Welcome Guest! To enable all features please Login or Register.

Notification

Icon
Error

Marguerite Duras (1914-1996)
La tham
#1 Posted : Sunday, October 30, 2005 4:00:00 PM(UTC)
La tham

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 222
Points: 0


Chân dung một nhà văn: Marguerite Duras

Nguyễn Mạnh Trinh

Marguerite Duras, một khuôn mặt văn chương sáng giá nhưng cũng là một người đàn bà có nhiều mối tình phóng túng và sóng gió. Với độc giả Việt Nam, bà là một người đã yêu mảnh đất thuộc địa sinh sống thuở thiếu thời còn hơn cả nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Nhưng trên phương diện tình ái, bà là một người bốc đồng và có một quá khứ tình cảm đầy phiêu lưu và đổ vỡ.

Chồng đầu của bà, trong Ðệ Nhị Thế chiến bị Ðức Quốc Xã nhốt vào trại tập trung. Ðể cứu chồng bà phải cặp bồ với một sĩ quan mật vụ Gestapo, và đã phải gặp nhiều chuyện bẽ bàng đau khổ. Khi bà 61 tuổi, lại có một mối tình đầy giông bão với một cậu sinh viên vừa 22 tuổi. Mối tình ấy làm cả Paris đàm tiếu và dằn vặt bà rất nhiều. Ðã có lần bà chua chát nói với cậu bồ nhí Yann Andréa: “Tôi là một người có trái tim đầy thương tích vì những viên đạn xuyên qua...” Cũng như có lần bà phẫn nộ, “Yann, anh ở đây làm gì? Anh yêu tôi ư! Nghi ngờ quá! Làm sao anh có thể yêu một bà già như tôi. Bộ anh muốn đào mỏ bà già giàu có này hả? Còn lâu, anh sẽ chẳng có một xu teng nào đâu!...” Nhưng Yann, yêu và ngưỡng mộ bà cho tới khi bà từ trần suốt mười mấy năm từ 1975 đến 1996. Và trước khi bà xuôi tay nhắm mắt, đã nói với Andréa Yann: “Toi hãy tha lỗi cho Moi...” Tình yêu ấy, bắt đầu với bài hát “La Vie est Rose” qua giọng Edith Piaf trên chiếc xe mà một nữ văn sĩ nổi tiếng cả thế giới chở một cậu sinh viên lang thang nửa đêm trên đường phố Paris. Mối tình ấy dài tới mười sáu năm, đầy sóng gió nhưng đẹp một cách kỳ quái...

Nhưng trong những tác phẩm bà là một người nhân hậu và nặng tình với những nơi chốn mà bà đã đi qua.

“Ðất nước của Marguerite Duras, cuộc đất từ thuở nguyên thủy, nơi chốn mà bà vẫn đinh ninh là quê kiểng của mình từ lúc sinh ra đến khi cuối đời, là Ðông-Dương (Indo-China). Ðiều ấy đã thành một khuôn mẫu rõ nét trong văn chương và đời sống bà...” Laure Adler, trong cuốn sách “Marguerite Duras, A Life” đã mở đầu chương sách thứ nhất như thế. Trong lần gặp gỡ để viết một tác phẩm ghi chép lại chân dung một nhà văn nữ nổi tiếng vào bậc nhất của văn học thế giới thế kỷ hai mươi, Adler đã dành nhiều chương để nói về những nơi chốn mà Marguerite Duras đã để lại nhiều kỷ niệm. Những nơi chốn của địa danh Việt Nam: Sài Gòn, Gia Ðịnh, Vĩnh Long, Sa Ðéc, Hà Nội, ... Ít có một ai, lại yêu mến đất nước Việt Nam như bà. Trong một cuộc phỏng vấn, bà thố lộ: “Tôi yêu những người nghèo, ở đó tôi tìm được những nét thuần lương chịu đựng. Tôi cũng là một người Pháp nhưng nghèo như họ và tôi cũng hiểu được thế nào là sự áp bức của những người Pháp thực dân. Do đó nhiều lúc tôi như có sự bức bối của những điều cần bầy tỏ...”

