Welcome Guest! To enable all features please Login or Register.

Notification

Icon
Error

Thụy An
PC
#1 Posted : Thursday, February 21, 2008 4:00:00 PM(UTC)
PC

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 5,668
Points: 25
Woman

Was thanked: 4 time(s) in 4 post(s)
(trích)
Thụy Khuê


Thụy An là người phụ nữ duy nhất -ở trong hay ở ngoài phong trào- bị kết án là "gián điệp". Bà là một trường hợp đặc biệt, theo Lê Đạt và Nguyễn Hữu Đang, bà không ở trong NVGP, vậy mà tên bà được nêu lên hàng đầu trong "hàng ngũ phản động" với nhãn hiệu "Con phù thuỷ xảo quyệt" và những lời lẽ độc địa nhất dành cho bà: "Như vắt ngửi thấy máu, Thụy An như rắn bò tới các câu lạc bộ Hội Nhà văn phun nọc độc mạt sát chế độ ta bần cùng hoá nhân dân" (Bàng Sĩ Nguyên, sđd, trang 120).

Vụ án Thụy An có phải là một vụ án chính trị? Hay là một sự quy kết oan uổng? Lê Đạt sẽ soi tỏ một số nghi vấn chung quanh sự kiện này.

Trước hết Thụy An là ai? Thụy An tên thật là Lưu Thị Yến. Cho đến nay chúng ta chỉ biết sơ về bà qua những gì Vũ Ngọc Phan đề cập đến trong Nhà văn hiện đại : Là một nhà thơ, nhưng bà là người đi tiên phong trong địa hạt tiểu thuyết với cuốn Một linh hồn (1943). Nhà phê bình họ Vũ nhận định: "Một linh hồn đáng kể là cuốn tiểu thuyết xuất sắc nhất của phụ nữ Việt Nam từ trước đến nay, tác giả đã giàu tưởng tượng, truyện lại xây dựng một cách vững vàng, chắc chắn". Bà đã từng làm chủ nhiệm những tờ Đàn Bà Mới (Sài Gòn), Phụ Nữ Tân Văn (Sài Gòn), và Đàn Bà (Hà Nội). Là phóng viên chiến tranh, bà đã tham dự nhiều cuộc nhảy dù ra mặt trận để cung cấp tài liệu cho báo chí. Bà đã nắm chức quyền giám đốc Việt Tấn Xã.

Mới đây chúng tôi liên lạc với nhà văn kiêm nhà báo Bùi Thụy Băng, con trai thứ nhì của Thụy An, hiện làm chủ nhiệm kiêm chủ bút nguyệt san Atlanta Việt báo, ông vừa hoàn tất tập tài liệu "Thụy An, 1945, 1954, 1975". Qua Bùi Thụy Băng, chúng tôi được biết thêm những chi tiết sau đây: Lưu Thị Yến sinh năm 1916 tại Hà Nội, là con ông bà Lưu Tiến Ích và Phùng Thị Tôn, quê gốc làng Hoà Xá, quận Vân Đình, tỉnh Hà Đông. Thủa nhỏ học trường Hàng Cót, Hà Nội. Năm 1929, 13 tuổi, Yến đã được đăng thơ trên tờ Nam Phong. 16 tuổi được giải thưởng văn chương của Triều đình Huế. Vào khoảng 1930-32, cô Yến được cha mẹ cho học tư thêm với một ông thầy người Quảng Bình. (Trong điện thư ngày 15/9/2004, ông Bùi Thụy Băng cho biết: "Người thày giáo đề cập ở đây là Tướng Võ nguyên Giáp. Năm 1930, ông ngoại của tôi đã mướn người thầy giáo sử địa Võ Nguyên Giáp về nhà kèm má tôi học. Năm 1933, má tôi theo thầy vô Nam - có thể để đi sang Pháp. Nhưng má tôi lại gặp ba tôi ở Sài Gòn và hai người lấy nhau"). Và trong bài tiểu sử Thụy An, Bùi Thụy Băng viết:

"Ông thầy giáo trẻ ấy đã bị trò Yến cùng các bạn trêu chọc là "Anh đồ Nghệ". Hơn thế, Yến còn làm thơ nhạo báng dí dỏm:

...Khéo ghét anh đồ xứ Nghệ

Hơn mình mấy tí tuổi đầu (trích "Sao lại mùa thu " của Thụy An) (...)

Hơn thế nữa, chính người thầy giáo trẻ ấy lại là một chiến sĩ hoạt động trong bóng tối. Chúng ta hãy lắng nghe lời thơ giới thiệu của Thụy An về người anh hùng đó:

... Hung hãn vọng vào tiếng bể

Hờn căm rít ngọn gió Lào

Anh mang trùng dương giận dữ

Anh mang hoang dại khô khan.

và như:

Mắt anh hừng trí bốn phương

Tay run nắm hồn dân tộc

Tóc xòa vương hận núi sông

Môi bậm tay tai nghe rên xiết

Áo cơm dọa dưới cùm gông!...

Thật sự, Thụy An đã hấp thụ tư tưởng cách mạng qua Thầy đồ Nghệ

... Rồi anh bắt đầu dẫn dắt

Dạy em khui lửa bất bình

Oán hận réo sôi lòng đất

Công lý tù đầy uất uất

Miếng cơm nghẹn họng nhân sinh... (Sao lại mùa thu)". (Trích tiểu sử Thụy An, do Thụy Băng viết).

Người chồng của Thụy An là giáo sư Bùi Nhung, em ruột ông Bùi Kỷ và bà Trần Trọng Kim. Bùi Nhung có bút hiệu là Băng Dương. Thụy An sinh được 6 người con: An Dương (1934), Thụy Băng (1937), Thư Linh (38), Dương Chi (39), Ngọc Trinh (43) và Châu Công (45). Ông Bùi Nhung hai lần làm giám đốc đài phát thanh Hà Nội từ 48-49, và 51-52; rồi giám đốc đài phát thanh Hải Phòng năm 1954. Thời gian này, Thụy An - Băng Dương đã ly hôn, và người ta nói đến người chồng thứ nhì của bà là ông Đỗ Đình Đạo, theo Việt Nam Quốc Dân Đảng cùng cái chết có nhiều nghi vấn của ông Đỗ Đình Đạo.

Trong thời kỳ NVGP, Phan Khôi nhận Thụy An là con nuôi. Theo cả hai bên nhân chứng, buộc tội cũng như bênh vực, thì bà thường xuyên ra vào các hội văn nghệ, bà đã có ảnh hưởng không nhỏ đối với một số văn nghệ sĩ tham gia NVGP. Bà liên lạc, nâng đỡ tinh thần, tích cực giúp đỡ anh em Nhân Văn, đặc biệt gia đình Lê Đạt. Theo Lê Đạt và Nguyễn Hữu Đang thì Thụy An không viết gì cho báo Nhân Văn. Nhưng có thể Thụy An viết cho vài báo khác, vì Vũ Đức Phúc trong bài tố cáo, có nói đến "những nhân vật như một anh nghiện hút, ăn cắp (trong "Ông Năm Chuột" của Phan Khôi), một con đĩ, một tên ăn cướp (trong "Bích-xu-ra" của Thụy An), một tên việt gian cao cấp, một tên sĩ quan trong quân đội địch trung thành với đế quốc (trong "Trường hợp tòng quân của thiếu uý Lâm" cũng của Thụy An), lại trở thành những người đáng thương, đáng yêu, những người yêu nước đáng học tập" (BNVGPTTADL, trang 118). Thụy An bị bắt giam tại Hoả Lò Hà Nội. Bà đã tự chọc mù một mắt. Con người đã viết những câu thơ "Tay run nắm hồn dân tộc, tóc xòa vương hận núi sông" lại một lần nữa ký tên dưới hành động của mình: lần này dưới hai chữ tự do cho dân tộc đã có quyền tự chủ.

Thụy An được thả cùng với Nguyễn Hữu Đang, trong diện "Đại xá chính trị phạm trong hiệp định Paris", năm 1973. Vào Nam, năm 1987, bà quy y ở Chùa Quảng Hương Gìa Lam và mất năm 1989, tại nhà riêng ở đường Lê Văn Sỹ, Sài Gòn.

