Vì giặc qúa hung bạo và cố chấp, Phù Ðổng đã phải đánh đến gãy roi sắt. Khi roi gãy, Phù Đổng nhổ tre để tiếp tục đánh.

Chi tiết này nhắc nhở lũy tre xanh. Làng xã thôn xóm là căn bản giữ nước và cứu nước suốt mấy ngàn năm. Nhổ tre đánh giặc nói lên việc tận dụng mọi năng lực, đặc biệt cơ chế chính trị, kinh tế, và xã hội đặc thù của dân nước. Tận dụng tất cả để phá giặc.

* *

9.4 Chấp Nhận Hy Sinh

Kinh còn nói thêm: trong trận chiến, có mấy làng bị ngựa lửa làm cháy lây. Sức mạnh chiến tranh chẳng những phá giặc mà cũng tàn hại một phần đất nước.

Không phải tổ tiên không nhìn thấy tai hại của chiến tranh. Nhưng khi cần thiết, vẫn cứ chấp nhận. Chấp nhận hy sinh, chấp nhận thiệt hại.

Tuy vậy, chi tiết trên chứng tỏ Tổ Tiên vẫn không giấu nỗi đau buồn vì sự tàn phá của chiến tranh. Tận thâm tâm, tận nền tảng tinh thần Việt, không bao giờ chúng ta vui sướng trên máu lửa.

Chấp nhận chiến tranh để cứu người, cứu dân, chớ không vì hiếu chiến, vì chủ trương (*31).

* *

9.5 Toàn Dân Toàn Diện

Với việc Tổ trở về, với vua Hùng và đoàn sứ nhân dấn thân, với tổ chức cứu nước, với mọi người góp gạo góp vải, với ngựa sắt roi sắt, với tre làng bị nhổ, với số làng bị cháy… tính cách toàn dân toàn diện của công cuộc cứu nước đã bộc lộ rõ ràng.

Mọi người và tất cả, đều được vận dụng để chống giặc: từ những phương tiện vật chất, gạo, vải, sắt, lũy tre, thú vật… đến làng thôn, hệ thống tổ chức quốc phòng, chính trị, xã hội, văn hóa… cho đến tinh thần dân tộc, qúa khứ lịch sử, và cả sông núi, Hồn Thiêng… tất cả đều gom đúc thành Sức Mạnh thần diệu của Dân Tộc, tất cả đều góp phần vào việc cứu dân cứu nước.

Nhờ có vậy, giờ đây chiến thắng mới thực sự là chiến thắng toàn vẹn của toàn thể dân tộc. Có như vậy, cuộc sống mới thực sự mở đầu cho tất cả mọi người.

* * * *

10. Lập Cuộc Sống Mới

10.1 Thăng Hoa và Phong Thưởng

a. Kinh đã dạy cách đánh giặc cứu nước. Giờ đây giặc đã tan, nhưng việc cứu nước vẫn chưa xong. Kinh vẫn còn tiếp: Phù Đổng cỡi ngựa lên núi và về trời.

Núi là nơi của Tiên. Lên núi là hình ảnh trở thành phần Tiên.

Phù Ðổng là biểu tượng của sức mạnh tập trung của dân tộc, tức phần Rồng. Sức mạnh đó đã được vận dụng tối đa và đã oai dũng đánh đuổi quân giặc.

Giờ đây giặc đã tan, dân nước lại vui hưởng thanh bình, nên Sức Mạnh đó lên núi, tức không còn cần phải bộc lộ oai dũng, mà được thăng hoa tiềm tàng vào sông núi, vào tâm hồn của dân nước.

Chiến công đuổi giặc trở thành kinh nghiệm sống của toàn dân, trở thành phần Tinh Thần, phần Truyền Thống bất diệt, xáp nhập vào phần Tiên của dân tộc.

*

b. Về trời là sự phong thưởng cao qúy nhất của văn hóa Việt.

Như Chữ Đồng Tiên Dung đã được về trời sau khi trọn đời chăm lo an dân thịnh nước, thì Phù Ðổng cứu được nước nên đã về trời.

Trong Kinh Phù Đổng, Tổ Tiên cũng phong thưởng tất cả mọi người đã hy sinh trong công cuộc cứu nước (*32).

* *

10.2 Giảm Quân Chuyển Tiếp

Về phần ngựa sắt, đã thành ngựa thần, nên cũng được theo về trời. Vì là sức mạnh chiến đấu, bộc lộ trong sức mạnh quân sự, nên khi xong giặc ngựa cũng phải thăng hoa. Hết giặc mà ngựa lửa vẫn còn luẩn quẩn, mà sức mạnh quân sự vẫn còn tập trung, thì chỉ hại dân (*33).

Trong suốt lịch sử dân tộc, bất cứ thời nào, hễ xong giặc là gỉam bớt quân số. Phần lớn được trở về làng thôn để cày cấy phát triển (*34).

Thời bình, quân đội của nước ta được luân phiên và chỉ ở mức tượng trưng.

Trong suốt mấy ngàn năm, mãi cho đến năm 1950 dl, nước ta không hề có quân đội chính quy.

* *

10.3 Tái Thiết Quê Hương

a. Giặc tan, các sức mạnh vận dụng chống giặc cũng đã thăng hoa. Nhưng vẫn chưa hết. Tổ Tiên vẫn chưa cho thế là xong việc cứu nước: các gốc tre Phù Ðổng đã xử dụng nay hóa thành tre la ngà.

Tre la ngà là một loại tre cứng, đẹp và bền hơn những loại tre thường. Phù Ðổng đã nhổ tre làng để phá giặc, nhưng lại hoàn trả bằng loại tre qúy hơn.

Ðây chính là hình ảnh xây dựng quê hương. Lũy tre làng tượng trưng cho xã hội ta, đã vì giặc, vì phá giặc, mà bị hư hại, thì nay sức mạnh phá giặc đó, chính Phù Đổng cũng làm cho lũy tre vững chắc hơn, tốt đẹp hơn.

* *

b. Thực vậy, qua diễn tiến vận động cứu nước, để hun đúc Sức Mạnh Phù Ðổng, toàn dân đã tìm gặp lại Tổ, đã sống lại niềm tự tin dân tộc, đã ý thức lại trách nhiệm, đã lột xác, đã dấn thân. Từ đó, toàn dân cũng đã tận tình cộng tài cộng đức, cùng nhau chia sẻ trách nhiệm, cùng gánh vác gian lao, cùng hy sinh chiến đấu bên nhau.

Tất cả đều góp phần để dân tộc vươn vai, tất cả đều góp phần để mọi người...
viethoaiphuong
#11 Posted : Wednesday, September 17, 2008 6:07:20 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)

QUỐC GIA LẮM BÁC NHÂN TỪ


Đỉnh cho một lũ CÂY NGƯỜI
Nằm vùng, nằm vũng, tơi bời đấu tranh
Để vĩnh viễn đỉnh thành tỉ phú
Còn dân lành thành ngủ thành ngu
Cây người đội lốt nhà tu
Chân tu thì đỉnh nhốt tù, triệt tiêu
Cây ruột chứa bùa yêu đỏ rực
Miệng lập lờ vỗ ngực Quốc Ra
Đặng cây vơ vét đô la
Bằng màu nhân đạo thế là nuốt ngon!
Ai cắc cớ sao gom cúng đảng
Cây hỏa mù : " Thiệt cạn lòng nhân
"Cộng kia đã chẳng thương dân
"Quốc Gia cũng rứa thì chân chính gì !"