Marguerite Duras là một người Pháp nhưng sinh đẻ ở Gia Ðịnh, năm 1914, ngày 4 tháng Tư. Cha là một giáo sư toán và mẹ là một cô giáo tiểu học nhưng gia đình bà cũng không sung túc lắm. Từ khi mới sanh ra đến lúc mười tám tuổi nơi cư ngụ chính là Sài Gòn, một thành phố mà theo bà có những nét đẹp làm bà không thể quên được. “Tôi không có một ý nghĩ nào về thời thơ ấu của tôi ngoại trừ nước. Thành phố của tôi là một thành phố xây dựng trên nước, bên bờ những con sông rạch...” Bà từ trần năm 1996 và ở ngôi mộ của bà trong nghĩa trang Montparnasse ở Paris là một bia mộ xám nghiêm trang khắc hai đóa hoa và hai chữ viết tắt: M. D. của tên tuổi Marguerite Duras, với hai hình ảnh khắc họa hai chân dung của hai thời kỳ, một của một cô bé ngây thơ đầy khêu gợi trên chuyến bắc ngang qua sông Cửu Long đội mũ đỏm dáng với đôi môi tô son đỏ thẫm, và, một của thiếu phụ với khuôn mặt và thân thể bị tàn phá bởi nghiện rượu, mặc một bộ trang phục thanh nhã. Bà đã nhiều lần điều trị bằng hóa học và chịu 5 tháng bị “coma”. Trước giây phút bà từ bỏ cõi đời đôi môi bà còn mấp máy chữ “Ecrire.” Bà vẫn muốn viết, vẫn tha thiết với nghiệp dĩ cầm bút của mình. Bà đã viết và yêu những gì bà đã thổ lộ. Bà tự mình sử dụng những kỳ thú mà luân lý cần thiết để bắt bà sống và nghĩ trong một thế giới song hành với thế giới người khác. Tất cả năng lực của bà dồn vào cây bút và bà đã sống trong những chủ động hành động theo tâm thức bà. Khi tuổi mới mười lăm, bà đã nói với mẹ bà rằng điều duy nhất bà muốn là làm người kể chuyện và bà thực sự hứng khởi với tất cả những gì mà trong thời gian ấy chẳng có ai nhắc và để ý đến. Bởi vì, tất cả những mảnh hồi ức đau buồn đều được tinh lọc trong ngôn ngữ văn chương. Mối tình của bà với người đàn ông trưởng giả trong “L'Amant” (bản Anh ngữ “The Lover”) làm nhắc lại những nơi chốn, những phong cảnh mà bà không thể nào quên lãng được. Trong văn chương bà nhắc đến mùi hương thơm đặc biệt buổi sáng của thành phố Sài Gòn, đến những phong cách, những sinh hoạt của khu phố Tàu ở Chợ Lớn, đến những đại lộ thênh thang rợp bóng mát của hàng cây me cổ thụ với những ngôi biệt thự rực đỏ màu hoa sau hàng rào. Và, những tà áo trắng mà bà cho rằng khêu gợi một cách thơ mộng và thánh thiện của thiếu nữ Sài Gòn. Chữ “Congais” đã thành một ngôn ngữ lãng mạn để ám chỉ những người thiếu nữ bản xứ. Có người đã phong chức “Ðại sứ của thời kỳ Ðông Dương không quên” cho bà. Qua tác phẩm, tràn đầy một không khí lãng mạn, của những nơi chốn đã in hằn thành nếp trong tâm thức. Bà chỉ sống ở Việt Nam đến năm 18 tuổi, trở về Pháp, học luật trước khi trở thành văn sĩ. Bà đổi tên từ Marguerite Donnadieu thành Marguerite Duras năm 1943, là tên làng xã trong Lot-et-Garonne nơi mà ngôi nhà của cha bà ở đó.

Laure Adler kể có lần M. D. nói “Cô sẽ không tìm thấy bất kỳ một điều gì từ Việt Nam. Ðể Yann (tên một nhân vật của “Yann Andrea Steiner”, mối tình cuối của mười sáu năm chót của bà) dẫn cô đến bờ sông Seine, khoảng ba mươi kilô-mét từ Paris, chỗ khúc quanh của dòng sông, chỗ mà lá cây phủ làm nệm giường trên mặt đất bờ sông và trái đất trở thành một bọt biển khổng lồ. Ở đó, không giống như dòng sông Mekong. Mà, đích thực, nó là sông Mekong. Một dòng sông có thực...” Adler đã làm theo, đến bờ sông Seine, nhướng mắt tìm kiếm. Không có gì lạ. Bây giờ là mùa Thu, những cơn gió chướng lay động ánh đèn, sương mù như muốn che phủ một không gian tĩnh lặng. Không có một chút nào Việt Nam cả. Ở đây là xứ Pháp. Và tất cả như phủ định ý muốn kiếm tìm một nơi chốn mà M. D. luôn nghĩ về và tưởng tượng. Không có sông Mekong ở đây trong thế giới hiện thực của Laure Adler. Nó chỉ hiện hữu với M. D. trong niềm yêu mến vô bờ của riêng bà.