: http://www.hopluu.net/tr...haingoai/thuyekhue1.htm
viethoaiphuong
#2 Posted : Monday, February 22, 2010 9:23:01 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
Bóng hồng trên đất Bắc

mythanh

Bài thứ hai của chủ đề Tôi Yêu Những Anh Hùng, tôi dự định sẽ viết về Trưng Nữ Vương, viết về niềm hào hãnh và sự đóng góp của phụ nữ Việt Nam trong lịch sử giữ nước chống ngoại xâm. Nhưng một tình cờ đúng ý đã xoay đổi dự định của tôi. Tôi đọc được một loạt bài viết với rất nhiều dữ kiện khả tín, quý báu về một nữ sĩ. Bà đã từng trong nhiều năm, vẫn thầm lặng mơ hồ sống cùng những nghi vấn cộng với niềm ngưỡng mộ ở một góc sâu kín trong tâm tưởng tôi. Tôi hoàn toàn không biết nhiều và cũng không biết tìm đâu ra những tin tức về bà, ngoài bút danh Thuỵ An, bị bắt trong vụ án Nhân Văn Giai Phẩm với một kỳ thuyết. Nó chính là nguyên nhân gây ấn tượng khiến tôi không thể quên được nhân vật “nữ sĩ Thuỵ An.” Bà đã tự chọc mù một mắt trong thời gian bị Cộng Sản cầm tù với lời tuyên bố, “Chế độ này chỉ đáng nhìn bằng một con mắt.” Ôi, đúng là câu nói để đời, uy vũ có một không hai.

Tôi chọn viết về bà thay vì Trưng Nữ Vương, ngoài lý do hai vị Trưng Vương là những anh thư đã làm nên lịch sử sáng chói, được toàn dân Việt kính ngưỡng, trong khi nữ sĩ Thuỵ An, vị anh thư bất hạnh, thân bại danh liệt, đã bị vùi giập, bị bôi bẩn thành một tội phạm suốt mấy mươi năm dưới chế độ cộng sản, ít người biết đến; còn một lý do chính là vì, đối với tôi chế độ cộng sản mà bà chống lại là một bọn giặc nội xâm, trên thực tế vẫn đang cỡi đầu cỡi cổ dân tộc Việt. Tôi hy vọng mọi người đều nhận ra sự thật này. Bài viết cũng xin là một nén hương, thắp tỏ lòng thương tiếc nữ sĩ Thụy An, người nữ tù kiên cường, bất khuất, người đã hy sinh hạnh phúc riêng mình trong mưu cầu đòi hỏi tự do cho dân tộc.

Cuộc Đời

Thụy An, còn bút hiệu khác nữa là Thụy An Hoàng Dân, tên khai sinh là Lưu Thị Yến sinh năm 1916 tại Hà Nội. Thuở nhỏ bà học trường Hàng Cót, Hà Nội, có thơ đăng trên tạp chí Nam Phong từ năm 13 tuổi. Năm 16 tuổi bà đoạt giải thưởng văn chương của triều đình Huế. Năm 1934, 18 tuổi, bà kết hôn với nhà báo Bùi Nhung – làm báo, viết văn bút hiệu Băng Dương – (em ruột Bùi Kỷ và bà Trần Trọng Kim), hai lần làm Giám đốc đài phát thanh Hà Nội, lần cuối ở Hải Phòng năm 1954.

Ngay khi lập gia đình, Thụy An cùng chồng lập tuần báo Đàn Bà Mới tại Sài gòn, và ba năm sau, 1937, sáng lập tuần báo Đàn Bà tai Hà Nội. Năm 1939, bà chủ nhiệm cho Phụ Nữ Tân Văn tại Sài gòn. Trong chiến tranh Việt - Pháp, bà trở thành phóng viên chiến trường, từng nhảy dù ra mặt trận để lấy tin tức cho báo chí. Năm 1954, trước khi chia đôi đất nước bà đã đứng chức vị Quyền Giám đốc Việt Tấn Xã.

[img] http://www.dcvonline.net...es/122009/nhanvangp1.jpg[/img]

Trang bià báo Nhân Văn số 1 và Giai Phẩm Muà Xuân
Nguồn Ảnh: DR


Nhân Văn Giai Phẩm (nguồn của bài viết này) chính là do hai người con này, và người bạn thân của bà là Trinh Tiên cung cấp.

Thụy An sống ly thân với chồng từ năm 1949, nhưng không ly dị vì hai người đều theo đạo Thiên chúa giáo. Bà có quan hệ mật thiết với Đỗ Đình Đạo, một nhân vật quan trọng của Việt Nam Quốc Dân Đảng, nhưng hai người chưa từng kết hôn. Họ đã chia tay từ năm 1952, nhưng khi ông Đỗ Đình Đạo bị đầu độc chết vào năm 1954, bà bị dư luận đồn thổi là giết chồng. Sau này Cộng sản đã dùng những lời đồn này để thổi phồng, vu cáo, bôi xấu bà.

Xin trích nguyên văn câu trả lời phỏng vấn của các con bà hầu sáng tỏ gia cảnh của nữ sĩ Thụy An thời đó.

Bùi Thụy Băng cho biết về hoàn cảnh gia đình và tình trạng sức khỏe của người mẹ:
Là đứa con trai thứ nhì, tôi là người gần mẹ tôi nhất vì từ năm 1943 trở đi mẹ tôi bệnh tật luôn luôn. Mới 6 tuổi tôi đã trông nom mẹ tôi. Anh cả tôi là Bùi An Dương bị bệnh hen suyễn từ khi mới sinh ra nên rất yếu đuối và mẹ tôi đã cho anh An Dương khi chưa đầy một tuổi, làm con nuôi ông bà Trần Trọng Kim (cụ Bùi Kỷ và bà Trần Trọng Kim là anh, chị ruột của ba chúng tôi)”.
(Điện thư ngày 15/12/2004)

Thụy An và Băng Dương ly thân từ năm 1949. Tại sao?

‒ Vì cha tôi không trung thành, ông có nhiều bà khác. (Bùi Thư Linh, điện thoại, 17/10/2009)

Sau khi ly thân, ai nuôi các con?

‒ Mẹ nuôi các con, nhờ bà ngoại giúp đỡ, bác (gái) Trần Trọng Kim cho vay tiền, nhưng mẹ vất vả lắm. (Bùi Thư Linh, nt)

Khi nào thì gia đình vào Nam?

‒ Năm 1952, đi bằng tàu thủy. Mẹ thường đi về Sàigòn-Hà Nội bằng máy bay, nhưng vé máy bay cho cả nhà đắt lắm, Mẹ mua vé tàu thủy cho các con, nhờ người cậu dẫn vào Sài-gòn. (Bùi Thư Linh, nt)

Đến năm 1954, Bùi Thư Linh (16 tuổi) đi Pháp, tại sao?

‒ Tôi bị bệnh lao xương, Mẹ gửi tôi đi Pháp chữa bệnh ngày 20/5/1954.

Nhưng gia đình túng thiếu, lấy tiền đâu ra?

‒ Đi theo diện Pupille de la Nation (Nghiã tử Quốc gia), chính phủ Pháp lo hết. (Bùi Thư Linh, nt)

Tại sao Thụy An đem gia đình vào Saigon năm 1952?

Bùi Thụy Băng: Vì ông Đỗ Đình Đạo. (Có thể hiểu là năm 1952 Thụy An đã chia tay với Đỗ Đình Đạo, và muốn tránh, bà đem các con vào sống tại Sài Gòn).

Ông Bùi Thụy Băng, con trai bà còn cho biết, Thụy An và cụ Phan Khôi là hai người bạn vong niên (Thụy An kém Phan Khôi 29 tuổi). Bút hiệu Thụy An Hoàng Dân, và bút hiệu Chương Dân của cụ Phan Khôi là do hai người cùng tưởng niệm một người anh hùng tên Chương Hoàng Dân (hay Hoàng Chương Dân.)

Thụy An bị kết án nặng nhất trong vụ án Nhân Văn Giai Phẩm. Cùng với Nguyễn Hữu Đang bà bị tuyên án 15 năm tù với tôi danh “gián điệp quốc tế.” Cộng sản còn dành cho bà những lời thóa mạ cay độc nhất, “Con phù thủy xảo quyệt” hoặc: “Như vắt ngửi thấy máu, Thụy An như rắn bò tới các câu lạc bộ Hội Nhà văn phun nọc độc mạt sát chế độ ta bần cùng hoá nhân dân” (Bàng Sĩ Nguyên, Bọn NVGP Trước Tòa Án Dư Luận, trang 120).

Tại sao Thụy An, một phụ nữ yếu đuối, không hề viết bài cho NVGP lại bị chúng thù ghét và xử nặng nhất như vậy? Xin nhân đây, lược qua bối cảnh và một số nhân vật liên quan chung quanh NVGP.

Nhóm Nhân Văn Giai Phẩm

Tháng 1/1956, khởi đầu với Giai Phẩm Mùa Xuân do Hoàng Cầm, Lê Đạt chủ trương gồm những bài chính của Văn Cao, Lê Đạt, Trần Dần. Bài Nhất Định Thắng nổi tiếng qua những câu “Tôi bước đi /Không thấy phố, thấy nhà/Chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ” đã gây cho tác giả của nó bị bắt và suýt tự tử bằng dao cạo cứa vào cổ.

