Welcome Guest! To enable all features please Login or Register.

Notification

Icon
Error

TÙY BÚT NGUYỄN PHAN NGỌC AN
Nguyenphanan
#1 Posted : Wednesday, October 19, 2005 4:00:00 PM(UTC)
Nguyenphanan

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 536
Points: 0

TÙY BÚT

MƯA ĐÁ GIỮA ĐỜI

Chiều xuống chậm, những hàng cây cao vút đứng im lìm trơ trọi hai bên lối đi, ánh nắng vàng vọt cịn sĩt lại trên đồi cây, ngọn cỏ như reo vui theo từng nhịp bước chân nàng… Con đường về nhà vắng lặng, Trâm bước vội vàng như sợ màn đêm chụp phủ khơng gian, nàng sẽ vất vả biết chừng nào vì nàng biết đường về nhà cịn xa, ít ra cũng phải đến gần cây số nữa ! Nàng lo cho các con bơ vơ ở nhà, những chuyến hàng trơi chảy, suơng sẻ thì Trâm về nhà sớm để lo cho các con buổi cơm chiều, chuyến hàng này gặp rủi ro, bị thuế vụ tịch thu, tổng số tiền vốn của thuốc lá ngoại 555 và thuốc tây cũng khơng dưới 80 triệu ! Trâm thấy bước chân nặng nề đi khơng muốn nổi khi nghĩ tới số tiền bị mất kia, hồn cảnh khĩ khăn nàng tạo được số vốn đi buơn hàng chuyến này cũng khơng phải dễ dàng, Trâm đã phải xin mẹ bán đi 10 lượng vàng và chiếc xe PC 50 của nàng.
Từ ngày tập tểnh đi buơn hàng chuyến, Trâm cùng Hoa, cơ bạn thân thiết ở Phước Hải, là gố phụ cĩ hai con, chồng sĩ quan tử trận chiến trường Bình Long, Hoa về sống với mẹ cha nơi vùng biển quê nhà, Hoa cũng như Trâm chưa hề biết bán buơn nhưng nhờ lanh lẹ tháo vát cả hai đi thử vài chuyến, thấy trĩt lọt cĩ lời nên chuyến này dồn hết tiền vốn vào mua nhiều hàng, khơng ngờ tai họa ấp đến bất ngờ cho cả hai, mấy chuyến trước mình cho thằng lơ xe 50 ngàn, chuyến này lơ đãng quên cho tiền nĩ, cĩ lẽ vì thế mà nĩ phản thùng mình ! Càng nghĩ càng tức cho mình khơng chu đáo để ra nơng nỗi thế này, Hoa đã khĩc thật nhiều chiều nay và mắng Trâm đủ lời cay đắng…
Về đến nhà Trâm thấy các con chưa ăn cơm tối, ngồi ngồi hiên nhà chờ mẹ, nàng xĩt xa trong lịng ! Mọi lần nàng về là quà bánh cho các con, hơm nay khơng quà, khơng cịn đồng xu dính túi, Trâm như muốn chết cho xong, những ngày tới nàng phải làm sao đây ? Trâm khơng ăn cơm nổi nữa, nàng vào phịng nằm vật trên giường thở dài từng chập, từng chập…não nề !
Mẹ thấy nàng khơng đi buơn bán hai ngày liền, đốn gặp chuyện khơng may, mẹ gặng hỏi và khuyên Trâm đừng đi hàng chuyến nữa, Mẹ cho một số vốn buơn bán tại chỗ. Nhân dịp chợ nhà đang sửa sang, nàng đăng ký một sập bán vải đủ loại hàng nhập, hàng nội địa…Nhờ vào duyên buơn bán, Trâm mau chĩng phát đạt, hàng ngày nàng bán đến 12 giờ trưa là đã thâu được mấy thùng hàng vải nhập từ Mỹ về hoặc vải của cửa hàng nhà nước xuất ra. Trâm mang về Chợ Lớn bỏ mối bán sĩ rồi tự chọn những mặt hàng nhập thật lạ về bán lẻ trên sập của nàng – Hàng vải mua vào thì Trâm khơng kén chọn, bất cứ màu sắc dị kỳ, rằn ri, lập thể, cứ các chị chợ trời đưa chủ hàng vào là Trâm đưa tiền cị ngay khơng cần coi hàng như thế nào, hàng càng lạ lùng nàng bán càng độc quyền và giá cao vì khơng ai cĩ… Bởi vậy nàng cĩ hàng liên tục để mỗi ngày mỗi mang hàng lên Chợ Lớn bỏ sĩ và mua hàng mới về bán. Những bạn hàng xung quanh thấy Trâm luơn cĩ hàng lạ và bán rất chạy, lời gấp đơi vì khơng ai cĩ, họ nhắn các cơ đi bỏ hàng mua cho họ, ba hơm sau mới cĩ hàng bỏ cho họ thì Trâm đã đổi mặt hàng khác, cịn họ thì cả chục sập giống hàng nhau bán chẳng được lời, đơi lúc ế hàng loạt…
Thường thì Trâm sau khi lấy hàng xong, nàng đi xe Lam tại Chợ Lớn ra bến xe dù Hàng Xanh về nhà- Hơm đĩ Trâm ngồi ngồi cùng của chiếc xe Lam, hai giỏ vải lớn kẹp dưới chân, xe vừa lăn bánh, một tên gian dựt ngay sợi dây chuyền trên cổ Trâm, Trâm la lên nhưng ơng tài xế cứ chạy thẳng khơng ngừng lại. Trâm đành mất sợi dây chuyền 5 chỉ mới mua hơm sinh nhật nàng ! Một lần Trâm lấy hàng xong, trời cịn nắng nàng ghé mấy quán cĩc bên lề đường Hàm Nghi ăn tơ bún, nàng lật đật đứng dậy giữ chặt hai giỏ hàng dưới chân vì xung quanh Trâm cĩ ba thằng lưu manh bám sát để chuẩn bị dựt đồ. Một thằng dựt chiếc nĩn kết trên đầu Trâm, một thằng xấn tới dựt phăng sợi dây chuyền rồi thảy chuyền qua thằng kia chạy mất…dây chuyền đứt rớt lại cái mặt trái tim cẩm thạch, thằng khác thị tay xuống nhặt. Trâm nhanh tay chụp lại mặt cẩm thạch, trống ngực đánh loạn xạ, tay chân thì run lập cập, miệng la lớn “ quân lưu manh, tụi bay khơng biết tao là ai hay sao hả ? cơng an đâu, bắt cũ cơn đồ nĩ dám đụng tới bà, chúng nĩ muốn chết chắc” nàng nĩi bạo mồm để trấn an mình và để hù họa lũ cơn đồ may ra chúng nĩ sợ, tưởng nàng là thân nhân của “cốm” mà bỏ đi, nàng gĩi vội mặt cẩm thạch vào miếng giấy, thằng cịn lại bước tới “ chị để em gĩi hộ cho” Trâm nghiến răng “ đừng dỡ trị nữa con ạ, tao sẽ kêu cơng an bắt hết lũ bây ngay bây giờ” vừa nĩi nàng vừa nhanh chân kéo hai giỏ vải lên xích lơ máy chạy thốt ra vùng hiểm địa, thế là Trâm lại mất thêm sợi dây chuyền thứ hai…
Hai tuần sau đĩ, trong lúc bán hàng tại sập, khách bu quanh, người thì bảo lấy loại này cho xem, người thì bảo lấy loại kia cho xem, bà kia thì địi cho được khúc vải mĩc trên hàng dây trên cao, Trâm đứng lên lấy vải, tức thì tên đứng gần giỏ tiền sớt ngay cái bĩp tiền dày cộm của Trâm định trưa đi lấy hàng, Trâm mất cả hồn viá khơng bán buơn gì được nữa và khơng cịn tiền để đi lấy hàng Chợ Lớn như mọi lần…Khơng hiểu sao Trâm khơng bao giờ được bình yên, chỉ mấy ngày sau lại bị mất của nữa, cĩ lẽ bọn gian để ý thấy nàng bán chỉ một mình khơng người phụ, hàng vải thì nhiều nên chúng lưu ý nàng. Buổi sáng mới dọn hàng xong, một đám người ghé sập đứng bu quanh, Trâm cảnh giác tối đa, bỗng thằng nhỏ chừng 10 tuổi bảo “cơ làm rớt tiền kià” Trâm vội cúi xuống lượm tờ giấy 5000$ thì đám người đứng đàng trước mặt sập vải đã cưỡm đi của nàng gần 10 sấp vải nhập – Trâm tức tối khi rõ ra hành động thằng bé là chim mồi hy sinh 5000$ để đồng bọn vớt được mấy trăm ngàn chia nhau – tâm hồn Trâm rã rời, của cải mất như cơm bữa, buơn bán khơn ngoan lời nhiều nhưng mất mát thì vơ số kể ! Cĩ một lần gom tiền đi lấy hàng, lên đến Sài Gịn Trâm chuyển qua xe Lam vào Chợ Lớn. Ngồi trên xe cĩ khoảng 6 người, ai cũng lom lom nhìn Trâm, nàng lo sợ vội lấy chiếc nĩn cĩ vành lớn đang đội trên đầu xuống che miệng giỏ đựng tiền mua hàng, bà ngồi cạnh nàng tự nhiên hát nho nhỏ rồi đẩy dần chiếc nĩn lá của bà xê dịch che kín chiếc giỏ lớn đựng bĩp tiền của Trâm, hai tay Trâm vẫn đè lên chiếc nĩn của mình và nĩn lá của bà đã ụp lên hai bàn tay Trâm – Bỗng Trâm thấy cái giỏ nhúc nhích, Trâm gạt phăng chiếc nĩn lá ra thì thấy tay bà rút vội từ trong giỏ Trâm ra, Trâm trừng mắt nhìn bà, bà tát cho Trâm một tát rồi chửi “ đồ ngu” xong bà nhảy xuống xe dơng mất, lần đĩ Trâm chưa mất tiền nhưng cứ thắc mắc sao bà ta tát mình rồi chửi mình ngu, lẩn quẩn khơng tìm ra câu giải đáp, Trâm vội vã lấy hàng rồi ra xe về – vẫn phải đi xe Lam vì nàng mang hai giỏ hàng lớn, ngồi trên xe đã cĩ sẵn 5 người đàn ơng lẫn đàn bà, họ đẩy cho nàng ngồi gần người đàn ơng ơm khư khư một mâm gì trước bụng, khi xe chuyển bánh được khoảng 5 phút, người đàn ơng mở mâm ra rồi lắc bầu cua, tài sỉu gì đĩ Trâm khơng rành, mấy người trên xe Lam ai cũng bỏ tiền ra đánh, kẻ ăn người thua, họ cố tình gài bẫy Trâm, xúi Trâm bỏ tiền ra đánh , Trâm từ nào giờ khơng cĩ máu cờ bạc nhưng khơng hiểu sao cũng mĩc tiền ra đánh, người thì cứ ngẩn ngẩn, ngơ ngơ khơng kềm chế được. Một lúc thì hết tiền, người đàn bà kế bên cũng hết tiền tháo đồng hồ ra đánh, bà ta cũng xúi Trâm tháo đồng hồ ra đánh, nhưng bỗng Trâm hồn hồn tỉnh táo lại và kêu bác tài “ xuống, xuống, tơi xuống đây” rồi kéo vội hai giỏ hàng nhanh xuống, đứng chờ xe xích lơ máy đến để đi tiếp vì thật ra chưa đến bến xe, Trâm sợ lũ quỷ ma này quá nên tìm cách xuống xe mà thơi ! Ai dè khi Trâm xuống là bọn mánh mung kia cũng xuống hết, đi tản mác hai bên lộ…thì ra một lũ lưu manh chuyên gạt người, Trâm vội vàng kêu ngay chiếc xe xích lơ máy vừa trờ tới mà khơng cần hỏi giá cả, chỉ mong tránh thật mau lũ người ghê gớm này, may mắn nàng cịn số tiền lẻ nhét trong túi quần Jean nên cĩ tiền trả xe xích lơ máy và tiền xe về nhà…
Một lần Trâm lấy hàng về, thường thường Trâm ăn mặc rất chải chuốt, nếu khơng thấy hai giỏ hàng vải ít ai biết nàng đi buơn, nàng mặc Jean, áo thun, đeo kiếng râm model – Khi chiếc xe đị nàng ngồi rời khỏi bến được 20 phút, khoảng chổ gần ra Thủ Đức, bỗng nhiên xe dừng cấp bách vì đàng trước hai tên lạ mang súng mặc quân phục rằn ri đứng chận xe lại. Mọi người trên xe đã biết việc sẽ xãy ra, vì thời gian đĩ khách đi xe bị cướp bĩc rất nhiều, Trâm cũng biết lũ này sẽ lên xe cướp của, tiền hành khách , trên xe khoảng trên 50 hành khách ngồi im thin thít, mặc cho chúng đến từng người một bảo cĩ bao nhiêu tiền đem ra ủng hộ thương binh, ai cũng riu ríu trút hết tiền trong túi hoặc trong bĩp đưa cho họ. Trâm thì khơng, nàng rất ghét bọn cướp cạn này nên dửng dưng khi chúng đến trước mặt bảo “tiền đâu” Trâm trả lời “ khơng cĩ tiền”, tên cao gầy đánh thẳng vào mắt Trâm văng bể cặp mắt kiếng râm vì chắc nĩ thấy Trâm xấc đeo kính trước mặt nĩ, chưa yên, nĩ nĩi lần nữa, Trâm vẫn trả lời “ khơng cịn tiền” người hành khách ngồi bên run rẫy nhắc Trâm “ chị đưa tiền đi, khơng thì chết cả lũ đĩ”, Trâm trừng mắt nhìn tên cướp cạn, quyết khơng đưa tiền, khơng hiểu sao lúc đĩ nàng khơng sợ gì cả, chỉ cĩ thù ghét chúng mà thơi…thằng cao gầy đưa mũi súng dí ngay vào trán Trâm định bĩp cị, bác tài xế chạy lại năn nỉ van xin, nĩ chưa buơng súng xuống thì thằng mập lùn kia đã mĩc trái lựu đạn ra toan ném vào Trâm…Tình thế quá găng Trâm đành phải mĩc chiếc bĩp ra đưa hết tiền cịn lại cho nĩ, hai thằng mới chịu xuống xe để cho xe chạy. Nghĩ lại mà ớn ĩc nổi da gà, suýt chút nữa đi chầu diêm dương mà chẳng rõ bao nhiêu người cùng đi vì súng bắn cĩ thể chết lây nhưng lựu đạn là chắc chắn tiêu hao nhân mạng khơng ít. Về tới nhà Trâm mới biết mình cịn sống, nàng cĩ tính gan lì bướng bỉnh đâu sợ điều gì, ngay khi cịn sống chung với ơng xã, nàng đã từng mang súng loại thật nhỏ lận trong lưng lên phi cơ đi ra chỗ ơng xã đĩng quân – Khơng phải nàng mang súng theo để hăm dọa chồng mà nàng làm như thế là vì lệnh của ơng chồng nhờ nàng mang đến cho chàng cây súng chiến lợi phẩm chàng đã thu được từ tay quân giặc – Lúc ấy chiến tranh lan tràn, đi phi cơ bị kiểm sốt gắt gao, Trâm đã bị xét hai trạm phi cơ dừng, tưởng đã bị lộ… Bây giờ gặp việc tai ương này, Trâm nhớ lại chuyện xưa mà rùng mình, quân đội mà xét được súng trong người Trâm thì chắc chắn Trâm bị bắt và khơng chừng bị bắn nữa là khác, làm sao khơng bị tình nghi là nữ cán bộ Cộng Sản ! Nhớ lại mà tốt mồ hơi lạnh, tại Trâm mang trong người dịng máu liều khơng biết của cha hay của mẹ, mà mấy phen tưởng tiêu tán đường rồi !
Cách bảy tám năm về trước, Trâm khơng nhớ rõ lắm, chỉ biết là thời kỳ Cộng Hịa, đất nước chưa bị Cộng Sản chiếm, Trâm đi xe đị từ tỉnh Bình Tuy về…dọc đường gặp mấy anh Cộng Sản, thời đĩ Trâm chưa từng biết Việt Cộng ra sao, nàng run bắn cả người, trên xe hầu hết là đàn bà con nít, đàn ơng chỉ vài người – Mấy ơng VC đuổi mọi người xuống xe, leo lên xe xét đồ đạc và xét hành lý cá nhân của mỗi người, khi xét đến Trâm, họ cĩ vẻ nghi ngờ nàng là thân nhân của Cộng Hịa, xốc tận đáy giỏ và họ đã nhìn thấy 2 bộ đồ trận của chồng nàng cịn mang nguyên bảng tên thêu trên nắp túi, ơng xã của Trâm cĩ cái tên thật lạ lùng mà cĩ lẽ khơng bao giờ cĩ ai trùng tên được, bởi vậy nhiều người nghe tên cứ tưởng người ngoại quốc hay người Nùng, ít ai nghĩ là người Việt Nam…Họ lừ mắt nhìn Trâm và đã chắc chắn nàng là kẻ thù rồi, họ đọc tên trên túi áo thì đã biết ngay là tên ác ơn Mỹ ngụy mà chúng đã treo chiếc đầu 500.000$ nếu ai bắt sống được ! Trâm chết điếng khi bị phát giác 2 bộ đồ lính của chồng, nàng khơng cịn biết phải làm sao thốt hiểm nguy, tên VC đưa súng dí vào mặt nàng nĩi “ chồng bà là nợ máu của nhân dân, bà phải gọi chồng bà về quy hồi với cách mạng, nếu khơng tơi bắn chết bà” rồi hắn cho xe chạy, giữ lại một mình Trâm ! Hắn nĩi tiếp “ chúng tơi phải kỷ luật bà, cho bà thấy cái sai trái phản động của chồng bà”…Ba tên VC đang loay quay người xách giỏ của Trâm, người thì quản thúc Trâm, người thì chĩa súng sau lưng Trâm, bỗng một chiếc xe GMC trờ tới, trên xe tồn là lính, chiếc xe từ từ chạy tới gần, khi đã nhận rõ là kẻ địch, ba tên VC bỏ chạy, đạn của quân đội bắn theo sau, Trâm một phen thốt chết vào tay VC – Nàng đứng tại chỗ khơng nhúc nhích vì nếu chạy biết đâu sẽ trúng đạn, nàng dơ hai tay lên trời kêu cứu và bước từng bước chậm đến gần chiếc xe GMC, họ đỡ nàng lên xe, thế là Trâm đã được cứu sống, trên đường xe chạy nàng cho các anh chiến sĩ biết nguyên nhân họ bắt nàng và kết luận “ người về từ cõi chết” !
Ngày qua ngày, cuộc sống của Trâm khơng may mắn như mọi người, cĩ lẽ kiếp trước nàng gieo quá nhiều ác nghiệp nên kiếp này chẳng đặng bình an suơng sẻ, về buơn bán thì Trâm rất giỏi, nhưng họa tai thì nàng lãnh quá nhiều, một lần nọ nàng đang ngồi bán trên sập vải, khách mua hàng là một người đàn bà trạc tuổi 50, bà mua liền 3 xấp vải nhập khơng cần trả giá, kiểu cách là dân sộp giàu cĩ để làm quen nàng, hơm sau bà lại đến ngồi tại sập lân la chuyện trị, bàn việc mua bán vải lấy từ nhà kho xuất ra, lúc ấy vải của nhà nước xuất ra tồn là vải teteron trắng và màu, vải quần tây màu xanh dương, Trâm đã từng mua thường xuyên của cửa hàng đem về Chợ Lớn bỏ sĩ nhưng khơng được mua nhiều, nay bà này nĩi nghe hấp dẫn quá, y như bà là vợ cán bộ lớn khơng bằng…Trâm dọn hàng về sớm thu gom tất cả tiền mặt và bán thêm 3 cây vàng lá để đủ số yêu cầu bà ta đã nĩi mua hàng vải xuất khẩu. Trên đường đến cơ sở mua hàng, Trâm luơn luơn lo lắng khơng yên trong dạ, nhưng thơi một liều ba bảy cũng liều, bệnh liều đã ngự trị tim ĩc nàng từ tấm bé, đến cửa cơ sở bà ta bảo Trâm đưa tiền để bà vào làm thủ tục mua vì chỉ cĩ bà mới được quyền mua và đường dây của bà nên Trâm vào sẽ mua khơng được, họ sợ bể khơng dám bán…Đành vậy, Trâm ở ngồi xe chờ. Độ một tiếng sau bà trở ra bảo là “ngày mai mới cĩ hàng, chị em mình về chiều mai ra lấy hàng”. Chiều hơm sau bà đến sập vải gọi Trâm đi, lịng Trâm đang như lên cơn lửa bỏng, gặp bà Trâm mừng quá, vội giao hàng cho đứa cháu gái đi ngay với bà, bà khơng đưa nàng đến chỗ mua vải của cửa hàng mà lại đưa nàng đến một nơi khác bảo là nhà bà vợ Trung Tá Thủy Sản, Trâm ngạc nhiên thì bà đã nĩi :
- Số tiền mua vải chị đã bán sĩ liền, lời được hơn hai triệu, chị bỏ vào mua vi cá luơn rồi, đây là nhà bà Trung Tá Tồn bán vi cá cho mình đây.
- Vi cá gì…Trâm tức mình gằn giọng – Sao chị khơng cho tơi biết gì cả, tơi chỉ cần mua vải vì đĩ là nghề của tơi, cịn vi cá tơi khơng hề biết, lỡ đồ dỏm thì làm sao ?
- Khơng cĩ đâu em, chỗ này quen lớn, khơng bán đồ dỏm cho mình đâu, em tin chị đi…Bà ta trả lời và vuốt vuốt vai Trâm cho nàng yên tâm.
Nĩi xong bà dẫn Trâm vào trong sân nhà bà Tồn, bà chỉ tay vào một đống bao bố chất đầy trên sân cũng khoảng mười mấy bao 50 kg – bà vào trong nĩi gì với chủ nhà và trở ra nĩi với Trâm :
- Hàng vi cá của mình đĩ, em kêu xe chở đi.
Trâm nghe mùi hơi nồng nặc xung quanh những cái bao tải, nàng đến gần vạch ra xem, thấy tồn là cá vửa, cá hư, hơi rình…Trâm hỏi bà mà muốn nghẹn :
- Vi cá gì mà chị nĩi vi cá, tồn là cá thúi, cá hư chị cĩ thấy khơng ? thơi chị gạt tơi rồi ! Trâm nĩi mà nghẹn ngào muốn khĩc !
- Khơng đâu em, vi cá mắc lắm, làm sao cĩ nhiều, chị cho nhét bên trong làm nhưn, bên ngồi ngụy trang cá thúi mới qua mắt bọn thuế vụ cơng an được chứ, bà trả lời thật nhanh với nàng – em kêu xe chở gấp đi về Sài Gịn bán ngay bây giờ.
Trâm cứng họng, bán tín bán nghi nhưng cũng phải kêu xe chở vì vốn liếng nàng hiểu ra là tồn bộ của nàng, nàng lại phải trả tiền xe chở là 120.000 về Sài Gịn. Đi được khoảng hai cây số thì trời đã chạng vạng tối, bà lại bảo :
- Trời tối rồi khơng thể mang lên Sài Gịn ban đêm, khơng cĩ bạn hàng mua đâu, em chở về nhà em đi, sáng mai mình chở về Sài Gịn mới bán được…
Trâm tức giận nhưng biết khơng làm gì được bà ta, đành cho hàng xuống nhà mình, chất chật cả khuơn sân, bà đi về Bến Súc ngủ và nĩi ngày mai sẽ tới sớm cùng đi…
Độ 10 giờ đêm Cơng An tuần tra đi ngang thấy các bao chất trong sân, gõ cửa hạch hỏi: Thứ gì trong đĩ? Trâm nhanh nhẩu “ cá khơ thúi chứ thứ gì, bà chị ở Phước Hải mang gởi sáng chở đi bán cho heo ăn” Tên Cơng An nĩi “ khơng biết là cái gì, phải đĩng thuế thơi chị ạ ! 50 ngàn và đây là biên bản đĩng thuế của chị”, thế là Trâm lại mất thêm 50 ngàn cho thuế má, chao ơi là khổ !
Sáng ra nàng dậy thật sớm vì lo lắng suy nghĩ cả đêm thao thức khơng ngủ được, ra sân nhìn vào các bao tải, ơi thơi, dịi ở trong bao bị ra ngồi nhun nhúc thấy rợn người, Trâm đang quýnh quáng thì bà đến, Trâm túm cổ áo bà làm dữ :
- Bà gạt tơi, mau trả tiền lại cho tơi, cả thảy tơi đưa cho bà là 38 triệu, nếu bà khơng trả tơi kêu Cơng An bắt bà ngay lập tức.
- Khoan đã em, chị nĩi là hàng vi cá thật mà, chở lên Sài Gịn em sẽ thấy, bị vì cá hư nên cĩ dịi thơi, chị đâu cĩ gạt em – bà khẩn khoản nĩi với vẻ mặt khổ sở…
- Lấy gì làm tin đây – Trâm nĩi nhanh – Căn cước của bà đâu, đưa đây làm tin, mau lên ! Bà chần chờ chưa chịu đưa căn cước, Trâm buộc bà phải ghi vào tờ giấy nợ số tiền 38 triệu bà nợ Trâm và giữ căn cước của bà.
Lại kêu xe chở về Sài Gịn và lại là Trâm trả tiền vì lúc nào bà cũng nĩi khơng cịn tiền vì đã bỏ ra mua hàng chung với Trâm, thế là Trâm lại mĩc túi ra trả tiền 3 chiếc ba bánh chở ra lộ cái là 45 ngàn, bà nĩi hàng lậu khơng thể chở ra bến xe…Trâm hồn tồn bị động mọi sự việc, nàng tức giận mình ngu muội nghe lời con mẹ trời đánh này, phĩng lao phải theo lao, nàng phải bỏ buổi chợ bán vải để đi bán cá thúi với hy vọng vi cá nằm ẩn bên trong làm nhưn ! Trâm ăn mặc sang trọng vậy mà phải phụ bà và mấy thằng lơ khiêng các bao tải đưa lên mui xe cấp bách vì sợ thuế vụ cơng an đến. Những giọt nước hơi rình, thúi quắc rớt xuống mặt Trâm, tĩc Trâm và quần áo của Trâm…nàng nghe như mình mẩy thúi oang một mùi muốn ĩi, khơng dám ngồi lên ghế sợ người kế bên chửi đành đứng tuốt đàng sau đít xe mà nghe người như nhảy tưng tưng từng khúc đường ổ gà lồi lõm !
Lại thêm 120 ngàn tiền hai người và 13 bao cá, cũng là Trâm thơi, ngao ngán nàng thở dài chán nản – Đến Hàng Xanh lại một phen thuê 3 xe xích lơ máy chở vào Chợ Lớn “ chúng tơi tính rẻ là 60 ngàn” lại 60 ngàn, Trâm lẩm bẩm mĩc tiền đưa mà nghe trong bụng cồn cào vừa ngẩn ngơ vừa đĩi bụng, đêm qua nàng tức con mẹ phù thủy này thành ra no cành hơng khơng ăn cơm tối, cái mặt con mẹ giống phù thủy thật, lại thêm cái cổ nổi cục bứu to tướng ở giữa cổ, chắc là hậu quả của cuộc sống lừa đảo gạt người đây ? Trâm nghĩ vậy nhưng lại an ủi mình, hãy rán chờ đợi kết quả, chỉ hai mươi phút nữa thơi sẽ rõ bộ mặt thật của bà ta ?
Vào đến Chợ Lớn bà te te đi nĩi chuyện nhỏ to với mấy mụ bán cá, bỏ mặc Trâm giữ hàng, khi họ đổ cá ra thì chẳng thấy một con vi cá nào cả, Trâm chết điếng, biết làm sao đây ? chạy vội lại nắm áo bà ta, Trâm la lớn” bớ cơng an, bắt con mẹ cướp của lừa đảo, bớ cơng an” bà nhanh nhẩu tháo sợi dây chuyền thật to khoảng 10 lượng mà Trâm vẫn thấy bà đeo trên cổ từ khi quen biết bà, bà gĩi vội vào mảnh giấy đã cĩ sẵn đưa cho Trâm và nĩi “ đừng kêu cơng an em, chị đưa tạm cho em sợi dây chuyền 10 lượng này em giữ làm tin, về nhà chị mang tiền qua trả lại cho em”, bà đưa vội vào tay Trâm rồi chạy biến vào chỗ đơng người mất dạng. Trâm hoảng hốt khi trên tay sợi dây chuyền nhẹ tưng như cầm cục kẹo thật nhỏ, “trời ơi…đại gian ác, đưa đồ giả, trời ơi…đại gian ác” nàng tung mình chạy theo nhưng bà ta đã biến mất, khơng cịn cách nào khác nàng ra chỗ mấy mụ mua cá lấy lại chút tiền cịm cá thúi thì mấy mụ trả lời “ bà Huệ lấy tiền xong rồi” ơi trời ơi, bà ta lấy trước tiền cá thúi, mưu mơ chưa từng thấy trong xã hội lồi người, Trâm nặng nề bước đi ra khỏi khu chợ hơi thúi, lặng lẽ buồn cho số phận khơng may, miệng lầm bầm “ đại nạn, đại nạn”.
Một tuần sau rồi một tháng sau cũng chẳng thấy bà ta trở lại sập vải của nàng, Trâm tức lồng lộn lên chỉ muốn tìm cho ra bà mà xẻ thành trăm mảnh mới hả cơn hận thù chất chứa trong lịng nàng, nàng đi báo với Cơng An Huyện và trình cho họ tờ giấy nợ cùng căn cước của bà ta mà nàng đang giữ. Ngay trưa hơm sau Cơng An hình sự theo Trâm đến Bến Súc, nơi bà ta hay đi qua lại – Cơng An và Trâm đã phát hiện ra bà và bắt đem về trại giam, khi bắt bà họ xét trong giỏ xách thấy một tấm hình của Trâm lúc bà rủ sang nhà bà chơi rồi bà chụp lén tại vườn cây trái sau hè nhà, một chai gì nhỏ cĩ nước màu vàng ở bên trong giống như chai dầu thơm, một chùm chỉ đủ màu sắc…Trâm thầm nghĩ, cĩ lẽ đây là bùa ngãi gì mà bà ta đã ân sũng dành cho nàng vì cĩ tấm hình mặt mũi của nàng, tha hồ mà lung lạc nàng…
Bà bị giam được hơn tuần lễ thì Trâm cĩ giấy mời lên đồn Cơng An hình sự chỗ giam bà để giải quyết, người trưởng Cơng An mời Trâm ngồi rồi nĩi rằng “ Tơi nghĩ đây là chuyện cá nhân với nhau, nếu chị khơng muốn dàn xếp ổn thỏa với nhau mà cần nhờ đến pháp luật thì yêu cầu chị đưa giấy chứng minh của bà Huệ để chúng tơi làm việc” Trâm khơng cần suy nghĩ đưa ngay tấm căn cước của mụ ta cho ơng cơng an, ơng ta cầm xong hẹn Trâm thứ hai tuần sau trở lại gặp ơng ta – Trâm được biết người trưởng Cơng An hình sự này tên là Đức.
Thứ hai tuần sau Trâm đến gặp Đức, ngồi đợi mãi cũng khơng thấy bà Huệ xuất hiện để làm việc với cơng an – Trâm địi phải cho gặp mặt bà ta, ơng Đức trả lời :
- Bà ấy xin tơi về thăm nhà, ba hơm trở lại, cĩ lẽ ngày mai bà ấy mới cĩ mặt, vì đi mới hai hơm.
- Thưa ơng, nếu vậy ngày mai tơi đến, mong ơng xử lý đúng với luật pháp và lương tâm , xin ơng trả lại tơi giấy chứng minh của bà Huệ và tờ giấy nợ, mai tơi sẽ cầm lên làm việc…Trâm nĩi với Đức, trưởng Cơng An hình sự của Huyện.
- Bà ấy mượn tơi giấy chứng minh để đi đường, nên tơi đã cho bà ấy mượn, chị thơng cảm vậy, ngày mai chị lấy cũng được, Đức trả lời Trâm như thế !
- Trời ơi, ở tù cha sao vậy ơng, ở tù mà cịn đi phép, cịn được lấy lại giấy tờ tùy thân ! tơi nĩi cho ơng biết, nếu vụ này khơng xử lý nghiêm minh, bao che tội phạm, tơi sẽ thưa luơn cả ơng đĩ…Trâm nĩi với sắc mặt giận dữ, đùng đùng bước ra khỏi đồn hình sự mà nghe trong lịng bất mãn tên Đức đến cùng độ…
Ngày mai Trâm đến, tên Đức tránh mặt khơng tiếp nàng, cho người phụ tá tiếp và bảo là ơng Đức bị bệnh – Trâm thừa hiểu những gì bí ẩn bên trong, nàng bỏ về và đưa đơn thưa nội vụ lên Tịa Án tỉnh.
Mãi gần một năm sau nội vụ mới được xét xử – Khi ra đối chất trước Tịa Án Tỉnh nàng mới biết khơng phải một mình Trâm là nguyên đơn mà cịn hai người nữa, đĩ là bà Trung Tá Tồn và bà mẹ của cơ Oanh, người ở chung trại giam với bà Huệ về tội vượt biên bị bắt – Trâm vẫn là người đứng đầu nguyên đơn vì nàng bị mất số tiền lớn hơn những người kia – Trong lúc chờ giờ xử lý Trâm hỏi thăm hai người đàn bà kia mới hay tự sự đáng sợ của bà Huệ – Bà ta gạt luơn tiền cá khơ của bà Tồn nhiều chuyến lên đến 15 triệu, tệ hại hơn là khi bà ta ở trong tù, ơng Đức cho đi phép đã hối lộ của bà ta 3 chỉ vàng, bà ta hẹn đi phép về sẽ giao cho ơng Đức, bởi thế ơng sẵn sàng giúp cho bà cả chứng minh đi cho dễ dàng thuận lợi – Trước khi đi phép bà dụ dỗ cơ Oanh cùng chung phịng giam rằng “ ngày mai chị được về phép một tuần thăm nhà, chị sẽ mua quà vào cho em…mà này chị thấy em cĩ chiếc áo thêu con rồng đẹp quá, em cho chị mượn mặc ít hơm xí xọn đi Sài Gịn thăm bà con được khơng ? cịn nhà em ở đường nào, cho chị địa chỉ chị ghé thăm biết tin tức gia đình em luơn thể”…
Oanh tưởng bà ta cĩ lịng tốt, biên địa chỉ số nhà và tên cha mẹ, cho bà mượn luơn chiếc áo màu tím thêu con rồng vàng trước ngực, nào ngờ đâu bà lợi dụng chiếc áo và địa chỉ do Oanh biên, bà đã đến gia đình làm tiền cha mẹ Oanh. Bà nĩi bà là vợ của ơng Thiếu úy Đức trưởng ban hình sự huyện, đến để lo cho cơ Oanh về theo ý của chồng và ý cơ Oanh, bà địi nhận trước 5 chỉ vàng, số cịn lại sẽ đến lấy sau khi cơ Oanh đã được về…và đây là chiếc áo của cơ Oanh, mang về làm tín hiệu cho hai bác, đây là chữ cơ Oanh viết để hai bác làm tin - Ơng bà cả tin vì thấy cĩ lý nên mất trắng 5 chỉ vàng – Trâm nghe hai người đàn bà kể mà rụng rời cả tay chân, đúng là “ lường gạt cĩ bằng cấp”. Đúng lúc ấy lệnh Tồ Án bắt đầu xử lý, bà Huệ đã ra đứng trước vành mĩng ngựa, Tồ tuyên án Hình Sự, lừa đảo phải giải quyết thỏa đáng…Đến giờ nghỉ án 10 phút, ba người nguyên đơn tỉnh bơ ngồi im với hy vọng tràn trề, bà Huệ rút vào trong chạy chọt thế nào mà sau khi trở lại việc xử lý đã đảo ngược, Tịa tuyên bố “ đây là việc buơn bán làm ăn cá nhân bị thua lỗ, khơng thuộc diện hình sự…nếu ai muốn bãi nại thì thơi, cịn ai muốn tiếp tục thì đĩng lệ phí cho Tịa Án 200 ngàn và gởi đơn qua hồ sơ dân sự”. Nghe tuyên bố quá bất ngờ, Trâm tái mặt chửi thầm “ cả một lũ ăn hối lộ, thật khơng ngờ” rồi khơng cần biết sự việc tiếp tục ra sao, nàng đứng dậy lớn tiếng trước mặt quan tồ “ Cơng lý pháp luật của các ơng như vậy đĩ hả ! Tồn bọn tham nhũng ăn hối lộ thối tha, tơi chẳng cịn gì để tin vào cơng lý và pháp luật của các ơng nữa” nĩi xong Trâm dừng lại xem phản ứng lũ quan tồ, họ im lặng và dường như xấu hổ, Trâm khơng sợ vì nàng khơng cĩ tội gì, ai dám làm gì nàng, nàng sẽ đưa nội vụ lên trung ương, khơng lẽ cả một chế độ khơng cịn lấy một người đại diện cơng lý nghiêm minh, sáng suốt…

Trời cuối thu xứ người sao u ám lạ thường, ngồi viết lại những trận mưa đá trong đời mình, Trâm nghe lịng như dâng lên nỗi nghẹn ngào ! Quê hương ta, nơi cho ta cuộc sống, nơi cho ta tình người mà cũng cho ta bao kỷ niệm thương đau, một đời ta dù lưu lạc mấy phương trời, chắc chắn ta cũng khơng bao giờ quên được những chứng tích đau thương đã xãy ra cho chính mình, Trâm viết ra sự thật mà chính nàng là nạn nhân, bởi vì như lão si thĩ Hà Thượng Nhân đã nĩi “ Viết văn, làm thơ trước hết là phải cĩ tài…đành thế, nhưng cĩ điều khĩ khăn hơn tài năng…là đừng bao giờ dễ dãi với chính mình nghĩa là chỉ viết những gì mà nếu khơng viết ra thì mình khơng yên ổn được, tức là phải cĩ những tâm sự, những cảnh ngộ thật cần phải nĩi ra, cần phải viết lại…Sự thành cơng chỉ đến với một tấm lịng chân thật và một sự say mê khơng giả tạo…” Những lời quý hĩa kia đã khiến tâm hồn Trâm thấy được niềm an ủi vơ biên và Trâm như cảm nhận được sự chia xẻ từ những tâm hồn yêu văn chương, yêu nguồn cội quê hương, tự nhiên nàng thấy nhẹ nhàng như vừa ký gởi được một tâm sự nặng nề bấy lâu chất chứa…những hình ảnh quê mẹ thân yêu cứ như đang ẩn hiện trước mắt nàng, những khĩm trúc, cây dừa, dịng sơng quê hương, căn nhà ấm cúng thuở nao với làn khĩi chiều êm ả, những cánh đồng bao la lúa chín vàng sẽ chẳng bao giờ phai mờ trong tâm trí…nhưng cịn…khối tình bao la sơng núi Việt, Trâm biết làm gì đây…để trả ơn cha mẹ, núi sơng, mộng ước lớn với vịng tay nhỏ bé, Trâm thở dài buồn bã…Đời con người ai cũng cĩ những ước mơ nhưng mấy ai thực hiện được, mấy ai đạt được hồi bão trong cuộc đời phù du tạm bợ này. Dưới ánh nắng nồng ấm xứ người Trâm thấy trong lịng ấm áp vì nơi đây, một đất nước văn minh, tự do, phú cường, một đất nước cĩ tấm tình bao la nhân ái đã cho dân tộc nàng và bản thân nàng cĩ cuộc sống ấm no hạnh phúc để chờ đợi một ngày thanh bình trên quê hương mẹ – Trâm như nhìn thấy những vạt nắng vàng rưcï rỡ nhảy múa reo vui trước mắt nàng …

NGOC AN 2005
Nguyenphanan
#2 Posted : Thursday, October 20, 2005 2:25:16 PM(UTC)
Nguyenphanan

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 536
Points: 0

Những ngày gai lửa
Hồi ký một chuyện thật của tác giả viết về trận chiến 30 - 4 – 1975