Rứa là cộng tì tì hốt bạc
Vì Quốc Gia lắm bác nhân từ !
Nhân từ quên nhục Tháng Tư
Quên hờn vong quốc, quên tù rừng sâu
Quên máu đổ đỏ tàu vượt biển
Quên gia đình chia biệt, ly tan
Quên mình một thuở lầm than
Quên dân cháy bỏng trên giàn hỏa thiêu
Để nhân đạo mần theo kế cộng
Là góp đô nuôi sống bạo quyền !
Sống dai cộng lại cười điên
Và khen quốc lắm quan viên ... nhân từ !!!



Tha Hương
viethoaiphuong
#12 Posted : Sunday, September 21, 2008 4:21:29 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
Lá thư của một người ngoài Công giáo hướng về Tòa Khâm Sứ

Kính thưa Đức Tổng Giám Mục Hà Nội
Kính thưa Cha Giám Tỉnh DCCT Việt Nam
Kính thưa toàn thể linh mục - giáo dân đang dấn thân cho công lý – hoà bình.


Sáng nay ở Thái Hà, nhiều sinh viên tới không biết để làm gì?!
Trước hết tôi cầu xin Thiên Chúa giữ gìn và mang đến sự bình an cho các Cha, các linh mục, các giáo dân, những người đang dấn thân cho quá trình đi tìm công lý đối với chính quyền Việt Nam hiện nay.

Tôi xin thưa thật với Quí cha, cùng anh chị em rằng, tôi vẫn còn là một người ngoại đạo, chưa được lãnh nhận ơn kêu gọi từ Thiên Chúa, chưa từng tham gia bất kỳ một sinh hoạt cộng đoàn của giáo hội. Tuy vậy, tôi vẫn luôn ngưỡng vọng những sinh hoạt tôn giáo và xã hội của cộng đồng Thiên Chúa Giáo. Vẫn tin tưởng vào sự chăn dắt sáng suốt của các cha trong từng nếp nghĩ, nếp sinh hoạt hàng ngày của người giáo dân Việt Nam.

Giáo hội Công Giáo nói chung – các giáo xứ thuộc Giáo phận Hà Nội nói riêng, trong hơn 9 tháng ròng rã (tính từ sự kiện 18/12/2007 ở Toà Khâm Sứ), đã dấn thân vào vòng nguy hiểm để tìm công lý cho giáo hội nói chung và cho dân tộc Việt Nam nói riêng.

Hành động cao đẹp và dũng cảm đó càng trở nên cao thượng, khi những người tình nguyện đi vào vòng nguy hiểm lại không hề có mục đích tìm kiếm một lợi ích riêng tư, dù là nhỏ nhoi nhất. Những con người chỉ mong muốn phụng sự cho sự nghiệp chung của dân tộc, của đức tin mà họ phó thác. Điều đó càng khiến cho những kẻ ngoại đạo như chúng tôi khâm phục và mong muốn được dấng thân theo lời gọi của Thiên Chúa.

Hành trình cao thượng đẹp đẽ đó đến hôm nay, ngày 19/9/2008, đã có kết quả. Cho dù đó là một kết quả khiến người ta cảm thấy đau đớn đến lặng người. Sự sợ hãi và mất tự chủ của chính quyền Việt Nam trước sức mạnh công lý đã khiến họ sử dụng đến những giải pháp tệ hại mà một chính quyền hợp hiến - hợp pháp không bao giờ dùng đến. Họ đã trắng trợn phủ nhận tất cả mọi cam kết, hứa hẹn (kể cả với Vatican) và âm thầm thực hiện một loạt hành vi thật khó chấp nhận. Chính họ đã khai tử niềm tin vốn còn rất ít và mong manh của họ ra khỏi trái tim của người Việt Nam và cộng đồng Quốc tế.

Thưa các Cha cùng toàn thể anh chị em, hôm nay là một ngày thật dài, thật buồn đối với mọi người con nước Việt. Thú thật với các Cha và anh chị em, dù cũng rất bận rộn với công việc, nhưng ngày nay tôi không thể làm việc được. Có điều gì đó đang vỡ vụn trong lòng tôi. Thất vọng, lo lắng, phẩn nộ và rồi đến cuối ngày thì nghiệm ra rằng, đôi khi đó là dấu chỉ của niềm hy vọng.

Đây là một cuộc dấng thân với nhiều thách thức mà những người Kitô giáo không được phép thất bại. Nếu thất bại trong phép thử đòi hỏi công lý và hoà bình này, giáo hội công giáo và những người yêu chuộng công lý – hoà bình Việt Nam sẽ bị chụp cho chiếc mũ dơ bẩn là phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc. Nó cũng sẽ tạo một tiền lệ xấu cho công cuộc tìm công lý vốn đã rất khó khăn cho dân tộc Việt Nam.

Chúng tôi tin rằng, tự do và công lý không bao giờ có được một cách dễ dàng. Cũng như chúng tôi biết rằng, để cứu chuộc tội lỗi của thế gian mà Chúa Jesu phải chịu nhiều đau đớn, cuối cùng Người phải chịu chết trên thập tự giá đó thôi. Đôi khi cái kết cục bi hùng của một cá nhân – một công đồng nào đó, lại chính là dấu chỉ cho một sự chiến thắng, một sự mở đầu cho một tiến trình mới đầy nhiệm màu và tốt đẹp.

Chúng tôi biết rằng, trong tình hình hiện nay, trước những luận điệu xuyên tạc của các cơ quan truyền thông nhà nước, cũng như âm mưu của chính quyền. Giáo hội không thể kêu gọi sự hổ trợ từ bên ngoài giáo hội. Và thật sự đây chưa phải là lúc và có lẽ cũng chưa hẳn cần thiết. Nhưng đến một thời điểm hợp lý, không chỉ riêng những người công giáo,các tôn giáo, mà cả dân tộc Việt Nam, những người yêu chuộng công lý – hòa bình, sẽ tiếp sức để cùng nhau thổi bùng ngọn lửa mà các cha và giáo hội Công Giáo đã nhóm lên, để xua tan màn đêm giá buốt vẫn đang bao phủ khắp giang sơn này.

Tôi cũng tin rằng, những người Việt Nam chân chính đang đứng về phiá giáo hội, các Cha cùng toàn thể anh chị em. Ngày hôm nay, số lượng truy cập vào các website chuacuuthe.com và vietcatholic.net tăng vọt trong từng phút (chuacuuthe.com: 12h50-1227403, 13h06-1228495, 13h17-1228495...14h03-1230353, 15h46-1234274, 20h47-1247918. vietcatholic.net:13h22- 25913394, 13h33-25915020, 14h05-25918412, 17h32-25941105, 20h47-259969495).

Chúng tôi cũng rất khâm phục sự kiên trì, bền bỉ và nhanh nhạy của các Cha và anh chị em trong việc cập nhật thông tin liên tục cho các website trên. Qua đó, chúng tôi được nắm rõ tình hình của các Cha và anh chị em ở Hà Nội.