Tháng 2/1956, Giải Phẩm Mùa Xuân bị tịch thu. Trần Dần, Tử Phác (1) bị bắt, Lê Đạt bị kiểm thảo.

Ngay sát thời gian này, bên Nga, Krouchtchev tường trình tội ác của Staline, chủ trương “Sống chung hoà bình.” Tại Trung Quốc, Mao phát động phong trào Trăm Hoa Đua Nở. Hồ Chí Minh và Đảng Lao Động theo gót đàn anh nới rộng tự do.

Tháng 8/1956, Nguyễn Hữu Đang trong một bài tham luận tại Hội Văn Nghệ gay gắt chỉ trích đường lối chỉ đạo tư tưởng văn nghệ sĩ của Đảng. Giai Phẩm Mùa Thu phát hành với bài Phê Bình Lãnh Đạo Văn Nghệ của Phan Khôi.

Tháng 9/1956, Nhân Văn số 1 ra đời với bài phỏng vấn giáo sư Nguyễn Mạnh Tường về vấn đề mở rộng tự do và dân chủ. Sau đó, Nhân Văn tiếp tục ra được 5 số với những bài viết nảy lửa có, bóng gió có, chỉ trích các chính sách của Đảng của các cây viết nổi tiếng Phan Khôi, Lê Đạt, Văn Cao, Phùng Cung, Phùng Quán, Trần Duy, Hoàng Cầm, etc…

Tháng 12/1956, Giai Phẩm Mùa Đông xuất bản với bài Tự do tư tưởng của văn nghệ sĩ và và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Bôn-sê-vích của Trương Tửu, Nội dung xã hội và hình thức tự do của Trần Đức Thảo,...

Ngày 09/12/1956: Hồ Chí Minh ký sắc lệnh bãi bỏ quyền tự do báo chí.

Ngày 15/12/56: Nhân văn số 6 đang in, bị đình chỉ.

Nhân Văn và Giai Phẩm liên quan với nhau như thế nào?

Nhân Văn và Giai Phẩm do hai nhóm bạn hợp tác điều hành: Nguyễn Hữu Đang, Trương Tửu, Trần Thiếu Bảo ba người bạn thân, trong kháng chiến, đã từng chủ trương việc xuất bản lại các tác phẩm có giá trị thời tiền chiến. Và Lê Đạt, Hoàng Cầm, là hai người bạn thân đã làm tờ Giai Phẩm mùa xuân. Nhân Văn do Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt, trách nhiệm bài vở. Giai phẩm do Trương Tửu trông nom. Giai phẩm xuất hiện trước nhưng Nhân Văn vẫn được coi là “đầu não” của phong trào. Phần lớn những người viết cho Nhân Văn đều có mặt trên Giai Phẩm và ngược lại. (RFI, Nhân Văn Giai Phẩm phần V: Nội bộ báo Nhân Văn)

Không phải tất cả các nhà văn viêt bài cho Nhân Văn Giai Phẩm đều chống đối chính sách của Đảng thời bấy giờ. Theo nhận định của tác giả Thụy Khê trong loạt bài Nhân Văn và Giai Phâm, có ba dòng tư tưởng trong các bài viết:

Khuynh hướng tuyên truyền cách mạng: Chống địa chủ, cường hào ác bá, đề cao cách mạng (Mùa xuân đến rồi đây của Hoàng Cầm), thơ chiêu hồi gửi miền Nam (Thơ qua đài phát thanh, Hoàng Cầm). Thơ đề cao chiến thắng và công lao của Đảng (Hoa đào vẫn nở, Nguyễn Sáng). Thơ kiến thiết đất nước, xây dựng xã hội mới (Mỗi ngày mỗi lớn - Gửi kế hoạch nhà nước 1956, Lê Đạt). Thơ ca tụng công nhân quét đường (Thi sĩ và công nhân, Phùng Quán). Văn tả cảnh đói khổ của người dân lao động, sự bóc lột của địa chủ, nhưng nhờ ánh sáng của Đảng, từ nay, trời sẽ “trong sáng vĩnh viễn” (Sổ tay, Sỹ Ngọc).

Khuynh hướng vừa chống vừa theo: Trần Dần (Nhất định thắng).

Khuynh hướng chống đối và đòi tự do sáng tác: Văn Cao (Anh có nghe thấy không) và Lê Đạt (Làm thơ và Mới).

Tóm lại, sau khi được sự cổ vũ của rất nhiều tầng lớp sinh viên, trí thức và cả các đảng viên quân đội, có nguy cơ đe dọa đến sự độc tôn độc quyền của nhà cầm quyền, những nhà văn có tư tưởng đòi tách rời văn nghệ ra khỏi sự chỉ đạo của Đảng, không cần phải là có bài viết chống đối (như Hoàng Cầm) đều bị “đánh”.

Qua những lời tự khai của các thành viên NVGP thời bấy giờ và những lời thuật lại của một vài nhân vật sau này tại Pháp thì hầu hết các văn nghệ sĩ chỉ muốn đòi hỏi tự do sáng tác, nhưng Nguyễn Hữu Đang chính là người đầu não khai sinh tờ báo và là “phần tử nguy hiểm” chủ trương dùng tờ báo để tranh đấu cho quyền lợi chính trị, cho một xã hội dân chủ. Lê Đạt và Trần Đức Thảo cũng cùng lý tưởng và Phan Khôi là vị thủ lĩnh tinh thần phía sau. Do vậy Nguyễn Hữu Đang bị xử 15 năm không có gì đáng ngạc nhiên, nhưng còn Thụy An?

Với quá trình hoạt động, tư tưởng và tài năng của bà, nhà cầm quyền CS tin chắc bà là người phải chống lại chúng, và có đầy đủ gan dạ, khả năng, kinh nghiệm để làm chuyện đó. Và trong một chế độ “Thà bắt lầm 10 người còn hơn thả sót 1 người”, là nền luật pháp của chúng, thì không cần phải có chứng cớ phạm tội. Chỉ cần có khả năng phạm tội ắt chúng sẽ nặn ra chứng cớ buộc tội.

[img] http://www.dcvonline.net...es/122009/thuyan1958.jpg[/img]

Thuỵ An
Nguồn Ảnh: DR


Âm mưu của Đang sau này là biến thành nhà xuất bản Minh Đức thành nhà in đối lập với Hội Nhà văn và tập họp nhóm Nhân văn quanh nhà Minh Đức. Cũng giai đoạn này nổi bật vai trò Thụy An. Nhà Thụy An, Phan Tại như một câu lạc bộ.

Về Hà nội tôi rất ghê tởm Thụy An. Nhưng sau khi bài thơ “Nhân câu chuyện mấy người tự tử” Thụy An tìm gặp tôi rất niềm nở và mời đến nhà bảo có nhiều sách mới.

Một thời gian dài tôi không đến. Nhưng từ sau khi “Cửa hàng Lê Đạt”, tôi bị khai trừ khỏi Đảng, tôi bắt đầu lui tới đó. (...)

Thụy An đưa vợ tôi đi may áo, đi mua vải, may áo cho con tôi và đi lấy cả một chiếc giường cũi cho con tôi. Thụy An nghiễm nhiên trở thành thân thuộc với cả gia đình tôi. Mỗi lần tôi gặp Thụy An sau khi nói chuyện về tư sản, tiểu thương bất mãn, chuẩn bị đi Nam, các tin BBC về hiệp thương, lại kể chuyện Tassigny, chuyện các phóng viên chiến tranh, các tiểu thuyết tư sản, và sau hết đả kích vào sự lãnh đạo của Đảng cho là hạn chế sự phát triển của tài năng. Mỗi lần ở nhà Thụy An ra là mỗi lần tôi thấy mình tài giỏi thêm, oán Đảng thêm và chán nản thêm.” (Lời tự thú của Lê Đạt, Văn Nghệ số 12, tháng 5/1958, Số đặc biệt thứ hai chống Nhân Văn Giai Phẩm)

“Còn học Pháp và Anh văn thì tôi học với con mụ Thụy An, và do đó tôi bắt đầu thân với mụ từ đấy. Khi được tin tôi đã ra bộ đội thì hắn tỏ vẻ rất săn sóc đến việc học của tôi. Tháng đầu tôi còn bận viết thì mỗi lần gặp tôi hắn đều thúc dục sao không đi học đi, tôi sẽ dậy cho Quán một tuần bốn tiếng đồng hồ. Tháng thứ hai tôi đến học với hắn, cùng với một người bạn của tôi là sinh viên. Trước khi đến học, tôi có biết Thụy An trước đây đã giết chồng, làm phóng viên chiến tranh cho Pháp, đã đi máy bay lên Điện biên phủ. Nhưng đến lúc này thì bản chất cách mạng của tôi đã không còn gì nữa, nên tôi thấy những việc làm của mụ ta là việc thường. Đến học với hắn, tôi tỏ ý phục, và mỗi ngày một cảm tình hơn. Tôi gọi hắn là chị với tất cả nghĩa của nó.”
( Lời tự thú của Phùng Quán, Văn Nghệ số 12, tháng 5/1958)

Trong phiên tòa 19/1/1960 tại Hà Nội bà bị xử 15 năm tù và 5 năm quản chế với lời buộc tội chính thức, “Con gián điệp nguy hiểm”, “Cùng với Nguyễn Hữu Đang, Thụy An trở thành bộ phận đầu não của bọn gián điệp phản cách mạng.”

