Welcome Guest! To enable all features please Login or Register.

Notification

Icon
Error

Tiếng chuông Thiên Mụ hay tiếng chuông Trấn Vũ
viethoaiphuong
#1 Posted : Thursday, February 11, 2010 4:00:00 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
Tiếng chuông Thiên Mụ hay tiếng chuông Trấn Vũ

BS Trần Tiễn Sum

Lời giới thiệu của BS Lê bá Vận:

Trước 1954 ra học Hà nội tôi ở tại Học xá Trung Việt, cạnh Hồ Tây, đường Quan Thánh, gần đền Quan Thánh (Trấn Vũ).Rồi đến ra trường về lại Huế sống và làm việc. Tôi đã nghe tiếng chuông Trấn Vũ và Thiên Mụ cả hai nơi.Tiếng chuông chùa ngân nga chậm rãi thóat tục hòa lẫn tiếng gà rộn rã đua nhau gáy sáng đi vào sinh họat, văn hóa nhân dân Việt nam từ ngàn xưa, nơi thôn dã cũng như thị tứ. Nay sống xa quê hương, dịp Tết sắp đến, đọc bài viết của anh BS Trần tiễn Sum về ‘Tiếng chuông Thiên Mụ hay tiếng chuông Trấn Vũ” tôi bồi hồi nhớ lại chuyện xưa cảnh cũ, ở Hà nội, Huế; chốn quê hương là đẹp thật, tình cảm thật. Xin cám ơn anh Sum đã biên khảo công phu và trình bày hấp dẫn đề tài này mà tôi xem là một món quà Tết đầy ý nghĩa cho tất cả chúng ta sống ở hải ngoại.

Jan 2010 – BS Lê bá Vận.

000

Gần đây một số nhà khảo cứu trong và ngoài nước đã đề cập đến câu ca dao nổi tiếng về thắng cảnh ở Huế nhưng lại nêu nghi vấn liên quan đến các địa danh ở Hà nội :

Gió đưa cành trúc la đà,
Tiếng chuôngThiên Mụ (Trấn Vũ?)canh gà Thọ Xương (Thọ Khương?)

Những câu hỏi được đưa ra là địa danh nào xuất hiện trước trong câu ca dao trên ? có đúng với câu thơ xuất xứ không? Lịch sử có liên quan gì giữa các địa danh của Huế-Sông Hương và Hà nội-Hồ Tây ? Tâm sự của cụ Dương Khuê với câu hò này như thế nào? Nhà văn Phạm Quỳnh có liên quan gì không? Tiếng chuông chùa và tiếng gà gáy điểm canh lúc nào? Bài viết này cố gắng góp lời giải đáp cho những câu hỏi trên.

Tiếng chuông chùa Thiên Mụ



Chùa Thiên Mụ được bắt đầu từ huyền thoại về một bà tiên áo đỏ mách chỗ xây kinh đô cho chúa Nguyễn Hoàng, tọa lạc trên một ngọn đồi xã Hà Khê (cũ), nay là xã Hương Long, thành phố Huế mặt nhìn xuống dòng sông Hương. Sách Ô Châu Cận Lục của Dương Văn An viết năm 1553 đã mô tả về ngôi chùa hay am nhỏ thô sơ Thiên Mỗ hay Thiên Mộ: “Chùa nằm phía Nam xã Hà Khê huyện Hương Trà, ở trên đồi núi, dưới giáp dòng sông, cảnh đẹp vượt hẳn ba nghìn thế giới, gần gang tấc với thiên trì. Khách tản bộ đăng lâm bỗng chốc phát lòng lành, tiêu tan tục lụy...”Miền Hà Khê cũng đã được nhắc đến trong tác phẩm Lục vân Tiên của cụ Nguyễn đình Chiểu viết năm 1848.

Tương truyền, năm Tân Sửu (1601), chúa Nguyễn Hoàng, sau khi được bà tiên mách trong giấc mộng, nhân buổi dạo chơi phong thủy, thấy vùng đồng bằng xã Hà Khê, có một ngọn đồi cao nổi lên như hình rồng quay đầu nhìn lại, phía trước trông ra sông dài, phía sau có hồ lớn, cảnh trí rất đẹp, chúa Nguyễn Hoàng cho rằng đất này có khí thiêng mới lập chùa lớn hơn gọi tên là chùa Thiên Mụ. Các chúa và vua triều Nguyễn trùng tu nhiều lần để chùa có được kiến trúc bề thế như hôm nay.Đến đời vua Tự Đức, chùa được đổi tên là chùa Linh Mụ năm 1862. Vua Tự Đức bị bệnh “vô tự”, có vợ và hàng chục cung tần mỹ nữ mà không có con.Để cầu cho có người nối dõi tông đường, vua cũng tin nhảm, sợ nói tới chữ “Thiên” phạm đến “Ông Trời” nên đổi tên “Thiên Mụ” thành “Linh Mụ”, có nghĩa “Bà mụ Linh thiêng” mà cầu tự. Tuy nhiên, vấn đề kiên nhảm chỉ tồn tại một thời gian ngắn, sau đó người Huế vẫn quen dùng cả hai tên: chùa Thiên Mụ và chùa Linh Mụ. Bức hoành phi mạ vàng gắn ba chữ Hán "Linh Mụ tự" của vua Tự Đức vẫn còn treo tại cổng tam quan chùa.