Trong tiểu thuyết của M. D. có hai tác phẩm tràn đầy không gian và thời gian của một xứ thuộc địa của Pháp gọi là Ðông Dương. Ðó là “Un Barrage contre le Pacifique” (bản Anh ngữ “Sea Wall”) và “L'Amant” (bản Anh ngữ “The Lover”). Có thể gọi đó là một phần đời của tác giả mà chất hồi ký tự thuật nhiều khi thật rõ nét. Cái chết của người cha đã mang gia đình vào sự túng quẫn tài chính. Những người con lớn lên vất vưởng trong đói kém như những người địa phương bản xứ. Người mẹ, Marie Legrand, đã cố gắng phấn đấu để chống lại cái thiếu thốn, cái đói kém. Bà làm việc trong vô vọng trên mãnh đất của bà, đắp đê chống lại sự xâm thực của biển và gió nhưng hoài công. Mấy đứa con lớn lên trong hoàn cảnh ấy. Bà mẹ khám phá ra đứa con gái xinh đẹp gần gũi nhưng xa lạ, ăn mặc phong cách, đời sống tình cảm cũng như tình dục khác với những đứa trẻ cùng lứa tuổi khác và hiểu đó sẽ tạo thành sức hấp dẫn đối với người khác phái. Marguerite Duras gặp người Tàu giàu có và có một tình sử lạ. Muốn trở thành một người giàu có là một ám ảnh dầy vò bà từ lúc thiếu thời. Nhiều năm sau, khi hồi tưởng lại, bà cho rằng tiền bạc cũng chẳng thay đổi được gì bởi vì bà đã luôn luôn giữ cái mặc cảm đáng ghét của người nghèo khó. Ở bà, cái nghèo từ lúc chào đời như một di truyền miên viễn. Và, cũng vô phương để thay đổi. Người đọc sẽ dễ dàng cảm thấy được nỗi thất vọng sâu sắc và nỗi đau thầm lặng phản ánh từ đời sống thực tế.

“Một ngày kia, tôi đã già, ở một lối vào của một công thự, một người đến gặp tôi. Ông ta tự giới thiệu mình và nói, “Tôi đã biết bà nhiều năm nay... Mọi người đều nói bà rất đẹp khi còn trẻ, nhưng tôi lại muốn nói với bà tôi nghĩ rằng bây giờ bà lại đẹp đẽ hơn lúc ấy. Hiếm có hơn khuôn mặt bà lúc thanh xuân, tôi thích vóc dáng bà bây giờ. Khuôn dáng của tàn phá.” Ðó là những hàng chữ bắt đầu của tiểu thuyết “The Lover”, một tác phẩm in năm 1984 không những mang đến cho bà giải thưởng lớn nhất, Goncourt của văn học Pháp mà còn có ba triệu độc giả và dịch ra hơn 50 ngôn ngữ. Ngoài ra đã được nhiều lần dựng thành phim. Câu chuyện kể về một mối tình của một cô bé người Pháp mười sáu tuổi và một người Tàu triệu phú lịch lãm. Chuyện tình ấy xảy ra ở Việt Nam với khung cảnh của phố xá vùng Chợ Lớn, chuyến bắc ngang qua sông Cửu Long, cổng trường Petrus Ký, những con đường Sài Gòn tĩnh lặng, bến Nhà Rồng,...