Hồi ký : Nguyen Phan Ngọc An

Ầm…ầm…Những tiếng nổ như long trời lở đất , nàng bồng vội con thơ chạy ra sân nhìn về hướng trước mặt, cả một vùng trời khói bay nghi ngút…Mới hôm qua nơi đây là một thành phố đẹp, hôm nay đã thành bãi chiến trường !
Thảo sống nơi đây cũng gần được ba năm, chồng nàng, một vị Quận Trưởng của Quận nầy, tuy gia đình không mấy gì hạnh phúc nhưng vợ chồng Thảo không để mất lòng một người dân. Sáng qua, có tin mật báo về, Tuấn, chồng nàng đã vào Quận ứng chiến suốt ngày đêm…
Giữa trưa hôm qua, một trận pháo kích tới tấp vào thành phố nầy, phá tan cuộc sống yên lành của người dân , phá tan bao mơ ước xây dựng cơ đồ sự nghiệp. Từng loạt dãy nhà sụp đổ tan hoang ! bao nhiêu người bị thương, bao nhiêu người đã chết ở ngoài kia…Thảo rùng mình lo sợ, nàng không thể hiểu được những gì xảy ra bên ngoài vì không còn ai dám bước ra khỏi nhà. Những căn nhà có hầm trú ẩn coi như tạm bình yên còn nhà Thảo không có hầm trú ẩn, Thảo biết làm sao đây ? Một thân nàng với bốn con thơ dại, Tuấn thì không thể về nhà trong giai đoạn này…sinh mạng mẹ con nàng như chỉ mành treo chuông …
Ngoài kia tiếng lao xao ầm ỉ, trên đường lộ hàng loạt người gánh gồng tị nạn, họ bất chấp những hiểm nguy, những đợt pháo kích giết người tàn khốc đang đổ trút xuống thành phố thân yêu một thời của họ. Thế còn Thảo …nàng phải làm sao ? nếu ở lì lại đây chắc gì đã sống ? còn dìu dắt bốn con thơ xông pha ngoài lửa đạn cũng chắc gì thoát được hiểm nguy ? thôi thì một phen liều mạng, Thảo không mang theo được một của cải gì ngoài chút tiền sẵn có trong túi áo. Chiến tranh đã làm Thảo đảo điên, nàng đã mất trọn số tiền lớn của kỳ thu nhập Câu lạc Bộ cuối tháng ba này. Hôm nay là 23 còn hai ngày nữa là đến kỳ phát lương của các Tiểu Đoàn…Chiến tranh tàn ác, chiến tranh dã man, giành giựt xâm chiếm để máu đồng loại đổ tuôn, để xác người cao hơn non núi, để thảm họa đói rách cho muôn người !
Thảo nghẹn ngào nhìn căn nhà lần cuối rồi kéo vội các con chạy theo đoàn người tỵ nạn, đứa nhỏ nhất còn ẵm trên tay. Đến giữa lộ, một tiếng nổ long trời, rồi hai tiếng, ba tiếng…bụi cát bay mịt mù, Thảo không còn trông thấy gì nữa… mấy mẹ con té nhào xuống lộ rồi kéo dìu nhau đứng dậy tiếp tục chạy.
Tiếng pháo kích như đuổi theo sau từng loạt, từng loạt nghe như xé cả không gian. Trước bước chân nàng bao xác nằm ngổn ngang, bao tiếng thét gào do hậu quả đợt pháo kích vừa qua, nàng thầm cầu nguyện Phật Trời thương tưởng, cứu nhân gian cứu cả mẹ con nàng thoát qua cơn lửa đạn…
Thảo chạy tấp vào căn nhà quen phía chợ khi bên tai nàng vẫn còn nghe tiếng depart của loại hỏa tiễn 122 giặc pháo tới. Đã bao năm sốg trong tiền đồn , quận lỵ nàng đã rành rọt như những người lính. Nàng cũng biết bắn súng, biết xử dụng lựu đạn, biết lái đủ loại xe trong quân đội và cũng biết các mật mã truyền tin nữa…
Lại một tràng pháo kích vang dậy đất trời, thế giới quanh nàng là bãi tha ma, là đất chết…biết lấy ai cứu mẹ con nàng trong cõi chết, nàng không còn lối thoát thân…
Thảo gục xuống nền gạch, đôi mắt chan hòa ngấn lệ! Nàng thương các con nàng, tuổi măng non nào có tội tình chi ! nàng muốn các con nàng được sống dù phải đánh đổi đi sinh mạng của nàng…Thảo nhìn các con mà không kềm được tiếng nấc nghẹn…
Tiếng pháo kích tạm ngưng vì đã 3 giờ sáng. Tiếng đập cửa thình lình vội vã, Thảo điếng người, tưởng họ đã xông vào nhà thì chỉ còn lên trời mà trốn…Dì Năm chủ nhà vội mở cửa, Tuấn hiện ra nơi cửa, bế xốc các con nàng bỏ lên xe thiết giáp, kéo vội Thảo lên xe phóng thẳng về hướng Quận lỵ, Thảo la to : Không được, không được, em và các con phải ra khỏi nơi này, hãy quay xe chở em ra hướng khác để đón xe đò thoát khỏi nơi đây, mau lên, mau lên …
Tuấn gạt phăng : Không còn lối ra nữa, chúng đã chận hết các nẻo đường, cứ tạm vào Quận rồi tính sau !
Tuấn đưa Thảo và các con xuống hầm tử thủ cuối cùng của Quận. Đường đi xuống ngoằn ngoèo sâu thẳm, ánh sáng chập chờn của những cây đèn pin không đủ rọi cho các con nàng, chúng té liên hồi trên những bậc tam cấp, khi xuống đến cuối hầm mẹ con nàng ngất xỉu…
Tiếng điện đàm vang vang làm Thảo giật mình choàng tỉnh, nàng đã rõ đây là nơi trú ẩn duy nhất cho mẹ con nàng. Xung quanh nàng là những người lính truyền tin làm việc không ngưng nghỉ với nét mặt nghiêm trọng khẩn cấp từng hồi. Bảy ngày đêâm dưới hầm trú ẩn Thảo chỉ biết thời gian qua chiếc đồng hồ đeo tay của nàng, mẹ con nàng tạm sống với những gói mì và những bịt gạo sấy… Qua ngày thứ tám Tuấn liên lạc được phi cơ tải thương để đem xác chết ra khỏi Quận lỵ, chàng vội dẫn mẹ con nàng ra khỏi hầm trú ẩn kéo lên xe Jâeep phóng nhanh ra cửa Quận. Tiếng depart của hỏa tiễn giặc vút lên, Tuấn đạp thắng gấp kéo tuột mẹ con nàng chạy vào ẩn nấp trong lô cốt tuần canh ngay cửa Quận . Địch pháo kích ngay phi trường, chiếc trực thăng vừa hạ cánh đã phải cất cánh lên ngay, những xác chết lại một lần thứ hai trúng miểng hỏa tiễn của giặc, những người lính hào hùng buông băng ca ngã quỵ tại phi trường…từ lổ chiến hào nhìn ra lòng Thảo đau lên từng đoạn, thương cho người chiến sĩ xã thân vì đất nước, giờ tử biệt không có một người thân bên cạnh, xác sưng phồng hôi thối không biết đến ngày nào mới được chôn cất mảnh xương tàn? Cuộc chiến tranh nồi da xáo thịt, anh em giòng họ giết nhau, cuộc chiến triền miên từ ngày Thảo mở mắt chào đời, nàng chưa thấy một ngày bình yên trên quê hương của nàng ?…
Tuấn đưa mẹ con nàng trở xuống hầm tử thủ, Thảo khóc nức nở, nàng không còn hy vọng gì về với mẹ cha…mẹ con nàng sẽ phải vùi thây đau đớn như những chiến binh đã bỏ xác giữa sa trường !
Sau một tiếng đồng hồ Tuấn bắt được liên lạc với phi cơ, chàng chuẩn bị sẵn cho vợ con một chiếc xe thiết giáp rồi kéo nhau đến tọa độ mới để phi cơ có thể đáp xuống an toàn. Một khu sân rộng đủ để máy bay hạ cánh. Bên kia những người lính đang khệ nệ khiêng ba chiếc băng ca của ba vị sĩ quan tử trận bó bằng ba lá cờ vàng ba sọc đỏ, xác để lâu ngày nên phồng to và có mùi hôi…Bên nay là mẹ con Thảo, Tuấn và hai chú lính trong tư thế sẵn sàng khi máy bay hạ cánh.
Tiếng phi cơ đến gần, Thảo hồi hộp từng giây, không biết bình yên hay tai họa nữa đây ? Loại tải thương H20 trên cao thẳng xuống và lên thẳng vội vàng và cấp bách vì sợ địch khám phá mục tiêu. Bên kia thảy ba xác chết lên phi cơ, Tuấn và hai chú lính liệng nàng và các con nàng lên phi cơ, nàng và các con ngồi trọn trên ba xác chết cứng đờ, bíu chặt vào những mảnh vải lá cờ để được sống vì phi cơ hai bên không có cửa…Máy bay lên thẳng ruột gan mẹ con nàng lộn nhào, một tay Thảo níu xác chết, một tay Thảo níu các con !
Véo ! véo ! véo… những âm thanh nghe rợn người, những đóm lửa bay tung tóe hai bên phi cơ, trước mắt nàng không gian cơ hồ sụp đổ ! trời ơi…ai cứu mẹ con tôi ! Phi cơ lên độ cao để tránh tầm đạn lửa của địch, tiếng đạn lửa rít xung quanh làm phi cơ chao đảo nhưng rồi viên phi công đã lấy lại bình tỉnh lái thoát ra vùng đạn lửa đang đuổi theo sau .
Thảo hoàn hồn, nàng lâm râm cảm ơn Thượng Đế, cảm ơn Trời Phật đã xót thương cứu độ mẹ con nàng qua cơn tai biến, nàng tưởng tượng mẹ con nàng vừa chết đi và sống lại nhờ vào phép nhiệm mầu của đất trời một kiếp đoái thương…
Phi cơ hạ cánh tại phi trường Tân Sơn Nhất, Sài Gòn vẫn tấp nập xe cộ vì tình hình nơi đây chưa đến hồi nguy ngập, mọi người chen chúc bán buôn tuy nhìn lên gương mặt ai cũng thoáng nét lo âu. Thảo cùng các con đón xe về Vũng Tàu nơi cha mẹ nàng cư ngụ.
Chiều chiều, nàng tựa cửa chờ mong tin tức Tuấn với cả sự nôn nóng lo âu, chợt sáng nay có tin chàng gọi về từ chiến trận. Thảo vội chạy đến điện đài của Tỉnh để nói chuyện với chồng. Đầu giây bên kia tiếng chàng thảng thốt :
- Em và các con vẫn còn sống đấy chứ ? Lạy trời cho đây là sự thật ! em biết không ? khi anh nhìn thấy những viên đạn lửa bắn theo máy bay anh không còn một hy vọng gì mẹ con em sống sót, anh quỳ xuống khóc ngất và liên tưởng ra những hình ảnh hãi hùng, anh tưởng em và các con đã chết cháy và không tìm được xác ! bây giờ anh yên tâm rồi, Quận đã mất , anh dẫn tàn quân đang tìm lối thoát thân về Tỉnh. Em yên tâm, anh vẫn mạnh.
Tuấn cúp phone ! Thảo bàng hoàng se sắt, cả cuộc đời nàng chưa bao giờ trải qua những kinh hoàng đến thế cũng chưa bao giờ thấy lo lắng xót xa và thương Tuấn như bây giờ, cầu xin cho chàng được bình yên để có ngày xum họp.
Đêm nay trời u ám lạ thường, cơn mưa thình lình trút xuống như thác đổ, đã buồn Thảo lại buồn thêm…phải chăng trời cũng xót thương nhân gian nên đẫm lệ ? phải chăng dân tộc Việt Nam đã đến buổi tương tàn ?…
Thảo nhìn vào khoảng không xa vắng, mới hôm nào cũng tại mái nhà nầy Thảo là một cô bé ngây thơ, bên mẹ cha dỗi hờn nũng nịu, tung tăng trong chiếc áo dài màu trắng học trò. Bây giờ, tay dắt tay bồng dạn dày sương gió, trải qua biết bao khủng khiếp của cuộc đời…một thiếu phụ tuổi đang xuân nhưng tâm hồn như già đi trước tuổi …
Ngoài hiên, mưa vẫn rơi tí tách không ngừng …Thảo dưa tay gạt đôi dòng lệ ! mưa khóc cho người hay mưa khóc đời ta ?!…
Nguyenphanan
#3 Posted : Friday, October 21, 2005 3:19:12 AM(UTC)
Nguyenphanan

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 536
Points: 0

Tùy Bút

NHỮNG CƠN BÃO TRONG ĐỜI
Viết tặng hiền huynh John Nguyễn


Rặng phi lao xào xạc…người đàn bà giật mình run rẩy, hơi lạnh từ biển bốc lên, toàn thân nàng co rúm lại với khí trời giá buốt đêm nay. Nàng nhìn đồng hồ, còn 20 phút nữa là đến giờ hẹn của Kiệt, chàng đã hứa là bỏ vợ con ở lại Việt Nam để vượt biên với nàng và hai con riêng của nàng.
Người đàn bà đó không ai xa lạ…cách đây gần mười năm, Viên Chi tên của nàng ! Viên Chi là một cô gái đẹp, dịu dàng, hiền hậu. Nàng làm việc cho một văn phòng hành chánh tại thị trấn…Rồi một dịp tình cờ Chi quen Hữu, một thanh niên độc thân, hiện là trưởng ban thâu nhận nhân viên của văn phòng người Mỹ tại đây. Hai người sau thời gian tìm hiểu đã yêu nhau chân thành và một đám cưới linh đình đã diễn ra sáu tháng sau đó.
Hữu đưa Chi vào làm việc chung sở với chàng, nhờ vào trí thông minh nên chỉ một thời gian học hỏi Chi đã nói tiếng Anh lưu loát và làm việc rất tích cực . Hữu một mực yêu thương vợ, chiều chuộng nàng bởi chàng là hiện thân của giai cấp văn minh mới – Chàng rất ga lăng và lịch sự với mọi người, nhất là đàn bà, con gái…Vì vậy bạn bè đã tặng cho chàng một biệt danh là H lập phương tức là Hữu hào hoa. Chàng quý trọng và hiếu thảo với mẹ cha hai bên, xem cha mẹ vợ như cha mẹ mình…bởi vậy chàng được cảm tình nồng hậu phía bên vợ thật nhiều.
Ngày nhập ngũ đã đến, Hữu cũng như bao thanh niên thời loạn, chàng phải lên đường tòng quân. Mẹ chàng, một người đàn bà phúc hậu tiễn chân chàng với những gói hành trang và thực phẩm thu xếp sẵn trước cả tuần cho con…nước mắt bà chan hòa trên đôi gò má nhăn nheo. Hữu hôn mẹ và vợ từ giã với hai giọt lệ vừa âm thầm rơi xuống ! Trời mỗi lúc mỗi tối…xung quanh chàng không còn một người thân yêu nào nữa…những anh em ngồi trên chuyến xe cũng một tâm trạng như chàng, họ lặng im và buồn bã. Chàng nghĩ tới Chi, chàng phải đi xa trong lúc Viên Chi vừa mang thai đứa con đầu lòng, một cấu tạo của tình yêu, một sợi giây thiêng liêng của tình nghĩa vợ chồng. Hữu thở dài ngao ngán…ngày mai sẽ ra sao ? đất nước chiến tranh người thanh niên không có quyền nghĩ đến hạnh phúc riêng tư nhưng ai cấm được nỗi đau đang trào dâng như sóng vỗ trong lòng ! chàng nhắm mắt lại để tự kềm chế cơn xúc động khi đoàn xe mỗi lúc một rời xa mái ấm thân yêu của chàng…
Ròng rã hai ngày đêm, đoàn xe chở quân nhân nhập ngũ đã đến điểm cuối để vào quân trường nhập khóa học. Những ngày đầu ai cũng ngại ngùng bỡ ngỡ với những kỷ luật khắc khe, quân phong, quân kỷ…Rồi thời gian cũng quen dần đi, Hữu bây giờ dạn dày sương nắng, da chàng đen sạm và vóc dáng trông rắn chắc khỏe mạnh hơn xưa nhiều . Cuộc sống quân ngũ bận rộn bù đầu không cho chàng có thời gian suy nghĩ nhiều về gia đình, có chăng là sau những giờ tập luyện về đêm, chàng thường ngồi thừ người hàng giờ mà không sao giỗ được giấc ngủ muộn màng!
Buổi sáng hôm nay, tất cả sinh viên sĩ quan mặt mày rạng rỡ, tóc tai cắt ngắn gọn gàng, nghiêm chỉnh trong bộ quân phục thẳng nếp…ai cũng quên hết những nhọc nhằn cơ cực của đời lính, bởi hôm nay có lệnh lần đầu cho thân nhân thăm viếng. Hữu cuống cả người lên khi nhìn thấy mẹ và vợ lên thăm chàng với những xách tay nặng trĩu thức ăn và quà bánh…Đời lính còn gì sung sướng hơn ? Hữu mĩm cười đắc ý hân hoan ôm mẹ và vợ hôn lấy hôn đề.
Ngày mãn khóa học đã đến, buổi lễ long trọng trang nghiêm. Hữu cũng như tất cả anh em cùng khóa được cấp chỉ huy gắn chiếc lon Chuẩn Úy lên cầu vai áo, đồng thanh tuyên thệ sống chết bảo vệ quê hương, hy sinh đến giọt máu cuối cùng cho tiền đồ tổ quốc. Hữu chọn đơn vị pháo binh nên được thuyên chuyển về sư đoàn 18 đơn vị 181 Pháo Binh đóng tại Long Khánh. Thỉnh thoảng Viên Chi ẵm con lên thăm chàng tại đơn vị mới. Đời sống chàng cảm thấy thú vị quá rồi còn dám mơ ước gì hơn ?
Thời gian trôi đi, tuổi lính cũng lên cao theo ngày tháng, Hữu bây giờ là Trung Úy Trung Đội Trưởng Pháo Binh, dưới tay chàng có 30 người Hạ Sĩ Quan và binh sĩ cùng 2 cây Đại Bác 105 vá 155 ly làm việc không ngưng nghỉ. Pháo đội của chàng đóng tại Gia Ray vùng đồng bằng tỉnh Long Khánh.
Một đêm kia được tin Viên Chi đang chuyển bụng sanh đứa con thứ 2 , Hữu tức tốc một mình lái chiếc xe Jeep về quê thăm vợ. Đường thì xa, đèo gốc gồ ghề, không gian âm u tĩnh mịch không có một âm thanh nào ngoài tiếng xe đang chạy của chàng. Hữu thoáng rùng mình lo ngại, dường như tâm linh báo cho chàng biết sẽ có việc chẳng lành…Chàng hồi hộp lạ thường, ngồi trên xe mà cứ muốn như bay bỗng cho mau đến nhà, chàng lo cho vợ gặp chuyện không may, ruột gan chàng nóng như lửa đốt !
Gần đến chân cầu đột nhiên có tiếng súng nổ rồi tiếp theo tiếng pháo kích ầm vang một góc rừng đêm tĩnh mịch, Hữu thắng gấp chiếc xe…Ầm ! trúng đạn pháo kích chiếc xe Jeep phát hỏa bốc cháy, Hữu vội vàng nhảy khỏi xe nhưng không còn kịp nữa ! bộ quân phục đang bị thần hỏa tấn công mảnh liệt , toàn thân chàng như ai xé, ai cắt từng mảnh thịt da, chàng cố chồm đến chiếc máy truyền tin khẩn cấp trên xe, nhưng nó đã bị cháy toàn bộ thống điện…Trong giờ phút tử sinh con người thường có nhân sinh quan bén nhạy, can đảm tột cùng bất chấp đớn đau, chàng lăn tròn trên cỏ bao nhiêu vòng đến khi ngọn lửa trên người tắt lịm và chàng cũng…lịm người đi !
Đoàn xe cứu thương đến…Hữu đã bất tỉnh không còn biết gì nữa…
Hữu định thần nhớ lại những gì xãy ra trong đêm qua, chàng cựa mình, toàn thân nhức buốt đớn đau, mở mắt ra chỉ thấy một màn đêm dày đặc…loáng thoáng bên tai chàng có những tiếng thầm thì rồi tiếng khóc ! Chàng đang ở đâu ? Chàng còn sống hay đã về thế giới bên kia, một thế giới lặng im miên viễn ! Còn tiếng khóc kia của loài người hay của những hồn hoang bất hạnh chốn a tỳ ? Hữu mở miệng nhưng không nói được…miệng chàng bị băng kín, trực giác bén nhạy cho chàng biết chàng còn sống và bị băng bó từ đầu đến chân…Rồi những tiếng lao xao ồn ào tiếp theo và Hữu thấy người bị nhấc bỗng lên và đặt xuống một vị trí khác, người ta đẩy chàng đi rất nhanh…Con ơi là con…con của tôi ! Trời ơi…anh ơi ! Tiếng của mẹ chàng, tiếng của vợ chàng ! Hữu bàng hoàng…làm sao cho người thân yêu biết rằng tôi còn sống ? Họ đã buộc chặt mắt miệng tôi, thân thể tôi. Hữu cố vẫy vùng nhưng chỉ làm chàng đau đớn hơn, chàng hiểu vết thương trên mình rất nặng…Hữu khe khẻ cầu nguyện ơn trên cho chàng được sống để báo đáp nghĩa sanh thành và tròn trách nhiệm với vợ dại con thơ.
Hai tháng nằm viện Hữu đã phục hồi sức khỏe, tuy gương mặt và thân thể vẫn loang lỗ những vết phỏng còn đỏ ửng. Ngày trở về đơn vị, ông Chỉ huy Trưởng và tất cả anh em Tiểu Đoàn 181 Pháo Binh tổ chức tiệc ăn mừng và tung hô Hữu là “ Người về từ cõi chết “.

Rồi chiến trận bùng nổ khắp nơi trên đất nước đau thương của chàng, Hữu cùng pháo đội di tản ra vùng biên giới để bảo vệ các tiền đồn. Chàng chỉ còn biết tin gia đình qua những bức thư do Viên Chi gửi đến không thường xuyên qua những người lính về phép thăm gia đình. Hàng ngày chàng chỉ nhìn thấy khói súng và xác người ngã gục…Một đêm kia, Hữu không sao ngủ được nằm xuống nhắm mắt lại là thấy hình ảnh Bích Phượng, đứa con gái đầu lòng xinh đẹp vừa lên 3 tuổi của chàng oằn oại trên vũng máu, chàng giật mình kinh hải…nhớ lại lời tiên đoán của một ông thầy người Miên ! Khi Viên Chi sinh ra Bích Phượng, cha chàng một mực yêu quý cháu nội và bắt ở với ông để ông chăm sóc, ông thương yêu cháu hơn tất cả mọi thứ trên đời. Một hôm ông thầy Người Miên tình cờ ghé vào nhà và đã nói : “ Ông cụ nên trả nó về cho cha mẹ nó nuôi, nếu không ông cụ sẽ là người giết chết nó và sau nầy khi tuổi già ông cụ không sống với con cái mà chỉ sống với người dưng “. Chỉ mấy lời rồi ông thầy lầm lủi bỏ đi, cả nhà đều cho rằng ông ta nói xàm nên không ai lưu ý, bây giờ…bỗng dưng Hữu bật dậy, một cảm giác sợ hãi khiến chàng nổi da gà…chàng vội vàng quay số điện thoại tổng đài để gọi về nhà. Đầu giây bên kia tiếng Viên Chi nức nở: “ Anh về được không ? Bích Phượng bị xe cán chết rồi ! chết chiều hôm qua” !
Hữu bàng hoàng đau đớn gục xuống nền nhà, đầu óc chàng quay cuồng hỗn loạn, thế là hết ! đứa con đầu lòng yêu quý của chàng đã không còn nữa !…
Ngoài trời mưa càng lúc càng lớn…những giọt rơi rơi như những mũi kim đâm xé tâm hồn người sĩ quan gan dạ. Trước kẻ thù chàng chưa hề nao núng, trước cái chết chàng không hề run sợ, mà bây giờ trước nỗi đau mất mát này, chàng đã khóc…chàng khóc thật nhiều thương tiếc đứa con yêu dấu ra đi không bao giờ trở lại nữa rồi ! Hữu nhắm nghiền đôi mắt lại để hình dung lần cuối cùng hình ảnh đứa con gái thân yêu, những dòng lệ cứ thi nhau tuôn tràn không dứt…
Ngày tháng trôi đi theo nỗi đau nhức buốt, cuộc chiến tranh Nam Bắc thì mỗi ngày một lan rộng trên khắp miền đất nước thân yêu…biết bao người con của Mẹ Việt Nam đã anh dũng hy sinh, biết bao kẻ đã vùi thây oan uổng vì trận chiến nồi da xáo thịt này ? Hữu may mắn vẫn bình yên sau những cuộc hành quân ác liệt với quân thù, pháo đội chàng đã di chuyển để yểm trợ khắp bốn vùng chiến thuật…
Sau những chiến công dài chàng được tưởng thưởng và chỉ huy một pháo đội vùng ven đô. Một đêm kia, một đêm bão tố kinh hoàng…tất cả mơ ước của chàng đều sụp đổ ! Chàng lặng lẽ sếp hàng ra trình diện đi học tập cải tạo và chàng được đưa đến vùng Suối Máu thuộc tỉnh Biên Hòa. Nơi đây chàng gặp rất đông chiến hữu…tất cả nhìn nhau trong tâm trạng nghẹn ngào câm lặng !
Hạ về thiêu đốt đời nam tử
Một nửa sơn hà xóa chí trai
Giấc mộng vá trời ôm bốn bể
Biển dâu hóa kiếp bậc anh tài…

Một thoáng tìm về giấc mộng xưa
Vườn thưa trong nắng, áo ai bay
Sao ta một cõi nhìn sông núi
Thương tiếc đời trai kiếp đọa đày !

Đớn đau cho giống nòi Hồng Lạc
Một cuộc trầm luân, cuộc bể dâu
Bao kẻ vùi thây trên đất mẹ
Rồng tiên một thuở ngậm thương sầu…

Chiến quốc ngàn năm soi dấu sử
Anh hùng máu đỏ ngập trường sa
Canh gà giục giã hồn trai Việt
Mơ bóng cờ vàng…dậy tiếng ca

Thân ta, cá chậu chim lồng
Chờ trông cánh nhạn phương đông mịt mù
Nghìn gian khó, kẻ tội tù
Thì thôi phó mặc phù du kiếp tằm
Viên Chi nàng chẳng đến thăm
Phải chăng tình nghĩa bao năm chẳng còn ?
Sóng lòng vỡ, ngọn sầu tuôn
Đất bằng biển động…điên cuồng thế nhân !

Nhân tình thế thái…Sau ngày Hữu vào trại tù đến nay, Viên chi chỉ đi cùng mẹ chàng và đứa em gái chàng đến thăm chàng được 3 lần rồi biền biệt trên một năm nay. Kinh nghiệm cuộc đời đã cho Hữu đoán được những gì xãy ra trong tình cảm Viên Chi ? Sợi giây oan trái cột chặt bước chân ! Hữu là kẻ tội tù không biết được ngày mai ? Hữu không dám hỏi han hay tìm hiểu mỗi khi mẹ và em gái lên thăm, vì sự thật sẽ làm Hữu đau lòng thêm mà thôi…
Bảy năm dài đằng đẳng trôi qua trong ngục tù kẻ chiến bại, những nỗi uất hờn cơ cực không bút mực nào tả xiết…thôi thì trời cao còn phải chịu những cơn giông bão, sấm sét xé không gian thì nhân thế, ôi làm sao tránh khỏi hình phạt của kiếp người ! Hữu thầm tưởng tượng nỗi đau này có lẽ là nỗi đau chung cả một dân tộc bị lưu đày từ tiền kiếp xa xưa mà ngày nay hậu quả phải gánh chịu…
Lê Nguyên Hữu.
Đang cuốc đất Hữu giật mình đánh thót, người cán bộ Cộng Sản cầm trên tay một tờ giấy và tiếp tục đọc tên…anh em nhìn nhau tái mặt không hiểu việc gì ? Sau khi đọc tên 11 người xong họ cho biết đã học tập cải tạo tốt và được trở về với gia đình. Hữu mừng chảy nước mắt, liệng vội cái cuốc vào bụi bước tới cảm ơn người cán bộ, lăng xăng chạy về trại thu dọn áo quần cho chuyến hồi quê sáng ngày mai.
Trên chuyến xe trở về quê cũ, chàng suy nghĩ miên man đến Viên Chi và thở dài áo não, nếu thật tình nàng đã phụ chàng thì còn gì chua chát hơn ! Những năm chung sống mặn nồng, trọn vẹn cho nhau, chàng chưa làm điều gì cho Viên Chi phật ý bởi chàng cưng quý vợ khó ai sánh kịp. Chưa bao giờ Hữu to tiếng với Viên Chi chớ đừng nói chi chuyện gây gỗ, đánh mắng…thì tại sao ? Viên Chi nỡ phản bội chàng ! Chàng cưng vợ đến nỗi lên xuống xe Jeep hoặc xe đò chàng luôn ẵm xuống không để nàng tự bước vào những khi thai nghén, bây giờ có lẽ nàng đang hạnh phúc bên người đàn ông khác, Hữu thấy xót xa trong lòng, chàng thương các con chàng không hiểu hiện giờ chúng sống ra sao ?
Về đến quê nhà chàng mới am tường cớ sự, vợ chàng đã bỏ nước ra đi từ năm 1977 mang theo đứa con gái thứ 2 và thằng út của chàng, bỏ lại hai đứa con gái giữa ở lại Việt Nam cho dì Bông là chị hai của Viên Chi nuôi dưỡng…chàng còn được biết rằng vợ chàng đã đi với nhân tình, trong lúc ông ta bỏ vợ con ở lại để vượt biên với vợ của chàng !
Số phận hẩm hiu, Hữu đem hai con về ở với chàng để bà nội và cô chăm sóc, chàng đã chịu vất vả trong đời sống mới tuy rằng gia đình chàng cũng khá giả. Hữu muốn sớm được trả quyền công dân nên chàng đã mua xe ba bánh đạp chở hàng cho con buôn, lúc không có hàng chở chàng đi theo các xe tải lớn khiêng những cây nước đá nặng nề. Nhờ lao động tốt và giao tế khéo chỉ 6 tháng sau chàng đã được trả quyền công dân. Từ đó ngày đêm Hữu âm thầm tìm cách quan hệ các ghe tàu và đã mua được một chiếc ghe Kubota xanh, chàng khôn ngoan tinh tế nên đã nghiễm nhiên đứng tên chủ tàu.
Hữu cho hai cháu ruột của chàng vào danh sách thuyền viên tuy rằng chúng còn rất nhỏ, còn hai con chàng vì là gái nên đành chịu không thể cho đứng tên trên tàu. Ba cậu cháu và hai thuyền viên ngày đêm đi đánh cá, bắt tôm che mắt mọi người và chính quyền, chỉ mong một ngày đoạt thành ý nguyện.
Vào một đêm không trăng, trời tối đen như mực, chàng tổ chức một cuộc vượt biển…trên ghe chỉ vỏn vẹn 5 người. Khi tấp vào bãi để đón hai con và vài người bạn chí thân thì mới hay tất cả đã bị bắt ! Chàng chỉ biết kêu trời và chết điếng trong lòng…chàng biết không thể trở về nhà vì cớ sự đã đổ bể và chàng sẽ trở vào tù không có ngày ra. Hữu dặn dò hai thuyền viên và hai cháu cho ghe vào núp trong miệng hang hai đáy để chàng tìm cách vào bờ lo liệu mọi việc…
Chiều hôm đó Hữu mượn xe Vespa của chị Bông phóng về nhà thăm dò tình hình, em gái Hữu đã chận chàng lại khi còn cách nhà 3 cây số và báo cho chàng biết những nguy hiểm sẽ xãy ra vì hiện giờ chính quyền đang theo dõi chàng chặt chẽ. Hữu ngỡ ngàng quay đầu xe mà lòng dâng lên một nỗi buồn vô hạn ! từ bây giờ tôi sẽ sống ra sao nếu tôi không thực hiện được ước nguyện vượt biển của mình ?
Hữu không còn cách nào khác hơn, chàng phải vượt biển ngay đêm nay. Chàng mướn ghe nhỏ để ra sông tìm ghe của chàng, ba ngày ròng rã không tìm thấy chiếc ghe, Hữu lo lắng vô cùng ! không biết điều gì đã xãy ra cho hai cháu và hai thuyền viên bởi vì chàng biết trên ghe không lương thực thuốc men hay nước uống gì cả, hoặc có thể ghe đã bị bắt ?
Khi thất vọng đè lên tột độ thì Nghĩa xuất hiện. Hữu mừng như vừa trúng số độc đắc, Nghĩa là thuyền viên trên ghe chàng, Nghĩa bất chấp hiểm nguy lội 5 cây số vào bờ tìm Hữu vì không có Hữu như rắn không đầu và bốn người trên ghe đã nhịn đói nhịn khát hai ngày qua. Khi Hữu hiểu vì sao tìm không gặp ghe mới rõ Nghĩa nghe lầm nên đợi chàng ở miệng hang ba đáy…anh em ôm nhau nghẹn ngào rơi lệ !
Tốc hành cho một chuyến vượt biển ngay đêm nay, em gái Hữu đã giúp chàng không ít, nhờ thế chàng có được bãi bến, lương thưcï và nhiên liệu ra đi…Đêm 30 tháng 6 năm 1983 âm lịch, một đêm giông tố bão bùng, đất trời nổi cơn thịnh nộ giương oai, chàng và các bạn phải vất vả lắm mới tiếp cận được ghe và âm thấm vượt biển trong bầu trời không có một vì sao…
Trời vẫn còn thương tưởng cho đoàn người tỵ nạn, không có người lái, không có hoa tiêu, Hữu đã làm tất cả công việc đó với hết sức cố gắng của mình trong hồi hộp tận cùng bởi chàng đâu phải lính Hải Quân, lính Thủy, chàng là lính Pháo Binh chỉ sống trên đất liền.
Sau nửa tháng chống chọi với phong ba, bão táp hiểm nguy giữa đại dương bao la, mấy phen tưởng đã làm mồi cho biển cả, cho cá sấu, cá mập…gặp qua 8 chiến hạm nước ngoài kêu gào thảm thiết họ vẫn dửng dưng không cứu vớt nhưng vẫn còn hồng ân hộ độ, chiếc thứ chín đã dừng lại cứu nguy vớt đoàn người lên chiến hạm đem về đảo Singapore tỵ nạn .
Ngày tháng trôi đi trong buồn bã chán chường, ba cậu cháu cũng quen dần với những gian lao thiếu thốn, với mì gói, đồ hộp qua ngày để mong được sớm vào Mỹ với diện quân nhân cải tạo. Nhờ vào tài tháo vát, trí thông minh Hữu đã nhận vai trò quan trọng tại đảo và giúp đỡ nhiều đồng hương tỵ nạn như chàng. Phần đông ai cũng thương mến Hữu nên cũng an ủi được phần nào tâm hồn kẻ lưu vong xa xứ…
Hữu nhớ lại lá thư Viên Chi đã viết cho chàng cách nay 6 tháng “ Em vẫn chờ anh và hai con” cũng vì bức thư đó đã thúc đẩy chàng liều lĩnh ra đi coi thường sinh mạng, bất chấp tội tù. Khi ở đảo liên lạc với Viên Chi rất khó khăn, nàng chỉ một lần gửi chút tiền và nhắn trong thư là hãy nhận nhau là anh em…Điều đó đủ cho Hữu hiểu những gì xãy ra trong cuộc sống hiện tại của vợ chàng ! Hữu đau đớn và chẳng màng cuộc tao phùng, chàng xin vào Mỹ cùng hai cháu và ngày ấy đã đến…
Ngoài trời từng đợt mưa rả rich, trong lòng như sóng vỗ từng cơn…đến Mỹ đã hơn tháng trời chẳng gặp mặt các con, gặp vợ chỉ thỉnh thoảng thăm hỏi trên phone mà thôi, Hữu hiểu tất cả và chàng chấp nhận số phận đã an bài. Chàng chịu khó chịu cực làm đủ mọi công việc vất vả để kiếm tiền 3 cậu cháu sống qua ngày, hai cháu chàng còn quá nhỏ nên chỉ đi học mà thôi. Hữu làm xe lunch, cắt cỏ, đi hái trái cây cho các farm và cuối cùng chàng cố tâm học hành lấy bằng cấp đi làm việc Bảo Hiểm – Thuế Vụ – Địa ốc và Du Lịch.
Một chiều kia Viên Chi báo tin sẽ bay qua thăm chàng, nàng không đến một mình mà với cả hai đứa con riêng của nàng và ông chồng sau, người đã đưa nàng đi vượt biển năm xưa…Viên Chi hối hận mong được sống lại với Hữu nhưng Hữu quyết tâm từ chối, chàng không thể làm một việc trái lương tâm để phá hạnh phúc người khác dù rằng hiện tại là kẻ đã cướp đi lẽ sống của đời chàng. Hữu khuyên Viên Chi trở về với chồng và các con, cố gắng chăm sóc các con chàng và nếu được hãy giao chúng cho chàng nuôi.
Tám năm dài lặng lẽ trôi qua, nơi đất khách quê người đã buồn Hữu lại càng buồn thêm. Chàng quyết định một chuyến về thăm quê hương, thăm cha mẹ. Chưa đi thì đã được tin mẹ mất ! Hữu cầm tờ điện tín trong tay mà chết lặng hồi lâu, tám năm dài vết thương tình còn đang rỉ máu chưa lành, giờ nhận thêm một vết chém ngang đầu ! Mẹ mất là chàng mất tất cả rồi, bầu trời hoa gấm thương yêu bao năm chàng ấp ủ ngày gặp lại, giờ chỉ còn trong ảo ảnh mà thôi ! Hữu tưởng như mình không còn khóc được nữa, nỗi đau đến tê liệt óc tim chàng. Đôi mắt Hữu hoa lên và chàng cảm thấy tối đen cả mặt mày…chứng bệnh tim đã trở lại với Hữu sau quá nhiều giai đoạn thương tâm của cuộc đời chàng !
Dù sao cũng phải về thăm mộ me, thăm cha già tuổi đã bát tuần, thăm hai đưÙa con gái thân yêu còn ở quê nhà tuy chàng đã làm giấy tờ bão lãnh từ lâu nhưng vẫn chưa được đoàn tụ. Hữu cũng làm giấy tờ bãọ cha sau khi mẹ mất, cha chàng học rộng biết nhiều hẵn ông rất vui lòng theo chàng đến Mỹ.Nhưng Hữu có ngờ đâu cha từ chối không đi, cha yêu thương mảnh đất quê hương, cha không muốn rời xa nơi chôn nhau cắt rốn…
Từ phi trường San Francisco Hữu đã thấy nôn nao trong dạ, chỉ hai mươi giờ nữa thôi Hữu có mặt trong mái ấm thân yêu bao năm xa cách dù biết rằng lòng đau như cắt khi hình ảnh mẹ chỉ còn trên bia đá mà thôi !
Sau một tháng về thăm quê Hữu quen với Loan, cô giáo dạy cắt may của hai đứa con gái chàng. Loan nhanh nhẹn bặt thiệp và đã đặt tình cảm tha thiết với Hữu, với hy vọng được đi Mỹ như bao người đàn bà khác…Hữu bây giờ còn có gì rung động được trái tim bởi không bao giờ chàng quên hình ảnh Viên Chi tuy nàng đã phản bội chàng ! Thời gian trở về Mỹ Hữu đã quên Loan dễ dàng, lăn bổ vào cuộc sống như cái máy mà mọi người nơi đây ai cũng phải chấp nhận. Một hôm Hữu nhận được thư cha gửi qua, ôngkhen lấy khen để cô Loan và ngỏ ý muốn Hữu cưới cô làm vợ để có người chăm sóc cho ông khi đứa em gái của chàng cũng sắp đi Mỹ với diện con bão lãnh. Hữu lặng im không trả lời thư cha về việc đó mà chỉ thăm hỏi sức khỏe cha mà thôi…
Ngày hai con đến Mỹ Hữu thấy cuộc sống có thêm sinh khí, chàng vui hơn xưa và đồng ý với hoàn cảnh gà trống nuôi con mặc dù cũng có nhiều cô, nhiều bà muốn xây dựng gia đình với Hữu. Một năm sau đó em gái chàng cũng đến Mỹ và theo lời năn nỉ, nhờ vả của Loan cũng như nhìn thấy Loan tử tế với cha, em gái chàng cũng vì muốn có người chăm sóc cho cha nên khuyên anh mình về Việt Nam cưới Loan…vì chữ hiếu Hữu đã bay ngay về sau đó một tuần tổ chức đám cưới với Thụy Loan. Hữu cũng bày tỏ cho Loan biết về ý định của chàng là Loan sẽ không đi Mỹ và mỗi năm Hữu về một lần, Loan đồng ý và sống riêng nơi tiệm may, hàng ngày về thăm cha chồng, cha chàng thì hiện sống với đứa cháu gái trong căn nhà của ông.
Một ngày nọ Loan gọi phone qua Mỹ nửa đêm, bảo Hữu phải đuổi vợ chồng đứa cháu gái ra khỏi nhà vì bảo rằng thằng cháu rể hỗn với ông ngoại. Hữu không hiểu hư thực thế nào nên cho Loan tự giải quyết. Loan đã đuổi vợ chồng đứa cháu với lý do lệnh của cậu 5 ( Hữu). Một tháng sau đó, cha Hữu gọi qua than thở về sự cư xử tệ bạc của con dâu. Loan bỏ nhà đi ngày đêm không lo lắng cơm nước cho ông lại còn hỗn xược mắng nhiếc ông với những ngôn từ thậm tệ, ông buồn đâm ra bệnh nặng. Loan xúi ông đưa hết giấy tờ nhà sang tên qua cho cô ta và lấy tiền của ông xài phí…Thời gian sau em gái Hữu sốt ruột thương con không nhà cửa sống vất vả lang thang nên bay về Việt Nam cho rõ sự tình. Em gái Hữu đau buồn trước cảnh không ngờ, Loan đã bỏ nhà đi hai tuần lễ bỏ mặc cha Hữu đói khát chẳng ai lo chỉ nhờ chút nào vào sự giúp đỡ của hàng xóm, ông chỉ còn xương bọc da nằm liệt trên giường ! nếu em gái Hữu không về kịp chắc gì còn gặp được cha…đã thế trong nhà không còn một món gì ? cô Loan dọn sạch sẽ đồ đạc quý giá cho đến những thứ thường dùng của cha Hữu…vợ chồng đứa cháu ở nhờ chỗ nầy, ở tạm chỗ kia, muỗi cắn nát tay chân, nửa đêm còn phải ẵm con ngồi ngoài cột đèn điện chờ quán caphê khách về hết mới vào ngủ nhờ ngoài hiên…có đêm ngủ nhờ nhà bạn nghèo không có giường, trải chiếu nằm dưới đất, nửa đêm mưa lớn hai vợ chồng và đứa con nhỏ nằm trên vũng nước. Ba tháng sau vì bị muỗi độc chích nhiều đứa bé bị nhiễm Siêu vi B tình trạng rất nguy hiểm !
Em gái Hữu hận thù đi tìm Loan nhưng cô ta đã trốn biệt tăm, lo cho cha lành mạnh cô em trở về Mỹ cho Hữu biết nội tình. Hữu căm giận và ly hôn từ đó…
Lại một vết thương lòng tuy muộn màng nhưng vẫn không thiếu xót xa, bởi Hữu nào có yêu Loan chẳng qua vì chữ hiếu chàng phải hy sinh cái công hàm độc thân mà bấy lâu nay chàng cố gìn giữ. Nhìn lại mình, tóc đã bạc, 50 tuổi chưa tìm được chốn an thân, tình đời nghĩ ra càng ngao ngán. Nơi chốn phồn hoa vật chất nầy chàng thấy cô độc và cô độc lạ lùng bởi biết còn tin ai nữa, sợ những người đàn bà trên đầt Mỹ để rồi gặp phải kẻ ác tâm nơi đất mẹ ! Buồn như chưa bao giờ buồn, chán như chưa bao giờ chán, các con chàng lần lượt lập gia đình theo chồng đi xa., Hữu trở về cuộc sống độc thân nơi xứ người với tâm hồn sỏi đá lạnh băng như tuyết mỗi chiều rơi rơi tản mạn trên những đồi núi xa xa…một màu trắng bạc như vôi chẳng khác chi lòng dạ con người ?…
Nắng đã tắt trên đồi cây ngọn cỏ, bóng hoàng hôn đang dần chiếm không gian…Hữu quên hết thời gian quanh mình chỉ còn một nhận thức duy nhất là chàng đang sống trên đất Mỹ, thế giới của xa hoa, giàu có và hiện đại…nhưng chẳng có được những tình cảm yêu thương, đùm bọc nhau như chốn quê nhà, nơi đó, mẹ hiền đang nằm lặng yên trong giấc ngủ nghìn thu…nơi đó có người cha thân yêu gầy còm, khập khểnh từng chiều ngồi trông ngóng tin con nơi vạn lý xa xôi !
Hữu chợt rùng mình ứa nước mắt, phần vì khí trời buốt lạnh đêm nay, phần vì lo cho cha đang lâm trọng bệnh nơi quê nhà, không biết qua khỏi hay không ? Nghĩ điều đó Hữu lo sợ vì tuổi cha đã cao, chàng đứng phắt dậy nhìn xuyên qua đại dương để mong hình dung ra dáng cha già và mái nhà thân yêu cũ…nhưng chàng có thấy gì đâu ? bát ngát một màu mây trắng đục ẩn hiện trên những đồi núi ngút ngàn xa tắp chân trời ! xa quá cha ơi…cả một nửa địa cầu con biết phải làm sao săn sóc cho cha, con chỉ còn biết cầu xin nơi đấng thiêng liêng ban phép nhiệm màu cho cha lành mạnh và con sẽ về thăm cha một ngày thật gần…
Chàng lủi thủi bước lại chiếc xe, mở cửa bước lên rồ máy rồi lại bước xuống nhìn chiếc xe. Sang trọng quá, lịch sự quá! Có ai biết cho rằng người ngồi trong chiếc xe này đang chua chát từng cơn cho những bất hạnh của đời mình…

