Welcome Guest! To enable all features please Login or Register.

Notification

Icon
Error

2 Pages12>
Mây trôi ....... trôi hết một đời
Quách Tĩnh
#1 Posted : Sunday, April 16, 2006 4:00:00 PM(UTC)
Quách Tĩnh

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 61
Points: 0

Gia chủ là con nhà võ, đang tập làm thơ, nên văn chương còn kém cỏi. Xin tao nhân cứ tự tiện vào chơi và viếng cảnh trang. Gia chủ xin miễn thù tạc khách sáo. Lập quán này chỉ mong gặp lại người xưa đã đi lạc là tiểu cô nương Hoàng Dung, xưa ở đảo Đào Hoa. Ai biết xin chỉ dùmRosebeerchug





1.

Nước vẫn trôi và mây vẫn bay
Thênh thang tự tại suốt tháng ngày
Lạ quá, có gì như vướng bận
Giật mình, mây nước lại ngừng, xoay

Nước vẫn trôi và mây vẫn bay
Non sông thương nhớ vạn tháng ngày
Ồ nhỉ, vướng gì trong tiền kiếp
Ngập ngừng, mây nước chợt tỉnh, say





suong mai
#2 Posted : Monday, April 17, 2006 12:19:44 AM(UTC)
suong mai

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 1,113
Points: 234

Thanks: 3 times
Was thanked: 19 time(s) in 19 post(s)
Chào Quách Tĩnh,
Tôi là Sương Mai người giữ vườn đây mong QT tìm được Hòang Dung của ngày xưa thân ái.
Quách Tĩnh
#3 Posted : Tuesday, April 18, 2006 3:47:53 PM(UTC)
Quách Tĩnh

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 61
Points: 0

RosebeerchugSM


2.


Không men nồng mà lòng tràn rạo rực
Không hơi cay mà rực lửa trời mê
Tràn không gian như dậy sóng muôn bề
Bao tiền kiếp vươn về đầy vũ trụ

Đất trời chuyển mà dường như ngưng tụ
Tim nhịp đều mà tợ trống thúc quân
Nuóc lặng trôi mà nội sóng rần rần
Tình tưởng nhẹ mà âm thầm tưởng nhớ

Sóng bạc đầu thuở nao vương trời cũ
Trói hồn ai trong nhung nhớ mông lung
Tiền kiếp nào vương vọng cõi xa xăm
Thanh và khí đồng âm đêù chuyển động

Vẫn biết rằng trong cơn mê tuyệt vọng
Dù nổi trôi, trôi nổi vạn muôn bề
Thoảng bên tai vẫn nhè nhẹ câu thề
Bao huyền diệu như vỗ về tiền kiếp .
Quách Tĩnh
#4 Posted : Friday, April 21, 2006 6:06:53 AM(UTC)
Quách Tĩnh

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 61
Points: 0

Roseheart


3.

Em đứng lên đem mưa gió vào đơì
Em bừng dậy sau bao ngày mê ngủ
Em thổn thức sau bao đêm nhung nhớ
Em u hoài mờ lệ chỉ vì ai ?
Em vươn vai đứng thẳng nhìn cuộc đơì
Em chờ đón một tương lai tươi sáng
Em ngoảnh mặt đứng nhìn những ngọn sóng
Em kiên trì chờ đợi mọi đổi thay
Em vững lòng tin ở một ngày mai
Em sung sướng sẽ bên anh maĩ maĩ
Em có biết những buổi chiều hoang dại
Anh bâng khuâng ở lưá tuổi đôi mươi
Anh đến với em trong mưa gió tơi bời
Anh sung sướng chìm đắm trong tầm mắt
Anh đã dừng chân sau bao ngày mài miệt
Anh đã thương những giọt nước mắt cuả em...
Như thương cảm quê hương
Anh đã đứng lên vì mong ước huy hoàng
Cho em, cho anh, và cho tất cả !


04-21
Quách Tĩnh
#5 Posted : Monday, April 24, 2006 2:39:14 PM(UTC)
Quách Tĩnh

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 61
Points: 0



4.


Ta là "nước" khi vui trong sông biển
Là "mây" trơì khi "nước" được bốc hơi
Tung tăng bay lượn khắp bốn phương trơì
Khi gặp lạnh, lại buông rơi xuống đất
Lại đổi tên cơn "mưa" bay phảng phất
Rơi tung tăng ca hát khắp bầu trơì
Đọng trên cao núi hùng vĩ tuyệt vơì
Gặp duyên lạnh, lại một trơì "tuyết" trắng
Vào mùa hạ ánh mặt trơì tươi thắm
"Nước" ào ào lại từ núi về kinh
"Nước", "mây", "mưa", "tuyết" dù có khác hình
Nhưng nguyên thể, cũng đều cùng bản tánh



Quách Tĩnh
#6 Posted : Thursday, April 27, 2006 8:27:47 AM(UTC)
Quách Tĩnh

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 61
Points: 0



5.


Một chiều nào "nước" trong dòng sông chính
Chợt thấy mây, mừng rỡ gọi "em ơi"
Mà ô hay! em chẳng nhận ra rồi
Trông kỳ quá! Anh đâu là "mây" nhỉ

Hãy dừng lại, em hãy nhìn cho kỹ
Để thấy ta, nào có khác gì đâu ?
Tên gọi, danh xưng, dù chẳng một mầu
Mà bản thể vẫn không hề thay đổi

Hãy cươì lên giữa không gian vơì vợi
Ánh dương hồng rực rỡ một trơì xuân
Để thấy rằng trên vạn bước đường trần
Ta luôn dõi ánh mắt nhìn em dại





Quách Tĩnh
#7 Posted : Thursday, April 27, 2006 8:33:12 AM(UTC)
Quách Tĩnh

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 61
Points: 0

Rose


6.


Biền biệt xa nhau mấy mươi thu
Cánh nhạn xa xăm vẫn mịt mù
Thương ai xuôi ngược bao ngày tháng
Lăn lóc phơi gan, vẫn đợi chờ .

Cảnh nào buồn hơn cảnh ngục tù
Thân tàn ma dại chốn biên khu
Hùm beo rắn độc thường lui tới
Uy hiếp hồn ai, mịt mịt mù.

Chinh phụ xa xưa ngóng chồng về
Ôm con tựa cửa buổi chiều quê
Cô phụ ngày nay buồn muôn kiếp
Óan trách thân côi, dạ naõ nề.

Ngóng chồng mà chẳng biết ngày về
Thương ai đau khổ, dạ tái tê
Não nùng thương xót đàn con dại
Nhỏ lệ thương ai, biệt ngày về.

Tần tảo thay chồng kiếm miếng ăn
Nuôi đàn con dại với nuôi thân
Nuôi cha, nuôi mẹ, nuôi ... chồng nữa
Nát ngọc, tan thân, vẫn một bề .







http://www.langtieu.com/...nucuoi/chieutrongtu.mp3

(Chiều trong tù - Lâm nhật Tiến)
Quách Tĩnh
#8 Posted : Thursday, August 13, 2009 2:44:56 PM(UTC)
Quách Tĩnh

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 61
Points: 0

7.


Mái tóc dạ hương một thủa nào
Tung bay ngược gió nắng lao xao
Chờn vờn ẩn hiện dung nhan ấy
Tim nhẹ rung lên tiếng nhiệm mầu.

Mái tóc dạ hương quyện hồn nào
Nhìn nhau ngây dại chẳng thành câu
Trao nhau ánh mắt ngàn đắm đuối
Bơi lội trong mơ thẫm ngọt ngào.

Mái tóc dạ hương vẫn nghìn đời
Trao nhau ân ái đẫm đôi môi
Không phai không nhạt không mờ tối
Thơm ngát hương đời vẫn đầy vơi

Mái tóc dạ hương vẫn còn đây
Vẫn trao thắm thiết vạn tháng ngày
Vẫn bay trong gió hương thanh khiết
Vẫn ngát hương đời giữa đổi thay.
Quách Tĩnh
#9 Posted : Saturday, December 12, 2009 1:07:47 AM(UTC)
Quách Tĩnh

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 61
Points: 0

8.

Dấu yêu



Dấu Yêu


Ta vẫn yêu em tự thủa nào
Vấn vương hồn quyện dạ lao xao
Thương em dịu ngọt tình lai láng
Mật ngọt : trong tâm thật dạt dào

Ta vẫn yêu em thật nồng nàn
Hương tình say đắm tự tâm can
Cuồng say rực cháy từ muôn kiếp
Hôn trả : thương em thật nồng nàn


Quách Tĩnh
#10 Posted : Saturday, January 9, 2010 2:20:33 PM(UTC)
Quách Tĩnh

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 61
Points: 0


Những dòng tâm huyết




1.

"Hãy dừng lại những cung đàn ủy mị"
"Những lơì ca thống thiết của lòng ta"
"Những vần thơ than cuộc sống mong manh"
(Của thi Sĩ ?, nhạc Sĩ ?
)

hãy dừng lại: muôn tiếng lòng riêng rẽ
nghe trong tim: dòng máu thắt cuộn trôi
nghe trong tâm: cơn giận giữ ngập trời
tiếng tổ quốc: gọi mơ`ì gầm tiếng thét

hãy ngừng lại: muôn tiếng tơ thân ái
cùng nắm tay: xây dựng lại cơ đồ
dấn thân đi: dù chết một nấm mồ
đem máu huyết: làm bờ ngăn quân giặc

đừng ngôì im: gương ngàn xưa còn đó
còn gì đâu: sẽ mất hết bạn ơi
bọn tầu ngông: sẽ ăn thịt ngàn đời
bọn phản bội: một trơì còn dám bán

hãy dừng lại: những tiếng tơ trầm bổng
hãy vùng lên: vì đất nước bạn ơi
hãy nghĩ rằng: sống chết chỉ một đời
chết kiêu hãnh: đáp lơ`ì mơ`ì Tổ quốc

đừng ngồi than: được gì cho vận nước
nước mắt nào: rửa sạch nhục quê hương
hãy vùng lên: muôn tiếng thét oai hùng
đây là lúc: tình nồng dâng Tổ quốc

bạn có biết: khi tầu ngông cắn miếng
chúng nào ngừng: không nuốt chửng nước ta
hãy nghĩ đi: cái gì sẽ xẩy ra ?
một dân tộc: ngàn đơì làm nô lệ

bọn tầu ngông: muôn ngàn đơì vẫn thế
chúng bạo tàn: giết cả vạn tầu con
thiên an môn: là cả nấm mồ chôn
xe thiết giáp: ủi tràn lên dân chúng

lại này nưã: xứ hiền lành Tây Tạng
đã từng là: nơi đất Phật sau, xưa
bọn tầu ngông: chiếm chặt chẳng chần chờ
tiếng than khóc: 50 năm rôì nhé

hãy vùng lên: dân nước Nam hùng khí
con Lạc Hồng: Tổ phụ thật oai linh
hỡi khí thiêng: muôn ngàn kiếp, mọi miền
hãy hội tụ: dự phần vì Tổ quốc

cùng tuốt gươm: đập tan loài phản bội
bọn tầu ngông: tháo giáp vội quy hàng
theo gương xưa: Nguyễn Huệ đuổi sài lang
đem nước Việt: huy hoàng cho dân tộc


Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ: Nhạc Sĩ Nguyễn Đức Quang
http://www.youtube.com/watch?v=K9L_05ctYQg&NR=1

Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ: Nhạc Sĩ Nguyễn Đức Quang - ban Hợp Xướng Ngàn Khơi:
http://www.youtube.com/watch?v=xj-u7PbIhkg


viethoaiphuong
#11 Posted : Sunday, January 10, 2010 12:13:46 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)


Bài thơ "Những dòng tâm huyết" của Quách Tĩnh - tuyệt vời !!
VHP xin phép QT đem post diễn đàn khác và gửi lên liên mạng toàn cầu.
Chúc QT hồn thơ luôn hòa quyện hồn dân tộc Việt Nam
Thân tình,
VHP
Quách Tĩnh
#12 Posted : Thursday, January 14, 2010 6:46:11 PM(UTC)
Quách Tĩnh

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 61
Points: 0

quote:
Gởi bởi viethoaiphuong



Bài thơ "Những dòng tâm huyết" của Quách Tĩnh - tuyệt vời !!
VHP xin phép QT đem post diễn đàn khác và gửi lên liên mạng toàn cầu.
Chúc QT hồn thơ luôn hòa quyện hồn dân tộc Việt Nam
Thân tình,
VHP




Cám ơn VHP. VHP cứ tự nhiên nhé.

