Welcome Guest! To enable all features please Login or Register.

Notification

Icon
Error

11 Pages«<56789>»
Ái Ưu Du &gt; Văn &gt;&gt; Những Truyện Tình Dài . . .
Ái Ưu Du
#121 Posted : Sunday, July 22, 2007 4:41:28 PM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

Chương 30

HỒI TƯỞNG




Không. Làm sao quên được? Bao giờ quên được nhỉ! Tất cả với Hoài là dư hương đắm say, từng ấp ủ kỷ niệm vô giá, là kho tàng duy nhất bên giọt nắng thiên thu. Sẽ không bao giờ quên, dù là cái đấm lặng lẽ.
Nào có quên được khi hè sang, mang theo những cơn mưa dầm đầu mùa trên xứ lạnh ướt át. Bao cuộn mây xám nặng trĩu nước mưa, lềnh bềnh trôi trên không gian rưng rưng hạt nước trữ tình.
Ngày ấy… có bước chân ai hân hoan rảo nhanh trên đường vắng? Và tôi tung tăng chạy nhảy trên đường quê hương ngập mưa phùn hiu hắt bay bay. Ấy thế mà lòng anh em ta thanh thản, bước chân hân hoan như con bướm nhởn nhơ gặp nắng lên. Tôi vui tươi dệt bao mộng hãi hồ vừa ươm trong lòng cô học trò chớm lớn, tuổi mười sáu trước viễn ảnh tương lai đầy hứa hẹn. Tươi nguyên biết ngần nào.
Tôi đã yêu say đắm, đã cười sảng khoái tung hoa chạy dưới hàng cây cao vút, hò hẹn cùng ai vào những ngày nắng ấm êm ả bên hồ, bên thác nước muôn trùng, trên đồi thông xanh ngắt cao bgất, ngút ngàn.
Rồi… trời mùa thu ngày nào muộn phiền hái bao chiếc lá úa não nùng chia ly? Mây thu ảm đạm bay qua lưng trời xứ lạnh, quấn lên chỏm núi Lâm Viên một màn tang trắng lạnh lẽo, như quấng vào lòng cô thiếu nữ xuân thì, cánh cửa vàng son khép lại góc thiên đường hạnh phúc vỡ tan.
Dù rằng anh vẫn còn đó. Anh vẫn còn đây. Nhưng giờ thì, anh chả khác nào đám mây vắt qua sườn đồi, anh như chiếc lá úa chao mình trong không gian tơi tã gió mưa. Anh như cánh bướm gãy cánh bay lơ lửng giữa vời, em cố vươn tay ra để đón. Nhưng muộn quá rồi. Giữa tôi và anh chỉ còn vòng mây sô tang dàn rộng không bến chẳng bờ.
Tôi không bao giờ quên người lính trẻ có đôi mắt u hoài, đã lội qua sông Nghĩa Phú ngày nào, khi mặt trời lung linh trên bờ lau bụi lách lao xao. Trong tôi vẫn nhóm bừng lên ánh lửa tiếc nhớ ước mong lẫn ân hận quắt quay, khi nghĩ về Đan. Vâng! Chính Đan. Tôi chưa bao giờ kể cho ai nghe, kể cả người thân yêu ruột thịt của mình, về nỗi đau buồn vô hạn. Chính vì chưa phải tình yêu đến với tôi, mà là tôi rất kính trọng Đan. Do vậy, một phần lớn tôi đã ghi lại những trang bút ký dày cui nầy. Em mong anh Đan hãy lấy nước suối mạch nguồn ở chốn rừng già trên Minh Long, A Sao, vừa tan sương khuya và nhạt mùi súng đạn, để rửa sạch khổ lụy tình em nhá.
Từ nơi rừng sâu xa xôi ấy, anh hãy thổi cho em luồng gió mát làm tỉnh người. Cho em nhớ đến một Trần Ngô Thị Hương Hoài vang danh hoa hậu. Một người đẹp xứ hoa anh đào thơ mộng, chả có gì. Chẳng còn gì tất cả, ngoài sự trinh nguyên thân phận đáng buồn. Chỉ vì tôi nhẫm lẫn khi chọn Hoàng, tôi đã trả giá rất đắt cho cuộc tình chung. Dẫu rằng tôi xin khẵng định giữa tôi và Hoàng chưa bao giờ làm chuyện mất đạo lý gia phong. Chúng tôi yêu nhau trong sáng. Nhưng, do tình yêu nầy, anh ta quá lãng mạn đa tình đã bóp thắt trái tim tôi đau nhói.
Không quên. Nếu tôi sống đến ngàn năm tôi vẫn không quên. Từ ngày biết yêu đến đêm cuối cùng biết nhớ nầy. Tất cả vẫn nhớ nhung ngập lòng. Nhớ đến nỗi tôi phải cắn chặt môi, để khỏi bật thành ngọn sóng trào. Con sóng lớn của trận bão lòng hôm nay bên Cảnh, như cơn điên cuồng dị thường nhất đời người đang xoáy mạnh theo cơn lốc, muốn trở tiếng khóc nỉ non mà cuồng nộ gầm thét.
Súng cối và những dòng pháo hoà lẫn tiếng trống, tiếng kèn, quyện vào nhau đồng loạt rền vang. Những chấn động khác làm muôn ngàn chim én tạm dung thân trên bao vòm mái hiên cao trong trường, hốt hoảng vụt bay ra xa. Chúng liệng qua liệng lại vun vút, vù vù. Chúng rạch không khí như tia chớp đen, thoăng thoắt bay xẹt xẹt ngang đầu.
Sườn đồi có những cột đèn thẳng tắp sau đêm hội khá lạnh, áng mây trắng bồng bềnh phủ mình trên mặt hồ phẳng như phiên gương loáng nước. Bầu trời im ắng như buổi dạ hội chưa từng đi qua thảm cỏ nhung mềm ướt đẵm sương khuya. Một giải sương nhạt mỏng manh như làn khói quấn quít dưới thung lũng rồi vất vờ bay lên.
Lâu thật lâu có vài chiếc xe nhà bóng loáng vút qua, quét đôi mắt pha lê vào đêm tối. Dãi ngân hà như dãi lụa trắng nép mình vào áng mây chạy qua vòm trời đêm quê hương. Tôi nhớ hai vì sao yêu thương nằm cạnh nhau trên bến Ngân Hà. Canh khuya buông hờ hững trong bầu trời yên tĩnh và nỗi quạnh hiu ngậm ngùi trong tôi vẫn đầy. Tôi đã mỉm cười nhìn Cảnh lần cuối đi về sau lời giã biệt. Tôi lặng lẽ xa anh thật rồi không chút do dự. Tôi không hề nói cho Cảnh biết lý do về sự buồn phiền tại sao ân tình chưa đạt, đã sớm tàn phai.
Tôi có thể dửng dưng nếu mai kia tình cờ gặp anh đi với ai trên phố. (như người không quen biết). Vì tình yêu anh đã mang đến tôi chưa đúng chỗ. Có nhiều điều không thể đơn giản hoá vấn đề. Anh yêu tôi mà anh không thấu hiểu gì về tôi cả. Cái tôi cần và sự rất cần thiết của tôi đòi buộc phải có – Thì, anh không thể đáp ứng. Nên bây giờ đối với tôi tình yêu thật là vô nghĩa, khi mình trao nhau cái đấm lặng lẽ. Tình yêu đã bất hạnh chua cay tràn đầy nỗi trống vắng chia biệt, xót xa buồn thảm lắm rồi. Cảnh ơi!
Tình yêu đã có cớ vổ cánh bay cao.
Vĩnh biệt anh.

_ * _

Ái Ưu Du
Ái Ưu Du
#122 Posted : Tuesday, July 24, 2007 7:01:45 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

CHUYỆN ANH và TÔI

Chương 30

NGHĨA XƯA





Vào lúc choạng vạng tối, trên mái ngói lầu cao, ở bến xe Tùng Nghĩa - Đà Lạt, ánh đèn pha sáng trưng, hàng ngàn chú dơi bay lượn thoăng thoắt bắt mồi, chúng rít lên tiếng kêu xít xít không ngừng. Cạnh bến xe ồn ào như vỡ chợ, đinh tai nhức óc suốt ngày đêm. Sao chúng không điên, mà cứ rít lên, rít lên!
Tiếng rít khiến tôi càng nhức đầu, nhức tai, bủn rủn, thốn tim hơn, trái tim vốn dĩ mang căn bệnh trầm kha rồi. Cầu trời, nếu có chuyện gì xảy ra, xin cho chuyện lành. Con đã có quá nhiều đắng cay, bất hạnh. Xin cho con hai chữ bình an, đừng để con “xỉu” tại nơi nầy.
Băn khoăn, lo lắng cùng cực, tựa như đằng sau cánh cửa sáng đèn, vừa mở ra, sẽ có cái gì thình lình ập đến, hoặc choảng vào đầu, khiến tôi lo sợ, rụt rè, thập thò nơi ngưỡng cửa. Tứ ngồi trên giường, đùa với các con. Ông nội nằm đọc báo trên sofa, bà nội ăn chè bên bàn. Đầy đủ cả nhà. Đồ quỷ nà! Thế mà cứ lo sợ bâng quơ! Bậy bạ quá!
Các con nhảy phóc xuống giường, chạy ra mừng mẹ về, chúng ríu rít vui vẻ bên tôi, bé Hai cố kéo lê giỏ xách trái cây, lôi đi xềnh xệch, đến trước mặt mọi người. Cả nhà xúm lại, vừa ăn quà, cô đã mua ngoài bến xe, chuyện trò vui vẻ. Lúc sau, như sực nhớ ra, Tứ nói:
- À, hôm qua, ca sĩ Mai Tuyên, đến thăm chúng ta, với một người đàn ông lạ. Cô tặng em đôi dép kia kìa. Tuyên hẹn sẽ đến gặp em ngày mai, trước khi về Saigon đó.
Tôi vui mừng thật sự. So với cô em kết nghĩa đầy danh vọng, thì món quà bé nhỏ, đơn sơ, chỉ đáng vài đồng. Nhưng bất ngờ cô em đến, khiến tôi suy nghĩ, khơi dậy trong lòng tôi cái phẩm chất cao qúy, khi nhận nhau qua tình chị em kết nghĩa.
Tâm trí tôi bối rối, không thể diễn đạt điều băn khoăn, về người đàn ông đi cùng. Tôi tin chắc ông là người tình của Mai Tuyên. (cô ta đổi tên mới) Nhưng là ai?
Hẳn không thể là anh, như bạn bè đồn đãi. Nhưng biết đâu! Nếu sự thật Tuyên dẫn anh ta đến, tôi có thể đánh giá hai nhân vật nầy, hiểu được họ muốn gì, khi chúng tôi gặp lại nhau. Điều nầy, khiến tôi bối rối, băn khoăn, quả là một cuộc gặp gỡ khó chịu. Quá khó chịu là đằng khác, giữa Anh, Chị và Em.
Sáng sớm hôm sau, tôi lo trang điểm, mặc vội quần áo đẹp nhất, đi làm gấp, tôi muốn tránh cuộc tiếp xúc không hẹn. Vừa mở tủ lấy cái bóp và cây dù xếp nhỏ, chợt nghe Tứ nói:
- Mai Tuyên đã đến rồi. Em.
- Em ngại tiếp họ ghê. Anh ra tiếp hộ em. Nói em đi vắng nhe.
- Coi sao được. Không kịp rồi.
Nhìn ra khung cửa kính, tôi bủn rủn, bàng hoàng, bất ngờ đến lặng người đi, lúc họ dừng chân trước bậc thềm. Run rẩy, lúng túng, bối rối, tôi mời Cảnh, Tuyên, vào nhà, ngồi trên sofa. tôi xuống bếp, pha ba ly trà bốc khói, đặt trước mặt. Hơi thở dội ngược vào lồng ngực, trái tim trầm kha co thắt, đập mạnh dữ dội, khiến nàng thốn tim, nghẹt tim hơn.
Tuyên tìm cách gợi lại mối tình say đắm, thiết tha xưa, ra oai, để chiếm hữu thế giới nội tâm, từ dĩ vãng, hiện tại, đến tương lai chàng ư? Vừa muốn “ân cần rất mực” với người nhận là chị. Sau nầy, lỡ có liên lạc, không ai đi quá giới hạn, lẫn nguyên tắc gia phong.
Sự gặp gỡ bất ngờ, sau bao năm ly biệt, như ba dòng nước ngược xô vào nhau, tóe lên thành nhiều cột nước, chảy xiết xuống thác Datanla, thác Gougah, thác Pongour… Mọi triết lý tình yêu, không nghĩa lý gì, giữa trường hợp một cuộc tình, có ba trái tim rối rắm kinh khủng, đang đập loạn xạ trong lồng ngực.
Cái đấm tình yêu lạnh lùng, tàn nhẫn, từ năm 1964, chưa đủ mạnh, không đủ đớn đau sao? Giờ đây họ gượng dậy, cố tìm nhau, khi đau thương còn đầy chăng? Quá khứ xa xôi dồn dập vang dội lại, phút chốc bẽ bàng, cay đắng biết mấy! Cảnh vượt qua không gian, thời gian, trở về trên đường phố hoa Đào, nơi quê hương thơ mộng, diễm kiều, từng là niềm ấp ủ bao thương yêu, nhung nhớ. Cảnh đã trở về trên đường phố quê hương, để làm gì nữa, khi chính “nàng” phản bội “chàng” trắng trợn nhất. Chính phải! Sự trở về chua chát, cay đắng dường bao!
Tháng năm dài đăng đẵng, vừa thoáng qua hiện tại, chỉ vài giờ đối diện ngắn ngủi. Tuy vậy, đủ ngất ngây rung cảm, từ chân tơ kẽ tóc, nỗi khát khao sống lại thời xuân trẻ, vụt bay xa, lạnh ngắt một đời. Không có ai, không có gì, tuyệt nhiên ngăn cản anh, quay trí du hành về phạm trù quá khứ u uẩn, đượm vẻ băn khoăn, đau buồn, xa vắng thế nào ấy.
Ở phạm trù xưa cũ đó, và “nàng”, đã có những giờ phút đắt thắng, tự hào vang bóng một thời xuân trẻ long đong, trước số phận tàn nhẫn cay nghiệt, quật ngã. Sau bàn tay vô hình nắm lại, tự đấm vào tim vào óc mình mấy cái, quá khứ vồ xé hiện tại, trở thành bẽ bàng chua chát. Một sự chua chát kinh khủng!
Qua khóe mắt tò mò, đầy hiếu kỳ, pha chút ngại ngần, Cảnh nhìn tôi đăm đăm, như muốn quan sát cuộc sống, niềm vui, nỗi buồn, ẩn hiện trên khuôn mặt. Cảnh thấy chùng xuống vũng bóng tối cô đơn, dày vò, mềm lòng đi, trong nỗi khát khao thèm hôn lên giếng mắt thăm thẳm riêng lẽ, đôi môi tươi thắm, có nụ cười say đắm, làm ngã lòng người đó, quá chừng.
Nếu chỉ vì tình yêu xưa đắm say, bỗng chốc vỡ tan, như bọt sóng sùi sụt xô bờ, giờ đây chắc chắn cả ba người không bẽn lẽn, bẽ bàng ngồi trước mặt nhau, như màn kịch câm, do cô danh ca độc đáo dàn cảnh trùng phùng. Thì, chẳng bao giờ, Cảnh dám quá bộ ngồi vào sofa, khi vết thương lòng vừa khép miệng. Tuyên tinh ranh hơn, lợi dụng lòng cả tin của vợ chồng Tứ, sự chiều chuộng yêu thương của Cảnh, cô ném một hòn đá vào mục tiêu, có chủ đích trúng ba vết thương một lúc. Cô khá cao cơ, muốn chiếm đoạt thể xác, trái tim Cảnh từ quá khứ, hiện tại, cả tương lai.
Tuyên có cử chỉ ghen tuông buồn cười nhỉ! Vờ vĩnh nhã nhặn, vui vẻ, hợm hĩnh sao đâu, cử chỉ lố bịch, khiến họ khó chịu gấp ngàn lần. Chẳng thà thẳng thừng trách cứ nhau đi. Tuyên làm chi, mà vùng vằng, nép vào ngực anh, lại hất tay Cảnh ra, khi anh vuốt lọn tóc cụt lủn xỏa bên má cô, rồi vùng chạy qua ngồi sát bên chị Hoài, léo nhéo nói những câu, chả đâu vào đâu. Lại chạy qua, chạy về, bốc đồng lên, Tuyên bịa đặt ra đủ thứ chuyện, trên trời dưới quận, miễn sao hạ đối phương, cho đã miệng.
Cảnh cười hì hì, cố âu yếm cầu hòa. Họ cần đến đây “diễn một pha” như thế, để làm gì nhỉ? Có thể là họ đùa trên thương đau chính mình, hay người khác. Thật, tôi không hiểu nỗi! Tôi nói chuyện chung chung, tránh hỏi han cặn kẽ, sợ Tuyên hiểu lầm “chị” còn lưu ý đến “anh”. Tôi thẳng thắng hỏi chuyện xã giao, để Tuyên không lấy lý do gì, dằn vặt Cảnh, trước mặt người xưa.
Cảnh đánh diêm mồi thuốc, phân nửa que diêm bừng sáng, mang đốm lửa xanh vàng, xì xì xẹt xẹt. Khuôn mặt anh trở nên run rẩy, mờ nhạt, xa xăm, trong làn khói thuốc uốn quanh. Giống như hình ảnh phản chiếu, trên mặt hồ đầy sương, khi gió thoảng, gợn sóng lăn tăn. Trên vầng trán rộng và cao, Cảnh biến mất vẻ ưu tư đau buồn, vì so với góc cạnh sắc sảo, cay độc đời mình, những gai nhọn từ đóa hồng, đâm thủng bàn tay năm xưa; đóa hoa tình yêu Tuyên vừa trao gửi, êm ái hơn nhiều. Anh khéo léo “xí xóa” vài lầm lỡ của bạn tình non, khi Tuyên có cử chỉ “ngây thơ cụ”, lời nói kém tế nhị, vụng về.
Cảnh cắt tóc cao, ép vào gáy, tạo vẻ dạn dày trước tuổi, hiên ngang, làn da phong sương ngăm ngăm, khuôn mặt chữ điền, chiếc cằm rộng thêm phần quả quyết, mũi lân to bè khoan khoái, nụ cười rộng mở, hàm răng trắng đều, anh “hồn nhiên và khả ái” cười toe . Đôi mắt đẹp hai mí to tròn, hàng mi dày cong cong như cười theo. Đôi mắt đó không khác gì xưa, nhưng bây giờ trống vắng, chả nói lên được điều gì, (lúc mắt Cảnh, thầm lặng đọng lại trong giếng mắt Hoài). Dù tuổi xuân bay, tình yêu như bong bóng trôi dần về quá khứ, thời gian, không gian, cướp dần dần đi tất cả; đôi mắt ấy vẫn ánh lên ngọn lửa, có độ nồng nung mầu nâu thẫm, đầy xúc cảm về dấu kỷ niệm, nhiều giông bão chưa phai nhòa.
Nhiều lần Tuyên chạy qua, chạy lại, giữa hai người, nói ba xàm ba láp, thì Cảnh lặng lẽ nhìn tôi, thiết lập chiếc cầu giao cảm thầm lặng, đầy tình hữu nghị. Tâm trí anh mơ màng nhớ biết bao chuyện vui, buồn, thương, giận, thuở xưa. Anh nhớ lần đầu tiên hai người vào rạp Hòa Bình xem phim Nữ hoàng Ai Cập Cléopâtra, do Liz Taylor thủ diễn vai chính, với tướng Jules César và Marc Antoine. Anh bạo dạn ôm nàng trong bóng tối. Anh nhớ con suối vàng êm ả buông mình bên bụi cây thưa, khi lần đầu tiên tỏ tình, anh ôm hôn cô đắm đuối. Anh nhớ tiếng ríu rít bầy chim giữa hoàng hôn bên thác Prenn, con thác trắng xóa điên cuồng xô sóng, chạy vào bờ, khi rút ra đã cào cuốn tất cả rong rêu, đất cỏ, một cách kiêu hãnh, tung hoành và khoái chí. Đó là ngày anh đưa ba má lên nhà coi mắt Hoài, ngỏ lời cầu hôn. Rồi những tháng năm yêu nhau đậm sâu quá chừng.
Anh nhớ rất rõ từng câu chuyện tình trong sáng, êm đẹp của “đôi ta”, nhớ tháng mười một lộng gió, trời lạnh lẽo suốt bao ngày dài, vật vã giữa dòng đời. Cũng là ngày tôi tàn nhẫn từ hôn. Đột ngột. Lạnh lùng, tàn ác quay lưng đi, không lời từ giã, mặc dù Cảnh như điên cuồng, thất thểu theo anh Doãn, (là anh ruột Hoài), đi hết vùng đất Đà Lạt, hai người tìm kiếm nàng suốt tháng.
Cho đến bây giờ, Cảnh không hiểu nỗi tại sao, Hoài vĩnh biệt anh, khi hương độ yêu thương nồng nàn đến vậy? Tưởng không ai, không bao giờ có thể chia cắt, dù có bao bối cảnh… Nhưng Hoài đã bỏ Cảnh, mà đi lấy chồng. “Chúng ta” đã làm điều gì sai? Thật oái oăm và đau đớn, kinh khủng biết ngần nào, về những ngày xa xưa ấy!
Khi trực diện với Cảnh, cùng những kỷ niệm ngày xưa, công bình và thẳng thắng, đó là niềm kiêu hãnh, tôi luôn tự hào ta là một kiều nữ, từng làm tan nát bao trái tim chàng trai phải lòng. Tôi hãnh diện về thời vang bóng vàng son, thuở mới lớn bên anh, một cách công khai, không dấu diếm. Thật thế, tôi yêu say đắm, từng ấp ủ trong lòng nhiều mộng đẹp. Đời đôi lúc có nhiều chuyện trớ trêu, phũ phàng không tưởng nỗi. Và, bước ngoặt khốc liệt nhất đã đến, đẩy hai người, tới cảnh ngang trái, đắng cay nầy.
Có lẽ, ngồi khá lâu, thộn mặt ra nhìn Tuyên, chủ động vai “nhân vật chính, mối tình salon” thấy cũng kỳ. Cảnh ngập ngừng, hỏi nhỏ:
- Hoài… được mấy con rồi?
- Một trai, một gái. Anh à.
- Lý tưởng lắm. Anh mừng cho em.
- Anh định nhân đôi niềm hoan hỉ, chia hai hạnh phúc sao! Anh nên cưới vợ đi.
- Ư hừ.
Cảnh thốt giọng khô khan, dường như nỗi u uất, đắng cay thầm lặng, bộc lộ ra tiếng “ư hừ”. Tôi cắn nhẹ làn môi, ngẩng nhìn Cảnh, gượng cười, khi Tuyên nói:
- Người ta yêu em, không phải vì em nổi danh, không vì em chả đẹp, mà cầu hôn em. Bởi vì em là gái Đà Lạt sống giữa Sàigòn. Cưới em qua hình ảnh khác...
Cùng lúc ấy, Cảnh cười gằn, nhẹ hất hàm, hỏi:
- Rượu em cần uống sao? Để làm gì. Muốn uống bao nhiêu?
Giọng Cảnh hơi gắt, như dằn vặt, thách thức, một cách khó hiểu, anh lại cười gằn về điều gì đó, chợt nhớ ra, nhưng không tiện nói. Một phút sau, đã gửi đến tôi ánh nhìn ấm dịu, đọng lại nụ cười buồn, đằm thắm ở bờ môi.
Chỉ một thoáng, dù chỉ một thoáng, mắt người nầy lẫn vào lòng mắt người kia, ẩn chứa bao điều không tiện nói ra. Đôi mắt vốn dĩ có thể sánh với sự dũng cảm, của anh lính chiến đấu, biết chắc mình đã thua cuộc. Tôi nhớ cung cách ấy suốt đời. Hình ảnh độc đáo đó, không thể lầm lẫn, với bất cứ ai.
- Đám cưới em, chị đi dự nhe.
- Tiếc là xa xôi quá. Cám ơn em.
Tôi biết chắc Cảnh, nhất là Tuyên vờ vồn vã, nhưng không mời vợ chồng chúng tôi, nếu họ có tiệc cưới. Sao tôi mở miệng nói lời “cám ơn” giả dối, khi lòng trào lên mối tức giận vô bờ, vì rõ thực chất của kẻ “gia ơn mời giả tạo”. Bỗng dưng lòng trí khuấy đảo, tôi thấy ghét Tuyên kỳ lạ, khi Tuyên chêm thêm một câu, chả đâu vào đâu:
- Em cảm ơn chị mới đúng. Chị liệng anh Cảnh, thì em… lượm.
Tôi giả vờ cười cười, theo câu nói dị hợm đó:
- Chị nghĩ chẳng bao giờ Tuyên thông cảm, thấu hiểu vấn đề nầy đâu.
Trong đời, tôi đã từng gặp trường hợp hai người không ưa nhau, tính tình biệt lập, nhất là kỳ phùng địch thủ, nhưng trong điệu bộ toan tính kỹ từ xưa, Tuyên đã có ý nẫy sinh ra ước muốn chiếm đoạt Cảnh, - chia xa hai người. Tôi phân vân tự hỏi “Ai sẽ là vợ Cảnh sau nầy? Người đó, lạy trời không phải là Tuyên”. Nhưng nếu là Tuyên, tự nhiên cơn giận dâng đầy cổ. Cảm giác tự kiêu chợt tiêu tan, người đau khổ nhất lại là tôi, và Cảnh, đã bị cô em kết nghĩa lừa “chúng tôi” vào cái bẫy, tinh vi không ngờ.
Bây giờ, cô là danh ca, nhưng chưa thu phục nhân tâm Cảnh, ấy là không do Hoài còn sống trong lòng anh. Dẫu không đẹp như tôi, tính tình khác hẳn, biết đâu tài danh, tiền bạc, vật chất xa hoa, do cô tìm có, Tuyên có thể được, và hơn tất cả. Cảnh sẽ thấy tình yêu năm xưa, nay thật chẳng còn gì. Tuyên đến đúng lúc, không đem lại đắng cay, buồn đau bất hạnh, sau một bất hạnh lớn lao. Cô sẽ thành công, chứ cần gì ghen bóng, ghen gió, với dĩ vãng?
Tuyên có làm màu làm mè, với Cảnh trước mặt cố nhân, thì, cái thế của Hương Hoài và Thắng Cảnh không thay đổi. Không có nghĩa là đã xóa nhòa dĩ vãng, bởi hiện tại và tương lai, (qua hồi ức dễ thương và dễ ghét thế) “Chúng tôi” vẫn không làm gì khác, để Tuyên lo sợ đến vậy!
Dù sao, tôi vẫn quặn thắt cõi lòng, khi nhìn Cảnh cặp tay Tuyên, bước ra đường. Cố nhân lặng lẽ, khỏi cần biết thêm tương lai, không cần biết không gian, thời gian, qua giây phút âm thầm nhìn nhau, từ biệt chốc lát. Đôi mắt đã nói nhiều hơn lời. Phía sau cái nhìn, hình như còn đọng lại quá khứ, hiện tại, và có thể, trong tương lai.
Vốn dĩ Tứ không biết mặt Cảnh, nhưng khi nằm trong phòng, nghe chuyện, anh làm mặt giận. Tứ đã giận thật, cộc cằn xô tôi ra, cằn nhằn gì đó. Thiệt tức cười. Tứ là người thắng cuộc, luôn tự hào là người cao tay ấn, đã cuỗm trên tay của “thằng ấy” một vố mật ngọt tinh tuyền, khá đau đầu, hơn đau màn óc. “Hắn” không điên thì thôi, sao anh lại điên khùng, hất vợ ra? Hờn dỗi cái nỗi gì! Còn làm bộ, làm tịch hoài. Tôi muốn sà vào lòng chồng thêm lần nữa, nhưng sao không đủ can đảm, đi sâu vào cảm nghĩ riêng anh. Thứ tình cảm và cảm nghĩ trái ngược hẳn mình, qua đôi mắt sắc sảo sau hàng mi dài, cong cong, như muốn đi vào tim, vào óc tôi. Đôi môi Tứ hơi nhếch lên khinh miệt, cằm bạnh ra, càng tăng nét đanh trên làn da ngăm ngăm, chiếc mũi cao cao, khiến khuôn mặt anh hơi gầy.
Phải! Có nhiều điều khác nhau, vô cùng xa lạ, nhất là về quan điểm, tính tình, đồng cảm, tình cảm. Một sự thiếu thông cảm đầy bất công, mâu thuẫn, lại xen lẫn niềm vui, hạnh phúc chợt đến, chợt đi, chợt về.
Không có gì hủy diệt được, về cái ngày tiền định, từ đàn én báo xuân, khoảng chục ngàn con, vượt vài trăm ngàn ki lô mét, từ phương Nam bay về tu viện San Juan Capistrano, ngày 17 tháng 3, được mệnh danh là Swalows Day. Có một chú én lạc đàn, đã mang chiếc cúc áo bay xa, xa hẳn đàn. Vì đó là, chiếc nút áo của Tứ.
Ngày ấy, sau buổi bế giảng khóa hội thảo, các bạn về chung lối, hai tay Tứ bận mang mấy cây đàn, anh nhờ tôi cài hộ anh chiếc nút áo veston, cho anh bớt lạnh, lúc hai người đi trên ngả ba đường lộng gió, xuống dốc chùa Linh Sơn, Phan Đình Phùng.
Tứ đẹp trai, tao nhã, tài hoa, cùng nút áo xinh xinh, nhưng không hề có sự đồng cảm, thân mật hay truyền cảm. Thế mà… không hiểu sao, ít tháng sau, tôi quyết định bỏ vị hôn phu, và ra nông nỗi? Định mệnh chơi xỏ tôi một vố khá đau, “cho Hoài” yêu mê mệt tiếng đàn Tứ lão luyện, tiếng hát anh trầm ấm, ngọt ngào, dạt dào âm điệu ríu rít. Như đàn én trữ tình bay đi, bay về, đến thế. Tiếng đàn, giọng hát anh ngọt ngào, ấm áp, quyến rũ, đã cuốn hút tôi đến bên Tứ, lúc nào không rõ, trong cái khuôn đã định, mang nhiều sóng gió và thử thách.
Để rồi giờ đây, khi không chuyện ở đâu đưa đến, gia đình đang yên vui, bỗng dưng giận dỗi lãng nhách. Tôi điên tiết đi lui đi tới vòng vòng ngoài hiên nhà. Trong lòng tôi tức bực, đủ thứ chuyện dồn dập. Giận cá chém thớt, tôi không đi chợ, chả thèm đi làm nữa. Tôi giật mạnh hàng nút, cởi áo, ba hột nút xé toạt một bên thân áo đẹp, lăn tròn dưới nền gạch, còn một hột, dính sợi chỉ dài tòn ten, đung đưa, lắc qua lắc lại, lòi cái “cọc xê dị hợm” ra.
Trông chả giống con giáp nào, chả giống ai. Thật dễ ghét.
Năm 1970 Cảnh và Mai Tuyên làm đám cưới. Họ sống với nhau hai năm không thấy gì là hạnh phúc, Cảnh Tuyên chính thức ly dị, mặc dù vợ chồng đã có với nhau một đứa con trai. Giờ đây “nàng” độc thân vui tính vẫn lả lướt kiếp cầm ca. "Chàng" dừng lại bên lòng phố quê hương, say sưa nhìn nàng trong men nồng rượu đắng phù du tình đời. Anh thả hồn theo khói thuốc ngao du bay bướm với cuộc đời đen bạc.
Dẫu ở chung trong một thành phố xa hoa, nhưng họ cảm thấy dường như hai thái cực chia biệt ngăn sông cách núi. Muôn trùng xa xăm lạnh tanh và hờ hững...