Chùa Thiên Mụ hiện có hai đại hồng chung.Một quả chuông được đúc vào năm 1710 đặt trong một ngôi nhà bát giác phía bên phải tháp Phước Duyên (nhìn từ trong ra).Trên chuông có khắc bài minh của chúa Nguyễn Phúc Chu “chú nguyện mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an”.Chuông này hiện nay chỉ được đặt như một pháp khí của chùa mà không đánh. Còn chiếc chuông đang làm nhiệm vụ giữ nhịp thời gian của “tiếng chuông Thiên Mụ” hiện nay được đúc vào năm 1815, đặt trên lầu chuông bên trái cổng Tam Quan, để đi vào điện Đại Hùng. Vua Thiệu Trị đã cho xây tháp Phước Duyên cao bảy tầng và dựng bia đá khắc bài “Thiên Mụ chung thanh” có đoạn ngộ lý duyên khởi của Phật giáo:



Từ xưa đến nay, chuông chùa vẫn được vang lên mỗi ngày hai thời (hai lần), vào lúc 19 giờ 30 và 3 giờ 30 sáng. Mỗi lần đánh trong thời gian một tiếng đồng hồ (60 phút) bằng 108 tiếng chuông để xóa đi 108 nỗi phiền muộn trong thế gian.Theo giáo lý nhà Phật, chúng sinh trong tam giới (dục, sắc và vô sắc giới) đều có chung bát khổ (sinh, lão, bệnh, tử, ngũ ấm xí thạnh khổ, oán tằn hội, ái biệt ly khổ và cầu bất đắc khổ). Từ căn bản của 8 điều khổ sẽ dẫn đến 108 nỗi phiền não được chia nhỏ theo trạng thái tâm lý và tình cảm. Trong mỗi tiếng chuông của người thiền giả đều mang theo tâm nguyện từ bi gửi gắm đến chúng sinh giải tỏa muộn phiền đau khổ.

Tiếng chuông Thiên Mụ ngoài âm sắc của tiếng đồng được chế tác bằng một kỹ thuật đúc truyền thống hoàn hảo của Phường Đúc-Huế, nó được vang xa nhờ vào vị trí đặt chuông trên đồi cao, lại có dòng sông Hương trải dài như một chất dẫn truyền tự nhiên. Nhưng trên tất cả những yếu tố ấy còn có ẩn chứa một âm sắc vi diệu khó diễn đạt từ chính công phu thiền định và hạnh nguyện từ bi được chuyển tải trong mỗi tiếng chuông của người hành đạo đánh mỗi tiếng chuông.Cái khó của việc công phu đánh chuông Thiên Mụ là không phải bất kỳ ai cũng làm được. Tiếng chuông sẽ tùy hạnh nguyện đánh chuông của thiền tăng mà âm sắc vang vọng thanh thoát và nhịp điệu của tiếng chuông sẽ khác hẳn nhau. Tương truyền cố Hòa Thượng Đôn Hậu thường thỉnh chuông sáng, người nghe tuy ở xa nhưng vẫn nhận ra.

Ngày nay, trước hàng vạn tạp âm của nhịp sống đô thị, tiếng chuông Thiên Mụ hằng đêm vẫn giữ nhịp thời gian, gửi vào trần thế âm thiền vi diệu. Sống trong cuộc thế lắm bon chen, có được một phút lắng yên để sống thật với chính mình hay tỉnh thức mỗi khi nghe tiếng chuông thanh thoát vang vọng ngân dài từ không gian trầm lắng thì thật là hiếm qúy, như hai câu thơ nổi tiếng của cố Thượng Tọa Mật Thể đã thể hiện: (Trăng chùa Linh Mụ)

Tiếng chuông ngân ngợi trong đêm vắng,
Thử hỏi hồn ai đã tỉnh chưa ?

Chùa Thiên Mụ từ lâu đã đi vào tâm tư tình cảm với nỗi nhớ nhung trong lòng người xứ Huế.Tiếng chuông chùa đã hơn 300 năm qua vẫn đều đặn giữ nhịp thời gian.Mỗi ngày hai buổi từ bao đời đã gieo vào lòng người một nỗi niềm tha thiết, mến thương, cảm kích trước vẻ đẹp thiên nhiên, trước công trình đời xưa để lại với ngọn tháp hùng vĩ đứng soi mình trên dòng Hương giang êm đềm duyên dáng. Nơi đây, từ ba thế kỷ nay, sớm chiều tiếng chuông chùa ngân vang vọng ngào ngạt tỏa ra toàn xứ Huế giữa thanh không vắng lặng, âm thanh ngân nga siêu thoát đã hấp dẫn và say đắm biết bao lòng người. Bên dòng Hương lững lờ thơ mộng, tiếng chuông cứ ngân dài lan tỏa trong không gian.Không gian càng rộng, càng yên tĩnh, tiếng chuông nghe càng sâu lắng. Chỉ một tiếng chuông nhưng đã đọng bao buồn vui, khắc khoải của một đời người.Nương theo tiếng chuông này, âm thanh mỗi mùa mỗi khác.Mùa xuân tiếng chuông nghe trong vắt tươi vui. Kể từ tiết lập hạ, tiếng chuông nghe thảnh thơi thóang mát như là bao dung của trời đất.Vào giác thu, trời Huế tím, tiếng chuông đi qua cây lá nghe nhẹ nhàng mơ hồ như một hơi thở.Tiết lập đông Huế rét mướt, tiếng chuông nghe như buồn bả, chậm rải hơn bao giờ hết.

Câu ca dao xưa,có lẽ từ ngày có đại hồng chung, tả cảnh đẹp thơ mộng xứ Huế và nỗi lòng ai đó nhân một đêm trăng dạo chơi bằng thuyền trên sông Hương. Ngày xưa cũng như hiện nay, hình ảnh chiếc thuyền êm đềm trôi trên dòng sông Hương thật đẹp và thơ mộng, nhất là đoạn sông trước chùa Thiên Mụ, đối diện Thiên Mụ là làng Long Thọ bên kia sông lúc nửa đêm về sáng, tai nghe tiếng chuông chùa Thiên Mụ và đồng thời nghe tiếng gà gáy từ vùng Thọ Xương của cố đô Huế. Qua các sử liệu, rõ ràng ở Huế có một địa danh, qua các thời kỳ mang bốn tên khác nhau: Thọ Khương, Thọ Xương và Thọ Cương hay Long Thọ.