Saigòn ngày 19/9/2008

Hôm nay, ngày 20/9/2008, tôi muốn viết thêm ít suy tư và chia sẻ nữa:

Tôi nhớ rằng, Cha Joseph William Tobin, đương kim Bề Trên Tổng quyền của Dòng Chúa Cứu Thế trên thế giới, trong một cuộc trả lời phỏng vấn của đài RFA về cách giải quyết vụ Tòa Khâm Sứ của Toà thánh Vatican, cha vẫn đánh giá cao sự khôn ngoan trong ngoại giao của Toà thánh Vatican. Có lẽ khi đưa ra quan điểm trên, cha Joseph William Tobin không biết rằng chỉ 2 ngày sau đó, chính quyền Hà Nội đã ngang nhiên chà đạp lời dự báo của Cha. Vâng, đến giờ, tôi, một kẻ ngoại đạo vẫn luôn tin tưởng và thán phục chiến lược ngoại giao toàn cầu của Toà Thánh Vatican. Nhưng trong chừng mực nào đó, với những biến cố đang xảy ra, tôi lại cảm giác chiến lược ngoại giao của Vatican với Việt Nam vẫn rất khôn ngoan đó, nhưng có lẽ cũng cần phải điều chỉnh cho phù hợp hơn với tình hình Việt Nam. Nhất là trong cuộc chiến sống còn hiện nay giữa Giáo hội và Chính quyền Việt Nam, lúc giáo hội đang phải chịu oan ức và sự bức hại đến quá mức cần thiết.

Khi cuộc tranh chấp Toà khâm sứ đang tiến triển đến giai đoạn mà Chính quyền trung ương Việt Nam buộc phải quan tâm lo ngại, một văn bản (hay chính xác là một mệnh lệnh từ Tòa Thánh) đã trói tay Đức Tổng Giám Mục Hà Nội và toàn thể giáo dân, gỡ cho chính quyền Việt Nam một bàn thua trông thấy. Tôi có cảm giác trong lời huấn thị của Đức TGM đến giáo dân của mình để thực hiện mệnh lệnh của Toà Thánh, vẫn có một chút gì đó khó khăn mà chỉ một vị tướng chỉ huy trên chiến trường mới cảm nhận được. Xót xa!

Những tưởng hành động ngoại giao thiện chí đó của Vatican sẽ giúp cuộc thương thuyết giữa Giáo hội và Chính quyền trở nên thiện chí hơn. Nhưng một lần nữa, những người tin vào cộng sản lại vỡ mộng. Nói một đường - làm một nẽo, là bản chất của cộng sản, đặc biệt là cộng sản Việt Nam. Ngay cả khi họ hứa hẹn với một Quốc gia đầy uy tín và quyền lực như Vatican.

Nói theo ngôn ngữ quân sự thì Hà Nội đã sử dụng binh pháp một cách thành công. Mưu chước khổ nhục kế để có được mệnh lệnh. ..đình chiến từ Vatican. Điều đó đã tạo cho Hà Nội có thêm thời gian cũng cố mọi phương diện cho trận chiến kế tiếp, trong khi phiá bên kia, những nhà tu hành đầy thiện chí vẫn luôn tin vào một giải pháp đàm phán. Họ đánh lạc hướng sự quan tâm của dư luận trong và ngoài nước về vụ Toà Khâm Sứ, chấp nhận mở một trận tuyến phụ là Thái Hà cùng một vài sự kiện lẻ tẻ khác. Khi mọi sự chú ý vào Toà Khâm Sứ dần vơi đi, chính quyền liền mở lại mặt trận Tòa Khâm Sứ theo một phong cách hết sức quân sự, mang đầy màu sắc binh pháp và bản chất cộng sản. Bất chấp luân lý, đạo đức, tình nghĩa, luật pháp, uy tín. Mọi hành động của chính quyền nhằm chỉ đạt được mục tiêu mà họ muốn.

Những ai đánh giá thấp khả năng ra tay bất chấp luật lệ của Chính quyền với vụ Thái Hà hay những nơi khác trong những ngày sắp tới, có lẽ nên thay đổi quan điểm và hãy nhìn vào cách bày binh bố trận của họ. Đánh Toà Khâm Sứ đúng vào lúc vụ Thái Hà cũng lên đến cao điểm căng thẳng, họ giải quyết được hai mục tiêu cùng một lúc. Giải quyết vụ Tòa Khâm Sứ, làm giảm sự chú ý đến Thái Hà. Một lần nữa, Thái Hà là bị đặt trong nước cờ nghi binh của chính quyền. Chính quyền đang trông chờ sự phân tâm của nguời Công giáo tại Thái Hà trong trận Tòa Khâm Sứ để mở trận tuyến này sau đó. Dẹp được hai mặt trận chính này, những nơi còn lại không còn là vấn đề quan trọng đối với họ.

Sự phân tâm này có đang diễn ra hay không? Là một người nhìn từ ngoài như tôi, cái nhìn nhận logic thì là có. Suốt ngày hôm nay (19/9/2008), những website chuyên đưa tin về Thái Hà như chuacuuthe.com hay vietcatholic.net hầu như không đưa một tin nào về Thái Hà mà dành toàn bộ cho sự kiện TKS. Vụ Thái Hà đã được giải quyết xong rồi chăng? Sao hoàn toàn im lắng chỉ sau một đêm thức dậy? Tôi nghĩ các Cha, những người đang lãnh đạo Giáo hội công giáo Việt Nam hoàn toàn sáng suốt và ý thức được vấn đề này.

Trước những nước cờ đầy thâm độc của chính quyền, rõ ràng họ đã xem Giáo hội công giáo Việt Nam, những người theo Công giáo là kẻ thù bên kia chiến tuyến mà họ cần thiết phải dùng mọi mưu chước binh pháp để dẹp tan. Những người Công Giáo cần phải có những hành động đáp trả hợp lý trong khả năng của mình. Có lẽ đây là lúc các giáo phận, giáo xứ cần thể hiện sự hiệp thông mạnh mẽ và thực chất nhất của mình với trách nhiệm là thành viên của giáo hội. Tất cả giáo dân phải thể hiện sự dâng hiến của mình với đức tin. Thể hiện bằng tất cả các phương tiện, mọi lúc, mọi nơi.

Tôi có niềm tin sắt đá rằng, những nhà lãnh đạo giáo hội Công Giáo Việt Nam hôm nay không bao giờ chọn giải pháp thỏa hiệp với chính quyền, bởi trí tuệ được soi sáng bằng đức tin của các Cha không có chổ để dành cho niềm tin tà mị. Tôi tin vào lời tuyên bố mạnh mẽ của Đức Cha TGM Hà Nội với chính quyền rằng: "chúng tôi có quyền sử dụng những khả năng có thể để bảo vệ tài sản của chúng tôi". Vâng, ù Đức Cha không có trong tay lực lượng vũ trang hùng mạnh, giáo dân cũng chẳng được trang bị vũ khí cho dù thô sơ nhất như gậy gộc, giáo mác! Khả năng mà Đức Cha có được là lòng người và đức tin. Tuy nhiên, đó là những vũ khí có sức huỷ diệt bao liệt mà không một thứ vũ khí chiến tranh nào có thể đối đầu được. Trận đánh này, tôi mong sao không có những mệnh lệnh đình chiến bất ngờ trói tay vị tướng dũng mảnh trên chiến trường như ông.

Tôi càng tin tưởng hơn ở các vị lãnh đạo giáo hội công giáo Việt Nam hiện nay về quan điểm không thỏa hiệp khi gần đây trong cuộc trả lời phỏng vấn của đài RFA, cha Giám tĩnh DCCT Việt Nam Phạm Trung Thành không tỏ ra mặn mà với giải pháp nếu Vatican lại can thiệp cho vụ Thái Hà để đi đến kết cục như vụ Toà Khâm Sứ.
Trong trận chiến khó khăn này, các Cha cùng với đàn chiên của mình phải dấn thân để bảo vệ quyền lợi chính đáng của giáo hội. Đồng thời cũng là cuộc đấu tranh cho công lý và hoà bình, quyền được sống của những người Việt Nam thấp cổ bé miệng trong gọng kiềm nghiệt ngã của cường quyền.

