Welcome Guest! To enable all features please Login or Register.

Notification

Icon
Error

Viêt về các Thi Sĩ tài hoa Việt Nam
viethoaiphuong
#1 Posted : Wednesday, March 17, 2010 4:00:00 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
HỮU LOAN

Vào lúc 19g00 tối nay 18.3.2010, nhà thơ Hữu Loan, tác giả của bài thơ "Màu tím hoa sim" đã vĩnh viễn từ giã cõi đời khi chuẩn bị bước sang tuổi 95 (12.4.1916 – 18.3.2010). Trong lúc chờ đợi con cái về đông đủ, bà Nhu, vợ ông và 4 người con ở quê đã khâm liệm đặt ông vào quan tài yên nghỉ vào lúc 23g cùng ngày.
Nhà thơ Hữu Loan tên đầy đủ là Nguyễn Hữu Loan, quê làng Vân Hoàn, xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Ông đậu tú tài nhưng về quê mở trường dạy học và hoạt động phong trào Mặt trận Bình dân. Năm 1943 , ông gây dựng phong trào Việt Minh. Cách mạng Tháng Tám nổ ra, ông làm Phó chủ tịch Uỷ ban khởi nghĩa huyện Nga Sơn. Sau Cách mạng Tháng Tám, ông được cử làm Uỷ viên Văn hóa trong Uỷ ban hành chính lâm thời tỉnh Thanh Hóa, phụ trách các ty: Giáo dục, Thông tin, Thương chính và Công chính. Kháng chiến chống Pháp ông thuộc Đại đòan 304. Sau năm 1954, ông làm việc tại báo Văn Nghệ
Bài thơ "Đèo cả" mở đầu sự nghiệp thi văn của ông đã vang danh khắp chiến trường kháng chiến chống Pháp. Tiếp đó, người vợ đầu tiên Nguyễn Thị Ninh mất (1949) và ông nghe tin dữ khi đang trên đường hành quân khiến ông đã viết lên những vần thơ bất hủ "Màu tím hoa sim" đi sâu vào lòng người cho đến tận bây giờ và có lẽ cũng là mãi mãi.
Lấy người vợ thứ hai vào năm 1954, bà Nguyễn Thị Nhu, ông tiếp tục làm ở báo Văn Nghệ cho đến khi bị đi tù với nỗi oan nghiệt dính vào nghiệp văn chương. Ra tù, ông trở về quê đục đá kiếm sống nuôi 10 người con và sống với những ký ức vừa đẹp đẽ vừa đau thương cho đến ngày hôm nay, bên cạnh người vợ tần tảo, thủy chung.
Đêm nay, xin thắp một nén hương thiêng vĩnh biệt linh hồn người thi sĩ đáng kính.

Ngân Hà


Điều ít biết về 'Màu tím hoa sim' của Hữu Loan


Đến nay, "Màu tím hoa sim" được xem là một trong những bài thơ tình hay nhất của thế kỷ 20 và là bài thơ đầu tiên được mua bản quyền bởi một doanh nghiệp với giá 100 triệu đồng. Nhưng quanh sự kiện này, cũng không ít độc giả còn thắc mắc về bản cũ và bản mới chỉnh sửa sau này của bài thơ. Tại Sài Gòn, trước năm 1975, giới văn nghệ sĩ cũng như đông đảo bạn đọc yêu thích thơ nhạc đều rất quen thuộc với bài Màu tím hoa sim của nhà thơ Hữu Loan. Tuy bấy giờ tác giả đang sống ngoài Bắc, nhưng tác phẩm ấy đã chiếm một chỗ đứng trong lòng người yêu thơ miền Nam. Bài thơ được giới thiệu không những qua sách báo, mà còn được phổ nhạc, hát rộng rãi trên đài phát thanh, các buổi trình diễn văn nghệ trên sân khấu đương thời, nhất là vào những năm thập niên 60 của thế kỷ 20. Bản Màu tím hoa sim thời ấy ngắn hơn bản tác giả công bố sau này. Nghĩa là dừng lại, chấm hết ở mấy câu: "Tôi hát trong màu hoa. Áo anh sứt chỉ đường tà. Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu" chứ không có thêm “Tôi ví vọng về đâu. Tôi với vọng về đâu. Áo anh nát chỉ dù lâu...” ở cuối bài như sau này.

So với bản Màu tím hoa sim "nay" thì bản "xưa" tuy ngắn hơn nhưng ý thơ đi rất trọn nghĩa, trọn tình, không trúc trắc, không khiến người đọc phải dừng lại suy nghĩ. Nhà thơ có quyền sửa thơ của mình, hoặc thêm vào những đoạn mới. Song về phía những độc giả đã cảm nhận, yêu thích, hoặc có những kỷ niệm gắn bó với Màu tím hoa sim theo bản cũ thì khó "làm quen" với những đoạn mới, chữ mới, với hơi thơ có vẻ xa lạ với bài thơ từng biết. Do vậy, một số độc giả đã tỏ ra tâm đắc với bài Màu tím hoa sim trước kia. Nhưng dù Màu tím hoa sim bản "xưa" hay "nay" vẫn chỉ để viết về một người, một mối tình.

Đó là người vợ trẻ Đỗ Thị Lệ Ninh đã mất sau ngày cưới không lâu vì chết đuối. Các anh của “nàng”, theo tài liệu của Hàn Anh Trúc là 3 người có thực ở chiến trường Đông Bắc. Đó là Đỗ Lê Khôi - tiểu đoàn trưởng hy sinh trên đồi Him Lam, Đỗ Lê Nguyên nay là Trung tướng Phạm Hồng Cư và Đỗ Lê Khang - nguyên Thường vụ Trung ương Đoàn. Hữu Loan kể và Hàn Anh Trúc ghi lại trong một cuốn biên khảo văn học rằng, bố vợ ông trước kia làm thanh tra nông lâm ở Sài Gòn nên “vợ mình sinh ở trong ấy, quen gọi mẹ bằng má”, bài thơ mới có câu “má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối”. Hàn Anh Trúc viết là Hữu Loan sáng tác bài thơ ngay tại mộ người vợ trẻ, rồi: "ghi vào chiếc quạt giấy để lại nhà một người bạn ở Thanh Hóa. Bạn anh đã chép lại và chuyền tay nhau suốt những năm chiến tranh". Điều đó đã được chính nhà thơ Hữu Loan xác nhận.

(Tin Net)




Nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng
Có em chưa biết nói
Khi tóc nàng đang xanh
Tôi người vệ quốc quân
xa gia đình
Yêu nàng như yêu người em gái.
Ngày hợp hôn
Nàng không đòi may áo mới
Tôi mặc đồ quân nhân
đôi giày đinh bết bùn
Đất hành quân
Nàng cười xinh xinh
bên anh chồng độc đáo

Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi
Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến binh
Mấy người đi trở lại
Lỡ khi mình không về
thì thương người vợ chờ bé bỏng chiều quê......
Nhưng không chết
Người trai khói lửa
Mà chết
Người gái nhỏ hậu phương.
Tôi về không gặp nàng
Má ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
thành bình hương
tàn lạnh vây quanh
Tóc nàng xanh xanh
ngắn chưa đầy búi
Em ơi giây phúp cuối
Không được nghe nhau nói
Không được nhìn nhau một lần
Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa
một mình
đèn khuya
bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo
ngày xưa...

Lời tự thuật của HỮU LOAN

Tôi sinh ra trong một gia đình nghèo, hồi nhỏ không có cơ may cắp sách đến trường như bọn trẻ cùng trang lứa,chỉ được cha dạy cho dăm chữ bữa có bữa không ở nhà . Cha tôi tuy là tá điền nhưng tư chất lại thông minh hơn người. Lên trung học, theo ban thành chung, tôi cũng học tại Thanh Hóa, không có tiền ra Huế hoặc Hà Nội học . Đến năm 1938 , lúc đó cũng đã 22 tuổi, tôi ra Hà Nội thi tú tài, để chứng tỏ rằng con nhà nghèo cũng thi đỗ đạt như ai. Tuyệt nhiên tôi không có ý định dấn thân vào chốân quan trường. Ai cũng biết thi tú tài thời Pháp rất khó khăn .Số người đậu trong kỳ thi đó rất hiếm, hiếm đến nỗi 5-6 chục năm sau những người cùng thời còn nhớ tên những người đậu khóa ấy , trong đó có Nguyễn Đình Thi , Hồ Trọng Gin, Trịnh văn Xuấn , Đỗ Thiện và ...Tôi - Nguyễn Hữu Loan.

Với mảnh tú tài Tây trong tay, tôi rời quê nhà lên Thanh Hóa để dạy học. Nhãn mác con nhà nghèo học giỏi của tôi được bà tham Kỳ chú ý, mời về nhà dạy cho hai cậu con trai. Tên thật của bà tham Kỳ là Đái thị Ngọc Chất ,bà là vợ của của ông Lê Đỗ Kỳ , tổng thanh tra canh nông Đông Dương, sau này đắc cử dân biểu quốc hội khóa đầu tiên . Ở Thanh Hóa, Bà tham Kỳ có một cửa hàng bán vải và sách báo, tôi thường ghé lại xem và mua sách, nhờ vậy mới được bà để mắt tới.

Bà tham Kỳ là một người hiền lành, tốt bụng, đối xử với tôi rất tốt, coi tôi chẳng khác như người nhà .Nhớ ngày đầu tiên tôi khoác áo gia sư, bà gọi mãi đứa con gái - lúc đó mới 8 tuổi- mới chịu lỏn lẻn bước ra khoanh tay, miệng lí nhí: ' Em chào thầy ạ'Chào xong, cô bé bất ngờ mở to đôi mắt nhìn thẳng vào tôi. Đôi mắt to, đen láy, tròn xoe như có ánh chớp ấy đã hằng sâu vào tâm trí tôi, theo tôi suốt cả cuộc đời. Thế là tôi dạy em đọc, dạy viết. Tên em là Lê Đỗ Thị Ninh, cha làm thanh tra nông lâm ở Sài Gòn nên sinh em trong ấy, quen gọi mẹ bằng má. Em thật thông minh, dạy đâu hiểu ấy nhưng ít nói và mỗi khi mở miệng thì cứ y như một 'bà cụ non'. Đặc biệt em chăm sóc tôi hằng ngày một cách kín đáo: em đặt vào góc mâm cơm chỗ tôi ngồi ăn cơm lúc thì vài quả ớt đỏ au, lúc thì quả chanh mọng nước em vừa hái ở vườn; những buổi trưa hè, nhằm lúc tôi ngủ trưa, em lén lấy áo sơ mi trắng tôi treo ở góc nhà mang ra giếng giặt ...

Có lần tôi kể chuyện ' bà cụ non' ít nói cho hai người anh của em Ninh nghe, không ngờ chuyện đến tai em, thế là em giận! Suốt một tuần liền em nằm lì trong buồn trong, không chịu học hành... Một hôm, bà tham Kỳ dẫn tôi vào phòng nơi em đang nằm thiếp đi. Hôm ấy tôi đã nói gì, tôi không nhớ nữa, chỉ nhớ là tôi đã nói rất nhiều, đã kể chuyện em nghe, rồi tôi đọc thơ...Trưa hôm ấy, em ngồi dậy ăn một bát to cháo gà và bước ra khỏi căn buồng. Chiều hôm sau, em nằng nặc đòi tôi đưa lên khu rừng thông. Cả nhà không ai đồng ý: ' mới ốm dậy còn yếu lắm, không đi được đâu' Em không chịu nhất định đòi đi cho bằng được. Sợ em lại dỗi nên tôi đánh bạo xin phép ông bà tham Kỳ đưa em lên núi chơi .....

Xe kéo chừng một giờ mới tới được chân đồi. Em leo đồi nhanh như một con sóc, tôi đuổi theo muốn đứt hơi. Lên đến đỉnh đồi, em ngồi xuống và bảo tôi ngồi xuống bên em.Chúng tôi ngồi thế một hồi lâu, chẳng nói gì. Bất chợt em nhìn tôi, rồi ngước mắt nhìn ra tận chân trời, không biết lúc đó em nghĩ gì. bất chợt em hỏi tôi:

-Thầy có thích ăn sim không ?
Tôi nhìn xuống sườn đồi: tím ngắt một màu sim. Em đứng lên đi xuốn sườn đồi, còn tôi vì mệt qúa nên nằm thiếp đi trên thảm cỏ... Khi tôi tỉnh dậy, em đã ngồi bên tôi với chiếc nón đầy ắp sim. Những qủa sim đen láy chín mọng.
-Thầy ăn đi.

Tôi cầm quả sim từ tay em đưa lên miệng trầm trồ: “Ngọt qúa.”
Như đã nói, tôi sinh ra trong một gia đình nông dân, qủa sim đối với chẳng lạ lẫm gì, nhưng thú thật tôi chưa bao giờ ăn những qủa sim ngọt đến thế!
Cứ thế, chúng tôi ăn hết qủa này đến qủa khác.Tôi nhìn em, em cười. hai hàm răng em đỏ tím, đôi môi em cũng đỏ tím, hai bên má thì... tím đỏ một màu sim. Tôi cười phá lên, em cũng cười theo!

Cuối mùa đông năm ấy, bất chấp những lời can ngăn, hứa hẹn can thiệp của ông bà tham Kỳ, tôi lên đường theo kháng chiến. Hôm tiễn tôi, em theo mãi ra tận đầu làng và lặng lẽ đứng nhìn theo. Tôi đi lên tới bờ đê, nhìn xuống đầu làng ,em vẫn đứng đó nhỏ bé và mong manh. Em giơ bàn tay nhỏ xíu như chiếc lá sim ra vẫy tôi. Tôi vẫy trả và lầm lũi đi...Tôi quay đầu nhìn lại...em vẫn đứng yên đó ...Tôi lại đi và nhìn lại đến khi không còn nhìn thấy em nữa...

Những năm tháng ở chiến khu, thỉnh thoảng tôi vẫn được tin tức từ quê lên, cho biết em vẫn khỏe và đã khôn lớn. Sau này, nghe bạn bè kể lại, khi em mới 15 tuổi đã có nhiều chàng trai đên ngỏ lời cầu hôn nhưng em cứ trốn trong buồng, không chịu ra tiếp ai bao giờ ....

Chín năm sau, tôi trở lại nhà, về Nông Cống tìm em. Hôm gặp em ở đầu làng, tôi hỏi em , hỏi rất nhiều, nhưng em không nói gì, chỉ bẽn lẽn lắc hoặc gật đầu. Em giờ đây không còn là cô học trò Ninh bướng bỉnh nữa rồi. Em đã gần 17 tuổi, đã là một cô gái xinh đẹp...

Yêu nhau lắm nhưng tôi vẫn lo sơ,ï vì hai gia đình không môn đăng hộ đối một chút nào. Mãi sau này mới biết việc hợp hôn của chúng tôi thành công là do bố mẹ em ngấm ngầm'soạn kịch bản'.
Một tuần sau đó, chúng tôi kết hôn. Tôi bàn việc may áo cưới thì em gạt đi, không đòi may áo cưới trong ngày hợp hôn, bảo rằng là:'yêu nhau, thương nhau cốt là cái tâm và cái tình bền chặt là hơn cả'. Tôi cao ráo, học giỏi, Làm thơ hay...lại đẹp trai nên em thường gọi đùa là anh chồng độc đáo. Đám cưới được tổ chức ở ấp Thị Long,huyện Nông Công, tỉnh Thanh Hóa của gia đình em, nơi ông Lê Đỗ Kỳ có hàng trăm mẫu ruộng. Đám cưới rất đơn sơ, nhưng khỏi nói , hai chúng tôi hạnh phúc hơn bao giờ hết!

Hai tuần phép của tôi trôi qua thật nhanh, tôi phải tức tốc lên đường hành quân, theo sư đoàn 304, làm chủ bút tờ Chiến Sĩ. Hôm tiễn tôi lên đường, Em vẫn đứng ở đầu làng, nơi chín năm trước em đã đứng. Chỉ giờ em không còn cô bé Ninh nữa, mà là người bạn đời yêu qúy của tôi. Tôi bước đi, rồi quay đầu nhìn lại...Nếu như chín năm về trước, nhìn lại chỉ thấy một nỗi buồn man mát thì lần này, tôi thật sự đau buồn. Đôi chân tôi như muốn khuỵu xuống.

Ba tháng sau, tôi nhận được tin dữ: vợ tôi qua đời! Em chết thật thảm thương: Hôm đó là ngày 25 tháng 5 âm lịch năm 1948, em đưa quần áo ra giặt ngoài sông Chuồn( thuộc ấp Thị Long, Nông Cống), vì muốn chụp lại tấm áo bị nước cuốn trôi đi nên trượt chân chết đuối! Con nước lớn đã cuốn em vào lòng nó, cướp đi của tôi người bạn lòng tri kỷ, để lại tôi nỗi đau không gì bù đắp nổi. Nỗi đau ấy, gần 60 năm qua, vẫn nằm sau thẳm trong trái tim tôi .

Tôi phải giấu kính nỗi đau trong lòng, không được cho đồng đội biết để tránh ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu của họ. Tôi như một cái xác không hồn... Dường như càng kèm nén thì nỗi đau càng dữ dội hơn. May sao, sau đó có đợt chỉnh huấn, cấp trên bảo ai có tâm sự gì cứ nói ra, nói cho hết. Chỉ chờ có thế, cơn đau trong lòng tôi được bung ra. Khi ấy chúng tôi đang đóng quân ở Nghệ An, Tôi ngồi lặng đi ở đầu làng, hai mắt tôi đẫm nước, tôi lấy bút ra ghi chép. Chẳng cần phải suy nghĩ gì, những câu những chữ mộc mạc cứ trào ra:

Nhà nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng có em chưa biết nói
Khi tóc nàng đang xanh ...
...Tôi về không gặp nàng....

Về viếng mộ nàng, tôi dùng chiếc bình hoa ngày cưới làm bình hương, viết lại bài thơ vào chiếc quạt giấy để lại cho người bạn ở Thanh Hóa.. Anh bạn này đã chép lại và truyền tay nhau trong suốt những năm chiến tranh. Đó là bài thơ Màu Tím Hoa Sim.