Trước hết, Thọ Khương (hay Thọ Khang) là một vùng đồi, sát cạnh bờ Nam sông Hương, đối diện đồi Hà Khê bên kia sông. Từ đồi Thọ Khương, có thể nhìn được toàn cảnh xứ Huế từ núi Kim Phụng đến phá Tam Giang, từ Văn Thánh – Võ Thánh đến bến chợ Dinh, Cồn Hến. Ngày xưa Thọ Khương là một thành lũy của Chămpa vào thế kỷ V – VI, xây dựng trên vùng đồi của hai làng Nguyệt Biều và Dương Xuân : Lũy Nam 550m, Lũy Đông 370m, Lũy Bắc sát giới hạn xâm thực của sông Hương 750m với đầy đủ hệ thống hào, hệ thống thoát nước, giếng cổ Chămpa, bia đình Thọ Khương, kho Thọ Khương, miếu kho, Vạn Thọ Khương, miếu thờ vua Chămpa và công chúa Huyền Trân. Dưới rừng thông Thọ Khương là kho Thọ Khương – Kho thóc tại Thuận Hóa thời tiền Nguyễn. Tương truyền trước kia trên gò có các cung phủ từng rước tử cung (quan tài) các vua nhà Hậu Lê Anh Tông, Thế Tông, Huyền Tông, và Túc Tông để tạm ở đấy.

Năm 1770, Lê Qúi Đôn viết về Phủ Chúa Nguyễn ở Thuận Hóa đã cho ta biết : “Xưởng thuyền, kho lúa thì ở các xã Hà Khê, Thọ Khương, trên thượng lưu”. Thọ Khương còn là một thắng cảnh ở Huế khi Lê Quí Đôn viết : “Những lúc rỗi việc, xốc tay áo ngao du về xã Hà Khê, Thọ Khương”. Bao nhiêu năm thăng trầm thời cuộc tiếng gà canh khuya hay tiếng gà báo sáng đều đặn đi vào không gian trầm lắng của khúc thượng lưu sông Hương với nhiều nhà vườn xanh.Theo Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quan triều Nguyễn, hồi trước được gọi Thọ Khương Thượng Khố nơi có cung điện mùa hè của các chúa Nguyễn. Đến đời Gia Long, vì kỵ húy đế hiệu vua cha là Hiếu Khương Hoàng Đế, Gia Long mới đổi Thọ Khương thành Thọ Xương và năm 1824 Minh Mạng mới đổi Thọ Xương là Long Thọ, dựng đình bát giác ở trên gò gọi là đình Long Thọ Cương mà dân địa phương lại hay dùng Thọ Cương, nhất là danh tự Long Thọ như bây giờ. Long Thọ hiện nay chia làm hai vùng : phía Đông nhập vào Phường Đúc, xã Dương Xuân với nhà thờ Phường Đúc và Công Ty Khai Thác Đá là trung tâm. Phía tây nhập vào làng Nguyệt Biều với nhà máy Xi Măng Long Thọ là trung tâm với các di tích Hổ Quyền, Long châu Điện (Điện Voi Ré), thành cổ Chiêm Thành, chợ Long Thọ và một số địa danh Chămpa còn sót lại : Trạng Ụ, Vịnh, Dạ Gà.

http://www.khoahoc.net/photo/chuathienmu-3.gif[/img]

Vậy Thọ Khương, Thọ Xương, Thọ Cương và Long Thọ đều là một và đã tồn tại bên bờ sông Hương từ xa xưa, với những hàng tre trúc soi bóng nước, đối diện bên kia là chùa Thiên Mụ, cảnh đẹp làm rung động lòng du khách, thi nhân. Theo cụ Hương Giang Thái văn Kiểm câu ca dao “Tiếng chuông Thiên Mụ” là một lời ca hồn nhiên hiền hòa của một lái đò ẻo lả trên dòng sông Hương có thể xuất hiện từ thời kỳ lập chùa hồi đầu thế kỷ 17 mang âm điệu của một câu hò của dân gian với thổ ngữ Thiên Mụ từ 1601-1862 và Thọ Xương thì chỉ thông dụng trong khoảng hai thập niên 1802-1820 mà thôi và lần lần ít người biết đến danh từ này nữa. Hiện tại những danh từ chùa Thiên Mụ hay Linh Mụ và Long Thọ thông dụng hơn trong dân chúng Huế. Một trích đoạn trong hai bài thơ của Tùng Thiện Vương Miên Thẩm sau đây là một minh chứng (1836) :



Tiếng chuông quán Trấn Vũ

http://www.khoahoc.net/photo/chuathienmu-5.gif[/img]

Nhưng câu ca dao xứ Huế với “tiếng chuông Thiên Mụ” từ lúc nào đã trở thành câu thơ miêu tả phong cảnh Hà Nội với “tiếng chuông Trấn Vũ”qua phong thái âm điệu nhẹ nhàng đi vào tâm tư người dân Thăng Long-Bắc Thành-Hà Nội mà cố quên đi xuất xứ ?

Một trong những bài thơ bốn câu lục bát, niêm luật rất nghiêm chỉnh được ưu chuộng nhất của cụ Dương Khuê là bài ca tụng bốn cảnh nên thơ của chốn nghìn năm văn vật:

Hà Nội Tức Cảnh

Phất phơ ngọn trúc trăng tà,
Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương.
Mịt mù khói toả ngàn sương,
Nhịp chày An Thái, mặt gương Tây Hồ.

Lâu nay, hầu hết mọi người đều đinh ninh rằng đấy là một bài ca dao do dân chúng ở kinh thành Thăng Long - Hà Nội sáng tác và truyền khẩu từ xưa. Bài lục bát ấy đã được đưa vào các công trình sưu tập "văn chương bình dân" với nhiều dị bản hoặc sách giáo khoa trung đại học Việt nam hiện tại. Quả thật, nhiều người ngạc nhiên khi biết bài lục bát đang xét vốn là một áng thơ của một nhân vật tên tuổi: cụ Dương Khuê (1839 - 1902).Theo Văn Đàn Bảo Giám do Văn Học Tùng Thư ấn hành và Phan Phong Linh trong cuốn Việt Nam Phong Cảnh Qua Thi Ca thì bài thơ trên đây quả là của Dương Khuê. Dựa vào Dương gia phả ký của giòng họ, tham khảo thêm Luận đề về Dương Khuê của Nguyễn Duy Diễn (Nxb Khai Trí, Sài Gòn, 1960), tiến sĩ Dương Thiệu Tống đã chép lại nguyên văn bài thơ Hà Nội tức cảnh trong thiên khảo luận Tâm trạng Dương Khuê và Dương Lâm (Nxb Văn Học, Hà Nội, 1995) kèm nhận xét về câu lục mở đầu: "Có người đã sửa đổi câu đầu bài thơ này là “Gió đưa cành trúc la đà”, nhưng có lẽ là sai vì làm mất đi ý nghĩa ẩn dụ của toàn câu mà chỉ còn ý nghĩa tả cảnh mà thôi".