Quách Tĩnh
#13 Posted : Thursday, January 14, 2010 7:12:32 PM(UTC)
Quách Tĩnh

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 61
Points: 0



Lĩnh nam - Chích quái

1-truyện họ hồng bàng



Đế Minh cháu ba đời họ Viêm Đế Thần Nông sinh ra Đế Nghi, sau nhân đi tuần về phía Nam đến núi Ngũ Lĩnh lấy được con gái bà Vụ Tiên rồi trở về, sinh ra Lộc Tục. Tục dung mạo đoan chính, thông minh phúc hậu, Đế Minh rất lấy làm lạ, muốn cho nối ngôi mình. Lộc Tục cố từ, xin nhường cho anh. Đế Minh liền lập Nghi làm kẻ nối ngôi. Lại phong Lộc Tục là Kinh Dương Vương để trị đất Nam, lấy hiệu nước là Xích Quá. Kinh Dương Vương có tài đi dưới Thủy Phủ, lấy con gái Long Vương ở hồ Động Đình, sinh ra Sùng Lãm hiệu là Lạc Long Quân, cho nối ngôi trị nước. Kinh Dương Vương không biết đi đâu mất. Lạc Long Quân dạy dân việc cày cấy nông tang, đặt ra các đẳng quân, thần, tôn, ti, các đạo cha con, vợ chồng, đôi khi trở về Thủy Phủ mà trăm họ vẫn yên vui vô sự, không biết do đâu được thế. Hễ dân có việc lại lớn tiếng gọi Long Quân rằng: "Bố ơi! sao không lại cứu chúng tôi". Long Quân tới ngay, sự linh hiển của Long Quân, người đời không ai lường nổi. Đế Nghi truyền ngôi cho con là Đế Lai, cai trị Bắc phương. Nhân khi thiên hạ vô sự bèn sai quần thần là bọn Xuy Vưu thay mình trông coi quốc sự rồi đi tuần xuống nước Xích Quỷ ở phía Nam. Khi đó, Long Quân đã về Thủy Phủ, trong nước không có chúa. Đế Lai bèn để ái nữ là âu Cơ và các thị tỳ ở lại nơi hành tại rồi đi chu du thiên hạ, ngắm các nơi danh lam thắng cảnh. Thấy hoa kỳ cỏ lạ, trân cầm dị thú, ngọc ngà vàng bạc... các thứ đá quý, các cây trầm, đàn cùng các sơn hào hải vật không thiếu thứ gì, khí hậu bốn mùa không lạnh không nóng, Đế Lai rất ái mộ, vui quên trở về. Dân phương Nam khổ vì bị người Bắc phương quấy nhiễu, không được yên sống như xưa mới cùng gọi Long Quân rằng: "Bố ơi ở đâu mà để cho dân Bắc xâm nhiễu phương dân".

Long Quân đột nhiên trở về, thấy âu Cơ có dung mạo đẹp đẽ kỳ lạ, trong lòng vui mừng, bèn hóa thành một trang thiếu niên phong tư tú lệ, tả hữu kẻ hầu người hạ đông đúc, vừa đi vừa ca hát đánh trống. Cung điện tự nhiên dựng lên. âu Cơ vui lòng theo Long Quân. Long Quân giấu âu Cơ ở Long Đài. Nham Đế Lai trở về, không thấy âu Cơ, sai quần thần đi tìm khắp thiên hạ. Long Quân có phép thần thông biến hóa thành trăm hình vạn trạng yêu tinh, quỷ sứ, rồng, rắn, hổ, voi... làm cho bọn đi tìm đều sợ hãi không dám sục sạo, Đế Lai bèn phải trở về. Truyền ngôi đến đời Du Võng, thì Xuy Vưu làm loạn. Vua nước Hữu Hùng là Hiên Viên đem chư hầu tới đánh nhưng không được. Xuy Vưu mình thú mà nói tiếng người, có sức khỏe dũng mãnh. Có người dạy Hiên Viên dùng trống da thú làm lệnh, Xuy Vưu sợ hãi chạy về đất Trác Lộc. Đế Du Võng xâm lăng chư hầu, cùng Hiên Viên giao binh ở Phản Tuyền đánh ba trận đều bị thua, bị giáng phong ở đất lạc ấp rồi chết ở đó. Giòng họ Thần Nông tới đây thì hết. Long Quân lấy âu Cơ rồi đẻ ra một bọc, cho là điềm bất thường, vứt ra cánh đồng; qua sáu bảy ngày, bọc vỡ ra một trăm quả trứng, mỗi trứng nở ra một con trai, mới đem về nhà nuôi. Không phải bú mớm, các con tự lớn lên, trông đẹp đẽ kỳ dị, người nào cũng trí dũng song toàn, người người đều kính trọng cho là triệu phi thường. Long Quân ở lâu dưới Thủy Quốc vợ con thường muốn về đất Bắc.

Về tới biên giới, hoàng đế nghe nói rất sợ hãi cho binh ra giữ cửa ải, mẹ con âu Cơ không thể về được bèn quay về nước Nam mà gọi Long Quân rằng: "Bố ở nơi nào mà để mẹ con tôi cô độc, ngày đêm buồn khổ thế này". Long Quân bỗng trở về, gặp nhau ở đất Tương. âu Cơ nói: "Thiếp vốn là người nước Bắc, ở với vua, sinh hạ được trăm con trai, vua bỏ thiếp mà đi, không cùng thiếp nuôi con, làm người vô phu vô phụ, chỉ biết thương mình". Long Quân nói: "Ta là nòi rồng, đứng đầu thủy tộc, nàng là giống tiên, sống ở trên đất, tuy khí âm dương hợp lại mà sinh ra con, nhưng thủy hỏa tương khắc, giòng giống bất đồng, khó ở lâu với nhau được, nay phải chia lá. Ta đem năm mươi con về Thủy Phủ chia trị các xứ, năm mươi con theo nàng về ở trên đất, chia nước mà trị. Lên núi, xuống bể, hữu sự báo cho nhau biết, đừng quên". Trăm con vâng theo, sau đó từ biệt mà đi. âu Cơ và năm mươi con lên ở đất Phong Châu suy phục lẫn nhau, cùng tôn người con cả lên làm vua, hiệu là Hùng Vương, lấy tên nước là Văn Lang, đông giáp Nam Hải, tây tới Ba Thục, bắc tới Động Đình hồ, nam tới nước Hồ Tôn (nay là Chiêm Thành). Chia nước làm 15 bộ (còn gọi là quận) là Việt Thường, Giao Chỉ, Chu Diên, Vũ Ninh, Phúc Lộc, Ninh Hải, Dương Tuyền, Lục Hải, Hoài Hoan, Cửu Chân, Nhật Nam, Chân Định, Văn Lang, Quế Lâm, Tượng Quận. Chia các em ra cai trị, lại đặt các em làm tướng văn tướng võ, văn là lạc hầu, võ là lạc tướng. Con trai vua gọi là quan lang, con gái vua gọi là mỵ nương, trăm quan gọi là bồ chính, thần bộc, nữ lệ gọi là xảo xứng (còn gọi là nô tỳ). Bề tôi gọi là hồn, đời đời cha truyền con nối gọi là phụ đạo. Vua đời đời thế tập gọi là Hùng Vương, không hề thay đổi. Lúc ấy, dân sống ở ven rừng, xuống nước đánh cá thường bị giống giao long làm hại, bèn nói với vua. Đáp: "Giống sơn man và giống thủy tộc có thù với nhau, thường ghét nhau cho nên hại nhau đó". Khiến người đời lấy mực xăm vào mình theo hình Long Quân, theo dạng thủy quái. Từ đó, dân không bị tai họa giao long làm hại nữa. Tục xăm mình của dân Bách Việt cũng bắt đầu từ đấy. Hồi quốc sơ, dân không đủ đồ dùng, phải lấy vỏ cây làm áo, dệt cỏ gianh làm chiếu, lấy cốt gạo làm rượu, lấy cây quang lang, cây tung lư làm cơm (có chỗ viết là uống), lấy cầm thú, cá, ba ba làm mắm, lấy rễ gừng làm muối, cầy bằng dao, trồng bằng lửa. Đất sản xuất được nhiều gạo nếp, lấy ống tre mà thổi cơm. Bắc gỗ làm nhà để tránh hổ sói. Cắt tóc ngắn để dễ đi lại trong rừng rú. Đẻ con ra lấy lá chuối lót cho nằm, có người chết thì giã cối làm lệnh, người lân cận nghe tiếng đến cứu. Chưa có trầu cau, việc hôn thú giữa nam nữ lấy gói đất làm đầu, sau đó mới giết trâu dê làm đồ lễ, lấy cơm nếp để nhập phòng cùng ăn, sau đó mới thành thân. Đó trăm người con trai chính là tổ tiên của người Bách Việt vậy.

Nguồn:
http://www.art2all.net/mynghe/mynghe.html

Nhân đọc truyện họ Hồng Bàng trong Lĩnh Nam Chích Quái, chợt nghĩ tới Tổ Tiên xa xưa. Mỗi lần đất nước gặp nạn phương Bắc, dân phương Nam khổ vì bị người Bắc phương quấy nhiễu, không được yên sống như xưa mới cùng nhau gọi Long Quân rằng: "Bố ơi ở đâu mà để cho dân Bắc xâm nhiễu phương dân". Hay; "Bố ơi! sao không lại cứu chúng tôi". Lạc Long Quân tới ngay, sự linh hiển của Long Quân, người đời không ai lường nổi.

Nay trước nạn phương Bắc đang hung hăng toan tính xâm lăng nước ta, chúng ta hãy cùng nhau tâm thành gọi lớn lên một câu như hồi xa xưa : "Bố ơi ở đâu mà để cho dân Bắc xâm nhiễu phương dân". Chắc chắn "Bố" chúng ta sẽ lại anh linh hiển hiện giúp đàn con cháu đánh đuổi tống cổ bọn xâm lăng ra khỏi bờ cõi.



"Bố" ơi đất nước lâm nguy
mau mau hiển hiện mà về giúp con
quê nhà binh biến chập chùng
người người sợ hãi, "Bố" đừng bỏ qua
đất trời sông núi bao la
oai linh Lạc Việt, chan hòa nghìn năm
khí thiêng sông núi một lòng
đẩy lui bọn "chệt" khỏi vòng điêu linh"





Quách Tĩnh
#14 Posted : Friday, February 5, 2010 12:53:35 PM(UTC)
Quách Tĩnh

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 61
Points: 0

2.





hịch tướng sĩ của người xưa văng vẳng
rằng vui chơi có phá được giặc kia ?
rằng đàn ca múa hát được những gì ?
rằng gà chọi có phá tan cường địch ?

khi giặc đến là nhà tan đổ nát
là còn gì: tay trắng lại trắng tay
nhục nhã chất chồng bao tháng bao ngày
nào hãm hiếp, nào tù đầy cuồng bạo

nào giết chóc đau thương đầy tang tóc
nuốt nhục vào mà có nuốt trôi không ?
người Việt ơi! hãy thống nhất một lòng
đòan kết lại mới mong hồi cương thổ




Trái Tim Việt Nam:

Sáng tác và Trình Bày: Nhạc Sĩ Tuấn Khanh

http://www.youtube.com/w...feature=player_embedded


Ta quyết dành lại mảnh đất quê hương:

Tác giả : Ca nhạc Sĩ Nguyệt Ánh

http://www.youtube.com/w...Ek8WBnM&feature=related

Trả Ta Sông Núi - Ca nhạc Sĩ Nguyệt Ánh:

http://www.youtube.com/w...k2vIzO8&feature=related







Quách Tĩnh
#15 Posted : Monday, February 8, 2010 3:37:12 PM(UTC)
Quách Tĩnh

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 61
Points: 0

Những dòng thơ Mừng Xuân Canh Dần

Chúc Thân Hữu một năm Canh Dần luôn khang an và thịnh vượng



1. Hương Xuân


càng đợi càng chờ càng thương nhau
càng say giấc mộng dệt ban đầu
càng nồng chăn gối khi gần gũi
càng ngát hương đời giữa biển dâu


hỏi rằng tình có hẹn tuổi không?
xuân có hư hao ở trong lòng?
nhật nguyệt nghìn năm mầu có khác?
nắng vàng còn có ấp e không?

xuân ngự trong lòng luôn thế thôi
xuân chẳng đến đi ở trong đời
khi buồn xuân ẩn mình chờ đợi
khi vui xuân hiện hữu đầy vơi

dù ta hiện hữu giữa đôi mươi
tâm vướng âu lo vắng tiếng cười
xuân buồn tàn tạ theo năm tháng
phút chốc xuân đi bỏ cuộc đời

thơ ngây nào có khác gì đâu?
ngàn tuổi thơ ngây cũng một mầu
tâm trong như ngọc nào sai khác
vẩn đục vì tâm bận u sầu

nếu tâm buông bỏ vạn trước sau
vui bước thong dong chẳng vọng cầu
an nhiên tự tại trong ngày tháng
hiện hữu xuân tươi tợ phút đầu.