Và nửa thế kỷ sau, ngừoi ta có thể nghe tiếng nói thật, tiếng nói trong một thế giới tự do của nhà văn Lê Đạt về bà trên RFI 2004:

“Chị Thụy An chưa bao giờ ở trong Nhân Văn Giai Phẩm cả, đó là dứt khoát. Nhưng chị Thụy An rất thân với anh em trong Nhân Văn Giai Phẩm và đặc biệt là thân với tôi.”

“Tôi có thể bảo đảm 100% chị ấy không phải là gián điệp. Tại vì thế này: Nếu là gián điệp thì phải có chứng cớ chứ! Chị nhận tiền của ai? Nhận tiền ở đâu? Liên lạc với ai? Cho đến bây giờ tôi vẫn thấy đó là một câu hỏi mà nhà nước chưa trả lời tôi được.”

“Tôi vẫn khao khát và thiết tha có một dịp nào đó, người ta phục hồi chị Thụy An một cách chính thức. Không có thì riêng tôi, đối với chị Thụy An, tôi vẫn cho là món nợ. (...) Riêng tôi không bao giờ tôi quên công của chị Thụy An đối với tôi cả.”

Về việc bà chọc mù mắt, xin trích nguyên văn lời tường trình của nhà văn Thụy Khê trong loạt bài NVGP về Thụy An:

Chúng tôi hỏi nhà thơ Lê Đạt, người rất thân với bà trong suốt hành trình Nhân Văn Giai Phẩm: có phải trong Hỏa Lò chị Thụy An tự chọc mù mắt ? Lê Đạt lặng lẽ gật đầu, không thêm một lời nào cả.

Bùi Thụy Băng cho biết: “Trong số những bài viết về bà cụ tôi, có bài của Trần Minh, ở Bên Úc, tựa đề “Nhân văn giai phẩm, một tư trào, một tội ác” đăng trong Giai phẩm (Việt Báo) xuân Tân Tỵ 2001, là chính xác nhất. Với những chi tiết mà chính tôi trước đây cũng không biết: Vào Hoả Lò chưa được 3 tháng thì bà cụ tôi chọc mắt. Lý do là bởi phải ra hỏi cung, đứng trước lá cờ đỏ sao vàng, người ta bắt bà cụ tôi phải cúi xuống, nhưng bà cụ không cúi. Vào nhà giam, không có bút viết, bà cụ tôi lấy cái đinh guốc, viết lên tường lời phản kháng: “Chọc mù mắt để không phải nhìn thấy cái chế độ này nữa.” Sau này có một người cũng bị giam tại căn phòng đó, đọc được và ghi lại, một vài nhà văn có chép lại câu này trên sách báo.” (Điện thoại, 16/12/2004).

Câu hỏi tại sao Thụy An đã đưa cả gia đình vào Nam, gửi các con cho mẹ, bà lại ra Bắc lvà ở lại với chế độ CS làm gì đựoc Bùi Thụy Băng giải đáp: “ Bà cụ tôi ra Bắc, với hai mục đích. Về quê mình để thu thập tất cả những gì quý báu nhất trong nhà ông ngoại tôi. Thứ nhì, bà cụ tôi muốn đặt cái bản doanh chống lại chính quyền ở Hoà Xá. (Điện thoại, 16/12/2004).

Như thế, xét qua những lời của các nhân chứng, bạn hữu, thân nhân, và cả kẻ thù của bà, thì chúng đã giam cầm bà là có lý của chúng. Bà đã mưu đồ chúng lại chúng. Nhưng lời kết tội “làm gián điệp” là sai. Bà chống lại chúng không theo lệnh, không lãnh lương của một thế lực nào cả. Bà chống lại chúng xuất phát từ lý tưởng, từ lòng yêu nước và mong muốn một xã hội tốt đẹp.

Những bài thơ, những tác phẩm của bà còn để lại là chứng tích quét sạch những tội ác nhơ bẩn bọn CS đã gán ghép cho bà.

Tác phẩm

Thụy An là tiểu thuyết gia phụ nữ duy nhất được Vũ Ngọc Phan lựa chọn trong bộ Nhà văn hiện đại, với tác phẩm Một linh hồn (xuất bản 1943). Trong bài phê bình dài dành cho tác phẩm Một linh hồn, Vũ Ngọc Phan nhận định: “Là một nhà thơ, nhưng bà là người đi tiên phong trong địa hạt tiểu thuyết với cuốn Một linh hồn” và ông kết luận “Một linh hồn cũng đáng kể là cuốn tiểu thuyết xuất sắc nhất của phụ nữ Việt nam từ trước đến nay, tác giả đã giàu tưởng tượng, truyện lại xây dựng một cách vững vàng, chắc chắn.”

Tiếp theo là những tác phẩm như: Bốn mớ tóc, Vợ chồng … Những truyện ngắn như Chiếc cầu chân chó (nguyên tác tiếng Pháp do Hội Văn Bút Quốc Tế xuất bản 1954/hoặc 55), Giết chó (kể lại hiện tượng CS bắt dân chúng giết hết chó để vào làng không bị phát giác, đồng thời kết án tội ác thủ tiêu đàn chó vô tội)

Một số tác phẩm của Thụy An trong thời kỳ Nhân Văn Giai Phẩm, đã công bố trên talawas, gồm những bài: “Nhân xem phim ‘Anh gắng nuôi con, đặt lại vấn đề Tân hiện thực’, tiểu luận phê bình điện ảnh” (Văn Nghệ, số 142, 11/10/1956) Chuyện bố, mẹ, bé và con búp bê, truyện ngắn (Trăm Hoa, 25/11/56), Chiếc lược, thơ (Trăm Hoa, 2/12/56). Trường hợp tòng quân của thiếu úy Lâm, Bích-xu-ra...

Đặc biệt, cuối năm 1988, 6 tháng trước khi chết, Thụy An đã viết một bài “Thụy An, mẹ chúng tôi” mượn giọng của các con tự thuật về mình trong thời gian ở tù, phản ánh được nỗi thương nhớ các con và lòng yêu nước rất cao sâu như sau:

“…Khởi sự bị giam cầm, Mẹ chúng tôi trong một thời gian ngắn có bị khủng hoảng tinh thần trước tai biến bất ngờ quá ư to lớn đối với một người đàn bà. Song Mẹ chúng tôi đã kịp thời trấn tĩnh lại, nhận tai biến như một cái Nghiệp (...) Mẹ chúng tôi coi tai biến như một cái giá phải trả cho cho sự may mắn được làm người, mà lại làm người Việt Nam có một thứ ngôn ngữ “đẹp nhất trần đời", dễ học nhất thế giới, có sức diễn đạt truyền cảm, thẩm thấu suốt tâm hồn dân tộc đến nỗi một người mẹ không biết một chữ A cũng biết hát những lời thơ hay nhất…”

Các văn phẩm của Thụy An còn rất nhiều, phần thất lạc, phần chưa in, vì giới hạn bài viết không đề cập hết (các bạn quan tâm có thể tìm hiểu rõ hơn từ nguồn RFI và talawas)

Nhưng chính những lời thơ của bà bộc bạch rõ nét nhất tính cách một người quyết liệt, thiết tha yêu người, và hòa mình với vận mệnh đất nước. Cũng lý do giới hạn của bài viết nên chỉ xin trích một số đoạn nhỏ trong số rất nhiều bài thơ “loáng lửa” của bà.

Rồi anh bắt đầu dẫn dắt
Dạy em khui lửa bất bình
Oán hận réo sôi lòng đất
Công lý tù đầy uất uất
Miếng cơm nghẹn họng nhân sinh...
(Trích: Sao lại mùa thu).