Năm 1996 ở Sài Gòn, ở hè phố đối diện với khách sạn Continental, những đứa trẻ bán dạo bán những tấm hình của “L'Amant” với một cô bé nhí nhảnh đội chiếc nón theo trang phục ngày xưa. Vóc dáng thì của Marguerite Duras nhưng lại chính là chân dung của nhân vật trong phim. Một thời kỳ như sống lại... Alder kể lại. Bây giờ, Sài Gòn khác nhiều so với phong cảnh được tạo dựng lại trong phim. Con đường Catinat của những quán cà phê, tiệm ăn, cửa hiệu bách hóa thanh lịch ngày xưa nay xô bồ hỗn độn với trăm vạn cửa hàng lớn nhỏ chen chúc đầy ngập hàng hóa, từ những chiếc máy điện toán, đến những đồ gia dụng hàng ngày. Khách trên đường cũng không còn những bộ đồ trắng thời thuộc địa, với cái mũ phớt trịnh trọng, với những tà áo dài tha thướt. Bây giờ, là thế hệ của quần blue jeans, của những bộ đồ thể thao đặc sệt chất Mỹ, với cái nón base ball trên đầu.

Marguerite kể rằng khi còn nhỏ mẹ bà có dẫn bà đi xem cinema ở rạp hát Eden. Lúc ấy, rạp chiếu bóng này nằm nép trong một con hẽm nhỏ, bên cạnh một rạp hát cải lương. Bây giờ, chốn ấy đã thành một bãi đậu xe. Thời thế biển dâu, đã gần một thế kỷ rồi nhưng sao đọc lại thấy man mác. Những người muôn năm cũ. Hồn ở đâu bây giờ? Một cảnh thổ khác đã được dựng lại bởi đạo diễn Jean-Jaques Annaud năm 1992 trong phim The Lover. Ðó là thành phố Sa Ðéc nơi mà gia đình M. D. trú ngụ. Ngôi trường tiểu học nơi bà mẹ đi dạy mỗi ngày cũng như ngôi nhà nhỏ vẫn còn nhưng rệu rã. Thành phố ấy nằm bên bờ sông dậy sóng và Marguerite Duras đã viết như sau: “Mẹ tôi thỉnh thoảng nói với tôi rằng không có nơi chốn nào trong suốt nguyên cuộc đời tôi lại nhìn thấy được một dòng sông đẹp đẽ, vĩ đại và hoang dã như ở nơi đây. Sông Mekong và những phụ lưu của nó đổ ào ra biển, lưu lượng nước khổng lồ tự nhiên biến mất dưới sự xoi mòn của đại dương. Trên một vùng bao la vô tận của tầm nhìn, con sông chảy uốn khúc trong trượt dốc của đất trời thấp xuống...” Ðọc những đoạn như thế rất nhiều trong The Lover, chúng ta cảm được lòng yêu thương của bà với đất nước, cảnh thổ này rộng lớn biết bao.

Trong “L'Amant”, những cảnh Sài Gòn buổi sáng được mô tả tuyệt diệu. Lúc sáng sớm cổng trường vừa mở, không khí nồng nàn mùi cỏ cây, với mùi hoa ngây ngất. Những ngôi biệt thự với mái ngói đỏ đỏm dáng trong màu nắng mới. Những tà áo dài trắng gợi lại một không gian tinh khiết, Marguerite Duras học ở trường Chaaeloup-Laubat. Lớp học bắt đầu lúc sáng sớm khi sức nóng của mặt trời chưa làm khó chịu và mùi của lá me còn thoang thoảng. Bà kể lại: “Ðây là con đường dẫn đến trường học. Ðúng bảy giờ rưỡi sáng. Ở Sài Gòn, thời khắc ấy mát mẻ dễ chịu làm sao khi những chuyến xe công cộng đi qua. Cả phố xá thoang thoảng mùi bạc hà mỗi khi bước chân thiếu nữ da trắng ngang qua, một mùi hương huyền diệu làm ngây ngất những cậu con trai bản xứ...”

Ðọc “L'Amant” tự nhiên tôi nhớ lại những ngày học trò, thuở mới biết yêu ngu ngơ như những chàng gà trống. Duyên Anh cũng viết “Ngày xưa còn bé” và lột tả được một thời thiếu niên mơ mộng. Với “Người tình”, tình yêu chứa đầy những ẩn ức và nổ bùng ra những “scandal” tai tiếng. Một cô bé chỉ mười lăm tuổi đã yêu một người tình giàu có lịch lãm. Cuộc tình ấy bắt đầu trên chuyến bắc ở Sa Ðéc và là một mối tình trưởng thành trước tuổi. Ngây thơ đã được thay thế bằng những cảm nhận khác...