NGUYỄN PHAN NGOC AN







Nguyenphanan
#4 Posted : Thursday, October 27, 2005 9:53:26 AM(UTC)
Nguyenphanan

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 536
Points: 0

Tuỳ Bút

YÊU HOA - YÊU GIĨ - YÊU TRĂNG


Tiếng phi cơ hạ cánh rào rào trên phi đạo, Thy giật mình nhảy nhỏm khỏi ghế ngồi để ngắm nhìn thành phố thân yêu đã suốt một thời nuơi nấng ấp ủ nàng…
Trời về khuya khí hậu mát mẻ, cảnh vật im lìm ngồi tiếng động cơ hạ cánh, bởi vậy Thy thích du lịch Việt Nam vào thời điểm này…nàng khoan khối thở một hơi dài nhẹ nhõm, mừng đã thốt được cái ghế tội tình kia !
Nàng nhớ lại hơn hai mươi giờ ngồi một chỗ mà nổi ga gà, cũng may mắn là Thy khơng bao giờ say sĩng. Ngày xưa khi mới lập gia đình, đất nước tràn ngập chiến tranh, đường xá bị giật mìn hư hỏng, nàng chỉ tồn đi phi cơ đủ loại từ phi cơ tải thương H20, phi cơ du lịch Secna, phi cơ đưa thư Hauter cho đến loại C130 chở hàng chục chiến xa và mấy trăm con người nên với chiếc Boing 747 này nàng thấy rất bình thường như lái xe trên Freeway vậy thơi…
Phi cơ ngừng hẵn, từng đồn hành lý lần lượt xách hành lý ra khỏi phi cơ, trong lịøng Thy rộn lên một niềm vui khơn tả…chỉ một khắc nữa thơi, sau khi làm thủ tục nàng sẽ được gặp đứa con gái thân yêu của nàng.
- Kìa, Thy đã về !
Một giọng nĩi quen thuộc khiến Thy quay nhanh lại, nàng khơng khỏi ngạc nhiên khi đĩn nàng khơng chỉ con gái nàng mà cịn cĩ cả một số bạn bè của nàng nữa…Thy ríu rít :
- Chào các anh, các chị, rất vui mừng khi được các anh, các chị hy sinh giấc mơ hoa để đi đĩn Thy, vạn hạnh, vạn hạnh.
- Thơi đi cơ bé ! quà Mỹ đâu bày ra hối lộ ngay đi, người ta năn nỉ hụt hơi tụi này mới chịu đưa đi đĩn đĩ chứ dễ gì nửa đêm khiêng được lũ này ra khỏi nhà!
Thy ngạc nhiên trố mắt ra định hỏi thì Hồng Vân đã cướp lời anh Bảo Cường : Người ta trồng cây si đến độ quên ăn mất ngủ, về rồi phải tính sao đây ? nhà hàng Năm Sao hay Mỹ Cảnh nĩi cho bọn này rõ ?
Rõ ràng Thy bị các bạn tố khổ, bởi vì nàng khơng hề cĩ một cảm tình riêng tư nào cả, nàng về quê lần này là vì chữ hiếu, cha nàng đã quá bát tuần, nàng phải lo trước chỗ yên nghỉ cho cha sau này…Bỗng một giọng ngâm trầm ấm nhè nhẹ cất lên : “ Ta đã đi qua nửa cuộc đời, giờ đây cịn lại phút đơn cơi, xin đem một nửa đời cịn lại, chia xẻ cùng ai những ngậm ngùi”…
Thy đỏ mặt ngượng ngùng nhìn Yên Linh, bài thơ lại là đề tài cho các bạn chọc ghẹo nàng, ăn miếng, trả miếng, Thy khơng vừa : “ Ai cĩ gan chia xẻ, cứ ra đây, đừng hối hận” – Yên Linh đẩy bạn ra đối diện với Thy, một nét mặt hồn tồn xa lạ đối với nàng ! Thy bối rối phút giây khi người đàn ơng lên tiếng :
- Thưa cơ, xin cơ thứ lỗi, thật tình tơi cĩ hơi đường đột vì lẽ chưa một lần quen biết cơ, khơng hiểu vì sao khi nhận được tập thơ cơ gởi về cho các bạn để thực hiện cuốn băng thơ, tơi tị mị đọc và ray rứt khơn nguơi, thương cho một kiếp tài hoa bạc phận, ước gì tơi được chia xẻ với cơ…
Thy khơng biết phải trả lời thế nào cho phải, bởi hai mươi năm sống cơ đơn đã khiến trái tim nàng nguội lạnh, chữ tình đối với Thy là một tai họa gớm ghê ! nàng chỉ biết cảm ơn người đàn ơng vài câu rồi ân cần chia tay các bạn, henï ngày hơm sau trở lên Sài Gịn mời tất cả quý vị đi nhà hàng Năm Sao rồi tha hồ mà chọc phá, nàng phải về Vũng Tàu ngay vì cha già đang mong đợi !
Trên xa lộ mênh mang, hồn nàng mơ hồ bay bổng, nàng cịn gì ngồi thân xác tủi hờn và bộ ĩc vơ ngơn ? nàng chỉ muốn sống cho hết cuộc đời cịn lại, trả cho hết nợ trần gian mà nàng đã vay mượn từ muơn kiếp trước…xung quanh nàng biết mấy bạn bè tốt phước, chúng chẳng cĩ nhan sắc, chẳng học hành bao nhiêu lại chẳng phải gia đình nho giáo vậy mà trời lại ân sũng họ, cho họ một cuộc sống sang giàu hạnh phúc, chồng tận tụy cưng chiều ! Tất cả là định mệnh, đã là định mệnh thì khơng cĩ gì thay đổi được…Cĩ lẽ tơi sinh ra bởi một vì sao xấu, dù tâm tơi lúc nào cũng hướng thiện và làm điều phước thiện, xin hãy hiểu cho tơi, tha thứ cho tơi hỡi người bạn vừa biết mặt, vừa trao gởi cảm tình cho tơi – Bởi vì trước mắt tơi bây giờ là một màn đêm dày đặc, ưu phiền chán ngán đã mọc tràn trề trên mắt mơi tơi, tơi chỉ muốn thu hình lại trong chiếc vỏ sị nhỏ bé kia để quên đi vàquên đi tất cả…đối với tơi, hơn nửa đời người, một hình tượng tình yêu đúng nghĩa, chưa bao giờ cĩ được trong tơi, tơi đã tìm qua năm dài tháng rộng vẫn bay xa, thì với phút giây gặp gỡ nào cĩ nghĩa lý gì ? ai hiểu cho tơi, một nội tâm sâu thẳm dật dờ, tơi chỉ muốn sống như một thiên đàng huyền ảo, đừng cĩ lồi người, đừng cĩ yêu thương, để tơi chỉ biết yêu hoa, yêu giĩ, yêu trăng để tơi khỏi phải làm đau lịng ai đĩ…
Tiếng thắng xe làm Thy bừng tỉnh, đã về đến nhà nàng, một mái ấm thân thương đã cho nàng biết bao kỷ niệm – Thy xem đồng hồ, đã 3 giờ sáng – Đèn trong nhà bật sáng lên, cha nàng khập khểnh bước vội ra sân để đĩn nàng, mái tĩc cha bạc trắng, đơi mắt cha long lanh đơi dịng lệ, cha ơm chầm lấy Thy trong đơi tay gầy guộc khẳng khiu – Thy ơm cha trong nghẹn ngào : “ Cha khỏe chứ, con nhớ cha nhiều lắm” ! rồi khơng đợi ơng trả lời nàng tháo vội chiếc nĩn nỉ đang đội trên đầu và chiếc gậy màu xanh mua ở Mỹ đem về tặng cha, nàng lại mở ví ra, một chiếc nhẫn vàng, một chiếc nhẫn hột kiểu Mỹ, một chiếc đồng hồ mặt vàng dây vàng…tất cả Thy đặt vào tay cha rồi quỳ xuống bên ơng thỏ thẻ : Cha ơi, về gặp cha con mừng lắm, tuy rằng cha gầy ốm hơn năm ngối nhiều…Đơi mắt cha sâu hẵn và lờ đờ khơng tinh anh như trước, đơi chân khập khểnh dị từng bước một – Thy dìu cha đi nghỉ cịn nàng thì đau lịng khơng thể nào dỗ giấc được nên lặng lẽ ra trước hiên nhà ngồi suy nghĩ miên man ! nàng nhớ rất rõ những hình ảnh thuở đương thời oanh liệt của cha, những hình ảnh cha nàng du học nước ngồi, những tấm ảnh cha làm cầu thủ cho đội banh nước Pháp, những mảnh bằng tuyên dương, khen ngợi…Ơi ! Cịn đâu thời vàng son ấy ? Cha nàng bây giờ như ngọn đèn trước giĩ, khơng biết tắt lúc nào ! Càng suy nghĩ Thy càng khổ tâm, ba anh em nàng đều ở Mỹ, bỏ lại mình cha ở lại Việt Nam với đứa con gái của nàng trong hồn cảnh trơ trọi lẻ loi khơng bà con thân tộc, ngày cha trăm tuổi biết lấy ai đỡ đần hữu sự ?
Nghĩ đến viễn ảnh đĩ tự nhiên nước mắt Thy trào ra, nàng hiểu anh em nàng khơng thể về kịp để lo cho cha giờ phút quan trọng này ! Năm xưa lúc mẹ qua đời chính nàng là người gần gũi mẹ trong giờ phút lâm chung, nàng chu tồn mọi sự việc cần thiết nên cũng đỡ bứt rứt lương tâm, tuy rằng nỗi đau chứng kiến người thân yêu trong giờ phút cuối cùng đã khiến nàng tê tái tim gan tưởng khơng chịu đựng nổi !!!
- Mẹ ơi, khuya quá rồi sao mẹ khơng đi ngủ ? khí hậu bên nầy mẹ chưa quen coi chừng cảm đĩ ! Thy chồng tỉnh vội vàng đứng dậy theo con gái vào phịng nằm nghỉ sau hai ngày vất vả trên đường bay đã làm cơ thể dường như rã rời…

Tiếng gà gáy vang vang khiến nàng thức giấc…một cảm nhận ngọt ngào của quê hương mà bao năm nàng khơng được đĩn nhận, những tiếng chĩ sủa về khuya tru dài từng đợt, những đêm trăng sáng tụ tập kẻ đàn người hát vang dậy một gĩc phố, những buổi đi xem cải lương về lũ lượt từng đồn người náo nhiệt trên đường lộ…Những ngày cuối tuần du khách tấp nập, xe vào thành phố như mắc cửi, giao thơng bế tắc hàng giờ ! Nàng ao ước được sống mãi với những khung cảnh đĩ, được bơi lội trong vùng thương yêu đĩ, bởi vì nơi đất khách quê người, nơi chốn tạm dung kia nĩ cơ đơn và tẻ nhạt vơ cùng ! “ Chốn nầy tình nghĩa cĩ cịn khơng ?
Nghe pháo xuân sang quặn thắt lịng
Hai chữ đồng hương sao ái ngại
Nhìn nhau mặt lạnh tựa trời đơng”!
Vì biết nơi đất Mỹ tuổi già sẽ cơ độc đến thế nào nên anh em nàng khơng làm giấy bão lãnh cha qua mỹ, mặc dù cha cĩ thừa điều kiện để đi vì trước đây cha làm cố vấn phi trường, quản lý hàng ngàn viên phi cơng Hoa Kỳ và cịn giữ rất nhiều hình ảnh cơng tác chung với họ – Nhưng để cha già gị bĩ chốn quê nhà, khơng thụ hưởng được những nếp sống văn minh tân tiến của xứ người là điều mà anh em nàng ray rứt lương tâm khơng ít cho nên cuộc sống ly hương càng thêm buồn bã !
Bây giờ mọi việc đã trễ tràng, cha khơng cịn đủ sức khỏe để xuất cảnh nữa, chỉ nội chuyện đi chích ngừa, đi khám sức khỏe cũng cĩ thể làm cha đứt hơi rồi đừng nĩi chi ngồi hai ngày đêm miệt mài trên phi cơ với độ cao lộn ruột…
Nĩi sao hết nỗi trắc ẩn trong lịng, Thy thở dài chán nản, nếu ngày trước đừng cản anh trai nàng chuyện bão lãnh mẹ cha thì chắc gì mẹ nàng phải chết oan uổng tại quê nhà, người đồng hương sao lại cĩ những kẻ xấu xa ích kỷ, hàng xĩm láng giềng mà cư xử chẳng nghĩa nhân, khơng giúp người lúc nguy nan kêu cứu ? Mẹ ơi…mùa trăng nầy là đã tám mùa trăng xa cách mẹ, mỗi lần con về quê hương thổn thức trong con càng dâng cao, cịn đâu bĩng dáng mẹ hiền chiều chiều phe phẩy chiếc quạt ngồi cạnh gốc cột đèn điện trước cửa nhà chờ con ?! Mất mẹ là mất cả bầu trời dịu ngọt, là mất cả niềm tin lẽ sống của riêng con…Mùa Vu Lan nầy lại thêm một lần nức nở cài cho mình cành hoa trắng trên ngực áo để nghe giọt buồn ngậm đắng bờ mơi !!!
Hương khĩi thân thương làm ấm lại
Bao nhiêu kỷ niệm tháng ngày qua
Dáng mẹ thân yêu giờ đã khuất
Cịn đây đơn lẻ bĩng cha già!…
Trước mộ phần của mẹ, Thy quỳ mọp nghẹn ngào – Tám năm dài mẹ ngủ yên dưới lịng đất lạnh, đêm đêm chỉ cĩ tiếng cơn trùng rả rích than van trong màn sương u tịch thê lương của nghĩa trang vắng lặng…cịn cĩ ai để cận kề an ủi hay chỉ là những hồn hoang câm lặng dưới đáy mộ sâu ? Nàng quỳ như thế rất lâu và quên cả khơng gian quanh nàng – Trăng rằm đã lên cao qua đỉnh núi, Thy ngước mắt nhìn trăng qua đơi dịng lệ âm thầm, khơng cịn một bĩng người trong nghĩa trang nhưng nàng khơng thấy sợ – Tâm linh cho nàng biết mẹ luơn luơn phù hộ cho nàng trước bao tai biến, đã bao nhiêu lần nàng nằm mộng thấy mẹ về, oằn trên vai mẹ những bao bột nặng nề, hai bên cịn cĩ hai tên mặt mày hung tợn kềm kẹp mẹ, những lúc như thế nàng khĩc ngất chạy theo mẹ thì bị hai tên cơn đồ xơ nàng té sấp, giựt mình tỉnh giấc…thì ra là trong giấc chiêm bao – Một lần nàng chạy chiếc xe Dream chở bé Thanh là đứa cháu gái kêu bằng dì và bé Vân là con gái nàng, đến khúc đường lộ lớn với tốc độ 80 cây số một giờ, một đàn bị thình lình từ trong đường băng ngang qua lộ, Thy quýnh quáng đạp thắng khơng được vì gĩt giày cao mắc vào cây ngang chỗ để chân mà bé Thanh cũng để chân chung với Thy nên khơng cách nào kéo gĩt giày lên kịp, Thy chỉ kịp kêu mẹ cứu nàng vì đã sát vào thân con bị đang băng qua lộ ! Nếu khơng được mẹ cứu giúp tức thời qua tai nạn thì cả 3 người chẳng ai cịn mạng sống với tốc độ chạy rất nhanh trên đường lộ tráng nhựa – nghĩ đến tai nạn này Thy rùng mình, ớn ĩc , cái chết qua đường tơ kẻ tĩc…nhưng cĩ lẽ ngày đĩ là ngày đại nạn khơng thể nào tránh hẵn được, khi để Vân ở nhà Thy cùng cơ cháu tiếp tục đi Sài Gịn, lên tới Hàng Xanh người đơng như kiến, tránh một hàng người đi bộ giăng ngang đường Thy đã tơng vào hơng một chiếc xe hơi, hai dì cháu ngã vật trên đường tay chân mặt mày trầy trụa, chiếc xe Dream bể đèn bể bửng nằm cịn quay bánh chênh vênh trước những đồn xe qua lại vùn vụt – hai dì cháu phải vào bệnh viện băng bĩ, chiếc xe phải mướn xe xích lơ máy chở đi đến tiệm sửa, thay đèn thay bửng, tút lại màu sơn những chổ trầy tốn hết gần 2 triệu đồng VN – Trên đường trở về nhà xa khoảng 120 cây số, hai dì cháu cứ suýt xoa lẩm bẩm : Đúng là ngày xui tận mạng, khơng chết thì cũng bị thương, nhưng thà bị thương, bị tốn tiền cịn hơn bỏ mạng ngồi xa lộ…
Năm sau, 1990 chờ đợi hồi cũng chưa thấy được xuất cảnh, Thy mua một chiếc xe tốc hành màu trắng chạy chở khách hàng ngày Vũng Tàu – Sài Gịn, ngày đầu tiên mua xe Thy đã gặp nạn – trong nhà và hàng xĩm ai cũng bảo : năm nay sao Thái Bạch khơng được xài bất cứ cái gì màu trắng, tại sao mua xe màu trắng vậy ? Mua xe ở Phú Lâm, người chủ xe lái xe về Vũng Tàu giao tận nhà cho Thy và cà số xe để trở về Sài Gịn làm giấy tờ cho Thy đĩng thuế trước bạ – vì cịn một số thuốc lá 555 và hàng hố thuốc tây Thy chưa kịp lấy xong hàng nên nàng đã lấy chiếc xe Dream chở chú Hiền chủ xe hơi về Phú Lâm, tiện thể lấy hàng mua chở về bằng xe Dream cho qua các trạm dễ dàng hơn – Trên đường về Sài Gịn, khi đi ngang Xã Hiền Hịa cịn cách Long Thành chừng 7 cây số, trời đã tối Thy thấy trước mặt một bĩng người to lớn chạy băng qua đường, với tốc độ đường trường và mở đèn cốt nàng khơng thể thắng kịp, chỉ cịn nước lạng tránh mà thơi – Người đi bộ ấy đã đập nguyên chiếc mặt vào mặt Thy đến độ bể nát cái kiếng đổi màu Thy đang đeo trên mắt, những ngĩn chân người ấy bị bánh xe sau cán lên giựt người ấy té ngữa giữa lộ, máu ra ướt cả một vũng…xe của Thy thì lảo đảo thêm khoảng 10 mét nữa rồi ngã rầm bên lộ phải, chú Hiền và Thy văng ra khỏi xe – Khi hồn hồn dựng xe lên Thy mới biết là đã tơng vào một người đàn bà rất to con và là bà bầu gánh hát đang lưu diễn tại xã nầy – Mọi người xúm lại lấy xe Honda phụ nhau chở bà gấp đến bệnh viện Long Thành, trong lúc ấy hai người cháu của bà một trai một gái cũng là diễn viên của đồn hát cầm cây chạy ra toan đánh Thy và chú Hiền, cịn các con của bà thì đã chở bà đi nhà thương – Thy khĩc và năn nỉ rằng tai nạn rủi ro chứ nàng đâu muốn, hai người trẻ tuổi ấy dường như cũng thấy thương hại nên khơng nỡ xuống tay đánh nàng – Cơng an đến bằng một chiếc xe Zip lùn và Thy bị làm biên bản tại chỗ xãy ra tai nạn…Cơng an cho phép Thy lấy chiếc xe Dream chạy lên bệnh viện xem tình hình người thọ nạn, cịn Hiền bị giữ lại làm con tin. Thy khơng cịn tinh thần để lái xe nên hai người trẻ kia đồng ý lái và chở 3 lên bệnh viện – Thy lo gửi xe, hai người trẻ kia chạy vào bệnh viện và nhắc Thy : “ Cơ coi chừng, lỡ thím cháu cĩ mệnh hệ gì, con của bả sẽ ra đánh cơ chết, tụi nầy mà chạy ra là cơ chạy gấp nhé” Thy điếng cả người, gửi xe vừa xong chưa kịp bước theo vào bệnh viện thì nghe tiếng chân chạy thình thịch của một đám người, hai người trẻ kia chạy trước, ba người chạy theo sau – hai người trẻ kia la lên “ chạy mau cơ ơi, bả chết rồi, tụi nĩ đánh cơ chết đĩ” Thy quýnh quáng khơng kịp đề nổ máy xe mà cứ dẫn chạy nhanh theo hai người trẻ kia, tim nàng đánh thình thịch vì quá sợ hãi, cậu thanh niên cầm lấy xe đề máy, Thy và cơ gái phĩng nhanh lên xe thốt được ba người đang chạy theo sau ! Về đến chỗ lập biên bản, Cơng An hình sự giam giữ chiếc xe Dream của Thy và mời nàng lên xe Zip chở về quận Long Thành, lúc đĩ là 9 giờ đêm năm 1990 – Thy bị giam lỏng trong chỗ làm việc hộ khẩu hộ tịch – ban ngày họ cho Thy tự do đi ra ngồi, ban chiều và tối khi hết giờ làm việc họ cho Thy vào phịng nghỉ và ngủ đêm trong đĩ để chờ thụ lý hồ sơ xét xử – Đêm đầu tiên nằm trên chiếc giường nhỏ, cửa sổ hư khơng cĩ cánh cửa, Thy run bắn cả người, cứ liên tưởng đến người chết do mình gây ra rồi tưởng tượng họ báo ốn, họ kéo chân nên khơng hề chợp mắt, tinh thần rã rời, sức lực cũng tàn lụn, nàng khơng ngờ cĩ một ngày nàng đã giết người ! Nàng đã cướp đi mạng sống của một con người…nàng khấn lầm thầm “ bà ơi, xin bà tha tội cho tơi, trăm ngàn lần xin bà tha tội cho tơi” nàng chỉ nĩi thầm trong bụng vì tưởng như nĩi ra tiếng bà ấy sẽ nghe, nàng sợ quá, nàng sợ đến run cầm cập giữa đêm khuya lặng ngắt như tờ, một nơi xa lạ khơng thấy một bĩng người trực đêm, trời ơi, mẹ ơi xin mẹ phù hộ cho con bình tỉnh thốt qua đêm nay, xin mẹ cứu lấy con trong tai nạn giết người này – con sợ quá mẹ ơi, xin mẹ linh thiêng cứu con, cứu con mẹ ơi…Thy đã khĩc rấm rức hơn ba tiếng đồng hồ, thời gian đối với nàng bây giờ là phép nhiệm mầu, nàng cầu mong trời mau sáng cho nàng qua khỏi đêm dài khủng hoảng kinh khiếp này.
Một tuần sau ngày bị giam lỏng trong trại cơng an Long Thành, Thy khơng tài nào ngủ được, cứ nghĩ đến ngày bị đưa ra xét xử và một hình phạt khắt khe dành cho một tội phạm như nàng…Sự tưởng tượng mơng lung trong ghê sợ đã khiến tâm hồn Thy mệt nhồi trong vơ thức. Nàng cầu xin ở cõi siêu nhiên giúp nàng xĩa tan đi những ám ảnh nặng nề trong tâm trí để cĩ một chút bình yên vỗ về giấc ngủ muộn màng ! Nào ngờ từ trong vơ thức siêu nhiên, niềm tin kia đã trở thành hiện thực đưa đẩy sự việc khĩ khăn gian nan thành may mắn bất ngờ… Trong cuộc đời trải bao gian truân khốn khĩ của kiếp nhân sinh Thy chưa bao giờ phải bị bắt vì bất cứ một nguyên nhân nào, lần đầu tiên trong cuộc đời nàng đã phải bị giam lỏng, phải thụ lý hồ sơ án lệnh và…lần duy nhất trong đời nàng đã vơ tình giết hại một mạng người, khơng biết tai họa nàng gây ra sẽ đem đến hậu quả vay trả như thế nào trong tương lai ? Thy đau đớn mang vào tâm hồn mình một bản án giết người, nĩ ám ảnh nàng suốt mười mấy năm qua, đêm đêm Thy vẫn âm thầm cầu nguyện bà tha tội cho nàng, hàng năm Thy khơng quên ghi tên bà vào danh sách thân nhân đã mất để nhờ quý thầy đọc kinh cầu siêu cho bà – Nàng vẫn nhớ sau ngày xét xử vụ án chết người do nàng gây ra, Vinh đã dùng xe hơi của đội điều tra chở nàng và con gái nàng đến nhà nạn nhân – Thy mua trái cây, nhang thơm vào cúng trước di ảnh của bà, trái tim Thy như muốn ngừng đập khi nhìn lên di ảnh bàđang trừng trừng nhìn Thy tức giận…Bà ơi, xin bà một vạn lần tha thứ cho tơi, tơi nào muốn cướp đi mạng sống của bà, tai nạn ngồi ý muốn, một tai nạn đã làm tơi bỏ ngủ bỏ ăn hối hận dập dồn hơn 10 năm trời, tơi khơng ngờ cĩ ngày tơi phải mang bản án sát nhân…Bà ơi, giờ này chắc bà đã tha thứ cho tơi, bà đã lặng yên miên viễn, cịn tơi thao thức dày vị tâm não mười mấy năm qua, tơi biết bà hiển linh để đọc những dịng tâm bút này của tơi, và bà sẽ mĩm cười mà tha thứ cho tơi – tơi tin như thế – tơi tin mẹ tơi cũng như bà, những tâm linh đầy lịng nhân ái, tơi phải tin như thế để tơi được sống bình yên dù cũng cĩ đơi giây tơi chợt nghĩ, hay là…bà ấy chết rồi, bà ấy đã ở một thế giới khác, bà hận thù mình mà khơng làm sao được đấy thơi ! Thy buơng tiếng thở dài não nuột, nhìn ngơi mộ mẹ lần nữa để từ tạ rồi âm thầm gạt lệ dẫn xe ra khỏi nghĩa trang lặng ngắt âm u – bên ngồi, trăng đã lên cao, thấp thống bên sườn đồi những cành hoa rực rỡ sắc màu lấp lống trong màn sương đêm, một ngọn giĩ nhẹ mát như nhung hơn vào những bơng hoa đang lã lướt gọi mời và ánh trăng đang ngọt ngào cười với giĩ, vầng trăng kia vẫn muơn đời là chứng nhân trong vũ trụ – Cịn gì huyền hoặc liêu trai hơn chuyện tình giữa hoa và giĩ hơn nhau, nàng trăng thẹn thuồng đỏ mặt chứng kiến trong đêm khuya tỉnh mịch giữa núi đồi hoang vu…

NGUYỄN PHAN NGOC AN
Nguyenphanan
#5 Posted : Wednesday, November 2, 2005 1:24:07 AM(UTC)
Nguyenphanan

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 536
Points: 0

MỘT NGÀY MÙA THU
Bút ký : Nguyễn Phan Ngọc An

Cứ mỗi năm đến ngày 11 tháng 9, ngày tang thương của nước Mỹ, là lịng nàng đau xĩt khơn nguơi, người yêu của nàng cũng giã từ nàng ra đi vĩnh viễn sau ngày đại nạn của Hoa Kỳ mấy hơm, cho nên đối với nàng ngày 11/9 là chứng tích muơn đời, ngày kỷ niệm cho cuộc tình đã mất…
Cho dù qua bao xoay vần, thay đổi của tháng năm, lịng nàng vẫn nhớ vẫn thương hình bĩng cũ, cĩ ai hiểu thấu tận trái tim mình bằng chính mình… Sau khi chàng nằm xuống, nàng đã tự nhủ chạy trốn tất cả mọi cảm tình xung quanh, hãy sống những tháng năm cịn lại cho chàng dù trong nhức buốt cơ đơn ! vì nàng hiểu ra rằng nàng đã dự phần, nàng là một trong nhiều nguyên nhân đưa chàng tới cõi nghìn thu vĩnh biệt !
Hơn ba năm, nàng sống âm thầm lặng lẽ kể từ ngày chàng bỏ ra đi, những cuộc vui, những buổi họp đàn, văn chương thi phú, ít ai thấy nàng tham dự như trước…
Một tâm khúc cho người tình đã khuất, nàng nghĩ thế và viết trang thiên nhật ký này cho chàng, dù biết rằng chàng khơng cịn hiện hữu trên thế gian này nữa, nhưng tâm linh chàng sẽ đọc và hiểu cho nàng, tha thứ cho nàng…
Ngày đĩ, một ngày rất xa xơi với ký ức đang ngập tràn kỷ niệm…Một chiều thơ nhạc ra mắt tập thơ của thi sĩ Vũ Băng Đình đến từ một tiểu bang xa, đang chương trình nhộn nhịp thi ngâm thì chàng đến với hai người bạn, với dáng dấp cao lớn, trán rộng, mái tĩc gợn quăn, nước da trắng, chàng là hiện thân của những mẫu người trí thức, bảnh trai…Nhìn chàng giây phút lịng nàng đã thấy cảm mến một mẫu người yêu lý tưởng, nhưng đĩ chỉ là thống qua, nàng vẫn giữ cho mình sự nghiêm trang xa lạ khi Hùng và Văn giới thiệu chàng với nàng để quen biết…
Ngày 2/8/1997, nàng khơng bao giờ quên ngày kỷ niệm này, chàng lên bục ngâm thơ, giọng chàng sang sảng tràn đầy sức sống, một giọng Bắc Hà Nội trữ tình, tha thiết như tâm tình chàng đang trao gởi vào thơ…Chiều đĩ, thay vì đi dự một party của trường, nàng đã vui lịng theo lời mời của chàng và hai bạn, nàng đi dự một đám cưới của bạn thân chàng. Bốn người trên một chiếc xe, chàng luơn miệng nĩi cười vui vẻ, âm vang suốt cả đoạn đường dài, nàng đã nhận thức được nơi chàng vẻ hồn nhiên yêu đời, dường như cuộc sống chàng khơng cĩ điều gì khổ tâm lo nghĩ ?...
Chàng làm MC chương trình đám cưới, chàng nĩi chàng cười, chàng kể chuyện tiếu lâm trong những giờ phút chờ khách đến đơng đủ, con người chàng trơng bặt thiệp lạ lùng – Tàn tiệc, chàng và hai bạn đưa nàng về lại chỗ lấy xe của nàng, chàng xin số phone của nàng và cầm tay nàng hơn từ giã.
Sáng hơm sau, chàng gọi hẹn nàng tại nhà hàng gần nơi nàng cư ngụ, chàng đã mua sẵn một chai dầu thơm Chanel 555 loại đắt tiền đem tặng nàng và nĩi “ Tơi tặng cơ vì thích được tặng, chứ khơng trơng mong được làm quen với cơ, vì thân tơi thấp hèn, đâu dám ước mơ làm quen nữ sĩ” chàng cười rất tự nhiên nhưng hàm chứa một sự thân thiện chân thành mà nàng đã cảm nhận được ! nàng chưa hề gặp ai tặng quà cho bạn gái mà lại cĩ những ngơn từ lạ lùng, bất cần đời như thế, nàng cũng cười vui trả lời “ Tơi thật chưa thấy ai lạ lùng như anh, trơng anh thật lựu đạn, nhưng tơi thích cái tính tình lựu đạn của anh” chàng cười ha hả quên cả người xung quanh đang nhìn chàng…ở chàng tốt ra sự kiêu kỳ, bất cần và bộc phát nhưng vẫn khơng thiếu sự trân trọng và tế nhị với nàng cũng như với bạn bè – Nàng thích những người đàn ơng cĩ cá tính như thế và sau hai tháng tìm hiểu cặn kẻ về đời tư, biết chàng đang sống độc thân, làm việc cho một hãng điện, nàng đã chấp nhận tình cảm và chàng đã khơng ngần ngại đưa nàng đến nhà gặp các chị gái của chàng…
Ngày tháng trơi qua, những buổi văn chương thi phú, những cuộc hội họp, những party đều cĩ mặt chàng và nàng – nàng đã khám phá ra chàng là một tâm hồn thơ, chàng viết tồn thơ tình lãng mạn, thương đau, bị phụ bạc ! cĩ những bài thơ chàng viết khá lâu vào thập niên 60, 70 chàng vẫn cịn lưu giữ, thì ra hai tâm hồn đồng điệu, nàng đã giới thiệu chàng vào các hội thơ và bạn hữu của nàng.
Từ đĩ, chàng đã cĩ một bút hiệu, tên thật của chàng chỉ dùng trong hãng xưởng và gia đình chàng mà thơi…tất cả bạn bè văn chương thi phú chỉ biết chàng qua một từ ngữ dịu dàng “ Yên Bình”, bút hiệu mà nàng đã thân yêu đặt cho chàng trong một khắc chàng cỡi mở tâm tình về những đoạn trường cay đắng của đời chàng, nàng ước ao cho những bất hạnh phơi pha và cho tâm hồn chàng lắng đọng nên chọn tên ngọt ngào đĩ đặt cho chàng – Chàng đã trân trọng nĩi rằng “ chỉ khi nào anh chết đi, chứ anh cịn sống là cái tên YB là của anh, khơng bao giờ thay đổi” !
Trong cuộc sống đầy bon chen, lừa lọc, chàng vẫn khơng màng lợi danh, tiền bạc, chàng đi làm ngày thường, cuối tuần mời nàng đi xem phim, đi bát phố, chàng khơng tiếc với nàng một mĩn gì nàng thích, khơng cĩ tiền mặt chàng cà thẻ, chàng vẫn thường nĩi “ sống mà keo kiệt, chết cĩ mang theo được khơng”, chàng nghèo nhưng hào phĩng, nàng thấy thế càng thương và khơng bao giờ phải để tốn kém cho chàng quá đáng – một lần nàng dự định đi New York ra mắt sách, chỉ mới bàn là chàng đã ra dịch vụ cà thẻ mua vé máy bay cho nàng mà khơng cho nàng hay – Sau đĩ vì cơng việc hãng xưởng bề bộn, nàng hủy bỏ chương trình đi New York, thế là chàng mất toi 500 mỹ kim…chàng khơng tiếc cũng khơng buồn mà chỉ cười hề hề coi như tháng đĩ kỵ tuổi khơng đau bệnh thì phải mất tiền, thế thơi !
Hai người thương yêu nhau chân thành, bạn bè thường khen tặng đẹp đơi mỗi khi chàng và nàng xuất hiện một nơi nào, thật thế, với dáng dấp rất đẹp, ăn mặc chải chuốt cẩn thận, chàng là mẫu người chưng diện rất bắt mắt đàn bà phụ nữ, nhưng chàng đã nĩi với nàng nhiều lần “ khơng ai bằng em cả, anh rất hãnh diện khi được đi chung với em” nàng cũng thấy lời nĩi chàng rất thật qua cử chỉ chàng dành cho nàng trong những buổi tiệc đơng người, nàng cũng cĩ cái kiêu kỳ riêng của nàng, cho nên ai cũng thấy rõ hai người là một cặp tình nhân rất đẹp đơi và mọi người vẫn chờ đợi được một ngày uống ly rượu chúc mừng…
Nàng về quê hương thăm cha một tháng, khơng ngày nào chàng khơng gọi phone về hỏi han mọi việc, đến nỗi cuối tháng nhận cái “ bill” hơn 500 đồng tiền gọi VN – Chàng rất chu đáo trong mọi sinh hoạt, ngày lễ, ngày tết, ngày sinh nhật, ngày Valentine , ngày Mother’s day khơng bao giờ chàng quên tặng quà cho nàng dù là mĩn quà đắt giá hay là một đố hồng tươi…Sự trân quý chàng đã dành cho nàng rất sâu đậm trong trái tim rạn vỡ của chàng :
Chỉ một ngày thơi, khơng gặp em
Đã nghe sầu lắng tận trong tim
Bao năm tơi sống đời cây cỏ
Chỉ một ngày thơi…vạn nỗi niềm…
Viết thiên nhật ký này lịng nàng chùng xuống, kỷ niệm mối tình như mới hơm qua, nàng khơng quên từ một cử chỉ nhỏ của chàng từ thương yêu hay giận hờn trách cứ…Chàng thì muốn phơ trương cho mọi người biết tận tường tình cảm của chàng dành cho nàng, nàng thì trái lại, dè dặt kín đáo, trước mặt mọi người chỉ giới thiệu là bạn thân, nàng cũng cĩ cái lý của nàng, một lần đổ vỡ đã cho nàng kinh nghiệm trong cuộc sống lứa đơi, phải tìm hiểu thật kỹ bản chất người bạn đời, lỡ lầm lần nữa là hết cuộc đời…vì lẽ đĩ, nàng chưa bao giờ cơng nhận điều gì khác hơn là bạn thân, quá lắm là bạn trai mà thơi – Chàng vẫn biết nàng khơng dễ gì chấp nhận cuộc sống chung khi chàng chỉ hai bàn tay trắng cho dù chàng dành cho nàng cả một khối tình yêu chân thật tận con tim :
Hơn nửa đời mưa giĩ
Hơn nửa đời lầm lỡ
Tơi cịn cĩ gì đâu ?
Mái tĩc đã hai màu
Linh hồn đang rạn vỡ
Nhưng phải chăng ?
Tim tơi cịn máu đỏ
Nên đã yêu em như đợi tự nghìn xưa
Nên đã yêu em…lắng đọng lời thơ
Bằng lịng khơng em ?
Tơi xin quỳ đơi chân đã mỏi
Dâng cho em mảnh đời cịn lại
Dù cĩ …muộn màng…
Chàng đã đưa nàng đi thăm nhiều danh lam thắng cảnh của hai miền Nam Bắc California, rỗi ngày nào là lấy xe chở nàng đi khắp mọi nơi, đến nhà bạn thân ở Okland, San Francisco, Sacramento tổ chức ăn uống, tiệc tùng, chàng khơng bao giờ để bạn bè thiệt thịi, chàng luơn bỏ tiền ra thết đãi… Chàng đưa nàng đi Canada, Siattle và vài nơi trong nước Mỹ, đến đâu chàng cũng bặt thiệp làm quen dễ dàng với mọi người xung quanh, chàng cĩ nhiều đức tính tốt, cương trực, thẳng thắn, giúp đỡ mọi người nhưng trái lại chàng cĩ vài tính xấu như hút thuốc, một tuần phải nhậu với bè bạn một hay hai lần, tính quá ngay thẳng của chàng đơi khi dễ mất lịng người, nhưng nếu ai hiểu chàng sẽ thấy rõ chàng đúng là bậc nam nhi khơng yếu hèn nhu nhược, khơng sợ hãi một áp lực nào, khơng bao giờ biết luồn cúi nịnh bợ một ai…
Chàng giận nàng nhiều phen vì khi quen chàng, nàng vẫn cịn vài ba người theo đuổi, nàng luơn tránh né khơng thể hiện tình yêu thương đối với chàng trước thiên hạ, cĩ lẽ nàng khơng thấy hãnh diện khi đi song đơi với chàng ? ï Chàng nghĩ thế và tức giận chia tay nàng – tưởng nàng sẽ chạy đi tìm kiếm chàng, nàng im lặng và chấp nhận chia tay. Thật tâm nàng rất thương yêu chàng nhưng cĩ lẽ do nàng khĩ tính, nàng muốn người mình yêu phải tồn bích, nàng muốn chàng là mẫu người ít nĩi, khiêm nhường, nàng muốn chàng khơng là người ăn chơi, hút thuốc, uống rượu…
Hai năm chia tay, chàng và nàng vẫn thường xuyên gọi phone thăm nhau, an ủi và nhắc nhở giữ gìn sức khởe, thỉnh thoảng nàng nấu mĩn gì ngon vẫn mang đến cho chàng dùng, họ xem nhau như bạn thân, nhiều lúc máy computer của nàng trục trặc, nàng gọi là chàng đến ngay dù đang bề bộn cơng việc nhà hay sở làm, chàng sẽ xin hãng về đi Bác Sĩ là xong ngay.
Một ngày nọ, chàng gọi điện thoại bảo nàng chờ chàng xuống nhà mời nàng đi ăn, hai người cùng đi chung một chiếc xe của chàng. Xe khơng vào tiệm ăn mà lại chạy thẳng đến Macy’s.- Nàng ngạc nhiên “ Ở Macy’s cĩ gì mà ăn, sao lại vào đĩ?” Chàng khơng nĩi khơng rằng, chỉ cười và im lặng chạy vào parking đậu xe.
Chàng nắm tay nàng hỏi nhỏ : Em cĩ nhớ hơm nay là ngày gì khơng ?
Nàng giật mình : Ơ, hơm nay là ngày 25 tháng 7 – Ngày sinh nhật của em.
Chàng bẹo vào má nàng : Em thật hư, ngày sinh nhật cũng khơng nhớ nữa, vào đây anh mua quà Birthday tặng em… Và chàng mua một chai dầu thơm Red Door hiệu Elizabeth Arden loại lớn tặng nàng. Chiều hơm ấy chàng khơng đi làm, khai bệnh và chở nàng đi chơi biển San Francisco. Trên đường đi chàng hỏi : Em bây giờ ra sao ? Anh khơng được diễm phúc săn sĩc cho em những lúc em đau ốm như ngày nào, anh buồn lắm, nhưng định mệnh buộc thế, em chê anh thì đành phải xa nhau, tuy lịng anh lúc nào cũng hướng về em cả…Chàng nĩi câu đĩ xong thì thở dài, nàng chợt nhớ lại chuyện đã qua khoảng hai năm về trước. Nàng đau nặng, hai chân bị sưng đỏ từ đầu gối, nàng khơng đi được, hàng ngày chàng đến săn sĩc cho nàng, lo cho nàng ăn uống, thậm chí lo luơn việc vệ sinh cá nhân cho nàng, chàng cõng nàng đưa ra xe đi bệnh viện, đến bệnh viện chàng lại cõng nàng vào bệnh viện, một tháng trời như thế, bao nhiêu là vất vả chàng vẫn cười vui hân hoan khi được săn sĩc nàng… Nàng nhìn vào mắt chàng lúc ấy đang u sầu như cĩ một màn mây buồn giăng phủ, mắt nàng cũng long lanh đơi dịng lệ, tại sao hai đứa vẫn thương nhau mà phải xa nhau ? nàng nghĩ thầm, phải chăng vì cái tơi hai người quá lớn, vì tự ái, vì tự trọng chấp nhận xa nhau để trái tim hai người cùng nhức buốt !
Chiều hơm đĩ, trước phút chia tay chàng khơng hơn nàng như những ngày tháng cịn yêu thương nhau, chàng nghiêm nghị bắt tay nàng và chúc nàng tìm được người xứng đáng hơn chàng rồi lặng lẽ lái xe đi với đơi mắt buồn dịu vợi ! Cầm mĩn quà sinh nhật trên tay nàng khơng ngăn được giọt lệ, xa nhau khơng ai lo cho chàng miếng ăn thức uống, chàng gầy ốm đi nhiều, nhưng chàng vẫn khơng quên ngày sinh nhật của nàng…
Một cảm nhận của vơ thức báo cho nàng biết khơng cĩ ngày đồn viên cùng chàng qua những bài thơ mang đầy hình ảnh của sự trối trăn, của người sắp xa lìa trần thế, một lần nàng đi về Việt Nam, nàng đã biết khơng cịn chàng để đưa nàng ra phi trường nữa, nàng nhờ hai người anh thân quen trong làng văn thi phú đưa nàng đến phi trường. Khi hành lý đã lên xe thì từ đâu chàng xuất hiện, nàng phân vân khơng biết tính lẽ nào trong giây phút nhưng rồi lý trí buộc nàng phải cho xe chạy, chàng chạy theo sau đến tận phi trường, khi hành lý của nàng đã gởi xong sắp sửa chào hai người anh đưa tiễn thì chàng bước vào, cả ba người cùng tiễn chân nàng đến cửa cuối cách ly. Chàng nĩi nhanh và thật nhỏ “ Anh chờ em đến trọn đời” rồi chàng ứa lệ bước nhanh đi trong dịng người chen chúc xơ bồ, nàng nhìn theo đến khi chàng khuất dạng, tận cõi lịng nàng dâng lên niềm lưu luyến vơ bờ, khơng biết rồi…ngày mai sẽ ra sao ? Chàng vẫn khơng thể quên nàng khi nàng đã thẳng thắn chấp nhận chia tay chàng và bài thơ mới tuần trước chàng gởi tới, nĩ theo nàng trên chuyến bay, nĩ là niềm xao động khiến nàng quên ăn bỏ ngủ, nàng như cĩ một linh tính cực mạnh về tâm linh, nàng về thăm gia đình mà lịng dạ khơng yên, khoảng đường dài trên phi cơ đã cho nàng thuộc lịng bài thơ chàng gởi cho nàng trong bài thơ như cĩ điềm chẳng lành :
“ Tình trong tim chẳng thể nhịa, thì thơi vậy nhé tơi xa bụi hồng, cịn chi đâu nữa mà mong, cịn gì đâu nữa đành xong một đời, thống trong mơ cĩ nhớ người, xin em gửi giĩ cho tơi một lời, thinh khơng tơi sẽ mĩm cười, ngàn năm mây trắng cuối trời mây bay”
Lá thư này đã hành hạ nàng hơn hai tuần tại quê nhà, nàng buồn và ray rứt khơn nguơi, nàng chả thiết tha gì mĩn ngon vật lạ, khơng bước ra khỏi nhà, khơng màng chi bè bạn tới thăm…rồi một đêm khuya khi nàng đang trằn trọc, điện thoại reo vang, nàng nhấc lên nghe “ Xin cho tơi gặp cơ N gấp, tơi từ Mỹ gọi về”nàng hồi hộp lạ thường, tiếng người đàn bà trong phone nghe rất lạ, nàng chưa kịp trả lời thì đầu giây kia đã nĩi tiếp “ xin vui lịng cho tơi gặp cơ N gấp, tơi cĩ chuyện rất quan trọng” nàng vội nĩi “ tơi đây, thưa bà cĩ chuyện gì cần đến tơi ?” Đầu giây điện thoại nĩi gấp gáp “ N hả, em cĩ thể về Mỹ ngay khơng, chị Thanh đây, H ngày mai mổ tim, nĩ nhắn em về Mỹ gấp”. Chị gái của chàng nĩi trong phone, nàng rụng rời tay chân vì biết mổ tim rất nguy hiểm, mất mạng như chơi… Nàng vội vàng đổi vé về gấp nhưng khơng cĩ chỗ đành chờ đến 2 tuần sau mới cĩ chỗ cho nàng về Mỹ. Bốn hơm sau, nửa đêm phone reo, giọng chàng cứ tưởng như tiếng nĩi từ oan hồn vọng về, thều thào hổn hển “ em ơi, anh H đây, mổ tim xong rồi, anh thốt chết rồi, mong em về gấp”, dù biết trong tình trạng cấp bách thế nào nàng cũng khơng thể về Mỹ ngay được, hơn một tuần sau đĩ nàng lên phi trường và về với chàng, mong được săn sĩc chàng với cả niềm thương yêu cịn chất nặng trong tâm.
Chàng vừa mổ tim được gần 2 tuần, nghe nàng về vội mang hai nạng khập khểnh bước ra sân đĩn, da chàng xanh mét, tái nhợt… Miệng cười méo xệch nhưng trong mắt tràn niềm vui, chàng nĩi giọng thật yếu ớt “ Mừng quá, anh mừng quá, em đã về với anh”, chàng di chuyển trên hai nạng rất khĩ khăn, trơng mà tội nghiệp chàng quá ! Ngày nào oai phong, bây giờ thê thảm như thế…
Hai năm xa nhau vì cái tơi, vì tự ái, bây giờ người yêu của nàng ra nơng nỗi như vậy, trái tim nàng se sắt lại, phải lo lắng cho chàng để bù đắp những khổ đau xưa, nàng săn sĩc người yêu từng ly từng tí, khơng cho chàng ăn những thứ cĩ thể làm cương mủ vết thương, lồng ngực chàng bị cưa đơi, vết thương rất nặng khơng giữ gìn kỹ lưỡng chết như chơi !
Chàng thì coi thường tính mạng mình, mới mổ tim chưa trọn 3 tuần đã đi dự đám cưới con gái anh chi Nhạc Sĩ Lynh Phương, đi nạng mà dành nàng lái xe, lên sân khấu với hai chiếc nạng để giới thiệu những bạn thân văn thi hữu và người yêu chàng tham dự. Nàng xĩt xa khi nghe giọng chàng run run và yếu ớt hẵn khơng giống như những ngày nào chàng sang sảng trên sân khấu với vai trị điều hợp chương trình. Nàng nhớ rất rõ về chàng, về tình yêu chàng đã dành cho nàng, bất cứ một buổi nào dù văn chương thi phú hay đám cưới chàng luơn coi nàng là đề tài quan trọng, luơn nhắc đến nàng, giới thiệu nàng và đọc thơ tặng nàng trên sân khấu. Chàng trân trọng nàng như thế, tình yêu chàng trao trọn cho nàng nên hai năm tạm xa nhau chàng thực tế vẫn khơng thấy quen ai, duy cĩ một lần vì tức giận nàng chàng quen một người đàn bà tương đối khá đẹp, nhưng chỉ sau một thời gian ngắn chàng chia tay, chàng cĩ tâm sự trên phone với nàng “ Anh chỉ tơn trọng người chân chính, đàng hồng, anh khĩ lịng chấp nhận những người đàn bà khơng đoan chính, quan hệ bừa bãi, nên anh đã chào chia tay cơ ta”…
Ngày tháng lại trơi qua lạêng lẽ, hai người vẫn sống cơ đơn trong nhức buốt, nhưng trong lịng ấm áp vì thường xuyên gọi phone thăm hỏi sức khỏe, thỉnh thoảng mời nhau đi ăn, lái xe đi vịng vịng thung lũng hoa vàng. Chàng thường đùa với nàng “ Cuộc đời anh chẳng cịn ý nghĩa gì nữa, người ta sợ chết chứ anh thì mong chết đi cho khỏe tấm thân”, nàng thương xĩt vơ vàn nhưng chỉ âm thầm câm lặng vì giữa hai người khoảng cách tình yêu đã bị thời gian ngăn đơi, hai năm là một bức tường vơ hình khiến cả hai luơn bị mặc cảm nên khơng người nào cĩ thể hạ mình, người nào cũng phải làm ra vẽ ta đây cao thượng, ta đây bất cần !
Yên Bình ! Trong lúc đang viết những dịng tâm khúc này gởi đến anh, gởi về nơi xa thẳm muơn trùng, “ngàn năm mây trắng” như anh đã để lại cho em thì em gặp Đỗ Bình, bạn thân của anh từ Pháp qua, Đỗ Bình đã làm em xúc động đến rơi nước mắt, anh ấy nĩi rằng “ Thời gian Yên Bình qua Pháp, trong buổi tổ chức họp mặt đĩn Yên Bình trên 300 người, Yên Bình cứ luơn miệng nhắc NA, luơn miệng giới thiệu về những tác phẩm của nàng mà chàng mang theo qua Pháp, cử chỉ trân trọng thương yêu tuyệt vời này đã khiến Đỗ Bình khơng thể nào khơng xúc cảm và khơng thể quên được một tấm chân tình quá đẹp của đơi bạn thân”. Nàng ngồi lặng yên, hình dung lại người xưa, nước mắt rưng rưng, tâm tư nặng trĩu, anh cĩ cịn đâu cho em tạ lỗi, nào phải em chê anh khơng xứng đáng mà khơng dám giới thiệu là người yêu hay người tình, hoặc cơng khai trước mọi người. Chẳng qua vì là người đàn bà đã một lần gãy đổ tình duyên, em chấp nhận sống cơ đơn đã 20 năm qua, trái tim nguội lạnh mất rồi, lời tình đơi khi nghe như một biến cố thương đau, dù em hiểu anh rất yêu em, anh rất xứng đáng với em nhưng em vẫn chưa hồn tồn tin tưởng, anh vẫn cịn những cá tính mà em mang ấn tượng khơng phai nhịa từ người chồng cũ của em : Uống rượu, hút thuốc … Anh tha thứ cho em khi xác thân anh đã vui cùng mây giĩ mà em cịn nhắc đến chuyện xưa, làm người khơng ai tồn bích cả nhưng với em thì khĩ lịng hạnh phúc với người chồng uống rượu, hút thuốc hơi nhiều …