“Năm đi cho tháng theo lần,
Mà trong êm đã ngấm ngầm phong ba.
Gió cuốn lật úp sơn hà,
Màn che trướng rủ bỗng ra dãi dàu,
- Tình nhà, tình nước bời bời
Mẹ năn nỉ giữa, nước đòi thiết tha.
Đã đành nghiã nặng mẹ cha
Nỡ vô tình lúc nước nhà ngửa nghiêng?
Chịu sinh làm gái vô quyên,
Nỡ mang cái tiếng yếu mềm, bó tay?”
(Trích trường thi “Tôi về quên mất cả xuân sang”, 1951)

Và những câu thơ về nàng Tô Thị, đồng tâm sự của bà “Tôi cũng vậy, tôi còn cha mẹ già, đàn con nhỏ trên vai, tôi không được chết, phải cố mà sống, đợi cái ngày Tô Thị:”

Mặc gió rụng tóc xanh từng sợi
Tung ra xa bay với mây trời
Mặc cho nắng dãi mưa phơi
Mặc cho muối đã mặn mòi lòng sương
Mặc bao cuộc hưng tàn phế đổi
Vẫn đăm đăm một đợi, một chờ
Mẹ con hoá đá trơ trơ
Mẹ là tin tưởng, con là tương lai.

Đó là tâm trạng Tô Thị hoá đá, mà cũng là tâm trạng của tôi suốt 15 năm cho đến mãi mãi…(Thụy An, thơ gởi Trần Sĩ Lương)

[img] http://www.dcvonline.net...ages/122009/nvgm1960.jpg[/img]

Phiên tòa tại Hà Nội (19/01/1960) xét xử vụ Nhân Văn Giai Phẩm. Từ trái sang phải: Nguyễn Hữu Đang, Trần Thiếu Bảo, Thuỵ An, Phan Tại và Lê Nguyên Chí.
Nguồn Ảnh: DR


Thụy An được phóng thích tháng 10/1974 cùng với Nguyễn Hữu Đang. Bà bị trả về quản thúc Tại Hòa Xá, bị ném đá trên đường giải về làng khi bị bị đẩy xuống xe tù. Năm 1976, nhờ em trai Lưu Duy Trác xin cho được vào Nam đoàn tụ với mẹ già. Lúc đó các con bà tất cả đã ra khỏi nước. Bùi Thụy Băng đã làm thủ tục bảo lãnh mẹ, nhưng bà chết trước khi được gặp lại con vào tháng 10/1989 tại nhà riêng, Saigon.

Thụy An cùng với các thành viên thuộc Nhân Văn Giai Phẩm là biểu hiện cao đẹp của giới trí thức Việt Nam, biểu hiện cho sức sống mãnh liệt của dân tộc, đã bị một chế độ phi nhân phản dân tộc nghiền nát một cách không thương tiếc.

Chế độ đó vẫn tiếp tục tồn tại. Các tội ác vẫn đang tiếp diễn.



xv05
#3 Posted : Monday, August 18, 2014 6:42:01 PM(UTC)
xv05

Rank: Advanced Member

Groups: Registered, Editors
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 5,044
Points: 3,390
Woman
Location: Lục điạ hình trái táo

Thanks: 340 times
Was thanked: 45 time(s) in 44 post(s)



Nghi Án Sáu Chục Năm

Trần Gia Phụng (Danlambao) - Cách đây sáu chục năm, trước khi Việt Minh cộng sản tiếp thu Hà Nội (10-10-1954), tại thành phố nầy xảy ra vụ án mạng ông Đỗ Đình Đạo, một nhà hoạt động chính trị nổi tiếng, mà cho đến nay chưa biết ai là thủ phạm, nhưng lại ảnh hưởng lâu dài đến cuộc đời của nữ văn sĩ Thụy An.

1. Nữ văn sĩ Thụy An

Bà Thụy An tên thật là Lưu Thị Yến, sinh ngày 24 tháng 8 năm bính thìn (21-9-1916), con gái đầu của ông Lưu Tiến Ích và bà Phùng Thị Tôn, người làng Hòa Xá, huyện Ứng Hòa, Hà Đông. Bà từ trần tại Sài Gòn ngày 7 tháng 5 năm kỷ tỵ (10-6-1989), thọ 74 tuổi (tuổi ta), pháp danh Nguyên Quy. (Theo tộc phả Bùi tộc Châu Cầu, Phủ Lý, Hà Nam.)

Năm 1934, lúc 18 tuổi, bà kết hôn với ông Bùi Nhung (1907-1987). Bùi Nhung là con cụ Bùi Thức (tiến sĩ Nho học), người Châu Cầu, Phủ Lý, Hà Nam, và là em ông Bùi Kỷ (phó bảng Nho học), và cũng là em bà Bùi Thị Tuất tức bà Trần Trọng Kim. Hai ông bà Bùi Nhung-Thụy An có sáu người con là Bùi An Dương, Bùi Thụy Băng, Bùi Thu Linh (nữ), Bùi Dương Chi, Bùi Ngọc Trinh (nữ) và Bùi Châu Công.

Sau khi sinh người con út, Thụy An sống ly thân với Bùi Nhung, nhưng không ly dị. Lý do vì lúc đó, Bùi Nhung liên hệ tình cảm với bà Lưu Thị Trạch, tên thường gọi là Việt. Bà Trạch hay Việt là em ruột bà Thụy An, nên Thụy An im lặng rút lui, nhường chồng cho em.

Bùi Nhung là nhà văn, nhà giáo, bút hiệu Băng Dương, đã từng làm giám đốc Đài phát thanh Hà Nội năm 1948-1949 và sau đó 1951-1954. Bùi Nhung còn làm giám đốc đài phát thanh Hải Phòng năm 1954, trong thời gian 300 ngày trước khi Hải Phòng bị Việt Minh tiếp thu. (Việt Minh tiếp thu Hải Phòng ngày 13-5-1955.) Trong thời gian nầy, xảy ra vụ án mạng Đỗ Đình Đạo ngày 29-7-1954. Bà Thụy An bị nghi ngờ và bị bắt giữ ở nhà ga xe hỏa gần Hải Phòng. Bùi Nhung biết được, đã đến thăm bà Thụy An.

Bà Thụy An là nữ tiểu thuyết gia duy nhất có tên trong bộ sách Nhà văn hiện đại do Vũ Ngọc Phan biên soạn. Bộ sách nầy gồm 4 quyển, do Tủ sách Tao Đàn, Nxb. Tân Dân ấn hành tại Hà Nội từ năm 1942 đến năm 1945, đánh số trang liên tục, trong đó quyển tư viết về các tiểu thuyết gia. Bộ sách nầy về sau được tái bản nhiều lần. Vũ Ngọc Phan cho rằng tiểu thuyết Một linh hồn (xuất bản 1943) của bà Thụy An là cuốn tiểu thuyết xuất sắc nhất của phụ nữ Việt Nam trước năm 1945.

Ngoài tài làm thơ và viết tiểu thuyết, bà Thụy An còn làm báo, viết phóng sư. Sau khi kết hôn, Thụy An cùng chồng vào Sài Gòn lập ra tuần báo Đàn Bà Mới. Bùi Nhung làm giám đốc chính trị (directeur politique), còn Thụy An làm giám đốc kiêm chủ bút (directrice et rédactrice-en-chef).

Tại Sài Gòn, lúc đầu báo quán Đàn Bà Mới nằm trên đường Leman. (Đường Leman về sau là đường Cao Bá Nhạ, quận 1.) Sau đó, báo quán đổi qua số 43 đường Galliéni. (Đường Galliéni về sau đổi thành đường Trần Hưng Đạo.) Báo Đàn Bà Mới xuất bản hàng tuần vào ngày Thứ Bảy, ra số đầu tiên (số 1) ngày Thứ Bảy 1-12-1934. Khi đổi trụ sở qua đườngGalliéni, Đàn Bà Mới cũng đổi ngày ra là Thứ Hai hằng tuần. Số cuối cùng (số 95) ra ngày Thứ Sáu 4-6-1937.



Năm 1938, bà Thụy An ra Hà Nội, xuất bản tuần báo Đàn Bà, phát hành vào ngày Thứ Sáu hàng tuần, số đầu ra ngày 16-2-1938 và số cuối vào tháng 4-1939. Tòa soạn tuần báo Đàn Bà đặt trên đường Wiélé. (Đường nầy về sau đổi thành đường Tô Hiến Thành.)



Theo bà Bùi Ngọc Trinh, con gái của bà Thụy An, thì Thụy An từng làm Giám đốc Vietnam Press, nhưng theo người cháu của bà Thụy An thì ông biết chắc chắn Thụy An có làm việc cho Vietnam Press, nhưng không rõ chức vụ. (Nói chuyện với ông Quyền tại San Jose ngày 8-7-2014.)