_ * _

Kính mời quý độc giả kính mến tiếp tục xem TRUYỆN DÀI MỚI KHÁC
Trân trọng,
Ái Ưu Du
Ái Ưu Du
#123 Posted : Thursday, July 26, 2007 12:32:11 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

CON ĐƯỜNG CẢO THƠM

Chương 1

HOÀI NIỆM VỀ MẸ YÊU THƯƠNG


(Con kính dâng về Mẹ đoá hoa hồng trắng: Nhân HAPPY MOTHER’S DAY)
*

Một dải sáng vàng lấp lánh ngoài ô cửa kính, trải ánh bạc thành con đường dài, cắt ngang tòa nhà lớn trên đồi dốc. Trăng sáng và xa xôi nhòa dưới lớp sương, mỏng như dải lụa. Tiếng côn trùng râm ran ngân nga, bản hoà tấu không nhịp nhàng âm điệu, bỗng chốc im bặt, rồi rè rè diệu vợi vang xa, khiến đêm khuya càng thêm mịt mùng thăm thẳm...
Cả nhà vui mừng hoan hỉ, mà người vui mừng nhất là "mạ của con". Rất yếu tim và lo sợ, nhưng mẹ vẫn xin bác sĩ Phán, hai cô y tá, cho phép mẹ đứng trên đầu giường, mẹ lâm râm đọc kinh, đôi mắt như lạc thần nhìn chăm chăm vào mặt con. Tiếng cầu nguyện thốt lên thành lời, thống thiết chân thực. Hai bên thái dương mẹ ướt đẫm mồ hôi, miệng há hốc, bàng hoàng, nắm chặt lấy bàn tay con, như tiếp sức mạnh. Có mẹ ở bên cạnh, con xiết đỗi yên tâm và bình an. Khi “cu tí nhau” chào đời, mẹ chảy nước mắt reo mừng, thở phào, như chính mình trút được cơn đau tột cùng. Mẹ muốn san sẻ tất cả đớn đau, cũng như niềm vui mừng với con. Ôi thế mới biết, tình mẹ thương yêu con biết ngần nào!
Bà ngoại thuê phòng hạng đặc biệt, trong viện của bác sĩ Phán, cho tôi nằm. Suốt mười ngày mẹ vất vả. Sáng sáng khoảng năm giờ, lò mò dậy, mẹ tự tay nấu ăn cho con, mẹ nói người sanh phải ăn cơm thật nóng. Mẹ giặt giũ phơi phong áo quần tã lót. Mua gạo thơm, kho thịt nạc, giò lụa, chà bông, ăn kèm một chén canh đổi món mỗi ngày. Chén dĩa, tô muỗng, mẹ rửa khô ráo sạch trơn, úp lên khay, đậy khăn lau chén đàng hoàng. Khiến bà bác sĩ phải khen:
- Bà cụ lo cho con gái út, chu đáo lạ!
Mẹ cười hiền hậu, không biết trả lời sao, cho khỏi mất lòng bác sĩ, vốn dĩ là chỗ thân tình. Mẹ vui khi thấy con ăn ngon miệng, âu sầu khi nàng kém bữa. Lo lắng chu toàn từng ly từng tí, đủ vất vả, hết cả giờ nghỉ ngơi. Chàng tí hon thuộc hạng rất ư khó chịu. Hay khóc nhè quá! Đái dầm ướt đít, cu cậu ngọ ngọe, la làng, mắt nhắm tít!
Thỉnh thoảng, mẹ ngồi trên bộ ván, ngoáy trầu trong cối đồng nhỏ xíu. Nhai móm mém, thấy thương làm sao! Vừa nhai trầu mẹ vừa xếp cẩn thận, áo ra áo, tả lót đúng chiều, vuốt thẳng nếp. Mẹ tận tụy cần cù hy sinh cho chồng, con, cháu, là hạnh phúc duy nhất, là lẽ sống thầm lặng, thương yêu ngọt ngào, thủy chung hết mực.
Thấy con không ngủ được, mẹ ngồi nơi góc mùng, bế cháu khi nó quấy, ru hời ru hỡi trong vòng tay ngoại già, cho con gái thiêm thiếp giây lát. Tình yêu thương nồng thắm của người mẹ, giờ đây tôi mới hiểu thấm thía, thâm thúy, bao la như trời biển, êm đềm ngọt ngào, nồng nàn xiết bao trong từng giờ, từng tháng, từng năm.
Tôi yêu kính mẹ vô vàn, mẹ âm thầm chịu đựng, hy sinh gắn bó, nhẫn nại, dốc hết sức cạn hơi mòn, hầu chu toàn cho con, cháu, sức khoẻ bình an, hạnh phúc. Dù con khá lớn khôn, có gia đình con cái, đã từng trải. Mẹ dỗ dành tôi như đứa trẻ lên năm:
- Con ăn hết dĩa thịt nạc kho tiêu ni đi. Mẹ thấy con không ngủ đươc. Phải ngủ đi.
Nhắm mắt thật lâu. Tai tôi nghe bước chân mẹ nhẹ nhàng đi lại. Lẩm bẩm về sự xanh xao gầy ốm, mẹ đứng bên bàn rót nước trà. À, không phải, mẹ châm nước sôi vào bình thủy, đậy nắp, đặt lên góc bàn. Mẹ đến cuối phòng thu dọn, chén bát va chạm nhau nhè nhẹ, khi lau rửa.
Thoạt tiên, tôi len lén mở mắt nhìn mẹ say sưa, thấy mẹ ngẩng nhìn về phía mình, tôi vờ nhắm mắt lại, sợ đôi mắt mình, sẽ tiết lộ những ý nghĩ thầm kín.
Mẹ đến bên giường, lấy khăn đuổi con ruồi đậu ở mũi, tay tôi đang vắt trên trán, mẹ nhẹ nhàng cầm tay con, đặt xuống nệm, mẹ cúi sát xem con ngủ được không? Hơi thở mẹ thoảng qua, gây cảm giác ngọt ngào, dễ chịu dường bao! Như hơi nồng từ trái tim mẹ toả sức ấm ra, chứ không do mền nệm, hay lò lửa đỏ vùi tro, đặt dưới gầm giường.
Tưởng con ngủ, mẹ mỉm cười, về ngồi bên bộ ván. Nụ cười dịu ngọt, làm nhạt nếp nhăn trên khuôn mặt hiền lành, nhân hậu. Mẹ cười sung sướng, nói lẩm nhẩm một mình, nhìn hai mẹ con nằm ấm áp, trên lò than vùi sưởi lạnh. Ơ! Đây có phải là đứa con gái út, trong gia đình có mười anh chị em, út lên mười vẫn còn rúc vú mẹ, vòi vĩnh mọi thứ khi thích. Út, sau giờ học, tối ngày thui thủi một mình, vì thế luôn quanh quẩn bên mẹ.
Con có tính hư nết xấu. Con dậm chân dậm cẳng, không chịu tắm, dù mẹ đã gói cho đòn bánh tét nhỏ xíu, bằng gan tay, có dây lạt buộc, từ đầu nầy qua đầu kia, làm quai xách. Mẹ pha nước nóng, ngồi trên chiếc đòn nhỏ, bên hiên nhà, bế con trên đầu gối, thòng cái cổ đeo hai ba sợi dây chuyền bằng đất. Con ngửa mặt lên trời, cười sằng sặc, lúc thấy nhột, mẹ gội đầu bằng nước bồ kết, nấu với lá sả, lá cam, lá chanh, lá bưởi. Tắm cho con bằng xà bong thơm hiệu "Cô Ba đeo kiềng vàng".
Con bé năm tuổi, ngồi bên thềm gạch hoa, ở biệt thự số 5 đường Quang Trung, nhìn mẹ thoăng thoắt may áo quần mới, nghe mẹ kể chuyện cổ tích Trầu Cau. Tấm Cám. Mẹ kể chuyện hay đến nỗi, đôi khi con đòi cái gì đó, không có cho con, mẹ mỉm cười nói : "Ngày xưa... có một người tiều phu vào rừng..." là mọi thứ hấp dẫn trên đời, đều không bằng câu chuyện cổ tích cuả mẹ. Con say sưa nhìn, mẹ đeo đôi mục kính trắng, khéo léo may từng bộ áo quần đẹp nhất đầu xuân.
Con xúng xính trong ba ngày Tết, chạy đi khoe bạn bè cùng tuổi, với đôi hoa tai vàng tòn ten, đong đưa theo mỗi cử động. Kiềng vàng chạm trổ lấp lánh trên chiếc áo nhung đỏ, hài xanh đỏ. Thuở đó tôi thân nhất với bé Mai, ở nhà gọi là Bê, có bà con với mình. Hai bạn nhỏ đầm ấm chơi đùa vui vẻ, thân thiết.
Một kỷ niệm bất ngờ, không sao giải thích nỗi, tâm trí tôi vụt quay về dĩ vãng, xa lắc xa lơ. Thuở ấy, màn mưa xám đục buông suốt ngày đêm. Mái tóc bum bê lắc lư, tôi đứng trong khung cửa sổ, nhón chân xem mưa đập lộp bộp vào cửa kính, những dòng nước nhỏ ngoằn ngoèo, chảy xuống tấm kính mờ đục. Con nao nức chờ mẹ. Mẹ đi chân đất, đầu đội nón lá, toàn thân ướt dầm nước mưa, chiếc đòn gánh uốn cong trên đôi vai, còng xuống hai thùng nước cơm trĩu nặng.
Mẹ gánh nước cơm ngoài đồn lính về. Một thùng sạch đậy kín, đựng cơm nóng, có mấy ngăn cào mên thức ăn, còn nguyên trong chảo múc ra, chưa có người ăn. Thùng kia đủ thứ hỗn tạp, là thức ăn heo. Mẹ nuôi vài chục con heo thịt. Thuở đó, gia đình nàng rớt từ đỉnh cao phù vinh, xuống vực thẳm, vì ba làm nhà máy cưa cây, nó hại cho khánh tận, khuynh gia bại sản. "Của rừng, rưng rưng nước mắt thật".
Mỗi buổi nhọc nhằn trở về nhà, mẹ dúi cho út bánh ngọt, miếng chocolate, trái chuối, trái bắp. Thùy thèm ăn nhất là lát bánh mì cứng, hấp trong nồi nước sôi, chấm nước mắm ớt, nước cá hoặc nước thịt, ăn ngon hết sẫy.
Mẹ kêu chủ thầu các trường nội trú đến bán heo thịt. Mẹ và các con dẫn vợ chồng bà đầm, cùng phu cai xuống chuồng heo, cách xa nhà 40 mét, bà mua mão hết bầy. Phu cai trói heo cho vào rọ, khiêng lên đường cái, vất vào hai chiếc xe ngựa xong, bà đầm cầm áo veste, móc túi lấy tiền, đồng tiền không cánh mà bay, mất hai trăm sáu chục đồng Đông Dương. Bà đầm tri hô như thế, một hai bảo người nhà ăn cắp, bà ta gọi hiến binh, phú lít tới.
Không cần biết luật lệ phải trái, có mất tiền thật trong túi áo, máng bên sườn xe kéo, để bên lề đường cái, hay không, họ còng tay mẹ, xô lên xe ngựa, nằm với mấy chục con heo, kêu la rần trời, mặc kệ cả gia đình kêu khóc, phản đối inh ỏi.
Chúng hăm doạ nếu lộn xộn, sẽ bắt nhốt hết cả đám. Quân cướp cạn hùng hổ, quất ngựa phóng nước đại, chạy như bay, tống giam mẹ vào nhà lao.
Nửa tháng bặt tin, sau đó chúng thả mẹ ra, mẹ về như cái xác không hồn, trông tiều tụy thảm thương. Ba, con cái, xúm xít chung quanh mẹ, lo lắng hỏi thăm. Mẹ khóc sưng húp mắt, kể lại suốt bao ngày bị nhốt, chúng cho mẹ ăn một ngày nửa chén cơm khô, với ít muối hột. Đêm đêm bọn lính Tây lôi mẹ ra tra điện, chúng chích điện vào người, bắt mẹ nhận tội. Bọn Tây thời đó đầy quyền uy, hống hách, ác độc hơn loài rắn hổ mang, người dân thấp cổ hé họng, chỉ câm miệng cúi đầu, cắn cỏ ngậm vành, không dám hó hé.
Mỗi lần bị bọn Việt gian, làm cho Tây tra điện, mẹ sợ hãi kinh khủng, dòng nước ấm chảy ra, ướt dầm thân thể, không thể nén mồ hôi hột lại, nín lại cơn buồn đái. Mẹ không đủ sức chịu đựng cơn đau, phải tuân phục điều độc ác, chúng cứ bắt mẹ phải nhận tội. Mẹ đau đến ngất xỉu. Chúng lôi chân mẹ, kéo về phòng giam trống, không giường chiếu, tạt nước lạnh cho tỉnh lại, mẹ bị chảy máu mũi, máu đầu, run rẩy, mặt mày xây xát, sưng húp, bầm tím.
Mẹ thật chịu oan ức tột cùng, tiền mất tật mang. Suốt từ đó đến nay mẹ yếu hẳn người, bị đau tim, luôn xâm xoàng, ngất xỉu vì quá hãi hùng, điếng lặng. Vậy đó, mẹ chịu đủ mọi oan ức, khổ sở cay đắng nhọc nhằn, tủi cực trăm bề, để lo nuôi dạy đàn con.
Một lần sau đó, gánh nước cơm về, mẹ đã thay bộ áo quần ướt sủng nước mưa, ngồi bên bếp lò, giơ đôi bàn tay xạm nắng, tóp teo vì thấm lạnh, chai cứng ra sưởi ấm. Nhìn Thùy nhai bánh mì ngấu nghiến. Bỗng mẹ nhìn sững sốt, lạnh lùng hỏi con út :
- Đôi guốc mới, con mang đó. Mô rứa ?
- Dạ... Của con... con... l..a...
- Mẹ nói rồi, đợi bán heo, mẹ sẽ mua quần áo, dép guốc, cho con đi học. Mẹ biết, con mau lớn, giày dép cũ mang không vừa, đi chân không thì lạnh lắm. Mẹ lo sợ con đau. Ngặt nỗi, bi chừ chưa có tiền. Mà răn con dám cả gan, đi ăn cắp, của ai rứa ?
Tôi cúi gầm đầu, một tay túm mái tóc bum bê, nhìn đôi guốc mới, mang vừa vặn ở chân. Đôi guốc màu đỏ đầy hấp dẫn, hai quai cánh cam in đủ màu sắc hoa lá. Trông quyến rũ, thèm khát, ước ao vô vàn.
Khi chị Tư sai út vào quán chị Thế mua trứng vịt, tôm khô. Lúc quán xá bận rộn người mua kẻ bán, út kẹp chặt đôi guốc vào nách, đã che kín bằng chiếc áo mưa lụng thụng. Trống ngực đánh mạnh, mặt tái mét, run như cầy sấy, con bé co giò chạy, vừa chạy vừa ngoái cổ lại nhìn chị Thế, là bà chị dâu của tôi không biết gì hơn, ngoài việc thu nhiều tiền vào tủ sắt.
Mẹ gục đầu trên hai đầu gối ướt lạnh, run rẩy, mệt nhọc, già nua trước tháng năm - và khóc. Khóc vì cảnh thăng trầm không thể ngờ, vì chưa mua nỗi đôi guốc, chỉ đáng vài xu, trong khi tiền cưa cây bạc trăm, bạc ngàn, kể như ba mẹ đỗ xuống biển. Tiền bán ba chục con heo, bị chúng trấn lột hết. Mẹ khóc vì tội lỗi của con thơ. Tối hôm đó, mẹ thức rất khuya, ngồi một mình dưới gian bếp lù mù, đèn dầu leo lét, mẹ đã cắt khúc vải nhung màu vỏ măng cụt, may áo cho con mặc ấm. Bên trong mẹ bọc thêm một lớp gòn mịn, tốt, ở giữa, và lớp lụa sa tanh mới, ở trong cùng.
Lúc đó, leo lên giường từ lâu, không làm sao ngủ được, tôi rất sợ và lo âu, trằn trọc mãi, không dám nhúc nhích, mở mắt nhìn mẹ chăm chú làm việc. Khá khuya, đôi dép lẹp xẹp lần từng bước, mẹ nhẹ nhàng đi trong bóng tối mờ.
Mẹ vặn ngọn đèn dầu nhỏ thật lu, mẹ cố không khua động giấc ngủ mọi người. Tôi nằm im, giả vờ ngủ say. Trong bóng tối, hé mắt nhìn mẹ ngồi đọc kinh, sau đó mẹ ngả lưng xuống đệm, theo tiếng thở dài. Bàn tay lạnh ngắt run run sờ soạn tìm con, đặt đầu con nằm ngay ngắn, trên gối mỏng, kéo hai chân con thẳng ra, đắp mềm lên tận cổ con. Mẹ ôm con vào lòng, hôn lên mái tóc khét nắng. Nước mắt mẹ thấm lạnh da đầu con.
Thì ra, mẹ khóc. Khóc âm thầm lặng lẽ, trong bóng tối. Mẹ giống người chèo đò nước ngược đầy sóng gió, đơn độc ra tay chống chèo, khi đàn con nhỏ sợ sệt, la khóc, run rẩy bám chặt vào mạn thuyền. Mẹ cố sức chịu đựng giông bão, gian truân âm thầm câm lặng, và dai dẵng, miễn sao con, cháu, bình yên, no ấm. Người Mẹ Việt Nam tần tảo phúc hậu, ôn hoà cao cả, hy sinh xiết bao, suốt đời mình.
Qua đêm ấy, vài tuần sau mẹ bán heo thịt. Ba làm cúp cây ổn định, khá giả, vinh sang hơn cũ. Nhưng dẫu có sung túc giàu có hơn xưa, nhiều rất nhiều, vết thương đầu tiên về bài học đạo đức, trong lòng mẹ và con, hẳn không có gì lấp đầy, phôi pha được.
Từ đó, mỗi khi tôi muốn lấy cắp cái gì, hình ảnh mẹ ngồi bó gối bên bếp than hồng, nước mắt mẹ chảy thấm vào da đầu út, hiện lên rỏ nét; khiến tôi quắt quay và lặng người, vì hối hận, không dám tái phạm.
Đó là nốt nghịch phách đầu tiên trong đời, vào chiều mưa giông giá lạnh năm xưa. Ước gì tôi được chìm trong dòng sông, đã chảy qua thời ấu thơ, nơi mái gia đình xưa, để nói thật nhỏ:
- Mẹ ơi ! Cho con xin lỗi.
Ôi! Chỉ cần trở về ngày ấy, biết nói câu nầy, tôi sẽ sống lại và chỗi dậy cả quá khứ ngọt ngào, say đắm, êm đềm, nồng nàn, sung sướng xiết bao ! Và, tôi biết đằm thắm, khôn ngoan gấp bội lần. Đó là cái gốc rễ tình yêu, nơi chôn nhau cắt rốn, chính nơi đây, con bập bẹ tiếng "Mẹ Mẹ" đầu tiên. Mẹ là sợi dây vàng, rắc đầy kim cương lóng lánh, nối liền con với niềm vui buồn quá khứ, dạt dào hạnh phúc ân tình. Mẹ là người sung sướng, mỉm cười từ ái, hằng cầu nguyện cho các con, suốt bao năm trường, được hạnh phúc, bình an. Phải không mẹ?
Bây giờ, thời gian vút qua... Con bé bỏng của mẹ lớn khôn, có gia đình, đã làm mẹ. Dù vậy vẫn nhõng nhẽo, quấy rầy mẹ đây, như thuở nào!
Dọn dẹp xong, mẹ ngồi xuống chỗ cũ, lò mò mở kim băng cài túi áo, lấy tiền ra đếm, tiền chẵn cất vào túi áo trong, tiền lẻ để túi áo ngoài, cẩn thận cài hai kim băng vào hai túi. Đôi mắt mẹ ánh lên niềm hãnh diện khiêm tốn, ấm lòng, có tiền riêng lo cho con, cháu, nếu cần, sung sướng, khi mẹ mua các thứ thiếu, do chính đồng tiền tần tảo, vun vén của mình có.
Tôi nằm trên giường, người lân lân giữa trạng thái nửa thức nửa ngủ. Ngủ chập chờn cái kiễu gì lạ, tôi không thể mở mắt ra, choàng dậy, cả người mệt mỏi vô vàn. Mẹ nói:
- Chiều mà ngủ rứa, là bị mộc đè, không dậy nỗi.
- Dạ phải. Bị mộc đè, dậy chi nỗi.
Ngồi dậy đầu choáng váng, tôi nghĩ: “Có lẽ vì nằm nhiều, không vận động, mất ngủ suốt tuần nên yếu người đi”. Quơ chân xuống nền gạch tìm đôi dép, tôi đến bàn bưng bình thủy lên mở nắp ra. Bỗng dưng, đầu óc quay cuồng, tối tăm mặt mũi, thân thể nặng nề, và ngả lăn xuống, bất tỉnh nhân sự.
Khi hồi tỉnh, ông bà bác sĩ và cô y tá reo mừng. Còn mẹ. Trời ơi! Tôi không thể nào diễn tả sự khiếp sợ, trên đôi mắt mẹ, tưởng đã lạc thần. Tất cả sự yêu thương, lo lắng tột cùng của mẹ, quá run sợ phải lìa con.
Run cầm cập, mẹ lụm khụm đi nấu nước sôi, đắp lên hai vết bầm trên đầu, cánh tay, bắp đùi tôi. Đã bận rộn nuôi con, cháu, suốt tuần, nay có thêm các vết thương, khiến mẹ càng khổ cực. Mẹ lâm râm đọc kinh cầu nguyện. Con gà bị cắt tiết mất hết máu ra sao, mặt mẹ xám xanh, y như vậy.
Bác sĩ khám rất kỹ vết thương rướm máu ở đầu, nơi bị dập mạnh lên chân tủ, chìa ra ngoài. Bên thái dương kia lại bị một cục u, to hơn nửa quả trứng vịt, tím bầm. Đầu tôi đau nhức kinh khủng, y như có tảng đá nặng đè lên. Ê ẩm cánh tay trái và một bên sườn. Cổ xoay trở không được, phải nhờ người khác giúp. Bác sĩ chích nhiều thuốc, chăm sóc cẩn thận. Vì sự bất tỉnh, tôi phải nằm điều trị thêm nhiều ngày, hoàn toàn mất ngủ. Mẹ phàn nàn:
- Sau nầy con sẽ bị đau đầu, đau nhức thân thể, hoài đó.
Thấy con cựa mình, mẹ quay lại nhìn:
- Con cần chi? Để mẹ làm cho.
- Khuya rồi. Mẹ ngủ đi. Mẹ đừng lo. Mẹ ngồi cả ngày, cả đêm, mệt lắm. Mẹ ngủ đi kẽo bị bệnh bi giờ.
Trong đêm trường thanh vắng , khuya lắc khuya lơ, tôi nghe rất khẽ nhưng rõ ràng, tiếng mẹ đọc kinh đều đều. Thỉnh thoảng kèm vài tiếng thở dài nho nhỏ, lời nguyện xin cho con cháu bình an, mạnh khỏe. Tôi mệt nhọc thiếp đi khi trời hừng sáng, trong tiếng lâm râm đọc kinh cầu nguyện của mẹ hiền.