Dương Khuê, danh sĩ đời Tự Đức, hiệu Vân Trì sở trường là sáng tác ca trù. Tục gọi ông Nghè Vân Đình vì ông quê ở làng Vân Đình, huyện Sơn Lãng, phủ Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông (nay là TP. Hà Nội). Ông văn hay chữ tốt, đỗ cử nhân 1859 lúc ngoài 20 tuổi.Vào kinh thi Hội bị hỏng khoa đầu, nhân được Tùng Thiện Vương mời về nhà dạy con cháu học, ông nán ở lại chờ khoa sau.Năm Mậu thìn 1868 ông đỗ tiến sĩ lúc 29 tuổi kỳ thi Hội ở kinh đô Huế. Năm đó quan hệ hữu nghị giữa Việt Nam và Pháp ngày càng khó khăn: sáu tỉnh Nam Kỳ vừa bị mất và triều đình thì đang thụ động bối rối. Trong kỳ thi Đình năm đó 1868, vua Tự Đức ra đầu đề: Chiến hay Hoà? Trong bài văn dự thí, để nói lên nỗi đau thương của mình trước tình hình đất nước sau khi vua Tự Đức xuống chiếu nhận lấy trách nhiệm trong việc để mất Lục tỉnh Nam Kỳ, ông ghi dưới đầu đề như sau :

Độc bệ hạ chi chiếu, nhi bất thống khốc giả, phi nhân thần dã.

“Đọc chiếu của bệ hạ, không khóc lên đau đớn, không phải là nhân thần vậy”

Sau khi đỗ Tiến sĩ, Dương Khuê được bổ làm tri phủ Bình Giang , Hải Dương rồi được thăng làm Bố chánh. Vào đầu thập niên 1870, quan hệ giữa Việt Nam và Pháp càng ngày càng bất lợi cho phía Việt nam vì trong thế yếu bị động còn Pháp càng có nhiều yêu sách, đặc biệt là hoạt động bạo hành cùa Jean Dupuis (Đồ phổ Nghĩa) tuỳ tiện dùng sông Hồng của Việt Nam cho việc buôn bán vũ khí với Trung Hoa và còn ngang ngược bắt giữ phi pháp quan tri phủ Thọ Xương Đặng huy Xán (4-1873)-(Vũ ngự Chiêu, Tập 1, tr 219, Các Vua cuối nhà Nguyễn). Trước tình hình đó, dù chỉ là một quan nhỏ, Dương Khuê dâng biểu lên vua Tự Đức bàn là phải quyết liệt với người Pháp, không nên nhượng bộ mãi. Nhưng triều đình Huế lúc ấy đang chủ trương điều đình cho yên chuyện, hy vọng rằng Suý phủ Pháp ở Sài Gòn sẽ can thiệp để giài quyết biến cố Jean Dupuis. Vì vậy, sau khi xem sớ tâu của Dương Khuê, vua Tự Đức phê “Bất thức thời vụ “tức là “Không biết gì về thời cuộc”, rồi giáng chức Dương Khuê xuống Chánh sứ Sơn phòng, cho ông đi khai khẩn, trông nom ruộng hoang.Mấy năm sau, thăng Án sát tỉnh Hải phòng, lại bị cách chức lần nữa trở ra Sơn Phòng như trước. Được vài tháng lại bổ làm Đốc học Nam Định, rồi thăng Bố chính 1879 khi nhà vua nhân lễ mừng tuổi thọ 50 đã được nghe bài ca trù Gặp cô đầu cũ mà cảm nhận tâm sự của ông Dương nên tha tội :(nghĩa câu 5+6= Thiếp tự rẻ rúng thân mình, chàng không nỡ bỏ rơi; bầy tôi tuy tội dẫu nặng, vua vẫn còn thương)

Hốt ức lục, thất niên tiền sự,
Trải trăng hoa chưa trả nợ hương nguyền.
Đến bây giờ lại gặp người quen,
Nỗi lưu lạc sự ghét ghen là thế nhỉ.
Thiếp tự thân khinh, lang vi khí,
Thần tuy tội trọng, đế do liên.
Can chi mà tủi phận, hờn duyên,
Để son phấn đàn em thêm khúc khích.
Ý trung nhân tự khả tình tương bạch,
Thôi bút nghiên, đàn phách cũng đều sai.
Trông nhau nói nói, cười cười.

Thơ văn truyền tụng của Dương Khuê hầu hết là những bài hát nói.Và nói đến hát nói, thì bài Hồng Hồng Tuyết Tuyết nổi tiếng hơn cả. Bài ca trù nầy đề cập đến một mối tình ngang trái giữa một khách làng chơi lớn tuổi với một cô đào trẻ:

[img] http://www.khoahoc.net/photo/chuathienmu-6.gif [/img]

Hai câu 5 và 6 được dịch là:
“Lúc ta chơi bời phóng túng thì ngươi còn nhỏ,
Bây giờ ngươi đã đến tuổi lấy chồng thì ta đã thành ông”

Dư luận thời ấy đã phê phán nặng Dương Khuê, một mặt, ở khía cạnh đạo đức: “già chơi trống bỏi”, mặt khác ở khía cạnh chính trị: trong lúc đất nước đang trong cảnh nước sôi lửa bỏng mà tìm thú hưởng lạc! Thế là từ đó thơ văn họ Dương bị cho ra rìa lịch sử văn học.Để giải nỗi oan văn tự này, Tiến sĩ Dương Thiệu Tống, một hậu duệ của Dương Khuê đã đưa ra một cách luận giải khác. Theo GS Tống, đọc những bài hát nói của Dương Khuê không nên hiểu theo nghĩa đen, mà phải hiểu theo nghĩa ẩn dụ.Mỗi bài của ông đều ẩn chứa một tâm sự.Nhà thơ đã ký thác tâm trạng của mình vào chuyện các cô đào, không chỉ vì tài tử với giai nhân nợ sẵn, mà để dễ bề che mắt thế gian.