Những ngày tháng chăm sĩc, cơm nước cho chàng qua cơn mổ tim nguy kịch, chàng đã tạm khỏe nhưng cứ thường ỷ lại sức mình luơn tự lái xe khơng giữ sự an lành cho vết thương xẻ đơi lồng ngực, nàng thấy đã gần 3 tháng săn sĩc chàng, nàng cần phải đi xa một chuyến, nàng làm văn học mà khi bạn hữu phương xa tổ chức cho nàng, nàng khơng thể bỏ cuộc, thế là nàng xin phép chàng đi một tháng vì ra mắt sách của nàng hai nơi, luơn tiện thăm chị dâu và các cháu. Chàng một mình ở nhà tung hồnh, mời bạn đến nhậu, uống tồn rượu đắt tiền, khơng thèm uống bia, những mĩn nhậu thì tồn là lạc xưởng, gà chiên và các mĩn đầy những chất béo … Uống rượu, hút thuốc, lái xe, ăn nhiều chất béo, những thứ ấy làm tim chàng thêm một lần thắt nghẹn, bà chị cả hoảng sợ chở chàng trở lại bệnh viện O’ Conor, nơi mà ba tháng trước chàng đã mổ tim tại đây. Bác sĩ sau khi khám nghiệm lại đã bảo chàng thứ năm đến mổ lại lần hai, chàng về nhà gọi phone kêu nàng về gấp, lúc đĩ là thơì điểm gay go nhất, hai tịa cao ốc thương mại của Hoa Kỳ bị khủng bố oanh tạc dữ dội, người chết, cảnh máu lửa chan hịa cả một thành phố lớn, hàng ngày nàng chạy ra phi trường mong tìm chuyến bay trở về với chàng nhưng đều thất vọng, chiều tối nhìn trên màn ảnh cảnh điêu linh tàn phá chết chĩc của hàng vạn người dân vơ tội mà nước mắt chan hịa :
Cảnh tang thương dâu bể
Lịng nàng cũng nát tan
Hai tháp cao sụp đổ
Người chết sếp thành hàng
Người yêu miền Tây Bắc
Em dạ thắt tâm can
Đất bằng đang dậy sĩng
Biến cố ngập gian san
Đường bay ngưng hoạt động
Làm sao về hỡi chàng !

Đêm hơm đĩ chàng gọi phone bảo là Bác Sĩ hỗn ca mổ lại thứ hai, nhắn nàng cố gắng về đưa chàng đến bệnh viện. May mắn cho nàng hơm sau đường bay bắt đầu làm việc lại trong tư thế duyệt xét thật kỹ những hành khách lên tàu, cĩ mấy người hành khách bị giữ lại khi vừa bước qua phịng cách ly vì nhìn tổng quát giống bọn người khủng bố, da đen, râu xồm xồm, mắt láo liên nhìn chằm chằm vào kẻ khác – Mọi người hành khách cứ đưa mắt dáo dác nhìn hết người này sang người nọ, ai cũng một tâm trạng lo âu nếu chẳng may cĩ bọn khủng bố len lỏi làm hành khách lên máy bay thì tai họa đến cỡ nào …Thật là một chuyến đi hồi hộp, lo lắng hiện rõ từng nét mặt hiện diện.
Nàng về đến phi trường SJ lúc 8 giờ tối, chàng và anh trai nàng đi đĩn, anh trai nàng mang theo một chai rượu tây loại hảo hạng tặng cho chàng, chàng cười vui nhận và nĩi “ Sao anh biết ý em thế, em rất thích loại rượu này nhưng sẽ để dành khi nào khỏe mạnh mới uống”.
Chỉ một đêm tâm sự sau cùng, hơm sau đưa chàng vào bệnh viện mổ lại tim khơng ngờ chàng đã ra đi vĩnh viễn ! Chị chàng và nàng đưa chàng đến bệnh viện, chàng thay đồ bệnh nhân và đưa quần áo, giày của chàng cho nàng và bảo “ Em để ngồi sau cốp xe được rồi, sau 7 tiếng đồng hồ anh tỉnh dậy rồi thay quần áo về nhà cho tiện, đừng đem vơ nhà cất mất cơng”. Lúc chiếc xe đẩy chàng lên bàn mổ, chị gái chàng và nàng phải ra ngồi, nàng nhìn theo chiếc xe mà lịng chua xĩt, lúc nãy đơi mắt chàng nhìn theo người chị gái buồn vời vợi, nàng đọc được trong đơi mắt ấy một viễn ảnh chia ly ! Nàng đi gần xe hơn nhưng chàng khơng nhìn nàng mà chỉ nhìn người chị gái với đơi mắt như thế …
Lên bàn mổ từ 7 : 30 sáng, đến 11:30 khuya vẫn bặt tin, khơng ai cho nàng biết về tình trạng của chàng, bao thân nhân đã lần lượt nhận người nhà chỉ cịn nàng và người chị của chàng trơ trọi giữa đêm khuya với tâm tư chết điếng. Một y tá bước ra nĩi gấp gáp bằng tiếng Anh “ bệnh nhân nguy kịch, hãy vào nhìn mặt lần cuối cùng”. Hai chị em chạy vội theo khĩc ịa lên, chàng chỉ cịn là cái xác khơng hồn, tồn thân lạnh giá, máy đo tim chỉ chạy cầm chừng theo nhịp của máy trợ tim, nàng sờ mũi, chàng khơng cịn thở nữa, thơi rồi… muơn thuở biệt ly ! Nàng khĩc ngất ! Cuộc đời nàng lại thêm một lần đưa tiễn người yêu về với nghìn trùng ! Năm xưa nàng khơng trực diện cái chết của người tình đầu, bây giờ nàng đứng đây nhìn chàng nằm đĩ, khơng cịn nĩi với nhau một lời nào nữa, thân xác kia đã trở về cát bụi … mãi muơn đời chẳng cịn gặp nhau trên cõi dương gian, chàng ra đi quá sớm với tuổi 56 đang tràn trề sức sống và tình yêu, chàng ra đi để lại bao tiếc thương cho người thân và bằng hữu !!!
“ Anh cĩ nghe khơng, lời em tha thiết
Đắng cay nào hơn khúc nhạc chia ly
Buồn nào hơn kẻ ở tiễn người đi
Để vĩnh viễn khơng bao giờ tương hội !”
Chàng đã ra đi vĩnh viễn sau ngày đại nạn Hoa Kỳ 9/11/2001, ngày đưa tiễn chàng rất đơng bằng hữu đến tiễn chàng lần cuối, thân xác chàng hỏa thiêu trở về cát bụi, những bài thơ tiễn, những tâm tình phút cuối đã làm rơi lệ bao người, chàng nằm yên lặng như lắng nghe với đơi mắt nhắm nghiền chấp nhận giã từ trần tục, rời xa kiếp sống của lồi người, nợ áo cơm chàng trả lại nhân gian …ra đi với hai bàn tay trắng !

Đã 4 năm Yên Bình về với thiên nhiên , với cỏ cây hoa lá, hài cốt chàng được thân nhân mang về Việt Nam cho cơ con gái thờ phượng, chàng đâu ngờ con gái chàng vẫn bình yên mà chàng lại sớm ra đi ? Căn bệnh nan y dai dẳng của người con gái đầu lịng đã khiến chàng đau đớn triền miên lo cho sinh mạng của con mình nhiều tháng năm mất ăn, mất ngủ, nào ngờ … Yên Bình ! Tên của anh vẫn là Lê Xuân Hàm, và bút hiệu Yên Bình kia đã theo anh vĩnh viễn.
Trời lâm râm sương mù, mùa thu buồn vơ hạn, thi nhân thường hồi cảm với mùa thu và thi nhân cũng từ giã mùa thu ! Bên vầng trăng ảm đạm đêm nay, một người đang khĩc cho một người, nàng mượn ánh trăng thu viết gửi chàng trang tâm khúc của tâm tư, rồi mai đây đời trơi dạt về đâu nàng cũng thấy ấm lịng vì nàng biết cuộc đời như áng phù vân, hãy trao tặng nhau những gì cao đẹp nhất của tâm hồn mà ta cĩ được …

NPNA mùa thu 2005
Nguyenphanan
#6 Posted : Monday, November 14, 2005 12:42:31 AM(UTC)
Nguyenphanan

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 536
Points: 0

Tùy bút : NGUYỄN PHAN NGOC AN

ĐÔI BỜ…XÓT XA


Vào cuối thu khí hậu có phần mát mẻ dễ chịu, Hương bước ra phía ngoài hành lang hóng gió, nàng thấy trong lòng phơi phới thay cho một ngày nhọc mệt hôm qua…Hương thầm ao ước : Phải chi cha mẹ nàng ấm êm hạnh phúc thì đâu có cảnh nàng sống riêng với cha còn mẹ phải sống riêng với đứa cháu của nàng !
Hương thương yêu cha mẹ đừng đành bó tay không giải quyết được gì vì cha mẹ nàng đã sống ly thân khi nàng mới lên 10 tuổi. Mẹ nàng, một người đàn bà phúc hậu nhu mì luôn luôn chịu khó chịu cực vất vả buôn bán nuôi đàn con dại. Nàng có hai chị gái, một anh trai, một em trai, cha nàng trước đây là Phó giám đốc Hải Quân Công Xưởng tại tỉnh Gia định, thành phố Sài Gòn. Đã một thời ông du học nước ngoài nên ông nói được 5 thứ tiếng: Anh, Pháp, Đức, Nhựt, Trung Hoa rất lưu loát. Bây giờ ông đã trên 70, thỉnh thoảng ngồi nhắc lại dĩ vãng ông ngậm ngùi nuối tiếc và buông chuỗi thở dài áo não…
Năm 1962, một năm kỷ niệm đau buồn cho gia đình Hương. Cha mẹ ly thân, người chị thứ hai của Hương qua đời sau cơn bệnh hơi lạ thường. Chị thứ hai của Hương năm ấy vừa tròn 18 tuổi, sau hai hôm chị bệnh trên gò bàn chân nổi lên một cái mụt nhỏ bằng đầu đũa, mẹ nàng không đem chị vào bệnh viện chữa trị lại nghe hàng xóm mách bảo đem chị đến một thầy lang để thổi bùa. Ba ngày sau bệnh không thuyên giảm và chị đã trút hơi thở cuối cùng vào giữa trưa ngày 6/2/1962. Lúc ấy cha nàng đang làm việc ở Sài Gòn, anh trai nàng thì đang đi thi Trung học Đệ nhất cấp tại Bình Long…Gia cảnh đơn chiếc chỉ còn chị cả, mẹ và Hương cùng cậu em út vừa lên 7 tuổi. Chiều hôm đó được tin chị mất cha tức tốc về nhà, còn anh trai nàng ngày hôm sau cũng về đến.
Ngày lễ an táng chị tại nghĩa địa Việt Hoa, không hiểu vì sao ông thầy tụng kinh tự tay ném cả gói đồ nào là tượng phật, chuông mõ, hương đèn xuống mộ chị…đến khi đất đã lấp cao ông sực nhớ vội xăn tay áo toan dùng cuốc đào mộ lên để lấy lại những vật quý đó. Cha Hương vội ngăn cản :
- Con tôi đã chết rồi ! xin ông hãy để nó được nằm yên
Ông thầy tức tối lồng lộn nhưng cũng phải khuất phục vì tất cả mọi người không ai cho ông làm việc thất đức đó !
Hàng đêm hồn chị hiện về khóc lóc thảm thương trước hàng cây trứng cá trước hiên nhà, hàng xóm đã nhìn thấy nhiều lần và chính Hương cũng đã thấy, mẹ đi xem thầy họ bảo :
- Số nữ này không phải người của dương gian, cô ấy là tiên bị đọa, cô ấy trong sạch đến phút về trời xin đừng đau khổ mà hãy cầu nguyện thật nhiều cho cô ấy được nhẹ nhàng về cõi Phật…

Hương ngồi thật lâu trên bục cửa, nàng cố động não để nhớ về những hình ảnh xa xưa mà thời gian khó thể xóa mờ trong ký ức…Gió chiều hiu hiu thổi, những làn hơi buốt lạnh bắt đầu thấm vào da thịt, Hương mơ màng gởi hồn về cõi xa xăm ngày cũ…
Ngày ấy, chị thứ hai của Hương vừa tròn 15 tuổi, trong lớp học mà cha nàng vừa là giáo sư vừa là Hiệu trưởng có một chị tên Thiên Hương vừa bị bệnh qua đời. Các bạn báo tin, vì có nghịch ý nên chị hai cuả nàng trả lời hờ hững “ vậy hả, kệ họ”. Cha nghe được câu này dùng đòn gánh đánh chị đến ngất xỉu, bao nhiêu người can ngăn cha vẫn không hả giận còn quất luôn cả vào họ…Sau trận đòn thập tử nhất sinh chị ngã bệnh đến hai tháng sau mới khỏe. Chị là trụ cột của gia đình, hàng ngày chị phải vào vườn chặt củi, hái trái cây mang ra chợ bán, chị phải gánh một ngày cả mấy chục đôi nước cho gia đình nấu nướng tắm giặt mà gót chân chị vẫn đỏ như son, mẹ thường đùa với chị :
- Xuân Hương à ! Con làm việc vất vả quá mà sao gót chân cứ đỏ như son, mẹ tưởng tượng con là tiên chứ không phải người phàm Xuân Hương ạ !
Chị bật cười khanh khách :
- Mẹ nói lạ, con là con của mẹ mà ! Nếu con là tiên con phải về trời phải không mẹ ? nhưng mà con không thích về trời đâu vì con thương mẹ và em Giáng Hương lắm. Nói rồi nước mắt chị ứa ra, Giáng Hương cũng òa lên khóc, mẹ thì sụt sùi lấy khăn tay lau nước mắt !
Bây giờ chị đã nằm yên dưới lòng đất lạnh, mười tám tuổi xuân không có một mối tình, không có người yêu. Chị không đẹp lắm nhưng trắng trẻo tươi mát, hồn nhiên như ánh trăng rằm, rạng rỡ như nắng hồng giữa buổi bình minh. Chị không vướng nợ trần ai, không vướng mắc tình yêu để nhẹ nhàng về cõi phật…Hồn chị giờ này phiêu dạt nơi đâu ? Chị có thấu hiểu cho em, Giáng Hương thương nhớ chị vô cùng ! Nàng gục đầu vào đôi bàn tay nức nở, màn đêm đã phủ kín không gian tự bao giờ !

Sáu năm sau ngày Xuân Hương mất, Giáng Hương đi lấy chồng, người nàng lấy không phải là người nàng yêu…Năm 16 tuổi nàng quen một người sĩ quan không quân nhân dịp nàng đi thăm các tiền đồn và ủy lạo chiến sĩ cùng phái đoàn. Nơi đây nàng đã gặp Hiển, một thanh niên người Bắc trang nghiêm thanh tú – Trên chuyến bay định mệnh chàng phi công đã xúc động khi đỡ nàng lên phi cơ, Giáng Hương tha thướt trong chiếc áo dài Cristal màu đỏ bó sát thân, Giáng Hương đã bắt gặp ánh mắt say đắm của Hiển trao gởi nàng làm Hương choáng ngợp. Giáng Hương còn nhớ rõ, lúc ấy Hiển chuyền tay lái lại cho phi công ngồi bên, chàng bước đến chỗ Hương trò chuyện, phi cơ ồn quá Hương không nghe được gì, Hiển rút trong túi ra một mảnh giấy trắng, dùng bút để viết chuyện trò với Giáng Hương – Hương và Hiển trao đổi qua những dòng chữ chứa chan tình cảm, hồi đó tự dưng Hương viết trong giấy tên mình là Trang Thiên Tâm, cái tên mà Hương thích từ lâu, nghỉ rằng sau này có cơ hội làm gì đó sẽ dùng tên này là bút hiệu – Phi cơ từ từ hạ cánh, đã về đến phi trường Vũng Tàu, Hương bâng khuâng giây phút rồi nhẹ nhàng bước ra khỏi phi cơ, Hiển vội vã bước theo nàng, cầm tay Hương hôn nhẹ, chàng xin Hương địa chỉ, Hương vui vẻ chập nhận cho chàng địa chỉ, trong lòng Hương đang dâng lên một cảm tình rào rạt, Hiển khôi ngô tuấn tú, điềm đạm và thừa lịch sự với phái nữ…
Từ sau ngày đó, Hiển thường xuyên thư từ và đến nhà thăm Hương, chàng mang những món quà từ Đà Lạt về tặng nàng – Trong niềm trân quý chân thành Hiển và Hương đã yêu nhau tha thiết, chàng mời Hương đến gia đình thăm mẹ và chị gái của chàng.
Rồi đông qua, xuân sang, hạ đến, chàng biền biệt tăm hơi, người con gái ngây thơ đã thấm thía nỗi đau của tuổi đầu đời ! Nàng quên ăn bỏ ngủ, đêm chong đèn thao thức suốt năm canh…Hiển ơi, sao anh nỡ phụ em, anh nỡ bỏ em, em nào có tội tình chi để cho anh phụ bạc ? Đã nhiều đêm Hương khóc thầm, khổ đau đã khiến nàng trở nên lầm lì ít nói, còn đâu vẻ hồn nhiên nhí nhảnh ngày nào…Nàng bắt đầu mượn thơ làm bạn, mượn trăng làm đèn hầu vơi bớt nỗi ưu phiền đang trĩu nặng lòng riêng…
Tưởng đã yên với những bất hạnh đầu đời, nhưng rồi định số an bài, nàng quen Quang, một sĩ quan của trường tình báo. Quang hết lòng yêu mến Giáng Hương và xin cho bằng được để cưới nàng – Hương từ chối vì chưa quên được Hiển, một chiều Hương nhận được một lá thư Quang gởi về nội dung “ Đời binh nghiệp anh không biết được ngày mai còn mất, xin Hương bằng lòng cho anh làm lễ hỏi rồi chừng nào em cho phép dù là mấy năm sau mới tổ chức đám cưới anh cũng bằng lòng – nếu em từ chối lần này nữa thì coi như cuộc đời anh đã đi xuống vực sâu, anh sẽ chờ Hương đến thăm anh, nếu em thương anh thật tình và đồng ý lời cầu xin của anh, trên tay em sẽ cầm một trái chanh màu xanh, bằng ngược lại trên tay em sẽ cầm một chiếc khăn màu đỏ, như thế anh sẽ hiểu được ý em và Hương ơi anh sẽ chết”… Hương đọc thư nước mắt rưng rưng, nàng cầm lòng không đặng rủ Xuân Mai cùng xóm đi tiền đồn thăm Quang, đến nơi nàng không cầm gì cả nhưng Xuân Mai đã đọc thư của Hương nên khôn khéo cầm theo trái chanh màu xanh, đến cổng quận Xuân Mai tung trái chanh lên trời, Quang đã thấy và mừng rỡ ra tận cửa quận đón hai người vào – Mặt Quang còn đỏ bừng vì men rượu đêm qua, chàng tưởng Hương tuyệt tình nên vùi đầu vào men rượu để tìm quên…

Một tiệc cưới linh đình vào giữa mùa thu 25/8 Âm lịch, ngày lên xe hoa cũng là ngày xót xa nhất, Giáng Hương đã khóc thật nhiều cho mối tình đã mất, tất cả chỉ còn dư âm chua chát mà thôi ! Hiển ơi, giờ này anh ở đâu ? chắc anh đang hạnh phúc ấm êm với người trong mộng ước…riêng em, ngày hạnh phúc cũng là ngày tan nát cõi lòng em ! Quang vô tình chẳng hiểu nỗi đau sâu kín của Hương, chàng liên tục nhảy đầm với các cô dâu phụ, điều đó đã làm Hương bất mãn và tự nhủ thầm “ mặc kệ, ra sao thì ra”…
Quang là sĩ quan trẻ, năm ấy vừa tròn 25 tuổi, Giáng Hương 17 tuổi. Sống với nhau một thời gian Hương mới rõ Quang ăn chơi bay bướm không thiếu món gì, tính tình thì nóng nảy hung hăng và ngạo mạn đã vài lần làm phiền lòng cha mẹ Hương. Nàng khổ tâm quá, nàng đã tự rước tai họa cho mình vì với bản chất Quang nàng sẽ là người bất hạnh !
Chuông reo ngoài cổng, người đưa thư mang đến cho nàng một lá thư…Nhìn nét chữ quen thuộc ngoài phong bì Hương giật bắn cả người…Thư của Hiển… Nàng vội vàng xé bao thư và hấp tấp đọc như sợ ai giành mất của mình – Bỗng Hương khóc nức nở chạy nhanh vào phòng đóng sập cửa lại …Quang đi công tác xa, Hương về chơi với cha mẹ nên mới may mắn nhận được lá thư này – Muộn màng rồi Hiển ơi, em nào có biết nỗi cay đắng cuộc đời anh hơn một năm qua, em tưởng anh đã phụ em rồi ! Nào ngờ phi cơ trúng đạn và anh sa vào tay giặc, bây giờ anh vượt ngục về với em thì hỡi ơi còn gì nữa đâu ngoài tấm hình hài phản bội trên xác thân mục nát tủi hờn…Nàng nghĩ đến cái chết ! Đúng, chỉ có cái chết mới nguôi được niềm đau và chuộc tội cùng chàng. Xin hãy tha thứ cho em !
Tiếng gõ cửa nhè nhẹ, Hương uống vội 10 viên thuốc ngủ xong ra mở cửa cho mẹ vì nàng biết giờ này mẹ chờ nàng ra ăn cơm tối – mẹ nhìn Hương lo ngại, sắc mặt bơ phờ thiễu não của nàng làm mẹ lo lắng…Mẹ hỏi Hương không trả lời mà chỉ khóc, những giọt lệ thương đau kia cũng chẳng vơi được nỗi chất chứa trong lòng Hương – Mẹ ơi, chỉ khoảnh khắc nữa thôi con chẳng còn nhìn được mẹ thân yêu, chẳng nói được một lời nào nữa ! Nàng khóc ngất, mẹ sinh nghi la hoảng lên gọi xe đưa nàng vào bệnh viện…Thế là nàng lại sống, một cuộc sống ngục tù, một cuộc sống mong manh hơn loài cỏ dại mang trên mình bản án phụ tình…
Lá thư thứ hai Hiển gởi về sau khi Hương trả lời dối chàng là cha mẹ sắp đặt chuyện hôn nhân nên xin chàng tha tội và xin hẹn kiếp lai sinh trùng phùng…Lời thư đầy khổ đau báo hung tin người anh tử trận tại Long Thành, “ trong một lúc mà trái tim hai lần tan vỡ, anh chết, người yêu phụ bạc, tôi có còn gì đâu là niềm tin để sống, đã mất em vĩnh viễn rồi ! Tâm ơi, đây là lời nói cuối cùng và cũng là lá thư cuối cùng ! vĩnh biệt em…”
Một đêm kia trời nổi cơn bão lớn, sấm chớp rền vang cả một góc trời, Hương thu mình co ro trong chiếc chăn run rẩy…cũng mưa gió như mọi lần sao hôm nay nàng thấy khác lạ, lo sợ hồi hộp vô cùng ! Đã lỡ kiếp tằm trong bến đục, chỉ còn mong tái tạo cõi lai sinh, nàng nửa mê nửa tỉnh thiếp dần trong giấc ngủ cô đơn…
Hiển mở cửa bước vào, chiếc áo trận dính đầy máu đỏ, chàng lặng lẽ nhìn Hương trong giấc ngủ chập chờn, đưa tay vuốt nhẹ tóc nàng, đặt lên mái tóc một nụ hôn buồn rồi âm thầm bước ra cửa…Chàng đã đi, đi thật xa…Hương choàng tỉnh, nàng hoảng hốt tông cửa chạy ra sân. Bầu trời tối đen như mực, sấm chớp vẫn lập lòe, cả không gian đang chìm ngập trong biển đêm ghê rợn ! Hương rùng mình sợ hãi chạy vội vào nhà, rõ ràng nàng vừa gặp Hiển trong mơ – chàng đã gặp việc chẳng lành, máu thấm đỏ chiến y, chàng không nói một lời nào, đôi mắt buồn vời vợi…
Sáng hôm sau Hương tức tốc về Đà Lạt tìm tin tức Hiển, gia đình cho biết chàng đã rớt máy bay trong một phi vụ và không tìm thấy xác ! Hương đau đớn tột cùng, nàng tưởng tượng vừa gây ra tội ác…Hiển chết là hết tất cả rồi ! nàng không còn cơ hội chuộc lại tội phụ tình, muôn thuở không còn gặp mặt người yêu !
Chị của Hiển trao cho Hương một phong bì dán kín – Nàng mở ra xem, dòng mực còn mới nguyên, nét chữ thân thương còn đây mà anh giờ đã ra người thiên cổ ! Hương còn biết than thở cùng ai cho vơi bớt cơn bão lòng đang dâng lên ngùn ngụt ! “ Em chối bỏ tình tôi vì chữ hiếu, hay vì tôi không xứng đáng để em yêu, hay vì tôi là kẻ đến buổi chiều, chậm chân bước người kia về buổi sáng, bao nhiêu mộng tan vào mây khói trắng, bao nhiêu mơ chấp cánh vút xa rồi, tình yêu đó còn gì nữa em ơi, Vũng Tàu, Đà Lạt ngàn đời chia ly…” Hương gục xuống ôm ngực, hậu quả ngày nay là do nàng gây ra, nàng không thể phủ nhận điều đó ? Đã vay thì phải trả, nàng biết suốt cuộc đời còn lại nàng sẽ chẳng bao giờ tìm được tình yêu !…
Sau ngày được tin Hiển mất, Hương như người vừa rớt xuống vực sâu, thoi thóp từng giờ, lúc nào cũng hình dung Hiển đang bên cạnh trách hờn bằng đôi mắt lặng buồn ! Hương không chịu nỗi với những đêm dài vô tận, nàng không sao ngủ được…Hình ảnh người yêu cứ chập chờn đâu đó, nàng vùng dậy trong đêm khuya mượn bút mực trải niềm u uất, nàng làm thơ cho Hiển, cho người tình muôn thuở của nàng – Những bài thơ từ tận cùng trái tim nàng gởi qua vài tờ báo – Tờ Phụ Nữ Diễn Đàn và tờ Phụ Nữ Ngày Mai do bà Bút Trà là chủ nhiệm, đã đăng những bài thơ thương tâm đó, lúc đầu nàng dùng bút hiệu Trang Thiên Tâm, nhưng nàng đau đớn khóc hoài nên nàng đổi lại là Uyên Thi…
Ba tháng sau đó Quang buộc nàng phải theo chàng ra sống nơi đơn vị mới, một tỉnh lỵ nhỏ nhoi xa lạ và buồn tẻ – Trong cuộc đời mới nàng đã gặp lắm bão giông, đã đo lường được trái tim Quang và bản chất của chàng…Hương biết chắc sớm muộn gì nàng cũng phải chia tay !
Năm 1971, người chị cả của Hương qua đời, được tin như sét đánh Hương bàng hoàng khăn gói về quê để kịp đưa tiễn chị lần cuối cùng ! Chị hạ sanh bé gái được hai hôm, hoàn cảnh đơn chiếc, anh rể tối ngày lân la rượu chè lại thêm tật bồ bịch lăng nhăng – anh ta đi suốt đêm đến sáng mới về, chị nghe mấy con heo trong chuồng đói la suốt đêm nên cằn nhằn anh rể, anh ta lớn tiếng gây sự và thách thức, chị tức lên máu sản hậu chận và chị đã tắt thở sau 5 ngày nằm bệnh viện…bỏ lại 4 con thơ, đứa nhỏ nhất vừa tròn một tuần tuổi !
Anh rể họ Trần … nhẫn tâm mang tình nhân về ngủ trong phòng khi xác chị vừa nằm yên trong lòng đất được 3 hôm. Hồn linh vất vưởng chị hiện về báo oán, chị bẻ tay mụ tình nhân và nói rằng : “ Vì mầy mà con tao khổ, vì mầy mà tao xác phải lìa thân” mụ ta hoảng vía kinh hồn xúi ông anh rể bán nhà dọn hết đồ đạc đi nơi khác…
Ngày giỗ thất tuần của chị, anh rể bưng một mâm trầu cau xin cha mẹ vợ cho anh được tái hôn vì lý do con dại, hoàn cảnh gà trống nuôi con, nhưng thật sự mẹ ruột anh đã lãnh nuôi đứa bé mới sinh, còn 3 đứa lớn sống với bà ngoại – Người anh rể tán tận lương tâm, hậu quả phải lãnh…thời gian sau mụ vợ kế mỗi lần gây lộn là phang anh bằng ghế, bằng cây đến sứt đầu đổ máu, anh ta càng ngày càng tàn tạ, mỗi lần tình cờ gặp, Hương thấy tội nghiệp nhưng nhớ lại chị mình chết oan uổng dưới bàn tay ác độc của anh ta, tự dưng Hương nguyền rủa “đáng đời cho kẻ bất nhân”.
Thời gian lặng lẽ trôi đi, các con của Hương đã lớn, đứa nhỏ nhất vừa tròn một tuổi thì chiến tranh lan tràn trên khắp nẻo quê hương, đâu đâu cũng sặc màu khói súng và máu người, Hương bồng bế con lánh nạn…Nàng đã trải qua biết bao cái chết, biết bao tai nạn mà có lẽ đời thường không ai tưởng tượng nổi ! Về với mẹ cha như cái xác không hồn, vá víu cuộc đời, nương tựa song thân để còn đủ nghị lực nuôi đàn con dại…nàng khổ cực thế nào cũng không than thở, chỉ mong các con khôn lớn nên người – Rồi chiến trận 30/04/1975 bùng nổ, tất cả mọi người bị vào tù cải tạo, Quang cũng thế…
Hương yên lòng với số phận đã an bài, ngày ra chợ buôn bán, chiều về lo cho con – Cuộc sống cũng tạm đủ vì Hương rất lanh lẹ tháo vát hội nhập cuộc sống mới. Lúc đầu Hương chỉ buôn bán thuốc tây lẻ, quần áo, chút ít vải vóc, sau đó nàng mở một sập vải lớn, cuộc sống khá ổn định.
Năm 1982 anh trai nàng đi tù cải tạo về, thực chất là ở tù Cộng Sản, anh hoạt bát giao tế giỏi và chịu lao động nên chỉ 6 tháng sau ngày ra tù anh được trả quyền công dân và đóng ghe hành nghề đánh cá trên biển…Ba tháng sau anh chính thức đứng tên chủ tàu và cho hai con trai của Hương làm thuyền viên tuy rằng chúng còn rất nhỏ – Năm 1983 anh cho tàu vượt biển tìm tự do mang theo hai đứa con của Hương đến miền đất hứa hầu giúp cháu mình tìm tương lai sáng sủa hơn – Trên đoạn đường đại dương muôn dặm, tưởng bao phen đã làm mồi cho cá sấu, cá voi…may thay vẫn còn hồng ân cứu mạng đưa ba cậu cháu đến bến bờ tự do…
Từ đó cảnh nhà đơn chiếc hơn, mẹ ăn chay niệm Phật tu hành sớm tối để cầu nguyện cho bá gia, cha về hưu không làm việc nữa, Hương thu xếp cho cha sống với mẹ con nàng nơi một căn nhà mới, mẹ sống căn nhà cũ với đứa cháu lên 10 con gái của người chị đã mất.
Ngày tháng lặng lẽ trôi, cây Quỳnh Hương đã mấy mùa thay lá, Dạ Lý Hương đã mấy đợt héo tàn, Hương vẫn âm thầm kéo lê kiếp tằm kéo kén nửa vời chửa xong – Niềm vui duy nhất cho nàng đủ nghị lực chống chọi với đời là mẹ, mẹ hiền hòa, mẹ từ bi nhân đức là tấm gương sáng chói lọi trong đời nàng – Hương đã là phật tử, là tín đồ lâu nay cũng là nhờ tấm gương của mẹ soi đường dẫn dắt nàng đi…
Một sáng mùa đông, sương mù còn đẫm ướt ngàn cây cỏ, một hung tin đến với nàng ! Mẹ ngã té dưới nền hoa và hôn mê sáu hôm liền. Hương hết lòng chạy lo cho mẹ nhưng đành chịu thua định mệnh – Mẹ trút hơi thở cuối cùng vào ngày 14/11/1989 Âm lịch – Mẹ ra đi mang theo bao hờn tủi vì suốt đời hy sinh cơ cực chỉ mong một điều được chết sau cha dù một năm để được đền bù, để được thơ thới tâm hồn bởi mẹ khổ với cha quá nhiều trong quãng đời chung sống !
Ngày Mẹ vĩnh viễn ra đi là ngày Hương đau đớn nhất, nàng ngất lịm dưới nền hoa bên quan tài của mẹ, nàng nghe như ai xé tim mình tan thành mảnh vụn – bầu trời như không còn ánh sáng, vạn vật chẳng hồi sinh và nàng…như chẳng còn tồn tại giữa thế gian – nàng bất tỉnh, bên tai còn nghe văng vẳng tiếng kêu cứu “ chú Đệ, dì cháu bất tỉnh, chú kêu dùm bác sĩ gấp chú ơi…”

NPNA

Nguyenphanan
#7 Posted : Thursday, November 17, 2005 2:41:30 PM(UTC)
Nguyenphanan

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 536
Points: 0

Kỷ niệm một chuyến đi
Tùy bút : Nguyễn Phan Ngọc An

Còn ba tháng nữa mới đến ngày Ðại Hội Văn Chương PNVNHN do nhà thơ Quốc Nam tổ chức tại Thành phố Seattle, nơi đã được nhà thơ Quốc Nam đặt cho một mỹ danh “Cao Nguyên Tình Xanh” và tôi còn nhớ rõ cũng chính người thi sĩ này đã đặt cho quê hương thứ hai của tôi biệt danh “ Thung Lũng Hoa Vàng”- Phải công nhận anh có những ý tưởng thật độc đáo, những địa danh dễ thương này tôi nghĩ sẽ còn lưu lại mai sau…
Nói về thi sĩ Quốc Nam thì nhiều người biết lắm, bởi vì anh luôn là người năng nổ và đầy sáng tạo, anh đã làm những việc mà với người thích nhàn hạ không thể nào làm nổi, công việc của anh làm đòi hỏi quá nhiều thời gian, khả năng và sức khỏe cộng thêm ý chí kiên cường … “Dù ai nói ngửa nói nghiêng, lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân”
Anh sáng lập Cơ sở văn hóa Ðông Phương, Giải ca sĩ Tượng Vàng và bây giờ tổ chức Ðại Hội để vinh danh những phụ nữ cầm bút, làm truyền thông …Một điều hãnh diện vô cùng cho chị em chúng tôi, những phụ nữ chấp nhận nghiệp dĩ cho mình, một cái nghề không kiếm ra tiền mà phải đánh đổi bằng tim óc, đôi khi còn bức xúc với tình người. Bản thân tôi nhiều khi cũng muốn dẹp phức cái nghề thơ văn lẩm cẩm này đi để tìm cho mình một hướng đi mới … Nhưng mà … có được đâu, vắng nó, xa nó, lại buồn. Ðời tôi đã trót mang lấy nghiệp dĩ này mấy chục năm rồi. Tôi vui, tôi buồn nó đều chia xẻ với tôi thì không lý gì tôi phản bội lại cái tình của nó, và chính trái tim tôi đã vinh danh cho nó :
“Ðời còn gì đẹp để trao nhau
Lớp phấn son xưa cũng nhạt màu
Nhan sắc khuynh thành rồi cũng úa
Hồn thơ còn mãi đến ngàn sau …”
Vì nó là linh hồn của tôi nên sau khi nhận được thư mời từ anh Quốc Nam, tôi đã không ngại ngần gì lục tìm một số địa chỉ thi văn nữ quen biết gửi qua giúp anh có thêm địa chỉ mà phổ biến thư mời rộng rãi … Rồi thì tuần sau lại nhận được chương trình, tuần sau lại nhận được những thông tin mới …Tôi phục anh, vì tôi hiểu rằng anh không chỉ gửi cho tôi mà trái lại cả bao nhiêu người anh phải gửi, dù họ tham dự được hay không ngày Ðại Hội.
Thấm thoát cái ngày vinh hạnh này đã đến , tôi xác định điều này vì từ trước tới nay có một ai nghĩ đến những người cầm bút, làm truyền thông dù là nam hay nữ, chúng tôi lặng lẽ như những bóng mờ và cứ tự mình cố gắng vực mình lên trong muôn ngàn trở ngại xung quanh bằng cách ra mắt sách, ra mắt thơ, ra mắt đài, ra mắt báo …Không hẵn những buổi ra mắt được đông đảo hưởng ứng vì nhiều nguyên nhân, có thể vì thực tài không đủ, có thể vì không quen biết rộng rãi, có thể vì không được mọi người thương mến, có thể vì không nổi tiếng…có thể … có thể … trăm ngàn lý do cho một buổi ra mắt thành công hay thất bại, nhưng người cầm bút vẫn không nản chí, với ước mơ được dàn trải nỗi niềm cùng đọc giả trên những cuốn sách mình xuất bản, những trang web, những trang báo và ước mơ duy nhất vẫn là mong sao chữ Việt, ngôn ngữ Việt được gìn giữ và phát huy nơi hải ngoại …
Trên tầng mây cao màu trắng đục, chiếc phi cơ nhẹ nhàng như lướt trên nhung, tôi nghĩ đến những gương mặt sẽ gặp, nhất là chị Mỹ Dung phu nhân anh Quốc Nam. Tám năm rồi còn gì, từ khi tôi chia tay anh chị tại đài phát thanh Sàigòn Radio còn trên đường Rainier, cùng những gương mặt thân quen và cả những gương mặt chưa một lần quen biết … Ðây là dịp trùng phùng hiếm có, bởi dễ gì với trăm ngàn công việc vây quanh, sống chung một tiểu bang mà có khi cả 10 năm không gặp, huống hồ xa lắc xa lơ. Ðến phi trường Sea Tac tôi gọi phone, người đón tôi là nhà thơ Trần Thế Phong, hàn huyên mấy câu tôi thật cảm mến người bạn mới này, không ngờ anh cũng là người cầm bút đã lâu năm mà lại là cháu kêu thi họa sĩ Vũ Hối bằng cậu . Với thái độ nghiêm trang, nói năng điềm đạm tôi đoán không sai, anh là cựu Sĩ quan QLVNCH –
Về tới cơ sở chính của anh chị Quốc Nam nằm trên khoảng đất cao riêng biệt, một tượng vàng đứng giữa nắng mưa như chào đón chúng tôi, đôi mắt như đang nhìn chúng tôi thân thiện, đôi môi như mĩm cười welcome chúng tôi đến từ khắp nơi…Vui quá khi tôi gặp các chị và mỗi người tự giới thiệu, một người mà tôi nói chuyện mấy lần trên phone, chị bắt tôi đoán là ai, không cần đắn đo, tôi đoán đúng phóc liền- Ban Tổ Chức quá chu đáo, chúng tôi đến khác ngày, khác giờ vẫn có các anh ra tận phi trường đón như anh Phong, anh Thượng, anh Kim Anh … đặc biệt là các anh ai cũng là nhà văn, nhà thơ và đều là sĩ quan QLVNCH – Anh Thượng còn có bút hiệu nhà thơ Hoàng Mai Nhất. Ðêm đầu tiên chúng tôi đã gặp được các vị thân hào nhân sĩ, truyền thông, báo chí, Ðại tá Phạm Huy Sảnh chủ tịch cựu quân nhân QLVNCH, bà chủ tịch cộng đồng Vancouver Canada Nguyễn Thị Ngọc Dung, chủ tịch cộng đồng Seattle ông Tăng Phước Trọng, bà Tăng Xuân Hoa phu nhân ông Trọng lại là chủ tịch Hội phụ nữ Mê Linh, một hình ảnh oai hùng của nữ lưu VN , tự nhiên tôi nhớ đến Bà Trưng, Bà Triệu khi chúng tôi được bà Hoa cho trang phục những chiếc áo dài và khăn đóng màu vàng đậm để lên làm lễ chào quốc kỳ tại buổi vinh danh, hình ảnh uy nghi hai bà cỡi voi, đánh giặc cùng huyền thoại hai bà trầm mình dưới sông Hát Giang giữ khí tiết người anh thư phi thường đã đi vào lịch sử mấy ngàn năm … Rồi tôi lại liên tưởng đến các nhà văn thơ nữ thời tiền chiến, một thời đại xa xưa phong kiến bị cấm đoán mọi điều , vậy mà cũng có biết bao nữ văn thi nhân vào lịch sử như Bà Huyện Thanh Quan, Bà Hồ Xuân Hương, Bà Ðoàn Thị Ðiểm … với những tác phẩm tuyệt vời, còn lưu lại như Chinh Phụ Ngâm, Qua Ðèo Ngang, Thăng Long hoài cổ v .v… … Thời đại kế tiếp thì có các bà TTKH, Tương Phố …Tôi cũng rất ngưỡng mộ những người cầm bút hiện đại quá tuổi cổ lai hi thật nhiều, cái tuổi gần đất xa trời mà tâm hồn vẫn tràn trề tình yêu non sông như cụ nữ sĩ Trùng Quang, đã 95 tuổi vẫn làm thơ, viết văn, viết kịch … mới đây bà sáng tác một bài thơ Ðường đậm tình đất nước quê hương :
BÚT NGỎ LỜI
Mấy chục năm cư ngụ xứ ngoài
Nỗi niềm ai có khác chi ai
Ðường xưa lối cũ bao lưu luyến
Ðất lạ trời xa những ngậm ngùi
Núi Tản, Trường Sơn mây tản mạn
Cửu Long, sông Nhị nước đầy vơi
Ðông Tây Nam Bắc ngàn tâm sự
Ngời sáng mùa trăng bút ngỏ lời
TRÙNG QUANG