Cũng theo nguồn tin trong gia đình, thì vào năm 1951, Thụy An đưa bốn trong sáu người con, vào sinh sống ở Sài Gòn. Đó là An Dương, Thu Linh, Ngọc Trinh và Châu Công. Hai người còn lại là Thụy Băng và Dương Chi sống với ông Bùi Nhung và bà vợ sau của ông Nhung.

Không được biết do tình trạng gia đình, hay do công việc, Thụy An lúc nầy hay ra vào Sài Gòn - Hà Nội. Theo lời kể của Bùi Thụy Băng, con trai bà Thụy An, thì khoảng nửa tháng trước khi Việt Minh tiếp thu Hà Nội, Thụy An từ Sài Gòn ra Hà Nội. (Thụy Khuê, Nhân văn Giai phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc, Virginia: Nxb. Tiếng Quê Hương, 2012, tr. 179.) Tuy nhiên, Việt Minh tiếp thu Hà Nội ngày 10-10-1954. Nếu nửa tháng trước ngày Việt Minh tiếp thu Hà Nội tức khoảng cuối tháng 9. Trong khi đó, Đỗ Đình Đạo chết ngày 29-7-1954. Lúc đó, Thụy An đã có mặt tại Hà Nội. Vậy Thụy An phải ra Hà Nội trước ngày nầy. Nếu trước nửa tháng thì có thể trước ngày ký kết hiệp định Genève 20-7-1954. Đây là chuyến đi cuối cùng của Thụy An vì sau đó bà mắc nạn và ở lại đất Bắc.

Văn nghiệp bà Thụy An khá phong phú. Bà có thơ đăng trên tạp chí Nam Phong năm 13 tuổi (1929). Bà làm nhiều thơ nhưng không in thành tập. Về tiểu thuyết, ngoài truyện dài Một linh hồn, bà xuất bản hai tập truyện ngắn là Vợ chồng (25 câu chuyện về hạnh phúc gia đình) và Bốn mớ tóc. Bìa sau của tập truyện ngắn Bốn mớ tóc có in dòng quảng cáo: Đón đọc Nhà lãnh tụ, là sách bà Thụy An dự tính sẽ viết về Đỗ Đình Đạo.

Thụy An còn nhiều tác phẩm viết sau năm 1954 ở Bắc Việt Nam và cả trong thời gian ở tù vì vụ Nhân văn Giai phẩm, chưa được ấn hành. Dầu bị xáo trộn trong gia đình, Thụy An vẫn tiếp tục hoạt động báo chí, sáng tác văn thơ, nhưng bất ngờ bà bị mắc nạn vào nghi án về cái chết của người bạn gia đình là Đỗ Đình Đạo.

2. Đỗ Đình Đạo bị đột tử


Đỗ Đình Đạo sinh ngày 17-7-1911 tại Hà Nội, là con của cụ Đỗ Đình Tiến (bị Việt Minh giết) và cháu nội của Đô thống Đỗ Đình Thuật. Ông gia nhập Đại Việt Dân Chính Đảng do Nguyễn Tường Tam thành lập năm 1938, rồi gia nhập Việt Nam Quốc Dân Đảng.

Năm 1952, thủ tướng chính phủ Quốc Gia Việt Nam là NguyễnVăn Tâm giao cho Đỗ Đình Đạo chỉ huy Đoàn Quân Thứ Lưu Động (Groupe Administratif Mobile en Opération viết tắt là GAMO) ở Bắc Việt. Trước hiệp định Genève, Việt Nam chưa bị chia hai, Ngô Đình Diệm thành lập chính phủ ngày 7-7-1954. Hai ngày sau (7-7-1954), ông Diệm bổ nhiệm Hoàng Cơ Bình làm đại biểu chính phủ tại Bắc Việt kiêm chủ tịch Uỷ ban Bảo vệ Bắc Việt. Uỷ ban nầy còn có Trần Trung Dung làm uỷ viên dân sự và thiếu tướng Nguyễn Văn Vận làm uỷ viên quân sự, chính thức hoạt động ngày 12-7-1954. Hoàng Cơ Bình mời Đỗ Đình Đạo vào Uỷ ban Bảo vệ Bắc Việt, có thể vì ông Đạo đang chỉ huy binh đoàn GAMO, nắm trong tay lực lượng quân sự.

Những người lúc đó ở Hà Nội cũng như ở Hải Phòng, chuẩn bị di cư vào Nam, cho biết là đã được tin Đỗ Đình Đạo bị ám hại vào cuối tháng 7-1954. Trong sách Việt Nam Quốc Dân Đảng, tác giả Hoàng Văn Đào xác định Đỗ Đình Đạo đột ngột từ trần tại nhà số 1 đường Tuyên Quang, Hà Nội tối 29-7-1954. (Hoàng Văn Đào, Việt Nam Quốc Dân Đảng, tái bản kỳ II, Sài Gòn: 1970, tr. 489.)

Đường Tuyên Quang về sau đổi thành đường Cao Bá Quát. Ngôi nhà nầy là nhà của bà Thụy An. Lúc đó, Hà Nội vẫn còn thuộc chính quyền Quốc Gia Việt Nam. Nhà đương cuộc tìm thấy Đỗ Đình Đạo bị đột tử một mình trong nhà bà Thụy An, nên truy tìm bà để mở cuộc điều tra và chận bắt bà tại ga xe lửa nhỏ gần Hải Dương.

Được tin nầy, báo chí Hà Nội liền chạy những bài phóng sự về cái chết của Đỗ Đình Đạo, có tựa đề nóng bỏng, giật gân, nhằm hấp dẫn độc giả: Vụ án vì TÌNH, TIỀN HAY CHÍNH TRỊ? Báo chí còn cho biết bản khám nghiệm pháp y tử thi Đỗ Đình Đạo do bác sĩ Phán ký tên, kết luận rằng ông Đạo bị chết vì chất độc cyanure de mercure. (Theo lời người con ông Đạo.)

Khi Đỗ Đình Đạo bất ngờ từ trần, bà Đỗ Đình Đạo cùng 12 người con đang sinh sống ở Sài Gòn. Được hung tin, bà Đạo ngất xỉu, đau yếu. Chị của ông Đạo cùng người con gái đầu của ông Đạo, lúc đó 22 tuổi, từ Sài Gòn ra Hà Nội, lo việc tang ma cho nạn nhân.

Dựa vào những bài phóng sự trên báo chí, nhiều câu chuyện chung quanh cái chết của Đỗ Đình Đạo được bàn tán, nhất là mối liên hệ giữa Đỗ Đình Đạo với người chủ nhà là Thụy An.

3. Liên hệ giữa Thụy An và Đỗ Đình Đạo

Để thấy rõ mối liênn hệ giữa Thụy An và Đỗ Đình Đạo, trước hết cần chú ý là Đỗ Đình Đạo không phải chỉ là bạn của Thụy An, mà còn là bạn với cả Bùi Nhung, chồng bà Thụy An.

Về phía Thụy An, tuy sống ly thân với Bùi Nhung, nhưng bà không ly dị chồng. Thụy An đã im lặng hy sinh hạnh phúc của mình cho em ruột mình, và vẫn còn thương yêu chồng con nên không đoạn tuyệt chồng mà bà chỉ tự ý sống ly thân, chứ không phải bà ly thân vì phán quyết của tòa án. Đây là sự hy sinh mà ít phụ nữ có thể chịu đựng được.

Về phía Đỗ Đình Đạo, ông là một nhà hoạt động chính trị nổi tiếng, chỉ huy một binh đoàn lớn. Ông giao thiệp rộng, và ông cũng là bạn của Bùi Nhung. Ông không thể tự mình làm hại đến tình bạn và cũng là tình đồng chí với Bùi Nhung. Chắc chắn Đỗ Đình Đạo không dại gì có mối liên hệ bất chính với Thụy An để bị mang tai tiếng, mất bạn bè, mất đồng chí, còn bị giới chính trị, dân chúng và ngay cả binh đoàn GAMO, chê cười, khinh dễ mình, làm suy giảm niềm tin của mọi người.

Đỗ Đình Đạo có vợ và 12 người con. Người con đầu sinh năm 1932 và người con út sinh năm 1954, ngay trước khi Đỗ Đình Đạo qua đời. Đỗ Đình Đạo chăm sóc gia đình, vợ con rất chu đáo. Gia đình ông hạnh phúc. Các con ông Đạo xác nhận ông Đạo là chỗ thân tình với hai ông bà Bùi Nhung và Thụy An, chứ ông không phải là tình nhân của Thụy An.