Phân tích những ẩn dụ hoặc ám chỉ, Dương Thiệu Tống cho rằng Muỗu 1 của bài Hồng Hồng Tuyết Tuyết là lời tâm sự hờn trách của Dương Khuê với vua Tự Đức trước tình hình đất nước bấy giờ. “Tuyết” ở đây không phải là một cô đào nào đó mà là chính Dương Khuê và các nhà nho trung trinh trong trắng không đem thân làm tôi tớ cho ngoại bang. “Ông” chính là vua Tự Đức.

Bởi vậy:

Ngày xưa Tuyết muốn lấy ông,
Ông chê Tuyết bé, Tuyết không biết gì
Bây giờ Tuyết đã đến thì,
Ông muốn lấy Tuyết, Tuyết chê ông già.

Có thể hiểu là: “Ngày xưa, thuở còn trong trắng, tôi cũng muốn ra giúp ông, nhưng ông chê tôi “bất thức thời vụ”.Bây giờ tôi đã khôn ngoan, hiểu biết rồi, ông muốn dùng tôi thì tôi lại chê ông quá già nua, nhu nhược”. Mặt khác, GS Tống chứng minh thêm bằng nhiều tình tiết nữa: như chữ “quân” ở câu Ngã lãng du thời quân thượng thiếu / Kim quân hứa giá ngã thành ông không thể dịch bằng đại từ nhân xưng ngôi thứ hai (ngươi, nàng, em), mà là vua, ngôi thứ ba. Chữ “mười lăm năm” tương ứng với cuộc đời làm quan của Dương Khuê, từ khi thi đỗ (1868) đến Hòa ước đô hộ Giáp Thân (1884), là thời gian mà tác giả từ chỗ kỳ vọng về Tự Đức đến chỗ thất vọng về nhà vua. Cũng như vậy, hai chữ “Thanh sơn” không thể hiểu là “làng ca trù”, mà là ám chỉ triều đình hay những nhà lãnh đạo đất nước bấy giờ, như trong các câu Thanh sơn tự tiếu đầu tương hạc (Phỗng Đá - Nguyễn Khuyến) hay Thanh sơn hựu hoán bạch đầu lai (Du Hương Sơn tự - Dương Lâm). Và “đàn ai”, “dương tranh” không phải là một loại đàn mà là tiếng đàn đánh lên kêu gọi hối thúc phong trào tranh đấu chống Pháp vì lúc này, 1883-1884 các Công Sứ và viên chức Pháp đã bắt đầu được bổ nhiệm đến các tỉnh, quận Bắc Kỳ để kiểm soát các quan Nam triều.

Các nhà thơ Việt Nam vốn có truyền thống làm thơ ký thác tâm sự, thi dĩ ngôn chí, nhất là trong những thời đại có nhiều những biến động, những đảo lộn về giá trị.Thời Nguyễn Khuyến và Dương Khuê là một thời đại như vậy.Khi nhà Nguyễn đầu hàng Pháp, ứng xử của các nhà nho rất khác nhau.Có người hợp tác với Pháp như là một sự đầu hàng cái tất yếu mất nước nhằm tránh cho dân đỡ khổ như Tôn Thọ Tường. Họ công khai biện minh cho thái độ của mình.Có người kiên quyết bất hợp tác như Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị. Có người quay về ở ẩn như Nguyễn Khuyến. Có người vẫn ra làm quan nhưng là làm quan với Nam Triều chứ không phải làm quan cho Pháp, như Dương Khuê, Dương Lâm, Chu Mạnh Trinh.

Tâm sự của những lớp sĩ phu này rất khác nhau, nhiều uẩn khúc.Bởi vậy, thơ văn của họ có rất nhiều hình tượng - ẩn dụ để thể hiện những tâm sự này. Nguyễn Khuyến thể hiện thái độ bất hợp tác của mình qua các hình tượng phỗng đá, mẹ Mốc, ông say, ông giả điếc, ông loà, kẻ sơ cuồng. Dương Khuê qua hình ảnh các cô đào. Đồng thời, ngôn ngữ thi ca giai đoạn này cũng hình thành một loạt những từ ngữ tượng hình mang ý nghĩa biểu trưng như trăng, nguyệt, núi, đá, tuyết....Một trong những bài thơ có lẻ được sáng tác vào thập niên 1870 đời Tự Đức hàm ý nghĩa bóng được ưu chuộng nhất của Dương Khuê là bài “Hà Nội Tức Cảnh” này.

Ở Hà Nội, địa hạt của huyện Thọ Xương xưa thuộc nội thành gọi là Vĩnh Xương, nay tương đương hai quận Hoàn Kiếm và Hai Bà Trưng, gần hồ Gươm hiện nay.Năm 1802 vua Gia Long đổi tên thành Thăng Long là Bắc thành.Năm 1805 lại đổi huyện Vĩnh Xương thành Thọ Xương. Khu vực quanh hồ Gươm lúc đó hoang tàn. Năm 1808, nhà Nguyễn đã cho lập xưởng đúc tiền ở đất thôn Tràng Tiền nên có tên gọi là Tràng Tiền (hay Trường Tiền).Tràng Tiền thuộc đất làng Cựu Lâu huyện Thọ Xương. (Xưởng đúc tiền từ đầu thế kỷ XIX nay đã trở thành Trung tâm Thương mại Tràng Tiền). Năm 1831 vua Minh Mạng chia thành Hà Nội ra làm 4 phủ mà huyện Thọ Xương và Vĩnh Thuận trực thuộc phủ Hoài Đức. Trước 1888, toàn bộ khu nhà thờ và phố Nhà Chung hiện nay thuộc thôn Báo Thiên Tự (chùa Báo Thiên), huyện Thọ Xương (cũ). Đó là vùng trung tâm của nội thành Hà nội bao gồm quận Hoàn Kiếm, Hai Bà Trưng, Ba Đình và một phần nhỏ quận Đống Đa-Tây Hồ. Đây là khu buôn bán tập trung nhất của Thăng long-Hà Nội xưa nay với cảnh quan thiên nhiên nhiều hồ ao.Bây giờ huyện Thọ Xương chỉ còn là một phố nhỏ với đường Thọ Xương (nối đường Phủ Doãn và Lý quốc Sư quận Hoàn Kiếm) có di tích Văn Chỉ Thọ Xương mà thôi. (http://maps.google.com)