Gửi Người Em Gái

Của Đoàn Chuẩn & Từ Linh
Trình bày: Duy ngọc



Quách Tĩnh
#16 Posted : Thursday, February 11, 2010 5:11:46 PM(UTC)
Quách Tĩnh

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 61
Points: 0

Quách Tĩnh
#17 Posted : Thursday, February 18, 2010 12:15:17 AM(UTC)
Quách Tĩnh

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 61
Points: 0



KỶ NIỆM TRẬN ĐỐNG ĐA


"Cứ Xuân đến mồng năm sau mỗi Tết
Khắp nơi nơi đất Việt nhớ Quang Trung
Đền Trung Lương hương khói toả mông lung
Dân kỷ niệm vị anh hùng cứu quốc"








Đại Đế Quang Trung: Một hãnh diện của dân tộc Việt
Bọn Tàu Tôn Sĩ Nghị đã dẵm lên nhau mà chết. Đống đa là mồ chôn của bọn chệt xâm lược.
Trường Sa và Hòang Sa sẽ là mồ chôn của con cháu Tôn Sĩ Nghị.


Chúng ta hãy tự hỏi: Nếu không có những liệt nữ anh hùng như hai bà Trưng, bà Triệu, hay các vị anh hùng hào kiệt như Trần Hưng Đạo, Trần Quốc Tuấn, Lê Lợi, Quang Trung v...v...., thì nay có chúng ta trên cõi đời không? và nếu có thì chúng ta sẽ là ai?.... có lẽ chúng ta cũng đã bị bọn chệt đồng hóa rồi.



Chúng ta hãy lắng tâm vài phút tưởng niệm và nhỏ một giọt lệ tri ân vị anh hùng dân tộc - Đại Đế Quang Trung. Biết đâu trong chúng ta, đã có người đã từng phục vụ dưới trướng của Ngài cách đây hơn 200 năm để cùng nhau phá tan quân xâm lược đem lại cho dân tộc một trang sử oai hùng. Thật hãnh diện thay.

Thi sĩ Vũ Hoàng Chương hình dáng mảnh khảnh và là một vị thầy khả kính dậy văn chương tại Trường Trung Học Chu Văn An vào những thập niên 60, 70. Trông thi sĩ mảnh khảnh như vậy đó, mà hồn thơ tuôn trào mạnh mẽ lai láng hồn dân tộc. chúng ta cũng lắng nghe bài thơ "Bài Ca Bình Bắc" của thi sĩ Vũ Hoàng Chương, để cùng nhau bùi ngùi ôn lại kỷ niệm trân Đống Đa, Ngọc Hồi, Hà Hồi, Đèo Tam Điệp.... và nhất là ngẩng mặt nhìn trời và năm châu thế giới : "Này các bạn ơi, nước Nam tôi đã từng có một Đại Anh Hùng dân tộc - Hoàng Đế Quang Trung Nguyễn Huệ", mà một Napoleon Đại Đế của Pháp cũng chưa chắc có thể sánh về oai danh hiển hách và về đức độ của Người. Và để cùng nhau đòan kết, nắm tay nhau đánh đuổi quân thù chung : Giặc Tầu bắc phương ngàn kiếp. Chúng đã đặt một chân lên Ải Nam Quan, Bản Giốc cách đây vài năm. Nay lại nghiễm nhiên đặt bàn chân thứ hai lên Trường Sa và Hoàng Sa của dân tộc Việt Nam. Theo lời cổ nhân đã dậy, một khi quân giặc đã "đặt hai chân" vào trong nhà của chúng ta rồi, thì chẳng chóng thì chầy chúng sẽ nghêng ngang đi vào đừng phòng và ở lì chiếm luôn ngôi nhà Việt Nam của chúng ta. Gương Tây Tạng hãy còn sờ sờ ra đó. Vậy chúng ta phải làm gì hay sẽ chỉ nhắm mắt làm ngơ?

BÀI CA BÌNH BẮC

Thi sĩ Vũ Hoàng Chương


Kể từ đấy
Mặt trời mọc ở phương Ðông, ngùn ngụt lửa
Mặt trời lặn ở phương Ðoài, máu chứa chan
Đã sáu mươi ngàn lần …
Và từ đấy cũng sáu mươi ngàn lần
Trăng tỏ bóng nơi rừng cây đất Bắc
Trăng mờ gương nơi đồng lúa miền Nam
Ruộng dâu kia bao độ sóng dâng tràn
Hãy dừng lại thời gian
Trả lời ta - Có phải?
Dưới vầng nguyệt lạnh lùng quan ải
Dưới vầng dương thiêu đốt quan san
Lớp hưng phế xô nghiêng từng triều đại
Mà chí lớn dọc ngang
Mà nghiệp lớn huy hoàng
Vẫn ngàn thu còn mãi
Vẫn ngàn thu người áo vải đất Quy Nhơn

Ôi người xưa Bắc Bình Vương
Ðống Ða một trận năm đường giáp công
Ðạn vèo năm cửa Thăng Long
Trắng gò xương chất, đỏ sông máu màng
Chừ đây lại đã xuân sang
Ai kia lòng có chợt mang mang
Ðầy vơi sầu xứ - Hãy cùng ta
Ngẩng đầu lên, hướng về đây tâm sự
Nghe từng trang lịch sử thét từng trang

Một phút oai thần dậy sấm
Tan vía cường bang
Cho bóng kẻ ngồi trên lưng bạch tượng
Cao chót vót năm mầu mây chiêm ngưỡng
Dài mênh mông vượt khỏi lũy Nam Quan
Và khoảng khắc
Ðổ xuôi chiều vươn ngược hướng
Bao trùm lên đầu cuối thời gian
Bóng ấy đã ghi sâu vào tâm tưởng
Khắc sâu vào trí nhớ dân gian
Một bành voi che lấp mấy ngai vàng

Ôi Nguyễn Huệ người anh hùng áo vải
Muôn chiến công, một chiến công dồn lại
Một tấm lòng, muôn vạn tấm lòng mang
Ngọn kiếm trỏ bao cánh tay hăng hái
Ngọn cờ vung, bao tính mệnh sẵn sàng
Người cất bước, cả non sông một dải
Vươn mình theo – dãy Hoành Sơn mê mải
Chạy dọc lên thông cảm ý ngang tàng
Cùng chồm dậy đáp lời hô vĩ đại
Chín con rồng bơi ngược Cửu Long Giang
Người ra Bắc, oai danh mờ nhật nguyệt
Khí thế kia làm rung động càn khôn
Lệnh ban xuống, lời lời tâm huyết
Nẻo trường chinh ai dám bước chân chồn
Gươm thiêng cựa vỏ
Giặc không mồ chôn
Voi thiêng chuyển vó
Nát lũy tan đồn
Ôi một khúc hành ca hề, gào mây thét gió
Mà ý tướng, lòng quân hề, bền sắt tươi son

Hưởng ứng sông hồ giục núi non
“Thắt vòng vây lại” tiếng hô giòn
Tơi bời máu giặc, trăng liềm múa
Tan tác xương thù, ngựa đá bon

Sim rừng, lúa ruộng, tre thôn
Lòng say phá địch, khúc dồn tiến quân
Vinh quang hẹn với phong trần
Ðống Ða gò ấy mùa xuân năm nào

Nhớ trận Ðống Ða hề thương mùa xuân tới
Sầu xuân vời vợi
Xuân tứ nao nao
Nghe đêm trừ tịch hề, máu nở hoa đào
Ngập giấc xuân tiêu hề, lửa trùm quan tái
Trời đất vô cùng hề, một khúc hát ngao
Chí khí cũ gầm trong da thịt mới
Vẳng đáy sâu tiềm thức, tiếng mài dao
Ðèo Tam Ðiệp hề, lệnh truyền vang dội
Sóng sông Mã hề ngựa hí xôn xao
Mặt nước Lô Giang hề, lò trầm biếc khói
Mây núi Tản Viên hề, lọng tía giương cao
Rằng: “Ðây bóng kẻ anh hào
Ðã về ngự trên ngã ba thời đại”
Gấm vóc giang sơn hề, còn đây một dải

Thì nghiệp lớn vẻ vang
Thì mộng lớn huy hoàng
Vẫn ngàn thu còn mãi
Ôi ngàn thu người áo vải đất Quy Nhơn

Nay cuộc thế sao nhòa, bụi vẩn
Lũ chúng ta trên ngã ba đường
Ghi ngày giỗ trận
Mơ BẮC BÌNH VƯƠNG
Lòng đấy thôn trang hề, lòng đây thị trấn
Mười ngã tâm tư hề, một nén tâm hương
Ðồng thanh rằng: “Quyết noi gương”

Ðể một mai bông thắm cỏ xanh rờn
Ca trống trận thôi lung lay bóng nguyệt
Mừng trời đất gió bụi tan cơn
Chúng ta sẽ không hổ với người xưa
Một trận Ðống Ða nghìn thu oanh liệt
Vì ta sau trước lòng kiên quyết
Vàng chẳng hề phai, đá chẳng sờn.


Bài Ca Bình Bắc - Thi sĩ Vũ Hoàng Chương - Diễn ngâm: Duy ngọc



Quách Tĩnh
#18 Posted : Thursday, February 18, 2010 1:50:14 PM(UTC)
Quách Tĩnh

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 61
Points: 0





Mùa Xuân Nguyễn Huệ


1.