Đến đây, chắc bạn biết tôi là Hữu Loan, Nguyễn Hữu Loan, sinh ngày 2-4-1916 hiện tại đang 'ở nhà trông vườn' ở làng Nguyên Hoàn - nơi tôi gọi là chỗ 'quê đẻ của tôi đấy' thuộc xã Mai Lĩnh, huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hóa.

Em Ninh rất ưa mặc áo màu tím hoa sim. Lạ thay, nơi em bị nước cuốn trôi dưới chân núi Nưa cũng thường nở đầy những bông hoa sim tím. Cho nên tôi viết mới nổi những câu :

Chiều hành quân, qua những đồi sim
Những đồi sim, những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim, tím cả chiều hoang biền biệt
Và chiều hoang tím có chiều hoang biếc
Chiều hoang tim tím thêm màu da diết.

Mất nàng, mất tất cả, tôi chán đời, chán kháng chiến, bỏ đồng đội, từ giã văn đàn về quê làm ruộng, một phần cũng vì tính tôi' hay cãi, thích chống đối, không thể làm gì trái với suy nghĩ của tôi'. Bọn họ chê tôi ủy mị, hoạch hoẹ đủ điều, không chấp nhận đơn từ bỏ kháng chiến của tôi. Mặc kệ! Tôi thương tôi, tôi nhớ hoa sim của tôi qúa! với lại tôi cũng chán ngấy bọn họ qúa rồi!
Đó là thời năm 1955 - 1956, khi phong trào văn nghệ sĩ bùng lên với sự xuất hiện của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm chống chính sách độc tài, đồng thời chống những kẻ bồi bút cam tâm lừa thầy phản bạn, dốc tâm ca ngợi cái này cái nọ để kiếm chút cơm thừa canh cặn. Làm thơ phải có cái tâm thật thiêng liêng thì thơ mới hay. Thơ hay thì sống mãi. Làm thơ mà không có tình, có tâm thì chả ra gì! Làm thơ lúc bấy giờ là phải ca tụng, trong khi đó tôi lại đề cao tình yêu, tôi khóc người vợ tử tế của mình, người bạn đời hiếm có của mình. Lúc đó tôi khóc như vậy họ cho là khóc cái tình cảm riêng...Y như trong thơ nói ấy, tôi lấy vợ rồi ra mặt trận, mới lấy nhau chưa được hơn một tháng, ở nhà vợ tôi đi giặt rồi chết đuối ở sông ...Tôi thấy đau xót, tôi làm bài thơ ấy tôi khóc, vậy mà họ cho tôi là phản động.. Tôi phản động ở chỗ nào? Cái đau khổ của con người, tại sao lại không được khóc?

Bọn họ xúc phạm đến tình cảm thiêng liêng của tôi đối với người vợ mà tôi hằng yêu qúy, cho nên vào năm 1956, tôi bỏ đảng, bỏ cơ quan, về nhà để đi cày. Họ không cho bỏ, bắt tôi phải làm đơn xin. Tôi không xin, tôi muốn bỏ là bỏ, không ai bắt được! Tôi bỏ tôi về, tôi phải đi cày đi bừa, đi đốn củi, đi xe đá để bán. Bọn họ bắt giữ xe tôi, đến nỗi tôi phải đi xe cút kít, loại xe đóng bằng gỗ, có một bánh xe cũng bằng gỗ ở phía trước, có hai cái càng ở phía sau để đủn hay kéo. Xe cút kít họ cũng không cho, tôi phải gánh bộ. Gánh bằng vai tôi, tôi cũng cứ gánh, không bao giờ tôi bị khuất phục. Họ theo dõi, ngăn cản, đi đến đâu cũng có công an theo dõi, cho người hại tôi....Nhưng lúc nào cũng có người cứu tôi! Có một cái lạ là thơ của tôi đã có lần cứu sống tôi ! Lần đó tên công an mật nói thật với tôi là nó được giao lệnh giết tôi, nhưng nó sinh ở Yên Mô, thường đem bài Yên Mô của tôi nói về tỉnh Yên Bình quê nó ra đọc cho đỡ nhớ, vì vậy nó không nỡ giết tôi.

Ngoài Yên Mô, tôi cũng có một vài bài thơ khác được mết chuộng. sau năm 1956 , khi tôi về rồi thấy cán bộ khổ qúa, tôi đã làm bài Chiếc Chiếu, kể chuyện cán bộ khổ đến độ không có chiếc chiếu để nằm!

Định mệnh đưa đẩy, dắt tôi đến với một phụ nữ khác, sống cùng tôi cho đến tận bây giờ. Cô tên Phạm Thị Nhu, cũng là phụ nữ có tâm hồn sâu sắc. Cô vốn là một nạn nhân của chiến dịch cải cách ruộng đất, đấu tố địa chủ năm 1954- 1955.

Lúc đó còn là chính trị viên của tiểu đoàn, tôi thấy tận mắt những chuyện đấu tố. Là người có học , lại có tâm hồn nghệ sĩ nên tôi cảm thấy chán nản qúa, không còn hăng hái nữa. Thú thật, lúc đó tôi thất vọng vô cùng. Trong một xã thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, cách xa nơi tôi ở 15 cây số, có một gia đình địa chủ rất giàu, nắm trong gần năm trăm mẫu tư điền.
Trước đây, ông địa chủ đó giàu lòng nhân đạo và rất yêu nước. Ông thấy bộ đội sư đoàn 304 của tôi thiếu ăn ,nên ông thường cho tá điền gánh gạo đến chỗ đóng quân để ủng hộ. Tôi là trưởng phòng tuyên huấn và chính trị viên của tiểu đoàn nên phải thay mặt anh em ra cám ơn tấm lòng tốt của ông, đồng thời đề nghị lên sư đoàn trưởng trao tặng bằng khen ngợi để vinh danh ông . Thế rồi, một hôm, Tôi nghe tin gia đình ông đã bị đấu tố . Hai vợ chồng ông bị đội Phóng tay phát động quần chúng đem ra cho dân xỉ vả, rồi chôn xuống đất, chỉ để hở hai cái đầu lên. Xong họ cho trâu kéo bừa đi qua đi lại hai cái đầu đó, cho đến chết. Gia đình ông bà địa chủ bị xử tử hết, chỉ có một cô con gái 17 tuổi được tha chết nhưng bị đội Phóng tay phát động đuổi ra khỏi nhà với vài bộ quần áo cũ rách. Tàn nhẫn hơn nữa, chúng còn ra lệnh cấm không cho ai được liên hệ, nuôi nấng hoặc thuê cô ta làm công. Thời đó , cán bộ cấm đoán dân chúng cả việc lấy con cái địa chủ làm vợ làm chồng .

Biết chuyện thảm thương của gia đình ông bà địa chủ tôi hằng nhớ ơn, tôi trở về xã đó xem cô con gái họ sinh sống ra sao vì trước kia tôi cũng biết mặt cô ta. Tôi vẫn chưa thể nào quên được hình ảnh của một cô bé cứ buổi chiều lại lén lút đứng núp bên ngoài cửa sổ ,nghe tôi giảng Kiều ở trường Mai Anh Tuấn.

Lúc gần tới xã, tôi gặp cô ta áo quần rách rưới, mặt mày lem luốc. Cô đang lom khom nhặt những củ khoai mà dân bỏ sót, nhét vào túi áo, chùi vội một củ rồi đưa lên miệng gặm, ăn khoai sống cho đỡ đói. Qúa xúc động, nước mắt muốn ứa ra, tôi đến gần và hỏi thăm và được cô kể lại rành rọt hôm bị đấu tố cha mẹ cô bị chết ra sao. Cô khóc rưng rức và nói rằng gặp ai cũng bị xua đuổi ; hằng ngày cô đi mót khoai ăn đỡ đói lòng, tối về ngủ trong chiếc miếu hoang, cô rất lo lắng, sợ bị làm bậy và không biết ngày mai còn sống hay bị chết đói.

Tôi suy nghĩ rất nhiều, bèn quyết định đem cô về làng tôi, và bất chấp lệnh cấm, lấy cô làm vợ.

Sự quyết định của tôi không lầm. Quê tôi nghèo, lúc đó tôi còn ở trong bộ đội nên không có tiền, nhưng cô chịu thương chịu khó , bữa đói bữa no....Cho đến bây giờ cô đã cho tôi 10 người con - 6 trai , 4 gái- và cháu nội ngoại hơn 30 đứa!

Trong mấy chục năm dài, tôi về quê an phận thủ thường, chẳng màng đến thế sự, ngày ngày đào đá núi đem đi bán, túi dắt theo vài cuốn sách cũ tiếng Pháp, tiếng Việt đọc cho giải sầu, lâu lâu nổi hứng thì làm thơ. Thế mà chúng vẫn trù dập, không chịu để tôi yên. Tới hồi mới mở cửa, tôi được ve vãn, mời gia nhập Hội Nhà Văn, tôi chẳng thèm ra nhập làm gì.
Năm 1988, tôi ' tái xuất giang hồ' sau 30 năm tự chôn và bị chôn mình ở chốn quê nghèo đèo heo hút gío. Tôi lang bạt gần một năm trời theo chuyến đi xuyên Việt do hội văn nghệ Lâm Đồng và tạp chí Langbian tổ chức để đòi tự do sáng tác, tự do báo chí - xuất bản và đổi mới thực sự.

Vào tuổi gần đất xa trời, cuối năm 2004, công ty Viek VTB đột nhiên đề nghị mua bản quyền bài Màu Tím Hoa Sim của tôi với gía 100 triệu đồng. Họ bảo, đó là một hình thức bảo tồn tài sản văn hóa. Thì cũng được đi. Khoản tiền 100 triệu trừ thuế đi còn 90 triệu, chia 'lộc' cho 10 đứa con hết 60 triệu đồng, tôi giữ lại 30 triệu đồng, phòng đau ốm lúc tuổi gìa, sau khi trích một ít để in tập thơ khoảng 40 bài mang tên Thơ Hữu Loan.

Sau vụ này cũng có một số công ty khác xin ký hợp đồng mua mấy bài thơ khác nhưng tôi từ chối, thơ tôi làm ra không phải để bán./.

* Hữu Loan.
1 user thanked viethoaiphuong for this useful post.
Sonk on 1/2/2017(UTC)
viethoaiphuong
#2 Posted : Sunday, April 4, 2010 6:54:14 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
CUỘC ĐỜI ĐINH HÙNG

NGƯỜI THI SĨ YỂU MỆNH




Thi sĩ Đinh Hùng sinh ngày 3/7/1920, thuộc người làng Phượng Dực tỉnh Hà Đông nay thuộc huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Tây. Ông là con của cụ Hàn Phụng, một gia đình trung lưu, từ lâu đã ra lập nghiệp ở Hà Nội. Khi còn sống thi sĩ Đinh Hùng cho biết, ông được hoài thai vào năm 1919 trên đất xứ người là Phi Luật Tân (Philippines) nhưng lại ra đời ở Việt Nam ngay trại Trung Phụng gần toà Khâm Thiên Giám cũ, Hà Nội.

Đinh Hùng là con út gồm sáu anh chị em : anh cả là Đinh Lân, các chị là Loan, Yến, Hồng, Oanh. Chị Đinh Thục Oanh lớn hơn Đinh Hùng một tuổi sau lấy thi sĩ Vũ Hoàng Chương. Thuở nhỏ thi sĩ Đinh Hùng theo bậc tiểu học tại trường Sinh Từ, rồi bậc trung học tại trường trường Bưởi, Hà Nội. Và sau khi đậu bằng Cao đẳng Tiểu học hạng bình thứ ông được học bổng theo ban chuyên khoa để thi Tú tài bản xứ thì “thần Ái tình đã hiện đến cùng một lúc với sự thành công đầy hứa hẹn” (theo lời kể của ông anh rể Vũ Hoàng Chương), khiến ông bỏ ngang để đi viết văn, làm thơ.

Và hình như gia đình thi sĩ Đinh Hùng đa số mọi người đều yểu mệnh, chưa ai bước qua khỏi tuổi 60. Năm 1931, người chị thứ ba của thi sĩ tên Tuyết Hồng tự tử tại hồ Trúc Bạch vì một mối tình duyên trắc trở. Mấy tháng sau cha ông cũng qua đời khi chưa đến tuổi 50. Ba năm sau, người chị lớn nhất của ông cũng qua đời. Còn nếu tính đến ông khi mất vào ngày 24/8/1967, thì cũng chỉ mới hưởng dương có 48 tuổi !

Nói về thân thế sự nghiệp của thi sĩ Đinh Hùng. Năm 1943, ông theo sống với chị là bà Thục Oanh và thi sĩ Vũ Hoàng Chương tức anh rể của ông. Cũng năm này, ông cho xuất bản tập văn xuôi Đám ma tôi (NXB Tân Việt) và thơ đăng trên Hà Nội tân văn của Vũ Ngọc Phan, Giai phẩm Đời Nay của nhóm Tự Lực văn đoàn… Nhưng thật sự bắt đầu nổi tiếng với bài thơ “Kỳ Nữ” mà Thế Lữ in trong truyện Trại Bồ Tùng Linh.

Năm 1944, sau khi thi sĩ Vũ Hoàng Chương cưới bà Thục Oanh đưa về Nam Định sinh sống, Đinh Hùng ở lại Hà Nội và cho ra đời giai phẩm Dạ Đài, với sự cộng tác của một số bạn như Trần Dần, Trần Mai Châu, Vũ Hoàng Địch, Mai Châu… Cùng năm này, ông cùng vợ là bà Nguyễn Thị Thanh về Thái Bình dạy học. Khi ấy, Vũ Hoàng Chương và vợ đang ở đó.

Năm 1949, ông lại cùng gia đình trở lại Hà Nội. Tại đây ông cho ấn hành giai phẩm Kinh Đô văn nghệ (1952) và Mê Hồn ca (1954).

Tháng 8 năm 1954, thi sĩ Đinh Hùng và gia đình di cư vào Nam, cộng tác với tờ nhật báo Tự Do của Phạm Việt Tuyền, có sự cộng tác của Tam Lang, Mặc Đỗ, Mặc Thu, Như Phong… Năm 1955, nhật báo Tự Do đình bản, ông về cộng tác với Đài phát thanh Sài Gòn, phụ trách ban thi ca Tao Đàn, chuyên về thơ ca, cho đến hết đời. (Ban thi ca tao đàn từng đưa những tên tuổi ca sĩ như Hồng Vân, Hoàng Oanh thành những người đọc và ngâm thơ hay nhất lúc bấy giờ).

Ngoài việc làm thơ ký bút hiệu Đinh Hùng, ông còn dùng bút hiệu Thần Đăng khi làm thơ châm biếm và Hoài Điệp Thứ Lang lúc viết tiểu thuyết. Ông viết tiểu thuyết dã sử Cô gái gò Ôn khâu, Người đao phủ thành Đại La và làm thơ trào phúng đăng trên báo Tự Do, báo Ngôn Luận.

Năm 1961, Đinh Hùng cho in tập Đường vào tình sử (đoạt giải Văn chương về thi ca năm 1962). Năm 1967, cho ra tuần báo Tao Đàn thi nhân, nhưng mới phát hành được 2 số thì ông mất lúc 5 giờ sáng ngày 24 tháng 8 năm 1967 tại bệnh viện Bình Dân, Sài Gòn, vì bệnh ung thư gan.

Sau khi ông mất, nhà xuất bản Giao điểm cho phát hành tác phẩm Ngày đó có em vào ngày 16 tháng 10 năm 1967. Ngoài những tác phẩm kể trên, thi sĩ Đinh Hùng còn có 8 tác phẩm chưa xuất bản: Tiếng ca bộ lạc (thơ), Tiếng ca đầu súng (hồi ký), Dạ lan hương (văn xuôi), Sử giả (tùy bút), Vần điệu giao tình (cảo luận) và 3 kịch thơ: Lạc lối trần gian, Phan Thanh Giản, Cánh tay hào kiệt.
Mặc dù Đinh Hùng có viết văn, viết kịch, nhưng ông nổi tiếng là nhờ thơ. Các thi phẩm như Mê Hồn ca, Đường vào tình sử là hai thi phẩm nổi trội.



Trong Từ điển Văn học có nhận xét về ông như sau:

“Đinh Hùng là người tài hoa, có khả năng hội họa, biết chơi vĩ cầm, thích thú với môn thư pháp bằng chữ quốc ngữ… và sống phóng túng, có khi như một lãng tử.

“Ở phần đầu Mê hồn ca, thơ ông bộc lộ một cảm giác cô độc đặc biệt đến bi thiết: Bài ca man rợ, Những hướng sao rơi, Người con gái thiên nhiên…Ở phần hai với tiêu đề Thần tượng, chứa đựng những vần thơ tôn giáo hóa tình yêu: Kỳ nữ, Hoa sử, Hương trinh bạch…. Một khía cạnh khác của thơ Đinh Hùng là sự ám ảnh của thế giới bên kia: Gửi người dưới mộ, Cầu hôn, Tìm bóng tử thần…

Hiện tượng này hẳn liên quan đến nhiều chuyện tang tóc bất bình thường, trong thời gian ngắn, liên tục đổ ập xuống đời sống của tác giả thưở thanh thiếu niên.