Một buổi tôi đọc những bài báo nói về Sài Gòn ngày xưa. Bây giờ đã hết rồi những đường phố xưa, những phong cảnh cũ. Chẳng còn chim én ríu rít trên nóc nhà lồng Chợ Lớn mới. Không còn những cầu Ba Cẳng, cầu Xóm Chỉ, Xóm Củi, Nhị Thiên Ðường ngày nào. Bến Mễ Cốc, bến Lê Quang Liêm, nhộn nhịp ngày xưa bây giờ hoang vắng. Thế mà, đọc những trang sách Marguerite Duras, cảnh vật ấy dường hồi sinh trong óc nhớ...

Tình yêu. Cuộc đời. Nỗi chết. Là những chuyên chở mà Marguerite Duras muốn diễn tả. Nhưng với riêng tôi, tiểu thuyết của bà làm tôi trân quí hơn những kỷ niệm. Tác giả “L'Amant” chỉ sống ở Việt Nam có mười lăm năm mà đã yêu đất nước ấy như thế thì tôi đã sinh ra, sống, yêu, đau khổ trên quê hương ấy thì chắc tình cảm phải nồng nàn thắm thiết hơn. Thế mà tôi lại bất lực không viết được những điều ấp ủ thì có phải đáng trách móc và ân hận không? Trong khi quỹ đời đã đến mức tuổi sáu mươi!

Nguồn Nguoi Viet Online







Phượng Các
#2 Posted : Friday, January 13, 2006 12:17:02 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
Phượng Các
#3 Posted : Wednesday, September 6, 2006 5:43:08 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
Tìm lại Sài Gòn của Marguerite Duras

Matt Gross

Tiểu thuyết gia, nhà viết kịch nổi tiếng Marguerite Duras sinh ngày 4/4/1914 tại Gia Định và trải qua thời thơ ấu của mình trên thành phố Đông Dương này. Cuộc tình nồng nàn và lãng mạn giữa bà với một chàng trai người Hoa giàu có bắt đầu từ cuộc gặp gỡ tình cờ trên một bến phà nối liền Vĩnh Long và Sa Đéc hơn 75 năm trước. Dưới đây, eVăn lược dịch bài viết của Matt Gross ghi lại chuyến viếng thăm của ông tới những địa danh từng gắn bó với nữ văn sĩ và cuộc tình huyền thoại này.


Poster phim "Người tình". (yahoo)

Nếu muốn tìm nơi để hưởng thụ một cuộc tình, không đâu lý tưởng hơn TP HCM. Hầu như khu phố nào trong thành phố này cũng có những khách sạn và nhà nghỉ, mà ở đó, nhân viên lễ tân đã quá quen thuộc với cảnh từng đôi nhân tình vụng trộm đến cùng nhau. Những gì xảy ra ở Sài Gòn chỉ mình Sài Gòn biết.

Nhà văn Pháp Marguerite Duras là người hiểu điều này hơn ai hết. Bà sinh năm 1914 tại Gia Định và trải qua quãng đời tuổi thơ ở xứ sở này. Năm Duras 15 tuổi, gia đình bà chuyển đến sống ở Sa Đéc - một thành phố nằm bên bờ sông Me Kong. Tại đây, nữ tiểu thuyết gia tương lai đã gặp gỡ và có một chuyện tình lãng mạn với một chàng trai 27 tuổi - con của một chủ đất người Trung Hoa giàu có. Họ gặp nhau trên chuyến phà nối liền Vĩnh Long và Sa Đéc. Không lâu sau, cô bé Marguerite thường xuyên bỏ trốn khỏi trường nội trú để hưởng thụ những đêm nồng nhiệt với người tình trong căn hộ độc thân của anh tại khu Chợ Lớn.

Mối tình này về sau trở thành “nguyên liệu” để Duras viết nên tiểu thuyết nổi tiếng Người tình (The Lover) năm 1984 và cuốn hồi ký The North China Lover năm 1992.

Nhưng những dấu ấn còn lại của tác giả Người tình ở Việt Nam hiện không còn nhiều. Trong chuyến đến thăm TP HCM mùa thu năm ngoái, tôi đã cố tìm lại những dấu vết còn lại của bà sau 75 năm thay đổi.

Cuộc tìm kiếm của tôi bắt đầu từ đường Đồng Khởi - một khu buôn bán sầm uất ở trung tâm TP HCM. Nơi đây tôi gặp ông Thạch - một người Sài Gòn 69 tuổi, chủ hiệu sách Lan Anh.