200 năm trước anh hùng Nguyễn Huệ
cùng toàn dân đập nát quân thù
vua lê đốn mạt ngu ngơ
dâng nước cho giặc mong chờ tước vương
giặc ngàn đơì tầu nhi nhô đó
đem đoàn quân trâu chó sang Nam
thẳng tay đàn áp, vơ, tham
giết muôn dân Việt lầm than bao ngày
ngọn kiếm trỏ ra tay quyết chiến
lệnh truyền vang thấu đến thiên cung
nước Nam, tộc Việt lẫy lừng
muôn đơì sử sách ghi trong sấm truyền
bọn giặc tầu đơì đơì đã biết
chúng gian tham quên hết sự tình
chôn thân trả nợ dân mình
Đống Đa một trận tan tành như tương
xuân lại về trên xương lũ giặc
bao anh hùng da ngựa bọc thây
gương xưa dậy lũ chúng bay
chớ nên tái diễn trò này nữa nhe



2.

lưả rực tràn phương bắc
hừng hực xuống phương nam
lòng dân đồng loạt chẳng hàng
thề cùng nòi giống: diệt tan quân thù
gương ngươì aó vải năm xưa
vẫn lưu sử sách, chẳng mờ ngàn ngăm



3.


hào khí thay! ngươì xưa áo vải
linh thiêng thay! rung động đất trơì
chúng ta nếu phải con ngươì
lắng nghe tiếng gọi của ngươì xa xưa
sống một lần không hề sống nhục
tấm thân này rồi cũng sẽ qua
tủi lòng chín suối Ông Bà
tiền nhân hào kiệt, đóa hoa ngàn đơì
sụt sùi giọt lệ châu rơi
"Nước ơi, tạo lại một ngươì Qui Nhơn"
lũ ăn hại tham tàn ngu dại
làm hao mòn tê tái quê hương
biết rằng đơì thật vô thường
mà tâm vẫn rộn lòng thương muôn loài