[img]http://www.khoahoc.net/photo/chuathienmu-7.gif" alt=""/>
Bản đồ thành Thăng Long

(Ha Noi des origines au 19e siècle - Hà Nội từ khởi thủy đến thế kỷ 19. Etudes Vietnamiennes. No 48 - 1977).

Bảng phiên âm các tên trong bản đồ: 1. Nhị Hà; 2. Thiên Đức giang; 3. Tô Lịch giang; .( Sông Tô Lịch ngày nay không còn thông với sông Hồng nữa, bắt đầu từ cầu Giấy, chảy cùng hướng với đường Láng và đường Kim Giang về phía Nam tới sông Nhuệ ,đoạn sông còn lại đã bị lấp chỉ là một dòng thoát nước thải của thành phố ).. 4.Thiên Phù giang; 5. Tây Hồ; 6. Hoàn Kiếm hồ; 7. Phụng Thiên phủ; 8. Thọ Xương huyện; 9. Quảng Đức huyện; 10. Thăng Long thành (Đoan môn, Long Khánh điện, Thị Triều điện, Kiền Nguyên điện, Thúy Hoa điện, Nùng Sơn); 11. Quốc Tử giám; 12. Trấn Vũ quán; 13. Linh Lang tự; 14. Báo Thiên tháp; 15. Nam Giao điện; 16. Từ Thiên giám; 17. Bạch Mã từ; 18. Giảng Vũ điện; 19. Hội thí trường; 20. Khán Sơn đài.

[img]http://www.khoahoc.net/photo/chuathienmu-8.gif" alt=""/>

Còn lại 3 địa danh kia trong bài Hà Nội tức cảnh là thuộc vùng Hồ Tây. Hồ Tây còn có tên hồ Lãng Bạc, Mù Sương (Dâm Đàm), hồ Trâu Vàng (Kim Ngưu hồ), Đầm Xác Cáo, và Tây Hồ, là một hồ lớn nhất ở nội thành Hà Nội. Hồ nằm ở phía tây bắc Hà Nội.Hai hồ Trúc Bạch – Hồ Tây được chia bằng đường Cổ Ngư (hay đường Thanh Niên bây giờ) từ 1620.Hồ có thời gian thông với sông Hồng. Hồ Tây từ xa xưa đã là thắng cảnh nổi tiếng nên các nho sĩ thời đó hay ví Hồ Tây ở Hà Nội với Tây Hồ rất nổi tiếng thuộc tỉnh Hàng Châu của Trung Hoa.

Từ thời Lý-Trần, các vua chúa đã lập quanh hồ nhiều cung điện làm nơi nghỉ mát, giải trí như cung Thuý Hoa đời nhà Lý , tức điện Hàm Nguyên đời nhà Trần nay là khu chùa Trấn Quốc; cung Từ Hoa đời nhà Lý nay là khu chùa Kim Liên; điện Thuỵ Chương đời nhà Lê nay là khu Trường Chu Văn An. Xung quanh hồ cũng có nhiều di tích văn hoá, lịch sử như làng Nhật Tân với nghề trồng quất, cành đào nổi tiếng, làng Xuân Đỉnh có đền Sóc thờ Thánh Gióng, làng Kẻ Bưởi (An Thái) với đền Đồng Cổ (hiện nằm trên đường Thụy Khuê) nơi bách quan hội thề đời nhà Lý; làng Thuỵ Khuê với chùa bà Đanh, đền Quán Thánh và chùa Trấn Quốc.

Quán Trấn Vũ, tên khác là Chân Vũ và Quán Thánh, song mọi người quen gọi là đền Quan Thánh. Thời vua Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long, quán Trấn Vũ được khởi dựng từ năm Nhâm Ngọ 1102 trong hoàng thành. Đến năm Giáp Ngọ 1474, vua Lê Thánh Tôn chuyển công trình này ra phía nam hồ Tây.Quán là chỗ thờ cúng của đạo Lão.Nơi này thờ Huyền Thiên Trấn Vũ Chân Quân, sau thờ thêm Tử Đồng Văn Xương Đế Quân.(Một thời, người Pháp nhầm khi ghi nơi này là Pagode du Grand Bouddha tức chùa Phật Lớn).

Huyền Thiên Trấn Vũ, một vị thánh của đạo Giáo, để trấn giữ yêu quái ở phía bắc kinh thành. Đời Lê Hy Tông, cho đúc tượng Trấn Vũ bằng đồng đen cao 3,96m, nặng 4 tấn, năm 1681, rồi lại xây bệ đá cao 1.2 m đặt tượng lên năm 1694. Tượng Trấn Vũ cao lớn, mặc áo đạo sĩ đen, xõa tóc, không đội mũ, chân đất, tay trái giơ lên bắt quyết, tay phải chống kiếm xuống lưng một con rùa, có rắn lượn quanh kiếm. Theo truyền thống, rắn và rùa là hai con vật tượng trưng của thần trấn phương Bắc. Theo thuyết ngũ hành, phương bắc màu đen nên gọi là “huyền” và sắc phục của thân đều là màu đen. Khi khoa cử mở rộng, đền còn thờ thêm Văn Xương đế quân, vị sao tướng số chủ về văn học và sinh ra tục nhà nho thường đến lễ vào ngày 01 tháng 6 âm lịch, ngủ lại chùa xin thần ứng mộng cho biết khoa thi này thi cử ra sao!