“Thơ Đinh Hùng hàm súc, lối thao tác “tụ” và “tán” nhanh chóng, những “từ” và “tứ” đột xuất, khiến thơ ông có khả năng gây được cộng cảm, dễ lưu vào tâm trí người đọc”.(bộ mới, NXB Thế giới, 2004)

Tình thơ trong thi phẩm Đinh Hùng

Nhà thơ, nhà văn thường có tính tình lãng mạn, trữ tình, như ở thuở thanh niên thi sĩ Đinh Hùng đang được cấp học bổng để theo học ban chuyên khoa. Nhưng vào một ngày đẹp trời thì “tiếng sét ái tình” bỗng nhiên đánh trúng tim ông:



Có chàng mang lòng thương
Đi dạo muôn con đường.
Một hôm dừng trước mộng,
Yêu nàng tên Tần Hương
.
Tần Hương - Đường vào tình sữ

Người đẹp ấy tên là Kiều Hương, nhưng ông sợ gây rắc rối cho nàng khi đi lấy chồng nên sửa tên là Tần Hương. Mối tình ấy của Đinh Hùng tuy là mối tình đầu nhưng không sâu sắc, vì chỉ là tình yêu đơn phương. Nên khi nàng Kiều Hương đi lấy chồng, ông không buồn như nhà thơ Kiên Giang Hà Huy Hà từng thất tình khi nghe người yêu đi lấy chồng để có một thi phẩm bất hủ “Hoa trắng thôi cài trên áo tím”. Còn ông chỉ có 2 bài thơ mang tên “Tần Hương” và “Bài hát mùa thu” đăng trong tập thơ Đường vào tình sử.

Mối tình thứ hai mới thực sự mãnh liệt và ghi dấu suốt đời trong tâm khảm của nhà thơ. Nàng là một cô bé họ xa, tên Bích Liên, thỉnh thoảng đến chơi nơi trại Trung Phụng của ba ông, nên thi sĩ Đinh Hùng có dịp quen thân. Thuở ấy nàng còn bé nhưng xinh đẹp tuyệt vời, và vì tên nàng là Liên nên Đinh Hùng viết :

Người đẹp ngày xưa tên giống hoa,
Mùa xuân cây cỏ biếc quanh nhà.
Thùy hương phảng phất sen đầu hạ,
Lén bước trang đài tới gặp ta.

Liên tưởng – ĐVTS

Hai người mỗi ngày một lớn, tình yêu cũng cùng với tháng năm mà lớn dần theo, cô bé Liên càng ngày càng đẹp. Hai người yêu nhau nhưng trong mối tình hoàn toàn trong trắng. Không may nàng Liên bị bệnh phổi nặng, sắc đẹp ngày càng kỳ ảo và huyền hoặc khiến ông cứ ngất ngây, trong khi đó sức khỏe của nàng cứ hao mòn rồi từ giã cõi đời vào khoảng năm 1940. Đó là cái chết thứ tư của người thân yêu mà Đinh Hùng chứng kiến trong khoảng thời gian chưa tới mười năm

Mất Liên, thi sĩ Đinh Hùng đau đớn như điên dại:

Qua xứ ma sầu, ta mất trí,
Thiêu đi tập sách vẽ hoa nguyền.
Trời ơi ! Trời ơi ! Làn tử khí,
Lạc lõng hương thầm đóa Bạch Liên
.
Cầu hồn - Mê hồn ca


Từ đó Đinh Hùng thường làm những bài thơ “Chiêu niệm”, tên Liên được thay thế bằng những tên khác, nào Diệu Hương, Diệu Thư, nào Ý Liên, Bạch Liên, Diệu Liên, nào Em Buồn, Em Đau Thương, Sầu Hoài Thương Nữ, nào Thần Nữ, Kỳ Nữ v.v… nhưng thực ra cũng chỉ có một nàng Bích Liên thôi. Khi nàng chết, Đinh Hùng bỏ trường đi sống lang bạt kỳ hồ, khi dạy học ở Hà Đông, lúc gia nhập một ban nhạc tài tử đi trình diễn ở vùng Bắc Cạn. Đi đâu Đinh Hùng cũng mang theo tấm di ảnh của nàng Bích Liên.

Nhà văn Mai Thảo thuật:

“Tôi được biết là sau ngày người con gái mang tên Liên từ trần, Đinh Hùng bỏ đi đến Hải Dương… Vượt Hồng Hà, bỏ Hà Nội, chàng tuổi trẻ khóc ngất, không mang theo gì hết ngoài nỗi đau đớn và một tấm hình. Đó là di vật cuối cùng của Liên…”



Ai đã gặp thi sĩ Đinh Hùng một lần thì khó lòng quên được. Thân hình mảnh mai, nước da xanh như tàu lá, đôi chân ngắn, bàn tay đẹp như bàn tay con gái mềm mại thon thon, và rất đẹp khi “vân vê” điếu thuốc lào hay khi lướt nhẹ trên chiếc vĩ cầm. Đôi mắt mơ hồ và huyền hoặc dường như luôn luôn in bóng một trời thơ diệu kỳ và mộng ảo. Giọng nói Đinh Hùng rất đặc biệt, nó “vang vang mà nhừa nhựa, nửa như thoát lên cao cùng mây, nửa như la đà cùng khói” (Hoàng Hương Trang).

Ngay lúc nằm trên giường bệnh, giọng nói ấy cũng vẫn còn nồng nàn nỗi yêu đời và niềm lưu luyến tình người. Còn vẻ bề ngoài, ông bao giờ cũng chải chuốt, tứ thời bát tiết lúc nào cũng diện complet thắt cravate cho dù là mùa hè đỏ lửa, đầu chải láng, miệng ngậm pipe, đôi vai nghiêng bởi chiếc cặp dày và nặng trĩu. Gặp bạn thơ thì mừng rỡ, chèo kéo bắt uống cho bằng được một vài ly để rồi say sưa nói về chuyện văn thơ không dứt.

Tạ Tỵ gợi lại một vài kỷ niệm :“Có những đêm đông Hà Nội tôi đến thăm Hùng tại căn nhà cổ nằm sâu trong ngõ hẹp ở cửa ô Cầu Rền, chẳng cách xa phường Dạ Lạc là bao. Ở tuổi hoa niên, tôi quen nhiều bạn biết uống rượu, nhưng tôi chưa thấy ai uống hào bằng Đinh Hùng và Văn Cao. Riêng Hùng có thể uống hai lít đế không cần đồ nhắm, vì thế Hùng mới có gan đối ẩm với Tản Đà hàng nửa ngày trời”. Và cũng vì thế mà bạn bè không ai cảm thấy bất ngờ khi hay tin Hùng bị ung thư gan ở tuổi 48.

Những tác phẩm thi ca của Đinh Hùng Thi sĩ Đinh Hùng có hai thi phẩm lớn là Mê Hồn ca và Đường vào tình sử là nổi bật hơn hết. Cho nên các nhà thơ tên tuổi vào những năm 60, 70 thế kỷ trước từng tranh cãi về giá trị của hai tập thơ này. Theo nhà thơ Sa Giang Trần Tuấn Kiệt chọn Đường Vào Tình Sử, thì nhà văn Trần Phong Giao lại chọn Mê Hồn Ca. Trần Tuấn Kiệt nói :“Mê Hồn Ca tuy đặc biệt nhưng thua xa tiếng thơ của tập Đường Vào Tình Sử”. Còn Trần Phong Giao nói :“Ai cũng bảo Mê Hồn Ca là tuyệt tác, chỉ có ́mình cậu là khác”. Rồi Trần Phong Giao khẳng định : “Trong tất cả những tác phẩm của Đinh Hùng, gặp trường hợp chỉ được quyền cất giữ một cuốn thì tôi sẽ không ngần ngại gì trong việc chọn lựa Mê Hồn Ca . Vì đó là tất cả vũ trụ thơ anh .Vì đó là tất cả Anh "

Nhận định về thi phẩm Mê Hồn Ca, nhà nghiên cứu Phạm Việt Tuyền cho rằng “thi phẩm này thuộc loại thơ nói ít hiểu nhiều, cái hay cốt ở chỗ sử dụng nghệ thuật ném hỏa mù mơ mộng lên những mảnh thực tại tản mác, điều mà Đinh Hùng chắc đã chịu ảnh hưởng ít nhiều nơi các nhà thơ tượng trưng của Pháp như Baudelaire, Rimbaud. Thế giới Mê Hồn Ca là thế giới của đắm đuối say mê, của hoang sơ man dại, của chết chóc lạnh lùng, của nhiệm mầu huyền bí. Tình yêu trong Mê Hồn Ca thiết tha, mănh liệt và kinh khủng. Có nhà thơ nào đã xây dựng được cả một khu nghĩa trang huyền ảo như những bài Tìm bóng tử thần, Màu sương linh giác, Cầu hồn, Thoát duyên trần cấu, Gửi người dưới mộ… như Đinh Hùng?”Còn nhà thơ nhà giáo Bàng Bá Lân cũng thích Mê Hồn Ca hơn Đường Vào Tình Sử, thích nhất Bài Ca Man Rợ vì bài thơ này rất giàu vần điệu và gợi hình, nhạc thơ toàn bài hùng mạnh một cách man rợ hợp với nhan đề..

Những ngày cuối cùng của Đinh Hùng

Vào trưa ngày 23/8/1967 – trước ngày Đinh Hùng mất – các bạn thơ và văn nghệ sĩ họp mặt trong một quán nhỏ, nhà văn Thanh Nam bộc bạch đọc bốn câu thơ mà ông rất thích

Khi tôi ngồi xuống ở bên em,
Giở tập thư xưa đọc trước đèn.
Vẫn ngọn đèn mờ, trang giấy lạnh,
Tiếng mùa thu động, tiếng mưa đêm



Nhà thơ Kiên Giang Hà Huy Hà ở đó, tấm tắt khen thơ hay quá, nhưng khi hỏi xuất xứ thì nhà văn Thanh Nam không nhớ, chỉ biết đó là thơ Đinh Hùng trong cuốn Đường Vào Tình Sử. Về đến nhà nhà thơ Kiên Giang vội tìm cuốn Đường Vào Tình Sử để đọc bài thơ có bốn câu ấy. Đó là bài Gặp nhau lần cuối.

Tháng 7 năm 1967 khi bệnh tình của thi sĩ Đinh Hùng bỗng trở nặng, các thân hữu liền đưa ông vào bệnh viện Bình Dân để cứu chữa, nhưng bệnh ung thư chỉ có thầy tiên thuốc thánh mới cứu nổi.

Khi nhà thơ Tô Kiều Ngân vào thăm thì “trước mắt tôi không phải là chàng thơ phong vận từng bơi qua Hồ Tây, từng đánh đàn mandoline trong các phòng trà, nói chuyện có duyên, làm thơ tình ái rất hay. Người nằm đó chỉ là một bệnh nhân, mắt rất buồn, hơi thở mệt nhọc, đang chờ mổ mà tin tưởng thì rất mong manh… Người thơ của chúng ta trầm mình trong nỗi cô đơn giữa bốn bức tường bệnh viện lạnh lùng, đôi vai gầy, gầy thêm, khuôn mặt nhỏ, nhỏ thêm. Cuộc sống ở đây hoàn toàn bị lùi xa, bị tách rời”.

Có những người “vô danh” tình nguyện cho ông máu để đủ sức chịu đựng khi giải phẫu, nhưng đến nơi thì ông đã đuối quá ra đi rồi.

Tô Kiều Ngân viết tiếp : “Trước giờ liệm Hùng, tôi giở tấm vải trắng nhìn anh lần chót. Mớ tóc xõa ra, đôi mắt nhắm nghiền, da mặt trắng xanh. Buồn quá, không ngờ Hùng chết nhanh như vậy. 48 năm, thôi thế cũng được, 48 năm miệt mài với thơ, với nhạc, với Bộ lạc, Hải tần, Kỳ nữ, với “mây trắng bay đầy gối”, với “hiu hắt tiếng dương cầm”, đời anh toàn gắn liền với thơ, với rượu, kể ra đã thừa chất đẹp”

Hôm đưa tang Đinh Hùng vào chủ nhật 27-8-1967 tức 22 tháng 7 năm Đinh Mùi – là một ngày trong tiết thu sơ, bầu trời ảm đạm. Bạn bè đi đưa tuy không đông lắm nhưng ai nấy đều chan chứa trong lòng niềm tiếc thương vô hạn một nhà thơ tài hoa mà yểu mệnh.

“Bên chiếc huyệt đào sẵn, Vũ Hoàng Chương gọi lớn : “Đinh Hùng ! Đinh Hùng !” nhưng người thơ phong vận không bao giờ lên tiếng nữa. Bậc đàn anh Vi Huyền Đắc ngậm ngùi bên bờ huyệt, Vũ Khắc Khoan lặng lẽ ném một hòn đất xuống quan tài. Thanh Nam bỏ ra ngoài lặng lẽ đưa khăn lau mắt, Hoàng Anh Tuấn khóc lăn bên nấm mộ… Khi ra về, đi bên cạnh Tuấn, tôi mới hỏi “Toa hôm nay xúc động quá nhỉ !”Tuấn nói “Đâu mình có khóc Đinh Hùng, khóc cho mình đấy chứ !” (Ký giả Lô-Răng).

Và như lời tiên tri, thi sĩ Đinh Hùng từng có bài thơ “Cung đàn tưởng niệm” để khi ông chết như một di chúc để lại cho mọi người, đọc khi đến viếng mộ ông, một thi sĩ tài danh yểu mệnh :

Cung đàn tưởng niệm

Khi anh chết, các Em về đây nhé,
Vị chút tình lưu luyến với nhau xưa.
Anh muốn thấy các em cùng nhỏ lệ,
Tay cầm hoa, xoã tóc đứng bên mồ.
oOo
Em lả lướt, Em là Buồn cố kết,
Tự ngày anh ra sống kiếp trần ai.
Em khóc cho anh mối hận tình dài,
Em nói cho anh tấm lòng cô lữ.
oOo
Và em nữa, ôi Sầu-Hoài-Thương-Nữ!
Anh thường mê tiếng hát của Em xưa.
Những ngày vui, bóng mộng mất không ngờ,
Em thân ái vẫn cùng anh tưởng nhớ.
oOo
Anh quên đấy: còn người em duyên số,
Em đã về chưa nhỉ? Hỡi Đau Thương!
Nhớ cùng Em đối bóng mấy canh trường,
Tự đêm ấy cầm tay nhau không nói…
oOo
Anh tưởng niệm các Em về một buổi,
Ở bên mồ, cỏ úa sắc chiều rơi.
Ngược Sông Mê, bàng bạc nẻo luân hồi,
Sầu rũ tóc, ngậm ngùi in khóe mắt.
oOo
Anh đã thấy dáng Em Buồn cúi mặt,
Anh cảm lòng vì lệ của Thương đau.
Các Em sang vĩnh biệt tấm thân sầu,
Các Em khóc các Em buồn lắm nhỉ?
oOo
Phải xa anh, từ đây đường nhân thế,
Các Em đi, phiêu bạt giữa thời gian.
Và từ đây trong khe núi, bên ngàn,
Các Em dạo, làm những hồn oan khổ.
oOo
Anh bơ vơ lạc trên đường thiên cổ,
Lạnh tâm tư, mờ tỏ ánh tinh cầu.
Mất anh rồi, Các Em sẽ về đâu



Đinh Hùng chết để sự nghiệp thơ ông trở thành bất tử” (Văn học hiện đại).

NGUYỄN VIỆT
viethoaiphuong
#3 Posted : Tuesday, April 13, 2010 2:17:39 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)


ĐINH HÙNG

"Qua xứ ma sầu... gửi người dưới mộ"


"Trời cuối thu rồi – Em ở đâu?
Nằm bên đất lạnh chắc em sầu?
Thu ơi! Đánh thức hồn ma dậy
Ta muốn vào thăm nấm mộ sâu

Em mộng về đâu?
Em mất về đâu?
Từng đêm tôi nguyện, tôi cầu
Đấy màu hương khói là màu mắt xưa

Em đã về chưa?
Em sắp về chưa?
Trăng sao tắt, ngọn đèn mờ
Ta nằm rỏ lệ đọc thơ gọi hồn

Em hãy cười lên vang cõi âm
Khi trăng thu lạnh bước đi thầm
Những hồn phiêu bạt bao năm trước
Nay đã vào chung một chỗ nằm

Cười lên em!
Khóc lên em!
Đâu trăng tình sử
Nép áo trần duyên?
Gót sen tố nữ
Xôn xao đêm huyền
Ta đi, lạc xứ thần tiên
Hồn trùng dương hiện bóng thuyền U Minh

Ta gởi bài thơ anh linh
Hỏi người trong mộ có rùng mình?
Nắm xương khô lạnh còn ân ái?
Bộ ngực bi thương vẫn rợn tình?
Hỡi hồn tuyết trinh!
Hỡi người tuyết trinh!
Mê em, ta thoát thân hình
Nhập hồn cây cỏ, đa tình mỗi đêm

Em có vui thêm?
Em có buồn thêm?
Ngồi bên cửa mộ
Kể cho ta biết nỗi niềm

Thần chết cười trong bộ ngực điên
Ta nghe em thở tiếng ưu phiền
Nỗi lòng xưa dậy tan thanh vắng
Hơi đất mê người – Trăng hiện lên."

(Gửi người dưới mộ - Mê hồn ca – Đinh Hùng)


Bài thơ trên của Đinh Hùng chứa đầy u sầu, thương nhớ, đưa chúng ta vào một thế giới liêu trai ma quái, nhưng thấm đẫm tình yêu. Yêu thương nhau sâu đậm, khi phải chia xa vì cái chết ai cũng thốt lên tiếng nấc đau thương tận đáy lòng. Cuộc đời Đinh Hùng đã bị chứng kiến và ám ảnh bởi cái chết. Cái chết của những người thân trong gia đình, cái chết của người yêu. Nỗi đau sâu đậm chất ngất trời mây đã được Đinh Hùng thể hiện trong thơ. Đọc xong bài thơ "Gửi người dưới mộ" của Đinh Hùng, chúng ta đều cảm thấy rờn rợn trong hồn.

Đinh Hùng sinh ngày 3 tháng 7 năm 1920 tại làng Phương Dực, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Tây. Ông là bạn thân của nhà văn Thạch Lam. Và nhà thơ Vũ Hoàng Chương là anh rể của ông. Từ tuổi đôi mươi Đinh Hùng đã bắt đầu sáng tác thơ, văn và có thơ được đăng trên Hà Nội Tân Văn của Vũ Ngọc Phan, giai phẩm Đời Nay của Tực Lực Văn Đoàn. Trong sáng tác, Đinh Hùng còn ký các bút danh Hoài Điệp Thứ Lang, Thần Đăng. Năm 1943, Đinh Hùng xuất bản tập văn xuôi "Đám ma tôi" . Ông được nhà thơ Thế Lữ khuyến khích, bắt đầu nổi tiếng trên thi đàn với bài thơ "Kỳ nữ".