Quách Tĩnh
#19 Posted : Friday, February 19, 2010 4:45:56 PM(UTC)
Quách Tĩnh

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 61
Points: 0

Quang Trung Đại Phá Quân Xiêm Tại Định Tường Vào Những Ngày Sắp Tết 1785


MƯỜNG GIANG . Việt Báo Thứ Bảy, 2/20/2010, 12:00:00 AM

Quang Trung Đại Phá Quân Xiêm Tại Định Tường Vào Những Ngày Sắp Tết 1785

MƯỜNG GIANG

Trên bán đảo Đông Dương, Đại Việt và Xiêm La là hai con cọp lúc nào cũng muốn tranh giành ảnh hưởng chính trị với hai nước yếu nằm giữa là Chân Lạp và Ai Lao, nên trong quá khứ đã có nhiều đụng chạm giữa hai nước và lần nào người Xiêm cũng bị thảm bại trước sự dũng mãnh phi thường của nước Việt.
Nhưng người Xiêm đã thật sự sợ dân Việt hơn cọp, sau khi bị vua Quang Trung (Nguyễn Huệ) tiêu diệt hơn 2 vạn quân, đồng thời đốt rụi 300 tháp thuyền tại Vàm Rạch Gầm-Xoài Mút, tỉnh Định Tường, vào những ngày sắp Tết năm 1785. Từ đó tới nay, Xiêm La (Thái Lan) thâm thù người Việt đến tận xương tủy, nên hằng tìm đủ mọi cách để trả thù. Thảm kịch của đồng bào tị nạn Nam VN trên biển Đông do hải tặc Thái Lan gây ra, được chính quyền nước này làm ngơ hay chỉ ngó tới một cách lơ là chiếu lệ, đã nói lên rõ ràng sự trả thù của vua chúa nước này đối với VN, qua những hận nhục bại trận quá khứ. Đây cũng là một hệ lụy tất yếu của dân tộc hùng anh Đại Việt, nhưng luôn bất hạnh vì thiếu vắng những bậc minh quân tài trí đảm lược, nhất là trong thời cận sử cho tới ngày nay, khiến cho nước ta hết bị Pháp Nhật đô hộ nay tới Nga Tàu, không biết tới bao giờ mới ngẩn mặt được để làm người.
'tiếng ai than khóc sầu thương
Nhị Hà nước xuống trùng dương xa mờ
Chương Dương, Hàm Tử ngàn xưa
Giờ sao sông núi, bụi Hồ vấn vương .. ' ' '
1- NƯƠC XIÊM LA :
Xiêm La hay Thái Lan ngày nay có diện tích 198.455 sq.ml hay 512.998 km2, dân số tính tới năm 2004 là 55.448.000 người, thủ đô là Bangkok (Vọng Các) chưa kể ngoại ô có 1.867.297 người. 95% người Thái theo Phât giáo tiểu thừa.
Thật ra Xiêm không phải là quốc hiệu của người Thái. Đó là cái tên mà người Cao Mên và Chiêm Thành dùng để gọi họ. Ngay từ thế kỷ thứ XI, danh từ SYAM đã thấy xuất hiện trên các văn bía của người Chàm tại Trung phần VN, còn hình ảnh của người Syam, thì đầy rẩy nơi các di tích của người Khmer, tại đền Angkor được dựng lên từ thế kỷ thứ XII sau TL.
Người VN theo cách gọi của Miên và Chàm, cũng gọi là Xiêm. Riêng người Tàu qua lối phát âm Bắc Kinh đọc là Tiêm, rồi ghép với tên của nước La Hộc tức là vùng Lyo ngày nay, thuộc Lopburi ở hạ lưu sông Mê Nam, thành nước Tiêm-La. Còn người Pháp cũng dựa vào lối phiên âm Tàu mà đọc là Siam, trong lúc người Anh thì nói trại là Saiam. Trong bộ Bách Khoa Từ Điển của Ý Đại Lợi (Enciclopedia Italiana), đã giải thích rằng Anh và Pháp khi dùng tiếng Siam để chỉ người Thái, là căn cứ vào tiếng Saiam Sayang của người Miến Điện dùng để chỉ người Xiêm, rồi đọc trại ra là Siam hay Saiam.
Nhưng căn cứ vào sử liệu ta thấy từ ngày lập quốc đến nay, người Thái gọi mình là Thay, còn người Shan là Nghiện. Riêng danh từ Siam chỉ mới xuất hiện gần đây. Do trên thời xưa, nước Thái Lan được gọi là Mường Thay hay Prathet Thay. Đời vua Rama IV (1851-1868), quốc hiệu mới được đổi là Sayam (Xiêm), để đánh dấu nước này canh tân theo văn minh tây phương. Năm 1939, tướng Phibul Songgram lên làm thủ tướng, mới đổi quốc hiệu từ Xiêm sang Thái. Từ 1945-1948, tên nước trở lại là Xiêm và sau đó tới ngày nay, chính thức là Thái. Với người Anh, họ phiên âm Thay thành Thai, còn Prathet là Land, nên sau này gọi nước Xiêm là Thailand. Theo cách đó, người Pháp viết là Thailande, còn VN thì đọc là Thái Lan.
2 - NHỮNG GÂY CẤN GIỮA ĐẠI VIỆT VÀ THÁI LAN :
Từ đầu thế kỷ thứ XVII, người Việt đã tới khai hoang tại vùng Đồng-Nai và Mỏi-Xùy (nay là Biên-Hoà và Bà Rịa) của Chân Lạp. Vì muốn thoát khỏi ảnh hưởng và sự kềm kẹp của Xiêm La đã có từ trước đến nay, nên quốc vương nước này là Chey Chetia II sang cầu thân với Chúa Nguyễn Nam Hà, để nhờ che chở. Nhân dịp đó, Chúa Hy Tôn-Nguyễn Phúc Nguyên đã vì dân nước, nên đành đem con gái cưng của mình là Ngọc Vạn, gã cho vua này làm Hoàng Hậu vào năm 1620, để lấy chỗ dựa cho dân Đại Việt tới làm ăn tại Chân Lạp. Chúa còn đem người con gái kế là Ngọc Khoa, gã cho vua Chàm để mượn đường bộ từ Phú Yên vào Đồng Nai, vì lúc đó nước Chiêm Thành vẫn còn. Do trên Xiêm La đả kết thù với Đại Việt, vì cả hai đều muốn giành giựt ảnh hưởng tại Lào và Miên, vốn là hai nước nằm giữa rất yếu kém do nội loạn thường trực.
Năm 1672, Chey Croetha III làm loạn, giết cha vợ là vua Batom Reachea và dắt quân Xiêm từ Nam Vang xuống Sài Côn chiếm lại tất cả thành trì, đồng thời đuổi giết người Việt đang khẩn đất làm ăn tại Đồng-Nai, Mõ Xùy. Năm 1674 Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần sai binh tướng sang Thủy Chân Lạp, đánh đuổi quân Xiêm chạy về biên giới Miên-Thái, giết vua Nặc Ông Đài. Sau đó lập Năc Thu làm vua Lục Chân Lạp đóng tại Nam Vang và Năc Nộn là phó vương miền Thủy Chân Lạp tại Sài Côn. Từ đó người Miên thần phục Chúa Nguyễn.
Năm 1687 quân Xiêm lại vào cướp phá đất Hà Tiên, bắt Mạc Cửu đem về giam lỏng tại Muang Garaburi nhưng sau đó, ông đã trốn được về nước vào năm 1700. Từ đó Mạc Cửu đem đất đai Hà Tiên và binh sĩ dưới quyền xin thần phục Nam Hà, nên được Hiển Tông Nguyễn Phúc Chu phong chức tổng binh.
Năm 1717 quân Xiêm tấn công Hà Tiên, Mạc Cửu binh ít chống cự không nổi, nên phải bỏ thành lui về giữ Long Kỳ. Quân Xiêm vào tàn phá Hà Tiên thành bình địa nhưng sau đó chiến thuyền bị bão đánh đắm trong vịnh Phú Quốc, nên phải rút về nước. Mạc Cửu trở về kiến tạo lại Hà Tiên và đắp thành ngăn giặc vào năm 1718.
Năm 1769, vua Xiêm là Trịnh Quốc Anh đem quân thủy bộ tấn công Hà Tiên, lại đặt đại bác trên núi Tô Châu bắn vào thành sát hại nhiều dân chúng vô tội. Tổng binh Mạc Thiên Tứ vì binh ít và không có tiếp viện, nên phải bỏ thành, cùng các con Mạc Tử Hoàng, Tử Thương, Tử Duyên.. lui về Trấn Giang (Cần Thơ). Nhưng quân Xiêm đã bị các tướng lãnh trấn thủ Long-Hồ và Đông Khấu là Tống Phước Hợp và Nguyễn Hữu Nhân, đánh đuổi phải bỏ Hà Tiên chạy về cố thủ thành Nam Vang.
Năm 1772, Duệ Vương Nguyễn Phúc Thuần sai chưởng cơ Nguyễn Cửu Đàm, thống suất hai đạo Bình Khánh và Bình Thuận, gồm 10.000 quân thủy bộ và 30 chiến thuyền chiếm lại Hà Tiên và Chân Lạp, rồi đưa Nặc Tôn về Nam Vang làm vua trở lại. Từ đó quân Nguyễn đóng luôn ở Nam Vang, bảo hộ và làm cố vấn cho quốc vương Chân Lạp.
Năm 1780 vì tàu buôn bị cướp ở Hà Tiên, vua Xiêm nghe theo lời xúi của quan Chân Lạp tên Bồ Công Giao, bắt cha con Mạc Thiên Tứ, Tử Hoàng, Tử Thương, Tử Duyên cùng sứ thần của chúa Nguyễn là Nguyễn Phúc Xuân.. đem xử trảm. Mạc Thiên Tứ lúc đó trên 70 tuổi, uất ức tự tử chết. Riêng gia quyến của họ đều bị đầy lên tận biên giới Miến-Thái.
Năm 1782, vua Xiêm là Trịnh Quốc Anh bị hai tướng Chất Trí và Sô Sĩ giết chết. Chất Trí lên làm vua Xiêm, xưng Phật Vương (Rama 1), tha những người Việt bị đầy , đồng thời giao hảo với chúa Nguyễn Ánh lúc đó đang bị quân Tây Sơn đuổi giết tận tuyệt
Năm 1784, mượn cớ sang giúp Nguyễn Ánh, vua Rama 1 sai 2 vạn thủy quân và 300 tháp thuyèn, do hai người cháu là Chiêu Sương, Chiêu Tăng sang xâm lăng Nam Phần. Quân Xiêm chiếm các đạo Kiên Giang, Trấn Giang, Ba Thắc, Trà Ôn, Sa Đéc.. đồng thời cướp của giết người, không ai có thể ngăn cản nổi. Sự kiện trên làm cho Nguyễn Ánh cũng phẫn uất nhưng phải bó tay ví không còn binh lực để kềm chế giặc.
Cuối tháng chạp cùng năm, được tin quân Xiêm đã tới Định Tường, nên Long Nhưỡng tướng quân là Nguyễn Huệ từ Qui Nhơn đem quân thủy bộ vào chận đánh, phá tan 2 vạn quân Xiêm tại vàm Rạch Gầm-Xoài Mút. Từ đó người Xiêm sợ Đại Việt như sợ cọp.
Năm 1817, sau khi chiếm được Stung Treng và Vạn Tượng của Lào. Quân Xiêm tràn sang chiếm một phần cao nguyên Trung Phần, lúc đó gần như chưa có chính quyền VN hiện diện. Bọn quan lại Xiêm cai trị đồng bào thiểu số tại đấy rất tàn ác dã man. Tình trạng kéo dài tới thời Pháp thuộc mới chấm dứt.
3-NGUYỄN HUỆ TIÊU DIỆT QUÂN XIÊM TẠI ĐỊNH TƯỜNG:
+ Địa Danh Rạch Gầm, Xoài Mút (Mỹ Tho) :
Đất Định Tường thuộc dinh Phiên Trấn, được Túc Tông Nguyễn Phúc Trú thành lập vào năm 1731. Vào năm 1772 Duệ Tông Nguyễn Phúc Thuần đổi là Đạo Trường Đồn, rồi thành Huyện Kiến An vào năm Gia Long nguyên niên 1801.
Năm 1802 lại cải thành Dinh Trấn Định, phiên trấn Định Tường. Đời vua Minh Mang (1820-1840), chính thức chia đất Nam Kỳ thành sáu tỉnh trong đó có tỉnh Định Tường. Danh xưng này tồn tại tới ngày 30-4-1975 thì mất.
Riêng hai địa danh ' RẠCH GẦM-XOÀI MÚT' nằm trong tỉnh Định Tường. Theo các tài liệu cổ có từ thời nhà Nguyễn, thì Rạch Gầm ngày xưa được gọi là Sầm Giang. Đó là một con rạch dài chừng 15km, phát nguồn từ xã Long Tiên (Cai Lậy), chảy qua các thôn xóm trù phú thuộc các xã Kim Sơn, Vĩnh Kim, Mỹ Luông, Thuộc Phiên.rồi đổ vào sông Mỹ Tho (Tiền Giang) tại Kim Sơn. Khi người Việt từ miệt ngoài, theo chân các Chúa Nguyễn vào đây khẩn hoang lập ấp, thì vùng này toàn là rừng rậm cây cao, đầy các loại dã thú như voi, cọp, trăn-rắn, heo rừng, cá sấu. Nói chung chỗ nào đêm ngày cũng có tiếng cọp gầm voi rống, làm cho ai cũng kinh hồn, sởn óc, nhiều người vô phước bị cọp vồ, cá sấu táp khi phá rừng làm ruộng. Do trên, tổ tiên ta mới đặt tên vùng này là ' Rạch Cọp Gầm'. Về sau để dễ nhớ, nên kêu là Rạch Gầm tới ngày nay không đổi. Ở đây cây cối sầm uất, hai bên bờ rạch đầy dừa nước và nhiều cây bần mọc gie ra khỏi con rạch. Đúng là một vị trí chiến lược lý tưởng, để các nhà quân sự tài danh, áp dụng lối đánh du kích, phản kích và nhất là hỏa công trận.
Vàm Rạch Gầm có bề ngang chừng 100m, thuộc xã Kim Sơn. Trên bờ có chợ nhỏ, bán đầy các loại thổ sản miệt vườn như cam, quít, ổi, chuối .. Nhưng chợ Rạch Gầm nổi tiếng xưa nay vẫn là Vú Sửa, món đặc sản bản địa, ngon-ngọt hơn bất cứ nơi nào khác. Đặc biệt, vú sữa lại đơm bông kết trái đúng vào cuối đông sắp Tết Nguyên Đán. Cũng theo tài liệu, thì xã Kim Sơn được thành lập rất sớm trong trấn Định Tường vào đầu thế kỷ thứ XVIII, do tiên hiền Lê Công Báu, nhưng dân chúng kiêng cữ đã đọc là Bích. Về sau ông được nhà Nguyễn phong làm Thành Hoàng và vẫn được dân chúng điạ phượng thờ kính cho tới ngày nay.
Xoài Mút chảy từ Giòng Dứa thuộc Ấp Thạch Long tới Ấp Thạnh Hưng, xã Phước Thạnh, rồi đổ vào rạch Xoài Hột và ra sông Mỹ Tho (Tiền Giang). Khúc rạch này cũng giống như Rạch Gầm rất um tùm. Hai bên bờ đầy dừa nước và cây bần mọc gie ra ngoài, tạo nên địa thế quanh co hiểm trở. Ở đây ngày xưa mọc đầy một loại xoài trái nhỏ, hột to, cơm ít, muốn ăn phải mút, nên mới xuất hiện danh xưng Xoài Mút. Ngày nay dân địa phương đã chặt bỏ hết để lấy đất làm vườn, nên họa hoằn lắm mới thấy một vài cây còn sót lại. Về hành chánh, thì Xoài Mút là tên con rạch, còn Xoài Hột là tên của một ngôi chợ thuộc xã Thạnh Phú, kế xã Bình Đức. Rạch Gầm cách Xoài Mút 7km và thành phố Mỹ Tho chừng 14 km.
+ Vua Quang Trung (Nguyễn Huệ) :