_ * _

Kính mời quý độc giả xem tiếp chương 2
Trân trọng,
Ái Ưu Du
Ái Ưu Du
#124 Posted : Monday, July 30, 2007 3:15:36 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

CON ĐƯỜNG CẢO THƠM

Chương 2

THANH THỨ





Mỗi ngày đi làm về, Thứ bế con ra nựng nịu, tắc lưỡi nói chuyện, đầy tình âu yếm phụ tử, dù con chưa biết gì, ngay cả lúc ngủ say. Bao nhiêu yêu thương đầm ấm đều dành cho con.
Con là gạch nối mật thiết liền mạch, giữa cha mẹ, vợ chồng nhờ chiếc dây xích yêu dấu, cột chặt lại từ đứa con. Như ánh sáng ngọn hải đăng, như sao bắc đẩu long lanh, làm rạng rỡ mọi ước mơ, xóa nhòa nỗi buồn đau, phiền lụy do cuộc sống đem lại. Có con, cuộc đời thêm tô thắm nụ cười, và đó là, bức tranh hạnh phúc mộc mạc. Nhưng, tuyệt diệu nhất của mái ấm gia đình hạnh phúc bền lâu.
Ôi! Nếu có ai yêu cầu anh cộng một vợ, một chồng, một con là mấy người? Thì Thứ sẽ lúng túng giây lát, mặc dù ai cũng biết là ba người, chứ không là một, như anh thích nghĩ.
Thấy vợ ăn được ngủ được, con mỗi ngày một bụ bẫm, anh khoái chí, nằm vắt vẻo trên ghế bố, anh vói tay xé nửa tờ giấy lịch, nơi phần dưới ghi ngày âm, anh lúng túng vấn điếu thuốc lào, hút một hơi dài. Anh mới tập hút, bắt chước người trong Ấp (làm ba thì cho ra dáng thế mà). Anh nằm vật ra giường, cong queo như con tôm, khoan khoái vì say thuốc.
Tôi ghét quá! Tập làm gì cái việc "hút xách quỷ xứ" đó. Không hiểu anh tiêm nhiễm ở đâu, cái giống "thuốc nào" hôi hết biết. Thế đấy! Anh đã có vợ, được vợ tôn vinh làm chồng. Anh có bà con họ hàng xóm giềng gọi anh là ông chủ nhà. Anh có con, sẽ được con bập bẹ kêu… “pa... pa”! Vợ chồng ta sẽ nựng nó là "con yêu gấu"
Dù sao thì… sự cố chấp, khó tính, chưa thấu hiểu về nhau, dần dần nhạt phai từ khi có con. Con người bên ngoài đó, "anh em ta" mang đầy gia phong đạo lý, phong tục, sinh hoạt tập quán khác nhau. "Hai ta" gần như trái ngược nhau. Chúng tôi có điều kiện để biết về nhau quá ít, trước hôn nhân. Thứ tự hỏi làm sao mà tìm hiểu nhau? Tìm hiểu nhau về cái gì chư? Khi có người yêu rất đỗi khác xa, trước khi trở thành chồng vợ. Vợ chồng rồi, thì sống thật cho nhau, nhìn thấy thật và nói hết với nhau, những điều thầm kín nhất. Làm người yêu ít có ai "dám biết rõ về nhau" suốt cả ngọn nguồn. Biết về nhau qua lớp vỏ hào nhoáng bên ngoài, chẳng hiểu được gì hơn.
Anh chưa học quá cao, khả dĩ đem lại cho anh bằng cấp tột đỉnh, như ý mình mong muốn. Anh nghĩ dù có học nhiều, nhưng do tiêm nhiễm tính bất nghĩa, bất nghì, và nếu anh không vận dụng, sử dụng cung cách đúng chỗ, lại chả ra gì ru! Khi không hoàn thành đại sự. Bất kỳ lĩnh vực nào, các hiểu biết của anh, thật rộng lớn, đặt biệt, xuất sắc, mà những người có học, hiếm có tri thức chính xác như anh. Nhất là anh có lòng mến yêu, thân thiết, ân cần bao dung, và độ lượng với bạn. Với bạn hữu, không bao giờ anh tính toán hơn thua, có thiệt về mình chịu, anh hy sinh hết mình. Anh dám bỏ tất cả công ăn việc làm, đi lo cho nhà bạn, tới bến tới bờ. Bởi vì lẽ đó mà nhiều người cứ nghĩ anh ngu. Họ tha hồ lợi dụng, từ vật chất đến tinh thần. Có người ganh tị, kiếm vài sơ sót, đã kéo bè kéo đám, khai thác, rồi trách mắng anh, nói xấu, chế nhạo vợ chồng anh ưa nịnh, chả thể thống ra gì.
Anh biết hết, nhưng anh chỉ cười làm như chả biết gì. Không cứ riêng gì chồng, Lạ thay, vợ anh cũng giống tính mình, "Mến tôi" được thừa hưởng đức độ cha mẹ, tấm lòng luôn rộng mở, quý trọng bạn hữu, ruột để ngoài da, ai đã nói gì , tôi vô ý thật thà kể lại cho anh nghe tất. Tôi luôn thân tình hữu ái, không ngờ vực ai xử tệ với mình. Hai vợ chồng tương đắc, kỳ phùng chính ở điểm nầy.
Tôi dõi mắt nhìn gương mặt nhiều tình cảm, thiếu cương quyết, ít nghị lực của chồng. Trong tình yêu mến anh, tôi còn hàm chứa sự nhận thức về anh qua mức độ yếu đuối buông xuôi, hay nóng giận. Dù rằng trước đó anh là người khá tự do, được me anh cưng chiều hết mực. Anh chưa ý thức trách nhiệm gia đình là bao.
Xin Chúa hãy tha thứ cho tôi dám nghĩ Thứ là người xoàng xỉnh, kém cỏi về chính trị. Anh suy nghĩ tràn đầy trong đôi mắt láy đen (ẩn dưới hàng mi dài) khá chính xác. Khiến tôi, và cấp lãnh đạo của anh kính phục bội phần. Điều này càng trái ngược với mình, nếu biết điều đó từ trước khi cưới nhau, thì không bao giờ tôi buông thả lòng mình, để thương yêu và lấy anh. Sự thấu hiểu về nhau, -từ thể xác đến tâm hồn, đều đi sau hôn nhân-. (Vì khao khát mái ấm gia đình, bao trùm lên tri thức). Sao tôi không có quyền mong ước cuộc sống ấm áp, bình an, bảo đảm, hạnh phúc, tao nhã hơn trong mái nhà an vui?
Khi biết thế nào là đói nghèo vinh nhục, đớn đau và bi lụy, mà tôi đã chịu quá nhiều trên đôi vai, đã thấm sâu vào huyết quản, vào dòng sữa mẹ cho con bú hôm nay. Mái gia đình tôi như hình tam giác vuông cân, rất cần đến người mẹ là điểm giữa của đáy. Cha là đỉnh. Con là góc vuông nối liền với đỉnh. Một người đàn ông, cạnh một người đàn bà, và chú nhóc con cứ "phè cánh nhạn" ăn ngủ say sưa, như ông bố Thứ đang say "thuốc nào" kia kìa.

_ * _

Kính mời quý độc giả xem tiếp chương 3
Trân trọng,
Ái Ưu Du
Ái Ưu Du
#125 Posted : Saturday, August 11, 2007 8:50:52 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

CON ĐƯỞNG CẢO THƠM

Chương 3

DẠY HỌC






Xiết bao vui mừng, khi cầm chắc tờ Sự Vụ Lệnh 391/SVL/NV/QD. do Trung tá Trần Văn Phấn, ấn ký, tôi ngây niềm vui, trìu mến dạt dào, đầy tình âu yếm với tất cả mọi người, cây cỏ, muôn loài. Cùng nỗi khát vọng trào lên mãnh liệt, như ngọn sóng.
Xin cảm ơn. Cảm ơn Trời. Xin cảm ơn tất cả. Cảm ơn đời. Cảm ơn lòng ưu ái của vị Trung Tá ở trên cao, còn nhớ đến người dân, tạo việc làm ổn định đời sống. Xin cảm ơn chị Hách nhớ đến cô em út, chị không quản ngại công khó, xin việc cho em. Ôi! Sung sướng xiết bao! Một lần nữa xin cảm ơn tất cả. Tôi nên đi làm, chứ để mảnh bằng treo trên giàn bếp, khô mất.
Cảm giác hãi hùng từ viễn ảnh băn khoăn, lo âu, dâng mãi trong lòng tôi. Ý nghĩ ray rứt bồn chồn khắt khoải, do ảnh hưởng buồn đau cay cực, về tháng ngày qua còn gợn lên, làm xao động mặt phẳng bình yên, dù hy vọng tràn đầy, dù sức cạn vơi, trí có phần phôi pha nửa thầy nửa thợ.
Không. Tôi phải thực hiện ước mơ nầy, bằng mọi giá. Phải thành công. Như thế là tốt. Dựa trên khả năng có thể, tôi vượt lên bến bờ vinh quang nào, vấn đề đó tùy thuộc vào kinh nghiệm và tài năng. Căn nguyên cội rễ hôm nay, nảy sinh từ quá khứ, cũng như mầm mống tương lai đâm chồi nẩy lộc, từ hôm nay.
Dứt khoát phải làm cái gì, xứng đáng và có ý nghĩa trong cuộc sống. Không an phận, đớn hèn. Thậm chí tôi chẳng biết bạn bè giao tế. Đi về âm thầm, cúi mặt làm thinh. Với hai bàn tay, trí óc không đến nỗi tồi, tôi cần tạo cho gia đình có cuộc sống khả quan hơn. Tôi ngẫng lên trời nhìn các vì sao, như thầm hỏi: “Như vậy có đúng không?” Các vì sao nhấp nháy, xem như bằng lòng. Thôi đủ rồi. Hỡi trò chơi ú tim, làm mệt nhoài người đàn bà ngớ ngẩn nầy ha.
Cuộc sống của tôi sẽ không tẻ nhạt, đối với thành phố thơ mộng, mang tên xứ hoa đào có núi Lâm Viên. Giữa các ý nghĩ quay cuồng, hứng khởi trong tâm tư, tôi thấy cơn phẫn nộ từng tháng ngày nhàn rỗi qua, trào dâng ngọn sóng gào thét. Tôi kinh ngạc, sao mãi đến lúc nầy, mới tỉnh người ra, cố gắng đè nén niềm hân hoan, cường diệu, khai sinh từng đợt sóng tiếp nối nhau, trào dâng trong lòng. Tôi từng yêu say đắm, nồng nàn và tha thiết thành thật nhất.
Bây giờ thì khác hẳn. Tình yêu, hạnh phúc, gia đình, bổn phận, trọng trách, cuộc sống đầy phức tạp đắng cay, tràn đầy lo âu xáo trộn. Tôi không để trong sắc tố hiển nhiên ấy, chứng cớ tai ác, tàn phá gậm nhấm dần mòn đời người. Hết rồi ngày tháng vô vị nhàm chán đã qua. Số mệnh đôi khi tỏ ra ưu ái khoan dung, dịu hiền và thông cảm xiết bao! Nó nhớ chừa cho tôi một chỗ đứng, làm phương tiện cứu cánh sinh tồn. Chính tôi ở trong cảnh ngộ nầy.
Tôi thấp thỏm băn khoăn, lo lắng, bước thấp bước cao, trên con đường thênh thang, có hằng triệu người đã đi qua chỗ trống đó. Tôi cứ tưởng, chỉ có một mình ta, đặt chân lên khoảng trống bé nhỏ, nhưng đầy hạnh phúc nầy.
Ăn cơm chiều xong, tôi thu dọn chén bát, vừa rửa chén, tôi thích chí nhìn anh cười cười, cố dấu điều vui mừng gợn lên trong sóng mắt. Tôi làm công việc lộn xộn, không như mọi ngày, tay chân lóng ngóng, luýnh quýnh như gà mắc đẻ. Nói đi làm việc nầy, nhưng tôi đứng ngẩn tò te, đi ra cửa rồi đi vào, tay cầm cái chổi, không biết làm gì. Nỗi e sợ Thứ phản đối và niềm vui xôn xao tràn ngập. Cuối cùng, lấy hết can đảm, tôi ngồi bên chồng, thỏ thẻ nói:
- Anh ơi! Em có giấy gọi đi dạy học, ở Quận Đức Trọng.
- Há. Em nói gì?
- À... Em được gọi đi làm việc.
- Trời đất. Không được.
- Sao không được? Anh!
- Em non ngày quá. Con còn nhỏ. Không được đâu.
Sự việc nầy không diễn ra bình thường, theo một trình tự bình thường các sự kiện, mà dỏi theo đôi mắt điềm tỉnh, nồng nhiệt và kiên định. Đấy. Tôi đã gặp phải lá chắn tình cảm khổng lồ. Không. Tôi cương quyết vượt qua trở ngại, do khả năng chế ngự tình cảm, bản năng tự phát lý trí, rèn luyện tôi có sức mạnh khi gặp chông gai.
Tôi biết đối với anh, tình yêu vợ con tràn đầy nồng say, chen vào đôi chút tự ái, tức giận. Anh khinh thường vấn đề cơm áo môi sinh, mà trọng trách khả năng người chồng, người cha, anh chưa mang lại trọn vẹn vinh quang, như ý.
Đời sống gia đình nầy chưa đến đổi nghèo, thế thì nếu khéo cư xử một tí, sẽ rất tốt đẹp. Cứ nhìn Thứ nằm lăn ra giữa giường, vật vã than khóc, về nỗi anh phải xa vợ con, tôi biết cái đầu mình cứng như đá, nhưng nếu tôi mềm lòng thương cảm rụt đầu vào trong cổ, như con ốc sên. Thì hoàn cảnh sống đâu lại vào đấy. Thà tôi làm hòn đá hay con ốc sên, cứ lăn quay ra đất, khi người khác đụng vào, không biết nhận thức, suy diễn tình cảm, cho xong.
Tôi thuyết phục Thứ, giải thích điều hay lẽ phải. Khi đi làm con trai gửi nhờ ngoại trông chừng. Có chị Hách cho con trai bú một buổi. Công việc thích hợp, lại có nhiều tiền lo gia đình chu đáo vững chắc. Tôi ném từng viên sỏi từ từ vào lòng hồ, cho gợn sóng lượn, vòng tròn loang ra trên mặt. Lời nói không thúc giục anh trả lời, ẩn chứa nhiều ý nghĩ và suy nghĩ. Tôi không buộc anh chấp thuận, dù vậy tôi khoái chí, hí hửng biết mình nắm chắc thàng công.
Thứ hiểu biết khá rộng, mà sợ đôi mắt nhìn đầy ẩn ý của vợ, cái nhìn cương nghị, dứt khoát, đã khuấy đảo anh tới gốc rễ đời sống anh vốn an thư bình thản bấy lâu rồi. Anh im lặng rít mạnh điếu thuốc, đến nỗi nó đỏ rực lên, từ trong bóng tối. Hút hết gói thuốc, cổ họng khô khốc rát bỏng, anh bị sặc khói ho sù sụ. Khói thuốc lá mang tính độc, hút chất nicotin, hút chất axit gây kích thích niêm mạc đường hô hấp, có đặc tính tăng huyết áp, hút chất nitrosoamin hút cả oxidcacbon, làm nhức đầu chóng mặt, rối loạn thị giác.
Ánh đèn nhạt trộn lẫn lớp khói thuốc cay cay, thơm thơm, quấng ngang mình anh, như tấm khăn sương mỏng tanh. Trời rạng dần... Thu xếp đồ đạc quần áo cần thiết của hai mẹ con, vừa đủ xài một tuần. Chị Hách ghé qua nhà, xách hai ba chiếc va ly lỉnh kỉnh, cùng nhau ra bến xe. Thứ giận lắm, anh nằm lì trong mùng, không thèm nói năng, chả chào hỏi ân cần vui vẻ, như mọi lần anh gặp chị. Anh khóc và tức giận vì tính ngang bướng của vợ.
Thôi nhé! Em tạm trả tự do cho anh chồng “một tí độc thân”. Anh muốn đi khóa cửa, muốn về anh mở cửa. Anh tự nấu ăn và ngủ một mình nha. Chắc chắn anh sẽ khó chịu, khi sự việc xảy ra rất bất ngờ, đột ngột. Nhưng rồi anh sẽ dần quen.
Biết đâu, anh lại thích thú, được tự do thoải mái đôi chút, không quá ràng buộc phiền toái, vì vợ càm ràm càu nhàu, con la khóc mỗi ngày ha?!



_ * _

Kính mời quý độc giả xem tiếp chương 4
Trân trọng,
Ái Ưu Du

Ái Ưu Du
#126 Posted : Saturday, August 18, 2007 2:47:35 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

CON ĐƯỜNG CẢO THƠM

Chương 4

TUỔI TRẺ






Chưa có trống báo tập họp, dọc theo hành lang Viện, nhiều giáo sinh bách bộ, đi lại từng tốp, họ chuyện trò vui vẻ trên ngọn đồi thoáng mát, đầy tiếng thông reo vi vu.
Họ kêu gọi nhau, gật đầu chào hỏi ơi ới, thân mật quàng vai nhau, chuyện trò vui thú, nụ cười tươi rói làm xinh khuôn mặt, dưới những lọng dù hoa đủ mầu sắc. Họ quên tất cả, gát bỏ tất cả chuyện đau buồn cũ, hầu lo vun xới cho cuộc sống mới; điều quan trọng mới đã đến, trở thành bình thường, đều đặn, giản dị.
Từ nay, các thầy, cô giáo trẻ, chính thức gia nhập vào Đại Gia Đình Giáo Chức. Sống chết với ngành “Gia huy mô phạm, như gia”. Họ sẽ noi theo các gương bậc lão thành dày kinh nghiệm, độc đáo. Những người kiên nghị, cần mẫn, giàu kinh nghiệm, dũng cảm, am tường và nổi bậc nhất về mặt phẩm chất, ý chí kiên cường, sáng tạo, cầm đuốc khai phóng trí tuệ con em.
Tất cả những sự kiện đó, khắc dấu ấn lên tư cách, tính tình đại đa số người, trong một đại gia đình chung trên toàn quốc. Một đại gia đình rất bao la, phổ quát. Không ai thừa hưởng gia tài và cuộc sống chung quá dài lâu. Họ chỉ biết tên nhau trên văn bút, thông tư, hay chưa một lần hội ngộ. Chúng tôi, lớp giáo chức mới hôm nay, xin cảm ơn các bậc tiên phong sẽ dẫn đường, giáo dục con em thế hệ trẻ thêm tốt đẹp, hoàn mỹ. Kỳ diệu xiết bao!
Năm học chuẩn bị chu đáo, sinh động, trang nghiêm, trịnh trọng. Đó là mùa xuân tươi mát trên cánh đồng hoa học trò nồng thắm, như thuở tình yêu chưa mọc cây cỏ xanh um, trong vườn hoa thư sinh. Ấy là niềm vui trong sáng tao nhã hồn nhiên, ngây ngất vô vàn. Niềm vui thanh tao đã mọc cánh, theo ngày xuân trong nắng hạ, từ ngày hôm qua, hôm nay và mai sau... Dù mười tám đôi mươi, thậm chí Kim Định ngoài ba mươi tám tuổi, còn mài đủng quần trên ghế nhà trường, nghe tụi nhỏ cải nhau inh ỏi. Liên nói:
- Cuối khóa học, có văn nghệ, tao sẽ hát cho tụi bây nghe. Không "đã" thì thôi a.
- Xí! Mày sún hết mấy răng cửa, gió thổi vào hụt hơi. Còn ca mí hát.
- Ơ ... Chứ bộ mầy đẹp dữ ha! Đồ mắt ốc nhồi! Đồ mặt ngựa.
Nhung trề môi rõ dài sau câu nói, mặt Liên tái xanh qua đôi mắt mệt mỏi, ánh lên tia trách móc, hờn giận. Liên chồm tới bên bạn, dáng người thanh mảnh, như cây sậy sắp ngã.
Tuy Liên thích tính Nhung thẳng thắng, vui vẻ, toệch toạt, cô dám nói huỵch toẹt ra ý nghĩ mình, bốp chát vào mặt người khác, không kiên nễ. Dẫu thế ưa dễ mất lòng, dễ giận nhau, dễ xa nhau.
Kim Định lớn nhất trong đám "xì lô cố", vội lên tiếng can ngăn:
- Không nên nói ba xàm ba láp lung tung. Đùa giỡn quá lố, hoá ra gây lộn thật bi giờ.
Nhung phân trần:
- Chị thấy không! Em nói chơi tí tẹo, mà nó nổi cồ lên. Đẹp thấy ớn.
- Cả hai cô, im không nào. Im nghe!
- "Người đẹp mắt buồn" đây, không ai ngó ngàng, cứ đi gây nhau, xí phần hết trọi dzậy? Hãy nghe Cúc hát bài con voi nè! Con doi, con dõi, con dòi, cái dòi đi trước...
Giọng Nguyễn Thu Cúc hân hoan, đầy hài hước, khiến các bạn ngạc nhiên nhìn. Thu Cúc mỉm cười ngụ nhiều ý ngầm. Họ cười, khi Cúc trợn mắt méo miệng. Cái thuật ngữ đó thật buồn cười, nó khiến các bạn mê Cúc đến thế! Cúc giả lả, cho hai bạn kia quên bực bội í mà.
Anh Thư bắt gặp tia mắt ngầm gặp nhau, lặng đi trong vài giây. Đôi mắt Cúc quả là đẹp, đã lắng sâu trong đôi mắt cô, to, tròn, sáng, có tia vàng lóng lánh quanh đôi đồng tử, che bớt bởi rèm mi dài cong cong, sóng mũi cao, đôi má trắng hồng. Đặc biệt nhất miệng cười duyên dáng, e ấp, hàm răng trắng bóng có chiếc răng khểnh nhu mì nép bên khóe môi. Thân hình Thu Cúc cân đối, càng tôn dáng hài hòa, trên mái tóc thề óng ả, chiếc khăn voan màu cỏ uá mỏng tanh quấn quanh cổ, đôi hoa tai vàng 18 k, đong đưa theo mỗi cử động, bộ áo dài trắng mầu học trò, áo len trắng, cho biết Thu Cúc rời ghế nhà trường chưa lâu.
Thu Cúc thừa kế mẹ từ thể chất đến công việc làm. Mẹ cô là hoa khôi một thời xa xưa, bà đang dạy học trong thành phố. Hẳn là Thu Cúc còn nguyên vẹn tình nồng thắm, hoa mộng ngọc ngà. Mà, ở lứa tuổi như Hoa, Hương, Trầm Mây, Thúy, Anh Thư, Thuỳ Mến từng biết chuyện "yêu, qủy xứ", đã vĩnh viễn mất đi dáng ngọc ngà, thơ trẻ hồn nhiên phơi phới rồi.
Tất cả hào nhoáng sinh động của con người Anh Thư thật, núp bóng trong hình ảnh, rơi tuột qua người Thu Cúc, như lớp vỏ ngoài không cần thiết của loài rắn lột da. Như con kén trở thành bươm bướm. Như nòng nọc rụng mất đuôi.
Thu Cúc là nét chân dung chính thực của Anh Thư ngày ấy. Tuổi học trò thơ dại diễm kiều xa xôi nầy, là tiếng guốc thanh thanh đều đều, khi rộn ràng, trầm trầm, khi hoan ca vui vui, gõ nhè nhẹ trên những con đường cũ, ngân vang mãi trong lòng mình, nỗi tuyệt diệu. Sự tiếc nuối làm Anh Thư dại người, cô gục đầu xuống bàn đánh "cộp", buồn rầu tiếc thương. Nhưng Anh Thư không thể khóc, vì sự tiếc nuối vượt hẳn mức chịu đựng, làm quặn thắt trái tim cuồng say.
Thu Cúc không ngờ, không biết để đoán ra, chính do mình vui tính, hồn nhiên tươi mát với bạn, nên ai ai cũng có cảm tình. Đôi khi trong lòng Thu Cúc nảy sinh ra tình cảm tao nhã, đặc biệt cao thượng, hơn là sức mạnh giữa trai và gái: Đó là tình đồng hội, đồng thuyền. Không phải Thu Cúc chỉ ghi lai những sự kiện, mà Cúc muốn kiểm chứng tình cảm, dẫn tới mối xác định tương thân giữa hai người bạn.
Vẻ mặt Anh Thư suy tư trầm lặng, qua nhiều ngày hội thảo, đôi mắt nhìn theo mỗi khi Thu Cúc lên bục thuyết trình. Giọng nói Cúc khi nâng cao, lúc nhẹ nhàng chìm xuống, nghe thật hòa ái, mềm dẽo, nhặt khoan, rất sành điệu. Anh Thư chăm chú nhìn từng cử chỉ của bạn. Và, cảm tình ấy như đã nói rõ hơn lời. Chính Thu Cúc đánh thức dậy trong lòng Anh Thư sự cảm xúc về tình bạn sâu sắc, cao thượng. Tâm hồn sạch trong như hạt sương đầu núi, như dòng nước thượng nguồn.
Liên và Nhung ngồi cạnh nhau, ngày thứ nhất các bạn chưa nhớ rõ nguyên nhân. Ngày thứ tư, thứ năm, hai cô không nhìn nhau trao gửi lời bông đùa giống mấy tuần qua. Mỗi cô quay đi một hướng. Thì ra, không giận nhau ra mặt, mà, hóa ra gay gắt gấp trăm lần giận nhau.
Tính Nhung khỉ hơn, không biết hờn giận ai lâu, nhưng thấy bạn không làm quen, chẳng lẽ mình làm quen trước, thì kỳ quá! Thôi ta cứ phớt lờ cho xong. Thế là ngồi bàn trên, Nhung quay xuống bàn dưới, rù rì với tôi:
- Thùy Mến! Nhân dịp bố Thanh Tra giảng về tình yêu. Vậy mình hỏi bồ đã yêu chưa?
- ... Yêu gì?
- Thì... yêu người, học trò, bạn hữu thân quen. Đại khái cũng gọi là tình yêu.
- Vậy, bồ đã yêu chưa, mà hỏi?
- Rồi. Đã yêu và đã mất.
- Còn mình, sau thùng nước lạnh, có vài ba thùng nước đá lạnh tạt vào mặt. Đau điếng.
Dòng suy nghĩ lệch ra ngoài bài giảng, Anh Thư không thể nghiền nát cục sạn đắng cay chua chát giữa hai hàm răng, mà thương tổn tình yêu để lại. Chuyện cũ sắp sữa bừng dậy, và rơi vào tình trạng tuyệt vọng cũ. Tình yêu đã đi khỏi đời mình, không trở lại. Ngày vui lùi về dĩ vãng, hồi ức, về kỷ niệm, càng đượm buồn. Cô nghe Ánh Thu nói nhỏ với Túy:
- Có lẽ Anh Thư không biết đau khổ, buồn phiền là gì ha. Nó tươi tắn, và trẻ trung và xinh đẹp quá.
Họ thì thầm, nhìn vào lưng, vào gáy cô. Anh Thư nghe, mà không dám quay lại.