Ngôi nhà của người tình Trung Hoa. (The New York Times)

Bằng một thứ ngôn ngữ pha trộn giữa tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Việt, tôi trình bày ý định của mình cho ông biết. Với 200.000 đồng, ông bán cho tôi tập sách mỏng Annuaire des États-Associés: Cambodge, Laos, Vietnam xuất bản năm1953 cùng với một số bản đồ, danh mục địa chỉ của đường phố Sài Gòn xưa, gần với thời Duras sống.

Trong khi ngồi xe máy dọc theo đường Đồng Khởi, một người bán báo dạo mời chào tôi một tờ báo từ ngày hôm trước. Tôi lướt qua những trang viết trên thứ giấy vàng vàng đặc trưng cho đến khi dòng chữ sau đập vào mắt “Cinéma (Salles de)”. Phía dưới là Eden Cinéma - nơi mẹ Duras từng dạy dương cầm để nuôi sống 3 anh em bà. Địa chỉ của rạp chiếu bóng ấy là 183 đường rue Catinat (tên cũ của đường Đồng Khởi) và tôi đang đứng ở số 201.

Với Duras, Eden là nơi cứu gia đình cô khỏi cảnh nghèo đói. Ngày nay, rạp chiếu bóng này nằm lẻ loi trên một dãy phố bán đầy tranh chép từ những tác phẩm nổi tiếng của Việt Nam và châu Âu. Những chiếc ghế ngồi trong rạp hát giờ đã bị dỡ bỏ và vứt vất vưởng dọc các hành lang. Rạp hát chỉ còn là một phế tích đầy rẫy gạch vụn. Dấu tích còn lại của quá khứ chỉ lưu lại trên những posters phim (Cleopatra) vẽ bằng tay từ ngày đó…

Tuy phấn chấn nhưng tôi vẫn thất vọng với những gì mình vừa khám phá. Không thể tìm thấy khu nhà ở của Duras tại trường nội trú trên bất cứ một tấm bản đồ nào, tôi quyết định lần theo dấu chân của Duras trên đất Sài Gòn.

Khi hoàng hôn buông xuống, chợ đêm ở góc đường Nguyễn Trãi và Phùng Hưng bắt đầu nhộn nhịp. Bắt mắt nhất là những hàng vịt quay đầy hấp dẫn. Thế nhưng tôi vẫn muốn thưởng thức một bữa ăn mang phong cách Duras. Cảnh bữa ăn tối nổi tiếng nhất trong phim Người tình diễn ra tại một nhà hàng Trung Hoa sang trọng - nơi những người anh em của Duras say mèm với Martell và Perrier, rồi sau đó lại tảng lờ và sỉ nhục chàng trai Trung Hoa dù rốt cuộc Người tình chính là kẻ thanh toán hóa đơn.


Ngôi nhà ở Sa Đéc - nơi gia đình Duras từng sống. (The New York Times)

… Bắc qua sông Me Kong giờ đây là cầu Mỹ Thuận to lớn, biến bến phà xưa, nơi Marguerite và người tình gặp nhau, trở thành một dấu tích của quá vãng. Từ đây, một con đường gập ghềnh, xung quanh lác đác những nhà máy gạch sẽ dẫn chúng ta đến Sa Đéc.

Sa Đéc ngày nay có số dân khoảng 96.000. Thành phố nằm giữa hai bờ sông Me Kong với hệ thống kênh đào và những chiếc cầu hình cánh cung đủ các kích cỡ. Chúng tôi nghỉ tại khách sạn Bông Hồng. Tôi và Sita [1] thuê hai phòng riêng biệt. Trong khi Chiến [2] tranh thủ lau chùi chiếc Citroën đầy bụi sau một chuyến đi dài, chúng tôi đã cùng nhau bàn bạc về mục tiêu tiếp theo của mình: Làm thế nào để tìm thấy ngôi nhà của người đàn ông Trung Hoa giàu có kia. Người dân nơi đây không ai chỉ cho chúng tôi câu trả lời rõ ràng nhưng họ đều biết người chúng tôi đang nói tới là Huynh Thuy Le (Huỳnh Thủy Lê) - nguyên mẫu nhân vật Người tình.