Trong dòng Việt sử, dù triều đại Tây Sơn hiện hữu thật ngắn ngủi (1778-1802) nhưng qua hai chiến thắng bất hủ : Trận Thủy Chiến Rạch Gầm tiêu diệt quân Xiêm và Xuân kỷ Dậu đại thắng quân Thanh, đã đưa tên tuổi Quang Trung-Nguyễn Huệ, lên hàng Đại Đế. Dù không đồng chính kiến nhưng tất cả các sử gia triều Nguyễn cũng như đọc qua các thiên du ký của các nhà truyền giáo phương tây, ai cũng xưng tụng ông là một trong những thiên tài quân sự lừng lẫy của VN, có thể so sánh với các tên tuổi như Đại Đế Alexander Le Grand của Hy Lạp và vua Hung Nô Attila, là những thiên tài quân sự bách chiến bách thắng.
Giống như các bậc danh tài trên, trong khi dùng binh vua Quang Trung luôn luôn theo đúng binh pháp Tôn Tử-Trần Hưng Đạo-Nguyễn Trải, đạt yếu tố bất ngờ, hành binh thần tốc và trên hết là biết tiên liệu tình hình địch, trước khi quyết định bày binh bố trận và tấn công. Ngoài ra để nêu gương với sĩ tốt cùng thuộc tướng dưới quyền, ông luơn luôn xông xáo nơi trận mạc, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, lâm trận đi đầu hàng quân, hiệu lệnh rất nghiêm minh. Bởi vậy, tướng sĩ ai cũng muốn hăm hở, lăn xả vào cái chết, để được đền ơn nhà trả nợ nước, xứng đáng bổn phận làm trai nước Việt. Ngoài thiên tài quân sự, vua Quang Trung còn được các sử gia đề cao là một nhà chính trí có thao lược, điển hình qua cách chiêu hiền đãi sĩ, kính trọng tài năng không phân biệt bất cứ một ai. Riêng tư cách thì hòa nhã độ lượng, trong khi đối xử với vua Lê và cái chết của chúa Trịnh Khải.
Nói chung từ trước tới nay, qua dòng lịch sử, VN có ba thiên tài quân sự là Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, Bình Định Đại Vương Lê Lợi và Đại Đế Quang Trung-Nguyễn Huê. Nhưng mỗi người đều có phép hành binh riêng biệt. Với Hưng Đạo Vương, sở trường về lối đánh ' Dùng ít chọi đông ' mà binh pháp gọi là ' Dàn Binh, Tướng Trận'. Còn Bình Định Vương Lê Lợi thì ứng dụng phép ' Dĩ Dật Đãi Lao ', tức là lối đánh du kích, làm tiêu hao lực lượng địch. Trái lại Quang Trung Nguyễn Huệ thì luôn luôn sử dụng vận động chiến, tấn công địch trước trong tư thế mạnh với quân số, hỏa lực, mưu kế và phương tiện.
+ Thủy Quân VN dười thời Tây Sơn :
Từ năm 1627-1672 Trịnh Nguyễn đã đánh nhau bảy lần, trên chiến trường Nam và Bắc Bố Chánh (tỉnh Quảng Bình ngày nay) nhưng bất phân thắng bại. Trong lúc giao tranh, cả hai phía gần như chỉ sử dụng bộ chiến, dù cả hai đều có một đạo thủy quân rất quan trọng. Theo tài liệu của giáo sĩ Alexandre de Rhodes, thì chúa Nguyễn ở Nam Hà có 200 chiến thuyền loại Galéré, họ Trịnh ở miền Bắc có tới 600 chiếc. Còn Quang Trung Nguyễn Huệ trái lại, đã đề cao vai trò thủy quân trên hết. Nhà vua đã cách mạng hoá hải quân bằng lối đóng thuyền cho phù hợp với bờ biển VN, trong đó đặt nặng việc trang bị vũ lực trên tàu thuyền.
Theo sử liệu, thủy quân Tây Sơn có nhiều tàu vận tải cũng như tàu chiến, số lượng trên 1000 chiếc. Một du khách người Anh tên John Barraw tới thăm Đàng Trong vào thế kỷ XVIII, đã viết :'Người Việt ở đây có một nghề rất tự hào, đó là kỹ thuật đóng tàu đi biển '.Theo tác giả, thuyền của Người Việt rất đẹp, chiều dài từ 50-80 pieds (1 pied bằng 0,30m), được ghép bằng 5 tấm ván, ăn khít nhờ có mộng bên trong. Thuyền lại được chia thành nhiều khoang kín, nên rất khó chìm.
Theo Jean Baptiste Chaigeau, một võ quan người Pháp từng theo giúp chúa Nguyễn Ánh, cho biết thủy quân Tây Sơn gồm có nhiều hải đội, tổ chức khác nhau tùy theo trang bị. Do đó có thủy đội gồm 9 tàu, mỗi chiếc được trang bị tới 66 khẩu đại bác loại đường kính 24. Có thủy đội chỉ có 5 tàu, mỗi chiếc mang 50 khẩu đại bác cũng loại 24. Có thủy đội gồm tới 40 tàu, mỗi chiếc trang bị 16 khẩu đại bác cỡ 12 ly và một thủy đội đặc biệt gồm 93 tàu, mỗi chiếc chỉ có một khẩu đại bác lớn, nòng cỡ 36. Ngoài ra còn có 300 pháo hạm và 100 tàu buôn cỡ lớn. Tất cả tàu thuyền của Tây Sơn đều dùng cánh buồm hình chữ nhật.
Về thủy quân trên tàu, thì mỗi thủy đội loại trang bị 66 khẩu đại bác, có quân số trên 700 người. Quân Tây Sơn được trang bị rất mạnh, vũ khí cá nhân gồm giáo mác, còn có súng điểm thương nhưng lợi hại nhất vẫn là loại súng phun lửa, gọi là ' Hoả Hổ' khi hai bên cận chiến. Nhờ những ưu thế về trang bị cũng như kỹ thuật tác chiến, nên thủy quân Tây Sơn đã thắng quân Xiêm một cách dễ dàng. Mặc dù lúc đó hạm đội Xiêm La cũng rất tân tiến, vì được đóng theo kỹ thuật Tây Phương, mà người Việt gọi là Tháp thuyền. Đây là loại ghe tam bản rất cao lớn, trên có pháo tháp trí súng đại bác. Các thủy thủ ngồi ngoảnh mặt về phía bánh lái mà chèo.
+ Thủy Chiến tại Rạch Gầm, Xoài Mút :
Các sử gia hiện nay, khi viết về chiến thắng của Vua Quang Trung tại Rạch Gầm-Xoài Mút, đều thắc mắc về việc hành quân của Tây Sơn. Ngay khi nghe hung tin, đại quân Xiêm La gồm thủy bộ hơn 50 vạn và 300 tháp thuyền, đã chiếm gần hết các trấn tại Nam phần. Hiện thủy quân Xiêm đã tới trấn Định Tường. Trong lúc đó Long Nhưỡng tướng quân là Nguyễn Huệ còn ở tận Qui Nhơn. Vậy ngài đã cho thủy quân từ biển vào cửa Tiểu để tới Mỹ Tho hay là vào cửa Cần Giờ, rồi men theo dòng Vàm Cỏ Tây để tới Rạch Gầm Xoài Mút, tạo yếu tố bất ngờ, đối với quân Xiêm ? Chuyện này đã không thấy các nhà sử học xưa đề cập tới, kể cả các tài liệu của quốc sử quán triều Nguyễn.
Nhưng về chiến tích của trận thủy chiến lịch sử, thì hiện nay vẫn còn đầy rẩy trên đất Định Tường cũng như trong kho tàng văn chương bình dân bản địa, qua các bài hát ru em, ca dao, tục ngữ.. ' ' '
'Ầu ơ, Rạch Gầm-Xoài Mút tăm tăm
xế xuống chút nữa, là vàm Mỹ Tho
bần gie đóm đậu sáng ngời
Rạch Gầm-Xoài Mút muôn đời oai linh
Chẻ tre bện sáo cho dầy
Ngăn ngang sông Mỹ có ngày gặp nhau
Hay : ' gái Mỹ Tho mày tằm mắt phượng
Giặc đến nhà, chẳng vụng hươi đao.. ' ' '
Ngày nay người dân sống ở rạch Bà Hào kế rạch Gầm, vẫn thường hay kể những chuyện ma quỷ xuất hiện vào những đêm mưa to gió lớn, mà họ quả quyết đó là ma Xiêm, chưa được siêu thoát, dù cuộc chiến đã tàn hơn vài thế kỷ. Cũng ở vùng này, còn có một địa danh mang tên là ' Nghĩa địa Xiêm' vì có nhiều thuyền tháp bị chìm, hiện vẫn còn trơ các hàng cột ở Đìa Đôi (Ấp Hội), đầu cồn Phú Túc (Bến Tre). Ngoài ra còn nhiều quân dụng của lính Xiêm bỏ lại trận địa, được tìm thấy như súng thần công, gươm giáo, ấm, chén, nồi đồng.. tại vàm Rạch Gầm.
Mùa thu năm 1785, vin vào cớ giúp Nguyễn Ánh đang bị quân Tây Sơn truy sát. Vua Xiêm Rama 1, cho 50 ngàn quân thủy bộ tấn công VN bằng hai cánh quân. Lộ quân bộ chiến gồm 3 vạn, từ Nam Vang vào Nam Phần. Cánh thứ hai gồm 20 ngàn thủy quân, với 300 tháp thuyền. Cánh quân thủy này do hai người cháu của vua tên Chiêu Sương và Chiêu Tăng thống lãnh theo đường biển, vào cửa Rạch Giá ngày 25-7-1785. Hai đạo quân Xiêm thế mạnh như chẻ tre, lần hồi chiếm hết các dinh trấn tại Nam phần như Kiên Giang, Trấn Giang,Ba Thắt, Trà Ôn, Măng Thít.. và tới Định Tường. Bấy giờ đạo quân tinh nhuệ nhất của chúa Nguyễn Ánh ở Nam Phần đã bị tan vỡ vì chúa tướng là Châu Văn Tiếp tử thương, nên không còn ai có thể cản nổi quân Xiêm. Do đó, trên bộ cũng như dưới sông, quân Xiêm tới đâu đều cướp của giết người, hãm hiếp phụ nữ Việt, tiếng than oán vọng tận trời cao, thật là thảm tuyệt.
Tin dữ tới Phú Xuân, nên Long Nhưỡng tướng quân được lệnh tức tốc đem quân thủy bộ từ Qui Nhơn vào Nam cứu viện. Lúc đó trời đang cuối đông, chỉ còn vài ngày nửa là đón Tết Giáp Thìn 1785. Để có thể tiêu diệt quân Xiêm đang trong thế mạnh và đông hơn quân ta, ông cho bày diệu kế, bằng lối mai phục rồi bất thần đánh úp tàu giặc đang neo đầy trên sông Mỹ Tho, giữa đọan Rạch Gầm-Xoài Mút. Đồng thời dùng hỏa công trận, để thiêu rụi toàn bộ thủy quân Xiêm.
Mở đầu cuộc tấn công, quân Tây Sơn dùng cùi, lá và dầu dừa trộn chung với dầu mù u để làm bè lửa. Lại bày nghi binh kế, bằng cách lấy vỏ dừa khô rồi vẽ mặt người, đoạn kết thành bè, thả trôi lềnh bềnh gần chỗ thuyền giặc đậu. Chính diệu kế này, khiến cho quân Xiêm hoảng hốt, cứ ngỡ là quân Tây Sơn lặn đục thuyền, nên các tàu liên tiếp nhả đạn cho tới hết. Để nắm vững tình hình trận chiến, ông cho dựng hai chòi chỉ huy ở hai đầu sông, một tại Chùi Mong (đầu rạch Xoài Mút), còn chòi kia ở vàm Rạch Gầm. Hai chòi chỉ huy có nhiệm vu ban lệnh tấn công, khi thấy thuyền quân Xiêm lọt hết vào trận địa. Ngoài ra không muốn để cho một thuyền giặc nào còn sống sót, Nguyễn Huệ cho chẻ tre bện thành sáo dầy có cột đá hòn, để ngăn dòng Tiền Giang tại Ấp Tây, thuộc xã Kim Sơn, ngược vàm Rạch Gầm khoảng 1 cây số.
Khi toàn bộ chiến thuyền của Quân Xiêm đã lọt vào khúc sông trận địa, do tín hiệu từ hai chòi chỉ huy cấp báo, lập tức ông ban lệnh tấn công. Lúc đó giữa sông thì lửa đốt, còn trên bờ dùng đại bác, tên và súng phóng lửa nhắm vào 300 tàu giặc mà bắn. Vì quá bất ngờ, nên hai đại tướng Chiêu Tăng, Chiêu Sương cùng 300 tháp thuyền với 20.000 quân, trở tay không kịp, lớp thì chết cháy, phần khác bị quân Tây Sơn giết. Chiêu Sương cùng Chiêu Tăng và vài ngàn tàn quân may mắn lội được vào bờ, cùng với quân bộ chiến dùng đường bộ chạy về Nam Vang, rồi rút hết về Vọng Các, vì sợ quân Tây Sơn truy sát. Từ đó người Xiêm La bỏ mộng tranh bá đồ vương với Đại Việt trên bán đảo Đông Dương, đồng thời sợ người Việt hơn cọp.
Ngày nay nhờ đọc lại những trang sử cũ, ta mới thấy tiền nhân đã mở dựng và giữ nước thật là gian lao cực khổ, có thể nói là người Việt đã đem máu và nước mắt của mình, để tô bồi làm xanh thêm đất, khiên hoa cỏ mới nở rộ được khắp thôn làng, đê cho chúng ta thênh thang tọa hưởng.
Bổng thấy thấm thía tận cùng về lời nói của vị thánh quân Lê Thánh Tôn cách ta hằng bao thế kỷ: 'phải giữ gìn cẩn thận, đừng để ai lấy mất một phần sông núi của tổ tiền để lại'. Xem như thế đủ chứng tỏ rằng tiền nhân từ thời xa xưa, đã thấy trước dã tâm xâm lăng đồng hoá nước Việt của giặc Tàu, nên lúc nào cũng đoàn kết để ngăn chống ngaọi xâm.
Vậy mà ngày nay cọng sản VN lại liên tiếp, hết bán đất biên giới, hải đảo, tới sang nhượng biển vùng đánh cá ngàn đời của dân tộc trên biển đông, làm cho cơn hồng thủy sóng thần nỗi dậy, trước sự bất lực ù lỳ của một tập đoàn cầm quyền, đang làm nô lệ cho Trung Cộng và tất cả ngoại bang, bất chấp quốc nhục.
Đúng như sử gia Hoàng Xuân Hãn đã viết :' trong dòng lịch sử Việt, khi thế nước bị suy vi hèn yếu vì chia rẻ, thì giặc Tàu mới dám lấn đất dành biển '.Không biết ngày nào cả nước mới có dịp theo sau gót ai, để đánh đuổi giặc Tàu, quang phục đất nước, như ngày xưa dân Việt đã theo sau bóng voi của Quang Trung Đại Đế vào Rạch Gầm-Xoài Mút đốt tàu giặc Xiêm hay ra Bắc Hà đánh đuổi quân Mãn Thanh chạy về Tàu vào những ngày Tết Kỷ Dậu 1789.
' Nhà tan sống cũng lạc loài
thánh hiền sách nát đọc hoài hay sao ?
biển Đông sóng vổ aò aò
ta nương cánh gió đi vào cõi xa
ngày mai cũng có một ngày
theo chân voi trận để vào Thăng Long.. ' ' '
Viết từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
Những ngày cuối Chạp 2009
MƯỜNG GIANG
TÀI LIỆU THAM KHẢO :
- Đại Nam Nhất Thống Chí của Sử Quán nhà Nguyễn
- Việt sử xứ Đang Trong của Phan Khoang
-Lịch sử nội chiến của Tạ Chí Đại Trường
-Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ của nhiều tác giả
- sách báo..