Năm 1944, Đinh Hùng cùng với các nhà thơ: Trần Dần, Vũ Hoàng Địch, Trần Mai Châu chủ trương thực hiện giai phẩm Dạ Đài. Những người thực hiện và phát hành giai phẩm Dạ Đài với "bản tuyên ngôn tượng trưng". Đây là một tuyên ngôn nghệ thuật được người đương thời chú ý. Đinh Hùng, Trần Dần, Vũ Hoàng Địch, Trần Mai Châu... tự nhận mình là thi sĩ tượng trưng và tuyên bố: "Chúng tôi sẽ nối lại nghiệp dĩ của Baudelaire, tâm sự của Nguyễn Du – sự nổi loạn và ra đi của Rimbaud – nỗi cô đơn của những nhà thơ lãng mạn. Chúng tôi sẽ vén cao bức màn nhân ảnh, viết lên quỹ đạo của trăng sao – đường về trên cõi chết... Thi sĩ tượng trưng chúng tôi sẽ nói lên và chỉ nói lên bằng hình tượng, thứ ngôn ngữ tân kỳ, ngôn ngữ của thế giới yêu ma, của những thế giới thần nhân mà cũng là thế giới âu sầu đây nữa. Bằng hình tượng, chúng tôi sẽ kể lại những câu chuyện xa xưa người ta kể cho chúng tôi nghe dưới ngọn đèn. Chúng tôi sẽ tìm hiểu linh hồn của những ca dao, tục ngữ. Chúng tôi sẽ tượng trưng hóa cái sức rung động của trẻ em trước chuyện cổ tích hoang đường và sức rung động của gã nông phu trước những bản đồng dao thuần phác..."

Với ý thưởng của tuyên ngôn ấy, năm 1954, Đinh Hùng cho ra đời tập thơ "Mê hồn ca" .

"Mê hồn ca" xuất hiện trên thi đàn giữa thời loạn ly, đất nước chia đôi nên việc phát hành có phần hạn chế. Tuy vậy, ai đã đọc "Mê hồn ca" cũng đều bị cuốn hút, ám ảnh bởi hình ảnh ma mỵ liêu trai, ám ảnh bởi sự sống đầy mộng mị của trần gian và chốn âm cảnh. Và, cảm phục trí tưởng tượng bay bổng đầy sáng tạo của Đình Hùng:

"Lòng đã khác ta trở về đô thị
Bỏ thiên nhiên huyền bí của ta xưa
Bóng ta đi trùm khắp lối hoang sơ
Và chân bước nghe chuyển rung đồi suối
Lá cỏ sắc vương đầy trên tóc rối
Ta khoác vai manh áo đẫm hương rừng
Rồi ta đi khí núi bốc trên lưng
Mắt hung ác và hình dung cổ quái
Trông thấy ta cả cõi đời kinh hãi
Dòng sông con nép cạnh núi biên thùy
Đường châu thành quằn quại dưới chân đi
Xao động hết loài cỏ hoa đồng nội
Người và vật nhìn ta không dám nói
Chân lảng xa, từng cặp mắt e dè
Ta ngẩn ngơ nhìn theo bóng ngựa xe
Nhìn theo mãi đến khi đời lánh cả
Và ta thấy hiện nguyên hình sơn dã..."

(Trích Bài ca man rợ - Đinh Hùng)


Năm 1954, Đinh Hùng vào sống ở Sài Gòn. 1955, ông công tác và là cột trụ của mục Tao Đàn của đài phát thanh Sài Gòn. Năm 1961, Đinh Hùng xuất bản tập thơ "Đường vào tình sử" . Thì, đến năm 1962, với "Đường vào tình sử" Đinh Hùng đoạt giải thưởng thi ca miền Nam. Thế Phong, nhà thơ, nhà văn, nhà biên luận đã nhận định: "Đinh Hùng làm vinh dự cho giải, giải thơ không tạo vinh dự cho Đinh Hùng".

"Đường vào tình sử" đánh dấu một hướng mới trong sáng tác thơ ca của Đinh Hùng. "Mê hồn ca" là câu chuyện thơ đầy mộng mỵ, ma quái, bí hiểm như truyện Bồ Tùng Linh, còn "Đường vào tình sử" đời hơn, thực hơn – là những bài thơ tình đẹp, đưa chúng ta vào một thế giới tình yêu đầy hương sắc. Đinh Hùng đã viết những câu thơ đẹp rung động con tim của bao người:

"Chưa gặp em tôi vẫn nghĩ rằng
Có nàng thiếu nữ đẹp như trăng
Mắt xanh lả bóng dừa hoang dại
Thăm thẳm nhìn tôi, không nói năng

Bài thơ hạnh ngộ đã trao tay
Ôi mộng nào hơn giấc mộng này?
Mùi phấn em thơm mùa hạ cũ
Nửa như hoài vọng, nửa như say

Em đến như mây, chẳng đợi kỳ
Hương ngàn gió núi, động hàng mi
Tâm tư khép mở đôi tà áo
Hò hẹn lâu rồi – Em nói đi

Em muốn đôi ta mộng chốn nào?
Ước nguyền đã có gác trăng sao
Chuyên tâm tình dưới hoa thiên lý
Còn lối bâng khuâng: Ngõ trúc đào

Em chẳng tìm đâu cũng sẵn thơ
Nắng trong hoa, với gió bên hồ
Đành rằng em đấy, khi tình tự
Ta sẽ đi về những cánh xưa

Rồi buồn ưu sầu, em với tôi
Nhìn nhau cũng đủ lãng quên đời
Vai kề một mái thơ phong nguyệt
Hạnh phúc xa xa mỉm miệng cười."

(Tự tình dưới hoa – Đinh Hùng)


Bài thơ đã được nhạc sĩ Phạm Đình Chương phổ nhạc mang tên "Mộng dưới hoa" làm đắm say bao người yêu thơ, yêu nhạc.
Đinh Hùng đã từ giã cõi đời vào ngày 24/8/1967 tại Sài Gòn vì bệnh ung thư.

Cùng với thơ, Đinh Hùng còn viết tiểu thuyết dã sử. Tác phẩm đã xuất bản: Cô gái gò Ôn Khâu, Người đao phủ thành Đại La. Trước khi qua đời, Đinh Hùng đã hoàn thành nhiều tác phẩm nhưng chưa kịp xuất bản, gồm có: Tiếng ca bộ lạc (Thơ), Tiếng ca đầu súng (Ký), Dạ lan hương (Văn xuôi), Sứ giả (Tùy bút), Vần điệu giao tình (Cảo luận). Về kịch thơ có: Cánh tay hào kiệt, Phan Thanh Giản, Lạc lối trần gian.
Đinh Hùng là một con người tài hoa trong cuộc sống và văn chương. Rất tiếc tuổi thọ của ông thật ngắn ngủi. Nhưng, tác phẩm thơ của ông sẽ sống mãi với thời gian.

LÊ NGỌC TRÁC
viethoaiphuong
#4 Posted : Monday, May 24, 2010 7:58:43 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)


Về Thơ Nguyễn Tất Nhiên
Nguyễn Kỳ Phong

Dear Friends:

Tôi viết bài này vì có một cô gái viết thư hỏi tôi biết thơ Nguyễn Tất Nhiên không, và biết thì xin post dùm ... Bài viết này là câu trả lời của tôi đối với cô ta. Nguyễn Tất Nhiên chết đã được 8 năm, Trần Thúy Anh (tên cô gái gởi thư cho tôi) đã biến mất, tôi già hơn bốn tuổi, và một vài bài thơ của Nhiên đã được 32 năm. Duyên --người tình muôn thuở của Nhiên đã yên phận, có chồng, có con. Bích, em trai của Duyên và là bạn đồng môn với tôi, thì biệt tích. Tôi post lên đây để nhớ về một người bạn đã qúa cố. Và cũng là một nhà thơ tôi thích từ khi biết yêu thơ và yêu những mối tình. Những chữ nằm trong ngoặc là comments của người viết bài nàỵ

Giữa tôi và Nhiên (Anh Nhiên thì đúng hơn, vì Nhiên lớn hơn tôi 4 tuổi và học trên tôi 4 lớp. Nhưng khi tôi vào học năm thứ nhất ban Triết ở Văn Khoa thì chung ban với Nhiên.) có liên hệ không gần mà cũng không xa, đủ để cùng vui khi nhắc lại những hoài niệm về Biên Hòa khi Nhiên còn sống; và cũng đủ buồn khi nghĩ về cái chết của Nhiên. Những bài thơ dưới đây nằm trong tập thơ Thiên Tai, làm năm 1970, rồi cả gan đem vào trường bán từng lớp học (trong đó có lớp của Duyên người tình dang dở của Nhiên). Khi Nhiên sáng tác những bài thơ này, thì liên hệ của Duyên và Nhiên đã hết. Tình cảm của Nhiên trong lúc này là tình cảm của một kẻ bị phụ tình. Bài thơ "Bài Thấm Mệt Đầu Tiên" mở đầu cho tập thơ Thiên Tai.

Bài Thấm Mệt Đầu Tiên

Nguyễn Tất Nhiên

1.
Tình mới lớn, phải không em, rất thích?
Cách tập tành nào cũng dễ thương
Thuở đầu đời chú bé soi gương
Và mê mãi, dĩ nhiên làm lạ !

Tình mới lớn, phải không em, rất lạ ?
Cách tập tành nào cũng ngượng như nhau
Thuở đầu đời chú bé ôm phao
Và nhút nhát, dĩ nhiên ngộp nước

2.
Tôi có cánh buồm tấp về ký ức
Em có chỗ ngồi quyên lãng như mây...

3.
Dù cát bụi nhiều phen dấy loạn
Cũng yên nằm mang phân bón cho cây
Nên bao giờ tôi cũng phải thương tôi
(những ích kỷ nẩy sinh sau lần thảm bại !)

Tuổi mười lăm giữa con trai, con gái
Đã rỏ ràng ai khờ khạo hơn ai
Nên bao giờ tôi cũng phải thương tôi
(những ích kỷ nẩy sinh sau lần nhục nhã !)

4.
Em có một đời rong xanh mơ đá
Tôi có ngàn năm say khướt hận thù !

5.
Tình mới lớn, phải không em, rất mỏng
Cách tập tành nào cũng dể hư hao
Thuở đầu đời cầm đũa thấp cao
Và nâng chén, dĩ nhiên đổ vỡ

6.
Khi mòn mỏi nghe đời mình trắc trở
Hơn lúc nào tôi quá đổi thương tôi !


[Bài này làm trong lúc Nhiên thật si mê Duyên, một bài thơ thất tình rất thảm não]


Tình Một Hai Năm

Nguyễn Tất Nhiên

1.
Và thơ tôi gom hết cho người
Rất tội nghiệp như dòng sông nước cạn !

2.
Chiều nay trời mưa trên tóc nhuộm
Không biết người có sợ tàn phai ?

3.
Tình một hai năm chưa phải tình dài
Cũng không thể gọi là tình mới !

Tôi vẫn đơị như ngày tôi đã đợi
Vẫn ngậm tình về như buổi ngậm tình đi
(Nghĩa là tôi vẫn ấp úng chuyện yêu người
Cơ khổ như những lời thú tội !)

4.
Tình chóng vỡ khi gần nhau quá vội
Tôi làm sao can đảm ngắm tro tàn ?!
Nên cuộc đời cứ thế run run
Gió thì lạnh tay chẳng màng đánh lửa !

Tôi vẫn đợi, đợi người thêm chút nữa
Tự an ủi mình khi cắn nỗi sầu đau:
--Tình một hai năm chưa bạc mái đầu
Chưa tuyệt vọng (bởi vì chưa hy vọng !)

5.
Chiều nay trời mưa trên tóc nhuộm
Xơ xác người tôi thấy buồn chưa tôi ?

6.
Tình còn đầy là tình còn xa xôi
Tình im lặng là tình không chết yểu !

7.
Cha mẹ sinh tôi --thằng con bất hiếu
Thề thốt thương người hơn cả song thân !

(1970)


[Duyên có đạo. Và Biên Hoà có một nhà thờ lớn, bên trong trường Khiết Tâm. Những buổi sáng hay trưa, Nhiên thường ngồi trong một quán cafe tên Quán Tuyệt, nằm dọc theo quốc lộ 1, để nhìn những cô gái có đạo đi nhà thờ này. Người viết bài --không đạo--nhưng có theo một cô gái thường đi nhà thờ này ...]

Linh Mục

Nguyễn Tất Nhiên

1.
Dĩ vãng là địa ngục
giam hãm đời muôn năm
Tôi--người yêu dĩ vãng
Nên sống gần Sa-tăng
Ngày kia nghe lời quỷ
Giáng thế thêm một lần
Trong kiếp người linh mục
Xao gầy cơn điên trăng !

2.
Vì tôi là linh mục
Không mặc áo nhà giòng
Nên suốt đời hiu quạnh
Nên suốt đời lang thang !

Vì tôi là linh mục
Giảng lời tình nhân gian
Nên không có thánh kinh
Nên không có bổn đạo
Nên không có giáo đường
(Một tính đồ duy nhất
Vừa thiêu hủy lầu chuông !)

Vì tôi là linh mục
Phổ lời tình nhân gian
Thành câu thơ buồn bã
Nên hạnh phúc đâu còn
Nên người tình duy nhất
Vừa thiêu hủy lầu chuông !

Vì tôi là linh mục
Không biết mặt thánh thần
Nên tín đồ duy nhất
Cũng là đấng quyền năng !

3.
Tín đồ là người tình
Người tình ác qủy
Ác quỷ là quyền năng
Quyền năng là tín đồ
tín đồ là người tình
Thiêu hủy lầu chuông tôi
(Vì tôi là linh mục
Giảng lời tình nhân giang!)

4.
Vì tôi là linh mục
Không biết rửa tội người
Nên âm thầm lúc chết
Tội mình còn thâm vai...

(1970)


[Bài thơ sau đây là style tinh tuý nhất cuả Nguyễn T. Nhiên. "Nắng bờ sông" trong bài thơ là bờ sông Biên Hòa, một nơi có rất nhiều kỷ niệm với nhà thơ. Bài thơ nói lên sự thấm thía của một kẻ thất tình. Ngay bên bờ sông này là Ty Bưu Điện BiênHoà, nơi Nhiên ra chờ thư người tình ở một hộp thư lưu trữ.]


Nên Sầu Khổ Dịu Dàng

Nguyễn Tất Nhiên

1.
Những kỷ niệm đời xin hảy còn xanh
(có một ngày mình bỏ trường bỏ lớp
anh cũng đi như định luật trời dành !
em cũng đi như định luật trời dành !)

2.
Nắng bờ sông như màu trang vỡ cũ
Thuở học trò em làm khổ ai chưa ?!

3.
Anh muốn khóc trong buổi đầu niên học
Bàn tay xương cầm hơ hẫng văn bằng !

4.
Em hãy đứng trước gương làm dáng
Tự khen mình đẹp quá, đi em
(để mai kia mốt nọ có theo chồng
còn đôi chút luyến lưu thời con gái !)

Em hãy ra bờ sông nhìn nắng trải
Nhớ cho mình dáng dấp người yêu
(Lỡ dòng đời tóc điểm muối tiêu
còn giây phút chạnh lòng như mới...lớn !)

Mình hãy trách đời nhau nhiều hư hỏng
Rồi giận hờn cho kỷ niệm đầy tay
Thu miền nam không thấy lá vàng bay
Anh phải nói: buồn chúng ta màu trắng !

5.
Tình cứ đuổi theo người như chiếc bóng
Người thì không bắt bóng được bao giờ !

6.
Anh muốn khóc trong buổi đầu niên học
Bởi yêu em nên sầu khổ dịu dàng !

(1970)


[Một đêm giao thừa nằm nhớ về người yêu, biết rằng nàng sẽ bỏ mình ra đi. Bỏ mình như những buổi hoàng hôn từ giả mặt trời chiều. Yêu nhau, trong một ý nghĩa hiện sinh tuyệt đối, là một địa ngục không lối thoát cho hai người yêu và được yêu. Nguyễn Tất Nhiên theo ý nghĩ đó viết lên: "Những kẻ yêu nhau chẳng có thiên đàng." Chỉ có những người thất tình mới kinh nghiệm được tình cảm như Nhiên kinh nghiệm trong lúc này. Đây là một bài thơ khi Nhiên muốn tự tử vì một cuộc tình lần đầu tiên. Sau cùng, Nhiên tự tử vì cuộc đời. Baì thơ rất thuần túy của Nhiên.]

Hai trong ba bài thơ được phổ nhạc. Bài Trúc Đào rất ngây thơ, rất trẻ con.

Như Những Hoàng Hôn Bỏ mặt Trời

Nguyễn Tất Nhiên

1.
Tôi bắt đầu yêu hay bắt đầu dự tính ?
(Dự tính nào cũng thật ngây thơ !)
Tôi bắt đầu yêu hay bắt đầu già ?
(Khi mặc cả tình yêu cùng thù hận !)

2.
Xin đánh đổi cuộc đời này (lận đận !)
Bằng phút giây cầm được tay người !

3.
Em còn đứng bên bên dòng sông ngát lạnh
Cho hồn đầy mơ ước viễn vông
Tôi còn đứng bên dòng sông giá lạnh
Cho một mưu toan tự tử âm thầm

Ngày sắp hết năm sắp hết
Thời gian nào cho bốn mắt ta xanh ?
Thời gian nào đưa ta về địa ngục ?
(Những kẻ yêu nhau chẳng có thiên đàng !)

4.
Thế nào em cũng bỏ tôi
Như những hoàng hôn bỏ mặt trời !

5.
Tôi thốt lời tình như bảo vật
Em ngu si nên từ chối dễ dàng
Tôi ngu si nên làm người không tiếc của
(Hai kẻ yêu ngu si khó sống gần)

6.
Thế nào rôi tôi cũng giết tôi
Xin hận thù em suốt quảng đời !

7.
Tôi bắt đầu yêu hay bắt đầu dự tính ?
(Dự tính nào cũng thật ngây thơ !)
Tôi bắt đầu yêu hay bắt đầu già ?
(Khi mặc cả tình yêu cùng thù hận !)