_ * _

Kính mời quý độc giả xem tiếp chương 5
Trân trọng,
Ái Ưu Du
#127 Posted : Sunday, August 19, 2007 1:02:38 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

CON ĐƯỜNG CẢO THƠM

Chương 5


DANH DỰ





Giáo sinh ít hoạt động, gần như rụt rè thụ động, nhút nhát. Hiểu bài các "thầy cô mới" ngồi im, không hiểu cũng cứ ngồi im. Khiến đôi khi giảng viên bực mình, không cho sự im lặng đó, như là điều chấp thuận. Giảng viên bắt họ đứng lên trả lời cho ra lẽ. Vì thế cả bốn lớp Sư Phạm đều ganh đua học tập. Vì họ quan niệm: “Thua Trời một vạn. Không bằng thua bạn một ly”.
Thời gian học tập nói chung khá thân ái, đều đặn, vui vẻ nhất là giờ làm thực hành những môn dụng cụ thính thị náo nhiệt nhất. Ngày vui sẽ toàn vẹn xiết bao, nếu không có sự đáng tiếc xảy ra sau đây:
Vào tiết học thứ ba bắt đầu rộn ràng như bao ngày khác. Bỗng nhiên trong lớp tôi, từ phân đội Tư, bàn thứ năm, có nàng Lưu tri hô lên:
- Tui đã bị mất một ngàn đồng rồi. Các chị ơi!
- Một ngàn!
Nghe khá lớn. Người nầy xì xầm quay tới quay lui, quay qua người kia chỉ chỏ, nói nói, ồn ồn, ào ào. Bốn chị lớn nhất là Hỷ, Quý, Hách, Định, chụm đầu lại với nhau thì thầm xong. Chị Quý mặt đỏ như trái gấc (gấc hình trứng nhọn đầu, ngoài mặt có nhiều gai mềm mà trong ruột thì thịt gấc đỏ! Trái ngược với gấc, chị Quý mặt đỏ như gấc lồ lộ ra ngoài đôi má, và hai vành tai). Chị lên trên bàn, yêu cầu thầy Tạo vui lòng ra khỏi lớp học, vì giáo sinh có chuyện cần, họp nội bộ khẩn cấp.
Để cho “công bằng và sáng tỏ vụ án”, mọi người yêu cầu phải có một thư ký, bầu các chị lớn lên làm “giám sát”. Cả lớp giơ tay bầu các chị Hỷ, Hách, Kim Định: Làm trong “Ban Kiểm Soát Kim Tiền”.
Anh Thư xung phong lên bảng đen để ghi lại lời khai của Lưu, và ghi vào trong biên bản cập nhật mỗi ngày của lớp). Anh Thư sẽ ghi về loại tiền của Lưu đã mất mới, cũ, như thế nào? Giấy bạc Nguyễn Huệ hay giấy bạc Trần Hưng Đạo? Nếp xếp ra sao.
Cửa đóng then cài trong lớp B (gồm toàn nữ giáo sinh khá cẩn thận. Thật may là lớp nầy chỉ có toàn phụ nữ. Không giống như lớp C có cả nam lẫn nữ). Chị đội trưởng, đội phó yêu cầu mọi người chỗ của ai, nên ngồi yên ổn tại đó. “Ban Giám Sát Kim Tiền & Vũ khí” tự động để cho hai đội trưởng của hai nhóm Một và Hai (bên dãy bàn phía nầy, mỗi dãy gồm có bốn dãy bàn có hai mươi bốn giáo sinh ngồi) xét trước tiên.
Ba chị trong "ban kiểm soát Kim Tiền" bị bốn chị trưởng, phó của nhóm Một và Hai xét hết mọi thứ xong. Sau đó ba bà chị đi từ bàn trên xuống bàn dưới, lần lượt xét từng cái cặp, từng bóp đầm, từng túi xách, sách vở lật từng trang. Bên các dãy bàn của tôi không có. Họ đành phải xin lỗi chúng tôi cho họ “cởi áo, mở quần” khám tỉ mỉ từng nhóm Ba và Bốn, khám từng người.
Thật là một sự thô bỉ, nhục nhã, “trơ thổ địa”, trơ trẽn kinh khủng! Một sự phỉ báng chưa từng có. Cái nhục nầy tôi sống để dạ, chết tôi mang xuống kiện Âm Phủ “cho bớt phần... độn thổ” ha! Mặt mày người nào người nấy, từ đỏ như gấc đổi thành trắng như mây. Đổi ra xanh như tàu lá. Đổi vàng như nghệ. Chao ôi là đau!
Đổi trắng thay đen! Không mắc cỡ vì cái chi chi, mà vì danh dự. Phải vạch mặt chỉ tên, cái thứ chuyên chôm chĩa, ăn cắp vặt, làm mất thể diện của Ban Điều Hành Giáo Chức, mất mặt ngành Giáo Dục. “Danh dự con người” buộc phải đứng tô hô thế nầy (không như ông Nễ Hành thời xưa, ông đứng tô hô không quần chả có áo trước quần thần bá quan văn, võ). Các chị em bẽn lẽn ngượng chín người trên bục giảng, có tấm màn che tạm, (màn là tấm khăn trải bàn, được Thu Cúc và Hoa mỗi cô túm một đầu góc giăng ra, giơ lên, hầu che người "bị xét hạch" lại) "Danh Dự" lúc nầy lớn lắm! Lớn hơn đỉnh núi Lâm Viên suốt tháng năm núi hồn nhiên phơi bộ ngực trần trụi giữa trời đất í mà.
Hương đứng gát nơi cửa ra vào để không cho ai vào lớp. Đang dạy môn Đức dục, nên thầy Tạo sốt ruột nện gót giày cộp cộp đi lui đi tới ngoài hành lang. Thầy không hiểu chi mô tê răn rứa cả hỉ! Chốc chốc thầy gõ nhẹ vào cửa, thầy nhỏ nhẹ hỏi vọng vào:
- Sắp hết giờ rồi. Thầy vào được chưa?
- Thầy yên tâm nghỉ giờ nầy đi.
- Khổ lắm các chị em ơi! Thầy sợ bất thần có quý vị Thanh Tra hay ông Trưởng Ty vô tình rảo bước đi giám sát ngang qua đây, họ thấy trong giờ làm việc, mà thầy cứ đứng xớ rớ trước lớp học, không chịu vào dạy lớp. Thì họ cho rằng “thầy lười”. Họ cho thầy Tạo nghỉ việc, thì thầy sẽ bị mất nồi cơm như chơi!
- Để học sinh Hương nói thầm cho thầy nghe: Thầy là đàn ông đàn ang, trai tráng độc thân, “mới nhớn”, khá đẹp “giai”. Bất phước thầy lạc mà vào lớp “xếch xi chăm phần chăm”. Ắt thầy sẽ ngã lăn quay ra đất bất tỉnh nhân sự. Và, tàn mớ đời cái môn Công Dân Đức Dục í á thầy.
Hết hai phần ba người của Ba phân nhóm trong lớp đã "thoát y vũ" có ban "giám sát viện", cẩn thận nghiên cứu vấn đề "thoát y... tiền". Thì lòi ra thủ phạm ngồi ở bàn dưới, gần Lưu. (Bên dãy bàn của phân đội Một và Hai). Sự phẫn nộ chung bỗng chốc đồng loạt "Ồ" lên một tiếng quá to, tưởng như muốn vỡ kính cửa. Rồi họ vụt lặng người đi, vì uất giận. Và, phụ nữ thẹn thùng, luống cuống, vội vã vơ áo quần, xỏ nhanh vào người chạy xuống ghế ngồi. Mặt họ thộn ra.
Langa, (tên thật là La Ngà, nhưng thời xa xưa đó máy chữ chưa làm dấu Việt Nam, lại gặp bác thư ký già lụ khụ, lụp chụp, ông ta đánh máy dính chùm, sai tùm lum tà la. Cha mẹ cô vô ý, không xem kỹ, nên cô có tên Tây không ra Tây, Miên không ra Miên. Các bạn ưa trêu gọi cô là Lan Gà). Langa vừa đánh trống vừa ăn cướp. Thế giới nội tâm thể hiện lên khuôn mặt mạnh mẻ, khi Kim Định lôi gần bên "bẹn" của cô ta ra mấy tờ giấy bạc. Đôi môi và các móng tay Langa không hồng, mà xám xanh lại, như người mắc chứng bệnh biến dạng van tim.
Ơ hay! Đúng thực tiền của mình, thì việc gì Langa phải dấu đút kỹ ở ngõ ngách qủy khốc thần sầu đó hỉ? Langa dãy đành đạch như con cá nhảy tưng tưng trên thớt. Cô ta rống to, khóc lóc. Giống kẻ vừa đánh trống, vừa ăn cướp”. Cô ta một mực kêu oan dậy trời. Oan! Thôi được rồi. Phải khám cả lớp cho biết. Chứ gần một trăm con mắt, chả có ai mù! Các chị em mỗi người nói xiên xỏ một câu ngạn ngữ, ca dao, tục ngữ: Ôi thôi! Các chị em học được bài “công dân & đạo đức” gì, nay được dịp tuôn ra hết:
- Mặt mày nó cũng khá đó chứ, mà đi ăn cắp ha!
- Dị hợm hỉ!
- Nếu là tao í à, thì tao đào đất chui xuống.
- Ăn cắp quen tay mà. Hèn gì tao thấy nó chuyên “ăn vặt”.
- Vậy mà nó tự hào là có “chân tu”, nên mới xinh xắn thế.
- Tu chùa, không bằng tu nhà. Ăn ở thật thà, mới gọi là tu. Mày ơi!
- Tu thân rồi mới tề gia. Lòng ngay nói vậy. Gian tà mặc ai.
- Của phi nghĩa có giàu đâu. Ở cho ngay thật. Giàu sang mới bền.
- Thói thường gần mực thì đen. Gần đèn thì sáng. Anh em bạn hữu, phải nên chọn người.
Tôi nghe họ xỉ vả thẳng thừng Langa mà cảm thấy “nhột và nhục” không thể tưởng! “Nàng Thị Lưu” thì chỉ thút thít khóc, nàng nhất định không chịu nhận tiền mà các bạn trong lớp đi quyên góp, kẻ ít người nhiều, để đưa ủng hộ cho Lưu. Người bị mất tiền khóc đã đành. Người kia "bỗng rưng nhặt" tiền, cũng khóc như kẻ cắp bà già gặp nhau. Bốn mắt họ sưng to như mắt ốc nhồi. Huề cả làng.
Chị Hách, “Thùy-Mến-tôi”, Hạnh, Thùy, Hạ, Mây, Hoa, Thu Cúc và các bạn về nhà lúc ba giờ chiều. Mọi người đều mệt. Đói cồn cào. Tức giận kinh khủng. Mấy đứa con của họ khóc. Đôi mắt trong sáng ngây thơ và vô tội, đã sưng chù vù. Giống như hai cô giáo sinh đã khóc trong lớp của mẹ chúng.


_ * _

Kính mời quý độc giả xem tiếp chương 3
Trân trọng,
Ái Ưu Du
#128 Posted : Monday, August 20, 2007 3:39:43 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

Con Đường Cảo Thơm

Chương 5

DANH DỰ





Nắng hanh vàng yếu ớt lọt qua đám mây ngà chiếu lên lớp lá thông ẩm lạnh, tạo thành từng đốm loang lổ mờ nhạt, nhảy nhót trên mặt đất lởm chởm như tổ ong. Dáng chiều tà êm ả hồng thắm, mây ngà lướt qua trên triền dốc thoai thoải nơi thành phố là là hơi sương, sau lăng kính màu vàng anh đầy luyến nhớ, quay quắt ước mong, và hạnh ngộ hoài niệm một đời.
Giáo sinh chỉ mong mau hết ngày để trở về nhà. Họ ít hoạt động, gần như rụt rè thụ động, nhút nhát. Hiểu bài các "thầy cô mới" ngồi im, không hiểu cũng cứ ngồi im. Khiến đôi khi giảng viên bực mình, không cho sự im lặng đó, như là điều chấp thuận. Giảng viên bắt họ đứng lên trả lời cho ra lẽ. Vì thế cả bốn lớp Sư Phạm đều ganh đua học tập. Vì họ quan niệm: “Thua Trời một vạn. Không bằng thua bạn một ly”.
Thời gian học tập nói chung khá thân ái, đều đặn, vui vẻ nhất là giờ làm thực hành những môn dụng cụ thính thị náo nhiệt nhất. Ngày vui sẽ toàn vẹn xiết bao, nếu không có sự đáng tiếc xảy ra sau đây:
Vào tiết học thứ ba bắt đầu rộn ràng như bao ngày khác. Bỗng nhiên trong lớp tôi, từ phân đội Tư, bàn thứ năm, có nàng Lưu tri hô lên:
- Tui đã bị mất một ngàn đồng rồi. Các chị ơi!
- Một ngàn!
Nghe khá lớn. Người nầy xì xầm quay tới quay lui, quay qua người kia chỉ chỏ, nói nói, ồn ồn, ào ào. Bốn chị lớn nhất là Hỷ, Quý, Hách, Định, chụm đầu lại với nhau thì thầm xong. Chị Quý mặt đỏ như trái gấc (gấc hình trứng nhọn đầu, ngoài mặt có nhiều gai mềm mà trong ruột thì thịt gấc đỏ! Trái ngược với gấc, chị Quý mặt đỏ như gấc lồ lộ ra ngoài đôi má, và hai vành tai). Chị lên trên bàn, yêu cầu thầy Tạo vui lòng ra khỏi lớp học, vì giáo sinh có chuyện cần, họp nội bộ khẩn cấp.
Để cho “công bằng và sáng tỏ vụ án”, mọi người yêu cầu phải có một thư ký, bầu các chị lớn lên làm “giám sát”. Cả lớp giơ tay bầu các chị Hỷ, Hách, Kim Định: Làm trong “Ban Kiểm Soát Kim Tiền”.
Anh Thư xung phong lên bảng đen để ghi lại lời khai của Lưu, và ghi vào trong biên bản cập nhật mỗi ngày của lớp). Anh Thư sẽ ghi về loại tiền của Lưu đã mất mới, cũ, như thế nào? Giấy bạc Nguyễn Huệ hay giấy bạc Trần Hưng Đạo? Nếp xếp ra sao.
Cửa đóng then cài trong lớp B (gồm toàn nữ giáo sinh khá cẩn thận. Thật may là lớp nầy chỉ có toàn phụ nữ. Không giống như lớp C có cả nam lẫn nữ). Chị đội trưởng, đội phó yêu cầu mọi người chỗ của ai, nên ngồi yên ổn tại đó. “Ban Giám Sát Kim Tiền & Vũ khí” tự động để cho hai đội trưởng của hai nhóm Một và Hai (bên dãy bàn phía nầy, mỗi dãy gồm có bốn dãy bàn có hai mươi bốn giáo sinh ngồi) xét trước tiên.
Ba chị trong "ban kiểm soát Kim Tiền" bị bốn chị trưởng, phó của nhóm Một và Hai xét hết mọi thứ xong. Sau đó ba bà chị đi từ bàn trên xuống bàn dưới, lần lượt xét từng cái cặp, từng bóp đầm, từng túi xách, sách vở lật từng trang. Bên các dãy bàn của tôi không có. Họ đành phải xin lỗi chúng tôi .cho họ “cởi áo, mở quần” khám tỉ mỉ từng nhóm. Coi như nhóm Một & Hai không có. Chúng tôi mừng rỡ hân hoan thở phào. Ba bà chị qua bên dãy bàn của nhón Ba và Bốn, khám từng người. Tôi ngồi ù lì dưới ghế nhìn lên tấm bảng đen, nơi các chị đang "công tác bất đắc dĩ". Thật là một sự thô bỉ, nhục nhã, “trơ thổ địa”, trơ trẽn kinh khủng! Một sự phỉ báng chưa từng có. Cái nhục nầy tôi sống để dạ, chết tôi mang xuống Âm Phủ kiện Diêm Vương“cho bớt phần... độn thổ” ha! Mặt mày người nào người nấy, từ đỏ như gấc đổi thành trắng như mây. Đổi ra xanh như tàu lá. Đổi vàng như nghệ. Chao ôi là đau!
Đổi trắng thay đen! Không mắc cỡ vì cái chi chi, mà vì danh dự. Phải vạch mặt chỉ tên, cái thứ chuyên chôm chĩa, ăn cắp vặt, làm mất thể diện của Ban Điều Hành Giáo Chức, mất mặt ngành Giáo Dục. “Danh dự con người” buộc phải đứng tô hô thế nầy! (không như ông Nễ Hành thời xưa, ông đứng tô hô không quần chả có áo, trước quần thần bá quan văn, võ). Các chị em bẽn lẽn ngượng chín người trên bục giảng, có tấm màn che tạm, (màn là tấm khăn mỏng trải bàn, được Thu Cúc và Hoa mỗi cô túm một đầu góc giăng ra, giơ lên, hầu che người "bị xét hạch" lại). "Danh Dự" lúc nầy lớn lắm! Lớn hơn đỉnh núi Lâm Viên suốt tháng năm núi hồn nhiên phơi bộ ngực trần trụi giữa trời đất í mà.
Hương đứng gát nơi cửa lớn không cho ai ra vào lớp. Đang dạy môn Đức dục, nên thầy Tạo sốt ruột nện gót giày cộp cộp đi lui đi tới ngoài hành lang. Thầy không hiểu chi mô tê răn rứa chi cả hỉ! Chốc chốc thầy gõ vào cánh cửa, thầy nhỏ nhẹ hỏi vọng vào:
- Sắp hết giờ rồi. Thầy vào được chưa?
- Thầy yên tâm nghỉ giờ nầy đi.
- Khổ lắm các chị em ơi! Thầy sợ bất thần có quý vị Thanh Tra hay ông Trưởng Ty, họ vô tình rảo bước đi giám sát ngang qua đây, họ thấy trong giờ làm việc, mà thầy cứ đứng xớ rớ trước lớp học, không chịu vào dạy lớp. Thì họ cho rằng “thầy lười”. Họ bắt thầy Tạo nghỉ việc, thì thầy sẽ bị mất nồi cơm như chơi!
- Để học sinh Hương nói thầm cho thầy nghe: Thầy là đàn ông đàn ang, trai tráng độc thân, “mới nhớn”, khá đẹp “giai”. Bất phước thầy lạc mà vào lớp “xếch xi chăm phần chăm”. Ắt thầy sẽ ngã lăn quay ra đất bất tĩnh nhân sự. Và, tàn mớ đời cái môn Công Dân Đức Dục í á thầy.
Hết hai phần ba người trong các phân nhóm của lớp đã "thoát y vũ" có ban "giám sát viện", cẩn thận nghiên cứu vấn đề "thoát y... tiền". Thì lòi ra thủ phạm ngồi ở bàn dưới, gần sau lưng Lưu. Sự phẫn nộ chung bỗng chốc đồng loạt "Ồ" lên một tiếng quá to, tưởng như muốn vỡ kính cửa. Rồi họ vụt lặng người đi, vì uất giận. Và, mấy phụ nữ còn đứng xếp hàng chờ tới phiên, đã thẹn thùng, luống cuống, vội vã vơ áo quần, xỏ nhanh vào người chạy xuống ghế ngồi. Mặt họ đỏ tía bừng bừng và thộn ra.
Langa, (tên thật là La Ngà, nhưng thời xa xưa đó máy chữ chưa làm dấu Việt Nam, lại gặp bác thư ký già lụ khụ, lụp chụp, ông ta đánh máy chữ dính chùm, sai tùm lum tà la. Cha mẹ cô vô ý, không xem kỹ, nên cô có tên Tây không ra Tây, Miên không ra Miên. Các bạn ưa trêu gọi cô là Lan Gà). Langa vừa đánh trống vừa ăn cướp. Thế giới nội tâm thể hiện lên khuôn mặt mạnh mẻ, khi Kim Định lôi gần bên "bẹn" của cô ta ra mấy tờ giấy bạc y chang lời Lưu khai, do Anh Thư đã ghi ở trên bảng. Đôi môi và các móng tay Langa không hồng, mà xám xanh lại, như người mắc chứng bệnh biến dạng van tim.
Ơ hay! Đúng thực tiền của mình, thì việc gì Langa phải dấu đút kỹ ở ngõ ngách qủy khốc thần sầu đó hỉ? Langa dãy đành đạch như con cá nhảy tưng tưng trên thớt. Cô ta rống to, khóc hụ hụ hụ...lăn lóc vật vã trên mặt bàn. Giống kẻ "vừa đánh trống, vừa ăn cướp”. Cô ta một mực kêu oan dậy trời. Oan! Thôi được rồi. Phải khám cả lớp cho biết. Chứ gần một trăm con mắt, chả có ai mù! Các chị em thấy vậy, mỗi người nói xiên xỏ một câu ngạn ngữ, ca dao, tục ngữ: Ôi thôi! Các chị em học được bài “công dân & đạo đức” gì, nay được dịp tuôn ra hết:
- Mặt mày nó cũng khá đó chứ, mà đi ăn cắp ha!
- Dị hợm hỉ!
- Nếu là tao í à, thì tao đào đất chui xuống.
- Ăn cắp quen tay mà. Hèn gì tao thấy nó chuyên “ăn vặt”.
- Vậy mà nó tự hào là có “chân tu”, nên mới xinh xắn thế.
- Tu chùa, không bằng tu nhà. Ăn ở thật thà, mới gọi là tu. Mày ơi!
- Tu thân rồi mới tề gia. Lòng ngay nói vậy. Gian tà mặc ai.
- Của phi nghĩa có giàu đâu. Ở cho ngay thật. Giàu sang mới bền.
- Thói thường gần mực thì đen. Gần đèn thì sáng. Anh em bạn hữu, phải nên chọn người.
Tôi nghe họ xỉ vả thẳng thừng Langa mà cảm thấy “nhột và nhục” không thể tưởng! “Nàng Thị Lưu” thì chỉ thút thít khóc, nàng nhất định không chịu nhận tiền mà các bạn trong lớp đi quyên góp, kẻ ít người nhiều, để đưa ủng hộ cho Lưu. Vì, con Langa nói:
- Số tiền nầy chính là của tôi, hồi sáng nầy tôi đã đưa ra cho Lưu coi mà. Lưu tri hô và nói láo!
Người bị mất tiền khóc đã đành. Người kia "bỗng rưng nhặt" tiền, cũng khóc như kẻ cắp bà già gặp nhau. Bốn mắt họ sưng to như mắt ốc nhồi. Huề cả làng. Chị Hách, “Thùy-Mến-tôi”, Hạnh, Thúy, Hạ, Mây, Hoa, Thu Cúc và các bạn về nhà lúc bốn giờ chiều. Mọi người đều mệt. Đói cồn cào. Tức giận kinh khủng.
Mấy đứa con của họ khóc vì khát sữa. Đôi mắt trong sáng ngây thơ và vô tội, đã sưng chù vù. Giống như hai cô giáo sinh đã khóc trong lớp của mẹ chúng.

_*_

Kính mời quý độc giả xem tiếp chương 6
Trân trọng,
Ái Ưu Du
#129 Posted : Friday, August 24, 2007 2:47:12 PM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

CON ĐƯỜNG CẢO THƠM

Chương 6

NGÀY CUỐI BÊN BẠN





Kết thúc khóa học, toàn khóa gíao sinh đi thăm sở trà Cầu Đất, và sẽ đi thăm năm ba thắng cảnh Đà Lạt. Khí trời trong sáng thoáng mát, mờ sương đọng trên khung cửa kính xe ấp áp.
Ánh mặt trời e thẹn lú ra khỏi tầng mây, rụt rè sưởi ấm bầu trời thoáng chốc, rồi e thẹn nép mình sau đỉnh Lâm Viên, xua các đài mây lờ lững bay qua sườn đồi. Đồi cỏ thắm xanh, mềm mại ẩm ướt sau cơn mưa, in loáng nước bạc lấp lánh. Nóc giáo đường uy nghi chọc thủng bầu trời bang bạc, sau hồi chuông ngân nga, tiếng ngân rền tản mạn dần trong thinh lặng.
Thu Cúc mặc quần jean, áo sơ mi trắng, giày sport đi giữa Nhung mặc áo Thượng Hải đen. Anh Thư mặc áo sơ mi mầu hồng phấn, váy đỏ chen những nụ hoa hồng. Các bạn thấy Trầm Mây mặc mini robe kim tuyến trắng, áo len lông xù, giày cao chín phân, họ sửng sốt nhìn ngó nhau, xầm xì to nhỏ về cái đám giáo chức, mà dám “mặc váy hở hang”.
Trầm Mây đã từng đi qua nhiều đôi mắt mờ đi vì mệt mỏi, đau đớn, bỡ ngỡ, muộn phiền do chiến tranh đem lại tự thuở thiếu thời. Cô đã từng đi qua trước gượng dậy của bao người thảng thốt giơ hai tay lên trời. Ấy thế mà, quả thật là cô chưa bao giờ đi qua từng đôi mắt mô phạm non đời và lộ liễu đến thế. Thu Cúc nói:
- Anh Thư và Trầm Mây! Mình đề nghị có lẽ lần sau, hai bạn không nên mặc đồ đầm nha.
Nhung cướp lời Thu Cúc, khi tiếng "có lẽ" đó thoáng hiện giọng Thu Cúc điềm tĩnh và diễu cợt sao đâu.
- Sao? Mặc váy, có lẽ còn mô phạm gấp trăm lần... “cái tô hô” ngày ấy “phơi ra” í. Chứ không à? Thế, mấy cô kín cổng cao tường có đứng thỗn thện, khi bị xét mất cắp không?
- Đành một lẽ. Nhưng, hai bạn mặc nửa kín nửa hở như vậy. Giới mô phạm chúng ta, có người cổ lỗ sĩ sẽ khó chịu đó.
- Ha ha ha! Mặc đầm để mấy bà kia... dễ mò oan, tìm tiền mất, mà không ai dám kêu ca.
- Chuyện người, mặc kệ người lo. Hơi đâu đáy nước, mình mò bóng trăng.
- Mò bóng trăng còn phước. Đây ta bị mò cua mới đau.
- Mò cái ngữ ấy, thì xuống hoả ngục gấp. Y như con Langa độn thổ, nó đã trốn mất, bỏ dạy bỏ làm cô giáo rồi.
- Này, thế mà nghe đồn cô ta là con nhà giàu ở Sài Gòn, gia đình nho giáo, có học và đàng hoàng lắm nhe.
- Con nhà giàu, có học, bộ nó không có tính tham tiền chắc! Cứ hễ đụng đến quyền lợi và tiền, là con Langa rống lên như bò rống. Tui nói cho mà biết, nó ngồi sát bên tui, tiền của tui bỏ ra cho nó ăn ké. Nó lờ đi, coi như không biết, không nhớ.
Ngừng một lúc, Phượng bĩu môi nhìn các bạn:
- Tui xã thân lo cho nó, từ trong chí ngoài đầy đủ, nó không một lần đáp lễ. Tui cho nó tui không tức. Mà tệ hại nhất là nó keo kiệt, không bỏ tiền ra, không cho mình mượn tiền. Nó lại cứ nhớ là đã đưa cho tui mượn. Còn làm ra vẽ ta đây cao cách, không cần tiền, có danh dự. Và, chỉ có ta là nhất, còn người khác là củ khoai. Nay nó phạm sai lầm một cách đáng tiếc, vô phương cưu vãn danh dự rồi.
Hoa chêm. vào:
- Tưởng là Langa có học, thấu hiểu, tui nói phải nói trái, khuyên dây cà dây mướp, nhất là vì tình bạn, tui an ủi nó. Ai dè không hiểu nhau. Trái ngược nhất là Langa không hiểu khi tui bông đùa ra sao, lúc nói thật ra sao. Đáng tiếc.
- Ai dè, ai diếc gì. Chính vậy. Thôi. Quên chuyện mất mặt đó đi. Mai mốt ra trường rồi, các bạn về đâu hả?
Nhung nhanh miệng trả lời Hương:
- Nhung Nam Thiên. Thu Cúc Trường Mẫu. Hương La Ba. Trầm Mây ở văn phòng. Thùy Mến Phú Hội.
Đi xa như Hương mà khoái a. Ở thành phố thì trường gần mặt trời. Chung đụng với mấy ông thầy bà cô kỳ cựu già dặn. Họ làm ra vẻ ta đây là ông to bà lớn có bằng cấp, có học cao. Họ ưa kỳ thị bọn giáo chức mới tò te. Họ “không chịu chơi” nghĩa là họ không muốn nói chuyện với bọn mình. Họ coi khinh người khác bằng nửa con mắt. Mà nầy, con ông cháu cha chạy chọt luồn cúi nâng bi, bợ đít thượng cấp, mới được nhận về trường mẫu à nha.
- Về đó Cúc sẽ khó chịu, bị cô lập, cô độc thôi. Mình sẽ xin đi trường Đa Lộc hay Thái Phiên. Là hai trường gần phố nhất.
- Thế, khi nào bạn dễ thương và hiểu biết vậy?
- Thùy Mến ơi! Dễ thương thì có dễ thương thật. Nhưng đáng lẽ bạn phải cám ơn ta về việc dám nói lên mặt trái của cái trường mẫu kia, như mạnh thường quân mới phải. Tưởng bạn bè hiểu nhau, khuyên dây cà dây mướp. Nào ngờ...
- Nói gì nghe lạc hết giọng, như chim yến ăn quá nhiều kê.
- Thôi! Vào xem văn nghệ đi.
Mấy bạn quên ngay chuyện cũ. Tuổi trẻ vào đời sống có chiều rộng, nhưng chưa có chiều sâu, buồn, vui, thương, hờn, giận, cứ quyện vào nhau, rồi bay đi như mây trời bay qua đỉnh núi, mang về hương vị đồng nội, không để lại dấu vết gì.
Thoạt nghe bạn cùng khóa đon đả chào hỏi nhau, Thu Cúc nghĩ họ thương qúy nhau từ lâu không gặp, họ là nhà mô phạm hiếu khách, vui vẻ, ân cần, lịch sự từ giã nhau, mai đâyáit có dịp gặp nhau, sốt sắng nói câu bông đùa dí dỏm duyên dáng nữa. Mỗi người sẽ đi một ngả về với bổn phận, trách nhiệm của người cầm cân nẩy mực. Khoát bóng sau hàng mi vụng dại, họ có cái nhìn phảng phất ánh lý tính, từ tia sáng ở đáy đồng tử, là bộ mặt sư phạm trẻ mà đoan trang đạo đức... nhất thế giới.
Cánh vườn xanh thẳm, đồi trà trùng điệp nối đuôi nhau chạy về cuối rừng nhuộm đầy ánh hoàng hôn. Nền trời in nhiều vắt mây hồng thắm và ngà sáng, lốm đốm viền bạc trên lưng những chú cừu mây, bông mây xôm xốp lững lờ đi về nơi vô định.
Mấy đứa trẻ ăn mặc giản dị, có khuôn mặt bầu bĩnh trắng hồng như trái đào, đôi mắt các em to tròn, hàng mi dài lơ thơ, như nét phác thảo trong bức tranh xưa mộc mạc. Miệng các em cười chúm chím. vừa đi các em cùng hát đồng dao. Các em lùa bầy dê qua con suối cạn, trở về nhà khi chiều tàn dần trên những nương khoai.
Ngoài cành cây cọ xát kẽo kẹt vang trong gió chiều, hoà theo tiếng thông reo vi vu, từng chiếc lá vàng khô xào xạc cuốn theo gió hững hờ bay, thì rừng thật im lặng. Phía ấy, gần dòng suối nhỏ có cụm lửa quyện khói đen yếu ớt, không đủ soi sáng mé đồi dần chìm trong bóng mờ chập choạng tối. Cuối dốc đường vòng cong uốn khúc, bỗng xuất hiện một người đàn ông cạnh con chó vàng. Con chó cúi mõm, cào cào hai chân trước lên mặt đất, gần đống lửa bập bùng.
Người đàn ông ấy đã giạng hai chân ra, dáng đi xiêu vẹo. Ông ta cố đọ sức mình với chai rượu cạn đáy, cố giữ thân thể thăng bằng, nhưng cuối cùng ông ta đã lăn quay ra đất. Tôi thảng thốt kêu:
- Trời ơi! Coi chừng kẽo bị chết cháy.
Thật khó hình dung được, ông ta nốc rượu cho đẫy vào làm gì, giữa nơi thâm u cùng cốc thế nầy! Lại ngả lăn cù queo, như bong bóng lăn trên thảm cỏ khô gần đống lửa. Đúng là say quá rồi, ông chẳng biết gì, chứ luật ở rừng cấm đốt lửa mà.
Xe chạy qua vùng quê mỗi lúc một thêm hoang vắng, dốc đồi rải ra từng khối đá lớn, nằm chênh vênh ra bìa rừng, lác đác chùm cây bụi cỏ tiếp nối với cánh đồng còn trơ cuống rạ.
Dãy núi phía Nam thỉnh thoảng lóe chớp muôn tia sáng ngoằn ngoèo. Sau đó vọng lại tiếng ì ầm, như cơn giông. Bầu trời đen nghịt. Phía Tây sắp trở dạ để trút cơn mưa thật lớn xuống vạn vật.
Không hiểu sao tôi lo lắng cho người đàn ông say rượu xa lạ, nằm vật ra một mình chèo queo, co rúm giữa nơi đồng không mông quạnh đó quá chừng!