Chúng tôi những kẻ hậu sinh, là những thế hệ sau rất ngưỡng mộ các bà, các bà đã đóng góp rất nhiều cho lịch sử và cho nền văn học VN từ bao thế kỷ qua …chúng tôi với ý nguyện cùng nhau góp chút tài hèn đóng góp những dòng văn, thơ với tâm nguyện mong mỏi dân tộc VN vươn lên trong tương lai tươi sáng với một cuộc sống tự do, hưng thịnh.
Ba ngày Ðại Hội đã diễn ra nhịp nhàng và thành công tốt đẹp - Bốn sự kiện quan trọng và nổi bật của Ðại Hội là những chấm son không thể phai mờ :
1- Ðoàn diễn hành trên đại lộ South Jackson qua khu Little Saigon Seattle và International District dẫn đầu bởi chiếc xe chở “ liberty bell” nặng 4500lbs. Các sĩ quan QLVNCH phối hợp cùng khoảng 10 xe police Hoa Kỳ yểm trợ đoàn phụ nữ diễn hành trên 18 chiếc xe hơi cắm hai bên hai lá cờ Việt Mỹ bay phất phới, mỗi người ngồi một chiếc. Những bàn tay vẫy chào mừng trên đường lộ khiến chúng tôi cảm nhận một niềm vui khó tả …
2- Buổi chợ sách thật có một không hai, trong vòng 2 tiếng đồng hồ, quan khách đã ủng hộ toàn bộ 18 chiếc bàn trưng bày sách văn thơ của các nữ văn thi sĩ được tổ chức tại ngôi chùa Cổ Lâm lớn nhất của thành phố Seattle, Hội chợ Sách được cắt băng khai mạc với những vị lãnh đạo các tôn giáo chức quyền tại địa phương.
3- Chúng tôi gồm 36 người lên núi Rainier trương cờ vàng cắm trên đỉnh núi, mưa lất phất đoàn người vẫn ung dung hớn hở leo lên đỉnh cao tung cờ hát vang “Cờ bay … cờ bay trên thành phố thân yêu …” Nhà điêu khắc gia Phạm Thông và phu nhân buộc miệng “ hình ảnh này đẹp quá, oai hùng quá, nếu được phép chúng tôi sẽ thực hiện một tượng đài phụ nữ cắm cờ vàng trên đỉnh Rainier “…
4- Buổi lễ vinh danh càng khiến 18 chị em chúng tôi xúc động hơn, chúng tôi biết rằng trong buổi vinh danh còn có nhiều nhà văn nhà thơ nữ kỳ cựu tham dự, các chị đã từng viết rất nhiều trên báo chí hải ngoại và cả từ khi còn trong nước, nhưng vì chưa xuất bản một tuyển tập nào nên rất tiếc không nằm trong danh sách được vinh danh. Chúng tôi cũng hiểu rằng 18 chị em chúng tôi là biểu tượng cho một số đông đảo phụ nữ cầm bút, báo, đài bởi một số đông còn lại vì xa xôi hoặc vì bận rộn với công việc riêng, đã không đến được với buổi vinh danh này – Mong rằng sẽ được gặp gỡ các chị nếu có những buổi Ðại Hội tiếp tục sau này.
Những tấm lắc vinh danh trang trọng với những dòng chữ kỷ niệm của 4 cơ sở chính danh : Chủ tịch cộng đồng Oregon ông Nguyễn Bác Ái, chủ tịch cộng đồng Greater Vancouver BC Canada bà Nguyễn thị Ngọc Dung, chủ tịch cộng đồng người Việt Quốc Gia TB Washington ông Tăng Phước Trọng và Giám Ðốc cơ sở văn hoá Ðông Phương ông Quốc Nam. Trong số những vị thân hào nhân sĩ lên trao giải vinh danh còn có hai vị chức sắc cao cấp đương nhiệm của Hoa Kỳ là nữ Trung Tướng Sue Rahr, ông Nicolas Rocka, ông Quang Adam Nguyễn và một số nhân sĩ đến từ xa như Bác Sĩ Peter Morita, điêu khắc gia Phạm Thông, Thi sĩ Ðào Vĩnh Tuấn, nhà thơ Như Hoa Lê Quang Sinh, nhà văn Hải Triều, nhà văn Nhật Thịnh …
Làm sao quên được những lời chúc mừng thân thương dịu dàng từ các đàn chị Kiều Mỹ Duyên, Jakie Bông, Vũ thị Dạ Thảo … càng dễ thương hơn nữa với Thu Nga, Phong Thu, Vũ Hoài Mỹ … hai người đẹp có đôi Trúc Giang và Hiền Vy luôn được các đấng phu quân săn sóc chu đáo. Cô nhạc sĩ dịu dàng Nhật Hạnh, cô nhạc sĩ vui tính có biệt hiệu Miên Du Ðà Lạt, cô bé tài năng Mộng Tuyền ăn nói lưu loát còn hơn cả các đàn chị, và một nụ cười rạng rỡ dễ mến biểu lộ hạnh phúc tràn trề của nhà báo Chu Kim Oanh, còn các chị đầm thắm dịu hiền nữa như Kiều Mộng Hà, Khuê Dung, Hoàng Trúc Ly, Hoàng Xuyên Anh và Thu Khanh. Cảm động vô cùng với bài thơ Hồ Trường đầy hào khí của Nguyễn Bá Trác qua giọng ngâm điêu luyện hùng hồn của nhà thơ Ðào Vĩnh Tuấn, đương kim xử lý thường vụ Chủ tịch VBVNHN, rồi ca sĩ Shayla, Thiên Kim, Nhật Hạnh, Khánh Hồng …cất giọng oanh vàng, làm cho đêm Dạ tiệc Bóng Hồng Quê Hương thêm khởi sắc.
Ðã qua 2 tuần mà tôi vẫn không quên được chuyến đi đầy kỷ niệm này, bên tai tôi vẫn còn như văng vẳng âm thanh ngọt ngào của Trưởng Ban Tổ Chức ngày Ðại Hội, thi sĩ Quốc Nam “ Trải 5000 năm lịch sử, người phụ nữ đã đóng góp công sức lớn lao vào sự hưng thịnh của đất nước, sự trưởng thành của các cộng đồng Việt khắp nơi trên thế giới. Ðặc biệt là những phụ nữ cầm bút đã nói lên biết bao hy sinh và vinh nhục của nữ giới. Họ rất xứng đáng được quần chúng tuyên dương. Từ Ðại Hội vinh danh một số phụ nữ tài hoa hôm nay, chúng tôi chỉ muốn đốt lên ngọn lửa khích lệ nữ giới sẽ nhận lãnh nhiệm vụ trở lại quê hương làm lịch sử, dùng bàn tay nhân ái xoa dịu những vết thương dân tộc đã chịu đựng quá nhiều khổ đau suốt bao thế kỷ qua …”

Tiếng nói của người có công lao nhiều nhất trong ba ngày Ðại Hội vẫn vang mãi bên tai tôi và hình ảnh từng khuôn mặt vẫn cứ như còn hiện diện trước mắt tôi, trong đầu óc tôi, người phụ nữ có nụ cười nhân hậu, đức tính tuyệt vời đã support cho phu quân là thi sĩ Quốc Nam gặt hái thành công rực rỡ cho ngày Ðại Hội, và còn nữa, những mạnh thường quân, những hội đoàn, những thân hữu và cộng đồng Việt Nam miền Tây Bắc mà tôi vô cùng trân quý, hình ảnh các nữ lưu thân thương giờ này đã “tung cánh chim tìm về tổ ấm”, bay đi khắp nẻo đường đời. Một trong những anh đã làm công tác thiện nguyện đưa đón chị em chúng tôi trong ba ngày qua vẫn không ngại ngần bỏ ngày làm việc buổi sáng thứ hai đưa ba chúng tôi Vĩnh Tuấn, Thu Nga và tôi ra phi trường Sea Tac trở về chốn cũ, đó là nhà thơ Hoàng Mai Nhất, trên đường đi anh đọc lại bài thơ Em Sài Gòn do chính anh sáng tác, khiến chúng tôi càng ngậm ngùi thương nhớ quê hương và thầm phục những chiến sĩ lưu vong vẫn luôn giữ được tâm hồn văn chương cao quý…Những hình ảnh, những kỷ niệm vô vàn thân yêu của một chuyến đi vẫn còn thao thức mãi trong tôi…

NPNA– Thung Lũng Hoa Vàng San Jose
Nguyenphanan
#8 Posted : Thursday, November 24, 2005 1:52:38 AM(UTC)
Nguyenphanan

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 536
Points: 0

Tâm bút : Nguyễn Phan Ngọc An

NỖI BUỒN THƯƠNG TIẾC


Năm 1993 trong một dịp tình cờ tôi được quen biết nhà báo Tô Ngọc, qua lời kể của bạn anh thì tôi biết anh còn một mẹ già tròn 80 tuổi – Tôi vốn mồ côi mẹ đã lâu, nghe ai còn mẹ là lòng tôi dâng lên niềm cảm xúc, cứ ước gì còn mẹ để được bày tỏ sự thương yêu dành cho mẹ của mình …
Và tôi đã tìm đến thăm bác gái, mẹ anh Tô Ngọc – Bác có một khuôn mặt hiền từ nhân hậu, dù cao tuổi bác vẫn giữ được nét thanh tú với dáng dấp cao lớn, nước da trắng hồng. Tôi đã chuyện trò và thân quý bác từ lúc nào không hay, tôi rảnh giờ nào là xuống chở bác đi chùa, có một dịp Tết tôi và bác đi chùa vào sáng mồng một tại chùa Tàu trên đường Mckee – Hai bác cháu cũng diện áo quần chải chuốt bảnh bao và chụp chung với bác nhiều tấm hình tại chùa …
Ngày tháng qua đi, bác và anh Tô Ngọc sau khi lo đám cưới cho cậu Tấn, đứa con trai duy nhất của anh và là đứa cháu nội đích tôn của bác, bác và anh Ngọc dọn về Sacramento cư ngụ – Tôi cũng đã nhiều lần lên Sacto công việc và ghé thăm bác, trong tâm tôi quý trọng bác như mẹ của mình và bác cũng xem tôi như đứa con gái nuôi của bác, ở bác có rất nhiều đức tính tôi phải học, bác nói năng điềm đạm từ tốn … Tôi không thể nào quên một chuyến đi chơi du ngoạn đông người, trong đó có bác và anh Ngọc, nhìn anh chăm sóc bác mà tôi cảm phục, hai mái đầu bạc trắng của mẹ, của con, anh dẫn bác đi từng bước một, tôi đã buột miệng nói rằng : nhìn anh Ngọc nắm tay dìu bác đi ai mà nghĩ là hai mẹ con, hai mái tóc bạc phơ giống nhau, nếu nhìn phía sau lưng sẽ tưởng là hai người cùng trang tuổi hoặc là hai chị em thôi – Bác cười và nói : Thằng Ngọc con bác nó cứ như vậy thôi, lo cho mẹ chứ chẳng màng đến thân mình cháu ạ ! Nhìn nó già trước tuổi bác đau lòng quá, nhiều lần bác bảo nó lập gia đình để nó có niềm vui thì nó cứ trả lời : không cần đâu mẹ ạ ! con sống một mình quen rồi …
Bác là mẫu người đàn bà đức hạnh, tên tộc của bác là Trần Thị Bào, bác sinh năm 1913 ( Quý Sữu), thuờng thì nam Nhâm nữ Quý nên bác rất được sự quý mến trân trọng của mọi người khi tiếp xúc với bác. Bác lập gia đình năm 17 tuổi, cái tuổi đầy mộng mơ của đời người con gái, với công dung ngôn hạnh đủ đầy bác đã phải lòng Kịch tác gia Ngô Văn Thuật năm 1930 – Bác sinh được ba người con trai, hai người đầu và út đều mất khi còn nhỏ, chỉ giữ lại được quý tử Ngô Sĩ Tô Ngọc mà thôi …
Bác sống hạnh phúc với Kịch tác gia được 28 năm thì chồng bác ngã bệnh và mất ! Bác đau buồn trong cảnh mẹ góa con côi nhưng ý chí kiên cường, bác buôn bán lặn lội vất vả nuôi anh Tô Ngọc, với lứa tuổi trung niên mặn mà nhan sắc đã có rất nhiều người đàn ông theo đuổi nhưng bác vẫn thờ ơ lãnh đạm, đời của bác chỉ một người chồng và chồng chết thì ở vậy nuôi con ăn học thành người hữu dụng – Nhà báo Tô Ngọc lớn lên là một người con hiếu thảo vô cùng, quả không phụ tấm lòng yêu thương và hy sinh của mẹ mình, trước năm 1975 dưới thời Đệ nhất Cộng Hòa tại Sài Gòn chắc ít ai mà không biết tên tuổi ký giả Tô Ngọc của tờ Chính Luận nhật báo.
Sau khi Cộng Sản cưỡng chiếm toàn bộ Miền Nam Việt Nam và trong chiến dịch truy quét các văn nghệ sĩ thuộc chế độ VNCH , nhà báo Tô Ngọc bị CS bắt giam tại trại Gia Trung thuộc tỉnh Pleiku với tội danh “ văn nghệ sĩ chống cộng” … Bác ở nhà một mình vừa buồn vừa khóc cho thân phận đứa con duy nhất, không biết sinh mạng con mình sẽ ra sao ? đêm đêm bác đốt nhang ra sân cầu khẩn Phật Trời độ mang đứa con yêu quý, ban ngày bác buôn tảo bán tần kiếm tiền sinh nhai và để có tiền đi thăm anh Tô Ngọc đang ở tù tại một nơi rất xa thành phố Sài Gòn đến tám chín trăm cây số giữa rừng núi tây nguyên … Thời gian anh Tô Ngọc làm ký giả báo Chính Luận, anh đã yêu thương một người phụ nữ yêu kiều, có nét lai rất đẹp, hai người đã có với nhau một đứa con trai kháu khỉnh, đặt tên bé Tấn để mong tương lai sự nghiệp một ngày một tinh tấn và hạnh phúc mỗi ngày mỗi thăng hoa – Nhưng chuyện nợ duyên là định số an bài, anh chị phải chia tay và bé Tấn từ đó sống với bà nội, hơn mười năm anh Tô Ngọc chôn mình trong lao lý, lãnh biết bao đòn thù từ CS anh vẫn sống trong niềm đau thương con, nhớ mẹ ngập tràn tim óc và đã nhiều đêm anh thầm rơi lệ cho thân phận tù đày không biết được ngày nào xum họp với mẹ già con dại !
Hơn 10 năm tại trại tù tây nguyên Pleiku, anh được thuyên chuyển về trại Z.30D của Quận lỵ Hàm Tân thuộc tỉnh Phan Thiết và hai năm sau anh được trả tự do – Mười hai năm bác sống đơn độc tần tảo vất vả kiếm tiền nuôi con ở tù nuôi cháu ăn học, bác mong mỏi cho Tấn nên người tốt dẫu rằng sống trong một xã hội đen tối chẳng tương lai ! Ngày anh Tô Ngọc về với gia đình, đôi mắt bác sáng rực niềm vui, lòng bác tràn hy vọng … và 6 năm sau bác đã được theo anh và Tấùn đến miền đất tự do Hoa Kỳ theo diện HO.
Bác ơi, đêm nay con không ngủ được, ngồi viết những dòng tâm bút này cho bác, bên ngoài mùa đông cây lá xạt xào rung động như trong lòng con đang từng cơn cảm xúc dâng cao và nước mắt con đã rơi nhạt nhòa dòng chữ trước mặt rồi … Bác biết không, khi được tin bác mất từ anh Ngà cho hay, con bàng hoàng như trong giấc chiêm bao, dẫu biết rằng tuổi bác đã cao và bác đang bị bệnh từ hai tháng nay – Con lái xe mà như lão đão tay lái bác ơi, con thương con quý bác, một người phụ nữ đàm đang, một người đàn bà gương mẫu, một người mẹ hiền đã có những đức tính cao vời giống như người mẹ thân yêu của con đã khuất ! Con biết nói gì đây khi bác không còn trên cõi đời, không còn nghe con nói chuyện tâm tình, không cùng con thỉnh thoảng xiêm y đi thăm viếng các ngôi chùa để hương nhang cầu nguyện … Tất cả chỉ còn trong kỷ niệm, trong tim óc của con, còn bác thì đã yên ngủ giấc nghìn thu, bỏ lại dương trần đứa con trai yêu quý mà ngày nay đã là ông nội của một gia đình nho nhỏ là vợ chồng Tấn và hai con còn bé tí teo.
Ngày con lên viếng bác, ôi nhìn bác nằm ngủ trong tư thế an nhàn thảnh thơi, không biết lúc con đứng bên bác, con nói với bác những lời thầm thì nhắc chuyện ngày xưa, bác có nghe không nhỉ – Con tin rằng bác nghe con nói, bởi suốt cuộc đời thánh thiện thanh cao hồn bác sẽ linh thiêng mầu nhiệm để theo dõi cuộc sống trần gian, phù hộ con cháu và nhân quần xã hội và… phù hộ cho con nữa …
Gương mặt bác ốm đi nhiều so với khi bác chưa ngã bệnh, con ngậm ngùi theo đoàn người đưa tiễn bác đến lò hỏa thiêu, lửa đang cháy phừng phừng, con thương bác quá, chỉ đôi phút nửa thôi bác của con đã biến thành tro bụi, kiếp người là như thế, không ai tránh khỏi con đường sinh tử, con đứng chơ vơ không muốn dời chân khi thân xác bác đã hoà cùng tro bụi …
Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi
Để một mai tôi về làm cát bụi …
Giữa trưa nồng nhưng không nóng bức của miền Sacramento như có câu hát này từ không trung vọng xuống, có phải bác đang hát cho con nghe đấy không, sao tự nhiên ký ức con nhận diện rõ ràng gương mặt bác và con lặng lẽ buồn bước ra khỏi phòng hỏa thiêu để theo đoàn người xa bác mãi mãi.

Hai mái tóc bạc màu tuyết phủ
Sống êm đềm một giấc mơ chung
Con mong mẹ sống lâu trăm tuổi
Mẹ quý con thương cháu tận cùng

Gương tiết liệt thờ chồng mấy kẻ
Hy sinh đời xuân trẻ vì con
Bác đi một bước đã tròn
Xuân xanh bác đã mõi mòn chăn đơn
Công đức bác cháu con được hưởng
Cõi thiên thai mơ tưởng bác về
Đắm trong trần lụy ê chề
Chín mươi ba tuổi nặng nề châu thân
Nay bác đã mãn phần cõi tạm
Về rong chơi thanh lãm niết bàn
Bác vui và chớ lo toan
Gia đình con cháu trần gian xum vầy
Con của bác tình đầy nghĩa nặng
Sống thanh cao lòng chẳng tị hiềm
Công danh anh vẫn điềm nhiên
Phú quý anh cũng chẳng ghiền chẳng mê
Trong anh như nặng lời thề
Nên đời anh vẫn đi về cô đơn
Bảy mốt tuổi chẳng hờn chẳng giận
Tuổi hoa niên bay tận chân trời
Gửi tình theo gió chơi vơi
Niềm vui hòa với cuộc đời thế nhân
Gương sáng bác một thân nuôi trẻ
Anh quyết lòng giống mẹ nuôi con
Chữ hiếu anh đã vuông tròn
Đạo nghĩa anh đã dạy con nên người
Thiên thai bác hãy cười vui
Thảnh thơi trong chốn cõi trời thênh thang…

NPNA
Nguyenphanan
#9 Posted : Thursday, November 24, 2005 1:54:46 AM(UTC)
Nguyenphanan

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 536
Points: 0

Tâm bút : Nguyễn Phan Ngọc An

NỖI BUỒN THƯƠNG TIẾC


Năm 1993 trong một dịp tình cờ tôi được quen biết nhà báo Tô Ngọc, qua lời kể của bạn anh thì tôi biết anh còn một mẹ già tròn 80 tuổi – Tôi vốn mồ côi mẹ đã lâu, nghe ai còn mẹ là lòng tôi dâng lên niềm cảm xúc, cứ ước gì còn mẹ để được bày tỏ sự thương yêu dành cho mẹ của mình …
Và tôi đã tìm đến thăm bác gái, mẹ anh Tô Ngọc – Bác có một khuôn mặt hiền từ nhân hậu, dù cao tuổi bác vẫn giữ được nét thanh tú với dáng dấp cao lớn, nước da trắng hồng. Tôi đã chuyện trò và thân quý bác từ lúc nào không hay, tôi rảnh giờ nào là xuống chở bác đi chùa, có một dịp Tết tôi và bác đi chùa vào sáng mồng một tại chùa Tàu trên đường Mckee – Hai bác cháu cũng diện áo quần chải chuốt bảnh bao và chụp chung với bác nhiều tấm hình tại chùa …
Ngày tháng qua đi, bác và anh Tô Ngọc sau khi lo đám cưới cho cậu Tấn, đứa con trai duy nhất của anh và là đứa cháu nội đích tôn của bác, bác và anh Ngọc dọn về Sacramento cư ngụ – Tôi cũng đã nhiều lần lên Sacto công việc và ghé thăm bác, trong tâm tôi quý trọng bác như mẹ của mình và bác cũng xem tôi như đứa con gái nuôi của bác, ở bác có rất nhiều đức tính tôi phải học, bác nói năng điềm đạm từ tốn … Tôi không thể nào quên một chuyến đi chơi du ngoạn đông người, trong đó có bác và anh Ngọc, nhìn anh chăm sóc bác mà tôi cảm phục, hai mái đầu bạc trắng của mẹ, của con, anh dẫn bác đi từng bước một, tôi đã buột miệng nói rằng : nhìn anh Ngọc nắm tay dìu bác đi ai mà nghĩ là hai mẹ con, hai mái tóc bạc phơ giống nhau, nếu nhìn phía sau lưng sẽ tưởng là hai người cùng trang tuổi hoặc là hai chị em thôi – Bác cười và nói : Thằng Ngọc con bác nó cứ như vậy thôi, lo cho mẹ chứ chẳng màng đến thân mình cháu ạ ! Nhìn nó già trước tuổi bác đau lòng quá, nhiều lần bác bảo nó lập gia đình để nó có niềm vui thì nó cứ trả lời : không cần đâu mẹ ạ ! con sống một mình quen rồi …
Bác là mẫu người đàn bà đức hạnh, tên tộc của bác là Trần Thị Bào, bác sinh năm 1913 ( Quý Sữu), thuờng thì nam Nhâm nữ Quý nên bác rất được sự quý mến trân trọng của mọi người khi tiếp xúc với bác. Bác lập gia đình năm 17 tuổi, cái tuổi đầy mộng mơ của đời người con gái, với công dung ngôn hạnh đủ đầy bác đã phải lòng Kịch tác gia Ngô Văn Thuật năm 1930 – Bác sinh được ba người con trai, hai người đầu và út đều mất khi còn nhỏ, chỉ giữ lại được quý tử Ngô Sĩ Tô Ngọc mà thôi …
Bác sống hạnh phúc với Kịch tác gia được 28 năm thì chồng bác ngã bệnh và mất ! Bác đau buồn trong cảnh mẹ góa con côi nhưng ý chí kiên cường, bác buôn bán lặn lội vất vả nuôi anh Tô Ngọc, với lứa tuổi trung niên mặn mà nhan sắc đã có rất nhiều người đàn ông theo đuổi nhưng bác vẫn thờ ơ lãnh đạm, đời của bác chỉ một người chồng và chồng chết thì ở vậy nuôi con ăn học thành người hữu dụng – Nhà báo Tô Ngọc lớn lên là một người con hiếu thảo vô cùng, quả không phụ tấm lòng yêu thương và hy sinh của mẹ mình, trước năm 1975 dưới thời Đệ nhất Cộng Hòa tại Sài Gòn chắc ít ai mà không biết tên tuổi ký giả Tô Ngọc của tờ Chính Luận nhật báo.
Sau khi Cộng Sản cưỡng chiếm toàn bộ Miền Nam Việt Nam và trong chiến dịch truy quét các văn nghệ sĩ thuộc chế độ VNCH , nhà báo Tô Ngọc bị CS bắt giam tại trại Gia Trung thuộc tỉnh Pleiku với tội danh “ văn nghệ sĩ chống cộng” … Bác ở nhà một mình vừa buồn vừa khóc cho thân phận đứa con duy nhất, không biết sinh mạng con mình sẽ ra sao ? đêm đêm bác đốt nhang ra sân cầu khẩn Phật Trời độ mang đứa con yêu quý, ban ngày bác buôn tảo bán tần kiếm tiền sinh nhai và để có tiền đi thăm anh Tô Ngọc đang ở tù tại một nơi rất xa thành phố Sài Gòn đến tám chín trăm cây số giữa rừng núi tây nguyên … Thời gian anh Tô Ngọc làm ký giả báo Chính Luận, anh đã yêu thương một người phụ nữ yêu kiều, có nét lai rất đẹp, hai người đã có với nhau một đứa con trai kháu khỉnh, đặt tên bé Tấn để mong tương lai sự nghiệp một ngày một tinh tấn và hạnh phúc mỗi ngày mỗi thăng hoa – Nhưng chuyện nợ duyên là định số an bài, anh chị phải chia tay và bé Tấn từ đó sống với bà nội, hơn mười năm anh Tô Ngọc chôn mình trong lao lý, lãnh biết bao đòn thù từ CS anh vẫn sống trong niềm đau thương con, nhớ mẹ ngập tràn tim óc và đã nhiều đêm anh thầm rơi lệ cho thân phận tù đày không biết được ngày nào xum họp với mẹ già con dại !
Hơn 10 năm tại trại tù tây nguyên Pleiku, anh được thuyên chuyển về trại Z.30D của Quận lỵ Hàm Tân thuộc tỉnh Phan Thiết và hai năm sau anh được trả tự do – Mười hai năm bác sống đơn độc tần tảo vất vả kiếm tiền nuôi con ở tù nuôi cháu ăn học, bác mong mỏi cho Tấn nên người tốt dẫu rằng sống trong một xã hội đen tối chẳng tương lai ! Ngày anh Tô Ngọc về với gia đình, đôi mắt bác sáng rực niềm vui, lòng bác tràn hy vọng … và 6 năm sau bác đã được theo anh và Tấùn đến miền đất tự do Hoa Kỳ theo diện HO.
Bác ơi, đêm nay con không ngủ được, ngồi viết những dòng tâm bút này cho bác, bên ngoài mùa đông cây lá xạt xào rung động như trong lòng con đang từng cơn cảm xúc dâng cao và nước mắt con đã rơi nhạt nhòa dòng chữ trước mặt rồi … Bác biết không, khi được tin bác mất từ anh Ngà cho hay, con bàng hoàng như trong giấc chiêm bao, dẫu biết rằng tuổi bác đã cao và bác đang bị bệnh từ hai tháng nay – Con lái xe mà như lão đão tay lái bác ơi, con thương con quý bác, một người phụ nữ đàm đang, một người đàn bà gương mẫu, một người mẹ hiền đã có những đức tính cao vời giống như người mẹ thân yêu của con đã khuất ! Con biết nói gì đây khi bác không còn trên cõi đời, không còn nghe con nói chuyện tâm tình, không cùng con thỉnh thoảng xiêm y đi thăm viếng các ngôi chùa để hương nhang cầu nguyện … Tất cả chỉ còn trong kỷ niệm, trong tim óc của con, còn bác thì đã yên ngủ giấc nghìn thu, bỏ lại dương trần đứa con trai yêu quý mà ngày nay đã là ông nội của một gia đình nho nhỏ là vợ chồng Tấn và hai con còn bé tí teo.
Ngày con lên viếng bác, ôi nhìn bác nằm ngủ trong tư thế an nhàn thảnh thơi, không biết lúc con đứng bên bác, con nói với bác những lời thầm thì nhắc chuyện ngày xưa, bác có nghe không nhỉ – Con tin rằng bác nghe con nói, bởi suốt cuộc đời thánh thiện thanh cao hồn bác sẽ linh thiêng mầu nhiệm để theo dõi cuộc sống trần gian, phù hộ con cháu và nhân quần xã hội và… phù hộ cho con nữa …
Gương mặt bác ốm đi nhiều so với khi bác chưa ngã bệnh, con ngậm ngùi theo đoàn người đưa tiễn bác đến lò hỏa thiêu, lửa đang cháy phừng phừng, con thương bác quá, chỉ đôi phút nửa thôi bác của con đã biến thành tro bụi, kiếp người là như thế, không ai tránh khỏi con đường sinh tử, con đứng chơ vơ không muốn dời chân khi thân xác bác đã hoà cùng tro bụi …
Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi
Để một mai tôi về làm cát bụi …
Giữa trưa nồng nhưng không nóng bức của miền Sacramento như có câu hát này từ không trung vọng xuống, có phải bác đang hát cho con nghe đấy không, sao tự nhiên ký ức con nhận diện rõ ràng gương mặt bác và con lặng lẽ buồn bước ra khỏi phòng hỏa thiêu để theo đoàn người xa bác mãi mãi.

Hai mái tóc bạc màu tuyết phủ
Sống êm đềm một giấc mơ chung
Con mong mẹ sống lâu trăm tuổi
Mẹ quý con thương cháu tận cùng

Gương tiết liệt thờ chồng mấy kẻ
Hy sinh đời xuân trẻ vì con
Bác đi một bước đã tròn
Xuân xanh bác đã mõi mòn chăn đơn
Công đức bác cháu con được hưởng
Cõi thiên thai mơ tưởng bác về
Đắm trong trần lụy ê chề
Chín mươi ba tuổi nặng nề châu thân
Nay bác đã mãn phần cõi tạm
Về rong chơi thanh lãm niết bàn
Bác vui và chớ lo toan
Gia đình con cháu trần gian xum vầy
Con của bác tình đầy nghĩa nặng
Sống thanh cao lòng chẳng tị hiềm
Công danh anh vẫn điềm nhiên
Phú quý anh cũng chẳng ghiền chẳng mê
Trong anh như nặng lời thề
Nên đời anh vẫn đi về cô đơn
Bảy mốt tuổi chẳng hờn chẳng giận
Tuổi hoa niên bay tận chân trời
Gửi tình theo gió chơi vơi
Niềm vui hòa với cuộc đời thế nhân
Gương sáng bác một thân nuôi trẻ
Anh quyết lòng giống mẹ nuôi con
Chữ hiếu anh đã vuông tròn
Đạo nghĩa anh đã dạy con nên người
Thiên thai bác hãy cười vui
Thảnh thơi trong chốn cõi trời thênh thang…

NPNA
Nguyenphanan
#10 Posted : Monday, December 26, 2005 2:37:12 AM(UTC)
Nguyenphanan

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 536
Points: 0

Bút ký : NGUYỄN PHAN NGOC AN

LỬA MÀU XANH

Chu kỳ trái đất, một năm có bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông…Thời tiết của bốn muà cũng khác biệt nhau, mùa Xuân ấm áp, mùa Hạ nóng nực, mùa Thu mát mẻ và mùa Đông rét lạnh…đó là khí hậu thực tại của chúng ta : Hoa Kỳ, còn các nước khác thật tình chúng ta không nắm rõ, duy nước Việt Nam yêu dấu của chúng ta thì bốn mùa cũng không lấy gì xác định rõ ràng lắm, bởi nóng dường như quanh năm, mùa đông cũng chả thấy lạnh bao giờ, chỉ hơi se lạnh vào dịp Noel mà thôi, bởi vậy những chiếc áo len dầy cộm, những áo Jacket hoặc thậm chí bộ Veston cũng khó lòng mà mặc vào những tiệc cưới thời điểm không phải là mùa Noel hay tết…
Ở Việt nam có hai mùa rõ rệt : Mùa nắng và mùa mưa, mưa thì ôi thôi…thối trời tối đất, cho nên cây cối có phần tốt tươi sầm uất, những ngọn núi chằng chịt cây xanh cao ngất chứ không là núi trọc như ở Hoa Kỳ này…những con đường trơn trợt vào mùa mưa, tai nạn giao thông xảy ra hàng ngày, hàng giờ, hàng phút…mưa như thác đổ, câu nói nầy rất đúng, những ngôi nhà có mái lợp bằng tôn lạnh hoặc tôn cemen cơn mưa lớn đổ xuống ầm ầm hòa lẫn tiếng sét, tiếng gầm của không gian long trời lở đất, ở trong nhà hồn vía cũng muốn bay lên mây đừng nói chi đang mắc kẹt ngoài đường phố hay nương rẩy … Cách đây khoảng 20 năm tại miền Tây ( hậu giang) đã có một vụ sét đánh người chết đứng giữa ruộng và thỉnh thoảng vẫn nghe thiên hạ bàn tán sét đánh vào nhà, sét đánh vào những tàng cây có người ẩn úp lúc mưa to …Việt Nam có những tình huống mà vào thời chiến tranh ở thập niên 50 những nơi vắng vẻ ít dân cư thường có ma, dân chúng đi xem cải lương về khuya, qua các cây lớn như cây da, cây me thường bị ma nhát, có khi con ma nó rớt từ cánh tay xuống, rồi rớt từ cái chân xuống, có khi cái đầu rơi xuống đất đánh phịch, cũng có khi trên lộ đêm lù lù một đống thật lớn, càng tới gần càng lớn lên chận cả ngã đường và lúc ấy người ta ù té chạy bán sống bán chết … Một việc mà tôi tin là đúng sự thật dù lúc ấy tôi chỉ lên 5 tuổi, nhưng đã in sâu trong tiềm thức không quên, Ba tôi đã bị ma dấu vào một hóc cây lớn khi ông đi họp về khuya, lúc đó đang thời kỳ phục hưng của thể chế Tổng Thống Ngô Đình Diệm, một nhà ái quốc anh minh và khí tiết, vào năm 1958 có lần ông Ngô Đình Diệm đích thân đến thăm trường tư thục Lạc Hồng do Ba tôi vừa làm Hiệu Trưởng vừa làm thầy giáo dạy học, Tổng Thống đã tặng Ba tôi 2000$ và gởi Ba tôi một bằng khen thưởng … ngày ấy tôi còn nhớ Tổng Thống mặc một bộ veston màu xám đen, đầu đội mũ nỉ xám có vành, tay cầm cây gậy ba- ton dài, gương mặt sáng tinh anh đầy phúc hậu, trước những hàng học sinh đứng nghiêm chỉnh chào Tổng Thống, tôi chỉ là con bé con nhỏ xíu đứng hàng đầu, Tổng Thống bước tới xoa đầu tôi cười nhân hậu với giọng Huế ngọt ngào “ học cho giỏi nhen con”… Giờ này ông đã đi thật xa vào thế giới vô hình và Ba tôi … cũng không còn nữa, nhưng kỷ niệm thì không bao giờ mất trong trí óc nhỏ nhoi này. Tôi vẫn còn nhớ rõ như in trong đầu những câu châm ngôn mà ba tôi viết bằng bút “Rong”rất đẹp treo trên tường để răn dạy học sinh : Trò chơi chẳng thiếu thứ gì, Trèo cây đánh lộn em thì chớ nên…Tiên học lễ, hậu học văn…tích thiện phùng thiện, tích ác phùng ác…Có học phải có hạnh…những câu châm ngôn đó là nền tảng của trường tư thục Lạc Hồng, sau này học sinh xuất thân từ trường của ba tôi đều nên danh phận – Trong huyện này không ai mà không biết ông giáo Tình, nhất là ông Quận Trưởng kính trọng và thân tình một mực với ba tôi … Cho đến bây giờ tôi cũng không tìm lại được từ bốn thập niên qua những nét chữ viết bằng bút Rong rất đẹp như của ba tôi – Thật tình mà nói ba tôi có thực tài về ngòi bút Rong, tôi tiếc là đã không học nghề của ba và sau đó cây bút Rong cũng bị quên lãng trôi dạt về đâu, dọn nhà về tỉnh Ba tôi phải lo kinh tế gia đình, ba tôi vào làm cho hãng Ba Xoong tại Gia Định với chức vụ Phó Giám Đốc vào năm 1960.
Lúc ba tôi còn dạy học, tôi nhớ có một lần Ba tôi đi họp trong quận vào buổi chiều lúc 4 giờ, không hiểu sao tới sáng hôm sau cũng không thấy về nhà, Mẹ tôi và các anh chị em tôi hộc tốc đi tìm, khi ngang qua hóc cây lớn nhìn sâu vào trong mới biết Ba tôi bị ma dấu trong hốc cây, miệng còn đầy những vải vụn nhét cứng không ú ớ được tiếng nào, chúng tôi phải đưa Ba tôi ra khỏi hốc cây và đưa về nhà, chừng tỉnh táo nghe Ba tôi kể lại mới thật sự biết là có ma dấu thật và từ đấy ít khi ai dám ra đường về đêm nữa …
Vào thời điểm chiến tranh, những biến cố như in đậm nét trong đầu tôi, tôi không thể nào quên được ngày chạy loạn, Ba Mẹ tôi lạc nhau, Mẹ tôi phải dìu dắt 5 con thơ trong vùng lửa đạn ngút trời, tôi lúc ấy vừa hơn 3 tuổi, em út tôi vừa hơn 1 tuổi, chạy trước đạn đuổi theo sau, mấy mẹ con tưởng đã chầu diêm vương mấy kiếp rồi ! Đêm đến không biết phải ẩn vào đâu qua đêm, mọi người chạy tán loạn cũng đã lạc mỗi người một hướng, Mẹ tôi túng cùng phải dẫn 5 chị em tôi vào núp trong một đám nương mì ( cây khoai mì) rậm rạp. Nửa đêm nghe tiếng voi gầm, càng lúc càng gần, mà đến mấy con voi gầm chứ không phải một con, khi chúng đến nơi Mẹ con tôi thiếu điều ngất xỉu, Mẹ tôi lấy hết bình tỉnh cầu nguyện Phật Trời, Thượng Đế cứu nguy … May thay, đàn voi quật ngã mấy cây chuối gần bên rồi bỏ đi, thế là mấy mẹ con tôi được sống, bây giờ nhớ lại lòng tôi nghẹn ngào, thổn thức bởi mẹ tôi cũng không còn trên thế gian này nữa !…
Tôi còn nhớ, Ba tôi là một học giả uyên thâm, ông giỏi nhiều ngôn ngữ và đã từng du học nước ngoài, năm đó vì tình hình phải ẩn thân nơi vùng thâm sơn cùng cốc, một chiều nọ có một toán công an vào nhà bắt Ba tôi đem về tỉnh Bà Rịa giam và điều tra tàn ác, chúng đổ nước lạnh vào mũi, châm điện chạy vào tay chân, Ba tôi vẫn cương quyết chịu đựng, bởi vì ông bị nghi ngờ, bắt oan thì biết gì để khai, cuối cùng chúng phải thả Ba tôi về sau khi đã giam giữ hành hạ 6 ngày liên tục, ba tôi về nhà ngồi buồn làm mấy câu thơ :
Hăm ba tháng chạp vừa qua
Công an chiến dịch vào nhà bắt tôi
Tưởng rằng có việc lôi thôi
Đem đi Bà Rịa giữ tôi sáu ngày
Điều tra liên tiếp ba ngày
Té ra chẳng biết chẳng hay việc gì
Về nhà ngày nghĩ đêm suy
Biết ơn chính phủ không khi nào bằng…
Từ đó gia đình tôi trong đầu đã phát sinh hình tượng hận thù lũ công an ác độc, nhưng vẫn phải sống tại nơi này không thể dời nhà đi đâu vì tình cảm xóm giềng, tình cảm của ông Quận Trưởng và nhất là tình cảm của phụ huynh, học sinh đang học với ba tôi…và nữa…đám vườn, đám ruộng bề bề mà ba Mẹ tôi đã đổ biết bao mồ hôi công sức…Tôi vẫn nhớ những ngày tết nơi đây, vào sáng mồng 1 tất cả mặc quần áo mới, dày giép mới đứng xếp hàng dài khoảng 60 đứa kéo nhau đi đến từng nhà hàng xóm, Ba tôi dẫn đi chúc tết để học sinh kiếm tiền lì xì mà…tới đâu là cả đám nghiêm chỉnh hát lên :
Chúng cháu là học sinh
Trường tư thục ông Tình
Đến đây chúc năm mới
Chúc may mắn suốt đời
Chúc sống lâu trăm tuổi
Chúc bình yên vô sự
Chúc gặp lành tránh dữ
Chúc hạnh phúc đời đời
Chúc phú quý nơi nơi
Chúng cháu có đôi lời
Đến đây chúc năm mới…