8.
Như loài thiêu thân mê lửa ngọn
Buổi yêu em, tôi hăng hái lìa trần !


(30 Tết Tân Hợi, 1971)


Hai Năm Tình Lận Đận

Nguyễn Tất Nhiên


1.
Hai năm tình lận đận
hai đứa cùng xanh xao.
Mùa đông hai đứa lạnh
Hơi thở dài như nhau

Hai năm tình lận đận
Hai đứa cùng hư hao
(Em không còn thắt bính
nuôi dưỡng thời ngây thơ
anh không còn lính quýnh
giữa sân trường trao thư !)

Hai năm tình lận đận
Hai đứa đành xa nhau
Em vẫn còn mắt liếc
Anh vẫn còn nôn nao
Ngoài đường em bước chậm
Trong quán chiều anh ngóng cổ cao.

2.
Em bây giờ, có lẽ
Toan tính chuyện lọc lừa
Anh bây giờ, có lẽ
Xin làm người tình thua
Chuông nhà thờ đổ mệt
Tượng Chúa gầy hơn xưa
Chúa, bây giờ có lẽ
Rơi xuống trần gian, mưa
(dù sao thì Chúa cũng
là đàn ông...dại khờ)

Anh bây giờ có lẽ
Thiết tha hơn tín đồ
Nguyện làm cây thánh giá
Trên chót đỉnh nhà thờ
Cô đơn nhìn bụi bặm
Làm phân bón rêu xanh
(dù sao cây thánh giá
cũng được người nhân danh!)

3.
Hai năm tình lận đận
Em đã già hơn xưa !...


(1972)


Trúc Đào

Nguyễn Tất Nhiên

Trời nào đã tạnh cơn mưa
Mà giông tố cũ còn chưa muốn tàn ?
Nhà người, tôi quyết không sang
Thù người, tôi những đêm nằm nghiến răng
Quên người--nhất định tôi quên !
Mà sao gặp lại còn kiên nhẫn chào

Chiều xưa có ngọn trúc đào
Mùa thu lá rụng bay vào sân em
Mùa thu lá rụng êm đềm
Như cô với cậu cười duyên dại khờ
Bởi vì hai đứa ngây thơ
Tình tôi dạo ấy... là ngơ ngẫn nhìn!
Thế rồi, trăng sáng lung linh
Em mười sáu tuổi giận hờn vu vơ
Sang năm mười bảy, không ngờ
Tình tôi nít nhỏ ngồi mơ cũng thừa
Tôi mười bảy tuổi buồn chưa
Đầu niên học mới dầm mưa cả ngày !

Chiều nay ngang cổng nhà ai
Nhủ lòng, tôi chỉ nhìn cây trúc đào
Nhưng mà không hiểu vì sao
Gặp người xưa lại nhìn nhau mĩm cười ?!

(1973)


[Chuyện tình của Nhiên và Duyên kết thúc khi Duyên đậu tú tài 2 và lên Saigon học Luật. Nhiên trong khi đó ở lại Biên Hòa quằn quại trong nổi thất vọng của mình "...ta thằng ôm hận tú tài đôi, không biết tìm ai mà kể lể..." Biên Hòa là một thành phố rất nhỏ trong ý nghĩa ai cũng biết ai. Và khi Nhiên bắt đầu nói xấu về Duyên thì anh em của Duyên phản ứng bằng cách gây gổ với Nhiên và yêu cầu Nhiên đừng nhắc tới tên của Duyên nưã. Càng lúc Nhiên càng sống trong một trạng thái ân hận, nếu không nói là hối hận. Nhiên ngỏ lời xin Duyên tha thứ. Nhưng Duyên không bao giờ gặp lại Nhiên từ sau hai baì thơ "Duyên Của Tình Ta Con Gái Bắc" và "Bài Tạ Lỗi Cùng Người" được phổ biến.]

Duyên Của Tình Ta Con Gái Bắc

Nguyễn Tất Nhiên

Ta sẽ về thương lại nhánh sông xưa
Thương lại bónh hình năm năm truớc...

Em nhớ giữ tánh tình con gaí bắc
Nhớ điêu ngoa nhưng giả bộ ngoan hiền
nhớ thật thà nhưng thâm ý khoe khoang
nhớ cay đắng ngây thơ mà... xảo quyệt !
Ta sẽ nhớ dặn dò lòng nên tha thiết
Nên vội vàng tin tưởng chuyện vu vơ
Nên yêu đương bằng gương mặt khờ khờ
Nên hùng hổ...để đơị giờ thua thiệt !

Nghe nói em vừa thi rớt luật
Môi trâm anh tàn héo nụ xa vời
Mắt công nương thầm khép mộng-chân-trời
Xin tội nghiệp lần đầu em thất vọng
(Dù thật sự cũng đáng đời em lắm
Rớt đi Duyên rớt để thương người !)
Ta--thằng ôm hận tú tài đôi
Không biết tìm ai mà kể lể
Chim lớn thôi đành cam rớt lệ
Ngày ta buồn thần thánh cũng thôi linh !

Nếu vì em mà ta phải điên tình
Cơn giận dữ đã tận cùng mê muội
Thì đừng sợ Duyên ơi thiên tài yếu đuối
Tay tre khô mối mọt ăn luồn
Dễ gẩy dòn miểng vụn tả tơi xương
Khi tàn bạo siết cổ người yêu dấu !

Em chẳng bao giờ rung động cũ
Ta năm năm nghiệt ngã với tình đầu
Nên trở về như một con sâu
Lê chân mỏng qua những tàn cây rậm
Nuôi hy vọng sau ngàn mưa nắng lậm
Lá-xanh-em chưa dấu lở loang nào
Để ta còn thi sĩ nhất loài sâu
Nhìn lá nõn, tiếc, thèm...đâu dám cắn !

Nếu vì em mà thiên tài chán sống
Thì cũng vì em ta ngại bước xa đời !

(1972)
**************************

Bài Tạ Lổi Cùng Người

Nguyễn Tất Nhiên

1.
Năm Năm trời...ta làm tên quái đản
Cầu danh trên nước mắt của người tình
Năm năm trời có nhục, có vinh
Có chua, chát, ngọt bùi, cay, đắng...
Có hai mái đầu chia nhau thù oán
Có thằng ta trút nạn xuống vai em !

Năm năm trời có một tên Duyên
Ta ca tụng, rồi chính ta bôi lọ
Tình ta đẹp nhưng tính ta còn nít nhỏ
Nên lỗi lầm đã đục màu sông
Nếu em còn thương mến tuổi mười lăm
Xin nuốt hận mím môi cười xí xóa
Hồn ta đẹp nhưng đời ta thảm quá
Nên tị hiềm nhen nhúm giữa ngây thơ
Nếu em còn chút đỉnh mộng mơ
Xin rộng lượng thứ dung người-lỡ-dại !

Năm năm trời ta làm tên chiến bại
Tìm mưu thâm hạ thủ đê hèn
Và lần nào ta lén lút đâm em
Bằng những ngọn dao mù lòng quáng dạ
Duyên oằn oại cũng là Duyên sáng gía
Bởi trước đây ta đã tự đâm mình !

Năm năm trời đeo đuổi hư danh
Ta mấy kiếp vẫn là ta mắc nợ
Mình hậu thế cách chi mà gặp gỡ ?
Bởi vì ta không dễ được đầu thai !
Nếu được đầu thai, không dễ được làm người !
(Dù chỉ được làm người trên đất ...mọi !)

2.
Ta háo thắng, nên tưởng mình cứng cỏi
Tưởng đâu mình cứng cỏi giết tình yêu
Tưởng đâu mình quan - đế tuyệt đường siêu
Giờ ngã ngựa, tiểu nhân như ...Tào Tháo !

Tao haó thắng nên thành người trâng tráo
Bị đời khinh nên giở giọng khinh đời !
Kỷ niệm đầu thơm ngát cả đôi môi
Ta nông nổi đưa tay cầm chén máu !

3.
Năm năm trời có tình giông nghĩa bảo
Có con sông chờ cuốn kẻ quên bờ
Có trăm ngàn cành lá trúc đào khô
Rơi rụng trước sân nhà em thổn thức...

Duyên kiêu hãnh cũng là Duyên chết giấc !
Sau năm Năm hồn chắc lạnh như mồ (?)
Ta ngày này, tạ lổi một bài thơ
Em hãy rán thuộc lòng cho trẻ lại !

(1972)



*********************************
End note: Một bạn tên Hoàng Trâm có hỏi về tiểu sử của Nguyễn Tất Nhiên.

Đây là một vài chi tiết về anh :

Sanh năm 1952 tại quận Đúc Tu, Biên Hoà. Học trung học tại trường Ngô Quyền. Học 1 năm ở đại học Văn Khoa. Làm thơ rất sớm, và cũng vì đó mà cuộc đời lận đận. Ở lại với cộng sản cho đến năm 1978 thì trốn được qua Pháp, ba năm sau qua Hoa Kỳ.

Sau khi định cư tại Mỹ Nhiên lập gia đình với Nguyễn Thị Minh Thủy, một người bạn quen từ Biên Hoà. Hai người có được hai con trai. Nhưng cuộc sống bê tha của người nghệ sĩ không làm cho Thủy và Nhiên được hạnh phúc. Hai người ly thân, và Thủy quyết định dẫn hai đứa con bỏ đi. Trong khi đó Nhiên càng lúc càng trở nên bệ rạc với cuộc sống.

Vào một đêm của năm 1992, khi biết mình không còn ý nghĩa với cuộc đời nữa, Nhiên chạy xe đến một ngôi chùa mà Nhiên thường tạm trú. Đậu xe trong sân chùa, Nhiên uống thuốc và tự giết mình.

Cuộc đời của Nhiên có thể gom vào hai câu thơ mà anh đã làm:
"Ta mấy kiếp vẫn là ta mắc nợ
Hồn ta đẹp nhưng đời ta thảm quá "


Nguyễn Kỳ Phong
Virginia 2000
viethoaiphuong
#5 Posted : Friday, November 12, 2010 9:14:58 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
Lưu Trọng Lư với "người em sầu mộng"

Đôi mắt em lặng buồn
Nhìn thôi mà chẳng nói,
Tình đôi ta vời vợi
Có nói cũng không cùng.
Yêu hết một mùa đông
Không một lần đã nói,
Nhìn nhau buồn vời vợi
Có nói cũng không cùng.
Trời hết một mùa đông
Gió bên thềm thổi mãi,
Qua rồi mùa ân ái:
Đàn sếu đã sang sông.
Em ngồi trong song cửa
Anh đứng dựa tường hoa,
Nhìn nhau mà lệ ứa,
Một ngày một cách xa.
Đây là dải Ngân Hà,
Anh là chim Ô thước
Sẽ bắc cầu nguyện ước
Một đêm một lần qua.
Để mặc anh đau khổ,
Ái ân giờ tận số,
Khép chặt đôi cánh song!
Khép cả một tấm lòng!

===

…Em chỉ là người em gái thôi,
Người em sầu mộng của muôn đời,
Tình em như tuyết giăng đầu núi,
Vằng vặc muôn thu nét tuyệt vời.
Ai bảo em là giai nhân
Cho đời anh đau khổ?
Ai bảo em ngồi bên cửa sổ
Cho vướng víu nợ thi nhân?
Ai bảo em là giai nhân
Cho lệ tràn đêm xuân?
Cho tình tràn trước ngõ?
Cho mộng tràn gối chăn?

===

… Ngày hôm tiễn biệt buồn say đắm
Em vẫn đùa nô uống rượu say.
Em có biết đâu đời vắng lạnh,
Lạnh buồn như ngọn gió heo may.
Môi em đượm sặc mùi nho tươi,
Đôi má em hồng chúm nụ cười,
Đôi mắt em say màu sáng lạn,
Trán em để lỏng làn tóc rơi.

Nguồn: Trưng Vương


viethoaiphuong
#6 Posted : Tuesday, December 14, 2010 11:05:34 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)

Thi Sĩ Vũ Anh Khanh Và Bài Thơ Hận Tha La.


Bạn thân mến; Nếu bạn từng sống ở Sài Gòn và thường có lúc đi rảo mua sách thì chắc phải biết đến con phố sách báo cũ mang tên Đặng Thị Nhu thuộc phường Nguyễn Thái Bình, quận 1. Lòng con phố hơi chật vì các quầy kiosk sách báo nằm đối diện, kề sát nhau và chỉ để một lối đi ở chính giữa cho khách (có khi dẫn xe máy đi cùng) ra vào. Một đầu con phố tiếp với đường Ký Con và đầu phố còn lại thông ra đường Calmette. Anh Hữu, một người bạn lớn hơn tôi cả chục tuổi mà nhân trong một lần đi vượt biên chung, đã quen, có một kiosk bán sách ở con phố này và cả nhà dùng nó như một phương tiện mưu sinh sau cuộc đổi đời tháng 4 năm 1975. Nghề mua bán sách báo cũ, coi lèng xèng vậy mà kiếm ăn rất ngon chỉ kẹt cái là đọng vốn nhưng khi có khách cần đến thì cầm chắc có lời. Sách báo cũ được mua đi rồi bán lại ngay tại chỗ và chủ kiosk nào cũng có những mối quen trong nghề. Mối đây là người đến tìm mua sách về để họ bán lại và thường họ ở xa đâu đó ngoài miền Trung, thậm chí có mối ở tít tận Hà Nội. Mối cũng là những người có sách do họ lùng mua được rồi mang bán lại cho chủ kiosk. Thỉnh thoảng gặp khách cho địa chỉ mời đến tận nhà để xem sách họ có và muốn bán. Các dịp như vậy, chủ kiosk thường mua được một lúc khá nhiều sách giá trị và tất nhiên, sẽ là một món lời. Anh Hữu vẫn từng đến những chỗ mà khách cho địa chỉ nằm trong nội đô Sài Gòn hay ở Chợ Lớn, vùng Bình Thạnh hoặc khu dân Bắc di cư Gò Vấp. Ngoài những tựa sách quen có tiếng hoặc vì đã từng được khách lùng mua nên biết, còn thường thì anh Hữu vẫn lúng túng mỗi khi cầm quyển sách lạ trong tay. Đó là lý do mà anh hay rủ tôi đi chung cho vui, để có người góp ý với anh về các tựa sách lạ. Có lần, anh rủ tôi cùng đi Tha La.

Tha La, cái tên tôi thường nghe qua các bài hát như Tha La Xóm Đạo, Hận Tha La... và cũng biết nó nằm đâu đó trong vùng Trảng Bàng-Tây Ninh nhưng chưa lần nào có dịp đặt chân đến. Nhiều vùng quê miền Nam có các địa danh thật lạ như Hóc Ba Tó, Chắc Cà Đao, Muồng Luông, Soài Cả Nãi và Tha La... dường như từ gốc Khmer mà ra. Theo địa chỉ đã có, tôi và anh Hữu trực chỉ hướng Tây Bắc đi Hốc Môn rồi vượt Củ Chi và đến thành phố Trảng Bàng lúc gần trưa. Từ Trảng Bàng, theo một con đường đất đỏ (cũng về hướng Tây) mà hai bên là các thửa ruộng, rẫy chung với nhà dân hoặc các đám rừng cây lưa thưa, chúng tôi đi về một xã có tên là An Hòa khoảng 6, 7 cây số gì đó thì gặp Tha La. Đây là một xóm nhỏ với những nhà lợp tranh, mái ngói và cả nhà tôn nằm thấp thoáng sau hàng cây ăn trái như mít, xoài, ổi và dừa. Tha La, một miền quê do khung cảnh và cũng vì con đường chính cùng các ngõ nhỏ đều là đường đất đỏ. Mùi rạ, mùi đất bùn cùng mùi lá tre và cả mùi mít chín thơm thoang thoảng trong gió. Có những ngõ nhỏ đan chặt các hàng tầm vông, tre hoặc trúc trông thật mát mắt. Loanh quanh một hồi, chúng tôi tìm được nhà của người có sách muốn bán nằm riêng một ngõ với hai hàng trúc bao thành lối đi mát rượi dẫn vào bên trong. Chúng tôi chạy xe thẳng vào sân của một căn nhà vách ván gỗ xập xệ lợp ngói có chỗ đã bong mất hở cả mè cây đỡ mái. Căn nhà có một bàn thiên chính giữa mặt tiền cùng những cây cúc ngày tím sẫm, hoa vạn thọ vàng chóe chung với bụi mẫu đơn đỏ thắm. Chủ nhà ở phía sau nghe tiếng động liền ra xem rồi nhận ra anh Hữu, ông mời chúng tôi vào trong và lấy các sách muốn bán ra bày trên bộ ván ngựa xưa cũ. Mới trông qua thấy toàn sách xưa, những quyển mà dân bán sách cũ đang kiếm, anh Hữu chộp ngay các quyển: Kim Cổ Kỳ Quan, Châu Về Hợp Phố, Mai Hoa Dịch Tân Biên, Vạn Huê Lầu, Đông Chu Liệt Quốc, Long Trùng Quyết Sách... và số còn lại (khoảng hai chục quyển) là loại thường nhưng anh Hữu cũng mua hết nói dùng làm sách bày cho có trong kiosk. Theo lời gia chủ, sách vừa bán là do từ gia đình (ông ngoại) để lại từ lâu, nay vì cần tiền đành phải bán. Đồ đạc bài trí trong nhà ngoài các trang thờ bằng gỗ, tủ cẩn ốc xà cừ chưng hình ảnh ông bà, bộ ván ngựa thì còn có các tủ danh mộc đã cũ. Một nếp nhà khá giả xưa còn sót lại đang trong cảnh sa sút. Tôi hỏi thăm gia chủ ít điều về Tha La thì được biết nguyên thủy Tha La tên gốc từ chữ Schla của Khmer có nghĩa là trại hoặc nơi nghỉ mát rồi không biết từ khi nào, người Việt đọc Schla thành Tha La và địa danh này tồn tại cho tới bây giờ. Tha La hiện thuộc ấp An Hội của xã An Hòa (có 8 ấp) thuộc Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh và là một xứ đạo Thiên Chúa. Theo ông, từ thời vua Minh Mạng, dân theo đạo trốn chạy, lánh nạn vào đây (khi đó còn là rừng) rồi khai hoang lập ấp, xây dựng cuộc sống để bảo tồn nền đạo cùng niềm tin tâm linh. Ông cũng cho biết, trong Tha La nơi nhộn nhịp-trù phú nhất chính là khu vực dân cư sống chung quanh họ đạo gần ngôi thánh đường Thiên Chúa giáo. Cũng có một số người theo các tôn giáo khác như đạo Phật, thờ cúng ông bà... sống ở Tha La. Tôi hỏi thêm về bài hát mang tên Tha La Xóm Đạo, ông liền gật đầu rồi hát vài đoạn ngắn cho tôi cùng anh Hữu nghe như để khắng định và chỉ biết vậy, không hơn.