_ * _

Kính mời quý độc giả xem tiếp chương 7
Trân trong,
Ái Ưu Du
Ái Ưu Du
#130 Posted : Tuesday, August 28, 2007 11:33:15 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

Phần Thứ Nhì

Chương 7

NGÀY ĐẦU TIÊN VÀO NGHỀ






Trời mưa thật lớn. Mưa trắng xóa núi đồi. Muôn triệu hạt mưa tròn tròn dài dài, lăn tăn li ti nối đuôi nhau, tạo thành một màn dây nước loang loáng, rơi chênh chếch trên nhiều mái nhà. Xa xa rặng thông chập chùng, làng mạc ẩn hiện, vẻ thành đường cong mờ ảo, mất chiều sâu trở nên phẳng lì. Nước dưới đất không còn trong mát, mà đùng đục.
Tiếng mưa trên mái tôn nặng nề, dìm người nghe vào vực thẳm không đáy. Mây thấp lè tè. Biển trời toàn màu xám đục, mờ tối trông thật buồn và ngao ngán, mất cả cảm giác thời gian. Chúng bay đi hời hợt, vô tình như gió, cuốn hút mình vào suy tư trừu tượng.
Nhất là vào lúc băn khoăn lo lắng, nức lòng chờ đợi, thời gian lê bước chậm chạp như con ngựa già, đang cơn hấp hối. Thời gian thật là phức tạp, Nó vừa nhanh như gió, đồng thời cũng chậm như rùa, khi Thu Cúc xôn xao vui thích, hay bàng hoàng về một vấn đề nào đó.
Bước xuống xe lam, áo mưa mặc ngoài áo dài và áo lạnh, khăn quàng trùm kín cổ, dù che mưa, Mến tôi chạy nhanh trên con đường đất đỏ, có hàng cây dẫn đến trường, dưới cơn mưa tầm tã. Đây rồi! Trường có mười phòng học, quét vôi vàng, cửa gỗ sơn màu nâu, mái ngói đỏ nép mình dưới sức mưa gió xô về, thì những điều dự cảm đã thành xác định.
Trí óc sáng suốt, nhưng tim đập thình thịch trong lồng ngực, khi tôi đọc hàng chữ xanh ghi tên trường đến lần thứ tư, mắt hoa lên, mạch máu hai bên mang tai căng cứng, giật mạnh khiến cô choáng váng, hồi hộp nhìn hàng chữ nhảy múa trong màn mưa. Đây là giây phút quyết định.
Tôi sợ không được tuyển chọn, một nghề đúng với ý nguyện, thiết tha mong đợi. Con người sống đâu phải là ngày ngày dẫm chân tại chỗ, từ lúc yếu đuối đến thành niên, và lão thành, tôi phải cố vượt thắng với quá trình đấu tranh không mỏi, mong đạt đến lý tưởng dẫu khiêm tốn, nhưng tiềm ẩn cả nguồn vui, là quý rồi. Tôi không ước mơ sao sang hơn.
Trường tuy xa nhà, nhưng cứu cánh sẽ biện minh cho phương tiện, đừng lo. Trục giao thông chính, nối liền hai xã Tùng Nghĩa, Phú Hội, bằng con đường nhựa bóng loáng, dân cư làng mạc sung túc, trù phú, an hòa.
Một tốp học sinh chơi cò cò trong mái hiên khá rộng, tốp khác nhảy day. Năm mười cậu bé trai rượt nhau chạy loăng quăng dưới mưa. Mấy tốp khác ở bên các khung cửa kính lớp học. Bỗng chốc có tiếng la lên:
- Chúng mày ơi! Có cô giáo mới.
- Cô giáo mới.
- Cô quá đẹp.
Như nhiều mũi tên bậc khỏi dây cung, hầu hết học sinh từ mái hiên ùa về phía tôi, nhanh chóng tạo thành vòng tròn. Ban đầu ngoài xa, sau dần dần xích gần và sát tôi hơn, vũng nước từ bộ quần áo ướt sũng trên người tôi chảy tong tong xuống nền xi măng, loang ra một vòng tròn ướt át, loang lổ nước mưa.
Các em tròn xoe đôi mắt, nhìn từng li từng tí, từng cử chỉ nhỏ nhặt của người mới đến, mà chúng sẽ gọi là cô. Để tùy theo đó, các em tăng lòng ngưỡng phục, hoặc giảm đi nỗi e sợ cô, suốt niên học. Nhìn cô, thầy giáo mỗi ngày, học sinh có thể dò đoán, thầy cô hôm ấy vui hoặc buồn, bận rộn lo âu, hầu thoát ra khỏi vòng kềm toả của họ. Học sinh biết làm vui lòng, vừa lòng điều mà thầy cô mong đợi, bằng cách ngoan hiền chăm chỉ hơn.
Sau một hồi cô giáo “bị” các em đứng ngây người ra nhìn cô giáo mới lúng ta lúng túng, bởi vòng vây mỗi lúc một xiết chặt hơn. Mến nghe vài tiếng xầm xì, từ vòng ngoài:
- Cô giáo mới trẻ đẹp.
- Chắc là hiền.
- Í. Hổng biết à.
Vừa lúc đó có tiếng trống báo hiệu vào lớp. Đám học sinh tản nhanh ra, như đàn chim én vút bay khi có người qua. Thoát được vòng vây, khiến tôi nhẹ nhõm. Tôi đến văn phòng hiệu trưởng.
Anh Long từ Bắc di cư vào Nam, anh còn trẻ, có vợ, và một con trai. Anh có làn da trắng hồng, dáng anh vừa vặn không cao. Cử chỉ anh ôn hòa khiêm tốn, lời nói nhỏ nhẹ. Long làm hiệu trưởng kiêm dạy lớp, nên anh quá bận rộn.
Có được cô giáo mới, anh khá mừng, tuy thế anh cho tôi nghỉ bốn hôm, về ổn định gia đình chu đáo. Có hiệu trưởng biết thông cảm, ân cần như thế, còn gì qúy bằng.
Tôi làm quen với trường lớp khiêm nhường, thiếu tiện nghi vật chất, khá bở ngở. Anh giới thiệu tôi với học sinh. Tiếng xô ghế lạch cạch, tiếng guốc dép quần áo sột soạt. Chúng đồng loạt đứng lên. Có tiếng hô to. Học sinh véo von câu chào, hay ơi là hay:
- Chúng em xin chào cô, đến dạy lớp ạ.
- Cô chào các em. Ngồi xuống đi.
Một lần nữa, tiếng bàn ghế guốc dép, áo quần sột soạt khua lên, trong sự yên lặng dần lắng xuống. Những đôi mắt chăm chú ngước nhìn, lắng tai nghe.
Việc đầu tiên, tôi lướt nhìn hết lượt tất cả khuôn mặt học trò. Đọc danh sách. Phân chia ra từng nhóm. Đứng đầu từng nhóm có Trưởng và Phó nhóm. Tôi chia việc học tập, các công việc khác từng ngày. Có quy củ, có tổ chức, chứ không như tình trạng xô bồ cũ.
Công việc nầy, dù không vất vả mệt nhọc lắm, nhưng đòi hỏi ở ta nhiều nghị lực, và kiên định. Năm mươi học sinh trong lớp như mầm măng non đang kỳ phát triển. Mỗi em có hình dáng, đặc thái, và tính tình riêng. Nhất là một lớp chưa có "giáo chủ", thì học sinh tha hồ tự do! Muốn các em vào khuôn khổ, tôi phải tận tâm cố gắng dẫn dắt, ân cần khôn khéo, mới mong thành công.
Vừa tập tễnh vào nghề, thú thật là tôi sợ. Biết có đạt được mục đích, trong cuộc đời gỏ đầu trẻ? Không phải ai cũng cầm chắc, chìa khóa mở đường thành công cho thế hệ con em mai sau. Bằng từ ngữ, kiến thức hạn hẹp và tri thức khiên tốn, rồi tự hào chỉ riêng mình ta có khả năng ưu tú, coi thường người khác. Nguy to!
Tôi nhìn ngắm những khuôn mặt trẻ thơ, là khuôn mặt của chính mình. Nỗi xao xuyến ngất ngây. Đó là bản nhạc thơ ru đưa tâm hồn. Như dòng nước thượng nguồn, bồi hồi tràn ngập tâm tư sạch trong như sương sa đầu núi, giao động bùi ngùi niềm thương tiếc, lắng sâu trong tim.
Chạm trán với thực tế, trong biểu tượng tàn khốc, từ tháng năm cũ, quắc quay tiếc nhớ buổi thiếu thời vụt xa bay, làm thức dậy trong lòng tôi cảm xúc về tình bạn sâu sắc và cao thượng, tâm hồn sạch trong như suối nguồn, đã mất hẳn.
Mất thật rồi. Ôi! Tuổi học trò. Phải. Tuổi học trò xanh ngắt, đã vụt bay xa trong tầm tay. Nay đứng trước các em, bỗng dưng tôi thấy mình trở về, sống lại với tuổi thơ xanh ngát, mãnh liệt, đầy sức hấp dẫn dường bao, trên cánh đồng mùa xuân xanh tươi.
Qua bao năm sống bên chồng, ngày nào cũng ở nhà cơm nước ăn rồi ngủ, từng ấy công việc đều đặn diễn ra buồn bã. Bây giờ chính thức bước vào giới mô phạm, lòng tôi rộn ràng niềm vui, như có dòng máu mới lọc qua tim, tản mạn trong cơ thể.
“Cô mèo” hé mắt nhìn ra ánh sáng cuộc đời, cọ bộ lông mịn màng vào chân ghế, vui sướng lấy đó làm niềm vui. Tôi hẹn lòng quyết thực hiện nghĩa vụ giáo dục cao cả trước lớp trẻ, tận tâm, cố gắng đến mức cần thiết.
Có điều quan trọng, là nhập học suốt ba tháng qua, vì lẽ không có thầy cô giáo đầy đủ, các em ngày học ngày nghỉ. Bài học giảm sút, chậm hơn trong chương trình của Bộ Giáo Dục đề ra. Làm thế nào đây, thiếu giáo viên trầm trọng? Cô thầy đều dạy hai thì, sáng dạy một lớp. Chiều, bận túi bụi lại dạy thêm một lớp khác, mà tiền lương không tăng. Sách vở do Bộ rót về quá ít, việc dạy dỗ càng khó khăn. Chẳng ưu tiên cho trường ở nhà quê xa xôi tí nào!
Học sinh nông thôn hiền hoà, chất phác, vô tư hồn nhiên đến độ trong sáng, thật thà ngoan hiền hết sức. Có cô giáo mới, các em sung sướng tự hào biết bao! Được nghe, nhìn, ngắm thầy cô mình, khi các lớp kia chưa có, được tiếp thu những điều bổ ích, mà các em hằng mong đợi. Khiến học sinh vui vẻ, sung sướng qua ánh mắt long lanh, nụ cười rạng rỡ. Chúng qúy thầy cô vô ngần. Thầy trò hứng khởi, thoải mái.
Mỗi ngày, đội trực lớp đem vài ba cánh hoa tươi cắm trên bàn phủ khăn màu. Trên bàn khi hoa hồng, hoa lys, hoa trang, hoa forget me not, cúc trắng, cúc vàng, hoa huệ, hoa mai, thược dược, cẩm chướng, với cành thùy liễu, măng tây ẻo lả. Các em đi học sớm, phân chia nhau ra quét dọn lớp sạch sẽ, lo kê bàn ghế ngay ngắn.
Nhưng cái chính, không phải các em đã cho cô giáo cành hoa tươi thắm trước mặt, tỏa mùi thơm dịu dàng kia. Mà chính là các em đã mang đến tôi hương vị nồng nàn, ngây ngất, đắm say, xôn xao nỗi nhớ thương, dấu yêu một thời trẻ dại, trong trái tim bừng nhớ, gieo vào lòng tôi ý niệm về thời vang bóng hoa mộng cũ, như rực sáng.
Bất giác tôi mỉm cười, đưa cánh nhung hồng lên môi hôn. Học trò nhìn nhau ngạc nhiên, ngỡ ngàng giây lát, rồi e thẹn gục đầu lên bàn, cười khúc khích. Không hiểu tại sao cô yêu thích hoa đến thế? Một tình yêu mà, các em không sao thấu hiểu.

_ * _

Kính mời quý độc giả xem tiếp chương 8
Trân trọng,
Ái Ưu Du
Ái Ưu Du
#131 Posted : Thursday, August 30, 2007 11:44:43 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

CON ĐƯỜNG CẢO THƠM

Chương 8

NHÀ






Nắng mới ươm hồng hửng lên, làm vàng hanh những ruộng dâu. Vài luống hoa hồng chúm chím, mượt mà. Bao cành hoa anh đào rung rinh hé nở. Tiếng đàn chim thức giấc đầu tiên, hót líu lo, ríu rít, rộn ràng dưới các mái nhà, nhảy nhót trên nhánh thông già, đan quyện vào nhau, tạo thành bản nhạc vui tươi, lảnh lót. Dãy đồi thông Thông Thiên Học chạy dài trên đồi thông nhấp nhô, như sóng gợn, nằm cạnh Ký túc xá nữ sinh viên, đường Trương Vĩnh Ký thật hữu tình.
Đứng trên đồi nhìn xuống đại lộ Duy Tân, muôn ngàn dáng xuân lượn bước trong lòng phố thị. Tâm tư Thứ tràn ngập niềm hy vọng và hạnh phúc. Ở một mình trong thành phố, ngày ngày đi làm việc. Thật buồn. Thật nhớ. Thật cô đơn. Văng vắng. Buồn buồn. Nhơ nhớ. Thương thương. Vợ anh bồng con, quyết định đi xa. Không làm sao ngăn cản, anh khóc nhiều.
Hết giờ làm việc, anh lang thang đây đó, ban đầu anh cảm thấy đôi chút tự do, như người đàn ông hào hoa, độc thân vui tính. Mặc dù ngay sau đó, anh thấy hậm hực, bức rứt, buồn phiền. Không hiểu giờ nầy vợ, con, đang làm gì? Con trai đầu lòng thân yêu, quá đỗi bụ bẫm, xinh xắn, có ngủ yên, hay khóc nhè trong vòng tay của mẹ nó?
Mỗi đêm, anh vẫn ngồi tại café Tùng tối mờ, trước ly café đắng, đen như cuộc đời, gói thuốc lá mang tính độc hại. Kệ! Anh cứ hút liên miên. Chết bỏ. Mặc. Anh cứ tha hồ, tự do hút thuốc. Không còn ai bên cạnh khịt mũi, nhăn mặt khó chịu, vì mùi thuốc có oxid cacbon làm anh nhức đầu, rối loạn thần kinh.
Cuộc đời buồn nhiều hơn vui, tràn đầy đau khổ, biến anh thành thứ hoá chất, độc hơn thuốc lào, thuốc rê, thuốc ruby, cào rửa trong tim, trong phổi anh, hết mọi niềm tin yêu. Có vợ con ở nhà, anh không hút thuốc, vẫn rối loạn thần kinh, mù tít cung trăng, bất lực nhìn vợ con ra đi, như gã bạc nhược, buông thả theo bản năng “mụ vợ” gàng bướng đó sao?
Anh đau khổ nhiều, vì cuộc chiến đấu nội tâm ray rứt khôn nguôi. Chúng vào tận đáy niềm tin yêu, tấn công anh liên miên. Anh nhìn ra lòng phố thị giá băng. Vài chiếc xe vụt qua, tiếng động cơ ồn ào, bụi bặm xăng dầu lan tỏa. Bộ hành lác đác đi lại trên hè. Họ hối hả đi đâu? Vui cười hay phiền muộn? Họ vào tiệm ăn với gia đình? Hay về dưới mái nhà êm ấm? Họ có yêu đời, hay tư lự như anh?
Không. Thứ cương quyết đấu tranh. Phải làm cái gì hữu ích, hơn bó gối trước ly càfé và gạt thuốc đầy tàn, cúi đầu chịu gia đình anh uốn cong đi, vì bước ngoặt lao đao giữa cuộc đời, lúc vợ dại con thơ, cần bàn tay chăm sóc người chồng, người cha. Anh phải gần ở bên, chia sẻ chuyện vui buồn, thương yêu trong cuộc sống đùn lên, do những đau khổ, mỏi mệt chất chồng đem lại.
Vợ chồng phải đính liền nhau trong hôn nhân, tình yêu, và con, như sợi xích thiêng liêng, ràng buộc chặt chẽ, đúng khớp. Không có gì chia xa được. Dù xa dưới hình thức nào cũng thế. Không vì kế sinh nhai, mà anh đẩy vợ con càng xa nhà.
Nhà! A phải! Tiếng “Nhà” vừa vang lên, Thứ bàng hoàng giật mình, hân hoan, vui vẻ cường diệu xiết bao! Nhất định chính hai bàn tay trắng nầy, anh sẽ làm được. Anh vội đứng lên tính tiền, hân hoan về chỗ trọ ngủ sớm. Hai ngày sau, anh đến bạn bè, hàn huyên dò hỏi. May mắn thay! Anh gặp cụ Khải, là hội trưởng Thông Thiên Học. Cụ cấp cho anh một lô đất làm nhà. Anh gọi hai chân hụi, mười hai người, (cả cái và con). Mỗi chân năm ngàn. Có tiền, anh lo đi mua vật liệu chở về, thuê người làm nhà. Ngày dựng nhà, anh nhờ Hiệp, Ngọc, Viên, phụ giúp một tay. Trong vòng ba bốn ngày, kể như khung sườn nhà hoàn tất. Các bạn chí tình, thật tốt, giúp đỡ lúc anh gặp nhiều thứ khó khăn. Đúng nghĩa là bạn hiền.
Thứ vui mừng kinh khủng. Nhà gỗ lợp tôn, xinh ơi là xinh, đầy đủ tiện nghi cần thiết. Thứ ngẩn ngơ vui mừng tự hỏi: “Không hiểu sao mình giỏi vậy? Nhà không dư tiền, của cải dấu cất cũng không. Thế mà ta sẽ cho vợ con, nguồn hạnh phúc vô biên: Cho gia đình mình mái nhà ấm áp, chui ra chui vào, dù bé nhỏ, đơn sơ nhưng thân thiết, vô vàn ấm cúng”. Anh biết “Mến tôi” sẽ rất vui mừng.
Chiều thứ bảy, ra bến xe, (từ Tùng Nghĩa lên Đà Lạt) thật sớm, anh đứng lên ngồi xuống, mong ngóng đón hai mẹ con tôi. Trong lòng khấp khởi, mừng vui tột cùng. Anh cố dấu hạnh phúc, dẫu vậy anh vui vẻ khác thường, khiến tôi nhìn anh, ngạc nhiên hỏi:
- Hôm nay, sao anh vui quá?
Thứ bế con vào lòng, hôn lên trán bé thật kêu:
- Không có mẹ con em, anh dọn đi... ở nhờ chỗ khác rồi.
- Điên quá vậy anh? Thuê nhà anh chị Kỳ, tiện cho mình, gần chợ, gần bến xe, nhà thờ. Anh dọn đi ở nhờ, khi cần nhà, người ta đuổi đi, mình không kịp dọn ra. Anh à.
Anh cười cười, im lặng, nhìn tôi đá lông nheo mấy cái. Khiến tôi cảm thấy bực mình, hờn dỗi, xách giỏ theo anh lên xe lam, về chỗ mới.
Tôi bị cúm mấy hôm nay, mặt cứ xù ra như chú nhím. Thứ thấy thương vợ nồng thắm hơn. Trước căn nhà màu trắng, xinh xinh, có cửa gỗ sơn màu xanh, Thứ móc túi quần lấy chìa khoá, cho vào ổ, mở cửa ra, nhường vợ bước vào trước.
Tôi nhìn quanh: Phòng khách rộng kê bộ sofa, góc phòng là tủ trà, tủ sách, bàn làm việc, có bốn ghế dựa, radio ở đầu ngăn vách. Tường treo hai chùm đèn mờ ấm áp, tỏa ánh sáng dìu dịu. Ngăn đôi phòng khách và hai phòng ngủ, bởi cánh cửa gỗ, bức vách ván đóng mắc cáo, phủ màn voan màu xanh da trời. Phòng ngủ kê một giường thước tư, phòng kia kê giường thước sáu. Tủ quần áo đặt sát góc. Bàn nhỏ thấp bên đầu giường, nệm, mền, sạch sẽ ngay ngắn. Nôi con cạnh giường lớn. Bàn máy may kê sát cửa sổ, nhìn ra rừng thông. Bếp rộng kê bàn ăn, tủ chén bát, thùng gạo, đồ dùng linh tinh, cạnh lò than, hai lò dầu lửa, để trên bục gỗ thấp. Đó là tất cả vật dụng cũ của gia đình.
Anh tủm tỉm cười, hỏi:
- Em thích căn nhà nầy không?
- Anh nói lạ ghê! Thích cũng thua.
- Mà em có thích không đã?
- Em thích chứ.
- Có người tặng cho em đó.
Tôi ngạc nhiên, nghi ngờ nhìn chồng đăm đăm:
- Ai mà hào phóng, dễ thương vậy anh?
- Anh chứ ai.
Tôi không thể tin, mặt tôi tươi như hoa, khi nghe nguyên nhân "căn nhà của chúng mình". Tôi mừng kinh khủng. Chưa bao giờ tôi mừng vui kỳ diệu đến thế! Một điều ngoài ước mơ và hy vọng, nay đã trở thành sự thật. Bất giác tôi mở rộng vòng tay, ôm bố con vào lòng, hôn tới tấp lên mặt, lên cổ hai người. Say sưa với hạnh phúc bất ngờ, tôi cười như điên, vui vẻ cặp tay chồng đi lên "nhà trên" đi xuống "nhà dưới".
Nhà! Chỉ cần một tiếng đó thôi, đã nói lên muôn vàn đầm ấm, hạnh phúc, hân hoan, cường diệu xiết bao! Mến tôi xin cảm ơn Thứ. Cảm ơn cụ Khải. Cảm ơn bạn hữu thân quen. Cảm ơn tất cả. Tối tối các ca sĩ nổi danh, từ các đài phát thanh, vẳng lên trong radio Philippe bốn băng, đặt ngoài phòng khách.
Cảm ơn đài phát thanh, đã phát chương trình thi ca chọn lọc, gửi theo làn sóng điện, từng hơi thở ngọt ngào thân thương, họ không quên con người ở nơi xứ lạnh hoa anh đào, không quên "gia đình nhỏ", lắng nghe chương trình thoải mái, êm dịu. Xin gửi đến qúy vị lòng biết ơn chân thành, sâu xa nhất của ba người, trong muôn người sống nơi xứ... “Bài thơ hoa Đào” nầy.