Rất mong mọi người bình tĩnh, sáng suốt, cảnh giác để tránh rơi vào mưu chước cám dỗ nhằm đi đến thỏa hiệp với những người cộng sản. Có lẽ đây là lúc xác quyết rõ ràng rằng, quyền lợi của những người cộng sản, đặc biệt là cộng sản Việt Nam không bao giờ có thể dung hòa với quyền lợi chính đáng của đức tin - công lý và hoà bình.
Cầu xin Thiên Chúa ban phước lành và sức mạnh đến các Cha và những người đang sát cánh cùng các Cha trong những giờ phút khó khăn này.

Chúng tôi luôn hướng về các Cha và giáo hội. Cầu xin Thiên Chúa ban sự bình an đến các Cha và anh chị em.

Sài Gòn, ngày 20/9/2009
viethoaiphuong
#13 Posted : Sunday, September 21, 2008 4:24:51 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)



Tiếng Chuông Chân Lý

Kể từ 30.4.1975 đến nay, đã hơn 30 năm, cả nước Việt không
có một ngày "Tự Do - Hạnh Phúc" . Người dân sống trong sự
khủng bố tinh thần, chà đạp thể xác ... Lòng dân không có chút
niềm tin "Chân Lý" đối với chế độ độc tài đảng trị của csVN .

Hơn 30 năm, csVN tự cho mình là có công thống nhất đất nước,
đem lại "Độc Lập - Tự Do - Hạnh Phúc" . Nhưng tất cả những thứ
đó chỉ có đảng viên chúng hưởng, còn người dân chỉ là Nô Lệ
cho đảng không khác gì trâu bò .

Hơn 30 năm, csVN nối bước tên Việt Gian Cộng Sản Hồ Chí Minh
dâng đất và biển cho Tàu Cộng . Ngụy quyền Hà Nội khẩn cầu Tàu
ban chức tước vinh thân; thi đua nhau tham nhũng, hút máu dân
lương ; phong chức cho nhau và thi đua bán Nước lòn Tàu Ô .
Đưa đất nước mất "Độc Lập" rơi vào Thuộc Địa mới cho Tàu . Quân
đội thì tiếp tay cho Tà Quyền Hà Nội buôn dân bán nước.

Hơn 30 năm, csVN luôn dùng chiêu bài Độc Tài và Mỵ Quốc . Trị
Dân trên đầu súng, nhà tù; người dân chỉ biết khum lưng nô lệ,
không dám mở lời nói lên Công Lý . Nhà báo, truyền hình, truyền
thông đều phải nói đúng theo khuôn rập đảng chỉ thị . Đó, mà csVN
gọi là tự do ngôn luận ...

Hơn 30 năm, csVN cài Cha, Sư Quốc Doanh vào Chùa, nhà thờ và
cài những tên háo danh tham tài vào khắp mọi nơi kể cả Hải Ngoại .
Mục đích làm lũng đoạn xáo trộn lòng dân; không biết đâu là Chính
Nghĩa và đâu là Tà Đạo, để chúng đạt được cốt lõi "Mỵ Dân" cai trị .

Cũng vào năm 2007, lòng dân người Công Giáo . Đã gióng lên
tiếng chuông "Cầu Nguyện" xin csVN trả lại "Công Lý" cho Công
Giáo . Hiện nay 18.9.08 tại Thái Hà csVN cho du côn làm ô uế nơi
bàn thờ Đức Mẹ và Toà Khâm Sứ Hà Nội ngày 19.9.2008
csVN dùng đầy sức mạnh về vũ lực, nhằm đè Giáo Dân mà san
bằng Toà Khâm Sứ . Chúng không cần nói gì về công lý, chỉ cần bạo
lực thắng tất cả .

Đứng trước đầu súng dã man cuả csVN, niềm tin vững mạnh của
Giáo Dân "Cầu Nguyện" cho "Công Lý" . Điều này cũng nhờ đến
"Thiên Chúa" dẫn con cái làm nên "Công Đạo" không hề sợ hãi mà
vẫn tiếp tục "Cầu Nguyện" . Rất là cảm phục và kính cẩn cho lòng
tin và yêu thương vô biên của người Công Giáo .

Nguyện Chân Lý sẽ chiều sáng cho Đất Nước Việt Nam .

Một người ngoại đạo
Vivi
Norway 21.9.2008
viethoaiphuong
#14 Posted : Sunday, September 21, 2008 5:30:25 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
Thơ Đắng: Ngày Đi Ngày Về...
21/09/2008

Ngày đi Ðảng gọi 'Việt gian'
Ngày về Ðảng lại chuyển sang 'Việt kiều'
Chưa đi: phản động trăm chiều
Ði rồi: thành khúc ruột yêu ngàn trùng
Trốn đi Ðảng bắt đến cùng
Trở về mời gọi, săn lùng đô la
Ðảng ta ân đức bao la
Làm cụ thằng đểu, làm cha thằng lừa
Ngày xưa chửi Mỹ hơn người
Ngày nay nịnh Mỹ hơn mười lần xưa
Ngày xưa đánh Mỹ không chừa
Ngày nay con cái lại lùa sang đây
Ngày xưa Mỹ xấu, Ðảng hay
Ngày nay Ðảng ngửa hai tay xin tiền !'

Trần Khải Thanh Thủy
viethoaiphuong
#15 Posted : Monday, September 22, 2008 5:42:02 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
"SuThatSeGiaiPhongAnhEm"...

VietCatholic News (Thứ Ba 23/09/2008 03:14)

THÁI HÀ- TÒA KHÂM SỨ: CHUYỆN NHỎ

Không bàn đến chuyện nực cười, vô liêm sĩ của bộ phận cầm quyền đang hành xử liên quan đến chuyện Thái Hà và Tòa Khâm sứ mấy ngày qua. Bởi chưng, những chuyện thật như bịa là chuyện thường ngày của cái gọi là Chính quyền độc tôn, độc quyền, độc đoán, độc tài và cả độc ác của nhiều quốc gia xưa lẫn nay. Ta có toàn quyền nên ta làm gì cũng được. Ta luôn luôn đúng nên ta bất chấp ngôn luận đó đây. Chỉ có ta lãnh đạo nên ta không cần đối thoại với một ai. Chỉ có ta làm ra luật (Lập pháp) nên ta có quyền bất chấp luật lệ! Chỉ có ta là người thi hành luật (hành pháp) nên ta làm gì cũng là thực thi pháp luật. Chỉ có ta xét xử, chế tài (Tư pháp) nên mọi sự đúng sai ở trong tay ta, và dĩ nhiên phần đúng là luôn ở ta. Những ai làm khác ta, có ý kiến nghịch với ta đều là sai trái, phạm pháp và hệ quả tất yếu là khởi tố, tù tội…

Thử hỏi vì sao ngay tại mộ Thủ đô ngàn năm văn hiến, trong một hoàn cảnh lịch sử mà sự thông tin không thể nào bị ém nhẹm, chưa kể là rất nhanh nhạy như hiện nay, thế mà Chính quyền Thủ Đô Hà Nội lại có những hành vi ngược ngạo như thế đối với bà con tín hữu Công giáo qua chuyện Thái Hà, đặc biệt là chuyện Tòa Khâm Sứ khởi đầu vào ngày 19-9-2008.