Đền Quan Thánh có cổng tam quan uy nghi, đường bệ được dựng trên những tấm đá lớn với gác chuông ở phía trên cùng.Phía trước có bốn cây cột lớn được đắp nổi bằng những hình nghê, phượng và mặt hổ phù.Ở gác tam quan có treo một quả chuông cao gần 1,5m đúc cùng thời với tượng Trấn Vũ. Đền Quán Thánh còn nổi tiếng với vẻ đẹp của nghệ thuật chạm khắc gỗ. Trên các bộ phận kiến trúc bằng gỗ của ngôi đền các đề tài như tứ linh, dơi, cá, tùng, trúc, cúc, mai, lẵng hoa, bầu rượu, thanh gươm, cảnh sinh hoạt của trần gian và thượng giới... đều được chạm khắc một cách tinh xảo, mang đậm phong cách nghệ thuật thời Lê. Ngoài việc có giá trị về mặt lịch sử và kiến trúc, đền Quán Thánh còn là nơi sinh hoạt tín ngưỡng văn hóa nổi tiếng của người dân Hà Nội xưa và nay và tồn tại trong lòng người Hà Nội.

Làng giấy Yên Thái hay An Thái còn có tên là làng Bưởi. Trong sách "Dư địa chí" của Nguyễn Trãi viết vào nǎm 1435 đã nói đến nghề làm giấy từ vỏ cây của làng này cho nên có tiếng chày giã giấy trong đêm sương mờ. Nhịp chầy Yên Thái có nghĩa người dân phải dùng cối chầy để giã vỏ cây dó thành bột, đem nấu rồi mới đàn ra làm giấy. (Cây dó giấy tên khoa học: Rhamnoneuron balansae.Họ: Trầm Thymelaeaceae) Khi lấy chầy tay giã vào cối đá lớn có tiếng phát ra vang cả vùng Yên Thái.Ngay từ hồi ấy, người thợ thủ công ở đây đã làm ra những loại giấy đặc biệt cho triều đình phong kiến như giấy thị (để viết chỉ thị), giấy lệnh (để ghi mệnh lệnh). Những sản phẩm chủ yếu của Yên Thái là giấy bản để in sách hoặc để viết chữ Hán/Nôm (bằng bút lông, mực tầu) và giấy dó (để in tranh dân gian). Câu ca dao mô tả sự khó nhọc của người thợ làm giấy Yên Thái:

[img]http://www.khoahoc.net/photo/chuathienmu-9.gif [/img]

Giã nay rồi lại giã mai
chân tê mỏi, dó ơi vì mày .

Hoàng Đạo Thúy trong sách Thăng Long-Đông Đô-Hà Nội (Hội Văn nghệ Hà Nội, 1969) từng giãi bày ấn tượng: "Những buổi sớm tinh sương mùa đông, khách dạn sương đi trên đường Thanh Niên không thấy trời, không nhìn rõ mặt nước, trên đầu cành lá rũ nặng giọt, bên trái lung linh ánh trăng úa hạ huyền; lúc ấy lòng lâng lâng, không ngâm mà cũng như ngâm câu thơ cổ: Phất phơ ngọn trúc trăng tà…Gà xóm bên hồ đã gáy, chuông hồi đã đổ dồn, đồng bào Bưởi đã dậy giã dó từ lâu. Mặt trời mới hé trên đê Yên Phụ mở ra một tấm gương phẳng lặng rắc phấn hồng…" Rõ ràng bài viết được gợi ý từ bài thơ của Dương Khuê.

Hoàn cảnh thập niên 1870 khi Dương Khuê viết bài thơ Hà Nội Tức Cảnh này, ngọn trúc chỉ người quân tử đứng trước tình trạng nhiễu nhương thời vua Tự Đức (trăng ám chỉ ngôi cao như vua, triều đình; tà có nghĩa đang suy thoái) ngày càng “mịt mù khói toả ngàn sương”.Tác giả Dương Khuê ước mơ bao giờ mới có “tiếng chuông” “canh gà” để vua quan và dân thức dậy từ giấc ngủ vùi trong tình huống nước nhà gặp cơn nguy biến? Có thể Dương Khuê muốn gián tiếp thức tỉnh vua, triều đình lúc bấy giờ khi cố ý dùng câu thứ hai của câu hò xứ Huế nhưng thay bằng địa danh Hà nội, Trấn Vũ và Thọ Xương. Thật vậy, Ông chỉ cần dùng một từ ngữ chuông hay gáy cũng đủ hàm ý muốn thức tỉnh lòng yêu nước.

Nếu dựa vào lịch sử thì lúc bấy giờ - 1870, lãnh thổ Việt nam thu hẹp chỉ còn Trung và Bắc kỳ mà thôi, còn Nam kỳ đã là thuộc địa Pháp. Nên Tiếng chuông Trấn Vũ phải đánh động người dân Bắc kỳ đứng lên chống Pháp cũng như Trung Hoa lúc này đang lâm le chia phần đất phía cực Bắc Việt nam với các nhóm loạn Cờ đen, Cờ vàng, Hoàng Sùng Anh.Tiếng gà Thọ Xương để thức tỉnh vua quan triều đình Huế về tình hình sơn hà nguy biến và nhắc nhở cái nhục về quan tri phủ Thọ Xưong Hà nội bi quân Pháp bắt giử trái phép.Nhà thơ chỉ cầu mong sự đồng điệu hợp nhất giữa vua quan quân dân trong công cuộc chống ngoại xâm như nhịp chày An Thái để nước nhà được thái bình êm ả như mặt gương Tây Hồ .Đó là kỳ vọng của kẻ sĩ ra giúp nươc.