Năm nào cũng vậy, ngày tết vui không thể tưởng, đêm giao thừa thức sáng đêm không ai ngủ cả, già trẻ gái trai tụ họp hát hò, nấu bánh tét bánh chưng, đúng 12 giờ khuya dọn ra sân cúng giao thừa rồi nổ pháo rền trời, đặc biệt là ai về nhà nấy trước giao thừa, bởi tục lệ ông bà là như thế, không ai được ở nhà ai hoặc ngoài đường khi bước qua đầu năm mới, mồng 1 mồng 2 mồng 3 tết không được quét nhà cho nên mấy ngày tết nhà cửa tràn đầy những xác pháo đỏ, pháo hồng loạn xạ. Ngày nay những tục lệ đó đã bị phôi thai rồi, nhất là ở Hoa Kỳ, giao thừa chả mấy nhà cúng kiếng ngoài sân, mồng 1 tết 5 giờ sáng đã dậy lui cui bỏ cơm canh vào dỏ mang đi làm, chả cử kiêng sẽ cực suốt năm gì cả, cho nên dùng từ cày như trâu cũng không ngoa tí nào phải không thưa quý vị? Đã như thế thì còn tết với nhất gì nữa, ối chu choa…nhắc lại mà phát ớn , vậy mà tôi cũng chịu đựng được 15 cái tết như thế rồi đó các bạn ơi…ồ ! xin lỗi nhen, tôi nói hơi dóc bởi vì cái tết Quý Mùi tôi đã bị layoff rồi còn đâu, và tôi biết chắc rằng vài cái tết nữa tôi cũng chẳng tìm ra việc làm như ý đâu với tình trạng đất nước Hoa Kỳ trong cơn dâu bể, thế là tôi được mấy mùa xuân ngủ đã đời, ngủ để quên khỏi ra đường xuất hành, biết đi về đâu mà xuất hành xuất tỏi ? đời đã không đãi ngộ thì tìm kiếm chỉ mất công thôi các bạn ơi, “ có phần không cần gì lo” “ bôn ba không qua thời vận” mà lị…
Tôi còn nhớ vào khoảng năm 1968 tôi theo ông xã ra sống ở Quân Hàm Tân ( Tam Tân) thuộc tỉnh Bình Tuy, vào đầu xuân năm đó có chuyện rất lạ, nếu những ai cư ngụ tại quận nầy vào thời điểm đó không thể không biết…Chuyện là thế này :
Một hôm đột nhiên ngọn lửa từ đâu bốc cháy trên mái nhà hàng xóm sát nhà tôi đang ở, ngọn lửa màu xanh um không đỏ như những vụ cháy bình thường, mà rất lạ ngọn lửa cháy ngược lại với hướng gió thổi… chú lính leo lên dùng chân và bao cát dập tắt ngọn lửa, lạ lùng lửa không nóng, không hề xây xát gì chú lính cả, nhưng mái nhà vẫn bị cháy môät lõm lớn, một lát sau anh chị Trung sĩ Thành thách thức rằng : ma cỏ gì mà ma cỏ, lửa ma hả, cháy thử coi…tức thì ngay trong chiếc vali quần áo của anh chị phực lên ánh lửa cũng màu xanh và quần áo bên trong cháy rụi thành tro…Chuyện này đến tai ông Quận Trưởng lúc đó là Thiếu Tá Thiện ông công giáo nên không tin, ông đến nhà anh chị Thành nhìn cảnh tượng và nói : Tôi công giáo tôi không tin việc này, làm gì mà có ma lửa, tức thì mũi giày ông đang mang phát lên ngọn lửa, ông hoảng hốt kêu cứu, mọi người phải lấy bao cát dập tắt cho ông … Chuyện lạ nầy xảy ra liên tục trong vòng 4 tuần lễ, ai thách thức là cháy ngay trước mặt, cháy ngay bên cạnh hoặc cháy ngay nhà mình, cháy bất cứ đồ vật gì của người thách thức, tôi ngày ấy thê thảm lắm, cả ngày ở ngoài đường không dám vào nhà, sợ chết oan mạng, đồ đạc quý, tốt, giấy tờ cần thiết luôn nằm ở ngoài sân phòng khi cháy nhà còn giữ lại được những gì cần giữ…Thường thường là đến 2 giờ sáng mới dám vào nhà ngủ, mà cũng lạ lửa chỉ cháy vào ban ngày chứ không cháy vào ban đêm. Tình trạng nháo nhác ăn không được, ngủ không yên cả tháng trời cho quận lỵ Hàm Tân mà cho đến bây giờ tôi mới có dịp viết ra một sự thật lạ lùng này, trong đời tôi chắc chắn không thể gặp lần thứ 2. Nếu vị nào đọc được bút ký ngắn này, mà biết sự thật này, tức là nhân chứng sống hãy đến tìm tôi vì chắc chắn là hàng xóm của tôi trong thời điểm đó rồi bạn ạ ! Tôi không quen viết truyện, hồi ký hoặc làm thơ bằng hư cấu, tưởng tượng, cho nên những gì tôi viết ra đều là thật, thật đến 100% đó quý vị ạ !
Lửa màu xanh … trên thế gian này chỉ nghe và thấy toàn lửa màu đỏ, nhưng ở đây là lửa màu xanh – Một hiện tượng lạ lùng mà đời tôi chắc chỉ một lần nhìn trực diện, phải chi ngày đó được văn minh hiện đại như bây giờ thì chắc hẵn đã ghi lại trên những thước phim quay lịch sử – Việt Nam là một đất nước có nhiều chông gai hiểm trở, nhiều tài nguyên và cũng nhiều kỳ bí lạ lùng mà các nước lân bang không có được – Ngày nay trên xứ Hoa Kỳ văn minh, tôi không còn thấy được những huyền bí xa xưa mà thời tuổi nhỏ đã kinh qua – Đôi lúc nhớ quê hương qua những hình ảnh trong phim, qua những lần tiếp xúc bạn bè nhắc về một thời để nhớ … tôi ray rứt không ngủ được hằng bao đêm, tôi vẫn mong đất nước ngày thanh bình thịnh trị theo mong ước người lưu vong để đồng hương quay về xây lại tổ ấm mà hơn ba mươi năm đã mốc meo tàn tạ và riêng tôi sẽ tìm về quận lỵ Hàm Tân thăm viếng bạn bè, nhắc lại chuyện ngày xưa “ ngọn lửa màu xanh” mà cho đến bây giờ vẫn hằn dấu rất đậm trong đầu tôi, tôi tin chắc dù qua bao cuộc đổi thay vẫn còn những nhân chứng trực diện như tôi ngày xưa để nhắc về một câu chuyện huyền thoại kỳ bí xa xưa mà có thật …


NGUYỄN PHAN NGOC AN
















Bút ký : NGUYỄN PHAN NGOÏC AN

LỬA MÀU XANH

Chu kỳ trái đất, một năm có bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông…Thời tiết của bốn muà cũng khác biệt nhau, mùa Xuân ấm áp, mùa Hạ nóng nực, mùa Thu mát mẻ và mùa Đông rét lạnh…đó là khí hậu thực tại của chúng ta : Hoa Kỳ, còn các nước khác thật tình chúng ta không nắm rõ, duy nước Việt Nam yêu dấu của chúng ta thì bốn mùa cũng không lấy gì xác định rõ ràng lắm, bởi nóng dường như quanh năm, mùa đông cũng chả thấy lạnh bao giờ, chỉ hơi se lạnh vào dịp Noel mà thôi, bởi vậy những chiếc áo len dầy cộm, những áo Jacket hoặc thậm chí bộ Veston cũng khó lòng mà mặc vào những tiệc cưới thời điểm không phải là mùa Noel hay tết…
Ở Việt nam có hai mùa rõ rệt : Mùa nắng và mùa mưa, mưa thì ôi thôi…thối trời tối đất, cho nên cây cối có phần tốt tươi sầm uất, những ngọn núi chằng chịt cây xanh cao ngất chứ không là núi trọc như ở Hoa Kỳ này…những con đường trơn trợt vào mùa mưa, tai nạn giao thông xảy ra hàng ngày, hàng giờ, hàng phút…mưa như thác đổ, câu nói nầy rất đúng, những ngôi nhà có mái lợp bằng tôn lạnh hoặc tôn cemen cơn mưa lớn đổ xuống ầm ầm hòa lẫn tiếng sét, tiếng gầm của không gian long trời lở đất, ở trong nhà hồn vía cũng muốn bay lên mây đừng nói chi đang mắc kẹt ngoài đường phố hay nương rẩy … Cách đây khoảng 20 năm tại miền Tây ( hậu giang) đã có một vụ sét đánh người chết đứng giữa ruộng và thỉnh thoảng vẫn nghe thiên hạ bàn tán sét đánh vào nhà, sét đánh vào những tàng cây có người ẩn úp lúc mưa to …Việt Nam có những tình huống mà vào thời chiến tranh ở thập niên 50 những nơi vắng vẻ ít dân cư thường có ma, dân chúng đi xem cải lương về khuya, qua các cây lớn như cây da, cây me thường bị ma nhát, có khi con ma nó rớt từ cánh tay xuống, rồi rớt từ cái chân xuống, có khi cái đầu rơi xuống đất đánh phịch, cũng có khi trên lộ đêm lù lù một đống thật lớn, càng tới gần càng lớn lên chận cả ngã đường và lúc ấy người ta ù té chạy bán sống bán chết … Một việc mà tôi tin là đúng sự thật dù lúc ấy tôi chỉ lên 5 tuổi, nhưng đã in sâu trong tiềm thức không quên, Ba tôi đã bị ma dấu vào một hóc cây lớn khi ông đi họp về khuya, lúc đó đang thời kỳ phục hưng của thể chế Tổng Thống Ngô Đình Diệm, một nhà ái quốc anh minh và khí tiết, vào năm 1958 có lần ông Ngô Đình Diệm đích thân đến thăm trường tư thục Lạc Hồng do Ba tôi vừa làm Hiệu Trưởng vừa làm thầy giáo dạy học, Tổng Thống đã tặng Ba tôi 2000$ và gởi Ba tôi một bằng khen thưởng … ngày ấy tôi còn nhớ Tổng Thống mặc một bộ veston màu xám đen, đầu đội mũ nỉ xám có vành, tay cầm cây gậy ba- ton dài, gương mặt sáng tinh anh đầy phúc hậu, trước những hàng học sinh đứng nghiêm chỉnh chào Tổng Thống, tôi chỉ là con bé con nhỏ xíu đứng hàng đầu, Tổng Thống bước tới xoa đầu tôi cười nhân hậu với giọng Huế ngọt ngào “ học cho giỏi nhen con”… Giờ này ông đã đi thật xa vào thế giới vô hình và Ba tôi … cũng không còn nữa, nhưng kỷ niệm thì không bao giờ mất trong trí óc nhỏ nhoi này. Tôi vẫn còn nhớ rõ như in trong đầu những câu châm ngôn mà ba tôi viết bằng bút “Rong”rất đẹp treo trên tường để răn dạy học sinh : Trò chơi chẳng thiếu thứ gì, Trèo cây đánh lộn em thì chớ nên…Tiên học lễ, hậu học văn…tích thiện phùng thiện, tích ác phùng ác…Có học phải có hạnh…những câu châm ngôn đó là nền tảng của trường tư thục Lạc Hồng, sau này học sinh xuất thân từ trường của ba tôi đều nên danh phận – Trong huyện này không ai mà không biết ông giáo Tình, nhất là ông Quận Trưởng kính trọng và thân tình một mực với ba tôi … Cho đến bây giờ tôi cũng không tìm lại được từ bốn thập niên qua những nét chữ viết bằng bút Rong rất đẹp như của ba tôi – Thật tình mà nói ba tôi có thực tài về ngòi bút Rong, tôi tiếc là đã không học nghề của ba và sau đó cây bút Rong cũng bị quên lãng trôi dạt về đâu, dọn nhà về tỉnh Ba tôi phải lo kinh tế gia đình, ba tôi vào làm cho hãng Ba Xoong tại Gia Định với chức vụ Phó Giám Đốc vào năm 1960.
Lúc ba tôi còn dạy học, tôi nhớ có một lần Ba tôi đi họp trong quận vào buổi chiều lúc 4 giờ, không hiểu sao tới sáng hôm sau cũng không thấy về nhà, Mẹ tôi và các anh chị em tôi hộc tốc đi tìm, khi ngang qua hóc cây lớn nhìn sâu vào trong mới biết Ba tôi bị ma dấu trong hốc cây, miệng còn đầy những vải vụn nhét cứng không ú ớ được tiếng nào, chúng tôi phải đưa Ba tôi ra khỏi hốc cây và đưa về nhà, chừng tỉnh táo nghe Ba tôi kể lại mới thật sự biết là có ma dấu thật và từ đấy ít khi ai dám ra đường về đêm nữa …
Vào thời điểm chiến tranh, những biến cố như in đậm nét trong đầu tôi, tôi không thể nào quên được ngày chạy loạn, Ba Mẹ tôi lạc nhau, Mẹ tôi phải dìu dắt 5 con thơ trong vùng lửa đạn ngút trời, tôi lúc ấy vừa hơn 3 tuổi, em út tôi vừa hơn 1 tuổi, chạy trước đạn đuổi theo sau, mấy mẹ con tưởng đã chầu diêm vương mấy kiếp rồi ! Đêm đến không biết phải ẩn vào đâu qua đêm, mọi người chạy tán loạn cũng đã lạc mỗi người một hướng, Mẹ tôi túng cùng phải dẫn 5 chị em tôi vào núp trong một đám nương mì ( cây khoai mì) rậm rạp. Nửa đêm nghe tiếng voi gầm, càng lúc càng gần, mà đến mấy con voi gầm chứ không phải một con, khi chúng đến nơi Mẹ con tôi thiếu điều ngất xỉu, Mẹ tôi lấy hết bình tỉnh cầu nguyện Phật Trời, Thượng Đế cứu nguy … May thay, đàn voi quật ngã mấy cây chuối gần bên rồi bỏ đi, thế là mấy mẹ con tôi được sống, bây giờ nhớ lại lòng tôi nghẹn ngào, thổn thức bởi mẹ tôi cũng không còn trên thế gian này nữa !…
Tôi còn nhớ, Ba tôi là một học giả uyên thâm, ông giỏi nhiều ngôn ngữ và đã từng du học nước ngoài, năm đó vì tình hình phải ẩn thân nơi vùng thâm sơn cùng cốc, một chiều nọ có một toán công an vào nhà bắt Ba tôi đem về tỉnh Bà Rịa giam và điều tra tàn ác, chúng đổ nước lạnh vào mũi, châm điện chạy vào tay chân, Ba tôi vẫn cương quyết chịu đựng, bởi vì ông bị nghi ngờ, bắt oan thì biết gì để khai, cuối cùng chúng phải thả Ba tôi về sau khi đã giam giữ hành hạ 6 ngày liên tục, ba tôi về nhà ngồi buồn làm mấy câu thơ :
Hăm ba tháng chạp vừa qua
Công an chiến dịch vào nhà bắt tôi
Tưởng rằng có việc lôi thôi
Đem đi Bà Rịa giữ tôi sáu ngày
Điều tra liên tiếp ba ngày
Té ra chẳng biết chẳng hay việc gì
Về nhà ngày nghĩ đêm suy
Biết ơn chính phủ không khi nào bằng…
Từ đó gia đình tôi trong đầu đã phát sinh hình tượng hận thù lũ công an ác độc, nhưng vẫn phải sống tại nơi này không thể dời nhà đi đâu vì tình cảm xóm giềng, tình cảm của ông Quận Trưởng và nhất là tình cảm của phụ huynh, học sinh đang học với ba tôi…và nữa…đám vườn, đám ruộng bề bề mà ba Mẹ tôi đã đổ biết bao mồ hôi công sức…Tôi vẫn nhớ những ngày tết nơi đây, vào sáng mồng 1 tất cả mặc quần áo mới, dày giép mới đứng xếp hàng dài khoảng 60 đứa kéo nhau đi đến từng nhà hàng xóm, Ba tôi dẫn đi chúc tết để học sinh kiếm tiền lì xì mà…tới đâu là cả đám nghiêm chỉnh hát lên :
Chúng cháu là học sinh
Trường tư thục ông Tình
Đến đây chúc năm mới
Chúc may mắn suốt đời
Chúc sống lâu trăm tuổi
Chúc bình yên vô sự
Chúc gặp lành tránh dữ
Chúc hạnh phúc đời đời
Chúc phú quý nơi nơi
Chúng cháu có đôi lời
Đến đây chúc năm mới…

Năm nào cũng vậy, ngày tết vui không thể tưởng, đêm giao thừa thức sáng đêm không ai ngủ cả, già trẻ gái trai tụ họp hát hò, nấu bánh tét bánh chưng, đúng 12 giờ khuya dọn ra sân cúng giao thừa rồi nổ pháo rền trời, đặc biệt là ai về nhà nấy trước giao thừa, bởi tục lệ ông bà là như thế, không ai được ở nhà ai hoặc ngoài đường khi bước qua đầu năm mới, mồng 1 mồng 2 mồng 3 tết không được quét nhà cho nên mấy ngày tết nhà cửa tràn đầy những xác pháo đỏ, pháo hồng loạn xạ. Ngày nay những tục lệ đó đã bị phôi thai rồi, nhất là ở Hoa Kỳ, giao thừa chả mấy nhà cúng kiếng ngoài sân, mồng 1 tết 5 giờ sáng đã dậy lui cui bỏ cơm canh vào dỏ mang đi làm, chả cử kiêng sẽ cực suốt năm gì cả, cho nên dùng từ cày như trâu cũng không ngoa tí nào phải không thưa quý vị? Đã như thế thì còn tết với nhất gì nữa, ối chu choa…nhắc lại mà phát ớn , vậy mà tôi cũng chịu đựng được 15 cái tết như thế rồi đó các bạn ơi…ồ ! xin lỗi nhen, tôi nói hơi dóc bởi vì cái tết Quý Mùi tôi đã bị layoff rồi còn đâu, và tôi biết chắc rằng vài cái tết nữa tôi cũng chẳng tìm ra việc làm như ý đâu với tình trạng đất nước Hoa Kỳ trong cơn dâu bể, thế là tôi được mấy mùa xuân ngủ đã đời, ngủ để quên khỏi ra đường xuất hành, biết đi về đâu mà xuất hành xuất tỏi ? đời đã không đãi ngộ thì tìm kiếm chỉ mất công thôi các bạn ơi, “ có phần không cần gì lo” “ bôn ba không qua thời vận” mà lị…
Tôi còn nhớ vào khoảng năm 1968 tôi theo ông xã ra sống ở Quân Hàm Tân ( Tam Tân) thuộc tỉnh Bình Tuy, vào đầu xuân năm đó có chuyện rất lạ, nếu những ai cư ngụ tại quận nầy vào thời điểm đó không thể không biết…Chuyện là thế này :
Một hôm đột nhiên ngọn lửa từ đâu bốc cháy trên mái nhà hàng xóm sát nhà tôi đang ở, ngọn lửa màu xanh um không đỏ như những vụ cháy bình thường, mà rất lạ ngọn lửa cháy ngược lại với hướng gió thổi… chú lính leo lên dùng chân và bao cát dập tắt ngọn lửa, lạ lùng lửa không nóng, không hề xây xát gì chú lính cả, nhưng mái nhà vẫn bị cháy môät lõm lớn, một lát sau anh chị Trung sĩ Thành thách thức rằng : ma cỏ gì mà ma cỏ, lửa ma hả, cháy thử coi…tức thì ngay trong chiếc vali quần áo của anh chị phực lên ánh lửa cũng màu xanh và quần áo bên trong cháy rụi thành tro…Chuyện này đến tai ông Quận Trưởng lúc đó là Thiếu Tá Thiện ông công giáo nên không tin, ông đến nhà anh chị Thành nhìn cảnh tượng và nói : Tôi công giáo tôi không tin việc này, làm gì mà có ma lửa, tức thì mũi giày ông đang mang phát lên ngọn lửa, ông hoảng hốt kêu cứu, mọi người phải lấy bao cát dập tắt cho ông … Chuyện lạ nầy xảy ra liên tục trong vòng 4 tuần lễ, ai thách thức là cháy ngay trước mặt, cháy ngay bên cạnh hoặc cháy ngay nhà mình, cháy bất cứ đồ vật gì của người thách thức, tôi ngày ấy thê thảm lắm, cả ngày ở ngoài đường không dám vào nhà, sợ chết oan mạng, đồ đạc quý, tốt, giấy tờ cần thiết luôn nằm ở ngoài sân phòng khi cháy nhà còn giữ lại được những gì cần giữ…Thường thường là đến 2 giờ sáng mới dám vào nhà ngủ, mà cũng lạ lửa chỉ cháy vào ban ngày chứ không cháy vào ban đêm. Tình trạng nháo nhác ăn không được, ngủ không yên cả tháng trời cho quận lỵ Hàm Tân mà cho đến bây giờ tôi mới có dịp viết ra một sự thật lạ lùng này, trong đời tôi chắc chắn không thể gặp lần thứ 2. Nếu vị nào đọc được bút ký ngắn này, mà biết sự thật này, tức là nhân chứng sống hãy đến tìm tôi vì chắc chắn là hàng xóm của tôi trong thời điểm đó rồi bạn ạ ! Tôi không quen viết truyện, hồi ký hoặc làm thơ bằng hư cấu, tưởng tượng, cho nên những gì tôi viết ra đều là thật, thật đến 100% đó quý vị ạ !
Lửa màu xanh … trên thế gian này chỉ nghe và thấy toàn lửa màu đỏ, nhưng ở đây là lửa màu xanh – Một hiện tượng lạ lùng mà đời tôi chắc chỉ một lần nhìn trực diện, phải chi ngày đó được văn minh hiện đại như bây giờ thì chắc hẵn đã ghi lại trên những thước phim quay lịch sử – Việt Nam là một đất nước có nhiều chông gai hiểm trở, nhiều tài nguyên và cũng nhiều kỳ bí lạ lùng mà các nước lân bang không có được – Ngày nay trên xứ Hoa Kỳ văn minh, tôi không còn thấy được những huyền bí xa xưa mà thời tuổi nhỏ đã kinh qua – Đôi lúc nhớ quê hương qua những hình ảnh trong phim, qua những lần tiếp xúc bạn bè nhắc về một thời để nhớ … tôi ray rứt không ngủ được hằng bao đêm, tôi vẫn mong đất nước ngày thanh bình thịnh trị theo mong ước người lưu vong để đồng hương quay về xây lại tổ ấm mà hơn ba mươi năm đã mốc meo tàn tạ và riêng tôi sẽ tìm về quận lỵ Hàm Tân thăm viếng bạn bè, nhắc lại chuyện ngày xưa “ ngọn lửa màu xanh” mà cho đến bây giờ vẫn hằn dấu rất đậm trong đầu tôi, tôi tin chắc dù qua bao cuộc đổi thay vẫn còn những nhân chứng trực diện như tôi ngày xưa để nhắc về một câu chuyện huyền thoại kỳ bí xa xưa mà có thật …


NGUYỄN PHAN NGOÏC AN














Nguyenphanan
#11 Posted : Monday, January 2, 2006 1:34:26 PM(UTC)
Nguyenphanan

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 536
Points: 0

Bút ký : NGUYỄN PHAN NGỌC AN

LỬA MÀU XANH

Chu kỳ trái đất, một năm có bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông…Thời tiết của bốn muà cũng khác biệt nhau, mùa Xuân ấm áp, mùa Hạ nóng nực, mùa Thu mát mẻ và mùa Đông rét lạnh…đó là khí hậu thực tại của chúng ta : Hoa Kỳ, còn các nước khác thật tình chúng ta không nắm rõ, duy nước Việt Nam yêu dấu của chúng ta thì bốn mùa cũng không lấy gì xác định rõ ràng lắm, bởi nóng dường như quanh năm, mùa đông cũng chả thấy lạnh bao giờ, chỉ hơi se lạnh vào dịp Noel mà thôi, bởi vậy những chiếc áo len dầy cộm, những áo Jacket hoặc thậm chí bộ Veston cũng khó lòng mà mặc vào những tiệc cưới thời điểm không phải là mùa Noel hay tết…
Ở Việt nam có hai mùa rõ rệt : Mùa nắng và mùa mưa, mưa thì ôi thôi…thối trời tối đất, cho nên cây cối có phần tốt tươi sầm uất, những ngọn núi chằng chịt cây xanh cao ngất chứ không là núi trọc như ở Hoa Kỳ này…những con đường trơn trợt vào mùa mưa, tai nạn giao thông xảy ra hàng ngày, hàng giờ, hàng phút…mưa như thác đổ, câu nói nầy rất đúng, những ngôi nhà có mái lợp bằng tôn lạnh hoặc tôn cemen cơn mưa lớn đổ xuống ầm ầm hòa lẫn tiếng sét, tiếng gầm của không gian long trời lở đất, ở trong nhà hồn vía cũng muốn bay lên mây đừng nói chi đang mắc kẹt ngoài đường phố hay nương rẩy … Cách đây khoảng 20 năm tại miền Tây ( hậu giang) đã có một vụ sét đánh người chết đứng giữa ruộng và thỉnh thoảng vẫn nghe thiên hạ bàn tán sét đánh vào nhà, sét đánh vào những tàng cây có người ẩn úp lúc mưa to …Việt Nam có những tình huống mà vào thời chiến tranh ở thập niên 50 những nơi vắng vẻ ít dân cư thường có ma, dân chúng đi xem cải lương về khuya, qua các cây lớn như cây da, cây me thường bị ma nhát, có khi con ma nó rớt từ cánh tay xuống, rồi rớt từ cái chân xuống, có khi cái đầu rơi xuống đất đánh phịch, cũng có khi trên lộ đêm lù lù một đống thật lớn, càng tới gần càng lớn lên chận cả ngã đường và lúc ấy người ta ù té chạy bán sống bán chết … Một việc mà tôi tin là đúng sự thật dù lúc ấy tôi chỉ lên 5 tuổi, nhưng đã in sâu trong tiềm thức không quên, Ba tôi đã bị ma dấu vào một hóc cây lớn khi ông đi họp về khuya, lúc đó đang thời kỳ phục hưng của thể chế Tổng Thống Ngô Đình Diệm, một nhà ái quốc anh minh và khí tiết, vào năm 1958 có lần ông Ngô Đình Diệm đích thân đến thăm trường tư thục Lạc Hồng do Ba tôi vừa làm Hiệu Trưởng vừa làm thầy giáo dạy học, Tổng Thống đã tặng Ba tôi 2000$ và gởi Ba tôi một bằng khen thưởng … ngày ấy tôi còn nhớ Tổng Thống mặc một bộ veston màu xám đen, đầu đội mũ nỉ xám có vành, tay cầm cây gậy ba- ton dài, gương mặt sáng tinh anh đầy phúc hậu, trước những hàng học sinh đứng nghiêm chỉnh chào Tổng Thống, tôi chỉ là con bé con nhỏ xíu đứng hàng đầu, Tổng Thống bước tới xoa đầu tôi cười nhân hậu với giọng Huế ngọt ngào “ học cho giỏi nhen con”… Giờ này ông đã đi thật xa vào thế giới vô hình và Ba tôi … cũng không còn nữa, nhưng kỷ niệm thì không bao giờ mất trong trí óc nhỏ nhoi này. Tôi vẫn còn nhớ rõ như in trong đầu những câu châm ngôn mà ba tôi viết bằng bút “Rong”rất đẹp treo trên tường để răn dạy học sinh : Trò chơi chẳng thiếu thứ gì, Trèo cây đánh lộn em thì chớ nên…Tiên học lễ, hậu học văn…tích thiện phùng thiện, tích ác phùng ác…Có học phải có hạnh…những câu châm ngôn đó là nền tảng của trường tư thục Lạc Hồng, sau này học sinh xuất thân từ trường của ba tôi đều nên danh phận – Trong huyện này không ai mà không biết ông giáo Tình, nhất là ông Quận Trưởng kính trọng và thân tình một mực với ba tôi … Cho đến bây giờ tôi cũng không tìm lại được từ bốn thập niên qua những nét chữ viết bằng bút Rong rất đẹp như của ba tôi – Thật tình mà nói ba tôi có thực tài về ngòi bút Rong, tôi tiếc là đã không học nghề của ba và sau đó cây bút Rong cũng bị quên lãng trôi dạt về đâu, dọn nhà về tỉnh Ba tôi phải lo kinh tế gia đình, ba tôi vào làm cho hãng Ba Xoong tại Gia Định với chức vụ Phó Giám Đốc vào năm 1960.
Lúc ba tôi còn dạy học, tôi nhớ có một lần Ba tôi đi họp trong quận vào buổi chiều lúc 4 giờ, không hiểu sao tới sáng hôm sau cũng không thấy về nhà, Mẹ tôi và các anh chị em tôi hộc tốc đi tìm, khi ngang qua hóc cây lớn nhìn sâu vào trong mới biết Ba tôi bị ma dấu trong hốc cây, miệng còn đầy những vải vụn nhét cứng không ú ớ được tiếng nào, chúng tôi phải đưa Ba tôi ra khỏi hốc cây và đưa về nhà, chừng tỉnh táo nghe Ba tôi kể lại mới thật sự biết là có ma dấu thật và từ đấy ít khi ai dám ra đường về đêm nữa …
Vào thời điểm chiến tranh, những biến cố như in đậm nét trong đầu tôi, tôi không thể nào quên được ngày chạy loạn, Ba Mẹ tôi lạc nhau, Mẹ tôi phải dìu dắt 5 con thơ trong vùng lửa đạn ngút trời, tôi lúc ấy vừa hơn 3 tuổi, em út tôi vừa hơn 1 tuổi, chạy trước đạn đuổi theo sau, mấy mẹ con tưởng đã chầu diêm vương mấy kiếp rồi ! Đêm đến không biết phải ẩn vào đâu qua đêm, mọi người chạy tán loạn cũng đã lạc mỗi người một hướng, Mẹ tôi túng cùng phải dẫn 5 chị em tôi vào núp trong một đám nương mì ( cây khoai mì) rậm rạp. Nửa đêm nghe tiếng voi gầm, càng lúc càng gần, mà đến mấy con voi gầm chứ không phải một con, khi chúng đến nơi Mẹ con tôi thiếu điều ngất xỉu, Mẹ tôi lấy hết bình tỉnh cầu nguyện Phật Trời, Thượng Đế cứu nguy … May thay, đàn voi quật ngã mấy cây chuối gần bên rồi bỏ đi, thế là mấy mẹ con tôi được sống, bây giờ nhớ lại lòng tôi nghẹn ngào, thổn thức bởi mẹ tôi cũng không còn trên thế gian này nữa !…
Tôi còn nhớ, Ba tôi là một học giả uyên thâm, ông giỏi nhiều ngôn ngữ và đã từng du học nước ngoài, năm đó vì tình hình phải ẩn thân nơi vùng thâm sơn cùng cốc, một chiều nọ có một toán công an vào nhà bắt Ba tôi đem về tỉnh Bà Rịa giam và điều tra tàn ác, chúng đổ nước lạnh vào mũi, châm điện chạy vào tay chân, Ba tôi vẫn cương quyết chịu đựng, bởi vì ông bị nghi ngờ, bắt oan thì biết gì để khai, cuối cùng chúng phải thả Ba tôi về sau khi đã giam giữ hành hạ 6 ngày liên tục, ba tôi về nhà ngồi buồn làm mấy câu thơ :
Hăm ba tháng chạp vừa qua
Công an chiến dịch vào nhà bắt tôi
Tưởng rằng có việc lôi thôi
Đem đi Bà Rịa giữ tôi sáu ngày
Điều tra liên tiếp ba ngày
Té ra chẳng biết chẳng hay việc gì
Về nhà ngày nghĩ đêm suy
Biết ơn chính phủ không khi nào bằng…
Từ đó gia đình tôi trong đầu đã phát sinh hình tượng hận thù lũ công an ác độc, nhưng vẫn phải sống tại nơi này không thể dời nhà đi đâu vì tình cảm xóm giềng, tình cảm của ông Quận Trưởng và nhất là tình cảm của phụ huynh, học sinh đang học với ba tôi…và nữa…đám vườn, đám ruộng bề bề mà ba Mẹ tôi đã đổ biết bao mồ hôi công sức…Tôi vẫn nhớ những ngày tết nơi đây, vào sáng mồng 1 tất cả mặc quần áo mới, dày giép mới đứng xếp hàng dài khoảng 60 đứa kéo nhau đi đến từng nhà hàng xóm, Ba tôi dẫn đi chúc tết để học sinh kiếm tiền lì xì mà…tới đâu là cả đám nghiêm chỉnh hát lên :
Chúng cháu là học sinh
Trường tư thục ông Tình
Đến đây chúc năm mới
Chúc may mắn suốt đời
Chúc sống lâu trăm tuổi
Chúc bình yên vô sự
Chúc gặp lành tránh dữ
Chúc hạnh phúc đời đời
Chúc phú quý nơi nơi
Chúng cháu có đôi lời
Đến đây chúc năm mới…

Năm nào cũng vậy, ngày tết vui không thể tưởng, đêm giao thừa thức sáng đêm không ai ngủ cả, già trẻ gái trai tụ họp hát hò, nấu bánh tét bánh chưng, đúng 12 giờ khuya dọn ra sân cúng giao thừa rồi nổ pháo rền trời, đặc biệt là ai về nhà nấy trước giao thừa, bởi tục lệ ông bà là như thế, không ai được ở nhà ai hoặc ngoài đường khi bước qua đầu năm mới, mồng 1 mồng 2 mồng 3 tết không được quét nhà cho nên mấy ngày tết nhà cửa tràn đầy những xác pháo đỏ, pháo hồng loạn xạ. Ngày nay những tục lệ đó đã bị phôi thai rồi, nhất là ở Hoa Kỳ, giao thừa chả mấy nhà cúng kiếng ngoài sân, mồng 1 tết 5 giờ sáng đã dậy lui cui bỏ cơm canh vào dỏ mang đi làm, chả cử kiêng sẽ cực suốt năm gì cả, cho nên dùng từ cày như trâu cũng không ngoa tí nào phải không thưa quý vị? Đã như thế thì còn tết với nhất gì nữa, ối chu choa…nhắc lại mà phát ớn , vậy mà tôi cũng chịu đựng được 15 cái tết như thế rồi đó các bạn ơi…ồ ! xin lỗi nhen, tôi nói hơi dóc bởi vì cái tết Quý Mùi tôi đã bị layoff rồi còn đâu, và tôi biết chắc rằng vài cái tết nữa tôi cũng chẳng tìm ra việc làm như ý đâu với tình trạng đất nước Hoa Kỳ trong cơn dâu bể, thế là tôi được mấy mùa xuân ngủ đã đời, ngủ để quên khỏi ra đường xuất hành, biết đi về đâu mà xuất hành xuất tỏi ? đời đã không đãi ngộ thì tìm kiếm chỉ mất công thôi các bạn ơi, “ có phần không cần gì lo” “ bôn ba không qua thời vận” mà lị…
Tôi còn nhớ vào khoảng năm 1968 tôi theo ông xã ra sống ở Quân Hàm Tân ( Tam Tân) thuộc tỉnh Bình Tuy, vào đầu xuân năm đó có chuyện rất lạ, nếu những ai cư ngụ tại quận nầy vào thời điểm đó không thể không biết…Chuyện là thế này :
Một hôm đột nhiên ngọn lửa từ đâu bốc cháy trên mái nhà hàng xóm sát nhà tôi đang ở, ngọn lửa màu xanh um không đỏ như những vụ cháy bình thường, mà rất lạ ngọn lửa cháy ngược lại với hướng gió thổi… chú lính leo lên dùng chân và bao cát dập tắt ngọn lửa, lạ lùng lửa không nóng, không hề xây xát gì chú lính cả, nhưng mái nhà vẫn bị cháy môät lõm lớn, một lát sau anh chị Trung sĩ Thành thách thức rằng : ma cỏ gì mà ma cỏ, lửa ma hả, cháy thử coi…tức thì ngay trong chiếc vali quần áo của anh chị phực lên ánh lửa cũng màu xanh và quần áo bên trong cháy rụi thành tro…Chuyện này đến tai ông Quận Trưởng lúc đó là Thiếu Tá Thiện ông công giáo nên không tin, ông đến nhà anh chị Thành nhìn cảnh tượng và nói : Tôi công giáo tôi không tin việc này, làm gì mà có ma lửa, tức thì mũi giày ông đang mang phát lên ngọn lửa, ông hoảng hốt kêu cứu, mọi người phải lấy bao cát dập tắt cho ông … Chuyện lạ nầy xảy ra liên tục trong vòng 4 tuần lễ, ai thách thức là cháy ngay trước mặt, cháy ngay bên cạnh hoặc cháy ngay nhà mình, cháy bất cứ đồ vật gì của người thách thức, tôi ngày ấy thê thảm lắm, cả ngày ở ngoài đường không dám vào nhà, sợ chết oan mạng, đồ đạc quý, tốt, giấy tờ cần thiết luôn nằm ở ngoài sân phòng khi cháy nhà còn giữ lại được những gì cần giữ…Thường thường là đến 2 giờ sáng mới dám vào nhà ngủ, mà cũng lạ lửa chỉ cháy vào ban ngày chứ không cháy vào ban đêm. Tình trạng nháo nhác ăn không được, ngủ không yên cả tháng trời cho quận lỵ Hàm Tân mà cho đến bây giờ tôi mới có dịp viết ra một sự thật lạ lùng này, trong đời tôi chắc chắn không thể gặp lần thứ 2. Nếu vị nào đọc được bút ký ngắn này, mà biết sự thật này, tức là nhân chứng sống hãy đến tìm tôi vì chắc chắn là hàng xóm của tôi trong thời điểm đó rồi bạn ạ ! Tôi không quen viết truyện, hồi ký hoặc làm thơ bằng hư cấu, tưởng tượng, cho nên những gì tôi viết ra đều là thật, thật đến 100% đó quý vị ạ !
Lửa màu xanh … trên thế gian này chỉ nghe và thấy toàn lửa màu đỏ, nhưng ở đây là lửa màu xanh – Một hiện tượng lạ lùng mà đời tôi chắc chỉ một lần nhìn trực diện, phải chi ngày đó được văn minh hiện đại như bây giờ thì chắc hẵn đã ghi lại trên những thước phim quay lịch sử – Việt Nam là một đất nước có nhiều chông gai hiểm trở, nhiều tài nguyên và cũng nhiều kỳ bí lạ lùng mà các nước lân bang không có được – Ngày nay trên xứ Hoa Kỳ văn minh, tôi không còn thấy được những huyền bí xa xưa mà thời tuổi nhỏ đã kinh qua – Đôi lúc nhớ quê hương qua những hình ảnh trong phim, qua những lần tiếp xúc bạn bè nhắc về một thời để nhớ … tôi ray rứt không ngủ được hằng bao đêm, tôi vẫn mong đất nước ngày thanh bình thịnh trị theo mong ước người lưu vong để đồng hương quay về xây lại tổ ấm mà hơn ba mươi năm đã mốc meo tàn tạ và riêng tôi sẽ tìm về quận lỵ Hàm Tân thăm viếng bạn bè, nhắc lại chuyện ngày xưa “ ngọn lửa màu xanh” mà cho đến bây giờ vẫn hằn dấu rất đậm trong đầu tôi, tôi tin chắc dù qua bao cuộc đổi thay vẫn còn những nhân chứng trực diện như tôi ngày xưa để nhắc về một câu chuyện huyền thoại kỳ bí xa xưa mà có thật …