_ * _

Kính mời quý độc giả xem tiếp chương 9
Trân trọng,
Ái Ưu Du

Ái Ưu Du
#132 Posted : Saturday, September 1, 2007 11:51:50 PM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

Con Đường Cảo Thơm

Chương 9


THÂN TÌNH





Nhân nghỉ lễ Noel và Tết Dương Lịch, Thứ làm mấy bữa cơm thân mật, trước cảm ơn bạn bè, nồng nhiệt giúp đỡ anh, làm nên mái nhà. Sau là âm thầm "khánh thành căn nhà đầu tiên của chúng mình". Anh không hé môi nói với ai, chúng tôi đã thọ ơn qúy-nhân rất nhiều, nên không muốn làm phiền họ hơn.
Trong xóm có năm gia đình, cất nhà chông chênh lên mặt đất đầy lá thông khô mượt mà, làm nên bộ mặt thân quen, kết tình thân ái xóm giềng. Hai gia đình cuối gó là Hiệp, Ngọc. Mỗi nhà họ có con cái lít chít, lút chút, nheo nhóc, những bảy tám đứa... Ơi là con! Sự hiện diện trẻ con chỉ với hai nhà nầy thôi, là trong xóm đầy tiếng la khóc, nói cười ồn ào. Kế bên là nhà Viên, anh công chức trẻ, độc thân, anh trầm lặng, siêng năng. Tiếp đó là vợ chồng Qúy mới cưới chừng năm bảy tháng. Và cuối cùng là căn nhà của chúng tôi.
Tôi mời thêm các bạn Thu Cúc, Thúy, Nhung, Hồng. Phía trước triền đồi nhà tôi, là nhà Mai, bạn thân. Mỗi lần bế con xuống chơi nhà bạn, hai chúng tôi tỉ tê chuyện trò, tâm sự suốt buổi.
Tôi được Ty Giáo Dục chính thức nhận vào ngành sư phạm. Tôi đi làm việc đúng ba tháng thì bị cảm, nên xin anh hiệu trưởng Long cho tôi về nghỉ tạm ở nhà. Mấy hôm nay Thứ cũng chẳng chịu đi làm, suốt ngày anh quanh quẩn bên vợ con. Tôi bị cúm khá nặng, dây dưa hơn tuần chưa dứt. Anh không cho vợ nhúng tay vào nước. Sáng sáng anh giặt tả lót, phơi đồ trên hàng dây thép, kẹp gài cẩn thận. Ở nhà tôi đặt nồi cơm, nấu ấm nước pha trà, nấu nước sôi đổ bình thủy, và quét dọn nhà cửa. Thứ ra chợ mua thức ăn trong giây lát, rồi anh trở về nhà làm cơm.
Phải nói là anh thay đổi cách nhìn, cũng như hành động, khác hẳn ngày trước chưa có con thơ. Anh thương vợ con nồng thắm. Tôi phân vân tự hỏi: Đâu là hạnh phúc ngọt ngào? Đâu là cay đắng muộn phiền? Đâu là hương hoa tuyệt vời của tình yêu gia đình đích thực? Có phải... xa nhau thì thương, gần nhau thì thường, vì khắt khẩu? vì thói quen trái ngược? Chưa thấu hiểu nhau?
Vài lần trong tuần, hai vợ chồng khoá cửa, bế con đi tà tà xuống phố ăn xôi gà, hay ăn hoành thánh mì, gần khách sạn Thủy Tiên, hoặc ăn phở ở Ngọc Lan.
Phố thật gần, đi bộ năm phút là đến. Ăn uống xong, anh bế con vào rạp Hòa Bình, hay rạp Ngọc Lan xem ciné. Chín giờ tối, chúng tôi muốn đi ciné, vẫn bế con nhỏ đi được. Miễn là mẹ con tôi có đủ áo ấm, khỏi bị sương giá.
Nghỉ việc hơn hai tháng. Thứ không muốn vợ đi làm xa. Vã lại tôi đang đau rề rề, Thứ xúi vợ bỏ việc. Tôi yêu thích căn nhà quá! Nó dễ thương bé nhỏ xinh xinh thôi. Tôi toại nguyện không đòi hỏi gì hơn. Tôi nhẹ dạ xiêu lòng, ở nhà không phép tắc, đơn từ gì cả.
Hai tuần bình thản trôi qua. Bỗng tôi nhận thư hiệu trưởng báo:
- “… Mong cô giáo hãy suy nghĩ kỹ, chị không nên bỏ việc, uổng lắm. Học sinh rất cần chị. Chị Thuỳ Mến nhe”.
Suy nghĩ rất nhiều. Cuối cùng tôi bàn với chồng nên đi làm. Đó là cả một quá trình đấu tranh không khoang nhượng. Tôi đã từng đau khổ vì vấn đề cơm áo lúc vừa cưới nhau, sự túng quẫn, là bài học thiết thực nhất.
Chả nhẽ ăn rồi, tôi cứ an nhàn thong dong đi lui lại ung dung đi tới, chờ chồng về, rồi ngửa tay vòi vĩnh cái nầy cái nọ!? Thậm chí từ củ tỏi hạt tiêu, cần chi ly? Với hai bàn tay nầy, trí óc không đến nỗi tồi, tôi sẽ tạo cho cuộc sống gia đình, góp phần khả quan hơn.
Phong cách hiệu trưởng như anh Long thật qúy, hiếm có. Anh Long rất tốt, tận tình, thông cảm và giúp đỡ đồng nghiệp hết mình. Tôi tự ý nghỉ không phép tắc đơn từ, không giấy tờ chứng minh hợp lệ.
Ấy vậy mà anh Long không báo trình lên Ty. Dù tôi vắng mặt ở trường khá lâu. Ngày ngày anh Long vào dạy thế lớp cho tôi, và che chở, giúp cho bạn có con đường cảo thơm trở lại.
Tôi rất cám ơn ông Nguyễn văn Long hiệu trưởng ở trường Phú Hội, năm 1964 rất nhiều.

_ * _


Kính mời quý độc giả xem tiếp chương 10
Trân trọng,
Ái Ưu Du
Ái Ưu Du
#133 Posted : Tuesday, September 4, 2007 2:39:55 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

Chương 10

CON ĐƯỜNG CẢO THƠM




Trầy trật mãi trong mớ bòng bong hỗn tạp đầy chữ a, b, c, d, e, g... Ghép các mẫu tự đó thành bài văn xuôi, đọc lên nghe mạch lạc, hay hay, ý tưởng ngộ nghĩnh trong sáng dễ thương quá chừng.
Các con số 1, 2, 3, 4, 5... cộng, trừ, nhân, chia, phân số, thành bài toán giải lý thú. Đầu óc các em muốn phình ra, vì nhiều dữ kiện. Các em tập trung làm việc cao độ bằng trí óc non nớt, còn ham rong chơi. Thu Cúc bắt các em làm việc, bằng trí óc lẫn chân tay, vượt qua thử thách phải vươn lên ở hiện tại. Các em cần vượt qua quá trình dài lâu, với sự cộng hưởng, cố gắng.
Bổn phận giáo viên Tiểu học rất ư phức tạp, khĩ khăn nặng nề, gồm đầy trọng trách. Bởi ở lớp dưới, thầy cô phải dạy tất cả bộ môn hỗn tạp, dù họ không "chuyên khoa". Soạn bài cẩn thận, giảng đi giảng lại. Môn nầy xoáy vào môn kia, như vòng xoắn, như sợi xích. Thay vì chỉ thuần túy giảng bộ môn có chủ đề, chuyên trách riêng.
Các em là mầm non, phải kiên nhẫn uốn nắn từ từ, từng li từng tí. Các em là rường cột nước nhà sau nầy, có tài ba xuất chúng chăng, một phần nhờ thầy cô giáo tận tâm uốn nắn, gọt giũa từ trong trái tim đơn sơ, non nớt co thắt đó. Đòi hỏi gương nhẫn nhục, sức cần lao của họ vắt cạn kiệt, từ hai buồng phổi khô khan, trong huyết quản mệt mỏi vơi dần từng bước khởi đầu.
Lẽ ra, chính phủ ưu ái quan tâm hơn, tạo mọi thuận tiện và ưu tiên nơi bậc Tiểu học, nâng đỡ giáo chức, so với đồng lương hạn hẹp, trong thời buổi gạo châu củi quế mới phải. Có nhiều việc thoạt mới nhìn qua, tưởng tầm thường. Khi suy nghĩ kỹ, thật không đơn giản chút nào.
Sau mấy tuần đứng lớp, đôi mắt "tinh tường" của cô nhận ra em nào học giỏi, thông minh, ngoan hiền, chăm chỉ, khôn vặt, lười nhác cẩu thả ngay. Mới thoáng nhìn, cô không đoán tập thể tí hon nầy, thuộc thành phần con nhà khá giả, trung lưu, bình dân, hay cần lao, vì các em mặc đồng phục.
Giờ vệ sinh, Thu Cúc gọi từng bàn, từng em lên khám móng tay móng chân. Kiểm soát áo quần tập sách sạch sẽ. Các em sợ và xấu hổ, khi thấy cô lấy kéo bấm móng tay, cắt tỉa tóc mình trước mặt bạn. Lớp học im phăng phắt, chỉ nghe tiếng cô gợi chuyện hỏi đùa An:
- Em con của bác nào?
- Dạ, con của ba má.
An nghịch ngầm và lém lỉnh. Em đứng trước mặt cô, xòe hai bàn tay đầy đất nhét trong móng vàng ra cho cô giáo cắt. Em ngồi trên bục gỗ. Cúc phì cười:
- Phải. Nhưng ba má em tên gì?
- Thưa cô, ba em tên ba, má em tên má.
Cả lớp cùng cười vang.
- À, ờ... Thế em tên gì?
- Dạ, em tên thằng Dái Mít.
- Ồ... Sao lại có tên kỳ cục vậy?
- Tại em trèo cây hái dái mít ăn, em bị té chảy máu. Ở xóm, họ kêu em là Dái Mít luôn.
Dù bên thái dương của An có đường sẹo nhỏ, chạy lên đuôi mắt, thế mà vẫn hài hòa với khuôn mặt trắng hồng, mắt sáng, miệng tươi như hoa, tay chân mủm mỉm. Thu Cúc cười:
- Lớn rồi. Em không nghịch ngợm nữa. Nghe!? Không làm phiền ai hết.
- Dạ, thưa cô nhớ.
Vịnh từ bàn cuối, xuýt xoa, cà nhắc, đi lên bằng chân trái như người có tật. Sau đó không hiểu sao, khập khiễng đi bằng chân phải. Cúc nhìn Vịnh:
- Chân của em làm sao vậy?
- Thưa cô, giờ sinh hoạt cộng đồng, em bị trò Thân ném cán cuốc trúng. Em què chân.
- Phải không Thân?
- Thưa cô, trò Vịnh nói láo. Hôm qua, em ở nhà, em phụ ba tưới vườn mà cô.
Đôi mắt xếch Vịnh nhìn chằm chằm vào bạn. Chú bé tinh nghịch không kém Phổ và Hân. Hai đứa gây lộn đã "nghỉ chơi mí nhau" Vịnh bực tức, đổ thừa cho bạn, nói dối quên trước quên sau ngon lành, không biết mắc cỡ xấu hổ. Mặt em thộn ra, lì ra như hình nộm. Không biết nó tiêm nhiễm tánh ngổ ngáo ấy bằng con đường nào tài ghê.
Thấy cô quắt mắt nhìn, chú bé gục mặt, từ từ thụt lùi ngồi xuống nền nhà. Vịnh vụng về co quặp đôi chân, dấu về phía sau mông, như hối lỗi. Khi khá mỏi chú bé nhẹ quay qua, quay lại, rồi co dúm cả người. Nhưng em không dám duỗi chân ra. Em sợ cô thấy hai bàn chân lấm bùn đen lên quá mắt cá.
Đôi mắt sắc, chăm chú làm bài, trừ khi im lặng suy nghĩ, ngón tay giữa của Thanh Mỹ đầy vết mực tím, đọng khô, dù em đã cọ rửa sạch sẽ, trước khi đến trường. Dẫu vậy bàn tay vẫn mềm mại và thanh cảnh, như khi cô thấy em sử dụng nó, vào công việc nữ công hoặc tập vẽ. Thanh Mỹ và Tuyết Nga, là hai em học sinh xuất sắc nhất lớp. Tiếp theo là Cẩm Lan, Mộng Thúy, Ánh, Hồng, Sơn, Tùng, Liêm, Điềm, Bé, Ngọc... Đa số nữ sinh học giỏi, vì chúng chuyên cần, chăm chỉ, không ham chơi, cẩu thả, như bạn trai. Các em cố gắng, ganh đua từng điểm.
Thu Cúc hài lòng thấy học sinh tiếp nhận sự học nhanh chóng, gom từng góc cạnh cần thiết. Cô hướng dẫn các em trực tiếp vào việc học chuyên môn hoá, ngay từ khi còn học ở bậc tiểu học. Cô tạo môi trường, để các em có đủ điều kiện, thi thố năng khiếu đặc biệt. Học sinh giỏi tự vươn lên. Học sinh yếu, cô sẽ kèm sát nút. Nếu không sàng lọc, các em yếu sẽ rơi vào cái dần, và lọt xuống dưới. Cô rèn luyện các em có sức mạnh tự tin vào khả năng, ham thích lớp học, hoà đồng với bạn bè. Có niềm vui tươi lành mạnh, an tựa thoải mái, các em sẽ không rụt rè mặc cảm, đố kỵ và ganh ghét nhau. Các em chừa bỏ thói tật hư. Giờ chơi không quan trọng bằng giờ học bài, làm bài và sinh hoạt cộng đồng. Do vậy các em càng yêu thích trường, lớp, dường bao!
Trong lớp, có hai trường hợp cá biệt: Học sinh xuất sắc. Học sinh lười dốt. Trường hợp thứ nhất, thì thầy cô hoan hỉ vui mừng, hãnh diện. Trường hợp sau, thầy cô muôn vàn khổ tâm, mệt nhọc, buồn bực. Thân ở trường hợp thứ hai. Mỗi khi vào lớp, cô đặc biệt nhìn em. Mà, các em lười biếng thường hay phá phách và lì lợm. Thấy cô giáo nhìn, Thân chấm mạnh cây bút vào lọ, cúi đầu trên bàn, viết lên trang giấy hàng chữ, em cố moi từ trong óc ra. Ban đầu chữ còn ngay ngắn, nhưng càng viết, tiếng ngòi bút cào trên giấy kêu rọt rẹt, thì dòng chữ em bắt đầu xiêu vẹo. Cuối cùng, như bầy giun bò tứ lung tung.
Giống như một người ốm yếu, mỏi mệt, lê bước đi trên đoạn đường gập ghềnh, sắp ngả chúi về phía trước. Mặt Thân cúi sát xuống bàn. Sau đó hai vai xuôi theo đôi tay buông thỏng, trong chiếc áo cũ dính đầy mực, rộng thùng thình, em cài lộn khuy trên xuống khuy dưới. Quần tây rộng lưng em buộc túm mấy sợi thun rịt chặt vào bụng, vài miếng vá đắp kém mỹ thuật, lai quần của em xăn lên hai ba lớp, trên mắt cá chân đen đen. Bàn chân em không giày dép lấm lem bùn đất, đặt trên nền xi măng lạnh ngắt, khiến lòng cô chùng xuống, dịu cơn bực tức, vì thương cảm.
Lẽ ra, Thu Cúc tức giận sự lười nhác, luộm thuộm đó, nhưng cô ngậm ngùi, bừng dậy trong tâm tư cô, niềm đớn đau thầm lặng. Phải. Chính đôi chân không của em đặt trên nền nhà, cùng bộ áo quần có lẽ mặc ké của anh chị, môi chú bé tím lại vì giá rét. Hình ảnh đó gợi cô nhớ lại thời ấu thơ mình quá đỗi là xa.
Đôi môi Thân cong cong như đang cười, mặc dù nó không dám cười. Trời ban cho Thân có khuôn mặt thật dễ thương, đôi mắt đen láy, long lanh dưới rèm mi dày, dài và cong. Mũi cao, một nốt ruồi bên gò má trắng mịn. Dù chú bé vui, buồn, hờn giận, lo sợ, dấu mặt vào tay áo, vẫn không thể mất đi cái nốt ruồi, to bằng hạt tiêu, trên khuôn mặt trẻ thơ đó, và nốt ruồi vẫn vô cùng ngây ngô, vô tư lự.
Phố là học trò lười biếng và tinh nghịch nhất lớp. Nghe cô bảo giở tập ra làm văn, em ngẩng nhìn cô không sợ hãi, đôi mắt tròn xoe, như hai hạt nhãn, thoáng chút thông minh. Chính cái nhìn em thẳng thắng, làm khuôn mặt bé ngời lên. Phố kéo quyển tập bẩn thỉu nhàu nát, từ cặp cói sờn rách, ở dưới hộc bàn lên, em dùng hai ngón tay lem luốt, thấm nước bọt, hững hờ lật vài trang tập quăn tít ở đầu góc, lì lợm, pha chút đùa nghịch. Thấy cô quắt mắt nhìn, đôi mắt cô ánh lên nét khác thường. Em lúng túng giây lát, rồi cũng biết sợ, em cụp mắt xuống.
Thu Cúc hướng dẫn học sinh cách mở tập, sách. Cô bắt từng em ra cạnh giếng, quay nước lên và rửa ráy, kỳ cọ chân tay sạch sẽ. Cô yêu cầu ngày mai, các em đi học phải sạch sẽ, không có tình trạng bẩn thỉu như hiện nay nha. Những đứa bé chưa được hướng dẫn chu đáo, từ trong gia đình, học đường, xóm giềng thân cận, là phần tử chưa biết phân biệt tốt xấu. Cô cần tinh tế, kiên trì uốn nắn, tận tình chỉ dạy từng ly từng tí, mới mong thành công.
Cô muốn nhìn thấu suốt, qua đằng sau năm mươi đôi mắt, trong sáng long lanh và xinh đẹp. Có lẽ sau nhiều đôi mắt hạ thấp rèm mi suy nghĩ, đang tiềm ẩn dáng xuân anh tài, đầy hứa hẹn kia ở thế hệ tương lai, rất đáng qúy trọng.
Không săn sóc đến móng tay móng chân của Vịnh, mà chuyển qua giờ tập vẽ, không có nghĩa là cô đã bỏ quên em, vì chút lỗi lầm thơ dại. Dù không nhìn em, không nói cười, nhưng cô ngầm theo dõi từng cử chỉ Vịnh, như không có em hiện diện trong lớp, mà cô vẫn liếc nhanh em qua từng học sinh. Sự im lặng của cô, khiến Vịnh bức rứt và hối lỗi. Em la cà đến bên cô mặt cúi gầm, vụng về xoáy tít ngón tay vào góc tà áo màu nghệ thủng một lỗ, lúng túng lí nhí nói câu gì không rõ. Cô xoa đầu em, nhân đó giảng một bài đạo đức, rất thiết thực.
Trong giờ tập vẽ, học trò thích vẽ tự do, tùy hứng hơn vẽ một loại hình mẫu nào đó. Bởi vì phối cảnh của chúng trong sáng, bẫm sinh, thật thà, chân chất:
- Em Diễm, vẽ con chó, coi gì mà nằm chèo queo, thấy thảm thiệt đa.
- Tại em đi học, nó buồn.
- Thúy, em vẽ con gà, như hòn đất. Ngộ ghê.
Cuối cùng, cô đứng trước tập vẽ "Người Cha" của Thân. Người cha ốm yếu, tóc lơ thơ, quần đùi vá víu, ngồi bó gối, bên cạnh cái tô méo, đôi đũa văng hai nơi, kế giỏ cỏ và cái liềm. Dãy núi nhọn hoắt, mặt trời hình bán nguyệt, và tia nắng vàng chiếu lên cao. Tuy chỉ năm ba nét cứng ngắt, vụng về, đơn sơ ấy, tựu trung em nói lên cái khó nghèo, cay đắng lầm than. Mà, có lẽ, trong cảnh ngộ nào đó, trên muôn vạn ngã đường, có lần cô đã nhìn thấy.
Thân có tài. Chú họa sĩ tí hon nầy, có thể là một danh họa, nếu em có điều kiện tốt, được học lớp năng khiếu đặc biệt. Vào giờ vẽ, đố em nào cạy miệng Thân ra, em chăm chỉ đặt hết niềm vui, vẽ từng nét, gò từng đường, em không đùa nghịch. Vô phúc bạn nào hỏi han gì đó, em đáp cộc lốc, hay không ngần ngại húc mạnh vào ba sườn.
Để ý quan sát Thân, cô thấy đôi mắt chăm chú láy đen, sáng rực niềm vui, đôi môi cong cong như cười, nhưng thật sự nó không cười. Nhìn nốt ruồi đen bằng hạt tiêu nằm bất động bên gò má, hơi ươn ướt, có con ruồi bu lên đó. À thì ra, "chú chàng" cứ vung tay lên đuổi nhưng con ruồi bay đi, lại sà ngay vào chỗ cũ. Thân vẫn thấm nước bọt vào bút màu, mãi mê tô tô, xóa xoá...



_ * _

Kính mời quý độc giả xem tiếp chương 11
Trân trọng,
Ái Ưu Du
Ái Ưu Du
#134 Posted : Thursday, September 6, 2007 1:04:52 PM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

Con Đường Cảo Thơm

Chương 11

TÌNH TRI NGỘ






Khí hậu ở Đà Lạt thật dễ chịu. Không khí thoáng mát, trong lành ấm dịu khôn tả. Tia nắng hoàng hôn nhuộm mặt hồ thành màu vàng óng, sang sáng trăng trắng như tráng bạc. Con đường rất rộng len lỏi qua những đồi thông ngút ngàn, mang dáng dấp sang trọng, thấp thoáng nhiều ngôi biệt thự xinh xắn, muôn vẻ, muôn hình dáng yêu kiều, đứng riêng trong từng thổ cư, có bao chiếc xe nhà bóng loáng, đi về lả lướt, càng tô điểm cho bộ mặt thị thành nên thơ hơn.
Phải! Mọi sự đã khởi sự bắt đầu, cũng như chấm dứt từ đây. Từ thành phố Hoa Đào duyên dáng thơ mộng nầy. Từ con đường mòn uốn khúc dưới rặng thông xanh ngút ngàn, dẫn đến ngôi trường thân quen, suốt năm niên khóa. Phiến trời xanh xanh lộ ra dưới kẽ lá rì rào. Bóng râm trên đỉnh núi dài hẳn ra, báo hiệu một ngày nữa, hoàng hôn sắp lụi tàn. Hoa thấy quắt quay niềm nhớ nhung, dù rằng tôi còn đứng trên con đường thân thuộc, và sẽ do dự bùi ngùi lúc chia xa.
Quá khứ lùi sâu vào dĩ vãng xa xôi, tưởng đã phai mờ hết, âm thanh rền vang khói lửa chiến tranh. Xa hẳn vùng Minh Long, Nghĩa Phú, Mộ Đức, Cộng Hoà. Tưởng đã chấm dứt chiến chinh, như chiếc lá cuối cùng rụng xuống. Tưởng không còn. Tưởng đã hết. Tưởng đã quên. Chẳng thấy và còn nhớ điều gì.
Nào ngờ... Vẫn còn nghe tiếng vọng xa tít cung mây. Tiếng rền rùng rợn rung đều rất nhanh, như cây dùi gõ mạnh trên mặt trống căng cứng.
Chuỗi ngày phiêu lãng xa lắc xa lơ, tràn đầy niềm vui thơ trẻ, trên cánh đồng bát ngát hương hoa, dịu ngọt, nhẹ lâng theo bóng mây. Đôi khi mang ít nhiều sóng gió, ngọn sóng đắng cay cuộc đời. Hầu như tôi từng nếm trải qua rồi, trong chiến tranh. Tôi muốn xóa sạch, bỏ rơi mọi ưu phiền, dù ít ai làm được, nó đã hằn lên, đôi ba vết mờ đường trán suy tư, nơi mắt nhìn tư lự, mái tóc sớm ngả bụi đường, trên vẻ do dự già nua trước tuổi.
Chao! Nếu giờ phút nầy, tôi được tan theo từng mảng sương mù ẩm lạnh, hay bay theo mây trắng, lờ lững trôi qua con đường, qua thành phố xứ Quảng, xứ Đà Nẵng. Lên suối nước đầu ghềnh ở ngàn chốn sơn khê, đèo heo hút gió Minh Long, Nghĩa Phú, tôi sẽ nói:
- Xin chào tất cả. Chào anh.
- Mơ mộng gì, mà thừ người ra thế?
Xuân Quỳnh hỏi, đập tay lên vai bạn. Ly nước vơi quá nửa, cái bánh ngọt lỏng lẻo giữa hai ngón tay Xuân Quỳnh, khi thời gian vụt trôi, sự im lặng trong bàn tiệc chia tay, tưởng là quá lâu. Xuân Quỳnh không biết làm gì, với hai bàn tay mất tự nhiên, trở nên buồn thảm thế nầy. Tôi đã gặp cô bạn đồng hành, qua cái gật đầu của Xuân Quỳnh, tính tình Quỳnh trầm lặng, dễ thương, nghệ sỹ, vui tính, tuy thỉnh thoảng có điên điên đôi chút.
Ừ! Giống hệt cái điên của tôi. Xuân Quỳnh biểu lộ tình cảm, dưới đôi mắt lá răm to tròn tuyệt đẹp (mà các bạn thường đùa là "khung cửa sổ đa tình". Sóng mũi của Quỳnh cao, miệng cười truyền cảm duyên dáng, hàm răng trắng bóng như tráng men. Dù Xuân Quỳnh cười, nhưng đôi mắt ngược lại, nó ánh lên vẻ buồn mơ màng, sâu thẳm nét đa tình. Nàng giản dị, thoải mái, ung dung, hay cười, dù cô rơi vào niềm cay đắng.
Phải chăng đó là sự thể hiện lòng can đảm, kiên cường tiếp nối trong từng nhịp thở của cô, làm tan đi nếp gợn, trong mối thâm giao với bạn bè. Xuân Quỳnh vừa đi dạy trẻ vừa tiếp tục ghi danh trên đại học Văn khoa cùng với tôi, Trầm Mây, Thu Thủy, Hạ, Bé, Oanh. Tương lai chắc chắn nhóm nầy, dù muốn dù không, “sẽ bị” lên dạy trường Trung học thôi.
Cái biệt danh đồng nghiệp đặt cho Huỳnh thị Xuân Quỳnh, “Người đẹp mắt buồn rất bình thản”, được bạn trai tán thành, riêng hai “cô gái già” thì không vừa lòng. Họ làm bộ ư hử trong cổ họng, rồi vội quay đi, bĩu môi, nét mặt tỉnh queo. Dù lúc đó Quỳnh vui, buồn, đi chăng nữa. Cô biết cuộc sống khá tản nhẫn, nếu chỉ có dũng khí không thôi, chưa chắc gánh nỗi mọi đắng cay, cơ cực cuộc đời mà.
Thế nên Quỳnh ung dung, không muốn nói là bình thản trước mọi biến cố chung quanh, và chính mình. Cô biết, nếu đối lập với quan điểm, hay có ý kiến, ý cò, với người khác, thì bị xem là khuynh tả. Không có ý kiến, cũng bị coi là khuynh hữu. Thôi mặc sự đời, cô sống cho chính mình, với nhu cầu nội tại, sức mạnh nội tại, và, vẻ đẹp nội tại, là đủ.
Song ở đời, ai cũng có nhân sinh quan riêng. Mỗi buổi sáng thức dậy, Quỳnh đọc một đoạn kinh thánh, buổi tối trước khi lên giường, Quỳnh đọc một đoạn kinh thánh. Thế là nụ cười hồn nhiên tươi nở trên môi, thoáng hiện nét an bình, qua đôi mắt đẹp ngẩng nhìn, rồi vùi sâu trong giấc mộng.
Tình thân ái giữa bạn bè thân hữu, phụ huynh, học sinh, theo thời gian tăng trưởng vui vẻ. Thật đáng sống. Các bạn thương Quỳnh, một phần dựa trên tính tình hòa nhã, đằm thắm, duyên dáng, phần khác Quỳnh tiềm ẩn, súc tích, giàu chất thơ, nên cô khá lôi cuốn họ. Mặc dù họ có cuộc sống khác cô, tuy thế, không có gì trở ngại trong tình bạn đầy thông cảm và thấu hiểu.
Con đường dốc bên cạnh rừng, đầy lá thông khô, được sương chiều đã rửa sạch trơn, nó trơn, láng mướt, ve vuốt đôi chân êm ái, mát lạnh khi mình dẫm lên. Khiến Quỳnh muốn ngã lưng nằm trên thảm nhung nâu nâu, mượt mà, mơ màng nhìn lên trời cao, xao xuyến nghĩ về…
Mặc dù các cô giáo ở cạnh nhà nhau, nhưng dạy khác buổi, nên cô nầy đi dạy, thì cô khác ở nhà, kể như ít gặp mặt nhau, để tỉ tê chuyện trò.
Tôi dạy buổi sáng. Quỳnh dạy buổi chiều. Hai cô giáo chung một phòng học, cùng xử dụng chung bàn, ghế, tủ. Nhưng mỗi lớp sáng và lớp chiều trang trí một bên tường khác nhau, treo thời khóa biểu, tranh ảnh riêng. Chúng tôi có hai chìa khóa lớp, và chìa khóa tủ riêng, để đựng dụng cụ thính thị chung.