MƯỜNG GIANG

Nguồn:

MƯỜNG GIANG . Việt Báo Thứ Bảy, 2/20/2010, 12:00:00 AM

http://www.vietbao.com/?...d=45&pid=115&nid=155908
Quách Tĩnh
#20 Posted : Saturday, April 3, 2010 1:41:59 PM(UTC)
Quách Tĩnh

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 61
Points: 0


Nguyện


đêm qua nằm ngủ giữa trơì
ngước trông vằng vặc sao ơi tuyệt trần
lung linh một mảnh lụa xinh
giát lên châu ngọc như hình thiên thai ......

mượn trời mảnh lụa trang đài
dâng lên chư Phật cõi ngoài cõi ta
mượn hoa muôn cõi Ta Bà
dâng lên Bồ Tát một toà đạo tâm .

nguyện cho đời hết thăng trầm
muôn phương an lạc sống trong thuận hòa
đất trời thôi nổi phong ba
nơi nơi thạnh trị, nhà nhà ấm no

anh linh Cha Mẹ dưới mồ
mỉm cười chín suối thiên thu ngàn đời
thong dong tự tại an vui
nương theo cõi Phật, cõi Trời gần xa
bao nhiêu nghiệp cảm Ta Bà
tan theo cát bụi, sáng loà đạo tâm .

ngovanquoc


Sen Nở Ngàn Mắt Ngàn Tay VĨNH HẢO . Việt Báo Thứ Bảy, 4/3/2010, 12:00:00 AM
Sen Nở Ngàn Mắt Ngàn Tay


Vĩnh Hảo

Hình ảnh trong Lễ Hội Quan Âm 2010

HÀNH HƯƠNG

(Nguồn: Việt Báo Thứ Bảy, 4/3/2010, 12:00:00 AM)