Có nhiều người nghĩ rằng đây là đòn đánh phủ đầu của giới cầm quyền muốn răn đe các tôn giáo và vừa chứng tỏ uy lực của mình. Tuy nhiên theo thiển ý của tôi, dù không loại bỏ các dụng ý trên, nhưng còn có một dụng ý khác thâm độc hơn nhiều. Đó là chính quyền muốn gây một xì căng đan để chuyển hướng dư luận trong và ngoài nước.

Vừa qua người anh em “môi răng liền kề” là Trung Quốc vừa nhắc lại cái Công Hàm của Nguyên Thủ Tướng Phạm Văn Đồng cách đây 50 năm, minh nhiên hay mặc nhiên công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Là người dân Việt yêu nước, thương nòi thì ai ai cũng căm giận, phẩn nộ cái sự “bá quyền” của người “anh em”. Dĩ nhiên người ta không thể không trách cứ hành vi của các vị cầm quyền phe ta trước đây. Trong số những người căm phẩn và bày tỏ sự phản bác chuyện này có cả nhiều vị đã và đang nắm quyền và nhất là những người đang quyết tâm hy sinh vì công lý, vì dân chủ, vì hạnh phúc của quê hương Việt Nam. Một vài nhà dân chủ ngồi tọa kháng đã bị bắt hay bị quản thúc cách này cách khác. Chắc chắn vì quê hương dân tộc, vẫn có đó nhiều người đang nắm quyền chức phẩn nộ, bất bình nhưng chưa có dịp biểu lộ chính kiến. Còn phía người dân, đặc biệt thành phần trí thức thì có thể xả “xì trét” bằng các diễn đàn “blog” này nọ.

Thử đặt mình vào kẻ cầm quyền:

Tình yêu quê huơng là một tình yêu không thuộc độc quyền của một ai, một tập thể nào. Hơn nữa, là con dân Nước Việt, một đất nước có bề dày lịch sử nhiều phong ba, bão tố trong việc bảo vệ sự độc lập tự do và vẹn toàn lãnh thổ, thì lòng yêu nước như là cái gì vốn sẵn có trong máu huyết từng người. Bất cứ giá nào cũng không thể để mất đất đai mà tiên tổ để lại, dù là hải đảo xa xôi hay là giải đất biên giới phía Bắc. Không ai dại gì đi chống lòng yêu nước của đồng bào mình, vì làm như thế là quá “vong bản”, mất gốc. Nhưng người ta lại sợ những tấm lòng yêu nước ấy có thể làm lung lay cái ghế, cái chức, cái quyền của mình đang nắm giữ. Và chắc chắn sau những cái ghế, chức, quyền ấy là vô vàn bổng lộc bất chính mình đang hưởng, đang thu có thể bị đe dọa.

Thời gian là liều thuốc hữu hiệu trong nhiều trường hợp. Thiên hạ đã um sùm sùm lên về các xì xăng đan qua chuyện “Năm Cam”, “Tân Trường Sanh”, “PMU 18”…nhưng rồi với thời gian cái gì cũng qua hay lắng dịu xuống mà thôi. Vậy ta hãy làm cái gì đó để người ta tập trung chú ý mà lãng quên chuyện bị mất đất, mất đảo của tổ tiên. Mãi lo tập trung chú ý vào chuyện khác thì sau một thời gian dài ngắn, chuyện mất đất sẽ nhẹ đi hay bớt ồn ào đi và thế là ta khỏi phải bị kết án về cái tội “gây hậu quả nghiêm trọng” gần như là bán nước.

Không gì tuyệt vời cho bằng tập trung sự chú ý vào cái việc đòi đất, đòi nhà của mấy người Công Giáo. Nhân dân ta theo Công giáo chỉ là thiểu số. Bà con Phật tử chính danh thì cũng không nhiều. Giữa người đạo này và đạo khác cũng có đó nhiều sự không thuận thảo, chưa kể là vẫn có đó sự ganh tị tiềm tàng. Khi ta đánh dân Công giáo thì ít nữa là có rất nhiều người cùng đảng phái hay đang nắm quyền ủng hộ ta. Chưa kể số người có lập trương trung dung, con số người vì sợ hãi không dám lên tiếng ở nước ta thì đầy dẩy. Đánh vào đám dân Công giáo, bất chấp người vai vế, chức vị nào, tuy có hơi bất nhân, hơi vô đạo, nhưng một mủi tên mà trúng hai mục tiêu, nhất là mục tiêu chuyển hướng sự quan tâm của người dân ra khỏi chuyện mất đất, mất đảo là ta thắng lớn.

Đã đánh là sử dụng mọi thủ đoạn, kể cả thủ đoạn đê hèn. Chẳng hạn vừa qua thông tin truyền hình và báo chí Việt Nam chúng ta cắt xén câu phát biểu của Đức Tổng Giám Mục giáo phận Hà Nội để gây bức xúc trong lòng những người dân Việt yêu nước, thương nòi. Đúng là một chiêu tuyệt độc mà việc giải độc không phải dễ dàng gì khi mà Chính quyền độc nắm phương tiện truyền thông đại chúng. Trong khi nội dung lời phát biểu của Đức Tổng Hà Nội là chúng ta, chính quyền và các tổ chức tôn giáo, các tập thể xã hội… cần chung vai sát cánh làm việc cách hợp lý để thế giới kính trọng Việt Nam ta mỗi khi có người đi ra nước ngoài, thì Chính quyền chúng ta làm cho người dân hiểu ngược lại là Ngài Đức Tổng vong bản khi “cảm thấy nhục nhã” vì mang hộ chiếu Việt Nam. Đánh được người cầm đầu thì bà con các tôn giáo khác lẫn bà con lương dân và người cộng sản sẽ cho rằng người Công giáo là phản quốc thảy thảy.

Thử đặt mình vào người bị đánh: Thái Hà – Tòa Khâm sứ là chuyện nhỏ.

Hội Thánh Việt Nam đã mất biết bao nhiêu cơ sở, biết bao nhiêu đất đai hợp pháp của mình? Nếu làm con số thống kê thì nhiểu người phải há miệng kinh ngạc. Đã mất nhiều như thế mà còn gồng vai để đòi lại một mảnh đất, một căn nhà làm gì? Khi phía Chính quyền khăng khăng không chịu nhượng bộ, không chịu thua lý, dù không có lý chút nào, thì chuyện kiên trì chịu khổ, chịu bách hại có mang lại kết quả gì chăng? Con kiến mà kiện củ khoai! Mấy ông chủ hữu danh vô thực mà dám đi kiện các đầy tớ có đủ đầy súng ống hả! Chuyện dã tràng se cát thôi.

Không, nhiều vị lãnh đạo Công giáo đã từng tuyên bố rằng chuyện đất đai nhà cửa chỉ là chuyện nhỏ. Đó chỉ là cái nhân, cái cớ (nói theo tiếng nhà Phật là cái duyên) để đấu tranh cho công lý ngự trị trên quên hương đất Việt. Rất có thể việc đấu tranh đòi đất, đòi nhà sẽ thất bại, nghĩa là không đòi được gì cả và có thể phải chuốc lấy sự bách hại, tù tội… nhưng tiếng nói đạo đức, nhân nghĩa, tiếng nói công lý lại được cất lên khắp mọi miền đất nước. Hơn nữa khi ánh sáng bừng lên thì nhiều cái nhơ nhớp sẽ lộ diện.

Một thiển ý đáng lưu ý: Giải độc

Theo thiển ý của tôi, để cho tiếng nói của công bình của chân lý được cất lên thì tiên vàn cần phải “GIẢI ĐỘC”.