Tâm sự u uẩn của Dương Khuê thay đổi theo những biến chuyển thời cuộc khi ra làm quan giúp vua trong hai thập niên 70 và 80 của thế kỷ 19. Lúc ra làm quan Nam triều sau khi đổ tiến sĩ, với bài Hà nội tức cảnh Ông cầu mong sự tốt đẹp cho đất nước đang cơn nguy biến. Lần hồi Ông bày tỏ thái độ của một sĩ phu yêu nước qua sớ tâu vua để phản đối chính sách hòa đàm nhượng đất của triều đình mà bị giáng chức, rồi được vua tha thứ và trọng dụng trở lại qua bài Gặp cô đầu cũ, nhưng cuối cùng ông chỉ gặp nổi thất vọng của một kẻ sĩ, tôi trung vì nhà vua nhu nhược làm mất nước qua bài Hồng Hồng Tuyết Tuyết để phải chịu một oan ức trong văn học sử cận đại.

Thời điểm của hai bài thơ

Trong bao nhiêu năm nay, nhiều người Việt Nam, quốc nội hay hải ngoại ở nhiều lãnh vực khác nhau đã đua nhau tranh cãi về xuất xứ của hai câu thơ đầu bài này. Dựa trên lịch sử, thời gian và địa hình, chúng tôi có thể lý giải nguồn gốc câu ca dao này như sau:

Địa danh Thọ Khương (hay Thọ Khang) đã có từ thời tiền Nguyễn. Hai địa danh Thọ Xương ở Huế và Hà nội đã được đặt tên cùng một thời gian 1802-1805, cùng một lần hay cách nhau vài năm vào những năm đầu của triều vua Gia Long, vì phạm huý cả hai (Hiếu Khương hoàng đế, đế hiệu của phụ thân vua Gia Long)? Tên Thọ Xương ở Huế thì chỉ thông dụng đến năm 1824 rồi ít người còn nhớ, cũng như Thọ Cương sau này. Thọ Xương của Hà Nội tồn tại đến hôm nay nhưng biến dạng từ quận huyện thành một con đương ngắn.

Thiên Mụ xây năm 1601 với chuông đúc trên đồi cao năm 1710 và Trấn Vũ xây tại Hồ Tây vào năm 1474 với chuông đúc năm 1681 trên đồng bằng. Nhưng tiếng chuông Thiên Mụ của ca dao Huế là tiếng chuông giải nghiệp trần thế và tiếng chuông Trấn Vũ của Dương Khuê là tiếng chuông thức tỉnh mọi người. Chúng ta thử nghĩ đến âm thanh vang động của câu thơ: hai địa danh Huế chỉ cách nhau môt con sông đối diện nhau với nhiều cảnh sơn thuỷ hửu tình đầy tre trúc hai bên bờ sông hấp dẫn các thi nhân với tiếng chuông chùa và cả tiếng gà gáy. Trong khi đó, về mặt địa dư, hai hồ Hà nội (Hồ Gươm và Hồ Tây) nằm trên cánh đồng bằng phẳng thị tứ, cách nhau đến 3-4 cây số đường chim bay với nhiều xóm phường, nhiều hàng liễu rủ cây đa tiếng chuông và gà gáy có thể ngân vọng lan tỏa hợp điệu xa như thế sao?

Do vậy trước tiên ta hiểu hai câu ca dao nầy phải được xuất phát từ Huế với nhiều văn nhân thi sĩ kỳ tài từ thời tiền Nguyễn, thế kỷ 18 bấy giờ dạo chơi sơn thủy khúc thượng lưu sông Hương trong những cuộc du thuyền hưởng thú trăng thanh gió mát đàn ca xướng hát để ứng khẩu và lan truyền trong dân chúng Huế:

Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Khương

Đến thời vua Gia Long thì Thọ Khương biến thành Thọ Xương thấm nhuần vào lòng dân Huế vì sợ tội phạm huý:

Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương

ngay cả từ thời ông Nghè Văn Đình đang theo nghiệp bút nghiên tại Huế cho đến tận bây giờ. Dù trên phương diện đia chánh hai danh từ Thiên Mụ và Thọ Xương đã bị thay đổi bởi thủ tục hành chánh nhưng dân ca vẫn còn lưu truyền mãi.

Trở lại Bắc sau nhiều năm sống tại Huế cận kề nhà thơ Tùng Thiện Vương cùng chia sẻ nhiều nổi đau chung và ưu tư ray rứt về những biến động của đất nước để ra làm quan Nam triều trong tình thế nhiễu nhương càng ngày càng có tin xấu, Dương Khuê đã mượn câu thứ hai mà tâm sự vào khoảng thập niên 1870 trong Hà nội tức cảnh với những địa danh của Hà nội:

Phất phơ ngọn trúc trăng tà,
Tiếng chuông Trấn Vũ canh gà Thọ Xương.

Tại sao ông Khuê không dùng “canh gà” Thụy Khê hay Nhật Tân hay Kim Liên với “tiếng chuông” Trấn Vũ hay Trấn Quốc để tả phong cảnh Hồ Tây đầy đủ âm điệu của tiếng chuông cùng tiếng gà gáy thì thích hợp biết bao? Cũng vậy tại sao Ông không dùng địa danh chùa Báo Thiên hay đền Ngọc Sơn, canh gà Thọ Xương để chỉ vùng Hồ Gươm, nội thành Hà Nội bấy giờ (chùa Báo Thiên cũng có tháp chuông cao vào thời nầy vậy) cũng để nghe được tiếng chuông và tiếng gà gáy vùng hồ Hoàn Kiếm? Đó là ẩn ý có mục đích của Ông khi hai vùng Hồ Tây và Hồ Gươm cách xa nhau, tiếng gà làm sao phối hợp được cùng tiếng chuông để người hậu thế phải suy đoán tâm sự của Ông về dân Hà thành và vua quan Huế.

...
Users browsing this topic
Guest
Forum Jump  
You cannot post new topics in this forum.
You cannot reply to topics in this forum.
You cannot delete your posts in this forum.
You cannot edit your posts in this forum.
You cannot create polls in this forum.
You cannot vote in polls in this forum.