_ * _

Kính mời quý độc giả xem tiếp chương 12
Trân trọng,
Ái Ưu Du
Ái Ưu Du
#135 Posted : Saturday, September 8, 2007 2:14:04 PM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

Con Đường Cảo Thơm

Chương 12

PHÒNG HỌC VỤ





Trời thoáng lạnh, cái lạnh ngây ngất, mát rượi thanh thoáng dễ thương làm sao trên thành phố hoa Đào. Những bông hoa tươi thắm đầu xuân đua nở, làm đẹp mắt trong phòng khách, nói lên niềm hạnh phúc bé nhỏ, đơn sơ, trong căn nhà ấm áp của cô nhiều hơn lời.
Trầm Mây đang dạy ở Đơn Dương, nhưng vì văn phòng Ty Giáo Dục thiếu nhân viên điều hành, nên ông Ty Trưởng điều Mây về làm Trưởng phòng, đã lâu. Ấy là nhờ đứng trước tấm lịng ưu ái, cao cả của những bậc trưởng thượng kính mến. Biết nói thế nào, để trả đền nỗi xúc động sâu xa, tràn ngập đối với những người, mà, hầu hết giáo chức ân cần gọi các ông bằng Bố.
Cùng Ban có hai cô tên Quế và Đức. Hồng Đức thích hát bài “Nghìn Trùng Xa Cách”, và cô ngâm bài thơ “Áo Lụa Hà Đông” của thi sĩ Nguyên Sa, nghe não nùng cỡ Hồ Điệp. Hồng Đức hát hay và vui tính. Nếu không vì đôi mắt hơi thiếu thẩm mỹ, thì Đức là cô gái nết na xinh đẹp vẹn toàn.
Dù đã có phụ tá giúp, Mây vẫn bận rộn túi bụi. Chẳng mấy khi rãnh rang đầu óc, tay Mây không ngừng gỏ lên máy chữ. Mây soạn thảo các văn kiện, các phúc trình, làm biên bản học vụ kiêm thư ký các buổi Hội Thuyết Giáo Khoa toàn Tỉnh. Nhiệm vụ chính của cô là phải nuốt hết sĩ số trường, số lớp, địa hình các trường ốc. Thuộc danh sách tất cả thầy cô giáo trong Tỉnh hạt, ai dạy buổi sáng, ai dạy buổi chiều, ai dạy kiêm cả hai thì. Trong Tỉnh có mấy lớp học buổi sáng, mấy lớp học buổi chiều? Do ai làm Hiệu trưởng, coi bao nhiêu giáo viên, học sinh? Bao nhiêu trường hư hại? Bao nhiêu trường an toàn? Mỗi trường cần bao nhiêu dụng cụ thính thị. Cần bổ sung bao nhiêu sách giáo khoa cho mỗi niên khóa? Phải nắm vững số liệu, để phúc trình. Có lẽ quý bố Trưởng Ty, bố Thanh Tra, muốn dìm chết cô thư ký hành chánh học vụ, dưới từng đống hồ sơ cao ngập quá đầu, cho Mây không mở mắt được chăng!
Mây vui với công việc, tiếp xúc nhiều người lịch sự, tao nhã, trí thức, tế nhị. Họ dí dỏm nói nhiều câu chuyện lý thú, bông đùa ý nhị duyên dáng, không thô lỗ. Mặc dù trong văn phòng Mây phải đi làm việc ngày hai buổi theo giờ hành chánh. Cô không được nghỉ lễ, nghỉ hè, như tất cả giáo viên dạy lớp.
Bận bịu rộn ràng vui vẻ ồn ào nhất là vào những ngày cuối tháng, Ty luôn tổ chức Hội Thuyết Giáo Khoa nguyên một ngày, ở một ngôi trường nào đó trong Thị Xã được ấn định. Trước là toàn thể giáo chức tham dự buổi họp, phổ biến tin tức, liên quan đến vấn đề giáo dục, học đường. Tất cả giáo chức phải ngồi nguyên ngày xem giáo viên dạy mẫu, hầu chia sẻ học hỏi chuyên môn, tăng tiến giáo trình. Trao đổi với nhau những ưu khuyết điểm của việc dạy mẫu vừa qua, rút kinh nghiệm nghề nghiệp. Trau dồi kiến thức.
Sau nữa là cho anh chị em lãnh lương, họp bạn, văn nghệ văn gừng cây nhà lá vườn. Trội nhất cò bạn giáo viên Lộc, (Sau nầy Lộc lấy tên là Phương) một cây guitar vui tính, một ca nhạc sĩ chớm lên. Lộc bị đau xương ở ngón tay trỏ bị nhô lên một cục u, bạn hay đùa:
- Bác sĩ nói tôi bị lao xương. Sống giỏi là mười năm nữa. Ui! Đời tôi đang “lên hương”, yêu nhạc, yêu đời, yêu người mà ngoẻo. Thật tiếc lắm ha.
Trầm Mây làm không hết việc, ông Ty Trưởng lại thêm một người đang dạy ở trường xa xôi, bà ta xin thuyên chuyển về văn phòng cho gần gia đình. Mấy tháng nay, bà Niên vào làm tại Ty Giáo Dục. Bà luống tuổi nên làm việc gì cũng chậm, không uyển chuyển, ít tháo vát, xấp giấy trình ký đặt trên bàn bà luộm thuộm. Hộc tủ đầy nhóc giấy tờ lu bu. Cạnh máy đánh chữ to tướng là những chồng hồ sơ sĩ số Trường. Lớp. Học sinh.
Trầm Mây cảm thấy “ngứa mắt” cần hướng dẫn bà nên có nguyên tắc điều phối việc học vụ căn bản chung. Bà là một giáo chức kỳ cựu trong ngành giáo dục, cấp bậc cao hơn Mây thật. Nhưng trước khoa hành chánh chuyên môn nầy, thì bà mù tịt. Vã chăng trăm hay không bằng tay quen, chứ Mây không giỏi lắm. Duy có điều Mây không mấy thích bà Niên, vì bà ta không ngay thẳng, ưa luồn lọt nói rù rì tâu hót “nịnh nọt” thượng cấp. Bà Niên ưa nói xiên nói xỏ, chận họng bạn cùng phòng trước những lầm lỗi của bà:
- Ai ơi! Chớ vội cười nhau. Ngắm mình cho tỏ, trước sau hãy cười.
“Cô thư ký già” đeo mục kính lão, có hai tròng nhìn xa ở phiá trên, nhìn gần ở phía dưới. Bà Niên vén mái tóc muối tiêu qua một bên, than van:
- Tóc quăn chải lược đồi mồi. Chải đứng chải ngồi, quăn vẫn hòan quăn.
Rồi bà lúi húi soạn cái gì đó trong giỏ xách và ngân nga:
- Thua Trời một vạn, không bằng thua bạn một ly.
Bà Niên dí cái trán sát xuống hàng phím, bà quơ tay mò từng chữ. Bà đánh mổ cò cọc cọc, cọc, cọc… bằng cây bút chì ngắn có cục gôm mịn. Máy chữ kêu từng tiếng khô khan: Cạch... cạch... cạch-cạch! Bà bặm môi nghiến răng đánh lên bàn phím quá mạnh, nên những dấu sắc, dấu huyền, dấu nặng, ngoặc đơn, ngoặc kép, dấu nối, dấu phẩy, dấu chấm than. Nhất là con số 1, số 0 cùng L hay chữ Q chữ O, đã ăn chặt vào sợi ruy băng, khiến nó rách lỗ chỗ từng đoạn, và ăn xuống mấy tờ giấy mỏng, cả mấy tờ giấy than. Đầu càng của máy chữ chồng chất lên nhau, rã rời và từ từ rụng mất toi. Bàn máy chữ của bà chỉ còn trơ cái cùi.
Mồ hôi tươm ra sóng mũi, theo bụi mờ bám vào mắt kính, khiến bà Niên không thấy đường. Bà gỡ mục kính ra, lấy trong cái bóp đầm miếng nhung nhỏ, bà Niên lau tròng kính, lau hai mắt. Đôi mắt bà như nhòa đi một cách đui mù, trước muôn ngàn chữ ly ti. Tức quá, bà gục mặt xuống bàn, sùi sụt khóc thật to, để vơi uất ức. Bà Niên lại tru tréo:
- Chim vì tham ăn mà chết. Người vì tham tài, mà thiệt tấm thân.
Mây nghe bà nói trổng mà thật tức bực, nhưng cố đè nén. Chả lẽ Mây gây sự với một cô giáo già ưa nói làu bàu, già gần bằng tuổi chị Hai của mình? Dẫu gì bà cũng là vợ ông Huyện mà tự than to lên, cốt cho người khác nghe:
- Đắc thời dại cũng hoá khôn. Sa cơ rồng cũng như giun, khác nào.
- Hoặc bà nói câu bào chữa:
- Đất có bồi có lở. Người có dở có hay.
Hỉ hai lỗ mũi bóng đỏ sồn sột, bà Niên than vãn:
- Cái máy chữ nầy quá tồi, quá cũ. Nó làm cho đôi mắt tôi mờ đi, trước khi thời gian đến.
Trầm Mây, Kim, Thủy nhìn nhau nhích mép cười ruồi. Đôi khi họ thấy bà Niên quá tội, bà ta chỉ sợ cấp trên chê bà luống tuổi, lù đù làm không được việc, thì bà không có cơ may ngồi lại lâu hơn trong văn phòng, bà phải đi dạy học xa nhà, không thoải mái và mất thời gian đi lại. Nên bà ta cần “lấy lòng” các ông Ty Trưởng, hai ông Thanh Tra. Ấy là bà Niên lầm to, vì Trầm Mây làm việc khá lâu với các vị “tiền bối” nầy, Mây hiểu rất rõ. Họ chí công vô tư, không tầm thường như bà Niên nghĩ đâu.
Nhiều lần khi xong công việc của mình, Trầm Mây âm thầm lặng lẽ đến bên bà Niên, lấy mấy xấp hồ sơ cần thiết và khẩn cấp, về lại phòng mình, Mây âm thầm giúp bà hoàn tất. Bà Niên vui vẻ hẳn lên, bà lăng xăng luôn miệng nói đủ thứ chuyện, cám ơn Mây rối rít và ân cần săn đón Mây. Lúc bà đem cho Mây vài quả ổi. Khi bà để trên bàn làm việc của Mây chùm mận Trại Hầm, hay kí lô dâu Đà Lạt. Trầm Mây ghét cay ghét đắng cái tính “đút lót” đó, Mây thẳng thừng từ chối. Bà cười giả lả vui vẻ như tìm gặp tri kỷ.
Trầm Mây thấy bà cũng tội nghiệp, như chính cái máy chữ vô tri vô giác của bà đang dùng. Thật ra chính bà Niên hại “nó rụng toi mất càng” ấy chứ! Bàn máy chữ nầy còn mới “cáu cạnh”, mà khi trao vào tay bà Niên, thì nó mất toi tuổi thanh xuân trước thời gian đấy.
Chứ ai bảo các thầy giáo, cô giáo, được điều về làm ở trong văn phòng Ty, là rất tà tà, sung sướng, an nhàn, ấy là lầm to. (Trong văn phòng ai ai cũng phải làm việc, từ Thứ Hai đến Thứ Bảy, mỗi ngày làm tám giờ). Họ không được nghỉ ba tháng hè, (như các giáo chức dạy lớp, thầy, cô giáo đứng lớp dạy học, họ nghỉ hè vẫn được ăn lương).
Đoạn đường, khi đã qua cầu, mới hay. Trầm Mây khúc khích cười vui: - Cá trong lờ, đỏ hoe con mắt. Cá ngoài lờ ngúc ngoắc muốn vô.



_ * _

Kính mời quý độc giả xem tiếp chương 13
Trân trọng,
Ái Ưu Du
Ái Ưu Du
#136 Posted : Wednesday, September 12, 2007 1:29:48 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

CON ĐƯỜNG CẢO THƠM

Chương 14

ĐẾN VỚI NHAU






Cây cối mùa đông khẳng khiu úa tàn. Nay xuân thắm về đâm chồi nẩy lộc, rạng rỡ trên cành cao. Dù rằng một cánh én không thể mang lại mùa xuân, nhưng khi mùa xuân đến, dù không có cánh én nào, vẫn đến được cơ mà!
Những chú én bé nhỏ thay hẳn bộ cánh trên mình. Đầu mùa thu, lông lởm chởm, xơ xác, xanh nhạt. Qua mùa xuân bộ cánh én mượt mà, xanh đậm đen đen, láng mướt. “Các ẻm” giơ bụng trắng tốt mịn màng, đuôi chẻ làm đôi, rung rinh trên hàng dây điện. Tôi thấy thương ơi là thương.
Dẫu mai đây tôi phải đến với các em học trò nho nhỏ. Xã Phú Hội có một hương lộ chính trải nhựa đường rộng rãi. Nổi bậc nhất là các xưởng cưa. Nhà máy xay lúa. Nhà hàng Bạch Thỏ, và vài nhà hàng thời Tây còn lại. Nhiều tư điền tư thổ nổi tiếng như Trà Hoa Thôn, Đinh Lan Thôn, Hải Đường Thôn, Mộc Lan Thôn...
Xã Phú Hội có năm mười quán ăn, quán cà phê bình dân, tiệm tạp hóa, quán cóc bên đường dẫn vào khu xóm. Phú Hội gần thác Gougah, nên chiều thứ bảy, chủ nhật, du khách tấp nập đi lại, trên hương lộ đông vui. Phố xã rộn ràng vài ngày rồi trở lại yên ắng như thường lệ.
Dân số đa số sung túc, làm chủ đồn điền, chủ trại cưa, nghề cưa cây xẻ gỗ, làm nông, làm vườn. Số ít người khác làm thuê.
Họ xếp sự mệt nhọc, âu lo mỗi ngày qua một bên, lui về sau những bức tường kín, liếp thông dày chắn gió che mưa, che nắng. Bên ngọn đèn vàng vọt mờ nhòa từ ngọn đèn dầu lửa tỏa ra. Không một rạp ciné, không một trị giải trí lành mạnh nào khác.
Nên bộ mặt xã Phú Hội đã buồn càng buồn lặng hơn. Nhất là đêm về, khi mặt trời vừa tắt nắng ở lưng đồi, trăng bắt đầu lên. Làn khói đục trùng điệp mong manh giăng giăng, thành tấm màn sương thưa thớt, kéo đất với trời xích lại gần hơn.
Tôi đi về một trong ba ngôi nhà xây xinh xinh thoáng mát của bà Năm Chánh. Nhà của họ an toạ trong khu vườn, trĩu nặng đủ thứ cây trái tốt tươi rất rộng. Gia đình bà gồm hai vợ chồng, và sáu người con, họ ở một ngôi nhà bê tông cốt sắt, hai căn kia đầy đủ tiện nghi, còn bỏ trống, nên họ cho các cô giáo ở nhờ.
Nhờ thầy Bê giới thiệu nên Xuân Quỳnh, Bé, Thủy, Lan, được ông bà Năm cho ở nhờ. Chúng tôi mừng rỡ, vì sẽ giảm bớt thời gian đi về. Qua mùa hè sẽ tính sau. Ông Năm Chánh làm chủ xưởng cưa cây, rất giàu, sáng ông đi tối lại về.
Bà Năm bị mù loà nhưng tinh khôn, tỉnh táo lanh lẹ hết biết. Một mình bà mò mẫm đi lên nhà trên, xuống nhà dưới, bà qua nhà ngang ít khi bị nhầm, hay té ngã. Bà lắng nghe tiếng ai nói chuyện đôi ba lần, sau đó là bà nói trúng phóc tên ai rồi.
Tôi ngồi trong ngôi nhà thứ ba của bà Năm, im lặng soạn bài. Nghe tiếng bà Năm hỏi sau lưng, khiến tôi giật bắn người. Bà biết cảm nhận hơi hám người khác ở chung quanh bà. Tôi hỏi:
- Sao bác biết, có người ở gần bên. Hay vậy bác?
Bà Năm cười, nói to, rõ ràng:
- Tôi thính tai, còn thính mũi nữa đó. Cô.
Tôi khẽ cười, hơi ngờ vực. Bà Năm lại cười ha hả:
- Tôi nói thật đó.
Quả vậy. Muốn đánh mấy đứa con, ít khi bà nhầm lẫn, mặc dù chúng nhỏ lút chút lít chít ngang đầu, ngang tai nhau, từng năm một. Nhất là tự một mình bà đi đánh ghen, là đúng ngay chóc, hết biết. Bình thường bà hiền lành, ít nói, nhưng nếu có ai làm mích lòng, chọc giận, khiến bà nổi cơn tam bành lục tặc lên, thì bà dữ kinh khủng! Dù sao thì bà cũng quá đau buồn vì ghen.
Bà đi đâu cũng có Trúc là con gái đầu lòng, và đứa con út hai tuổi, có cả con chó xù đi theo cao hứng nó sủa om sòm, khiến bà mẹ phải kêu con đuổi đi.
Chương khoảng sáu tuổi, bùn bết lên hai chân đen thủi, đen thui, trông như nó mang đôi giày bốt. Chương cầm sợi nịt da kéo cổ nó đi, sợi dây xích ghì chặt, khiến hai con mắt chó trợn tròn như hai hạt nhãn, lưỡi thò ra mấy chiếc răng nhọn hoắt, hàng lông trên lưng dựng đứng.
Trúc mười bảy tuổi, tính tình thật thà, mặt mày sáng sủa, dễ nhìn. Cô ở nhà lo đi chợ búa cơm nước, phụ người giúp việc, trông coi đàn em nhỏ, và dẫn mẹ đi đây đi đó. Khi mẹ ngủ trưa, rảnh rỗi, Trúc qua nhà mấy cô giáo trò chuyện, mượn sách, truyện, hỏi điều nầy điều nọ. Tuy ít học nhưng Trúc cần cù chịu khó học hỏi, tìm hiểu. Do vậy trên mặt lý thuyết thì Trúc hiểu biết khá sâu sắc, khiến các cô giáo và tôi dù đang học trên đại học, hết dám huênh hoang coi thường Trúc. Tôi ý tứ giữ mồm giữ miệng hơn, và mến phục Trúc.
Dù sao ở nơi vắng khuất nầy, thầy, cô, và các vị công tư chức ở đây, cũng phải có bạn bè, láng giềng, phụ huynh học sinh, “nhất cận thân, nhì cận lân” giao tiếp hàng ngày. Đừng sợ cái nghèo khó của mình, làm người khác khinh dể.
Mỗi người đều có một hoàn cảnh, nhân sinh quan và quan niệm sống khác nhau. Bé, Thủy, Xuân Quỳnh, tôi, và các bạn đến với nhau chân tình hoà ái, cùng ăn đậu ở nhờ chung trong khuôn đất của nhà ông bà Năm. Chúng tôi thường an vui hoà nhã trao đổi công việc và chuyện trò thân mật, tâm đầu ý hợp biết mấy.

_ * _

Kính mời quý độc giả xem tiếp chương 15
Trân trọng,
Ái Ưu Du

Ái Ưu Du
#137 Posted : Friday, September 14, 2007 1:04:27 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

Chương 15

CẦN MẪN YÊU NGHỀ






Nắng ấm đã đến, đem lại gió mát mùa xuân tươi thắm, tràn về trên xứ Hoa Đào xóa tan sương giá. Không khí ngào ngạt hương xuân, trên dãy đồi thông trùng điệp đang bừng tỉnh. Mặt trời to tròn rực rỡ, ánh hào quang lấp lánh bơi lên khoảng không gian dìu dịu bao la, mênh mông.
Trong hương hoa ngan ngát, núi đồi tắm đẫm sương đêm đó, có cái tươi tắn vô tận của vừng hồng. Có cái mát rười rượi của rừng. Lành lạnh và man mát mùa thu êm êm. Thoang thoảng mùi thơm nồng ấm của đất, của suối trong, thấm vị ngọt ngon.
Long hài lòng vì cô vượt qua các giai đoạn khó khăn, bằng con đường rất ngắn, đưa học trò vào trình tự học tập, có quy củ, khuôn khổ rõ ràng. Anh trao đổi kinh nghiệm làm việc với đồng nghiệp, nhận xét tinh tường, cái nhìn anh thân hữu, ý tứ, bao giờ cũng giữ kín, sau ý nghĩ trong sáng.
Một hôm, các bạn bàn đi thăm Phụ huynh học sinh, Long nói:
- Vâng. Trong chương trình, có mục giáo chức đi thăm Phụ huynh học sinh nữa ạ.
Xuân Quỳnh cười, nói:
- Sự liên lạc giữa gia đình, học đường, là điều cần thiết và hữu ích.
Bê vỗ tay:
- Tốt lắm chứ. Tôi đề nghị, tuần tới, chúng ta sẽ đi thăm họ.
Thăng thêm vào:
- Tôi tiên liệu, phụ huynh, đa số bận rộn làm ăn. Ít có thì giờ, không mấy lưu tâm, lo lắng về sự học con em.
Hảo nói huỵch toẹt ra:
- Còn học sinh, học càng cao, chúng càng vô ơn và bạc bẽo, quên lối giáo dục, bậc thấp chúng mình, từ khuya.
Kim Liên đưa một ngón tay lên:
- Chị dạy chúng nó, như vậy đó hả?
- Tôi không dạy. Tự chúng sẽ tiến hóa không ngừng, theo xã hội kim tiền. Quên chúng mình mấy chốc. Rồi cô xem.
Thủy cười ruồi:
- Chà. Đau nhỉ!
Bê quay chùm chìa khoá, đứng lên:
- Còn đau hơn bò đá ấy chứ.
Bà Bích là bà giáo kỳ cựu nhất, kéo tay Hảo đứng lên theo Bê, bĩu môi:
- Và bạc như vôi. Phải không?
Long tuyên bố:
- Nói làm gì chuyện tương lai, cho mệt. Bỏ qua đi, tôi đi họp về, có tin vui cần phổ biến: Hội đồng giáo dục Việt Nam, sau một tuần nhóm họp, đã quyết định, cải tổ nền giáo dục. Minh định chính sách giáo dục, về kỷ luật, sữa đổi môn công dân. Tăng lương cho công chức theo thời giá. Quy định tiêu chuẩn cấp học bổng, miễn, giảm, học phí. Âu đó là điều đáng mừng. Các anh chị, về rửa nhà sạch sẽ, ăn mừng đi là vừa nha.
Bỗng trong lớp của tôi đồng ca bản nhạc "Bức Họa Đồng Quê" của Văn Phụng. Sau đó ca bài "Bánh Xe Lãng Tử" của Trọng Khương.
Long nhìn các bạn cười ngất:
- Khổ thế đó. Ngành giáo dục của mình, khó xử trí về tình, nghĩa, nhất là các vụ ca mí hát nầy. Mấy ai phổ nhạc nhớ ơn thầy, nhớ ơn bà. Ngoại trừ bản nhạc “Trường Làng Tôi”, hay bài “Tôi Yêu Quê Tôi” rất nổi tiếng, ít ai kêu gọi con em, thương mến trường xưa thầy cũ gì mấy. Toàn viết tình ca não nuột, than trách đời. Tôi làm thế nào chê cô được, khi cô chọn hai bài nầy, cho học sinh ca, sau giờ học mệt nhoài.
- Thay đổi không khí một chút chứ anh. Chả nhẽ cứ ...”Học sinh là người Tổ Quốc mong cho mai sau…” hoài hoài. Hay anh muốn tôi cho các em tập ba câu vọng cổ?
Long trợn mắt lên:
Hầu hết cải lương mang tính chất bi lụy, nỉ non, rền rĩ quá sức. Từ lời lẽ đến cấu trúc, giai điệu đó ăn sâu vào lớp người già. Lòng họ khát vọng hoài cổ, hoài mong mỏi mòn. Ít có câu ca mang tính chất trong sáng học trò. Tôi không tán thành đưa bộ môn thuần tuý dân tộc, vào học đường. (ngoại trừ ngành Ca, Kịch Nghệ). Các em nên hát bài ca lành mạnh, hùng tráng, tin yêu, tươi vui, trong sáng hơn.
- Điều nầy, tôi đồng ý.
Hiệu trưởng, mấy giáo viên, đến trước cửa lớp. Học sinh ngừng hát, đồng loạt đứng phắt dậy, khi có tiếng hô:
- Học sinh. Nghiêm.
Chúng ngẩng nhìn thầy, cô, đôi mắt e sợ và tò mò. Khi nghe thầy hiệu trưởng muốn thành lập ban văn nghệ toàn trường. Các em trong mọi lớp nồng nhiệt hưởng ứng. Không ngờ, chủ đề vừa xướng ra, các em có máu văn nghệ văn gừng, nổi lên như cồn. Tuổi trẻ tài cao mà! Thế mà thầy cô vô tình vùi chôn tài năng, qua bao tháng ngày. Thật lãng phí hết sức.
Đến giờ tan trường, nhiều lần quên, khi trời ngã màu vàng tím, học sinh lo chạy ùa ra sân, như hạt đậu văng ra khỏi ống lon. Như bầy gà rừng, hoảng sợ khi nghe tiếng mìn nổ.
Chúng tranh nhau chạy trước, tạo thành cảnh chen lấn, xô đẩy, ồn ào, nhốn nháo, mất trật tự vô cùng, ở cửa lớp.
Ồ! Không được rồi. Tôi sẽ dạy các em, biết cư cử tế nhị, lịch sự với bạn bè, nơi công cộng, ở lớp cũng như lúc tan trường, về nhà.
Con đường dài dọc theo hai hàng cây, dẫn lối đi về, phải mất vài chục lần, thầy cô gật đầu, chào đáp lễ học sinh. Hễ bao giờ gặp thầy, cô giáo, là các em học sinh, dù tụm năm tụm mười, chơi đùa vui vẻ, chúng đều chạy đến trước mặt giáo viên, cặp ôm trước ngực, tay kia cầm mũ, nón, đầu cúi thấp, miệng đon đả chào:
- Em chào cô, chào thầy ạ.
Thật ngoan ơi là ngoan. Thấy thầy, cô, cười với mình, các em vui mừng. Các em chờ trước cổng, hầu các em đi và về theo sau lưng một đoạn -hơi xa xa- Rồi để ý, từng ly từng tí, từng lời nói hay cử chỉ thầy, cô. Các em khúc khích cười, thì thầm nho nhỏ với nhau.
Về nhà, các em không cần nói nhỏ, mà nói to cho cả nhà nghe, về nếp sinh hoạt tại trường. Các em chẳng quên chuyện gì! Vì thế thầy, cô, phải siêng năng, tác phong đạo đức đoan trang. Các em bắt chước thầy, cô, từ lời ăn tiếng nói, đến cung cách của họ. Học sinh chơi trò "Cô giáo dạy lớp" ở nhà, nhiều câu nói, giống như lời cô kia, thầy nọ, hoặc ông cai. Chúng đóng kịch khá ra trò, nghe mà giật thót cả mình.
Kinh nghiệm của nhiều nhà mô phạm lão luyện cho biết: đa số học trò miền quê ngoan ngoãn, hiền lành, dễ bảo hơn học sinh ở thành phố. Các em quý trọng, thương mến, vâng lời thầy cô, chân tình, không khác gì người thân.