NGUYỄN PHAN NGỌC AN

Bút ký : NGUYỄN PHAN NGỌC AN

LỬA MÀU XANH

Chu kỳ trái đất, một năm có bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông…Thời tiết của bốn muà cũng khác biệt nhau, mùa Xuân ấm áp, mùa Hạ nóng nực, mùa Thu mát mẻ và mùa Đông rét lạnh…đó là khí hậu thực tại của chúng ta : Hoa Kỳ, còn các nước khác thật tình chúng ta không nắm rõ, duy nước Việt Nam yêu dấu của chúng ta thì bốn mùa cũng không lấy gì xác định rõ ràng lắm, bởi nóng dường như quanh năm, mùa đông cũng chả thấy lạnh bao giờ, chỉ hơi se lạnh vào dịp Noel mà thôi, bởi vậy những chiếc áo len dầy cộm, những áo Jacket hoặc thậm chí bộ Veston cũng khó lòng mà mặc vào những tiệc cưới thời điểm không phải là mùa Noel hay tết…
Ở Việt nam có hai mùa rõ rệt : Mùa nắng và mùa mưa, mưa thì ôi thôi…thối trời tối đất, cho nên cây cối có phần tốt tươi sầm uất, những ngọn núi chằng chịt cây xanh cao ngất chứ không là núi trọc như ở Hoa Kỳ này…những con đường trơn trợt vào mùa mưa, tai nạn giao thông xảy ra hàng ngày, hàng giờ, hàng phút…mưa như thác đổ, câu nói nầy rất đúng, những ngôi nhà có mái lợp bằng tôn lạnh hoặc tôn cemen cơn mưa lớn đổ xuống ầm ầm hòa lẫn tiếng sét, tiếng gầm của không gian long trời lở đất, ở trong nhà hồn vía cũng muốn bay lên mây đừng nói chi đang mắc kẹt ngoài đường phố hay nương rẩy … Cách đây khoảng 20 năm tại miền Tây ( hậu giang) đã có một vụ sét đánh người chết đứng giữa ruộng và thỉnh thoảng vẫn nghe thiên hạ bàn tán sét đánh vào nhà, sét đánh vào những tàng cây có người ẩn úp lúc mưa to …Việt Nam có những tình huống mà vào thời chiến tranh ở thập niên 50 những nơi vắng vẻ ít dân cư thường có ma, dân chúng đi xem cải lương về khuya, qua các cây lớn như cây da, cây me thường bị ma nhát, có khi con ma nó rớt từ cánh tay xuống, rồi rớt từ cái chân xuống, có khi cái đầu rơi xuống đất đánh phịch, cũng có khi trên lộ đêm lù lù một đống thật lớn, càng tới gần càng lớn lên chận cả ngã đường và lúc ấy người ta ù té chạy bán sống bán chết … Một việc mà tôi tin là đúng sự thật dù lúc ấy tôi chỉ lên 5 tuổi, nhưng đã in sâu trong tiềm thức không quên, Ba tôi đã bị ma dấu vào một hóc cây lớn khi ông đi họp về khuya, lúc đó đang thời kỳ phục hưng của thể chế Tổng Thống Ngô Đình Diệm, một nhà ái quốc anh minh và khí tiết, vào năm 1958 có lần ông Ngô Đình Diệm đích thân đến thăm trường tư thục Lạc Hồng do Ba tôi vừa làm Hiệu Trưởng vừa làm thầy giáo dạy học, Tổng Thống đã tặng Ba tôi 2000$ và gởi Ba tôi một bằng khen thưởng … ngày ấy tôi còn nhớ Tổng Thống mặc một bộ veston màu xám đen, đầu đội mũ nỉ xám có vành, tay cầm cây gậy ba- ton dài, gương mặt sáng tinh anh đầy phúc hậu, trước những hàng học sinh đứng nghiêm chỉnh chào Tổng Thống, tôi chỉ là con bé con nhỏ xíu đứng hàng đầu, Tổng Thống bước tới xoa đầu tôi cười nhân hậu với giọng Huế ngọt ngào “ học cho giỏi nhen con”… Giờ này ông đã đi thật xa vào thế giới vô hình và Ba tôi … cũng không còn nữa, nhưng kỷ niệm thì không bao giờ mất trong trí óc nhỏ nhoi này. Tôi vẫn còn nhớ rõ như in trong đầu những câu châm ngôn mà ba tôi viết bằng bút “Rong”rất đẹp treo trên tường để răn dạy học sinh : Trò chơi chẳng thiếu thứ gì, Trèo cây đánh lộn em thì chớ nên…Tiên học lễ, hậu học văn…tích thiện phùng thiện, tích ác phùng ác…Có học phải có hạnh…những câu châm ngôn đó là nền tảng của trường tư thục Lạc Hồng, sau này học sinh xuất thân từ trường của ba tôi đều nên danh phận – Trong huyện này không ai mà không biết ông giáo Tình, nhất là ông Quận Trưởng kính trọng và thân tình một mực với ba tôi … Cho đến bây giờ tôi cũng không tìm lại được từ bốn thập niên qua những nét chữ viết bằng bút Rong rất đẹp như của ba tôi – Thật tình mà nói ba tôi có thực tài về ngòi bút Rong, tôi tiếc là đã không học nghề của ba và sau đó cây bút Rong cũng bị quên lãng trôi dạt về đâu, dọn nhà về tỉnh Ba tôi phải lo kinh tế gia đình, ba tôi vào làm cho hãng Ba Xoong tại Gia Định với chức vụ Phó Giám Đốc vào năm 1960.
Lúc ba tôi còn dạy học, tôi nhớ có một lần Ba tôi đi họp trong quận vào buổi chiều lúc 4 giờ, không hiểu sao tới sáng hôm sau cũng không thấy về nhà, Mẹ tôi và các anh chị em tôi hộc tốc đi tìm, khi ngang qua hóc cây lớn nhìn sâu vào trong mới biết Ba tôi bị ma dấu trong hốc cây, miệng còn đầy những vải vụn nhét cứng không ú ớ được tiếng nào, chúng tôi phải đưa Ba tôi ra khỏi hốc cây và đưa về nhà, chừng tỉnh táo nghe Ba tôi kể lại mới thật sự biết là có ma dấu thật và từ đấy ít khi ai dám ra đường về đêm nữa …
Vào thời điểm chiến tranh, những biến cố như in đậm nét trong đầu tôi, tôi không thể nào quên được ngày chạy loạn, Ba Mẹ tôi lạc nhau, Mẹ tôi phải dìu dắt 5 con thơ trong vùng lửa đạn ngút trời, tôi lúc ấy vừa hơn 3 tuổi, em út tôi vừa hơn 1 tuổi, chạy trước đạn đuổi theo sau, mấy mẹ con tưởng đã chầu diêm vương mấy kiếp rồi ! Đêm đến không biết phải ẩn vào đâu qua đêm, mọi người chạy tán loạn cũng đã lạc mỗi người một hướng, Mẹ tôi túng cùng phải dẫn 5 chị em tôi vào núp trong một đám nương mì ( cây khoai mì) rậm rạp. Nửa đêm nghe tiếng voi gầm, càng lúc càng gần, mà đến mấy con voi gầm chứ không phải một con, khi chúng đến nơi Mẹ con tôi thiếu điều ngất xỉu, Mẹ tôi lấy hết bình tỉnh cầu nguyện Phật Trời, Thượng Đế cứu nguy … May thay, đàn voi quật ngã mấy cây chuối gần bên rồi bỏ đi, thế là mấy mẹ con tôi được sống, bây giờ nhớ lại lòng tôi nghẹn ngào, thổn thức bởi mẹ tôi cũng không còn trên thế gian này nữa !…
Tôi còn nhớ, Ba tôi là một học giả uyên thâm, ông giỏi nhiều ngôn ngữ và đã từng du học nước ngoài, năm đó vì tình hình phải ẩn thân nơi vùng thâm sơn cùng cốc, một chiều nọ có một toán công an vào nhà bắt Ba tôi đem về tỉnh Bà Rịa giam và điều tra tàn ác, chúng đổ nước lạnh vào mũi, châm điện chạy vào tay chân, Ba tôi vẫn cương quyết chịu đựng, bởi vì ông bị nghi ngờ, bắt oan thì biết gì để khai, cuối cùng chúng phải thả Ba tôi về sau khi đã giam giữ hành hạ 6 ngày liên tục, ba tôi về nhà ngồi buồn làm mấy câu thơ :
Hăm ba tháng chạp vừa qua
Công an chiến dịch vào nhà bắt tôi
Tưởng rằng có việc lôi thôi
Đem đi Bà Rịa giữ tôi sáu ngày
Điều tra liên tiếp ba ngày
Té ra chẳng biết chẳng hay việc gì
Về nhà ngày nghĩ đêm suy
Biết ơn chính phủ không khi nào bằng…
Từ đó gia đình tôi trong đầu đã phát sinh hình tượng hận thù lũ công an ác độc, nhưng vẫn phải sống tại nơi này không thể dời nhà đi đâu vì tình cảm xóm giềng, tình cảm của ông Quận Trưởng và nhất là tình cảm của phụ huynh, học sinh đang học với ba tôi…và nữa…đám vườn, đám ruộng bề bề mà ba Mẹ tôi đã đổ biết bao mồ hôi công sức…Tôi vẫn nhớ những ngày tết nơi đây, vào sáng mồng 1 tất cả mặc quần áo mới, dày giép mới đứng xếp hàng dài khoảng 60 đứa kéo nhau đi đến từng nhà hàng xóm, Ba tôi dẫn đi chúc tết để học sinh kiếm tiền lì xì mà…tới đâu là cả đám nghiêm chỉnh hát lên :
Chúng cháu là học sinh
Trường tư thục ông Tình
Đến đây chúc năm mới
Chúc may mắn suốt đời
Chúc sống lâu trăm tuổi
Chúc bình yên vô sự
Chúc gặp lành tránh dữ
Chúc hạnh phúc đời đời
Chúc phú quý nơi nơi
Chúng cháu có đôi lời
Đến đây chúc năm mới…

Năm nào cũng vậy, ngày tết vui không thể tưởng, đêm giao thừa thức sáng đêm không ai ngủ cả, già trẻ gái trai tụ họp hát hò, nấu bánh tét bánh chưng, đúng 12 giờ khuya dọn ra sân cúng giao thừa rồi nổ pháo rền trời, đặc biệt là ai về nhà nấy trước giao thừa, bởi tục lệ ông bà là như thế, không ai được ở nhà ai hoặc ngoài đường khi bước qua đầu năm mới, mồng 1 mồng 2 mồng 3 tết không được quét nhà cho nên mấy ngày tết nhà cửa tràn đầy những xác pháo đỏ, pháo hồng loạn xạ. Ngày nay những tục lệ đó đã bị phôi thai rồi, nhất là ở Hoa Kỳ, giao thừa chả mấy nhà cúng kiếng ngoài sân, mồng 1 tết 5 giờ sáng đã dậy lui cui bỏ cơm canh vào dỏ mang đi làm, chả cử kiêng sẽ cực suốt năm gì cả, cho nên dùng từ cày như trâu cũng không ngoa tí nào phải không thưa quý vị? Đã như thế thì còn tết với nhất gì nữa, ối chu choa…nhắc lại mà phát ớn , vậy mà tôi cũng chịu đựng được 15 cái tết như thế rồi đó các bạn ơi…ồ ! xin lỗi nhen, tôi nói hơi dóc bởi vì cái tết Quý Mùi tôi đã bị layoff rồi còn đâu, và tôi biết chắc rằng vài cái tết nữa tôi cũng chẳng tìm ra việc làm như ý đâu với tình trạng đất nước Hoa Kỳ trong cơn dâu bể, thế là tôi được mấy mùa xuân ngủ đã đời, ngủ để quên khỏi ra đường xuất hành, biết đi về đâu mà xuất hành xuất tỏi ? đời đã không đãi ngộ thì tìm kiếm chỉ mất công thôi các bạn ơi, “ có phần không cần gì lo” “ bôn ba không qua thời vận” mà lị…
Tôi còn nhớ vào khoảng năm 1968 tôi theo ông xã ra sống ở Quân Hàm Tân ( Tam Tân) thuộc tỉnh Bình Tuy, vào đầu xuân năm đó có chuyện rất lạ, nếu những ai cư ngụ tại quận nầy vào thời điểm đó không thể không biết…Chuyện là thế này :
Một hôm đột nhiên ngọn lửa từ đâu bốc cháy trên mái nhà hàng xóm sát nhà tôi đang ở, ngọn lửa màu xanh um không đỏ như những vụ cháy bình thường, mà rất lạ ngọn lửa cháy ngược lại với hướng gió thổi… chú lính leo lên dùng chân và bao cát dập tắt ngọn lửa, lạ lùng lửa không nóng, không hề xây xát gì chú lính cả, nhưng mái nhà vẫn bị cháy môät lõm lớn, một lát sau anh chị Trung sĩ Thành thách thức rằng : ma cỏ gì mà ma cỏ, lửa ma hả, cháy thử coi…tức thì ngay trong chiếc vali quần áo của anh chị phực lên ánh lửa cũng màu xanh và quần áo bên trong cháy rụi thành tro…Chuyện này đến tai ông Quận Trưởng lúc đó là Thiếu Tá Thiện ông công giáo nên không tin, ông đến nhà anh chị Thành nhìn cảnh tượng và nói : Tôi công giáo tôi không tin việc này, làm gì mà có ma lửa, tức thì mũi giày ông đang mang phát lên ngọn lửa, ông hoảng hốt kêu cứu, mọi người phải lấy bao cát dập tắt cho ông … Chuyện lạ nầy xảy ra liên tục trong vòng 4 tuần lễ, ai thách thức là cháy ngay trước mặt, cháy ngay bên cạnh hoặc cháy ngay nhà mình, cháy bất cứ đồ vật gì của người thách thức, tôi ngày ấy thê thảm lắm, cả ngày ở ngoài đường không dám vào nhà, sợ chết oan mạng, đồ đạc quý, tốt, giấy tờ cần thiết luôn nằm ở ngoài sân phòng khi cháy nhà còn giữ lại được những gì cần giữ…Thường thường là đến 2 giờ sáng mới dám vào nhà ngủ, mà cũng lạ lửa chỉ cháy vào ban ngày chứ không cháy vào ban đêm. Tình trạng nháo nhác ăn không được, ngủ không yên cả tháng trời cho quận lỵ Hàm Tân mà cho đến bây giờ tôi mới có dịp viết ra một sự thật lạ lùng này, trong đời tôi chắc chắn không thể gặp lần thứ 2. Nếu vị nào đọc được bút ký ngắn này, mà biết sự thật này, tức là nhân chứng sống hãy đến tìm tôi vì chắc chắn là hàng xóm của tôi trong thời điểm đó rồi bạn ạ ! Tôi không quen viết truyện, hồi ký hoặc làm thơ bằng hư cấu, tưởng tượng, cho nên những gì tôi viết ra đều là thật, thật đến 100% đó quý vị ạ !
Lửa màu xanh … trên thế gian này chỉ nghe và thấy toàn lửa màu đỏ, nhưng ở đây là lửa màu xanh – Một hiện tượng lạ lùng mà đời tôi chắc chỉ một lần nhìn trực diện, phải chi ngày đó được văn minh hiện đại như bây giờ thì chắc hẵn đã ghi lại trên những thước phim quay lịch sử – Việt Nam là một đất nước có nhiều chông gai hiểm trở, nhiều tài nguyên và cũng nhiều kỳ bí lạ lùng mà các nước lân bang không có được – Ngày nay trên xứ Hoa Kỳ văn minh, tôi không còn thấy được những huyền bí xa xưa mà thời tuổi nhỏ đã kinh qua – Đôi lúc nhớ quê hương qua những hình ảnh trong phim, qua những lần tiếp xúc bạn bè nhắc về một thời để nhớ … tôi ray rứt không ngủ được hằng bao đêm, tôi vẫn mong đất nước ngày thanh bình thịnh trị theo mong ước người lưu vong để đồng hương quay về xây lại tổ ấm mà hơn ba mươi năm đã mốc meo tàn tạ và riêng tôi sẽ tìm về quận lỵ Hàm Tân thăm viếng bạn bè, nhắc lại chuyện ngày xưa “ ngọn lửa màu xanh” mà cho đến bây giờ vẫn hằn dấu rất đậm trong đầu tôi, tôi tin chắc dù qua bao cuộc đổi thay vẫn còn những nhân chứng trực diện như tôi ngày xưa để nhắc về một câu chuyện huyền thoại kỳ bí xa xưa mà có thật …


NGUYỄN PHAN NGỌC AN































Nguyenphanan
#12 Posted : Sunday, January 8, 2006 11:49:39 PM(UTC)
Nguyenphanan

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 536
Points: 0

GIẤC NGỦ TRÊN ÐỒI XANH
Tâm bút : Nguyễn Phan Ngọc An

Ba mươi năm lưu lạc xứ người, sự thành đạt của người Việt lưu vong tương đối cũng khá nhiều nhưng cũng không phôi pha được những nỗi mất mát chia xa – Các nhà tranh đấu, các chính trị gia, các danh nhân, các nhạc sĩ, ca sĩ … lần lượt theo con tạo xoay vần giả từ trần lụy ! Nhưng dường như suốt ba mươi năm lưu vong những người sống nhiều về tâm hồn thường ra đi quá sớm chẳng hạn như thành phần ca nhạc sĩ - Người viết bài này với một khung cảnh nhỏ hẹp thôi vì tự biết khả năng của mình – Tôi viết về một người nhạc sĩ đã ra đi, người đó chính là ca nhạc sĩ Nhật Trường Trần Thiện Thanh.
Vừa định viết thì mở trang net lại thấy tin nhạc sĩ Nguyễn Hiền lâm chung, tôi và N/S Nguyễn Hiền rất thân tình, ông đã từng tổ chức cho tôi nhiều buổi sinh hoạt văn học tại miền Nam Cali, nói đến ông ai cũng thấy ngay rằng ông là một người nhạc sĩ đức độ khiêm cung hiền hòa trong xử thế. Có một lần khi ông đến nhà vợ chồng Tùng vào một buổi sáng sớm để gặp tôi bàn về việc ra mắt sách của tôi ngày chủ nhật tới mà ông là người tổ chức - Vừa bước vào nhà ông thấy Tùng với mái tóc trắng phau, ông vội vã cúi gập người xuống và chào “ lạy cụ ạ” – Lúc đó, Tùng lính quýnh cũng vội vã cúi người xuống và thưa “ lạy cụ ạ” – Tôi và Kim Nguyên vợ của Tùng cười vỡ cả bụng khi thấy hai người chào nhau như thế bởi vì Tùng chỉ khoảng 50 tuổi nhưng mái tóc trắng phau như tuyết tuy nước da vẫn hồng hào và nhìn kỷ vẫn còn phong độ. Thế là tôi phải đứng ra giới thiệu hai người với nhau và nói rõ với nhạc sĩ rằng Tùng chưa thành ông cụ .
Tôi còn một kỷ niệm nữa với N/S Nguyễn Hiền là khi ông tổ chức sinh nhật thứ 75 vào năm 2001 tôi đã đi xe đò xuống tham dự ngày sinh nhật của ông và ở lại hôm sau trở về San Jose, ít ra là chỗ thân tình lắm tôi mới lặn lội như thế … Tôi đã lên tặng ông bà Nguyễn Hiền một bó hoa thật lớn trong đêm sinh nhật và đọc bài thơ tôi viết tặng nhạc sĩ ngày sinh nhật :

ÐIỂM HOA CHO ÐỜI
Nơi đây đang cuối mùa đông
Hoa xuân đua nở trong lòng tha nhân
Nắng xuân thêm ấm bội phần
Hương xuân thoang thoảng như gần bên ta
Chúc mừng nhạc sĩ tài hoa
Vắt tim nặn óc điểm hoa cho đời
Cung trầm cung bổng chơi vơi
Bút hoa sang tạo rạng ngời non sông
Cao niên người vẫn tươi hồng
Rải hoa bác ái tưới trồng thiện căn
Văn chương lỗi lạc trời ban
Nguyễn Hiền tô nét son vàng sử xanh
Chúc người trọn giấc mộng lành
Trăm năm tuổi thọ toại thành ước mơ
Gửi lòng ngưỡng mộ vào thơ
Danh thơm sáng mãi bên bờ tự do.

( Kính tặng Nhạc Sĩ Nguyễn Hiền sinh nhật 75)
Phần đông trong chúng ta mỗi độ xuân về không ai không thuộc bản nhạc bất tử của nhạc sĩ Nguyễn Hiền “ Anh Cho Em Mùa Xuân”, bản nhạc này đã đi vào lòng dân tộc Việt Nam mấy thập niên qua và tết đến là tên tuổi nhạc sĩ Nguyễn Hiền như nở rộ giữa mùa xuân mới.
Tôi rất buồn khi nghe tin nhạc sĩ Nguyễn Hiền ra đi và lại càng buồn hơn nữa khi nhớ đến nhạc sĩ Trần Thiện Thanh cũng đã ra đi cách đây mấy tháng – Vì thế tôi có bài viết này để kỷ niệm cùng hai nhạc sĩ mà tôi thân tình nhất.
Ngày tôi gặp lại anh chị Nhật Trường cách nay 10 năm tại cửa hàng băng nhạc cuả anh - Trước 1975 tôi đã từng gặp và ái mộ khi anh lên sân khấu trình diễn, còn Mỹ Lan tôi đã từng ở chung một chung cư Kỳ Ðồng với nàng khi còn ở Việt Nam và hàng ngày vẫn nhìn nàng chưng diện đi hát các tụ điểm ca nhạc, thời bấy giờ Mỹ Lan đang nổi bật với hai bản nhạc “ Lá Còn xanh” và “ Tình Yêu Trên Những Giếng Dầu” – Tôi đã quen Mỹ Lan ở ngoài hiền hậu dễ thương, khi lên sân khấu nàng trẻ trung và nhí nhảnh, nàng vừa hát vừa nhảy làm say mê khán giả bởi dáng dấp cao ráo vừa hát vừa nhảy lại vừa cười với nụ cười duyên dáng xinh đẹp – Thú thật lúc đó tôi rất mê Mỹ Lan qua những show mà nàng trình diễn.
Năm 1996 tôi có dịp xuống miền Nam Cali và đã đến thăm anh chị Nhật Trường - Mỹ Lan – Chúng tôi đã chụp chung với nhau những tấm hình lưu niệm có cả nhà danh hoạ Vũ Hối và nhà văn Trầm Mộng Bằng tức Lâm Thùy Giang cùng đến thăm anh chị Nhật Trường hôm đó – Chúng tôi không thể quên món Bún Bò Huế sát cạnh tiệm mà anh chị Nhật Trường đã đãi chúng tôi – Tôi cũng đã đến nhà anh chị thăm bác gái khi bác từ Việt Nam sang chơi lúc ấy Mỹ Lan đang mang bầu bé Chí - Những kỷ niệm thân thương nầy đã dấy lên trong ký ức tôi ngay từ hôm được tin Ca nhạc sĩ Nhật Trường Trần Thiện Thanh vừa mất !
Ca nhạc sĩ Nhật Trường tên thật là Trần Thiện Thanh, bút hiệu TTT, Anh Chương, Trần Thiện Thanh Toàn và Nhật Trường.
Anh sinh tại Phan Thiết năm 1941 – Anh vào Sài Gòn sinh sống nghề soạn nhạc và ca hát năm 1958 trong bước đầu đầy khó khăn và gian nan. Thời gian chịu đựng qua đi, anh sáng rực và trở thành một tên tuổi nổi bật trong làng âm nhạc Việt Nam thời đó. Mỗi khi anh lên sân khấu là tiếng vỗ tay như pháo tết, anh hùng dũng hiên ngang trong bộ quân phục, anh đa tình lãng tử trong bộ veston màu nhạt, có đôi khi anh vô cùng tài tử trong bộ quần áo nghệ sĩ phong trần nhưng trông rất đẹp trai, thời ấy anh là thần tượng của giới trẻ, là mơ ước của các nàng nữ sinh, các người đẹp - Ở anh nhìn thấy một nét rắn rỏi pha đôi chút khắc khổ của đàn ông, đó là điểm đã làm anh nổi bật trong giới âm nhạc mềm và lã lướt kia - Cuối năm 1960 anh cùng Hùng Cường, Chế Linh thường mặc quân phục trình diễn trên sân khấu với những bài ca về lính do Trần Thiện Thanh sáng tác, thời ấy là thời nhạc lính bắt đầu sống dậy mạnh mẽ trong dòng nhạc của anh mặc dù anh còn rất trẻ, và khán giả rất say mê những buổi trình diễn có Nhật Trường - Một lần vào dịp tết, tổ chức Cây Mùa Xuân Chiến Sĩ , anh đã hát liên tục 4 bài nhạc viết về lính của anh theo yêu cầu của đông đảo khán giả tham dự - Ðầu năm 1961 anh lập ra ban tứ ca gồm Nhật Trường và ba giọng ca nữ phụ họa là Như Thủy, Vân Quỳnh và Diễm Chi, các nàng này chuyên hát phong trào du ca của nhạc sĩ Ngô Mạnh Thu, Miên Ðức Thắng, Nguyễn Ðức Quang, Bùi Công Thuấn và Trần Thiện Thanh … Anh là ca sĩ chính trong các bài trình diễn, ba cô chỉ hát phụ hoa bài hát thôi – Sau đó một thời gian Nhật Trường thực hiện một nhạc cảnh rất sống động diễn xuất chung với nữ ca sĩ Thanh Lan về khí thế một anh hùng mũ đỏ Ðại Úy Dù Nguyễn Văn Ðương vừa nằm xuống cho quê hương rất ngoạn mục và xúc động toàn bộ người tham dự tại sân khấu cũng như sau này lên thành phim ảnh - Thời đó tôi cũng rất say mê cặp hát chung Nhật Trường & Thanh Lan này lắm, anh có một chất giọng trầm ấm trữ tình và rất sang, chị Thanh Lan thì trong trẻo nhí nhảnh và mượt mà trau chuốt mỗi lời ca mà lại xinh đẹp nữa nên cặp ca sĩ này thời đó rất ăn khách trong làng âm nhạc VN.
Có lần Nhật Trường tâm sự với bạn bè rằng lúc nhỏ anh rất mê được ca hát, nhưng cha mẹ anh nghe ca hát là la rầy không đồng ý còn bảo là “xướng ca vô loại” nên cấm ngặt anh – Anh buồn vì ước mơ không toại nguyện nên đêm khuya không ngủ và đợi mẹ cha đã yên giấc điệp anh ngồi hát nghêu ngao một mình suốt mấy giờ liền những bài ca đã thuộc nằm lòng của các nhạc sĩ nổi tiếng thời đó, nên khi xuống Sài Gòn bắt đầu cho sự nghiệp ước mơ anh chọn ngay bút hiệu Nhật Trường để nhớ về những ngày dài vời vợi chờ đêm đến để được nghêu ngao ca hát một mình.
Nhật Trường gia nhập vào sự nghiệp ca hát chỉ một thời gian rất ngắn đã nổi tiếng khắp nơi trên các tụ điểm ca nhạc, đài phát thanh và trên làn sóng tivi màn ảnh … Do đó anh tiến bước tới soạn nhạc và anh đã thành công vô cùng với những nhạc phẩm viết về lính, viết cho lính, viết cho tình yêu, cho tang thương của đất nước, của chiến tranh nhưng hoàn toàn không ủy mị, mà kiên cường hùng tráng và quật khởi trong từng lời nhạc của anh. Anh chính là một điểm son đã mang lại niềm tin và hào hùng cho người chiến binh thời đó ! Năm 1973 anh thực hiện cuốn cassette “ Chiến Tranh Và Hòa Bình” đã được giới yêu nhạc yêu tiếng hát của anh ủng hộ thật nồng nhiệt, và đầu năm 1975 anh đang dự định tiếp tục xuất bản cuốn cassette thứ hai với tựa đề “ Biển Sương Mù” nhưng không còn kịp nữa, tháng 4 đen đã vùi chôn bao mơ ước của anh rồi !
Năm 1975, nước mất, anh buồn và mất hẳn sinh khí để ca hát và soạn nhạc, anh bỏ đi xa và sống lặng lẽ như một thân xác không hồn, anh thương đất nước, thương người lính, thương chính cuộc đời mình từ nay đã chịu đau đớn như những lằn roi quất vào da thịt không nguôi, người chiến sĩ tâm lý chiến có một nội tâm sâu thẳm nên đã ẩn dật bao nhiêu năm dài không xuất hiện cho đến khi gặp lại anh tại xứ người, nét khắc khổ đã tô đậm lên sắc diện anh, ôi một thời trẻ trung hoa mộng đã bỏ anh rồi, người ca nhạc sĩ lừng danh bây giờ phải tìm cách mưu sinh vật lộn với cuộc sống mới, những thương đau trong tâm hồn đã khiến anh hững hờ với âm nhạc tuy rằng thỉnh thoảng anh vẫn cố gắng viết nhạc và cố gắng hát để nghe dòng lệ tuôn trào theo với lời ca nghèn nghẹn trong tâm hồn. Anh gặp Mỹ Lan tại xứ người, nàng cũng ly hương mang niềm đau mất nước, cả hai chung một tâm trạng, chung một nỗi niềm đã khiến dòng nhạc hào hùng của anh sống dậy mãnh liệt và anh đã cùng Mỹ Lan, người bạn đường duy nhất đi cùng trời cuối đất trên đất nước tha hương mang lời ca tiếng hát để nói lên chí khí quật cường, niềm tin vững chãi và tình thương bao la trong tận cùng trái tim anh đã gởi vào những bài nhạc mới mà anh đã cố công viết soạn cho đời, cho thế hệ mai sau.
Nhưng anh đã ra đi không bao giờ trở lại, dẫu biết rằng sinh ký tử quy nhưng thật đau buồn và thương tiếc bởi anh đi trong lúc còn quá trẻ, trên 60 là lúc chín mùi nhất cho sự nghiệp một con người, chắc chắn trong anh còn mang nhiều hoài bão cho quê hương cho dân tộc Việt Nam đang phải lưu vong xứ người - Chắc chắn trong anh đang hy vọng một ngày trở về nơi chôn nhau cắt rún để viết tiếp những dòng nhạc oai hùng cho lịch sử ngàn sau.
Giờ đây anh đã về một nơi xa thẳm, không có loài người để xẻ chia niềm tâm sự, vợ đẹp con xinh anh bỏ lại dương trần và Mỹ Lan, bé Chí sẽ tiếp tục sự nghiệp dở dang của anh, nàng và bé Chí con trai anh đã khiến bao người rơi lệ ngậm ngùi tiếc thương anh qua những lần diễn xuất khắp nơi trên hải ngoại, anh hãy ngủ yên một giấc ngủ nhẹ nhàng và tin rằng bé Chí sau này sẽ nối nghiệp anh và tên tuổi của anh sẽ sống mãi trong lòng nhân loại dù trải qua bao thế kỷ về sau.
Anh đã sáng tác gần 200 bản nhạc vừa cho lính, cho tình yêu và cho quê hương trong thời gian gần 20 năm chinh chiến điêu linh tại đất nước mình, khi ra hải ngoại anh buồn nhiều và mất hẳn nhụy khí viết nhạc nên chỉ sáng tác thêm một số ít bản nhạc mới hào hùng mà thôi, chúng ta không thể để những dòng nhạc bất tử của Trần Thiện Thanh vào quên lãng nên tôi ghi lại nơi đây tên những bản nhạc mà tôi được biết, mong rằng có thiếu sót xin quý độc giả thông cảm cho bởi trong tôi niềm quý mến ái mộ Ca nhạc sĩ Nhật Trường dâng cao từ mấy chục năm qua vì mấy ai vừa là ca sĩ nổi tiếng vừa là nhạc sĩ nổi danh lại hiền hòa đức độ như Nhật Trường Trần Thiện Thanh.
Ai Nói Với Em Ðêm Nay - Anh Không Chết Ðâu Anh – Anh Về Với Em – Anh Nhớ Về Thăm Em – Bà Tư Bán Hàng – Bà Mẹ Trồng Rau – Bóng Nắng - Biển Mặn - Bảy Ngày Ðợi Mong – Bà Mẹ Trị Thiên - Bắc Ðẩu – Bay Lên Cao Ði Anh - Bảy Thế Kỷ Tình Yêu - Biển Sương Mù - Chuyện Hẹn Hò - Chiều Trên Phá Tam Giang - Chiếc Áo Bà Ba - Chuyện Tình Người Ðan Áo – Chân trời Tím - Chờ Ðông – Cho Anh Xin Số Nhà - Chuyện Một Người Ði - Chuyện Tình TTKH – Con Ðường Buồn Chung Thân - Chị Ba Hàng Xanh - Chuyện Lứa Ðôi – Cho Người Vào Cuộc Chiến - Ðồn Vắng Chiều Xuân – Ðám Cưới Ðầu Xuân - Ðộc Hành – Ðôi Ngã Ðôi Ta - Gặp Nhau làm Ngơ – Giấc Ngủ Trên Ðồi Xanh – Giây Phút Giã Từ - Hàn Mặc Tử - Hoa Học Trò – Hoa Trinh Nữ - Hai Sắc Hoa Ti Gôn – Hãy Hứa Yêu Em – Hoa Chiều – Hoa Biển - Hiện Diện Của Em – Khi Người Yêu Tôi Khóc - Không Bao Giờ Ngăn Cách – Không Bao Giờ Quên Anh – Lâu Ðài Tình Ái - Lời Tình Viết Vội - Lời Cho Người Yêu Nhỏ - Lộc Non - Lời Tình Trong Khói Súng – Màu Mũ Anh, Màu Áo Em - Mộng Thường - Một Ðời Yêu Em – Mùa Ðông Của Anh – Mai Lệ Xuân - Một Lần Cuối - Một Lần Dang Dở - Mùa Xuân Lá Khô - Mười Sáu Trăng Tròn - Một lần Bay Thấp Ó Ðen - Người Ở Lại Charlie - Người Xa Người - Người Yêu Của Lính - Nỗi Lòng Thanh Trúc - Người Chết Trở Về - Ngày Ðầu Một Năm - Người Lính Tượng Ðài – Phút Giao Mùa – Phép Nhiệm Mầu – Quá Phụ Ngây Thơ – Rừng Lá Thấp - Sư Ðoàn 1 Bộ Binh Hành Khúc - Tuyết Trắng – Tình Ca Của Lính – Tình Thiên Thu – Trên Ðỉnh Mùa Ðông – Tình Thư Của Lính – Trong Lần Tái Ngộ - Tình Ðầu Tình Cuối - Tạ Từ Trong Ðêm – Tâm Sự Người Lính Trẻ - Thạch Sanh ( Truyện ca) – Tìm Một Vì Sao Nhỏ - Tình Có Như Không – Tình Yêu Thứ Nhất - Trời Chưa Muốn Sáng - Từ Ðó Em Buồn - Từ Nửa Vòng Trái Ðất - Tưởng Người Chết Ði – Tình Yêu Ngộ Nghĩnh - Vết Ðạn Thù Trên Tường Vôi Trắng - Vợ Thằng Ðậu – Xin Em Ðừng Hỏi – Yêu – Yêu Người Như Thế Ðó – Yêu Mơ Và Ghen …
Anh còn nhiều bản nhạc lắm nhưng tôi không thể nào nhớ nổi, một người ca nhạc sĩ đa tài như anh nếu số phần không ngắn ngủi anh sẽ còn viết cho nhân loại bao nhiêu bản nhạc giá trị ở cuối đời anh – Tôi thật xót xa cho một tài hoa bạc mệnh nên đã viết tặng anh hai bài thơ cho lần tiễn biệt thiên thu bằng cả cõi lòng thương tiếc :


THƯƠNG TIẾC CA NHẠC SĨ
NHẬT TRƯỜNG TRẦN THIỆN THANH

Được tin ca sĩ Nhật Trường
Hóa thân vào cõi thiên đường nghìn thu
Tài hoa vùi giữa sương mù
“ NGƯỜI YÊU CỦA LÍNH” phù du gió ngàn
Xót xa “ ĐỒN VẮNG CHIỀU XUÂN”
Lắng nghe “ TRÊN ĐỈNH MÙA ĐÔNG” gọi về
Cùng “ NGƯỜI Ở LẠI CHARLIE”
Một vùng “ TUYẾT TRẮNG” chôn “TÌNH THIÊN THU”
“RỪNG LÁ THẤP” giữa mây ngàn
Một “ CHIỀU TRÊN PHÁ TAM GIANG” xây thành
Và “ ANH KHÔNG CHẾT ĐÂU ANH”
“ KHÔNG BAO GIỜ NGĂN CÁCH” tình anh với nàng
Rộn ràng “ ĐÁM CƯỚI ĐẦU XUÂN”
Dịu dàng “ CHIẾC ÁO BÀ BA” thiên thần
Bây giờ “ MÙA ĐÔNG CỦA ANH”
“ TÂM SỰ NGƯỜI LÍNH TRẺ” của Trần Thiện Thanh

Từ đây giọng hát trữ tình
Và bao dòng nhạc lưu danh thế trần
Một tâm huyết với giang san
Trời cao đoạt mệnh đã lầm đây chăng ?
Bàng hoàng giọt lệ rơi nhanh
Tiếc thương một kiếp tài danh sáng ngời !


NÉT SON VÀNG TRẦN THIỆN THANH

Ngày không tốt là ngày 13 thứ sáu
Tước đoạt trần gian sinh mạng một danh tài
Ngậm ngùi thương chí dũng một đời trai
Hoài bão chưa tròn thân vùi cát bụi !

“ PHÚT GIAO MÙA” “ XIN EM ĐỪNG HỎI”
“ NGUỜI XA NGƯỜI” rồi “ HÀN MẶC TỬ” ơi !
“ HOA BIỂN” thay anh “ LỜI TÌNH VIẾT VỘI”
“ CHUYỆN HẸN HÒ” xin “ HÃY HỨA YÊU EM”
“ ĐÔI NGÃ ĐÔI TA” “ TỪ ĐÓ EM BUỒN”
“ BẢY THẾ KỶ TÌNH YÊU” đùa “BÓNG NẮNG”
“ MỘT ĐỜI YÊU EM” trùng dương “ BIỂN MẶN”
“ TÌNH CÓ NHƯ KHÔNG” trăn trở “ CHỜ ĐÔNG”
“ BẢY NGÀY ĐỢI MONG” trên “BIỂN MÙ SƯƠNG”
“ CHÂN TRỜI TÍM” “ ĐỘC HÀNH” thân cô lữ
“ HOA CHIỀU” phôi pha lìa xa “ BẮC ĐẨU”
“ TƯỞNG NGƯỜI CHẾT ĐI” nhưng sống mãi muôn đời

Mượn lời thơ buồn tiễn anh lần cuối
Sống oai hùng chết để lại thanh danh
Nhật Trường mất đi bao người tiếc nuối
Nét son vàng muôn thuở Trần Thiện Thanh …

Nguyễn Phan Ngọc An - San Jose








Nguyenphanan
#13 Posted : Sunday, January 15, 2006 1:49:54 PM(UTC)
Nguyenphanan

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 536
Points: 0

Tuỳ bút Nguyễn Phan Ngọc An

MÙA XUÂN ĐẦU ĐỜI

Tiếng cười nói ồn ào ngoài cửa làm Quỳnh Châu thức giấc, đã 5 giờ chiều, sau cuộc hành trình vất vả nàng đã đến được nơi nầy – Người ta tiếp nhận nàng như một thượng khách, lo cho nàng ăn uống chu đáo và một căn phòng cho nàng nghỉ ngơi…Đêm qua Quỳnh Châu nhận được bức điện khẩn của Vũ gởi cho nàng, Châu quen vũ đã hai năm, chàng hiện là trưởng công an của huyện này – Thời gian quen nhau Vũ thường xuyên lái xe xuống thăm Châu vào cuối tuần rồi chở nàng đi xem phim, đi bát phố…Được điện tín Châu đã vội vã đón xe lúc 5 giờ sáng vậy mà đến mãi bây giờ cũng chưa thấy Vũ đến gặp nàng ! Quỳnh Châu cảm thấy hoang mang, một chút gì lo sợ trổi dậy trong óc nàng – Xưa nay Vũ rất đúng hẹn, chưa bao giờ để Châu chờ dù là một phút ! Không lẽ điện tín giả mạo ? và tại sao những người xa lạ này lại đối xử với nàng quá tốt ? Quỳnh Châu hồi hộp đợi chờ và suy nghĩ mãi không tìm ra câu giải đáp…
Tiếng xô cửa mạnh và Vũ bước nhanh vào, Châu mừng chảy nước mắt, chưa kịp trách người yêu câu gì thì chàng đã kéo vội Châu ra ngoài đẩy nàng lên xe rồi chạy rất nhanh về hướng trước mặt. Quỳnh Châu lo lắng nhưng thấy thái độ nghiêm trọng của Vũ nên lặng thinh không dám mở lời…Một lúc lâu Vũ mới nói :
- Em ạ ! Đêm nay là đêm quyết định tương lai và sự nghiệp của anh và em – Chúng mình sẽ đi vượt biên ngay đêm nay, tàu đang chờ chúng ta dưới bến. Anh mong em chấp nhận ra đi với anh và xuống dưới đó không nên hỏi han hay nói một điều gì ! Quỳnh Châu gật đầu mà nghe nghèn nghẹn trong ngực…tại sao Vũ không bàn tính trước với nàng ? vả lại Châu còn cha mẹ già ai chăm sóc ? xưa nay nàng không bao giờ nghĩ đến chuyện vượt biên, biết bao người đã vùi thây biển cả, biết bao người tan gia bại sản mang thân tù ngục ! Một chuyến mạo hiểm ngoài ý muốn của nàng, đến nước này rồi Châu không biết phải làm sao…nàng gượng gạo bước theo Vũ xuống ghe.
Màn đêm bao phủ, gió lạnh rít từng cơn, Vũ đưa cho nàng một áo lạnh và một xách tay hành lý rồi giao nàng cho một người đàn ông vừa bước đến – Châu nhìn Vũ ngạc nhiên, chàng cúi xuống hôn lên trán Châu và ra dấu lặng yên đừng hỏi. “ Em xuống tàu trước, anh thu xếp cho mọi người rồi xuống ngay” Vũ nói với Châu rồi biến nhanh trong đêm tối.