Tuy nhiên, bằng cách nào đó, chúng tôi vẫn tìm thấy ngôi biệt thự kiểu cũ, nơi được dùng làm ngôi nhà của gia đình Donnadieu [3] trong phim Người tình (ngôi nhà nay là trụ sở của Phòng giáo dục). Khi gặp một ngôi nhà thấp, mái lợp theo kiểu Trung Quốc giờ là trụ sở của Đội phòng chống ma túy, chúng tôi đã băn khoăn, liệu đây có phải là ngôi biệt thự “to lớn, có những bao lơn xanh nhìn ra phía sông Me Kong” của người tình Trung Hoa giàu có hay không. Nhưng những chủ nhân mới tỏ ra không mấy hứng thú trong việc tiếp chuyện chúng tôi.

Cuối cùng, chúng tôi tìm đến trường Tiểu học Trưng Vương - ngôi trường được coi là do người Pháp xây dựng. Nhưng thực tế thì nó không mang phong cách kiến trúc thời thực dân. Khi tôi và Sita lơ ngơ trong sân trường vắng lặng, một người đàn ông đang đứng trước cửa văn phòng lên tiếng gọi chúng tôi: "Bonjour!".

Ông Sang là một giáo viên tiếng Pháp tầm 60 tuổi, lịch sự và có phần rụt rè. Ông giải thích, ngôi trường này rất có thể từng do mẹ của Duras điều hành, nhưng không có gì chắc chắn về điều đó.

“Không có tài liệu nào cả”, ông nói, “Nhiều người cho rằng bà Donnadieu từng sống ở đây vì hiệu trưởng thường có một căn hộ cạnh trường để tiện theo dõi các hoạt động của nhà trường. Nhưng mọi thứ đã thay đổi, không ai biết chính xác nơi bà từng ở”.

Khi được hỏi về trụ sở của đội Phòng chống ma túy, ông Sang khẳng định, đó chắc chắn là ngôi biệt thự của người tình. Rồi ông đề nghị được làm hướng dẫn viên cho chúng tôi: “Ông và bạn ông là những người nước ngoài đến đất nước tôi, nên tôi có trách nhiệm dẫn hai người đi thăm thú đây đó”. Làm sao chúng tôi có thể từ chối sự nhiệt tình này.


Ngôi mộ người tình của Duras. (The New York Times)

Điểm dừng chân đầu tiên của 3 chúng tôi là khu mộ của Người tình và người vợ Trung Hoa của ông - một nơi rất gần khách sạn chúng tôi ở. Cạnh đó là hai ngôi mộ nữa, của bố mẹ Người tình - những người đã phản đối con trai mình cưới Duras.

Tiếp đó, ông Sang dẫn chúng tôi đến chùa Phước Hưng - một ngôi chùa xây dựng năm 1838, nơi về sau nhận được sự tài trợ khá lớn từ người tình. Bên trong gian thờ được trang trí khá công phu, có hai tấm hình. Ông Sang cho chúng tôi biết, đó là Huynh Thuy Le và vợ ông.

Người tình trong ảnh có vẻ như đã ở độ tuổi 70, gầy và hầu như hói nhưng vẫn giữ được nước da trắng đặc trưng của người dân phía Bắc Trung Hoa vốn đã hút hồn Duras. Liệu có chút nào đó sự nuối tiếc trong mắt ông? Nhiều năm sau cuộc tình lãng mạn của hai người, ông đã gọi điện sang Paris cho Duras và nói rằng ông sẽ không bao giờ hết yêu bà trong suốt quãng đời còn lại. Có thể điều này đã giải thích vì sao trong tấm ảnh, vợ ông trông rất đỗi buồn phiền.

Bên ngoài, những hạt mưa nhẹ bắt đầu rơi xuống, chúng tôi vội vã chạy ra xe. Chiến chở chúng tôi dọc theo con đường ẩm ướt. Chúng tôi chiêu đãi ông Sang một bữa ăn tối có thịt lợn ninh nhừ và canh cá nấu chua với bông điền điển. Sau đó, tôi và Sita trở về phòng mình trong khách sạn. Tôi có mang theo mình DVD bộ phim Người tình nhưng tôi không xem. Thay vào đó tôi xem Sin City và đi ngủ.

Hà Linh dịch

(Nguồn: The New York Times)
Users browsing this topic
Guest (2)
Forum Jump  
You cannot post new topics in this forum.
You cannot reply to topics in this forum.
You cannot delete your posts in this forum.
You cannot edit your posts in this forum.
You cannot create polls in this forum.
You cannot vote in polls in this forum.