_ * _

Kính mời quý độc giả xem tiếp chương 16
Trân trọng,
Ái Ưu Du
Ái Ưu Du
#138 Posted : Saturday, September 15, 2007 2:24:48 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

Chương 16


XA BẠN





Đêm dần tàn theo gió khuya, úp bộ mặt nhợt nhạt vàng úa, vào ô cửa lạnh giá. Căn nhà lạnh lẽo, rộng thênh thang, chìm trong tranh tối tranh sáng. Âm thanh kỳ lạ của gió xuân đồng nội. Tiếng kêu nho nhỏ của loài mối mọt, côn trùng gậm nhấm, dần tắt trên kèo cột đơn điệu. Đêm buồn bã dịu vợi làm sao!
Nỗi nhớ nhung buồn phiền dày vò lòng Thu Cúc khôn tả. Có bao chuyện để nhớ, thương, vui, buồn, suy nghĩ, trong giờ phút khuya khoắt cô đơn thế nầy! Sau một đêm dài, đong đầy nhớ thương vui buồn thao thức, băn khoăn lo lắng muộn phiền đó, sẽ nhường chỗ cho ngày mới đến, mang theo biết bao điều mới lạ, mà cô không sao đoán biết.
Hoài, Xuân Quỳnh, Thùy Mến, Thu Cúc, bốn cô nầy thân thiết nhau, như chị em ruột, họ rủ nhau đi dự lễ bàn giao Long bàn giao quyền Hiệu trưởng, cho tân Hiệu trưởng Bê sẽ thay thế Long đảm nhiệm trường.
Long đã nhận giấy gọi nhập ngũ sĩ quan trừ bị Thủ Đức. Nghe Long báo tin, trong phòng họp bỗng lặng như tờ. Chỉ một tuần là anh lên đường. Quả thật bất ngờ và gấp rút quá. Mỗi giáo viên trong "xã hội nhỏ dưới mái trường" nầy, lo chuẩn bị tiễn đưa anh đi "thi hành quân dịch là thương nòi giống".
Thủy quay lại, che miệng xì xầm:
- Coi hai lão nương nhà ta kià.
"Hai lão nương" là bà giáo Bích và cô giáo Hảo. Hai bà nầy đến trường ưa cặp kè, thân thiết nhau kinh khủng, nhưng họ thường cải lẫy, gay gắt nhau một cách kỳ cục. Hai bà giáo già mà đỏng đảnh khi thì rù rì tỏ nhỏ, chỉ chỏ ai đó, lúc thì nói mánh nói khóe, xoi tì xoi tướng người khác, ám chỉ người nầy, người nọ trong trường. Tình bạn già rất khác nhau, tiếp nối trôi theo bóng thời gian khá dài.
Hai bà quyên góp tiền bạc của giáo viên trong trường, tự ý mua quà tặng, dán giấy hoa kín mít. Dù đóng tiền, nhưng không ai biết họ mua thứ gì trong đó! Kể ra hai bà cũng độc độc đoán, độc tài, bảo thủ ghê đấy chứ.
Đôi khi vui miệng, Kim Liên hỏi chị Hảo già khó tính khó nết, chị Hảo ít gần gũi học trò. Chị là cô gái “bốn nhăm” xuân xanh, vẫn chưa chịu lấy chồng:
- Học sinh có thường đến nhà chị không? Chị Hảo!
- Ồ! Đến thường chứ. Các em còn giúp tôi một tay, làm việc vặt.
- Chị đầu tắt mặt tối, lo làm giàu, hơn đi dạy. Còn ai có tiền mua bán với chị nữa.
- Tiền, là tiền buôn bán ở chợ, hằng ngày nộp vào ngân khố, kho bạc không vì năm mười ngàn của tôi cho vay, mà vơi đi. Chính phủ chả nghèo vì ba đồng tiền lẻ. Có khi nhờ mấy người như tôi, họ lại giàu hơn. Cô xem, bọn nhà giáo chúng mình, không lo buôn bán thêm, có mà húp cháo rùa.
Tiện nói thêm là hai bà giáo già, lười dạy học vô cùng. Họ cho các em sao y bản chánh bài học, bài làm trong sách, rồi kéo nhau ra phòng ông cai trường uống nước, họ ăn bánh nói chuyện mùa màng, huê hụi, chồng con và gái già.
Mặc anh Long kêu trời không thấu, mà không nở trả họ về Ty. Anh quá nể nang và khổ tâm hết biết. Có người không chuyên cần và vô trách nhiệm như thế, thật là mối nợ to. Dù sao việc ra đi của anh, là trút khỏi thân sự chán ngán, như trút khỏi mình bộ quần áo cũ kỹ. Lặng lẽ nuốt đi niềm cay đắng, như nuốt đi hợp âm cuối cùng, của thời gian và không gian dày vò anh đã qua. Mặc dù lòng anh tiếc ngẩn, vì anh sẽ xa bạn, xa những thầy cô tận tụy, hữu ái khác.
Quan khách được đón chào, bằng mấy bài diễn văn trịnh trọng và tôn nghiêm. Trên lễ đài cờ xí bay phất phới. Toàn thể học sinh rạng rỡ, với đôi mắt sáng ngời, hồn nhiên nhân ngày bàn giao, đồng thời là lễ phát thưởng bán niên, đề nghị dự án nghỉ hè trong ương lai.
Mọi người ngồi giữa không khí thoáng mát dìu dịu, tâm hồn lâng lâng như uống thứ rượu ngất ngây, làm say lòng người. Anh Long nghẹn ngào, đầy xúc cảm chân thật, trước bao tặng vật xinh xinh của phụ huynh và học sinh.
Bằng chứng về tấm lòng ưu ái, thân hữu, qúy trọng người đã tốn hao công sức, hầu giáo dục, dìu dắt con em của họ. Trả công như thế, thật tao nhã, ý nhị vô cùng. Công sức thầy cô hụt vơi từng giờ, từng ngày, được vắt ra từ hai buồng phổi ngày càng héo hon, để đổi lấy đồng tiền ít oi, khiêm nhường trong thời buổi gạo châu củi quế bạc bẽo, nào có nghĩa lý gì!
Khi họ thưởng cho người mô phạm những ân huệ, dạt dào tình hữu ái giữa Người và Người, giữa Thầy và Trò. Qua tặng phẩm bé nhỏ xinh xinh. Tuy không đắt tiền, nhưng đắt nhân tâm, giàu chất men nhân ái. Kỷ vật dù bé nhỏ đến đâu, vẫn dõi theo đời sống muôn điệu của riêng mỗi người.
Vấn đề thay đổi giáo chức, thuyên chuyển thầy, cô, cải tiến giáo dục, không có nghĩa là lớp thanh niên mới ra trường, đầy hăng say, năng nổ hoạt động công việc chung, sẽ thay thế lớp cựu trào, cổ hủ. Mà nên bổ sung, hỗ trợ những giáo điều cũ, tạo thêm những chuyên môn giáo dục mới. Nhưng, không phải khi tạo cái mới, thì bỏ mất đi nếp cũ.
Vấn đề là chỗ đó. Thu Cúc cảm thấy lòng mình thức dậy lòng ngưỡng phục sức cần lao nói chung. Ta không nề hà, so đo điều gì. Dù ta âm thầm lao tâm lao lực, cố vắt ra từ tim óc những điều hữu ích, để truyền đạt, xây dựng cho đời. Cô chúa ghét ai “ăn thật làm dối”. Vì, đấy là kẻ lừa bịp thô bỉ nhất.

_ * _

Kính mời quý độc giả xem tiếp chương 17
Trân trọng,
Ái Ưu Du
Ái Ưu Du
#139 Posted : Tuesday, September 18, 2007 1:33:32 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

Chương 17

BUỒN KHÔNG NÓI ĐƯỢC





Trầy trật mãi trong mớ bòng bong hỗn tạp đầy chữ a, b, c, d, e, g... Ghép các mẫu tự đó thành bài văn xuôi. Đọc lên nghe mạch lạc, hay hay. Ý tưởng ngộ nghĩnh trong sáng dễ thương quá chừng. Các con số 1, 2, 3, 4, 5... cộng, trừ, nhân, chia, phân số, thành bài toán giải lý thú. Đầu óc các em muốn phình ra, vì nhiều dữ kiện, tập trung làm việc cao độ bằng trí óc non nớt, còn ham rong chơi.
Tôi bắt các em làm công việc bằng trí óc lẫn chân tay, vượt qua thử thách phải vươn lên ở hiện tại. Các em cần vượt qua quá trình dài lâu, với sự cộng hưởng, cố gắng.
Bổn phận giáo viên Tiểu học rất ư nặng nề, gồm đầy trọng trách. Bởi ở lớp dưới, thầy cô phải dạy tất cả bộ môn hỗn tạp, dù họ không "chuyên khoa". Soạn bài cẩn thận, giảng đi giảng lại. Môn nầy xoáy vào môn kia như vòng xoắn, như sợi xích. Thay vì chỉ thuần túy giảng bộ môn chủ đề, chuyên trách thôi.
Các em là mầm non, phải kiên nhẫn uốn nắn từ từ, từng li từng tí, là rường cột nước nhà sau nầy, có tài ba xuất chúng chăng, một phần nhờ thầy cô giáo tận tâm uốn nắn, gọt giũa từ trong trái tim đơn sơ, non nớt co thắt đó. Đòi hỏi gương nhẫn nhục, sức cần lao của thầy, cô, vắt cạn kiệt từ hai buồng phổi khô cạn, kiệt cùng, trong huyết quản mệt mỏi vơi dần, vơi dần... từ bước khởi đầu.
Lẽ ra, Chính phủ nên ưu ái quan tâm hơn, tạo mọi thuận tiện và ưu tiên nơi bậc Tiểu học, nâng đỡ giáo chức, so với đồng lương hạn hẹp, trong thời buổi gạo châu củi quế mới phải. Có nhiều việc thoạt mới nhìn qua, tưởng tầm thường, suy nghĩ kỹ, thật không đơn giản chút nào.
Nghề nghiệp phức tạp nầy, dẫu sao cũng không tránh khỏi đôi lần lầm lỡ, mà mỗi lần nhớ lại, các cô không khỏi buồn rầu không nói được, ray rứt mãi:
Một hôm, Quỳnh, tôi, đã phạt một tốp học sinh ở lại lớp, phải học thuộc bài mới tha cho các về. Quỳnh là người cuối cùng ra khỏi cổng trường. Vừa thay áo quần, ngồi vào bàn ăn cơm, thì phụ huynh em Vũ, Toại, đến. Họ kéo theo mươi người lớn nhỏ lô nhô. Họ xô sập cánh cổng nhà của ông Năm, và la chửi om sòm, réo gọi tên Quỳnh, và tôi.
Các cô vội vàng buông chén, chạy ra hiên xem chuyện gì. Ông bố quơ tay về sau lưng, kéo giựt thằng bé, chạy ngược về phía trước. Nó chúi đầu vào bụng ông. Ông dùng bàn tay gân guốc, đen đen, lấm lem đất bùn ra, ông ta tát mạnh mấy cái vào má Vũ, bắt nó phải nói câu gì đó.
Thằng bé xiểng liểng, giơ cánh tay ốm yếu ra, chụp lấy lưng quần bố. Nó lại chúi đầu vào hông ông, giơ lưng ra chịu đòn. Một tay nó xoa lia lịa vết đỏ trên má, ngón chân cái xủi mặt đất, búng đầy cát tạo thành một lỗ to. Nó thút thít khóc.
Ông bố chưa đã giận, dộng thêm vài cú vào lưng, xách lỗ tai nó xoay vài vòng nữa. Rồi ông bỏ qua bên cây bã đậu, có quán rượu bà Lý. Để mặc thằng bé thộn mặt ra, cúi đầu ủ rũ đứng trên sân chói nắng. Ông ta gát chân lên ghế, chỏ miệng sang bên nhà bà Na7m Chánh nầy xỉa xói, hăm dọa các cô giáo đủ điều.
Mấy cô giáo kia sợ quá, chạy ra chạy vào, thập thò nơi cửa sổ, nhìn qua quán rượu. Không hiểu ông ta tỏ thái độ quá khích như thế, để đạt đến mục đích gì, ở phía sân sau cuộc đời? Ai mà biết được! Tuần trước, chính ông đã đến lớp thầy Thăng, rút học bạ của đứa con trai cả.
Nỗi đau khổ lớn nhất của thầy, cô, khi có người rút hồ sơ con em, từ trường nầy chuyển sang trường khác, hoặc cho ở nhà. Chúng tôi có cảm tưởng là, họ chê cách giáo dục của mình thất sách sao đó.
Xuân Quỳnh bạo gan bạo phổi hơn, ra giữa sân, xoa đầu Vũ, cô nói:
- Ba bắt em nói gì với cô. Sao em không chịu nói, rồi về đi, kẽo nắng.
- Ba không cho em đi học nữa.
Vũ òa lên khóc to hơn, vừa nấc, vừa xin:
- Mai cô cho em vào lớp lại. Em sẽ cố dậy sớm học bài, trước khi đi ra ruộng.
- Ba em muốn như vậy. Chứ cô đâu có đuổi em. Vả lại, em lười quá mà.
- Tại em phải ra ruộng suốt ngày.
Khiếm khuyết của thầy, cô, là không chịu tìm hiểu nguyên nhân, hoàn cảnh của từng học sinh. Bây giờ, cô đã rõ lý do tại sao Vũ không thuộc bài. Phương pháp giáo dục, không phải lúc nào cũng khô khan, cứng ngắt. Giáo viên nên nghiên cứu đời sống học sinh, hầu khuyến khích, nâng đỡ.
Nếu cứ việc đi dạy, mong chóng hết giờ, không cần tìm hiểu chúng có nhu cầu gì, cần gì, muốn gì, có hiếu học, ganh đua từng điểm, có quyến luyến bạn bè, trường lớp không? Và, thầy, cô, đứng trên bục, giảng lời giáo huấn, đào tạo các em chắp cánh bay xa? Có chân đứng trong mảnh vườn tươi tốt, giáo dục và trí dục nỗi không? Có ảnh hưởng thế nào đến học sinh nói riêng, và phụ huynh học sinh, nói chung?
Dưới lớp vỏ thân thể hồng hào, xinh xắn, do hồng ân Thượng Đế chải chuốt ban cho mỗi con người, là lớp đất hoang sơ, chưa ai khai phá. Tôi lo mình không mềm mỏng khi uốn măng, nếu uốn quá mạnh, có thể gãy. Không đúng, bị cong thành vết tật suốt đời. Hình hài bé thơ, vì lỗi lầm của cha mẹ, thầy cô, mà các em ngậm miệng như sò, trai, không nẩy nở thiên tính, để trở thành người hữu ích cho xã hội. Càng ân hận!
Không hiểu ta có tự dối lòng, khi nói lên hai chữ “Niềm Thương” hoặc “Yêu Nghề” ! Một nghề bán cháo phổi, sẽ vô cùng bạc bẽo, nghèo khó. Chẳng có gì ngoài hai bàn tay trắng trơn. Một cây bút mực đỏ chấm bài. Một viên phấn trắng. Năm bảy bộ áo quần cũ mèm thẳng nếp. Đôi mắt nhìn tư lự. Và, một tâm hồn điếng lặng giữa cuộc sống phồn vinh phức tạp?!
Nhất là, vừa trải qua sự phiền muộn trên, liệu mình có đủ nghị lực, tiếp tục khoan thai nói với các em, rõ ràng, tự tin, đôi lúc ngừng lại vài giây, xem các em có thấu hiểu vấn đề, hấp thụ điều cô đã truyền đạt?
Giáo học cấp bổ túc như Quỳnh, Bé, Thủy, tôi, có bằng sư phạm, sắp sữa là cử nhân văn khoa, còn bị chê bai việc giáo dục chữ i, chữ tờ. Thì đối với Tín, Trung, Hồng, Hạnh, Lan, vân vân... vốn kiến thức và tri thức của họ, có là bao!
Không hiểu ai đã chạy đi báo chuyện nầy, cho hiệu trưởng Bê, hiệu phó Thăng, vừa ngả mái đầu đầy lo âu, lên chiếc gối mềm, mong dịu bớt “cơn chấn thương sọ não”, qua những vấn đề hóc búa trong trường, làm điên đầu, bạc tóc các anh trước thời gian, dấu ấn lưu lại trên vầng trán suy tư, trên nếp nhăn chân chim, mờ bên đuôi mắt, nhiều vết âu lo.
Thời buổi nầy, thiên hạ đi lại bằng xe honda cho kịp thời cuộc, họ không chạy theo xe, mà cỡi trên tiền. Có tiền mới mua xe, có ngồi trên xe mới cảm thấy an nhàn tấm thân. Cùng thời buổi nầy, riêng đối với nhà giáo cấp bổ túc, mới ra trường như hai thầy, ăn tiêu dè xẻn theo kiểu giật gấu vá vai, nên giấc mơ mua xe honda, quả thật khó thực hiện. Bê đã có lần đùa với các thầy cô:
- Khi nằm mơ, mình sẽ mua xe honda, nhưng tôi vẫn kỳ kèo giá. Mình có tiền đâu mà không mặc cả thêm cái nầy, bớt cái kia trong giấc mộng chứ! Hô hô hô!
Hai thầy leo lên chiếc xe đạp cũ, đạp cọc cạch, chở nhau phóng nhanh đến nhà các cô giáo. Thấy hai thầy, nhóm người bên cây bã đậu, càng lớn giọng chửi bới giáo viên to hơn. Sau cùng họ thách đố:
- Cái bọn nhà giáo quèn đó hả. Cho chúng nếm đủ luật giang hồ, mới biết thân.
Hiệu trưởng, hiệu phó vào nhà các cô, hỏi đầu đuôi câu chuyện xong. Họ làm sứ giả chạy qua bên quán kia cầu hòa. “Họ” nói chuyện rất lâu, vẫn không dịu bớt sự căng thẳng. Thật tình là có “cái cớ” để tạo ra “vấn đề”. Bê và Thăng quyết định đóng cửa trường ba ngày. Cho “thầy bà” và tất cả học sinh nghỉ khơi khơi. Anh lên Ty xin ý kiến.
Qua tuần lễ nghỉ dạy bất đắt dĩ đó, Bê triệu tập buổi họp phụ huynh học sinh. Ông bố em Vũ, cho bà vợ tao khang, dẫn con lên trường, bà xin cho Vũ đi học lại.
Biết nói gì bây giờ? Học thì được thôi. Nhưng không hiểu từ nay, bầu nhiệt huyết trong “ta” còn bừng khởi tận tâm, dũng cảm khai phóng, sáng tạo và hành động chân chính. Hay “phẩm chất sôi sục”, vì những vết rạn?

_ * _

Kính mời quý độc giả xem tiếp chương 18
Trân trọng,
Ái Ưu Du

Ái Ưu Du
#140 Posted : Friday, September 21, 2007 5:51:11 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

CON ĐƯỜNG CẢO THƠM

Chương 18

CÁC CON NGOAN





Cách đây chín năm, Thứ bế bé Dzũng ra đứng trước ngỏ nhà xem vợ chồng Quý chôn bào thai vợ bị hư. Ngay đêm đó, lục phủ ngũ tạng vợ chồng Thứ rối beng lên, vì bé Dzũng nằm ngủ, đầu gối lên cánh tay trần của tôi, bỗng nhiên Dzũng khóc thét từng cơn co giật. Hai bàn tay con nắm chặt, mắt trợn trừng sợ hãi, hàm răng nghiến trèo trẹo, mắt luôn dáo dát nhìn quanh. Cách khoảng mười phút, con làm kinh một lần.
Tôi vội vàng ngồi dậy, ôm chặt con vào lòng, lấy cặp độ lên 39, 9. Vợ chồng hốt hoảng, lo sợ kinh khủng. Tôi nhờ Thứ đi nấu nước sôi, luột hai quả trứng gà, tôi nhéc gừng, tóc rối, đồng bạc cắc thật, bỏ vào trứng gà nóng, bọc miếng vải, lăn khắp thân thể con, mặt khác cho con uống thuốc giảm sốt.
Không thể nào tả nỗi sợ hãi của ba mẹ lúc bấy giờ. Bốn giờ rưỡi sáng, Thứ lên xe chạy đi Du Sinh gọi dì Ký về lể cho cháu. Ở nhà một mình tôi vô cùng lo sợ, không dám cử động. Vì mỗi lần mỏi mệt, muốn xoay trở, con lại giật mình, khóc thét lên từng cơn. Tôi thành khẩn cầu kinh, mắt luôn dán chặt vào mặt con. Bàn tay tôi bủn rủn cầm cái ly, nổi lên mấy đường gân xanh, đốt xương hình rể quạt trên ngón tay gầy, có vết ẩm in lại dấu mồ hôi lạnh, cái ly nặng thêm, vì sự lo âu tột đỉnh mà ra.
Sáu giờ sáng, dì Ký đến, dì lấy đồ nghề, là cây kim tay khử trùng, lọ dầu tràm, bông gòn, dì bế Dzũng ra gần ánh đèn, dì lể trên đầu, mặt, cằm, trong hai hàm niếu, ngực, bụng, lưng, mông, mười đầu ngón tay, ngón chân, tay dì lướt nhanh thoăng thoắt. Dì làm xong đến đâu, xoa dầu đến đó. Tay dì làm, miệng nói vui vẻ:
- Cha chả. Thằng cu ni mới dễ ghét chớ. Mập quá hè. Anh chị đừng lo, chiều ni cháu hạ sốt ngay, cháu bị phong sài, mắc hơi lạnh chi đây. Chị cho cháu uống mấy gói thuốc ni, giờ uống gói ni, lại cách ba giờ uống gói tê, ngày mai cũng rứa. Em bảo đảm chiều mai, cháu lò dò đi chơi liền. Thôi, yên tâm đi. Em về. Có hai ba chỗ đang chờ em.
Thứ đưa tiền và chở dì về. Dì Ký tuy cao tuổi, nhưng là em họ của tôi. Quả thật, sau khi lể và uống thuốc, bé Dzũng khá thuyên giảm, không làm kinh co giật, đến xế trưa thì hạ sốt. Chiều tối mát như cũ.
Nếu nghe người khác nói về việc chích lể, vợ chồng Thứ, không tin ba cái vụ sài, đẹn ấm ớ. Nhưng đây là chuyện có thật, xảy ra chính trong nhà nầy, buộc vợ chồng tôi, dù cứng dầu đến đâu, cũng phải tin và phục chuyện đông y. Một nghề mà ba của tôi đã truyền dạy lại cho dì Ký.
Bây giờ hơi thở âm ấm phả ra từ cánh mũi phập phồng, làm nồng thêm từng tế bào trong lịng mẹ. Bé Hoàng đang bú, lại nhả vú ra, với tay lấy mấy thứ đồ chơi. Bé Hoàng nắm lấy, kéo về miệng, bập bẹ tập nói, phun cả nước bọt ra. Hoàng nắm hai ngón chân cái mủm mỉm, giơ lên, đút vào miệng con gọn gàng.
Tôi giật nẫy người, thằng bé ngứa miệng cắn đầu vú, đau điếng, làm sứt một miếng da. Tôi vả nhẹ vào má con mấy cái. Thằng bé nhả vú ra nhìn mẹ, tôi giả vờ khóc hu hu, Hoàng khóc nhè theo. “Con tằm” tức quá tè ra, nước đái cong như chiếc cầu vồng, vọt lên cao ướt cả mặt mẹ. Tay quơ chân bé Hoàng đạp lung tung, con quay tùm lum trên giường. Hay là để “trả” lại mẹ, mấy cái tát lúc nảy đó, hả con?
Bé Hoàng biết lật lần đầu tiên trong căn nhà xinh xinh nầy. Đầu còn nặng không ngẩng lên được, mặt úp xuống nệm ngó ngoáy. Vợ chồng tôi mừng quá, vổ tay la lên rõ to, khiến bé con giật mình khóc thét. Mắc cười quá!
Các con được ông bà ngoại, cưng hết biết. Lỡ có con muỗi rừng chích vào, làn da non nớt, sưng u đỏ lên một cục. Thế là ba mẹ giận nhau vì chuyện… con muỗi. Rồi lại làm lành với nhau, về bao chuyện các con ngô nghê ngây ngơ nào đó.
Ông ngoại đóng cho các cháu mấy hộc ngăn, năm ổ gà ấp trứng trên kệ gỗ, mặt dáo dác, chúng xù lông chuyền hơi ấm và sức sống, từ thân thể mỗi ngày một héo hon vào quả trứng. Gà làm nhiệm vụ nối dòng chu đáo, đều đặn, say sưa, quên ăn quên uống.
Tôi cho chúng ăn, uống, vài con gà nhảy khỏi ở, mổ lấy mổ để, cổ ngẩng cao, xù bộ lông phù to, “tục tục tác”. Rất nhanh nó mổ vào tay tôi mấy cái đau điếng, để bảo vệ ổ mình. Tôi thích chăm sóc ổ gà, vui mừng khi đúng hai mươi mốt ngày, tôi thấy mươi cái đầu nho nhỏ xinh xinh, thập thò chui ra chui vào dưới bộ lông con mẹ. Vài con chập chững bước trên ổ rơm, bước chân non nớt, yếu ớt như hai cây tăm vàng vàng run rẩy. Lúc gà nở, mấy mẹ con tôi ưa xúm xít quanh ổ gà, chuyện trò vui vẻ, các con tôi ưa hỏi hóc búa:
- Sao gà đẻ trứng, mà không đẻ con, lộn xộn quá, ha me?
- Trứng không nở ra gà, thì có gà đâu đẻ trứng, mẹ ha.
Tôi đặt mấy chú gà lên bàn tay con, các con thích thú nâng niu gà trong hai bàn tay nương nhẹ, khum khum khép hờ, mấy chú gà ngẩng cổ, đôi mắt tròn xoe như hạt cườm, bộ lông tơ mịn màng phủ lớp nhung êm.
Các con yêu thích loài vật, thỏ thẻ nói chuyện với chó, mèo, gà, vịt, quây quần bên nhau vẽ hình con gà, con vịt, bằng khối óc tưởng tượng non nớt, trông rất dễ thương. Đôi khi bí quá, Tuấn “phịa” ra mẫu chuyện gà vịt “cự nhau, trở thành cao bồi bắn súng” thật ngộ nghĩnh. Câu chuyện vẽ tranh cứ nối dài, hết trang tập nầy sang trang tập khác. Các con đưa trí tưởng tượng đi thật xa.
Dzũng chạy qua nhà bà Đóa, kề vách nhà tôi hỏi:
- Bà bác ơi, mẹ cháu nói con trâu, con bò, có bốn chân, đẻ ra con, thì con con mở mắt và đi liền. Sao cháu thấy con thỏ cũng có bốn chân, mới đẻ, nó cứ nhắm tít mắt đó. Bà bác à!
- Mèn ơi! Cái chiện đó, bác hổng gành, bác chịu thua. Ít nữa lớn lên, đi học cao, cháu hỏi thầy giáo một mình ên. Cháu hén.
Huy tinh nghịch lấy ống vố của ngoại, móc lên vành tai, con ngửa mặt lên trời cười tươi, lộ ra mấy chiếc răng thưa, bé tí xíu, lấp ló trên níu hồng ươn ướt. Hơi thở âm ấm phả ra từ cánh mũi phập phồng, làm nồng thêm từng tế bào trong lòng mẹ.
Chưa quen bạn hàng xóm, nên mấy anh em thường chở nhau trên chiếc xe đạp có năm bánh con con, có ghế ngồi ở yên sau. Nhiều lần, anh em mỗi đứa cầm một trái cà chua mọng chín, chở nhau trong sân nhà, vô ý té lăn cù như quả bóng, mà các con không khóc, lại cười vang.


_ * _

Kính mời quý độc giả xem tiếp chương 19
Trân trọng,
Ái Ưu Du

Users browsing this topic
Guest (78)
11 Pages«<56789>»
Forum Jump  
You cannot post new topics in this forum.
You cannot reply to topics in this forum.
You cannot delete your posts in this forum.
You cannot edit your posts in this forum.
You cannot create polls in this forum.
You cannot vote in polls in this forum.