Lên đường hướng về một thánh địa, giữ thân miệng ý thanh tịnh, cúng dường, lễ bái, cầu nguyện, thiền định. Đó là những gì các tín đồ thuần thành của một tôn giáo thường làm trong các chuyến hành hương của họ. Đôi khi trong ý nghĩa hành hương còn mang màu sắc khổ hạnh, thử thách.
Theo ý nghĩa đó, chuyến đi của tôi không phải là một chuyến hành hương, dù rằng trên các thông báo, thư mời, chương trình đều ghi rõ “Lễ Hội Quan Âm – Ngày Hành Hương Cầu Nguyện.”
Tôi chỉ lên đường như lữ khách thăm viếng ngôi chùa của một vị thầy khả kính, mà nơi đó có tổ chức lễ lớn, sẽ có nhiều vị thầy khác từ khắp nơi tựu về. Ý nghĩa chuyến đi chỉ như thế. Chuyến đi chẳng gì cực nhọc, gian nan. Cùng ngồi phi cơ với một người bạn đồng hành. Hành trang đơn giản: ngoài một số sách để tặng những người bạn phương xa, chỉ mang theo một tâm ý thảnh thơi, thoải mái của một người được nghỉ ngơi sau nhiều năm tháng làm việc bù đầu, và niềm hy vọng sẽ được đón nhận một lương duyên kỳ ngộ nào đó trong những ngày và đêm có hai vầng nhật nguyệt luân phiên soi sáng trên bầu trời phương lạ.
LỄ HỘI QUAN ÂM
Nói đến lễ hội là nói đến một hay nhiều ngày với một chủ đề và ý nghĩa nào đó, người ta tập trung đông đảo để tổ chức tưởng niệm, vui chơi, giải trí, ăn uống, ca hát, vũ kịch, v.v... Lễ hội luôn mang tính văn hóa đặc trưng của một cộng đồng, một tôn giáo. Ở Việt Nam, người ta nghe quen các lễ hội truyền thống như lễ hội Chùa Hương, lễ hội Đền Hùng, lễ hội Phật Đản, v.v... Lễ hội Quan Âm thì dường như chỉ có trong vòng vài chục năm gần đây. Đặc biệt là tại Trung tâm Phật giáo Chùa Việt Nam, ở Houston, Texas, lễ hội Quan Âm đã được khai lập từ năm 2000, đến nay thì đúng mười năm.
Nói khai lập là vì trước đó chưa từng có. Đúng vậy. Trên đất Hoa Kỳ cũng như các quốc gia ngoài Việt Nam, người phật-tử Việt chưa từng tổ chức lễ hội Quan Âm cho đến khi Chùa Việt Nam Houston khai mở đạo tràng tu tập và cầu nguyện nhân lễ vía đức bồ-tát Quan Thế Âm vào 19 tháng 2 âm lịch (rơi vào khoảng cuối tháng 3 dương lịch) hàng năm. Tôn tượng Quan Thế Âm lộ thiên ở Chùa Việt Nam cao đến 72 feet (khoảng 22 mét), là một tác phẩm điêu khắc tuyệt xảo, lồng lộng trang nghiêm trong một quần thể vườn cảnh mỹ thuật của sân Chùa Việt Nam. Tôn tượng này đã được công nhận như là một trong bảy kỳ quan của thành phố Houston. Được biết tác giả của pho tượng này, sau một thời gian dài chay tịnh để thực hiện công trình điêu khắc, đã xuất gia làm sư nữ. Tôi cho rằng, việc xuất gia của vị này lại là một công trình điêu khắc tuyệt đẹp khác mà cô dâng tặng cuộc đời.
Các lễ hội Quan Âm tổ chức mỗi năm tại Chùa Việt Nam đều tập trung hàng trăm tăng ni và hàng chục nghìn phật-tử từ khắp nơi tụ về. Tính theo thời gian, càng về sau thì số lượng người tham dự càng lúc càng đông. Hàng năm, ban tổ chức lễ hội không cần đạt thư mời mà chỉ thông báo chung về thời gian và chương trình, cứ thế mọi người từ khắp các tiểu bang, có khi ngoài Hoa Kỳ, tự động thu xếp đến tham dự. Đối với các lễ lớn của các chùa tại hải ngoại, đây không phải là điều đơn giản. Thường thì phải có thư mời người ta mới đi. Chỉ có một lễ hội truyền thống người ta mới tự động tìm đến. Như vậy, có thể khẳng định rằng lễ hội Quan Âm của Chùa Việt Nam Houston đã trở thành một truyền thống đẹp. Mà để khai lập, duy trì và phát huy một truyền thống, tất phải hội đủ các yếu tố: thời gian, địa điểm, sinh hoạt và tâm nguyện.
Thời gian của lễ hội Quan Âm Chùa Việt Nam Houston được chọn lựa một trong ba ngày vía của bồ-tát Quan Thế Âm (ngày 19 tháng 2, tháng 6 và tháng 9 âm lịch). Tháng 2 âm lịch nhằm tháng 3 dương lịch hàng năm, thời tiết tương đối tốt và thường rơi vào tuần nghỉ mùa xuân của các trường (Spring break), rất thuận lợi cho giới trẻ và gia đình. Yếu tố thời gian của một lễ hội cũng cần phải nói đến sự lặp đi lặp lại hàng năm, đúng vào một thời gian nhất định nào đó. Nếu thay đổi bất chừng, năm thì tổ chức, năm thì không; năm thì vào tháng này, năm thì vào tháng khác, thì lễ hội sẽ không thành công.
Địa điểm để tổ chức lễ hội Quan Âm thì chưa có nơi nào thuận lợi như ở Chùa Việt Nam Houston, với cảnh trí thoáng đẹp, trang nghiêm, thơ mộng (hồ Tịnh Tâm, ao sen Hương Thủy, cầu Hương Vân, Phổ Đà Hương Sơn...), khuôn viên rộng rãi có thể dung chứa hàng chục nghìn người, và tất nhiên, phải kể đến một trong bảy kỳ quan vĩ đại của thành phố Houston: pho tượng Quan Âm lộ thiên tuyệt đẹp và cao ngất (Seven Wonders of Houston - xem bài viết của phóng viên Claudia Feldman trên nhật báo Houston Chronicle số ra ngày 13.7.2007).
Sinh hoạt của lễ hội Quan Âm mang sắc thái văn hóa của Phật giáo và tộc Việt. Ý hướng và ước vọng của cộng đồng được biểu hiện nơi đây qua các hình thái sinh hoạt dân gian như ca, vũ, nhạc, kịch, múa lân, múa trống, biểu diễn võ thuật, triển lãm tranh ảnh, nghệ thuật, giới thiệu các đặc sản ẩm thực của nhiều địa phương, v.v... Các sinh hoạt này nặng tính cách văn hóa hơn là tôn giáo, và hiển nhiên lễ hội như thế là một trong những hình thức duy trì và phát huy ngôn ngữ, văn hóa Việt hữu hiệu nhất nơi xứ người. Tuy nhiên, sinh hoạt cốt lõi của lễ hội Quan Âm Chùa Việt Nam Houston chính là Đạo tràng Linh hiển Ngàn Mắt Ngàn Tay. Ở đạo tràng này, hàng trăm tăng ni và hàng nghìn phật-tử nhất tâm lễ bái đức Quan Thế Âm bồ-tát và trì tụng linh chú Đại Bi (mật ngôn của vị bồ-tát này). Nghi thức tam bộ nhất bái (ba bước lạy một lạy) đã được cử hành những năm qua một cách trang nghiêm, tạo dấu ấn tâm linh sâu sắc đối với tất cả hành giả tham dự. Rất nhiều phật-tử cho biết họ đến dự lễ hội Quan Âm là để được tu tập, lễ bái và hành trì kinh chú cùng tăng ni và đồng đạo qua đạo tràng này chứ không phải để vui chơi với lễ hội dân gian. Nói như thế, hàm nghĩa rằng lễ hội dân gian đối với người phật-tử chỉ là phụ thuộc, còn đạo tràng tu tập mới là chính yếu. Nhưng dù thế, lễ hội hàng năm vẫn thu hút hàng chục nghìn người kéo về. Đây là điều hiếm có mà Chùa Việt Nam Houston đã thành tựu.
Tâm nguyện của lễ hội thường được hiểu là tâm thức và nguyện vọng chung của cộng đồng tham dự. Lễ hội Quan Âm tập trung ý nguyện của phật-tử Việt đối với tự thân, gia đình, xã hội, đất nước và nhân loại. Có thể nhiều người đến với lễ hội chỉ vì hiếu kỳ, hoặc để giải trí, vui chơi. Nhưng ý lực mạnh mẽ của lễ hội được hội tụ từ những người chủ xướng, tác động lên những người hưởng ứng, rồi lan tỏa thành làn sóng nguyện lực, khiến cho một cộng đồng tản mác với nhiều khuynh hướng, nhiều hoàn cảnh khác nhau vô tình bị cuốn hút theo, để rồi những giờ phút vui chơi, những tâm trí hiếu kỳ, chỉ trong một vài giây phút nào đó, chuyển thành ý nguyện cao đẹp của người phật-tử Việt Nam đối với trần gian thống khổ. Đây là thành tựu bất khả tư nghì của lễ hội Quan Âm.
TÂM NGUYỆN
Nhưng tâm nguyện ấy là gì? Đâu là tâm nguyện của những người chủ xướng, khai lập truyền thống lễ hội Quan Âm trên đất Hoa Kỳ?
Hãy lắng nghe diễn từ khai mạc lễ hội Quan Âm của thầy Viện chủ Chùa Việt Nam, Thích Nguyên Hạnh: "Lễ Hội năm nay đánh dấu 10 năm kể từ khi Bảo Tượng Quan Âm hoàn thành; và 20 năm thành lập, xây dựng TTPG-Chùa Việt Nam này. Mười năm nhìn lại, nếu có một và chỉ một điều chúng tôi ước nguyện mà thôi, thì đó là, ước nguyện cho giọt nước Cam Lồ từ Mẹ Hiền Quan Âm vẫn còn mãi đọng lại trong trái tim của mỗi và mọi người chúng ta để làm tiêu tan tất cả sầu hận, tiêu tan tất cả tâm niệm ích kỷ, ganh ghét, đố kỵ hẹp hòi, tiêu tan tất cả những hận thù, cố chấp chia rẽ, ngăn cách. Cũng như 20 năm nhìn lại, cũng nếu có một và cũng chỉ một điều ước nguyện mà thôi - một điều vượt lên trên tất cả mọi hình thức hư ảo; thì đó là, ước nguyện cho ánh sáng Phật Pháp mãi mãi soi sáng thế gian để cho mặt đất này còn có được con đường đi về Thanh Bình, An Lạc và Chân Lý giữa bao nhiêu trá nguỵ hư ảo, bao nhiêu máu xương và nước mắt đã đổ ra đêm ngày trong lịch sử."
Tôi đứng từ xa, nơi tháp chuông, chỉ nhìn thấy những bóng hoàng y thấp thoáng quanh lễ đài Quan Âm, và chỉ thấy một rừng người bao quanh, ngăn cách tôi và thầy Viện chủ. Nhưng tiếng nói của thầy, tâm nguyện của thầy, đi thẳng vào tận đáy tim, chấn động cả bản thể tôi. Vâng, chính tâm nguyện tha thiết và cao đẹp ấy, đã thiết lập, khai mở những con đường, những phương tiện, và là tinh hoa của Phật giáo Việt Nam mọi thời đại.
PHẬT NGỌC
Bảo tượng Phật Ngọc Vì Hòa Bình Thế Giới (Jade Buddha for Universal Peace) đã được ban tổ chức lễ hội Quan Âm cung nghinh về Chùa Việt Nam từ tuần trước. Trong khi một số người đến đây để tham dự lễ hội Quan Âm như mọi năm thì nhiều người khác đã đến đây để được chiêm bái Phật Ngọc. Hai sự kiện lớn được diễn ra trong cùng một thời gian và địa điểm đã tạo duyên lành gấp bội cho những người cũ lẫn mới có mặt nơi đây.
Tôi, lần đầu tiên tham dự lễ hội Quan Âm, và lần thứ hai được chiêm bái Phật Ngọc. Lần này, "gã cùng tử" không còn thắc mắc hay tư lự gì đối với bảo tượng của bậc từ phụ. Trong tôi chỉ cảm thấy tràn đầy hạnh phúc và niềm biết ơn với ban tổ chức. Tôi đã đảnh lễ Phật Ngọc trước ngày khai mạc, khi bảo tượng hãy còn được che phủ bởi một tấm y sẫm màu. Những ngày kế tiếp, tôi vẫn thường lui tới bên cạnh tôn tượng như một đứa con quấn quít bên cạnh cha lành. Quấn quít, gần gũi, đi nhiễu quanh lễ đài thôi, chứ không tâm sự hay vòi vĩnh chi cả; vậy cũng đủ hạnh phúc rồi. Có khi ngồi từ xa, nhìn ngắm thiên hạ thay nhau lễ bái, chụp hình, lấy làm vui. Những khuôn mặt thành kính, những động thái trang nghiêm, những đôi mắt qui ngưỡng... tất cả đều là những bức tranh đẹp và thanh bình.
Thanh bình, ước mơ chung của nhân loại ngàn đời. Ước mơ xuất phát trên cái nền hoang tàn đổ nát của chiến tranh. Nhân danh những lý tưởng cao cả, những thần linh tột cùng, những tham vọng ngất trời được sơn phết bằng những mỹ từ rỗng tuếch, người ta tạo nên những cuộc chiến, từ gươm giáo bom đạn đến giết hại khủng bố, từ giả dối điêu ngoa đến xuyên tạc vu hãm. Tất cả đều thoát thai từ những mộng tưởng đảo điên, những tham lam, sân hận và cuồng si. Những mộng tưởng ấy bốc thành lửa nghiệp bủa vây thế gian trầm thống. May mắn thay, những người con Phật khắp nơi, từ nhiều chủng tộc và những nền văn hóa khác nhau, đã cùng thức ngộ về sứ mệnh hòa bình của mình, thắp sáng một ngọn lửa khác, bi tráng và hùng lực, qua pháp từ của Đại lão Hòa thượng Thích Thắng Hoan trong đêm "Thắp Sáng Ngọn Lửa Từ Bi" như sau:
"Nhưng cũng có ngọn lửa làm cháy ngục vô minh, đốt tan sầu hận, tắt lòng tham ái. Đó là ngọn lửa cháy tỏa như vầng hào quang từ Kim Thân Đức Phật đã một lần trong lịch sử loài người soi sáng thế gian. Đó là ngọn lửa của Bồ Tát Diệm Nhiên Vương - một hóa thân của Mẹ Hiền Quan Âm tỏa sáng trong chỗ tận cùng của đau khổ, dưới ngục tối âm u, và giữa những loài ngạ quỷ đói khát đang kêu gào. Đó là ngọn lửa của Bồ Tát Dược Vương tự thiêu đốt thân mình như thiêu đốt khối bản ngã vô minh để thành tựu hạnh cúng dường tối thượng lên Như Lai. Đó cũng là ngọn lửa của Bồ Tát Quảng Đức và của bao vị Bồ Tát vị Pháp thiêu thân đã hơn một lần cháy sáng trên quê hương Việt Nam giữa những tham tàn độc ác của người với người. Ngọn lửa ấy không kêu gọi hận thù, không làm tổn hại một ai, một chúng sanh nào. Ngọn lửa ấy chỉ kêu gọi tình thương và làm nên sự sống an bình cho tất cả. Ngọn lửa ấy chính là ngọn lửa Trí Tuệ, ngọn lửa Từ Bi."
Chỉ ngọn lửa Trí Tuệ và Từ Bi mới có thể mang lại hòa bình cho nhân loại. Cũng trong ý nghĩa này, Phật Ngọc, một biểu tượng cho hòa bình thế giới, thật cần thiết xuất hiện nơi đời. Do đó, Đại lão Hòa thượng Thích Tâm Châu, vị trưởng lão tỳ kheo chứng minh lễ hội, đã minh thị rằng Phật Ngọc chính là một hóa thân của đức Phật, đang trong cuộc hành trình dài vân du khắp thế giới, để tỏa sáng trí tuệ và từ bi đến với con người và cuộc đời đầy biến động khủng hoảng hôm nay.
Phật Ngọc, không đơn giản là một pho tượng quí chạm trổ từ ngọc bích. Một vị trưởng lão tỳ-kheo khác, Đại lão Hòa thượng Thích Chơn Điền, đã thật chí lý khai thị trong lễ khai mạc Tôn Kính - Chiêm Bái Bảo Tượng Phật Ngọc rằng: "Vượt lên tất cả các giá trị về nghệ thuật, Bảo Tượng Phật Ngọc là sự kết tinh của những tâm hồn cao quý, xuất hiện như một đáp ứng niềm mơ ước ngàn đời của nhân loại giữa sự tàn khốc của chiến tranh và của bao sức mạnh tàn phá, hủy hoại trên mặt đất này: niềm mơ ước Hòa Bình."
Lắng nghe những bậc trưởng lão, trong tôi đồng vọng tiếng gọi tha thiết của giấc mơ hòa bình từng ấp ủ lúc thiếu thời, qua những năm tháng khói lửa chiến tranh, cũng như những giai đoạn mà con người hừng hực hận thù, nghi kỵ và đày ải nhau trên chính quê hương mình. Rõ ràng là nửa thế kỷ có mặt trên đời, ước mơ của một người trai nước Việt, dù còn trong nước hay sống đời ly hương, vẫn chỉ là hòa bình.
NGÀN MẮT NGÀN TAY
Buổi sáng tinh mơ khi vầng trăng tròn sáng chưa khuất hẳn ở phương tây, và mặt trời chưa kịp ló dạng ở phương đông, thì hàng nghìn hành giả, xuất gia và tại gia, y áo chỉnh tề, trang nghiêm, đã vân tập trước lễ đài Quan Âm, thành kính đảnh lễ. Hàng trăm tăng ni tuần tự hướng về tiền đường, trước tôn tượng Phật Ngọc. Hàng nghìn phật-tử trong áo tràng lam, thứ lớp xếp thành hàng năm, ngồi dọc theo hai bên con đường dẫn về lễ đài Phật Ngọc. Tại đây, nghi thức trì tụng linh chú Đại Bi được cử hành thật trang nghiêm, cảm động.
Tôi đến trễ, không tham dự khóa lễ của đạo tràng. Từ góc tháp chuông hướng về phía lễ đài, tôi có thể nghe được những giòng mật ngôn hùng tráng cất lên, như thủy triều, sấm động, có khi như thác nước từ núi cao ì ầm đổ xuống vực thẳm, có khi như giòng suối rì rào, tuôn chảy bất tận. Và khi mặt trời bừng lên phía sau lưng các hành giả, trong tôi cũng bừng lên ánh sáng chói lòa của tự tâm. Ngay ở giây phút ấy, trong không khí tịch lặng nhất tâm của cả một rừng người, trong động tác khởi thân và cúi lạy thật nhịp nhàng đồng bộ của hàng ngàn hành giả trước tôn tượng Thế Tôn, tôi nhìn ra một đóa sen ngàn cánh đang khép-mở cánh cửa của trí tuệ, từ bi, và diệu dụng. Ngàn mắt trí tuệ soi chiếu trong ngàn tay từ bi. Diệu dụng của bi-trí là như thế. Phổ môn thị hiện của Quan Âm là như thế. Ngàn mắt thương nhìn tất cả cõi giới và chúng sinh. Ngàn tay cứu khổ mở ra tất cả phương tiện huyền môn. Tất cả phương tiện huyền môn, tất cả cánh cửa của trần gian ảo mộng, đều có thể mở ra khung trời của Phật Pháp mầu nhiệm.
Tôi chắp tay, thành kính cúi lạy đóa sen ngàn cánh của hiện tiền đại chúng.
LỜI CẢM TẠ
Sau các khóa lễ, chương trình lễ hội bắt đầu với những sinh hoạt văn hóa dân gian. Nào là thư pháp, bói kiều, thả thơ, triển lãm tranh ảnh, tượng Phật, múa võ, v.v... hầu như không thiếu môn nào. Buổi tối có đêm văn nghệ với nhiều ca sĩ nổi danh cùng với sự đóng góp của các đơn vị Gia Đình Phật Tử thật là đặc sắc. Không khí lễ hội suốt ngày đêm, thật vui tươi, nhộn nhịp. Mà chỗ rộn ràng nhất vẫn là các gian hàng ẩm thực. Người ta có thể thiếu sót thưởng thức một số gian hàng nào đó, nhưng chẳng ai từ chối hoặc quên ghé các gian hàng ăn uống. Tất cả các gian hàng đều bán thực phẩm chay. Nhìn các "thương hiệu" thấy toàn là tên nhà chùa: Chùa Liên Hoa, Tu viện Hương Nghiêm, Quán Giác Ngộ, Tịnh xá Ngọc Nhẫn, Chùa Tây Tạng, Chùa Linh Sơn, Chùa A Di Đà, Chùa Giác Viên, Chùa Đông Hưng, Chùa Thanh Hương, GĐPT Huyền Quang, Chùa Huê Lâm, Tịnh xá Minh Đăng Quang, Chùa Bảo Quang, Chùa Hương Lâm, GĐPT Phổ Đà, Chùa Lâm Tỳ Ni, Chùa Tây Thiên, Tu viện Phước Đức, v.v...
Vui lây niềm vui của đám đông lễ hội, quên mất cả ngày giờ. Mỗi đêm về đến quán trọ đều khuya lắc, và trăng lúc nào cũng đã qua khỏi đầu. Có đêm ngồi ngắm trăng ở thềm tháp chuông đến quá giờ làm việc, ban di chuyển đã nghỉ hết không ai đưa về phải nhờ một thầy địa phương cho quá giang.
Ôn lại những ngày lui tới qua lại giữa quán trọ và chùa, không biết phải nói thế nào cho hết ý cảm ơn ban di chuyển tận tình, chu đáo. Cũng không quên tất cả những tăng ni, phật-tử mỗi người một tay góp phần cho sự thành tựu của lễ hội. Thôi thì mượn lời cảm tạ của Thượng tọa Thích Nguyên Đạt, chân thành gửi đến mọi người:
"Đạo Phật là đạo từ bi. Mẹ Hiền Quan Âm là trái tim từ bi của đạo Phật. Lễ Hội Quan Âm - Ngày Hành Hương và Cầu Nguyện được tổ chức hằng năm, là để làm sống lại một truyền thống tín ngưỡng tâm linh đã có từ lâu đời; để tất cả người con Phật cảm niệm ân đức cứu khổ của Mẹ Hiền; và thiết thực hơn, để tất cả chúng ta cùng trở về tắm gội trong nguồn suối từ bi mà nuôi lớn tình thương giữa thế gian đầy hận thù tranh chấp này. Đó cũng chính là mục đích của việc cung nghinh Bảo Tượng Phật Ngọc cho Hòa Bình và tôn trí tại mảnh đất già lam này cho tất cả chúng ta có cơ hội đảnh lễ, chiêm bái. Chính với mục đích đó mà chúng con xin đem tất cả phước lành có được trong Lễ Hội Quan Âm và trong việc cung nghinh, tôn trí Bảo Tượng Phật Ngọc cho Hòa Bình hồi hướng cầu nguyện cho tự do của dân tộc, hòa bình của thế giới và niềm an lạc hạnh phúc của muôn loài."
TRỞ VỀ
Ngày về, rời khách sạn thật sớm. Xe chở về chùa để cùng ra phi trường với một vị hòa thượng đã từng quen từ lúc còn ở Việt Nam. Người lái xe đưa ra phi trường cũng chính là người đã mua giùm vé máy bay cho chuyến đi lễ hội này. Lại thầm cảm ơn một tín nữ tích cực, tận tâm.
Trên xe, im lặng dõi theo vầng trăng lúc hiện lúc ẩn ở phía tây. Có một nỗi gì dường như là ngậm ngùi, luyến tiếc. Những ngày lễ hội đã qua với cảm nghĩ chung của mọi người là thành công mỹ mãn. Nhưng trong lòng, vẫn còn vương vất một nỗi buồn. Có vẻ như có một điều gì đó muốn thực hiện mà không thành. Năm ngày đêm đến đây, đã không viết một chữ nào. Cũng chưa từng nói một lời nào gọi là trao đổi, tâm sự với ai. Chỉ là một chuyến đi thăm viếng ngôi linh tự và những vị thầy ở phương xa.
Bất chợt, khi mang hành lý khỏi xe, mới nhận ra là hành trang của mình lúc này thật là nhẹ tênh. Hành trang đơn giản khi lên đường cũng không khỏi nặng nề với những cuốn sách đem tặng. Nay buông hết, quả thật là nhẹ nhàng. Chẳng ai có thể hẹn trước một điều gì ở phút này hay phút sau, ở kiếp này hay kiếp sau. Nhưng lương duyên của một chuyến viễn hành, chính là tùy duyên. Tất cả duyên sẽ hợp, tất cả duyên sẽ tan. Nhậm vận cuộc thịnh-suy, nắm bắt hay buông bỏ một cách vô tư vô lự. Đó là con đường trở về.
Nghiệm lại mới thấy khi ra đi đã từng nghĩ rằng đây chỉ là một chuyến rong chơi; nhưng kỳ thực, cuộc rong chơi nào trong cõi đời hư ảo, nếu chân tình, tha thiết trong từng giây phút hiện tiền, cũng đều là một chuyến hành hương ý vị.
California, ngày 01.4.2010
Kỷ niệm lễ hội Quan Âm lần thứ 10
Vĩnh Hảo

Nguồn: Việt Báoonline Thứ Bảy, 4/3/2010, 12:00:00 AM




Users browsing this topic
Guest (8)
2 Pages12>
Forum Jump  
You cannot post new topics in this forum.
You cannot reply to topics in this forum.
You cannot delete your posts in this forum.
You cannot edit your posts in this forum.
You cannot create polls in this forum.
You cannot vote in polls in this forum.