Họ Đạo Tha La.

Chia tay với ông, chúng tôi chạy xe lòng vòng trong Tha La để biết thêm. Đến khu xóm đạo nơi đông dân cư nhất rồi vòng qua thánh đường là một nhà thờ vừa phải với tháp chuông cùng hang đá nằm êm ả dưới các bóng cây mát. Sau đó, tôi và anh Hữu dừng xe, nghỉ chân ở một quán nhỏ bán dừa tươi. Chị bán quán khi nghe tôi hỏi chuyện về Tha La Xóm Đạo, đã mau mắn lấy ra một băng cassette rồi dò tìm mở đúng bài hát đó. Vài khách đang ngồi uống nước trong quán cũng hát theo rành rẽ. Họ là dân ở đây, chắc vậy và họ đang hãnh diện vì có bài hát hát về địa phương mình. Ngay sau ngày 30-4, nhạc của miền Nam VNCH được chính quyền mới gọi bằng cái tên chung là Nhạc Vàng bất kể thể loại nào. Thực ra nhạc vàng (chiếm đa số) là các bài hát về tình yêu đôi lứa, về quê hương hoặc về nỗi niềm riêng tư nào đó... không thôi. Mà nếu vậy, các bài hát thời bây giờ như Lá Diêu Bông, Chị Tôi, Hà Nội Mùa Vắng Những Cơn Mưa, Phượng Hồng, Tình Thôi Xót Xa... cũng là nhạc vàng và đó là lý do tại sao công chúng lại yêu thích loại nhạc này! Một khi bạn đã yêu đã thích nhạc vàng thì mỗi lần nghe nó, bạn sẽ nhớ đến quê hương nếu như bạn đang sống ở nước ngoài. Còn nếu bạn đang ở trong nước, hồi tưởng về tháng ngày hoa mộng cũ, những kỷ niệm (tùy từng người) sẽ lại về trong tâm tưởng bạn. Ngày hôm đó tôi cũng vậy, những lời hát tai đang nghe đã dẫn tôi về khung cảnh xa xưa của Tha La và tự dưng lòng tôi se sắt buồn. Tôi đã là người dân của Tha La xóm đạo.

... Tha La ơi! Xóm Đạo ơi! Còn đâu nữa chiếc áo ngày xưa
đành khép kín khoác vào bộ chinh y. Lòng hờn căm một chiều
xưa lửa dậy, nghe não nùng chưa? Tha La sầu quốc biến
Xóm Đạo chất hận thù!

... Đây Tha La đây Xóm Đạo hoang tàn
Mây trời vây quanh mầu tang khói lửa,
Bao năm qua Tha La còn trơ đó, đoàn người
đi giết thù đã hẹn thề từ dạo ấy, Long viễn
khách bồi hồi như thương tiếc mùa thu
nắng hanh vàng ...


Trên đường về, tôi gặp một cụ già cởi trần gầy gò đang gánh một gánh dừa đi về phía quán nước. Cụ già với hàm râu trắng như hình ảnh trong bài thơ. Không biết thời bài thơ Hận Tha La ra đời, khung cảnh khi đó có giống như hiện tại? Vài bụi tre bị chặt trụi lũi bên đường trơ gốc cây mốc trắng và tất cả những mụt măng đã bị chủ gia cắt sớm để bán. Họ cần tiền cho một nhu cầu gấp rút nên không thể chờ măng thành tre được, y như chủ nhân căn nhà mà tôi và anh Hữu vừa ghé vào mua sách cũ gia đình để lại. Tha La là vùng đất lành, mầu mỡ do nguồn nước từ kinh Vàm Trảng dẫn từ sông Vàm Cỏ về tưới mát đất đai ở đây nhưng sao dân cư trong vùng vẫn mang vẻ buồn, hiu quạnh. Tôi cảm thấy... hay Tha La tự nó là như vậy.

Như nhiều bài hát nổi tiếng khác, Tha La Xóm Đạo được phổ từ một bài thơ của một thi sĩ và cũng là một người lính chiến thời chiến tranh Việt-Pháp. Đó là bài thơ Hận Tha La và tác giả là Vũ Anh Khanh. Tới tận bây giờ vẫn ít người biết về thân thế cùng số phận của nhà thơ Vũ Anh Khanh dù có thể họ vẫn hát bài hát Tha La Xóm Đạo. Vũ Anh Khanh có tên là Võ Anh Khanh nhưng cũng có người nói ông tên thật là Nguyễn Năm, sinh năm 1926 quê quán ở Phan Thiết thuộc tỉnh Bình Thuận. Ông sống ở Sài Gòn, có thơ-văn đăng trên các trang báo từ những năm cuối thập niên 1940. Nước Việt trong giai đoạn này, bị xáo trộn bởi các ảnh hưởng chính trị, thời thế quốc tế và từ các vận động của các tổ chức-đoàn thể trong các địa phương. Giai đoạn này cũng là sự thức tỉnh tự thân của giới thanh niên-trí thức trẻ (trong đó có các văn nghệ sĩ), đưa đến cuộc đấu tranh chống Pháp năm 1945. Người ra chiến khu, vô bưng hoặc về lại thành phố trong tinh thần ái quốc chống ngoại xâm và được một làn sương lãng mạn-thi vị nhưng hào hùng phủ lên. Người yêu nước, khởi đầu gia nhập hàng ngũ kháng chiến chỉ một ý nghĩ là giặc Pháp tiếp tục muốn đặt lại ách thống trị thì phải chống chứ chẳng hề vì lý tưởng đại đồng, CS gì và Vũ Anh Khanh là một người trong số họ. Là một chiến sĩ, đi qua nhiều vùng đất nước, mắt ông đã thấy nhiều cảnh chết chóc, nhà cháy, tang thương của xóm làng sau một trận chiến. Và, không biết trong một lần nào đó, ông đã có dịp dừng chân tại Tha La rồi khung cảnh của một xóm đạo thời ly loạn... đã gây một xúc động ghê gớm nơi ông, khiến ông sáng tác ra bài thơ (chúng ta hãy nghĩ vậy).



Nhà thơ Vũ Anh Khanh.

Hận Tha La là một bài thơ dài kiểu hợp thể. Đoạn mở đầu là Ngũ Ngôn rồi chuyển sang Tám Chữ, sau đó thành Kịch Thơ (đoạn giữa) và kết thúc bằng hai câu Thất Ngôn. Một bài thơ hay, có hồi có cảnh. Tiết tấu thay đổi với khung cảnh và khung cảnh thay đổi với các nhân vật trong bài thơ.

Xin mời quý bạn đọc, đọc bài thơ Hận Tha La

HẬN THA LA

Đây Tha La xóm đạo
Có trái ngọt cây lành
Tôi về thăm một dạo
Giữa mùa nắng vàng hanh.

Ngậm ngùi Tha La bảo:
- Đây rừng xanh rừng xanh
Bụi đùn quanh ngõ vắng,
Khói đùn quanh nóc tranh.
Gió đùn quanh mây trắng,
Và lửa loạn xây thành.

- Viễn khách ơi!
Hãy dừng chân cho hỏi,
Nắng hạ vàng ngàn hoa gạo rưng rưng.
Đây Tha La, một xóm đạo ven rừng,
Có trái ngọt, cây lành, im bóng lá,
Con đường đỏ bụi phủ mờ gót lạ.
Ngày êm êm lòng viễn khách bơ vơ!
Về chi đây? Khách hỡi? Có ai chờ?
Ai đưa đón?

- Xin thưa, tôi lạc bước!
Không là duyên, không là bèo kiếp trước,
Không có ai chờ, ai đón tôi đâu!

Rồi quạnh hiu, khách lặng lẽ cúi đầu,
Tìm hoa rụng lạc loài bên vệ cỏ,
Nhìn cánh hoa bay ngẩn ngơ trong gió,
Gạo rưng rưng, nghìn hoa máu rưng rưng.
Nghìn cánh hoa rơi, lòng khách bỗng bâng khuâng.

Tha La hỏi:
- Khách buồn nơi đây vắng?

Không, tôi buồn vì mây trời đây trắng!
- Và khách buồn vì tiếng gió đang hờn?

Khách nhẹ cười, nghe gió nổi từng cơn,
Gió vi vút, gió rợn rùng, gió rít.
Bỗng đâu đây vẳng véo von tiếng địch:

Thôi hết rồi còn chi nữa Tha La!
Bao người đi thề chẳng trở lại nhà.
Nay đã chết giữa chiến trường ly loạn!

Tiếng địch càng cao, não nùng ai oán,
Buồn trưa trưa, lây lất buồn trưa trưa,
Buồn xưa xưa, ngây ngất buồn xưa xưa,
Lòng viễn khách bỗng dưng tê tái lạnh.
Khách rùng mình, ngẩn ngơ lòng hiu quạnh.

- Thôi hết rồi! Còn chi nữa Tha La!
Đây mênh mông xóm đạo với rừng già.
Nắng lổ đổ rụng trên đầu viễn khách.
Khách bước nhẹ theo con đường đỏ quạch,
Gặp cụ già đang ngóng gió bâng khuâng.

- Kính thưa cụ, vì sao Tha La vắng?
Cụ ngạo nghễ cười rung rung râu trắng,
Nhẹ bảo chàng:
" Em chẳng biết gì ư?
Bao năm qua khói loạn phủ mịt mù!
Người nước Việt ra đi vì nước Việt.
Tha La vắng vì Tha La đã biết,
Thương giống nòi đau đất nước lầm than. "

Trời xa xanh, mây trắng ngoẹn ngàn hàng,
Ngày hiu quạnh. Ờ.. ơ.. hơ tiếng hát.
Buồn như gió lướt lạnh dài đôi khúc nhạc.

Tiếng hát rằng:
Tha La giận mùa thu,
Tha La hận quốc thù,
Tha La hờn quốc biến,
Tha La buồn tiếng kiếm,
Não nùng chưa!
Tha La nguyện hy sinh.

Ơ.. ơ.. hơ.. có một đám chiên lành.
Quỳ cạnh Chúa một chiều xưa lửa dậy.
Quỳ cạnh Chúa, đám chiên lành run rẩy:

Lạy Đức Thánh Cha!
Lạy Đức Thánh Mẹ!
Lạy Đức Thánh Thần!
Chúng con xin về cõi tục để làm dân...
Rồi... cởi trả áo tu.
Rồi... xếp kinh cầu nguyện.
Rồi... nhẹ bước trở về trần...

Viễn khách ơi! Viễn khách ơi!
Người hãy dừng chân.
Nghe Tha La kể, nhưng mà thôi khách nhé!
Đất đã chuyển rung lòng bao thế hệ.
Trời Tha La vần vũ đám mây tan.
Vui gì đâu mà tâm sự?
Buồn làm chi mà bẽ bàng?

Ơ... ơ... hơ... ờ... ơ... hơ... tiếng hát
Rung lành lạnh ngâm trầm đôi khúc nhạc.
Buồn tênh tênh, não lòng lắm khách ơi!
Tha La thương người viễn khách đi thôi!

Khách ngoảnh mặt nghẹn ngào trông nắng đổ,
Nghe gió thổi như trùng dương sóng vỗ
Lá rừng cao, vàng rụng lá rừng bay...
Giờ khách đi. Tha La nhắn câu này:

- Khi hết giặc, khách hãy về thăm nhé!
Hãy về thăm xóm đạo
Có trái ngọt cây lành.
Tha La dâng ngàn hoa gạo,
Và suối mát rừng xanh.

Xem đám chiên lành thương áo trắng.
Nghe mùa đổi gió nhớ quanh quanh.


Trong giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1950, Vũ Anh Khanh là một cây bút chuyên viết truyện ngắn và tiểu thuyết. Tác phẩm của ông gồm truyện dài như Nửa Bồ Xương Khô, Bạc Xíu Lìn, Cây Ná Trắc và truyện ngắn như Ngũ Tử Tư, Đầm Ô Rô, Sông Máu, Bên Kia Sông, Một Đêm Trăng... Các tác phẩm của Vũ Anh Khanh rất có giá trị, tiêu biểu cho dòng văn chương thời kỳ kháng chiến chống Thực dân Pháp ở Nam Bộ. Tuy vậy, hầu như nhiều người chỉ biết chỉ nhớ đến Vũ Anh Khanh với bài thơ Hận Tha La.

Năm 1954, Hiệp Định Geneva về ngưng chiến được thực hiện, chia cắt nước Việt làm hai, lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới. Người dân miền Bắc (khoảng gần 1 triệu người) ồ ạt di cư vô miền Nam thì đổi lại cán bộ-chiến sĩ thuộc phe CS ở trong miền Nam được chuyển ra miền Bắc (gọi tên chung là tập kết). Có 3 khu vực tập kết là Hàm Tân-Xuyên Mộc, Đồng Tháp Mười, Cà Mau và không biết Vũ Anh Khanh tập kết tại địa điểm nào kể trên. Ông ra Bắc rồi đi dự Hội Nghị Các Nhà Văn Á Châu (HNCNVAC) tại New Dehli (Tân Đề Li-Ấn Độ) tháng 12 năm 1956. Tham dự hội nghị là phái đoàn của 16 quốc gia (gồm 14 quốc gia CS và chỉ 2 quốc gia tự do là Ấn Độ và miền Nam VNCH). Vũ Anh Khanh có mặt trong phái đoàn miền Bắc VNDCCH chung với nhà văn Nguyễn Công Hoan (tác giả Bước Đường Cùng, Đống Rác Cũ...). Lý do Vũ Anh Khanh được nhà cầm quyền miền Bắc khi đó cử đi dự đại hội HNCNVAC là vì công an không thấy ông trong cuộc tụ tập ở khu Trường Tiền-Hà Nội để phản đối sự chỉ huy văn nghệ của Đảng (nhân có phong trào Trăm Hoa Đua Nở-Trăm Nhà Đua Tiếng). Cuộc tụ tập đó do nhóm tập kết miền Nam phản đối các lãnh đạo CS Hà Nội. Sau khi dự đại hội HNCNVAC về, có lẽ đã thấy bộ mặt thật của chế độ CS tại miền Bắc nên khi Vũ Anh Khanh có giấy đi công tác (cách vài tháng sau) ở tỉnh lỵ Vĩnh Yên (phía Bắc Hà Nội) và thi sĩ đã sửa giấy công tác đó từ Vĩnh Yên thành Vĩnh Linh (một đặc khu tương đương cấp tỉnh), địa danh gần sông Bến Hải. Vũ Anh Khanh đến Vĩnh Linh và ông đã mạo hiểm vượt tuyến bằng cách bơi qua sông Bến Hải nhưng không thoát. Một mũi tên độc đã cắm vào người ông, lôi ông chìm xuống đáy và chết mất xác.

Sông Bến Hải (giới tuyến chia cắt hai miền Nam-Bắc) thuộc thôn Hiền Lương (cầu trên sông mang cùng tên) xã Vĩnh Thành huyện Vĩnh Linh của tỉnh Quảng Trị. Giai đoạn Vũ Anh Khanh đến Vĩnh Linh thì ở phía bờ Bắc (do chính quyền miền Bắc VNDCCH kiểm soát) có 2 đồn công an đóng tại Hiền Lương và Cửa Tùng. Đồn Hiền Lương nằm sát bên cầu, đồn Cửa Tùng đóng ở bãi biển xã Vĩnh Quang. Đồn nào (theo quy định của bản Hiệp Định Geneva) chỉ có 16 nhân viên nhưng con số thực tế nhiều hơn. Vả lại, vì là giới tuyến trực diện với vùng đất phía Nam của chính quyền miền Nam VNCH nên dân chúng sinh sống sát bờ sông Bến Hải thực tế là các gia đình công an giả trang. Vũ Anh Khanh đến đây nhằm tìm dịp để vượt tuyến đào thoát vào miền Nam VNCH nhưng ông không ngờ trước đó (ngày 4 tháng 10 năm 1956), đã có 3 người dân miền Bắc liều mạng bơi qua sông và họ thành công. Chính quyền miền Nam VNCH đã không giữ kín việc này khi họ tổ chức họp báo để thông tin và miền Bắc VNDCCH biết được. Công an CS tại Vĩnh Linh đã họp và quyết không để trường hợp tương tự tái diễn. Họ đã kín đáo canh phòng nghiêm nhặt dù bên ngoài vẫn để các sinh hoạt dân dã bình thường và Vũ Anh Khanh đã mắc bẫy. Có lẽ vào ban ngày ông đã tìm cách bơi sang sông (chỉ rộng hơn 100 m) rồi bị công an phát giác và các mũi tên độc (được bắn ra từ nỏ lớn) của công an đã kết liễu đời ông. Việc dùng tên tẩm thuốc độc (thay cho súng) là cách mà công an CS muốn tránh bị Ban Liên Hợp Quốc Tế Giám Sát-Kiểm Soát việc áp dụng Hiệp Định (có mặt tại đây) phát giác việc họ truy sát dân lành vượt tuyến. Cái chết của Vũ Anh Khanh, có thể do công an CS đã thông báo cho dân chúng biết như một răn đe nên kể từ sau đó (tháng 4 năm 1957), không còn người vượt tuyến vào miền Nam bằng cách bơi sang sông Bến Hải nữa.