Trong gia đình Bùi Nhung, người cháu của Bùi Nhung cho biết rằng Thụy An và Bùi Nhung đều là bạn của Đỗ Đình Đạo.Vảo đầu năm 1954, người cháu nầy sống trong nhà của Bùi Nhung ở Ngõ Nhà Đo (Hà Nội). Người nầy thấy Đỗ Đình Đạo thỉnh thoảng đến nhà Bùi Nhung, nhưng để theo dõi tin tức thời sự hơn là chuyện tình cảm. Người nầy khá kính trọng Đỗ Đình Đạo, cũng đã từng gặp gỡ riêng tư và có một lần đi xem hát giải trí ở Hà Nội với Đỗ Đình Đạo.

Như thế, trong thực tế, không hề có liên hệ tình cảm nam nữ giữa Thụy An và Đỗ Đình Đạo. Cũng trong thực tế, những hoạt động cá nhân của hai bên cho thấy đây là mối liên hệ bạn bè và nhất là chính trị lúc bấy giờ. Các con cháu trong gia đình của cả hai bên, lúc đó đã khôn lớn, có người học lớp Đệ tứ (lúc đó học lớp đệ tứ tức lớp 9 là khá lớn tuổi), có người học năm cuối bậc trung học (chuẩn bị thi tú tài), biết quan sát, cũng chẳng thấy có dấu hiệu tình cảm gì giữa hai bên. (Người viết hỏi chuyện riêng biệt con cháu hai bên.)

Ngang đây vấn đề liên hệ bạn bè giữa Thụy An và Đỗ Đình Đạo đã khá rõ ràng, hoàn toàn không có chuyện “quan hệ vợ chồng”(?) như Việt Minh cộng sản tuyên tuyền khi kết án Thụy An và một số sách báo sau nầy viết lại.

4. Nghi án vụ Đỗ Đình Đạo bị đột tử?

Có một câu hỏi mà chắc chắn nhiều người đặt ra là tại sao Đỗ Đình Đạo bị đột tử tối 29-7-1954 tại nhà Thụy An? Lúc đó, Thụy An vừa từ Sài Gòn ra Hà Nội vì mục đích là để kiếm cách cứu Bùi Việt Quốc là con của Bùi Nhung với người vợ sau là Lưu Thị Trạch, em gái bà Thụy An. Bùi Nhung đang làm giám đốc Đài phát Hà Nội. Bùi Việt Quốc bị Việt Minh bắt cóc để áp lực Bùi Nhung không được di chuyển đài Phát thanh Hà Nội xuống Hải Phòng để tiếp tục tiếng nói của chính phủ Quốc Gia Việt Nam trước khi cộng sản tiếp thu Hải Phòng (13-5-1955), rồi mang vào Nam Việt Nam. Ngoài ra, Thụy An còn ra Hà Nội nhằm thông báo cho Đỗ Đình Đạo một số tin tức và diễn tiến chính trị ở Sài Gòn.

Khi Đỗ Đình Đạo bị đột tử trong nhà bà Thụy An, thì thủ tục đầu tiên chính quyền Hà Nội, thuộc chính phủ Quốc Gia Việt Nam, phải tìm chủ nhà để mở cuộc điều tra. Chủ nhà chính là bà Thụy An. Vụ án mới chỉ bắt đầu tiến hành, cuộc điều tra chưa kết thúc, chưa đưa ra xét xử trước tòa án. Đây mới chỉ là nghi án, chưa có kết luận gì cả, nhưng do đề tài báo chí TÌNH, TIỀN HAY CHÍNH TRỊ, nên nhiều dư luận đồn đoán lan truyền.

Một trong những lời đồn đoán quan trọng là người ta nghi ngờ phải chăng Thụy An làm việc cho Việt Minh cộng sản, nên nhận lệnh giết Đỗ Đình Đạo là một lãnh tụ quốc gia? Tuy nhiên, nếu Thụy An theo lệnh của Việt Minh giết Đỗ Đình Đạo, thì sau khi hành động, Thụy An phải tìm đường trốn vào mật khu của Việt Minh để được an toàn. Lúc đó Việt Minh đang bao vây Hà Nội và chờ đợi ngày tiếp thu. Đàng nầy, không có chuyện Thụy An trốn theo Việt Minh.

Ngoài ra, cuộc sống của Thụy An trước cũng như sau khi Việt Minh tiếp thu Hà Nội (10-10-1954), cho thấy rằng trước sau Thụy An chẳng liên lạc gì với Việt Minh, cũng không cộng tác với Việt Minh. Chẳng những thế, Việt Minh còn trù dập và vu cáo Thụy An làm gián điệp cho Pháp trong vụ án Nhân văn Giai phẩm năm 1960.

Sau nầy, chính Thụy An cũng thổ lộ là bà không biết ai giết Đỗ Đình Đạo? Cần chú ý thêm là khi xuất bản tập truyện ngắn Bốn mớ tóc, Thụy An cho in trên bìa sau sách nầy dòng quảng cáo: Đón đọc Nhà lãnh tụ, là sách bà Thụy An dự tính sẽ viết để ca tụng Đỗ Đình Đạo. Như thế, xét cho cùng, nếu không giúp đỡ Đỗ Đình Đạo, người bạn của gia đình, thì Thụy An chẳng có lý do gì để đầu độc Đỗ Đình Đạo. Bà giết ông Đạo để làm gì? Chẳng vì tình, cũng chẳng vì tiền, mà cũng chẳng vì tranh chấp chính trị?

Thực tế, dư luận chung lúc đó cho rằng chính Việt Minh đã ám sát Đỗ Đình Đạo. Việt Minh vốn chủ trương giết tiềm lực, tiêu diệt tất cả những thành phần theo chủ nghĩa dân tộc, có khả năng đối kháng với Việt Minh. Từ năm 1945, nhiều lãnh tụ quốc gia bị Việt Minh thanh toán mà không vết tích như Nguyễn Thế Nghiệp, Nguyễn Ngọc Sơn, Trương Tử Anh, Nguyễn Hữu Thanh (Lý Đông A), Nhượng Tống…

5. Thụy An bỏ trốn

Theo lời bà Thụy An sau nầy kể lại cho người cháu của ông Bùi Nhung, thì ngày 29-7-1954, Đỗ Đình Đạo mượn nhà Thụy An để tổ chức hội họp. Tin trong gia đình bà Thụy An cho biết hôm đó là một cuộc họp chính trị, có người không muốn dùng công sở của chính phủ, cũng không muốn thuê các nhà hàng hay khách sạn vì sợ lộ bí mật, nên ông Đạo mới mượn nhà bà Thụy An để tổ chức hội nghị, tức địa điểm trung lập. (Nói chuyện với ông Q., cháu Bùi Nhung ngày 8-7-2014.)

Cũng tin trong gia đình, Đỗ Đình Đạo bị đột tử tối 29-7-1954, thì sáng ngày hôm sau, Thụy An về nhà. Bà thấy Đỗ Đình Đạo đã chết, nằm ngay ngắn, trên bàn có một bát (tô) miến, mà về sau nhà đương cuộc Hà Nội nói là có chất độc. Bà Thụy An không biết ai đã giết Đỗ Đình Đạo, hay Đỗ Đình Đạo tự sát, nhưng trước tình trạng nầy, bà hoảng sợ bỏ trốn.

Trên chuyến tàu hỏa từ Hà Nội đi Hải Phòng, Thụy An bị bắt tại một nhà ga nhỏ cuối cùng trước khi đến Hải Phòng, và bị tạm giữ ngay tại đó, trong một căn phòng, bên ngoài do một người da đen, bận thường phục canh gác. Vì vậy Thụy An không biết cơ quan nào đã bắt mình: Phòng nhì Pháp, hay sở Liêm phóng (Công an), hoặc Cảnh sát?

Được tin vợ bị bắt, Bùi Nhung liền tìm đến thăm. Ông Nhung nói với vợ đại ý rằng ông không đủ thế lực và khả năng để bảo lãnh Thụy An ra khỏi tù. Bà hãy đợi xem thình hình, rồi sẽ liệu định sau. Thụy An liền nhờ Bùi Nhung mua giúp cho bà một chai rượu Tây (Pháp), để bà tặng cho người canh gác, nhằm nhờ ông ta giúp đỡ khi có việc cần. Bùi Nhung làm theo lời vợ yêu cầu. Bà Thụy An tặng chai rượu cho người canh gác. Tối hôm đó, người da đen canh gác uống rượu say. Bà Thụy An lợi dụng cơ hội bỏ trốn. (Toàn bộ câu chuyện về cái chết ông Đạo và bà Thụy An bị bắt, bỏ trốn theo lời bà Thụy An kể lại cho người cháu tên là Q. năm 1988. Ông Q. nói chuyện với người viết tại San Jose ngày 8-7-2014.)