Trong phạm vi gia đình, một người cha độc đoán, độc quyền, độc tài thì cả nhà sẽ ở trong địa ngục. Trong phạm vi xã hội, nếu một tổ chức kinh tế nắm độc quyền, chẳng hạn như cái “Ông Điện Lực”, thì xã hội sẽ vô vàn điêu đứng mà chúng ta đã chứng kiến hết năm này đến năm khác. Đã độc quyền thì ông tự tiện “cúp điện” tùy hứng làm cho nhân dân, cách riêng, các nhà sản xuất điêu đứng.

Trong phạm vi quốc gia, nếu có một tổ chức độc quyền lãnh đạo đất nước, chẳng hạn đảng cộng sản, thì đảng sẽ ở trên mọi cơ cấu quyền lực. Quốc Hội (Lập Pháp) cũng chẳng là gì. Muốn thông qua bộ luật nào hả? Phải theo sự lãnh đạo của đảng. Chính Phủ ư? Đảng ra lệnh là ngay Thủ Tướng (Hành Pháp) cũng phải tuân hành, chẳng hạn như chuyện ông Thứ trưởng Bộ Giao Thông Nguyễn Việt Tiến đấy. Còn Tư Pháp thì sao đây? Công an, Viện Kiểm Sát, Tòa án đều là công cụ của đảng mà thôi. Đảng biểu bắt ai, khởi tố ai, bỏ tù ai thì chuyện phải xảy ra như vậy.

Người dân khiếu kiện, tập thể tôn giáo đòi hỏi sự công bằng, quả là chuyện quá khôi hài và vô ích. Ai đứng ra làm trọng tài xét xử đây? Cả Lập Pháp, Hành Pháp, Tư Pháp đều do đảng đặt ra và lãnh đạo. Không bao giờ có chuyện đảng xử đảng thua dân, thua các tập thể tôn giáo… Tuy nhiên thỉnh thoảng cũng có vài ba chuyện lẻ tẻ mà đảng chỉ đạo hay bật đèn xanh khi một cơ quan Tư Pháp nhìn nhận sai lầm và bồi thường cho nạn nhân oan sai để cho dân tưởng rằng luật pháp nghiêm minh hay để làm mặt, làm mủi với thế giới.

Đã độc quyền là độc đoán, đã độc đoán là độc tài, và chuyện độc ác là chuyện đương nhiên xảy ra. Cần phải giải độc ngay để người dân nước Việt chúng ta thoát ách lầm than khốn khổ, để đất nước Việt Nam có cơ hội bay lên ngang tầm với bạn bè năm châu.

Làm sao để giải độc đây? Có người đề nghị là lấy độc trị độc. Một phương sách khá hay và rất có thể có ngay hiệu quả nhưng không hợp với tinh thần Tin Mừng. Vậy chỉ có cách là “không sợ độc”, sẵn sàng đối diện với “sự độc” và sẵn sàng đón nhận mọi sự xấu do cái độc gây ra. Và chuyện vác thập giá, chuyện hy sinh là chuyện đương nhiên. Không qua thập giá thì sẽ không đến vinh quang.
Ngu Lão-Daklak

==

Tại sao TGM Kiệt nói "rất nhục nhã khi cầm cái hộ chiếu VN"?

Sau những thất bại nặng nề từ việc vu khống, đơm đặt của truyền thông lề phải với Giáo dân GX Thái Hà và Linh mục Tu sỹ DCCT Hà Nội. Báo chí phía nam ngay sáng nay 21/09/2008 đã bắt đầu nã phát đạn 'lép' đầu tiên trên tờ báo Thanh Niên vốn được xem là của hội liên hiệp TNVN.

Việc báo thanh niên và các tờ báo đi theo lề phải phía nam mặc nhiên im lặng vì cộng đồng GDCGVN tại phía nam có dân số chiếm tỉ lệ không nhỏ trên cả nước, và vì muốn bịt kín tin tức trên mật trận phía nam. Nay để cổ võ cho hành động phi chính nghĩa của chính phủ nước CHXHCNVN, của UBND TP Hà Nội, cho ngành an ninh mật thám Hà Nội, và cho lực lượng phản ứng nhanh của CA đầu gấu, báo Thanh Niên ra đòn đầu tiên đánh thẳng vào vị chủ chăn của Tổng Giáo Phận Hà Nội, Đức Cha Giu-se, vị lãnh đạo bất khuất của TGP Hà Nội, TGM Ngô Quang Kiệt.

Còn nhớ mấy tháng nay tờ Báo chiếm nhiều tình cảm của độc giả trong phong trào đầu tàu chống tham nhũng của Việt Nam, từng chịu oan khuất khi nhà báo kỳ cựu phụ trách mảng nội chính bị bắt đi tù vì phanh phui vụ tham nhũng nguồn vốn ODA của PMU 18, phó tổng biên tập của tờ báo này cũng bị tước thẻ nhà báo và bị đuổi cổ về vườn do có hành động bênh vực công lý.

Chắc chắn để lấy điểm với vị chỉ huy trưởng - Bộ Thông tin truyền thông từng làm mất mặt tờ báo luôn phải tuân thủ 'lề phải' là Ngài Lê Dõan Hợp. được chỉ thị từ trung ương, báo Thanh Niên châm ngòi nổ đánh công giáo từ phía mạn nam của tổ quốc. Việc xào nấu tin tức và cắt dán thông tin là căn bệnh thường thấy của báo chí kách mệnh. Việc dùng câu nói trong ngữ cảnh Đức TGM Kiệt trình bày thẳng thắn trong tinh thần cởi mở với mấy vị tai to mặt lớn của UBND TP Hà Nội mà báo Thanh Niên lợi dụng để đơm đặt, và làm hạ uy tín của vị chủ chăn can đảm, anh hùng của TGP Hà Nội, của GHCGVN.

Đây chắc chắn sẽ tạo ra phản ứng ngược tức thời của đồng bào GDCG phía nam, đặc biệt đồng bào GDCG Sài Gòn, TP Hồ Chí Minh vốn rất yêu quý và luôn tin tưởng vào vị chủ chăn khả kính của mình. Chúng tôi, những người công giáo Sài Gòn xin thông báo với đồng bào cả nước rằng: chúng tôi cảm thấy nhục nhã ê chề khi làm công dân của nước CHXHCNVN!. Một chế độ, một nhà nước lừa bịp dân chúng. Một chế độ, một nhà nước mị dân. Một chế độ, một nhà nước ăn cắp niềm tin.

Đến lúc này chẳng đặng đừng, cuộc chiến giữa cái thiện và cái ác sẽ đặt gánh nặng trọng trách trên vai mỗi cá nhân đồng bào giáo dân cả nước. Đặc biệt, Đức HY JB, TGM giáo phận Sài Gòn TP Hồ Chí Minh sẽ buộc phải can thiệp. Tiếng chuông nhà thờ trong TGP đang chờ đợi để cất lên tiếng bi tráng kêu gọi lương tâm người công chính nói không với ác tà thâm độc và xảo trá của chính quyền này. Thánh gía nến cao và hàng vạn, hàng triệu ngọn nến sẽ sắp sửa được thắp lên cho công lý tỏa sáng trên quê hương Việt Nam.