Sông Bến Hải cùng cây cầu Hiền Lương nhìn từ bờ phía miền Nam VNCH.

Là một người yêu nước tuy có lúc sai lầm khi đứng bên phía CS, sau cùng Vũ Anh Khanh đã đào tị nhưng không gặp may. Chính quyền CS đã cố tình gạt bỏ tên ông trong văn học sử mà ngay cả chính quyền miền Nam VNCH cũng đối xử tương tự với ông khi gạt bỏ tên trong chương trình giáo dục phổ thông cùng cấm lưu hành các sách in của ông. Họ xếp ông là văn-thi sĩ CS (do đã tập kết ra miền Bắc năm 1954 và dự đại hội HNCNVAC tháng 12 năm 1956) và đó là một đối xử bất công.

Bài thơ Hận Tha La được các nhạc sĩ Dzũng Chinh phổ thành bài hát (năm 1964) mang tên Tha La Xóm Đạo, nhạc sĩ Sơn Thảo'S phổ thành bài hát (năm 1965) mang tên Hận Tha La và nhạc sĩ Anh Tuyền phổ thành bài hát (năm 1965) mang tên Vĩnh Biệt Tha La.




Tha La Xóm Đạo.

http://www.youtube.com/watch?v=KThjm77KYQo
Bài hát Hận Tha La do ca sĩ Quang Lê trình bày.





Hận Tha La.



Vĩnh Biệt Tha La.


* posted by Phạm Thắng Vũ / MGP
viethoaiphuong
#7 Posted : Thursday, January 13, 2011 8:14:09 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)


Dr. Nguyen Ngoc Huy

GS Huy còn là một thi sĩ mà nhiều em hậu sinh không rõ. Đôi dòng tiểu sử về ông như sau:

Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy sinh ngày 2 tháng 11 năm 1924 tại Chơ Lớn, quê quán ở Tân Uyên Biên Hòa. Thuở nhỏ học tại Tân Uyên. Sau đó học ở trường Petrus Ký Saigon. Năm 1943, ông làm Thư ký Tòa Hành Chánh tỉnh Cần Thơ. Lúc còn trẻ, ông nuôi hoài bảo trở thành nhà thơ chuyên về loại thơ hùng tráng để ca tụng các danh nhân đã làm nên lịch sử, cũng như các công nghiệp lớn của dân tộc Việt Nam. Từ năm 1943-1945 ông đã sáng tác một số thơ loại này với bút hiệu là Đằng Phương như bài Anh Hùng Vô Danh, Dòng nước sông Hồng, Ngày tang Yên Báy, Chiến sĩ triều Trần, Lời sông núi… Đặc biệt, bài ANH HÙNG VÔ DANH đã được đăng vào Quốc Văn Giáo Khoa Thư để làm tài liệu giáo dục cho các thế hệ về sau. Đầu năm 1945, ông gia nhập Đại Việt Quốc Dân Đảng để tranh đấu dành độc lập cho dân tộc Việt Nam. Từ năm 1946, ông về Saigòn làm việc trong Thư viện Quốc gia đồng thời được xứ bộ Nam Việt của Đại Việt Quốc Dân Đảng giao cho nhiệm vụ viết tài liệu chính trị cho đoàn thể cũng như biên tập cho các tờ Thanh Niên, Đuốc Việt. Các bài khảo cứu và chính trị của Ông được ký dưới bút hiệu Hùng Nguyên. Các bài trào phúng dưới bút hiệu Cuồng Nhân hay Ba Xạo. Các bài thơ với bút hiệu Việt Tâm.

Năm 1949, ông hoạt động toàn thời gian cho đoàn thể, làm huấn luyện viên chính trị cho Trường Cán Bộ Thanh Niên Nha Trang. Năm 1955, ông về Saigon dạy Quốc văn và Pháp văn ở Trường Trung học Lê Bá Cang. Năm 1955, ông được anh em trong đoàn thể chỉ định đi Pháp. Tại đây ông vẫn tiếp tục hoạt động chính trị và học thêm. Ông tốt nghiệp Viện Nghiên cứu chính trị Paris năm 1958, Cử nhân Luật khoa năm 1959, Cao Học Chính Trị năm 1960 và sau cùng là Tiến Sĩ Chính trị học tại Sorbonne năm 1963 với giải thưởng tối ưu hạng.

Thi sĩ Ðằng Phương

Năm 1979 và 1980 là thời gian tôi được gần gũi Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy, tức thi sĩ Ðằng Phương. Trong khoảng thời gian nầy, Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy thường hay xuống Hoa Thịnh Ðốn để hội họp hoặc gặp gỡ thân hữu và đồng chí của ông. Nơi tôi ở là một “quán trọ của những tâm hồn yêu nước” - cả già lẫn trẻ - cửa lúc nào cũng rộng mở đón tiếp những người từ phương xa tới hoặc các anh chị em thanh niên và sinh viên tranh đấu ở vùng thủ đô Hoa Thịnh Ðốn.

Lúc đó, các anh chị em thanh niên và sinh viên rất hâm mộ Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy. Mỗi lần Giáo sư Huy từ Boston xuống là anh chị em rủ nhau đến thăm ông, trước hết là để vấn an sức khỏe, sau là để nghe Giáo sư Huy tổng kết tình hình chính trị thế giới, hoặc để học hỏi các kinh nghiệm đấu tranh của bậc đàn anh. Những lúc vui miệng, Giáo sư Huy kể chuyện Tam Quốc Chí, Ðông Châu Liệt Quốc, v.v… nhưng tuyệt nhiên ông không hề đả động gì tới tập thơ Hồn Việt của ông.

Một hôm, tôi tò mò hỏi Giáo sư Huy: “Lâu quá không thấy Anh Ba làm thơ nữa! Bộ anh đã chán thơ phú rồi hay sao?” (Tôi gọi GS Huy bằng “Anh Ba” khi chỉ có ông và tôi). Giáo sư Huy cười, nói: “Làm chánh trị riết rồi cạn hết nguồn thơ, không còn cảm hứng như thời còn trẻ nữa! Vĩnh Liêm mà theo đuổi chánh trị thì cũng có ngày hồn thơ bị khô khan cho mà coi”. Ðiều nầy đã được thi sĩ Ðằng Phương thổ lộ trong bài Xuân Cảm như sau:

Tâm hồn cằn cỗi trong cô độc
Ðã hết lâu rồi mộng với thơ.
(Xuân Cảm, Hồn Việt, trang 111)

Năm 1979, tập thơ Tị Nạn Trường Ca I của tôi còn là bản thảo, tôi có đưa cho GS Huy đọc qua để cho biết ý kiến. Giáo sư Huy đọc xong rồi trả lại cho tôi, ông nói: “Làm thơ đấu tranh khó thành công lắm! Nếu Vĩnh Liêm thích thì cứ tiếp tục làm. Loại thơ đấu tranh rất hiếm hoi, mình cũng cần loại thơ nầy để hâm nóng bầu nhiệt huyết của anh em”.

Tôi kính mến GS Huy, không những vì kiến thức uyên bác của ông, mà còn vì lòng hâm mộ những vần thơ hùng tráng của ông qua bút hiệu Ðằng Phương. Thi sĩ Ðằng Phương vẫn sống mãi trong tôi qua những bài thơ để đời của ông, như: Ngày Tang Yên Báy và Anh Hùng Vô Danh… Rất tiếc những bài thơ hùng tráng và sáng ngời lòng ái quốc đó đã không được phổ cập rộng rãi cho nên bút hiệu Ðằng Phương đã bị phai nhạt dần và dường như giới trẻ sau này (từ thập niên 70 trở đi) không biết Ðằng Phương là ai, mà chỉ biết tính danh Nguyễn Ngọc Huy mà thôi!

Mặc dù thi sĩ Ðằng Phương rất khiêm nhường khi xuất bản tập thơ Hồn Việt (Ông không dám tự nhận mình là “thi sĩ” và tập thơ Hồn Việt cũng “chẳng phải là một tác phẩm văn chương” trong bài thơ Thay Lời Tựa) nhưng tập thơ Hồn Việt tự nó đã là một tác phẩm văn chương rồi và không ai có thể phủ nhận rằng Ðằng Phương không phải là một thi sĩ. Theo tôi, một tác phẩm văn chương không chỉ thuần túy trong lãnh vực tình cảm (nghĩa hẹp) với những lời thơ văn ướt át, ủy mỵ, sầu mộng, rên rỉ, ai oán… mà còn được thể hiện ở nhiều lãnh vực khác hoặc dưới những hình thức khác và thể tài khác.

Trong lời nói đầu của cuốn Hồn Thơ Nước Việt Thế Kỷ XX, xuất bản tại Saigon năm 1967, hai tác giả Lam Giang và Vũ Tiến Phúc đã khẳng định: “Một cái nhìn toàn diện về Thi Ca Việt Nam từ khi phong trào thơ mới xuất hiện đến giờ phải bao quát cho đủ mọi sắc thái, không vì một lẽ gì mà bỏ quên những thơ văn không ca tụng nữ sắc và tình yêu… Thơ văn lãng mạn chiếm được ưu thế và vinh dự gần như tuyệt đối lấn át mạnh mà không dập tắt được ngọn lửa thiêng Hùng Việt đã nung nấu tâm can người yêu nước, tạo nên những vần thơ khẳng khái bi ca”. Hai tác giả còn nhấn mạnh thêm: Cái “sắc thái” đó “vẫn cần phải để chỗ trong lãnh vực văn học” và “Không có lý gì những vần thơ huyết lệ tráng liệt dính liền với chính nghĩa dân tộc lại bị người đời bạc đãi, bỏ rơi trong vực tối thời gian”. Và “Còn gì buồn hơn những người kế tục cái truyền thống Hùng Việt bằng thơ văn lại không có chỗ ngồi xứng đáng trên đàn Thơ đất nước!” Tuy nhiên, trong cuốn Hồn Thơ Nước Việt Thế Kỷ XX cũng đã vô tình không nhắc tới tên Ðằng Phương, mặc dù thi tập Hồn Việt đã ra đời trước đó gần hai thập niên! Tôi nghĩ rằng thi sĩ Lam Giang và GS Vũ Tiến Phúc không thể nào không biết tới hai bài thơ hùng tráng của Ðằng Phương - Anh Hùng Vô Danh và Ngày Tang Yên Báy - đã xuất hiện lừng lững vào giữa thập niên 40! Ðó là một sự thiếu sót rất đáng tiếc!

***

Trong một buổi họp mặt thân hữu tại tư gia của anh Ðào Ngọc Thiệu, có sự hiện diện của cựu Ðại Tá Dương Hiếu Nghĩa, anh Nguyễn Văn Phán có cho biết anh em sẽ tổ chức một buổi văn nghệ gây quỹ cho “Nguyễn Ngọc Huy Foundation” và nhã ý mời tôi trình bày về thơ Ðằng Phương. Tôi nhận lời vì lòng cảm kích đối với cố thi sĩ Ðằng Phương. Nhưng không may cho tôi vì sau khi nhận lời thì tôi có việc phải đi xa trong khoảng thời gian đó! Nhân đây, tôi xin cám ơn nhà thơ Thái Thụy Vy đã bỏ công sao lại tập thơ Hồn Việt để tôi làm tài liệu tham khảo.

Trong lúc đọc lại tập thơ Hồn Việt, tôi lại nảy ra ý nghĩ khác, bỏ ý định nói về thi sĩ Ðằng Phương, mà chỉ tập trung vào “tinh thần” của tập thơ Hồn Việt, để từ đó nhìn sâu vào tấm lòng ái quốc sâu thẳm của thi sĩ Ðằng Phương: một nhà thơ ái quốc, một nhà cách mạng chân chính.

Thành thật mà nói, thi tập Hồn Việt của thi sĩ Ðằng Phương đã ảnh hưởng ít nhiều đến cuộc đời tình cảm của tôi. Những vần thơ hùng tráng của ông đã làm rung động con tim tôi từ nhiều thập niên qua và cho tới giờ phút nầy nó vẫn còn làm tôi say mê!

Lòng ái quốc của thi sĩ Ðằng Phương được thể hiện rõ nét ngay trong bài thơ Thay Lời Tựa của thi tập Hồn Việt. Ông xác định vị trí người dân của chính mình trong một nuớc nô lệ ngoại bang:

Tôi chỉ là một người dân đất Việt
Cảm nỗi buồn của kẻ mất quê hương
Nỗi nhục nhằn, nỗi khổ cực đau thương
Của nòi giống nghẹt trong cùm lệ thuộc.
Lúc đường sống mịt mù chưa thấy được
Tôi mượn thơ để tỏ nỗi căm hờn
Nỗi u buồn chán nản kẻ cô đơn
Khôn phụng sự giang sơn như ý nguyện.
(Hồn Việt, tr. 3)

Cũng trong bài thơ Thay Lời Tựa, chúng ta nhận thấy thi sĩ Ðằng Phương làm thơ nhằm 6 mục đích chính như sau:
1. Diễn trình quan điểm đấu tranh chung.
2. Phô bày những nguyện ước chờ mong của mọi người và những triển vọng về tương lai nước Việt.
3. Ca ngợi những anh hùng hào kiệt.
4. Lau lại tấm gương anh dũng của tiền nhân để làm ánh sáng soi đường cho công cuộc đấu tranh quyết liệt sắp tới.
5. Gây lòng phấn khởi cho chính tác giả trong những lúc gian lao.
6. An ủi những người bạn tâm giao của ông bị thất bại trên đường tranh đấu.

Khi đọc tập thơ Hồn Việt, nếu chúng ta chỉ dừng lại ở 6 mục đích chính nêu trên thì chúng ta chỉ hiểu được thi sĩ Ðằng Phương có một phần mà thôi. Ðiều quan trọng hơn hết là chúng ta nên tìm hiểu “Tư Tưởng” và “Quan Niệm” của thi sĩ Ðằng Phương đã gửi gấm những gì ở trong thi tập nầy. Người viết đã tìm thấy có ít nhất 7 Quan Niệm Căn Bản trong thi tập dày 116 trang (do Thanh Phương Thư Quán tái bản). Các Quan Niệm của thi sĩ Ðằng Phương về: Lý tưởng của thanh niên, tinh thần đoàn kết, kiến thiết quê hương, hòa hợp hòa giải, xã hội, lý tưởng và đạo đức, và canh tân đất nước. Vì khuôn khổ bài viết có hạn, người viết chỉ dẫn-chứng sơ lược và tiêu biểu mà thôi.

1. Quan niệm về lý tưởng của thanh niên: Về lý tưởng của thanh niên, có hai phần quan yếu là Sống và Lẽ Sống. Về Sống, thi sĩ Ðằng Phương còn đi xa hơn, định nghĩa thế nào là Biết Sống, Dám Sống và Quyết Sống. Chúng ta thử tìm hiểu quan niệm của thi sĩ Ðằng Phương về Biết Sống, Dám Sống và Quyết Sống xem sao.

Biết Sống là không chịu đứng khoanh tay, không chịu để ngày của mình trống rỗng, không để thân mình trôi giạt theo làn sóng như những bóng trong đêm, không cam tâm nhắm mắt đóng vai tuồng thụ động, luôn trông xét nghĩ suy, tự mình vạch lối đi cho mình, biết phụng thờ lý tưởng, biết say mê cuộc đời lý tưởng, hiểu nghĩa vụ làm người, cố gắng mãi để tiến đến những cảnh trời cao rộng…

Dám Sống là không biết sợ gian nguy, không cúi đầu khuất phục trước quyền uy, không vì khó khăn mà trở bước, không chịu sống ươn hèn, luôn dũng cảm hiên ngang, đương đầu những trở lực, không hề màng vất vả, nhắm mục đích thiêng liêng và cao cả, tiến theo đường đã định cho đến lúc nhắm mắt…

Quyết Sống là nhất định ở tiền khu, lãnh vai tuồng vét mây mù, phá lối mở đường cho cả nước, khinh thường khổ cực, dám liều mạng hy sinh cho nòi giống…

Kết luận cụ thể của thi sĩ Ðằng Phương về Sống là: Những người Biết Sống, Dám Sống và Quyết Sống là những người Tranh Ðấu.

Về Lẽ Sống, thi sĩ Ðằng Phương quan niệm như sau:

Ði tìm những cảnh trời cao rộng
Hợp chí tung hoành của tuổi trai!
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Tranh đấu cho dân tộc sống còn
Liều mình để phụng sự giang sơn.
(Lẽ Sống, Hồn Việt, tr. 50)

2. Quan niệm về tinh thần đoàn kết: Theo thi sĩ Ðằng Phương, tinh thần đoàn kết là mọi người phải hiệp sức, chung lòng, không nên chia rẽ Bắc-Nam-Trung, chớ nên phân chia lực lượng, phải đồng tâm, nhận hướng để đấu tranh cho sự sống còn. Ông đã mạnh dạn kêu gọi:

Phải cùng nhau hiệp sức, phải chung lòng
Xây đắp lại non sông đà bại hoại
Phải dứt nạn tương tàn vì đảng phái
Tận diệt mầm chia rẽ Bắc, Nam, Trung
Và hòa chung dòng máu VIỆT hào hùng
Ðể nền mống quốc gia thêm vững chắc.
(Nước Việt Trường Tồn)

Và thi sĩ than thở:

Cùng một non sông, một giống dòng
Sao đành chia rẽ Bắc, Nam, Trung?
Muốn dân tộc Việt sinh tồn được
Phải để hòa chung máu Lạc Hồng.
(Việt Nam Thống Nhất)

Ông tha thiết kêu gọi chấm dứt tương tàn để đồng tâm hiệp lực:

Hỡi muôn dân! Mau dứt cuộc tương tàn
Thuyền Tự Do chưa thoát bến gian nan
Ðường tranh đấu chớ phân chia lực lượng.
Ðoàn kết lại, bình tâm lo nhận hướng
Rồi chung nhau quyết định những phương châm
Và tiến lên, trong nhịp hát đồng tâm
Theo nẽo sống mở cho nòi giống Việt.
(Lời Sông Núi)

3. Quan niệm về kiến thiết quê hương: Theo thi sĩ, việc kiến thiết quê hương phải cần đến những nhân tài lỗi lạc, phải cố gắng kiến thiết không ngừng.