Thụy An kể rằng khi người tây đen đang say sưa, bà xin đi nhà vệ sinh (cầu tiêu), rồi chui xuống lổ hầm nhà vệ sinh và bỏ trốn ra ngoài. Bà đến nhà một người bạn gần đó tắm rửa và thay áo quần, rồi theo xe hỏa trở ngược về Hà Nội.

Thời bấy giờ, loại cầu tiêu phổ thông là cầu tiêu đổ thùng. Cầu tiêu xây cao, phía dưới là một hầm cầu, xây kín 3 phía, còn chừa một phía làm cửa. Trong hầm cầu đặt một cái thùng để đựng chất uế thải. Mỗi tối hay sáng sớm, một người phu đổ thùng đến mở cửa, thay thùng cũ, đặt một thùng khác thế vào. Vì không dội nước, nên cái lỗ cầu thường rộng để khỏi bị dính khi đi cầu. Nhờ vậy, Thụy An mới chui xuống được hầm cầu để bỏ trốn.

Khi chính quyền Quốc Gia Việt Nam di chuyển vào Nam sau hiệp định Genève, hồ sơ vụ việc Đỗ Đình Đạo và Thụy An được Tòa thượng thẩm Hà Nội chuyển vào Tòa thượng thẩm Huế. Trong hồ sơ nầy, đến đoạn Thụy An bỏ trốn, thì người ta ghi rằng bà Thụy An trổ nóc cầu tiêu để thoát thân. (Theo lời kể của ông M. Đ.N. tức giáo sư Nguyễn Hữu Thứ, chánh án Tòa thượng thẩm Huế. Giáo sư Thứ kể cho người viết là ông đã tận mắt đọc lại hồ sơ nầy.)

Như thế là hai nguồn tin riêng biệt (tòa án và Thụy An) đều cho biết rằng Thụy An bỏ trốn sau khi vào cầu tiêu. Chỉ khác nhau là phía tòa án cho rằng Thụy An trổ nóc nhà cầu mà ra, còn Thụy An tự kể là đã chui xuống hầm cầu trốn đi. Thực ra sức vóc phụ nữ thì khó có thể trổ nóc để thoát thân và trước viễn cảnh bị giam cầm, Thụy An phải chấp nhận chui hầm cầu dầu thiếu vệ sinh và hôi hám để bỏ trốn.

Do bị chính quyền Quốc Gia Việt Nam truy nã, Thụy An lo ngại, không dám di cư vào Nam Việt Nam mà đành phải ở lại Bắc Việt Nam, trong khi Bùi Nhung và con cái đều vào Nam. Sau đó, tại Bắc Việt Nam, Thụy An lại bị liên hệ vào một vụ án khác.(Vào Nam Việt Nam, Bùi Nhung xuất bản năm 1965 tập hồi ký Thối nát, về giai đoạn 1945-1954.)

6. Thụy An và vụ án Nhân Văn Giai Phẩm

Sau năm 1954, tại Bắc Việt Nam nhà văn lão thành Phan Khôi chia giới văn nghệ sĩ Hà Nội thành hai thành phần rõ rệt: 1) Nhóm “lãnh đạo văn nghệ” hay những “ông quan văn nghệ”, viết văn theo lệnh của đảng Lao Động (LĐ tức đảng Cộng Sản), được đảng LĐ tin cậy, giao nhiệm vụ chỉ huy, đứng đầu là Tố Hữu. 2) Nhóm “quần chúng văn nghệ” là những thành phần còn lại, yêu tự do dân chủ, không muốn gò bó trong giáo điều và sự quản lý của “lãnh đạo văn nghệ.” Nhóm thứ hai đông đảo hơn, vận động cởi trói văn nghệ. Cao điểm của cuộc vận động là các báo Giai Phẩm vàNhân Văn xuất hiện năm 1956.

Đảng LĐ liền trấn áp, tổ chức học tập, bắt bớ, tù đày những văn nghệ sĩ phản kháng. Thế nhưng vẫn chưa đủ. Thụy An không tham gia và không viết bài cho cả hai báo Giai Phẩm và Nhân Văn, vẫn bị bắt giam tại ngục thất Hỏa lò Hà Nội vì bị cộng sản cho rằng bà tác động mạnh đến hai nhóm nầy. Khi viên công an cộng sản hỏi cung, y nói với bà Thụy An rằng: "Chị có mù đâu mà không thấy chế độ tốt đẹp ra sao, lại không giác ngộ và mất tin tưởng ở chế độ, trong đầu chứa chấp toàn ý tưởng phản động.” Trở về lại phòng giam, Thụy An tự chọc mù một mắt. Cán bộ trai giam hỏi Thụy An lý do vì sao tự chọc mù một mắt, bà trả lời: "Chế độ của các anh nhìn một mắt cũng đã thấy quá nhiều cái xấu xa chịu không nổi rồi, để cả hai mắt chắc tôi không sống nổi." (Thụy An kể chuyện cho người cháu là ông Q.) Đúng là đàn bà dễ có mấy tay!

Ngày 21-1-1960, Thụy An bị Tòa án cộng sản kết tội 15 năm tù giam, vì bị tố cáo là tiếp tay cho cả hai nhóm Giai phẩmvà Nhân văn, và làm gián điệp cho Pháp. Tuy nhiên, theo Thụy An, vụ án nầy chỉ là sự trả thù cá nhân của Tố Hữu mà thôi. Thụy An kể rằng trong một lần gặp nhau ở Hội nhà văn Hà Nội, Tố Hữu nói với Thụy An: "Tôi thấy chị làm thơ cũng khá, sao không đưa cho báo đăng?" Thụy An liền trả lời: “Thơ thì chỉ có một cái chiếu mà anh ngồi hết cả chỗ thì còn đâu ra chỗ mà ngồi. Tôi không thích ngồi ở mép chiếu." Từ đó Tố Hữu để tâm thù ghét và kiếm cơ hội ám hại Thụy An. Đó là nguyên nhân chính đưa đến việc Thụy An bị bộ máy tuyên truyền cộng sản dưới quyền Tố Hữu vu cáo và bà bị truy tố ra tòa án, để cuối cùng lãnh 15 năm tù giam.(Bà Thụy An kể cho ông Q.)

Thụy An ở bị nhà cầm quyền cộng sản giam từ 1960 đến 1973. Sau hiệp định Paris (27-1-1973), bà ra khỏi tù trong dịp mà cộng sản gọi là “Đại xá chính trị phạm”. Bà được cộng sản cho vào sinh sống ở Sài Gòn năm 1977. Lúc đó, một số con của bà đã di tản qua Hoa Kỳ. Bà liên lạc được với các con nhưng chưa có cơ hội gặp lại. Sau đây là thư bà Thụy An gởi cho người con trai đầu là Bùi An Dương: (thủ bút do ông Q. cung cấp)




Kết luận

Trước đây, đã có nhiều sách báo viết về vụ án mạng Đỗ Đình Đạo, nhưng thiếu ý kiến của những người trong cuộc hoặc con cháu của người trong cuộc kể lại. Ngoài các tài liệu cũ, bài viết nầy chẳng những dựa vào những cuộc nói chuyện với con cháu của cả hai bên ông Đỗ Đình Đạo và bà Thụy An, mà còn kiểm chứng thêm với một số thân hữu lớn tuổi đã từng trải qua giai đoạn chuyển tiếp ở Hà Nội và Hải Phòng năm 1954, trước khi di cư vào Nam, đã từng đọc báo hay nghe thuật lại diễn tiến vụ án. Hy vọng bài báo nầy có thể góp thêm vài thông tin mới, ví dụ mối quan hệ giữa Đỗ Đình Đạo và Thụy An là tình bạn trong sáng giữa hai người và hai gia đình, chứ hai người không phải là tình nhân như một số tài liệu trước đây.

Tuy nhiên, cuối cùng vấn đề quan trọng là ai đã sát hại Đỗ Đình Đạo tối 29-7-1954 tại nhà số 1 đường Tuyên Quang, tức đường Cao Bá Quát, thì vẫn chưa có câu trả lời cụ thể, ngoài sự hoài nghi là cái chết của Đỗ Đình Đạo nằm trong kế hoạch giết tiềm lực của Việt Minh cộng sản, thủ tiêu tất cả những ai có khả năng chống lại cộng sản. Như thế, nếu cộng sản còn cầm quyền, thì có thể nghi án nầy sẽ chìm dần theo thời gian mà chẳng bao giờ có phần kết luận.

(Toronto, 16-7-2014)

Trần Gia Phụng
danlambaovn.blogspot.com
Users browsing this topic
Guest
Forum Jump  
You cannot post new topics in this forum.
You cannot reply to topics in this forum.
You cannot delete your posts in this forum.
You cannot edit your posts in this forum.
You cannot create polls in this forum.
You cannot vote in polls in this forum.