"Sự thật sẽ giải phóng anh em"
__________________
Tôi cảm thấy nhục nhã với bạn bè thế giới khi làm công dân nước CHXHCNVN - Giáo dân Sài Gòn
viethoaiphuong
#16 Posted : Monday, October 6, 2008 9:27:27 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
"Ngày 3 tháng 8 vừa qua, đại văn hào Nga Aleksandr Isayevich Solzhenitsyn qua đời; và ngày 6, lễ nghi an táng của ông được cử hành rất long trọng tại Đan Viện Donskoy, Maskva, thủ đô nước Nga. Ông là người từng bị đày đọa tột cùng và cũng từng hưởng vinh dự rất cao ngay trên quê hương mình. Ông đã được trao giải thưởng Nobel văn học vào năm 1970, thời mà nước Nga còn do Đảng Cộng Sản lãnh đạo.

Diễn từ ông gửi đến Hội Đồng Nobel cách đây gần 40 năm vẫn còn nóng bỏng chất thời sự, đối với thế giới hôm nay, và đặc biệt đối với nước Việt Nam thân yêu của chúng ta trong những ngày vừa qua. Vì thế tôi dịch lại phần cuối cùng để chúng ta – nhất là những người cầm bút ở bất cứ môi trường nào – đọc lại mà thấm thía.
Ai muốn xem trọn văn bản bằng tiếng Anh, xin tìm vào thẳng địa chỉ sau đây: http://nobelprize. org/nobel_ prizes/literatur e/laureates/ 1970/solzhenitsy n-lecture. html

CÓ THỂ CHIẾN THẮNG SỰ GIAN DỐI !

Tôi đã hiểu và cảm nhận rằng văn học thế giới không còn là một tuyển tập trừu tượng, hoặc một tổng hợp do các nhà phê bình văn học tạo nên; nhưng đúng hơn đấy là một thân thể và một tinh thần chung, một sự thống nhất tình cảm phản ánh sự hiệp nhất ngày càng lớn lên giữa các thành phần nhân loại.
Biên giới giữa các nước vẫn còn đỏ rực, hừng hực vì dây điện và những tràng súng liên thanh; và nhiều bộ nội vụ vẫn nghĩ rằng văn học cũng là 'nội vụ' đặt dưới quyền điều khiển của mình; các tít báo vẫn còn chạy: "Không được can thiệp vào chuyện nội bộ chúng tôi !"

Thế nhưng không còn chuyện gì là Chuyện Nội Bộ trên cái thế giới đất hẹp người đông của chúng ta hiện nay ! Và cách duy nhất để giải cứu nhân loại hệ tại ở mọi công việc mà mỗi người làm trong lãnh vực mình; ở việc những người Phương Đông thực sự quan tâm đến những gì mà người ta suy nghĩ tại Phương Tây, và người Phương Tây thực sự quan tâm đến nhưng gì đang xảy ra tại Phương Đông.
Và văn chương, với tư cách là phương tiện nhạy cảm và đáp ứng kịp thời nhất mà loài người có được, là một trong những nhân tố đi hàng đầu để tiếp thu, hòa nhập và nắm bắt được cái cảm thức về sự hiệp nhất ngày càng lớn mạnh của cộng đồng nhân loại. Vì thế, tôi tin tưởng ngỏ lời với thế giới văn chương hôm nay – với hằng trăm bạn hữu mà tôi chưa bao giờ gặp được con người bằng xương bằng thịt và có thể tôi sẽ không bao giờ gặp được.

Hỡi các bạn ! Chúng ta hãy cố gắng giúp đỡ, nếu chúng ta còn một giá trị nào đó ! Từ thời xa xưa đến nay, ai làm nên sức mạnh hiệp nhất, chứ không phải chia rẽ, trên các đất nước chúng ta, những đất nước bị xâu xé bởi các đảng phái, phong trào, đẳng cấp và phe nhóm chống đối nhau ? Tự bản chất, người cầm bút có một vị trí: họ là những người thể hiện tiếng mẹ đẻ của mình, là lực lượng liên kết chính yếu của một quốc gia, của chính mảnh đất mà người dân cư ngụ và – ở mức cao nhất – của tinh thần quốc gia.

Tôi tin rằng thế giới văn học tự mình có sức mạnh giúp đỡ nhân loại, trong những giờ phút nhiễu nhương này, để nhân loại tự nhìn ra rõ chính mình, bất chấp sự tuyên truyền của những người và những đảng phái đầy định kiến.
Thế giới văn học có sức mạnh để chuyển tải kinh nghiệm tích lũy ở một miền đất này sang một miền đất khác, hầu cho chúng ta không còn bị chia cắt và đui mù, hầu cho các bậc thang giá trị khác nhau được mọi người đồng thuận, và một quốc gia nhất định sẽ học được một cách đúng đắn và cô đọng lịch sử chân chính của một quốc gia khác, với tinh thần thừa nhận và với cảm thức đớn đau như thể chính mình đang trải qua kinh nghiệm đó; và như thế, quốc gia ấy sẽ tránh phải lặp lại những sai lầm thảm khốc tương tự.

Có lẽ trong những điều kiện hiện nay, văn sĩ chúng ta có thể vun xới trong bản thân mình mảnh đất cho một tầm nhìn bao quát TOÀN THỂ THẾ GIỚI: tại trung tâm thì quan sát như một người khác ở bên cạnh mình, tại ngoài viền thì chúng ta bắt đầu kéo về những gì xảy ra từ mọi nơi trên thế gi ới. Và chúng ta sẽ nối kết, sẽ tôn trọng sự cân bằng của thế giới này.
Nếu không phải là những người cầm bút, thì ai sẽ đánh giá, không chỉ về việc quản lý thiếu hiệu quả trên đất nước mình, (mà trong nhiều nước thì đây là cách kiếm ăn dễ nhất, một công việc mà bất cứ người nào không làm biếng cũng có thể làm), mà còn đánh giá về chính người dân, về sự nhẫn nhục đê hèn hoặc về sự yếu kém đầy tự mãn của họ ? Ai sẽ đánh giá về cuộc chạy đua nhẹ dạ của thế hệ trẻ, và về những tên ăn cướp trẻ đang chìa dao găm ra ?
Người ta sẽ hỏi: văn học thì có thể làm gì để chống lại sự tấn công khốc liệt của bạo lực công khai ? Vậy thì chúng ta đừng quên điều này: bạo lực không sống một mình và không có khả năng sống một mình; nó buộc phải đan xen với dối trá. Giữa chúng có một mối dây liên kết tự nhiên, mật thiết và sâu đậm nhất.

Bạo lực lấy gian dối làm nơi trú ẩn, gian dối lấy bạo lực làm chỗ nương tựa.
Người nào từng một lần tuyên bố lấy bạo lực làm PHƯƠNG PHÁP thì người đó buộc phải chọn dối trá làm NGUYÊN TẮC !

Khi mới ra đời, bạo lực hoành hành một cách công khai và thậm chí vênh vang. Nhưng khi nó mạnh rồi, có ghế ngồi vững vàng rồi, nó cảm thấy bầu không khí quanh mình loãng ra nên không thể sống được nếu không hạ xuống mà nấp vào lớp mây của gian dối, ngụy trang mình bằng những lời đường mật. Không nhất thiết là lúc nào nó cũng công khai cắt cổ người ta đâu, mà thường thường nó đòi buộc dân đen của mình thề trung thành với dối trá, đồng lõa với dối trá.
Bước đi bình thường của người can đảm bình thường là không tham gia vào dối trá, không ủng hộ dối trá. Cứ để NÓ xâm nhập vào thế giới, thậm chí cai trị thế giới này – mà không có sự trợ lực của mình. Nhưng văn sĩ và nghệ sĩ thì có thể làm hơn như thế: họ có thể CHIẾN THẮNG SỰ GIAN DỐI ! Trong cuộc chiến chống lại gian dối thì nghệ thuật đã từng chiến thắng và sẽ chiến thắng mãi. Một cách rõ ràng và không thể phủ nhận được, vì mọi người ! Gian dối có thể khuất phục nhiều thứ trên thế giới này, nhưng không thể khuất phục nghệ thuật được.
Và ngày nào gian dối bị xua tan thì bạo lực trần trụi sẽ tỏ lộ thân hình gớm ghiếc – và bạo lực, thối rữa, sẽ đổ nhào.