Phải qui tập những nhân tài lỗi lạc
Ðể cùng nhau tô điểm lấy sơn hà
Cả tương lai đất nước ở nơi ta
Phải cố gắng, chớ dừng tay kiến thiết.
(Nước Việt Trường Tồn)

4. Quan niệm về hòa hợp hòa giải: Nên mở rộng lượng khoan hồng đối với những người lỡ lầm phạm lỗi với non sông, và nhiêu dung với kẻ thù bạo ngược.

Ðối với kẻ cùng chung dòng máu Việt
Ðã lỡ lầm phạm lỗi với non sông
Ta phải nên mở rộng lượng khoan hồng
Và đối với những kẻ thù bạo ngược
Ðã tàn hại quốc dân ta thuở trước
Ta cũng cần phải có sự nhiêu dung:
Ở quê hương Lê Thái Tổ, Quang Trung
Vô nhân đạo là điều không thể có.
(Nước Việt Trường Tồn)

5. Quan niệm về xã hội: Thi sĩ kêu gọi gột bỏ tính ươn hèn ỷ lại, tẩy trừ thói dâm dật xa hoa cùng những thói hư tật xấu do văn minh vật chất Tây phương mang đến để làm trụy lạc giống nòi.

Chúng ta phải cùng nhau lo gột bỏ
Tính ươn hèn ỷ lại của dân ta
Và tẩy trừ thói dâm dật xa hoa
Những thói xấu nền văn minh vật chất
Tuy hào nhoáng nhưng kém bề sâu sắc
Cùng với tinh thần phóng túng kiêu căng
Mà bọn người thờ vị kỷ đem sang
Ðể làm trụy lạc người dân đất VIỆT.
(Nước Việt Trường Tồn)

6. Quan niệm về lý tưởng và đạo đức: Lý tưởng gắn liền với đạo đức. Con người thiếu lý tưởng thì không thể trông cậy ở đạo đức của họ. Về Lý Tưởng, theo thi sĩ Ðằng Phương, không nên vụ lợi và tham danh, không khiếp nhược hay ươn hèn, không phục tòng lẽ trái. Về Ðạo Ðức, không lỗ mãng, hung hăng, độc ác… và phải sống cuộc đời trong sạch. Những vần thơ mạnh mẽ và trong sáng của thi sĩ Ðằng Phương đến nay vẫn được coi là “kim chỉ nam” cho thế hệ trẻ.

Không bao giờ vụ lợi hay tham danh
Không miệt mài theo đuổi bóng hư vinh
Chỉ thích sống một cuộc đời lý tưởng
Dáng nho nhã, hiền lành, đầy độ lượng
Nhưng vẫn không khiếp nhược hay ươn hèn
Không cúi đầu sợ hãi trước uy quyền
Không khép nép phục tòng người trái lẽ
Hãy cương quyết, uy nghiêm và mạnh mẽ
Nhưng vẫn không lỗ mãng hay hung hăng
Không để lòng độc ác, tính kiêu căng
Ðưa hành động đi sái đường chính trực
Ðó là hình dung cuộc đời đạo đức
Của người dân đất VIỆT tự muôn năm
Sống luôn luôn bình tĩnh và âm thầm
Họ chỉ biết phụng thờ non nước VIỆT
Làm phận sự đến thế cùng, lực kiệt
Rồi ung dung xem chết thoảng như về
Suốt một đời trong sạch, chỉ say mê
Vẻ đẹp của nho phong đầy ánh sáng.
(Nước Việt Trường Tồn)

Ðọc bốn câu thơ của đoạn cuối trên đây, chúng ta mường tượng hình ảnh nho phong của thi sĩ Ðằng Phương đã thể hiện đúng tinh thần của bài thơ. Thi sĩ Ðằng Phương đã sống một cuộc đời trong sạch cho đến khi nhắm mắt lìa đời. Thơ và Người là một. Cái vẻ đẹp nho phong của thi sĩ Ðằng Phương là một tấm gương sáng ngời, đã làm cảm kích nhiều người.

7. Quan niệm về canh tân đất nước: Muốn canh tân đất nước, theo thi sĩ Ðằng Phương, phải cải cách duy tân để nâng cao đời sống của nhân dân, để đuổi kịp các nước trên con đường kỹ thuật và làm rạng rỡ những tinh hoa của giống nòi. Nhưng trước hết, phải khôi phục cho bằng được tinh thần văn hóa cũ của dân tộc. Mỗi dòng thơ là một liều thuốc kích thích lòng yêu nước của người đọc.

Khôi phục được tinh thần văn hóa cũ
Chúng ta cần phải cải cách duy tân
Ðể nâng cao đời sống của nhân dân
Ðuổi vạn quốc trên con đường kỹ thuật
Phát triển đến tuyệt vời nguồn sinh lực
Dồi dào và mạnh mẽ của dân ta
Và làm cho rạng rỡ những tinh hoa
Những đức tính của giống nòi ÐẠI VIỆT
Hỡi các bạn! Những công trình kiến thiết
Của chúng ta sẽ nặng nhọc lâu dài
Và con đường đưa đến cảnh tương lai
Cảnh xán lạn mà chúng ta mong ước.
(Nước Việt Trường Tồn)

Cảnh tương lai xán lạn huy hoàng của đất nước mà thi sĩ Ðằng Phương mơ ước từ thập niên 40 đến nay vẫn chưa thành tựu. Suốt nửa thế kỷ dấn thân tranh đấu cho tương lai nước Việt, đến ngày nhắm mắt lìa trần thi sĩ vẫn chưa nhìn thấy được một tí tương lai nào của đất nước! Nhưng ước vọng của ông vẫn còn ở mãi với chúng ta, ở những thế hệ kế tiếp, ở những tinh hoa và nguồn sinh lực dồi dào được đào tạo trong những viện đại học nổi tiếng nhất thế giới.

Người viết còn tìm thấy nhiều điều thích thú khác ở thi tập Hồn Việt và tư tưởng cao đẹp của thi sĩ Ðằng Phương đã gửi gấm trong thi tập, nhưng vì khuôn khổ bài báo có hạn nên đành phải dành cho một dịp khác. Trên đây chỉ là những gợi ý, phớt qua, chưa đi sâu vào từng vấn đề một. Người viết ước mong “Tinh Thần Hồn Việt” sẽ đến với tất cả mọi người Việt ở hải ngoại. Tuy những lời thơ “thô kệch, kém văn hoa” (lời tác giả) nhưng rất bổ ích đối với người Việt không quên cội nguồn./.



* posted by HVLN - UNT - TV - VB
viethoaiphuong
#8 Posted : Monday, April 4, 2011 8:16:13 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)

Nhà thơ Bàng Bá Lân và nạn đói Ất Dậu, 3.1945

Wednesday, March 30, 2011 5:39:50 PM

Viên Linh

Thi sĩ Bàng Bá Lân sinh tháng 11 năm 1912 tại phố Tân Ninh, Phủ Lạng Thương (Bắc Giang), nhưng gốc làng Ðôn Thư, phủ Bình Lục (Hà Nam). Dòng dõi Nho gia, ông nguyên họ Nguyễn Xuân, mới đổi ra họ Bàng khoảng ba đời.


Nhà thơ Bàng Bá Lân (1912-1988) người duy nhất “tường thuật” trận đói Ất Dậu
làm chết 2 triệu người Việt Nam. (Tài liệu Khởi Hành)

Ông theo học các trường công ở Phủ Lý, Phủ Lạng Thương, khi lên trung học vào trường Bảo Hộ Hà Nội (Bưởi hay Chu Văn An), tốt nghiệp bằng Thành Chung. Về sự nghiệp văn chương, Bàng Bá Lân đã từng viết các báo: Ðàn Bà (1939-1945), Công Dân, Hạnh Phúc, Nhân Loại (bộ cũ), Tia Sáng. Sau 1954 ở miền Nam, ông viết cho Văn Nghệ Tập San (1955), Phổ Thông. Thi phẩm đã xuất bản: Tiếng Thông Reo (1934), Xưa (1941, in chung với Anh Thơ), Thơ Bàng Bá Lân, Tiếng Võng Ðưa (1957). Thật ra ông còn nhiều tác phẩm khác nữa như Người Vợ Câm (1960), Vào Thu (1969) Kỷ Niệm Văn thi sĩ hiện đại viết theo thể ký ức. (1) Bàng Bá Lân còn là một nhà giáo, dạy môn Việt văn tại các trường Văn Lang, Cộng Hòa, Hoàng Việt (Sài Gòn), và là một nhiếp ảnh gia đã từng tham dự triển lãm tại nhiều nước ở Âu Mỹ và từng được nhiều giải thưởng quốc tế. Ông mất ngày 21 tháng 10, 1988 tại Sài Gòn.

Sống ở nông thôn nhiều năm hẳn vì vậy mà thơ ông thường lấy đề tài về đồng quê, và đã được tặng cho danh hiệu là “Nhà thơ của đồng áng.” Ông chính thức bước vào làng Thơ năm 1939 bằng tác phẩm Tiếng Thông Reo (với lời tựa của nhà văn Lê Văn Siêu), và đã nổi tiếng ngay là một nhà thơ đồng quê. Nếu Anh Thơ là nữ thi sĩ tiêu biểu cho lối thơ trên, thì Bàng Bá Lân, “từ khi phong trào thơ Mới thịnh hành cho đến khi Thế Chiến Thứ Hai bùng nổ trên mảnh đất này, trong phạm vi thi ca đất nước, chưa có một thi nhân nào làm thơ về phong tục, đồng quê và tả cảnh xuất sắc như Bàng Bá Lân là nhà thơ tiên phong mở đầu cho lối thơ đồng quê, sau Ðoàn Văn Cừ nối tiếp với thi phẩm Ngày Nay, nhưng vẫn không hơn được những nét đặc sắc của Bàng Bá Lân.” (2) Ông có những câu thơ phổ biến rộng rãi trong nhân gian đến nỗi tưởng đó là ca dao, như:

Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi.

Cùng làm thơ một thời với Bàng Bá Lân về người và cảnh thôn quê, ngoài Anh Thơ còn có Nguyễn Bính. Khi so sánh ba người, Hoài Thanh, Hoài Chân trong Thi Nhân Việt Nam viết: “Nguyễn Bính nhà quê hơn cả nên chỉ ưa sống trong tình quê mà ít để ý đến cảnh quê. Anh Thơ là một người thành thị du ngoạn, nên chỉ thấy cảnh quê. Bàng Bá Lân gần Anh Thơ hơn gần Nguyễn Bính.”

Trong ba người vừa kể, Bàng Bá Lân hiện thực hơn cả. Bài Ðói của ông là một bức tranh không tô vẽ tưởng tượng: toàn là thực. Ðây là một bài thơ có giá trị, có lẽ là một bài thơ duy nhất về thảm nạn có một không hai trong lịch sử ta: một thảm nạn xảy ra vào năm Ất Dậu tháng 3 năm 1945 với hai triệu người chết đói. Nguyên nhân xa gần của thảm nạn này cho tới nay, chúng tôi chưa có đủ tài liệu để quyết đoán, nhưng chắc chắn ngoài thiên tai bão lụt ra, còn “nhân tai” do các phe phái chính trị đương thời gây ra nữa. Lụt lội gây mất mùa đã đành, nhưng tài liệu còn cho thấy Nhật có phần trách nhiệm, Việt Minh có phần trách nhiệm, Pháp có phần trách nhiệm... Lúc ấy quân Nhật ở khắp Ðông Dương, và Miến Ðiện, và sự tiếp tế từ Nhật qua Ðông Dương phần lớn trông vào đường biển ngoài khơi Việt Nam, thế mà tài liệu cho thấy, đường biển huyết mạch này bị phi cơ Ðồng Minh, nhất là Mỹ, ném bom đến tê liệt. Hàng trăm tàu tiếp tế bị đánh chìm. Trong một bài ký, nhà báo Nguyễn Ngu Í cho biết Việt Minh ra lệnh cho cán bộ thu vét lúa gạo để gửi cho họ, chính ông lúc ấy ở Phan Thiết nhận được lệnh phải thu gạo gửi cho Việt Minh, ông đã từ khước. Cho nên chính cán bộ cộng sản cũng tịch thu lúa gạo của dân, chứ không phải chỉ có quân Nhật làm việc ấy. Dù sao, không có bao nhiêu tài liệu về thảm nạn này, mà mỉa mai thay, người cung cấp “tài liệu” nhiều nhất về Nạn Ðói Ất Dậu, lại là một nhà thơ, nhà thơ Bàng Bá Lân với bài thơ “Ðói.”

Trong nhiều những sách tổng hợp thi ca Việt Nam, kể cả Thi Nhân Việt Nam của Hoài Thanh Hoài Chân đều vắng bóng bài thơ này. Trong thư viện của chúng tôi, chỉ có hai cuốn Thi Nhân Việt Nam Hiện Ðại của Phạm Thanh (1959) và Việt Nam Thi Nhân Tiền Chiến của Ng. Tấn Long, Ng. Hữu Trọng (1967) là có trích bài thơ này. Ðây là một bài thơ đã và sẽ đánh động lương tâm con người trước cái chết vì đói của hàng triệu người Việt Nam thời tăm tối ấy. Và, không có bài thơ của Bàng Bá Lân, nhiều người thuộc các thế hệ tiếp nối và các thế hệ sau không thể hiểu gì về thảm nạn này. Xin tưởng niệm thi sĩ với lời cảm tạ.

Ðói

Năm Ất Dậu tháng ba còn nhớ mãi
Giống Lạc Hồng cực trải lắm đau thương!
Những thây ma thất thểu đầy đường,
Rồi ngã gục không đứng lên vì... đói!

Ðói từ Bắc Giang đói về Hà Nội,
Ðói ở Thái Bình đói tới Gia Lâm.

Khắp đường xa những xác đói rên nằm
Trong nắng lửa, trong bụi lầm co quắp.
Giữa đống giẻ chỉ còn đôi hố mắt
Ðọng chút hồn sắp tắt của thây ma;
Những cánh tay gầy quờ quạng khua khoa
Như muốn bắt những gì vô ảnh.
Dưới mớ tóc rối bù và kết bánh,
Một làn da đen sạm bọc xương đầu.
Răng nhe ra như những chiếc đầu lâu,
Má hóp lại, răng hằn sâu gớm ghiếc,
Già, trẻ, gái, trai, không còn phân biệt,
Họ giống nhau như là những thây ma,
Như những bộ xương còn dính chút da,

Chưa chết đã bốc xa mùi tử khí!
Mùi nhạt nhẽo, nặng nề, kỳ dị.
Một mùi tanh lộn mửa thoảng mà kinh.

(Mùi tanh hôi ám ảnh mãi bên mình
Khiến cả tháng ăn không còn ngon bữa!)
Những thây đó cứ xỉu dần, tắt thở,
Nằm cong queo, mắt vẫn mở trừng trừng.
Tròng con ngươi còn đọng lệ rưng rưng,
Miệng méo xệch như khóc còn dang dở.
Có thây chết ba hôm còn nằm đó,
Ruồi tám phương bâu lại khóc vo vo...
Rồi ven đường đôi nhát cuốc hững hờ
Ðắp điếm vội những nấm mồ nông dối!

Ðói tự Bắc Giang đói về Hà Nội,
Ðói ở Thái Bình đói tới Gia Lâm.
Rải ven đường những nấm mộ âm thầm
Ðược đánh dấu bằng ruồi xanh cỏ tốt.
Có nấm mộ quá nông, trơ hài cốt,
Mùi hôi tanh nồng nặc khắp không gian,
Sau vài trận mưa nước xối chan chan.
Ôi, thịt rữa xương tan phơi rải rắc!
Tại Hà Nội cũng như bao tỉnh khác.
Những thây ma ngày lết đến càng đông,
Ðem ruồi theo cùng hơi hướm tanh nồng,
Rồi ngã gục khắp đầu đường cuối ngõ.
Thường sớm sớm cửa mỗi nhà hé ngỏ
Rụt rè xem có xác chết nào chăng!
Từng chiếc xe bò bánh rít khô khan
Mỗi sáng dạo khắp nẻo đường nhặt xác.
Xác chồng chất lù lù như đống rác,
Ðó đây thò khô đét một bàn chân
Hai cánh tay gầy tím ngắt teo răn,
Giơ chới với như níu làn không khí
Như cầu cứu, như vẫy người chú ý...
Có hơi thở tàn thoi thóp chưa thôi,
Có tiếng cựa mình, tiếng nấc... những tròng ngươi
Nhìn đẫm lệ người chôn chửa chết!
Bốn ngoại ô mở ra từng dẫy huyệt
Ðược lấp đầy bằng xác chết... thường xuyên.
Ruồi như mây bay rợp cả một miền...
Chết!
Chết! Chết! Hai triệu người đã chết!...

(1957)

Chú thích:
(1) Tài liệu tổng hợp từ Phạm Thanh trong Thi Nhân Việt Nam Hiện Ðại, Khai Trí xuất bản tại Sài gòn năm 1959 - Thơ Mới, Tác Giả& Tác Phẩm, NXB Hội Nhà Văn) -và theo Ng. Tấn Long, Ng. Hữu Trọng trong Việt Nam Thi Nhân Tiền Chiến.

(2) Ng. Tấn Long, Ng. Hữu Trọng, Việt Nam Thi Nhân Tiền Chiến, 1967.




Phượng Các
#9 Posted : Sunday, January 1, 2017 2:58:03 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
Quote:
Ta biết làm gì cho hết nửa đời sau. (Thơ Cao Tần.)
G.C.

Tôi nhớ câu thơ đúng của Cao Tần không có chữ "biết" trong đó .
Users browsing this topic
Guest
Forum Jump  
You cannot post new topics in this forum.
You cannot reply to topics in this forum.
You cannot delete your posts in this forum.
You cannot edit your posts in this forum.
You cannot create polls in this forum.
You cannot vote in polls in this forum.