Tác giả: Alexandr Solzhenitsyn,
chuyển ngữ: Trần Duy Nhiên
viethoaiphuong
#17 Posted : Sunday, December 21, 2008 10:43:22 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
THẾ GIỚI CỦA CHÚNG TA


Nếu thu nhân loại toàn thế giới xuống thành một làng nhỏ có 100 người, ta sẽ có một cái làng như sau :

- 57 người châu Á
- 21 người châu Âu
- 14 người châu Mỹ (Nam Mỹ và Bắc Mỹ)
- 8 người châu Phi
- 52 phụ nữ
- 48 đàn ông
- 70 người da màu
- 30 người da trắng
- 6 người sẽ sở hữu 59% tổng tài sản của làng, và cả 6 người đều là
người Hợp chủng quốc Hoa Kỳ.
- 80 người sẽ khong có nhà ở tử tế
- 70 người mù chữ
- 50 người sẽ khong được ăn no
- 1 người sẽ chết
- 2 người sẽ được sinh ra
- 1 người có máy tính
- 1 (chỉ có 1 người) có trình độ Ðại học trở lên

Nếu nhìn Thế giới dưới góc độ như thế này ta sẽ thấy rằng chúng ta, những con người, cần sự thông cảm, đoàn kết, sự nhân ái và trí thức đến mức nào !
- Nếu trong tủ lạnh nhà bạn có thức ăn, bạn được ăn mặc tử tế, bạn có 1 mái nhà và 1 cái giường êm ấm, bạn giàu có hơn 75% nhân loại.
- Nếu bạn có tài khoản trong ngân hàng, tiền trong ví và 1 ít xu lẻ
trong túi quần, bạn đã thuộc 8% no đủ của toàn Thế giới.
- Nếu sáng nay bạn thức dậy khoẻ mạnh, nghĩa là bạn hạnh phúc hơn 1 triệu người rồi đấy, những người không sống được đến tuần sau.
- Nếu bạn chưa bao giờ trải qua chiến tranh hay sự cô độc trong những phòng giam của nhà tù , nếu bạn chưa phải hấp hối vì đói và khát, bạn hạnh phúc hơn, may mắn hơn 500 triệu người trên Thế giới này.

Nếu bạn đọc những dòng chữ này, bạn sẽ hạnh phúc gấp 2 lần vì :
- Có ai đó nghĩ đến bạn
- Bạn không nằm trong số 3,8 tỷ người mù chữ
- Bạn có máy tính

Và hãy nhớ rằng, bạn là một phần của Thế giới.

Tác giả: Lê Văn Lân
PC
#18 Posted : Sunday, December 21, 2008 10:49:46 PM(UTC)
PC

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 5,668
Points: 25
Woman

Was thanked: 4 time(s) in 4 post(s)
quote:
Gởi bởi viethoaiphuong

THẾ GIỚI CỦA CHÚNG TA


Nếu thu nhân loại toàn thế giới xuống thành một làng nhỏ có 100 người, ta sẽ có một cái làng như sau :

- 57 người châu Á
- 21 người châu Âu
- 14 người châu Mỹ (Nam Mỹ và Bắc Mỹ)
- 8 người châu Phi


Không thấy có người Châu Úc ở trong danh sách trên. Question
viethoaiphuong
#19 Posted : Monday, December 22, 2008 5:25:46 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
quote:
Gởi bởi PC

quote:
Gởi bởi viethoaiphuong

[navy] THẾ GIỚI CỦA CHÚNG TA


Nếu thu nhân loại toàn thế giới xuống thành một làng nhỏ có 100 người, ta sẽ có một cái làng như sau :

- 57 người châu Á
- 21 người châu Âu
- 14 người châu Mỹ (Nam Mỹ và Bắc Mỹ)
- 8 người châu Phi


Không thấy có người Châu Úc ở trong danh sách trên. Question



Công nhận là chị PC rất tinh tường. HP đã gửi trở lại ý kiến nầy của chị PC tới người đưa bài viết trên vào liên mạng toàn cầu. Nhưng chưa thấy trả lời trên Net.
Rose


* ah, kể cũng lạ lùng và hữu ích là Net Net nha chị PC. Mới tối hôm qua, mấy nhỏ nhà em chúng nói chuyện chi đó về máy tính. Ba của bọn nhỏ kể có tới khoảng 2 tỉ máy tính tất cả trên thế giới ( cho tới lần mới rồi họ thống kê ). Thế thì trẻ con chúng tính ngay ra cứ 2 người thì có 1 người có máy tính. VHP vì nhờ có bài mới toanh nầy nên nói ngay - người ta làm thống kê cách kỹ lưỡng hơn thì thấy con số là 1/100. Rồi em mới giải thích vì sao. Tất nhiên là mấy nhỏ chúng thấy mẹ giải thích chính xác hơn, vì có lý với những ví dụ cụ thể mà chính bọn nhỏ cũng không thể nói gì cả.
viethoaiphuong
#20 Posted : Monday, December 22, 2008 5:28:03 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
Mùa Xuân đang đến


Hoa xuân nói với Gió xuân :
- Bác ơi, xin bác hãy dẫn cháu đi gặp mùa xuân, cháu nghe nói
mùa xuân đẹp lắm, phải vậy không bác ?
- Ừ ! Mùa xuân đẹp lắm cháu ạ. Nhưng khi cháu tỏa hương thơm
cho đời, trang điểm cho đời bằng vẻ tươi tắn kiều diễm của mình,
là cháu đã thấy mùa xuân rồi đấy .
- Thật vậy hả bác . Cháu muốn xin mùa xuân cho cháu thêm tuổi .
- Hãy xin cho đời mình thêm giá trị thì hơn cháu ạ .
- Và cháu sẽ xin được mãi mãi vui tươi .
- Cháu đang vui đấy thôi và cháu sẽ mãi mãi vui khi đem lại niềm
vui cho người khác, cháu không thấy các thanh niên thiếu nữ
với vẻ mặt rạng rỡ khi cầm cháu trong tay à ?
- Tiếc thay , cháu chỉ là đồ vật .
- Hơn thế nữa đấy, cháu còn là sự yêu thương, là lòng ân cần, là
tình thân mà người ta gửi gắm cho nhau .
- Nhưng dù gì thì bác cũng phải dẫn cháu đến với mùa xuân chứ ?
- Không phải là cháu đến, mà là mùa xuân đang đến, đang đến với
trời đất, đến với lòng cháu và lòng của mọi người .


Một cuộc sống vui tươi sẽ đem lại niềm vui cho người khác , một
cuộc đời giá trị là cuộc đời luôn sống nâng cao giá trị của anh em
mình. Khi bạn có mùa xuân trong lòng , bạn mới có thể đem mùa
xuân đến với anh em .



* Túy Phượng gửi vào Diễn Đàn Net 22/12/2008
Users browsing this topic
Guest (14)
3 Pages123>
Forum Jump  
You cannot post new topics in this forum.
You cannot reply to topics in this forum.
You cannot delete your posts in this forum.
You cannot edit your posts in this forum.
You cannot create polls in this forum.
You cannot vote in polls in this forum.