Tàu đã bắt đầu rời bến, Quỳnh Châu ngồi bó gối trong một góc tối, nàng không biết xung quanh nàng là ai chỉ thấy rất đông kẻ ngồi người đứng, ai cũng lặng im – Nàng đưa mắt nhìn lần cuối quê hương yêu dấu, nghẹn ngào chào biệt mẹ cha…Tàu mỗi lúc mỗi đi xa, quê hương của nàng đã mờ dần theo ngấn lệ !
Đã một tuần lênh đênh trên biển cả, thức ăn chỉ cầm chừng mà hình bóng Vũ thì biệt tăm, Quỳnh Châu buồn và cảm nhận một sự lừa dối ở Vũ ! Nhưng Vũ có lợi gì khi gởi nàng đi, chàng đâu có đòi hỏi tiền bạc hay chỉ vàng nào cả, vậy thì tại sao Vũ ở lại không đi với nàng?…
Tiếng reo hò inh ỏi của mọi người trên tàu cắt đứt dòng suy tư trong đầu Châu, một chiến hạm to lớn đang tiến dần đến gần tàu của Châu, nhưng rồi chiếc tàu lớn ấy đã lạnh lùng không cứu vớt đoàn người vượt biên ! Lần lượt trong năm ngày như thế, bảy chiếc tàu to lớn dửng dưng, tàn nhẫn không xót thương với những lời thống thiết van xin khóc lóc của những người trên tàu…Quỳnh Châu mất hết nghị lực và niềm tin, trước mắt nàng là cõi chết !
Lại tiếng người la lối hỗn độn, rồi những người đàn ông cởi áo vẫy túi bụi trên không, tàu của Châu đi đã đến gần vào một chiếc tàu đồ sộ, còn cách chừng 150 mét. Mọi người mừng rỡ, hy vọng tràn trề, đàn bà con nít nhao nhao cả lên như bầy ong vỡ tổ, đột nhiên chiếc tàu quay hướng băng ngang làm sóng đánh tràn vào ghe nàng đi, chiếc ghe trước lượn sóng to lớn đã hụp xuống biển sâu rồi lại trồi lên mặt nước, mọi người không ai còn hồn viá, nhìn nhau mặt mày xanh lét như bị sốt rét rừng kinh niên, khi chiếc ghe đã lấy lại được thăng bằng mọi người thở ra đánh phào vì đã thoát chết, một số đàn bà và trẻ con ói mửa lung tung, cảnh tượng ghê rợn giữa biển trời mênh mông, Châu rùng mình sợ hãi nghĩ thầm : “Sao họ ác thế, không cứu chúng tôi còn đánh sóng một cách bạo tàn cho chìm ghe chúng tôi, họ là người hay là loại thú không có lương tâm” chiếc ghe đang chòng chành trước sự kềm hãm hết sức lực của tài công, mười mấy ngày lênh đênh trên biển cả Quỳnh Châu chỉ thấy mỗi một người cầm lái và xoay sở mọi vấn đề trên ghe cũng như khi gặp sự việc bất trắc thình lình – người này không ai khác hơn là người đàn ông mà Vũ đã giới thiệu và gởi nàng lên ghe này…khi sóng lặng gió yêm nàng lân la tìm tới làm quen người đàn ông đang lái ghe :
- Thưa ông, xin ông cho Châu được biết quý danh, ông đã cho Châu cơ hội tìm tự do, một đời Châu không dám quên ơn ông.
- Không có gì đâu cô, người đàn ông vừa chăm chú lái ghe vừa trả lời nàng, tôi cầu mong cho tất cả chúng ta đến được bến bờ tự do, đó là tâm nguyện duy nhứt của tôi khi quyết định mua ghe rồi chấp nhận cả những việc mà chưa từng làm bao giờ như cô đã nhìn thấy mười mấy hôm nay đó…còn tên tôi, cô cứ gọi Năm Nhân là được rồi, mà tôi đâu đến nỗi già mà cô gọi bằng ông dữ vậy !
Quỳnh Châu trong lòng đã nể phục người có tài này, nay nghe những lời nói khiêm nhường nhã nhặn lòng đã thấy bồi hồi vui vui một niềm vui không rõ nguyên nhân…Châu ngồi xuống bên cạnh Năm Nhân hạ giọng :
- Bao nhiêu ngày lênh đênh trên biển cả, Châu thấy chỉ có một mình anh cầm lái và xông pha mọi việc, ngay cả chuyện ăn uống anh cũng quên luôn, chỉ hơn mười ngày trông anh khác hẵn buổi đầu tiên Châu bước lên ghe, chắc anh đang mệt lắm phải không ?
- Phải đó cô Châu, tôi mệt lắm, không riêng về sức khỏe mà lẫn cả tinh thần, tôi rất lo lắng cầm trong tay sinh mạng bao nhiêu con người mà tôi lại không phải là tài công, chưa từng làm hoa tiêu, trước sự việc bất đắc dĩ này, tôi phải liều mạng thôi, thú thật với cô đây là lần đầu tiên tôi lái ghe ra biển lớn vì tôi sắm ghe mới bốn tháng nay chỉ với hoài bão hôm nay nên cứ lẩn quẩn trong bờ đánh cá với hai cháu còn nhỏ xíu cho có lệ qua mắt bọn công an mà thôi…còn nghề hoa tiêu chấm hải bàn thì càng khổ cho tôi bởi tôi là sĩ quan pháo binh chuyên chấm tọa độ cho trọng pháo bảo vệ các tiền đồn, căn cứ trên đất liền – tôi chỉ cầu xin trời phật phò hộ tai qua nạn khỏi vì chúng ta đi giữa mùa giông bão lớn mà lại là lúc có lệnh ngưng cứu vớt người tỵ nạn trên biển dưới mọi hình thức của các nước trên thế giới – thôi thì cùng nhau cố mà cầu nguyện sự linh thiêng nhiệm mầu của đấng tối cao vậy. Nói xong chàng chỉ hai đứa cháu trai đứa đứng đứa ngồi trên sàn ghe :
- Đó, hai cháu kêu bằng cậu, đứa tên Sơn, đứa tên Phong con của đứa em gái – bốn tháng trời ba cậu cháu cực khổ vô biên trên nghề đánh cá vì có ai biết gì về nghề biển cả ghe tàu gì đâu, hôm tuần rồi lạc ghe khi tổ chức bị bể, tưởng hai đứa này và thằng Nghĩa chết đói ngoài biển rồi đó chứ !
- Anh Nhân, Châu thân thiện tâm sự với chàng : trên ghe này ngoài hai cháu kêu bằng cậu anh có còn thân nhân nào của anh nữa không ? nếu đã sắm ghe hẵn anh phải đem gia đình vợ con đi chứ, sao tư øngày đi đến nay Châu không thấy người nào săn sóc cho anh hết vậy ?
- Ồ ! chuyện đó dài dòng lắm cô Châu ơi, tôi đi với hai đứa con gái nhưng chúng đã bị bắt hết rồi vào hôm tổ chức tuần trước, đợt này tổ chức đi một cách khẩn cấp, hai đứa nhỏ còn đang kẹt trong tù nên tôi đành chấp nhận đi một mình với hai thằng cháu thuyền viên bé tí này thôi…
Quỳnh Châu bàng hoàng xót xa cho hoàn cảnh của anh Nhân, lòng đã quyết tìm hiểu về gia cảnh riêng tư của anh bởi trong Châu đang dâng lên một cảm tình rào rạt xen lẫn niềm trân quý anh Năm Nhân, người thanh niên mà suốt đoạn đường vượt biển đã cho nàng thấy rõ tài năng và tư cách của chàng.
- Châu có linh tính là anh đang buồn và cô độc, Châu cũng là kẻ bị bỏ rơi, người thanh niên gởi Châu lên ghe anh đã tàn nhẫn bỏ rơi Châu rồi, một chuyến ra đi Châu không hề biết trước, anh ta sắp sếp chủ động mọi việc mà cho tới hôm nay trên chiếc ghe định mệnh này Châu chẳng thấy anh ta đâu cả ?
- Cô Châu nói về Vũ đó hả ! anh ta đâu có đi vượt biên làm gì, anh ta là công an tổ chức bãi cho tôi mà, anh ta thường xuyên làm nghề này nên nghe đâu giàu kết sụ, có mấy tiệm vàng và sắp lấy vợ cũng con gái tiệm vàng…
Quỳnh Châu nghe nhói trong tim, thì ra Vũ đã gạt nàng, đưa nàng đi cho khuất mắt, khỏi làm chướng ngại vật để cản Vũ trong việc hôn nhân, đối xử với nhau như vậy sao ? Châu lẩm bẩm trong bụng, lòng dạ con người khó mà đo lường được, nhưng dù sao mình cũng cảm ơn Vũ đã giúp mình một lối thoát để không ngỡ ngàng cho cả hai nếu sự thật phũ phàng kia xãy ra ! Đời người con gái của Châu đã bị Vũ chiếm đoạt rồi, nàng yêu Vũ mà không hề nghi ngờ chàng một điều gì, nào hay đâu Vũ đã có sẵn mối tình song đôi, nào hay Vũ đang tính toán lợi hại trong tình yêu, đây cũng là dịp may cho mình, nếu mình ở lại quê hương thì ngày đám cưới của Vũ…mình sẽ ra sao ? phũ phàng nhục nhã nào hơn cho mình ! Nghĩ được điều này, lòng Châu nhẹ nhàng thanh thản, nàng phớt lờ như chẳng có tình cảm riêng tư gì với Vũ :
- Thì do thế mà anh ta không có ý vượt biên, thôi cũng cầu chúc anh ta tròn mộng ước, Châu mới quen anh ta nên không biết gì về cuộc đời riêng tư của anh ấy, cứ tưởng mọi người ai cũng thích ra đi tìm tự do, anh Nhân sao anh không kể chuyện riêng tư của anh cho Châu nghe với có được không, Châu muốn được chia xẻ cùng anh…
- À ! chuyện vợ con thê tử ấy nhắc lại chỉ làm đau lòng thôi, vì hoàn cảnh chiến tranh vợ chồng tôi phải xa nhau, hiện nay nàng ở Hoa Kỳvới hai đứa con của tôi, tôi có 4 cháu, 3 gái, 1trai…
- Nhưng anh có hy vọng ngày xum họp với chị không ? Quỳnh Châu tò mò hỏi.
- Tôi không rõ thế nào, tuy rằng trong lòng tôi lúc nào cũng hy vọng điều đó, vợ tôi là người đàn bà hiền hậu thủy chung, nàng rất thương tôi, nàng vẫn viết thư về nói là vẫn chờ đợi tôi và hai đứa con còn kẹt lại Việt Nam…Nhân trả lời Quỳnh Châu mà lòng nghe nghẹn đắng, chàng biết khi Mỹ Nương ra đi với người đàn ông khác thì không trông mong ngày xum họp với chàng, càng tệ hại hơn khi ông ta quen biết chàng, nhà ở cùng xóm với chàng, ông ta bỏ vợ con ở lại để ra đi với vợ chàng, thì chuyện đoàn viên e không thể có, mặc dù đôi lần Mỹ Nương viết thư về an ủi “ em vẫn chờ anh và hai con” !
Quỳnh Châu im lặng thở dài không hỏi nữa, bấy nhiêu đó đủ cho nàng thấy được chỗ đứng của nàng ở đâu rồi, chàng ra đi để xum họp người xưa đang chờ đợi, mình chỉ là hoài vọng chuyện mây bay gió thoảng, Châu dằn lòng để cố xem anh Nhân như một người anh, chuyến đi này nàng hoàn toàn cô độc khi đến bến bờ tự do, có một người anh kết nghĩa chả là quý lắm sao…Châu là người con gái nghị lực nên nàng không yếu mềm trước tình cảm, nàng cười tươi nói tiếp :
- Anh Nhân này ! hoàn cảnh em khi đến nước người không có một ai là thân quen, xin anh nhận Châu là em gái kết nghĩa, nếu anh bằng lòng em xin cảm ơn anh thật nhiều đã giúp em có niềm tin trên đường vượt biển.
- Gì chớ điều đó tôi chấp nhận ngay – Anh em mình đến xứ người chân ướt chân ráo ai cũng bơ vơ, có em gái cũng có miếng cơm ăn đỡ phải chui vào bếp phải không Châu ? Quỳnh Châu nghe mừng ran trong bụng không trả lời chỉ cười, như vậy là anh Nhân đâu có xum họp người xưa, chắc anh chàng đang dấu diếm sự thật não lòng rồi đây…nàng mĩm cười mãn nguyện và tự hứa không tìm hiểu chuyện riêng tư của anh Nhân nữa, nàng đã có niềm tin và hy vọng…
- Anh Năm ơi, có tàu lớn ở đàng xa đang tiến tới ghe mình, Long hốt hoảng vừa chạy vừa kêu to – Long là em vợ của chàng, tội nghiệp nó cũng vất vả lắm trong chuyến đi này, những ngày qua nước tràn vào ghe nó và các bạn trên ghe tát nước thay phiên, cứ 5 người này rồi thay 5 người khác tát nước liên tục, ghe đã cũ nên chẳng bảo đảm chuyện nước lọt vào các lỗ bị hư thủng khi bị sóng đánh tơi bời, mưa bão phủ đầy chiếc ghe chỉ 8 mét chiều dài, 2 mét rưỡi chiều ngang – Năm Nhân nghe Long báo tin như thế vội nhìn theo hướng Long chỉ, đúng là một chiếc tàu đồ sộ đang tiến thẳng hướng này, mọi người trên ghe nhốn nháo cả lên, đàn bà con nít khóc òa lên, đàn ông thanh niên vẫy vẫy túi bụi trên không những chiếc áo, những chiếc quần dài họ cỡi ra để vẫy, người chỉ còn vỏn vẹn chiếc quần đùi với thân thể ốm teo bởi mười mấy ngày lênh đênh đói khát…Nhân nhìn những thân hình đó mà thương hại, nhớ lại ngày ra khơi họ còn vạm vỡ, lúc gặp tàu quốc doanh chạy gần đến, Nhân đã dồn họ xuống hầm ghe với những bộ áo quần tươm tất, đâu như bây giờ…tàu quốc doanh nhìn sơ thấy ghe vẫn nổi, Nhân ngồi trên tay lái, đàng sau một thuyền viên đứng, Hiệp bị rớt lại vào giờ chót nên một số dầu cung ứng cho ghe và một số người bên cánh Hiệp không đi được, thành thử giờ xuất phát chỉ có khoảng 23 người tính luôn con nít và ¼ số dầu dự định nên chiếc ghe vẫn nổi trên mặt nước, nhờ đó mà thoát được chiếc tàu quốc doanh đang tuần tra bắt người vượt biên vì họ nghĩ chắc rằng đây là chiếc ghe đi đánh cá về đêm !
Chiếc tàu đồ sộ kia cũng tàn nhẫn không cứu giúp đoàn người tỵ nạn, đã đến thật gần rồi nó lại lách ra xa, Nhân đứng chết lặng buông cả tay lái, nước mắt chàng ứa ra, chàng phải làm sao đây nếu lần nầy không được vớt nữa thì tất cả sẽ bỏ mạng vì đói vì khát, vì bão giông, không còn lương thực, không còn dầu mỡ 2 ngày rồi, ghe cứ thả lều bều trên mặt biển bao la mưa bão đùng đùng ghê rợn ! Bỗng nhiên chàng ra lệnh đục thủng ghe cho nước tràn vô rồi xốc mạnh một đứa bé giơ nó lên cao trên không, Nhân la lớn bằng tiếng Anh :
“ Xin các ông hãy bắn tôi chết đi, tôi không thể đứng nhìn thân nhân của tôi từ từ chìm sâu dưới lòng đáy biển, hãy bắn tôi đi, hãy bắn tôi đi” – Đứa bé la toáng lên khi bị nhấc bổng lên cao và khóc thét, nước đã tràn vào trong ghe…thế là hết…Quỳnh Châu nhắm mắt lại chờ thần chết đưa xuống biển sâu ! Nàng không ngờ đời nàng kết thúc đau thương đến thế !!!
- Họ cứu chúng ta rồi, mau leo lên thang, mau lên ! tiếng la lớn của anh Nhân, Châu mở bừng mắt ra, từng người một vội vã leo lên chiếc thang giây do chiếc tàu to lớn thả xuống, thì ra họ vẫn còn lòng nhân đạo trước hiểm nguy của kẻ khác…Quỳnh Châu bật khóc nức nở bám chặt thang giây…

Vào đảo được 3 tuần thì anh Nhân và hai cháu được chính phủ tách riêng ra theo diện Sĩ Quan QLVNCH tỵ nạn Cộng Sản, từ đó Quỳnh Châu không còn gặp được anh Nhân – Quỳnh Châu buồn lắm, tưởng qua xứ người sẽ được kề cận anh Nhân, cơm nước cho anh như lời anh đã nói với nàng khi còn lênh đênh trên biển cả, đúng là “tính trước bước không tới” – dù không còn gặp anh, nhưng trong lòng Châu vẫn thấy như luôn gần gũi một con người Châu kính phục, anh đã tài ba lèo lái con tàu vượt tử thần, làm tài công, làm hoa tiêu, mưu trí đục thủng tàu, nói tiếng Anh lưu loát…cứu sống bao nhiêu sinh mang, người như thế mà sao ơn trên không cho nàng diễm phúc hầu hạ ? rồi những ngày dài lê thê sắp tới, cuộc đời nàng sẽ trôi dạt về đâu, nàng có quên được anh không ? nàng cầu xin dù ở đâu anh vẫn được ơn lành bù đắp, anh nhân hậu, anh tài ba xứng đáng được hưởng những gì may mắn nhất của kiếp người trên dương thế…
Một năm sau Quỳnh Châu được nhận vào Mỹ, nhờ có chút vốn Anh Văn, nàng đi làm cho một văn phòng ngoại giao của chính phủ Hoa Kỳ – Nơi đây nàng đã gặp Luật, chàng là Tiến Sĩ Kinh Tế bộ Ngoại thương Hoa Kỳ, Luật du học từ năm 1973 nên chàng không hiểu được những đau thương mất mát của quê mình ! Luật càng yêu quý Châu hơn khi nghe nàng kể lại cuộc vượt biển của nàng, nàng không quên nhắc đến anh Nhân với cả sự quý trọng mang ơn và kính phục, Luật bồi hồi mong ước sẽ có ngày được gặp ân nhân nơi miền đất bao la này.
Cho dù có tình cảm mới, Châu vẫn không quên cha mẹ, vẫn chưa quên Vũ, nàng định một chuyến về quê ở lại ăn tết một tháng – Châu đã mua vé máy bay từ tháng trước, nàng cũng đã chuẩn bị một ít quà cho cha mẹ và cho cả Vũ cho dù Vũ đã phụ nàng…
Về đến quê xưa Châu mới biết Vũ đã lấy vợ, chàng lấy cô con gái nhà giàu và Vũ có hai tiệm bán vàng – Châu dò hỏi được biết sau nhiều chuyến Vũ đứng ra tổ chức cho người vượt biên Vũ đã giàu có lớn, và ngay sau ngày Quỳnh Châu đi được hai tuần Vũ đã cưới vợ, đám cưới thật lớn tổ chức nhà hàng đến 3 ngày ba đêm, đám cưới xong Vũ xin giãi ngũ không làm công an nữa…Châu nghe tin này chỉ biết mĩm cười chua chát trong lòng…
Quỳnh Châu trở về Mỹ sau một tuần thăm mẹ cha, nàng quyết định lấy Luật, nàng không còn điều gì ray rứt lương tâm khi biết rõ Vũ đã phụ nàng ! hạnh phúc đang chờ đón nàng, Châu tin tưởng rằng Luật là người trí thức cao hẵn chàng sẽ khác xa Vũ…chàng sẽ không bao giờ bán rẻ lương tâm vì vật chất, nàng sẽ có một đám cưới thật rỡ ràng, nàng sẽ là cô dâu đẹp nhất và hạnh phúc nhất trên thế gian này…nàng sẽ qua đài phát thanh, qua báo chí tìm cho được anh Nhân, ân nhân muôn thuở của nàng, đám cưới nàng anh Nhân sẽ đứng chủ hôn vì Luật du học nên cũng không có thân nhân ruột thịt, còn gì vui hơn, sung sướng hơn với những ý nghĩ miên man thú vị trong đầu, Quỳnh Châu cười mãn nguyện, nàng không thấy oán hận Vũ nữa mà trái lại cảm ơn Vũ đã vô tình cho nàng một tương lai tươi sáng, một hạnh phúc bất ngờ…Tết năm nay mới thật sự là một cái tết hạnh phúc nhất của nàng mà bao năm Quỳnh Châu hằng mơ ước …

NPNA


Nguyenphanan
#14 Posted : Sunday, January 15, 2006 1:51:58 PM(UTC)
Nguyenphanan

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 536
Points: 0

Tuỳ bút Nguyễn Phan Ngọc An

MÙA XUÂN ĐẦU ĐỜI

Tiếng cười nói ồn ào ngoài cửa làm Quỳnh Châu thức giấc, đã 5 giờ chiều, sau cuộc hành trình vất vả nàng đã đến được nơi nầy – Người ta tiếp nhận nàng như một thượng khách, lo cho nàng ăn uống chu đáo và một căn phòng cho nàng nghỉ ngơi…Đêm qua Quỳnh Châu nhận được bức điện khẩn của Vũ gởi cho nàng, Châu quen vũ đã hai năm, chàng hiện là trưởng công an của huyện này – Thời gian quen nhau Vũ thường xuyên lái xe xuống thăm Châu vào cuối tuần rồi chở nàng đi xem phim, đi bát phố…Được điện tín Châu đã vội vã đón xe lúc 5 giờ sáng vậy mà đến mãi bây giờ cũng chưa thấy Vũ đến gặp nàng ! Quỳnh Châu cảm thấy hoang mang, một chút gì lo sợ trổi dậy trong óc nàng – Xưa nay Vũ rất đúng hẹn, chưa bao giờ để Châu chờ dù là một phút ! Không lẽ điện tín giả mạo ? và tại sao những người xa lạ này lại đối xử với nàng quá tốt ? Quỳnh Châu hồi hộp đợi chờ và suy nghĩ mãi không tìm ra câu giải đáp…
Tiếng xô cửa mạnh và Vũ bước nhanh vào, Châu mừng chảy nước mắt, chưa kịp trách người yêu câu gì thì chàng đã kéo vội Châu ra ngoài đẩy nàng lên xe rồi chạy rất nhanh về hướng trước mặt. Quỳnh Châu lo lắng nhưng thấy thái độ nghiêm trọng của Vũ nên lặng thinh không dám mở lời…Một lúc lâu Vũ mới nói :
- Em ạ ! Đêm nay là đêm quyết định tương lai và sự nghiệp của anh và em – Chúng mình sẽ đi vượt biên ngay đêm nay, tàu đang chờ chúng ta dưới bến. Anh mong em chấp nhận ra đi với anh và xuống dưới đó không nên hỏi han hay nói một điều gì ! Quỳnh Châu gật đầu mà nghe nghèn nghẹn trong ngực…tại sao Vũ không bàn tính trước với nàng ? vả lại Châu còn cha mẹ già ai chăm sóc ? xưa nay nàng không bao giờ nghĩ đến chuyện vượt biên, biết bao người đã vùi thây biển cả, biết bao người tan gia bại sản mang thân tù ngục ! Một chuyến mạo hiểm ngoài ý muốn của nàng, đến nước này rồi Châu không biết phải làm sao…nàng gượng gạo bước theo Vũ xuống ghe.
Màn đêm bao phủ, gió lạnh rít từng cơn, Vũ đưa cho nàng một áo lạnh và một xách tay hành lý rồi giao nàng cho một người đàn ông vừa bước đến – Châu nhìn Vũ ngạc nhiên, chàng cúi xuống hôn lên trán Châu và ra dấu lặng yên đừng hỏi. “ Em xuống tàu trước, anh thu xếp cho mọi người rồi xuống ngay” Vũ nói với Châu rồi biến nhanh trong đêm tối.

Tàu đã bắt đầu rời bến, Quỳnh Châu ngồi bó gối trong một góc tối, nàng không biết xung quanh nàng là ai chỉ thấy rất đông kẻ ngồi người đứng, ai cũng lặng im – Nàng đưa mắt nhìn lần cuối quê hương yêu dấu, nghẹn ngào chào biệt mẹ cha…Tàu mỗi lúc mỗi đi xa, quê hương của nàng đã mờ dần theo ngấn lệ !
Đã một tuần lênh đênh trên biển cả, thức ăn chỉ cầm chừng mà hình bóng Vũ thì biệt tăm, Quỳnh Châu buồn và cảm nhận một sự lừa dối ở Vũ ! Nhưng Vũ có lợi gì khi gởi nàng đi, chàng đâu có đòi hỏi tiền bạc hay chỉ vàng nào cả, vậy thì tại sao Vũ ở lại không đi với nàng?…
Tiếng reo hò inh ỏi của mọi người trên tàu cắt đứt dòng suy tư trong đầu Châu, một chiến hạm to lớn đang tiến dần đến gần tàu của Châu, nhưng rồi chiếc tàu lớn ấy đã lạnh lùng không cứu vớt đoàn người vượt biên ! Lần lượt trong năm ngày như thế, bảy chiếc tàu to lớn dửng dưng, tàn nhẫn không xót thương với những lời thống thiết van xin khóc lóc của những người trên tàu…Quỳnh Châu mất hết nghị lực và niềm tin, trước mắt nàng là cõi chết !
Lại tiếng người la lối hỗn độn, rồi những người đàn ông cởi áo vẫy túi bụi trên không, tàu của Châu đi đã đến gần vào một chiếc tàu đồ sộ, còn cách chừng 150 mét. Mọi người mừng rỡ, hy vọng tràn trề, đàn bà con nít nhao nhao cả lên như bầy ong vỡ tổ, đột nhiên chiếc tàu quay hướng băng ngang làm sóng đánh tràn vào ghe nàng đi, chiếc ghe trước lượn sóng to lớn đã hụp xuống biển sâu rồi lại trồi lên mặt nước, mọi người không ai còn hồn viá, nhìn nhau mặt mày xanh lét như bị sốt rét rừng kinh niên, khi chiếc ghe đã lấy lại được thăng bằng mọi người thở ra đánh phào vì đã thoát chết, một số đàn bà và trẻ con ói mửa lung tung, cảnh tượng ghê rợn giữa biển trời mênh mông, Châu rùng mình sợ hãi nghĩ thầm : “Sao họ ác thế, không cứu chúng tôi còn đánh sóng một cách bạo tàn cho chìm ghe chúng tôi, họ là người hay là loại thú không có lương tâm” chiếc ghe đang chòng chành trước sự kềm hãm hết sức lực của tài công, mười mấy ngày lênh đênh trên biển cả Quỳnh Châu chỉ thấy mỗi một người cầm lái và xoay sở mọi vấn đề trên ghe cũng như khi gặp sự việc bất trắc thình lình – người này không ai khác hơn là người đàn ông mà Vũ đã giới thiệu và gởi nàng lên ghe này…khi sóng lặng gió yêm nàng lân la tìm tới làm quen người đàn ông đang lái ghe :
- Thưa ông, xin ông cho Châu được biết quý danh, ông đã cho Châu cơ hội tìm tự do, một đời Châu không dám quên ơn ông.
- Không có gì đâu cô, người đàn ông vừa chăm chú lái ghe vừa trả lời nàng, tôi cầu mong cho tất cả chúng ta đến được bến bờ tự do, đó là tâm nguyện duy nhứt của tôi khi quyết định mua ghe rồi chấp nhận cả những việc mà chưa từng làm bao giờ như cô đã nhìn thấy mười mấy hôm nay đó…còn tên tôi, cô cứ gọi Năm Nhân là được rồi, mà tôi đâu đến nỗi già mà cô gọi bằng ông dữ vậy !
Quỳnh Châu trong lòng đã nể phục người có tài này, nay nghe những lời nói khiêm nhường nhã nhặn lòng đã thấy bồi hồi vui vui một niềm vui không rõ nguyên nhân…Châu ngồi xuống bên cạnh Năm Nhân hạ giọng :
- Bao nhiêu ngày lênh đênh trên biển cả, Châu thấy chỉ có một mình anh cầm lái và xông pha mọi việc, ngay cả chuyện ăn uống anh cũng quên luôn, chỉ hơn mười ngày trông anh khác hẵn buổi đầu tiên Châu bước lên ghe, chắc anh đang mệt lắm phải không ?
- Phải đó cô Châu, tôi mệt lắm, không riêng về sức khỏe mà lẫn cả tinh thần, tôi rất lo lắng cầm trong tay sinh mạng bao nhiêu con người mà tôi lại không phải là tài công, chưa từng làm hoa tiêu, trước sự việc bất đắc dĩ này, tôi phải liều mạng thôi, thú thật với cô đây là lần đầu tiên tôi lái ghe ra biển lớn vì tôi sắm ghe mới bốn tháng nay chỉ với hoài bão hôm nay nên cứ lẩn quẩn trong bờ đánh cá với hai cháu còn nhỏ xíu cho có lệ qua mắt bọn công an mà thôi…còn nghề hoa tiêu chấm hải bàn thì càng khổ cho tôi bởi tôi là sĩ quan pháo binh chuyên chấm tọa độ cho trọng pháo bảo vệ các tiền đồn, căn cứ trên đất liền – tôi chỉ cầu xin trời phật phò hộ tai qua nạn khỏi vì chúng ta đi giữa mùa giông bão lớn mà lại là lúc có lệnh ngưng cứu vớt người tỵ nạn trên biển dưới mọi hình thức của các nước trên thế giới – thôi thì cùng nhau cố mà cầu nguyện sự linh thiêng nhiệm mầu của đấng tối cao vậy. Nói xong chàng chỉ hai đứa cháu trai đứa đứng đứa ngồi trên sàn ghe :
- Đó, hai cháu kêu bằng cậu, đứa tên Sơn, đứa tên Phong con của đứa em gái – bốn tháng trời ba cậu cháu cực khổ vô biên trên nghề đánh cá vì có ai biết gì về nghề biển cả ghe tàu gì đâu, hôm tuần rồi lạc ghe khi tổ chức bị bể, tưởng hai đứa này và thằng Nghĩa chết đói ngoài biển rồi đó chứ !
- Anh Nhân, Châu thân thiện tâm sự với chàng : trên ghe này ngoài hai cháu kêu bằng cậu anh có còn thân nhân nào của anh nữa không ? nếu đã sắm ghe hẵn anh phải đem gia đình vợ con đi chứ, sao tư øngày đi đến nay Châu không thấy người nào săn sóc cho anh hết vậy ?
- Ồ ! chuyện đó dài dòng lắm cô Châu ơi, tôi đi với hai đứa con gái nhưng chúng đã bị bắt hết rồi vào hôm tổ chức tuần trước, đợt này tổ chức đi một cách khẩn cấp, hai đứa nhỏ còn đang kẹt trong tù nên tôi đành chấp nhận đi một mình với hai thằng cháu thuyền viên bé tí này thôi…
Quỳnh Châu bàng hoàng xót xa cho hoàn cảnh của anh Nhân, lòng đã quyết tìm hiểu về gia cảnh riêng tư của anh bởi trong Châu đang dâng lên một cảm tình rào rạt xen lẫn niềm trân quý anh Năm Nhân, người thanh niên mà suốt đoạn đường vượt biển đã cho nàng thấy rõ tài năng và tư cách của chàng.
- Châu có linh tính là anh đang buồn và cô độc, Châu cũng là kẻ bị bỏ rơi, người thanh niên gởi Châu lên ghe anh đã tàn nhẫn bỏ rơi Châu rồi, một chuyến ra đi Châu không hề biết trước, anh ta sắp sếp chủ động mọi việc mà cho tới hôm nay trên chiếc ghe định mệnh này Châu chẳng thấy anh ta đâu cả ?
- Cô Châu nói về Vũ đó hả ! anh ta đâu có đi vượt biên làm gì, anh ta là công an tổ chức bãi cho tôi mà, anh ta thường xuyên làm nghề này nên nghe đâu giàu kết sụ, có mấy tiệm vàng và sắp lấy vợ cũng con gái tiệm vàng…
Quỳnh Châu nghe nhói trong tim, thì ra Vũ đã gạt nàng, đưa nàng đi cho khuất mắt, khỏi làm chướng ngại vật để cản Vũ trong việc hôn nhân, đối xử với nhau như vậy sao ? Châu lẩm bẩm trong bụng, lòng dạ con người khó mà đo lường được, nhưng dù sao mình cũng cảm ơn Vũ đã giúp mình một lối thoát để không ngỡ ngàng cho cả hai nếu sự thật phũ phàng kia xãy ra ! Đời người con gái của Châu đã bị Vũ chiếm đoạt rồi, nàng yêu Vũ mà không hề nghi ngờ chàng một điều gì, nào hay đâu Vũ đã có sẵn mối tình song đôi, nào hay Vũ đang tính toán lợi hại trong tình yêu, đây cũng là dịp may cho mình, nếu mình ở lại quê hương thì ngày đám cưới của Vũ…mình sẽ ra sao ? phũ phàng nhục nhã nào hơn cho mình ! Nghĩ được điều này, lòng Châu nhẹ nhàng thanh thản, nàng phớt lờ như chẳng có tình cảm riêng tư gì với Vũ :
- Thì do thế mà anh ta không có ý vượt biên, thôi cũng cầu chúc anh ta tròn mộng ước, Châu mới quen anh ta nên không biết gì về cuộc đời riêng tư của anh ấy, cứ tưởng mọi người ai cũng thích ra đi tìm tự do, anh Nhân sao anh không kể chuyện riêng tư của anh cho Châu nghe với có được không, Châu muốn được chia xẻ cùng anh…
- À ! chuyện vợ con thê tử ấy nhắc lại chỉ làm đau lòng thôi, vì hoàn cảnh chiến tranh vợ chồng tôi phải xa nhau, hiện nay nàng ở Hoa Kỳvới hai đứa con của tôi, tôi có 4 cháu, 3 gái, 1trai…
- Nhưng anh có hy vọng ngày xum họp với chị không ? Quỳnh Châu tò mò hỏi.
- Tôi không rõ thế nào, tuy rằng trong lòng tôi lúc nào cũng hy vọng điều đó, vợ tôi là người đàn bà hiền hậu thủy chung, nàng rất thương tôi, nàng vẫn viết thư về nói là vẫn chờ đợi tôi và hai đứa con còn kẹt lại Việt Nam…Nhân trả lời Quỳnh Châu mà lòng nghe nghẹn đắng, chàng biết khi Mỹ Nương ra đi với người đàn ông khác thì không trông mong ngày xum họp với chàng, càng tệ hại hơn khi ông ta quen biết chàng, nhà ở cùng xóm với chàng, ông ta bỏ vợ con ở lại để ra đi với vợ chàng, thì chuyện đoàn viên e không thể có, mặc dù đôi lần Mỹ Nương viết thư về an ủi “ em vẫn chờ anh và hai con” !
Quỳnh Châu im lặng thở dài không hỏi nữa, bấy nhiêu đó đủ cho nàng thấy được chỗ đứng của nàng ở đâu rồi, chàng ra đi để xum họp người xưa đang chờ đợi, mình chỉ là hoài vọng chuyện mây bay gió thoảng, Châu dằn lòng để cố xem anh Nhân như một người anh, chuyến đi này nàng hoàn toàn cô độc khi đến bến bờ tự do, có một người anh kết nghĩa chả là quý lắm sao…Châu là người con gái nghị lực nên nàng không yếu mềm trước tình cảm, nàng cười tươi nói tiếp :
- Anh Nhân này ! hoàn cảnh em khi đến nước người không có một ai là thân quen, xin anh nhận Châu là em gái kết nghĩa, nếu anh bằng lòng em xin cảm ơn anh thật nhiều đã giúp em có niềm tin trên đường vượt biển.
- Gì chớ điều đó tôi chấp nhận ngay – Anh em mình đến xứ người chân ướt chân ráo ai cũng bơ vơ, có em gái cũng có miếng cơm ăn đỡ phải chui vào bếp phải không Châu ? Quỳnh Châu nghe mừng ran trong bụng không trả lời chỉ cười, như vậy là anh Nhân đâu có xum họp người xưa, chắc anh chàng đang dấu diếm sự thật não lòng rồi đây…nàng mĩm cười mãn nguyện và tự hứa không tìm hiểu chuyện riêng tư của anh Nhân nữa, nàng đã có niềm tin và hy vọng…
- Anh Năm ơi, có tàu lớn ở đàng xa đang tiến tới ghe mình, Long hốt hoảng vừa chạy vừa kêu to – Long là em vợ của chàng, tội nghiệp nó cũng vất vả lắm trong chuyến đi này, những ngày qua nước tràn vào ghe nó và các bạn trên ghe tát nước thay phiên, cứ 5 người này rồi thay 5 người khác tát nước liên tục, ghe đã cũ nên chẳng bảo đảm chuyện nước lọt vào các lỗ bị hư thủng khi bị sóng đánh tơi bời, mưa bão phủ đầy chiếc ghe chỉ 8 mét chiều dài, 2 mét rưỡi chiều ngang – Năm Nhân nghe Long báo tin như thế vội nhìn theo hướng Long chỉ, đúng là một chiếc tàu đồ sộ đang tiến thẳng hướng này, mọi người trên ghe nhốn nháo cả lên, đàn bà con nít khóc òa lên, đàn ông thanh niên vẫy vẫy túi bụi trên không những chiếc áo, những chiếc quần dài họ cỡi ra để vẫy, người chỉ còn vỏn vẹn chiếc quần đùi với thân thể ốm teo bởi mười mấy ngày lênh đênh đói khát…Nhân nhìn những thân hình đó mà thương hại, nhớ lại ngày ra khơi họ còn vạm vỡ, lúc gặp tàu quốc doanh chạy gần đến, Nhân đã dồn họ xuống hầm ghe với những bộ áo quần tươm tất, đâu như bây giờ…tàu quốc doanh nhìn sơ thấy ghe vẫn nổi, Nhân ngồi trên tay lái, đàng sau một thuyền viên đứng, Hiệp bị rớt lại vào giờ chót nên một số dầu cung ứng cho ghe và một số người bên cánh Hiệp không đi được, thành thử giờ xuất phát chỉ có khoảng 23 người tính luôn con nít và ¼ số dầu dự định nên chiếc ghe vẫn nổi trên mặt nước, nhờ đó mà thoát được chiếc tàu quốc doanh đang tuần tra bắt người vượt biên vì họ nghĩ chắc rằng đây là chiếc ghe đi đánh cá về đêm !
Chiếc tàu đồ sộ kia cũng tàn nhẫn không cứu giúp đoàn người tỵ nạn, đã đến thật gần rồi nó lại lách ra xa, Nhân đứng chết lặng buông cả tay lái, nước mắt chàng ứa ra, chàng phải làm sao đây nếu lần nầy không được vớt nữa thì tất cả sẽ bỏ mạng vì đói vì khát, vì bão giông, không còn lương thực, không còn dầu mỡ 2 ngày rồi, ghe cứ thả lều bều trên mặt biển bao la mưa bão đùng đùng ghê rợn ! Bỗng nhiên chàng ra lệnh đục thủng ghe cho nước tràn vô rồi xốc mạnh một đứa bé giơ nó lên cao trên không, Nhân la lớn bằng tiếng Anh :
“ Xin các ông hãy bắn tôi chết đi, tôi không thể đứng nhìn thân nhân của tôi từ từ chìm sâu dưới lòng đáy biển, hãy bắn tôi đi, hãy bắn tôi đi” – Đứa bé la toáng lên khi bị nhấc bổng lên cao và khóc thét, nước đã tràn vào trong ghe…thế là hết…Quỳnh Châu nhắm mắt lại chờ thần chết đưa xuống biển sâu ! Nàng không ngờ đời nàng kết thúc đau thương đến thế !!!
- Họ cứu chúng ta rồi, mau leo lên thang, mau lên ! tiếng la lớn của anh Nhân, Châu mở bừng mắt ra, từng người một vội vã leo lên chiếc thang giây do chiếc tàu to lớn thả xuống, thì ra họ vẫn còn lòng nhân đạo trước hiểm nguy của kẻ khác…Quỳnh Châu bật khóc nức nở bám chặt thang giây…

Vào đảo được 3 tuần thì anh Nhân và hai cháu được chính phủ tách riêng ra theo diện Sĩ Quan QLVNCH tỵ nạn Cộng Sản, từ đó Quỳnh Châu không còn gặp được anh Nhân – Quỳnh Châu buồn lắm, tưởng qua xứ người sẽ được kề cận anh Nhân, cơm nước cho anh như lời anh đã nói với nàng khi còn lênh đênh trên biển cả, đúng là “tính trước bước không tới” – dù không còn gặp anh, nhưng trong lòng Châu vẫn thấy như luôn gần gũi một con người Châu kính phục, anh đã tài ba lèo lái con tàu vượt tử thần, làm tài công, làm hoa tiêu, mưu trí đục thủng tàu, nói tiếng Anh lưu loát…cứu sống bao nhiêu sinh mang, người như thế mà sao ơn trên không cho nàng diễm phúc hầu hạ ? rồi những ngày dài lê thê sắp tới, cuộc đời nàng sẽ trôi dạt về đâu, nàng có quên được anh không ? nàng cầu xin dù ở đâu anh vẫn được ơn lành bù đắp, anh nhân hậu, anh tài ba xứng đáng được hưởng những gì may mắn nhất của kiếp người trên dương thế…
Một năm sau Quỳnh Châu được nhận vào Mỹ, nhờ có chút vốn Anh Văn, nàng đi làm cho một văn phòng ngoại giao của chính phủ Hoa Kỳ – Nơi đây nàng đã gặp Luật, chàng là Tiến Sĩ Kinh Tế bộ Ngoại thương Hoa Kỳ, Luật du học từ năm 1973 nên chàng không hiểu được những đau thương mất mát của quê mình ! Luật càng yêu quý Châu hơn khi nghe nàng kể lại cuộc vượt biển của nàng, nàng không quên nhắc đến anh Nhân với cả sự quý trọng mang ơn và kính phục, Luật bồi hồi mong ước sẽ có ngày được gặp ân nhân nơi miền đất bao la này.
Cho dù có tình cảm mới, Châu vẫn không quên cha mẹ, vẫn chưa quên Vũ, nàng định một chuyến về quê ở lại ăn tết một tháng – Châu đã mua vé máy bay từ tháng trước, nàng cũng đã chuẩn bị một ít quà cho cha mẹ và cho cả Vũ cho dù Vũ đã phụ nàng…
Về đến quê xưa Châu mới biết Vũ đã lấy vợ, chàng lấy cô con gái nhà giàu và Vũ có hai tiệm bán vàng – Châu dò hỏi được biết sau nhiều chuyến Vũ đứng ra tổ chức cho người vượt biên Vũ đã giàu có lớn, và ngay sau ngày Quỳnh Châu đi được hai tuần Vũ đã cưới vợ, đám cưới thật lớn tổ chức nhà hàng đến 3 ngày ba đêm, đám cưới xong Vũ xin giãi ngũ không làm công an nữa…Châu nghe tin này chỉ biết mĩm cười chua chát trong lòng…
Quỳnh Châu trở về Mỹ sau một tuần thăm mẹ cha, nàng quyết định lấy Luật, nàng không còn điều gì ray rứt lương tâm khi biết rõ Vũ đã phụ nàng ! hạnh phúc đang chờ đón nàng, Châu tin tưởng rằng Luật là người trí thức cao hẵn chàng sẽ khác xa Vũ…chàng sẽ không bao giờ bán rẻ lương tâm vì vật chất, nàng sẽ có một đám cưới thật rỡ ràng, nàng sẽ là cô dâu đẹp nhất và hạnh phúc nhất trên thế gian này…nàng sẽ qua đài phát thanh, qua báo chí tìm cho được anh Nhân, ân nhân muôn thuở của nàng, đám cưới nàng anh Nhân sẽ đứng chủ hôn vì Luật du học nên cũng không có thân nhân ruột thịt, còn gì vui hơn, sung sướng hơn với những ý nghĩ miên man thú vị trong đầu, Quỳnh Châu cười mãn nguyện, nàng không thấy oán hận Vũ nữa mà trái lại cảm ơn Vũ đã vô tình cho nàng một tương lai tươi sáng, một hạnh phúc bất ngờ…Tết năm nay mới thật sự là một cái tết hạnh phúc nhất của nàng mà bao năm Quỳnh Châu hằng mơ ước …

NPNA


Nguyenphanan
#15 Posted : Monday, February 13, 2006 11:21:29 PM(UTC)
Nguyenphanan

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 536
Points: 0


ĐỊNH MỆNH
Tuỳ bút : Nguyễn Phan Ngọc An

Tiếng gà gáy vang vang hòa theo tiếng xe chạy rần rật ngoài lộ, anh đã thừa biết trời gần sáng…Anh tung chăn ngồi dậy nhìn đồng hồ, đã 5 giờ rưỡi, anh còn nhớ kỹ lời dặn của mẹ anh, hôm nay lúc 7 giờ sáng có chuyến tàu đi theo ngã sông Hương vượt biển. Mẹ anh đã đóng 3 cây vàng cho anh và thu xếp một ít hành trang cần thiết cho anh trong chuyến vượt biên này…Anh không thể nào quên hình ảnh người mẹ hiền từ nhân hậu, từ khi nhận thức được anh đã thấy mẹ luôn luôn thương yêu chăm sóc anh chu đáo mọi bề, anh cũng không thể nào quên được những hình ảnh phá phách của anh từ tiền bạc đến của cải do hậu quả ăn chơi quá đáng của anh, 13 tuổi anh đã đua đòi bè bạn thụt bi da cá độ, đánh bài phé, đua xe ăn tiền…Anh thuộc về hạng cậu ấm, con nhà khá giả, anh vung tiền qua cửa sổ từ khi mới 13 tuổi. Bây giờ sắp lià xa mẹ để chọn cho mình một con đường, may thì có tương lai rực rỡ, rủi thì làm mồi cho cá sấu, cá mập hay vùi thân trong trại tù giam “ Một là con nuôi má, hai là con nuôi cá, ba là má nuôi con” Anh ta không còn con đường nào để chọn lựa…năm nay 19 tuổi rồi, học hành dang dỡ, mãi theo bạn bè con nhà giầu chơi những trò nguy hiểm, hôm tuần rồi trong cuộc đua xe thằng Tâm con chủ tiệm vàng Kim Thanh đã té xe và chết liền tại chỗ, tháng trước thằng Dũng con ông bà Viện Trưởng Viện Kiểm Sát đã gẫy một chân, thằng Hào con cô Nữ chủ lò bánh mì cũng đã vong mạng vì đua xe…anh ta vẫn còn may mắn bình yên sau nhiều cuộc đua xe chết người…Anh mê cờ bạc, mê bi da đến độ cầm bán không biết bao nhiêu là của cải của mẹ anh, có một lần anh chơi bi da cá độ với một việt kiều về nước, ỷ mình tài đánh bi da có hạng, anh cá chấp người bạn việt kiều 20 điểm, thế là sau trận giao tranh bi da lỗ, anh thua đứt 20 triệu đồng VN – Lần đó anh cầm chiếc xe Dream rồi bán đứt luôn, mẹ buồn mẹ khóc…anh hăm dọa phá nhà tan hoang ! Sau đó anh hối hận trong lòng nhưng rồi chứng nào tật nấy, anh vẫn làm mẹ khổ sỡ tiếp tục vì những phá phách của anh không có cơ may được biến đổi ! Năm 16 tuổi, trong một buổi chiều anh và các bạn trong xóm rủ nhau lấy xe chạy vòng vòng xa lộ, mỗi một chiếc xe chở hai chạy bon bon trên lộ, đi ngang một cô bé xinh xinh, bạn anh ngồi đàng sau đưa tay ôm choàng eo cô bé khiến cô bé té lộn nhào trên đường. Cha mẹ cô bé thưa kiện, thế là cả bọn bị Công An bắt giam cả người lẫn xe – Mẹ anh hay tin chạy vào trại giam hỏi cớ sự, người Công An trả lời :
- Con trai cô đã bị thưa về tội chọc gái ngoài đường gây thương tích, phải bị giam cảnh cáo một tuần và bồi thường 5 triệu đồng thiệt hại cho nạn nhân.
- Thưa anh, lỗi không phải do con tôi mà là người ngồi đàng sau hành động, sao lại bắt con tôi bồi thường ? Mẹ anh ta thắc mắc hỏi lại tên Công An.
- Chị hiểu cho, chúng tôi nắm kẻ có tóc, không nắm kẻ trọc đầu…Con chị dại dột chở vào thằng bạn lưu manh thì rán mà chịu. Nếu chị không giao số tiền 5 triệu bồi thường thì chiếc xe và con chị chúng tôi xin phép phải giam giữ theo luật hiện hành.
Anh ta lúc ấy đứng bên trong phòng nhìn thấy sự việc, bước ra nói với mẹ :
- Mẹ đền đi cho rồi, để cho con về và lấy xe ra chứ mấy thằng kia nhà nghèo đâu có tiền đền !
Lúc đó, mẹ anh ta không làm cách nào hơn vì người Công An đã nói thẳng “ nắm kẻ có tóc, không nắm kẻ trọc đầu” thế là phải bồi thường 5 triệu để cho anh và xe được về…
Anh là người rất được cảm tình mọi người và bè bạn, chỉ tội phá của thì không ai bằng, anh vẫn nhớ chiếc xe tốc hành của mẹ dùng để chở khách hàng ngày, anh lấy chở 20 thằng bạn đi Long Hải ăn nhậu, nhét cứng một xe đầy như nhét cá mòi hộp, anh đã bắt mẹ phải cho tiền đưa bạn đi chơi, anh mua 2 cây thuốc ngoại 555 chia cho mỗi thằng 1 gói, xuống đến Long Hải anh bao toàn bộ ăn uống, nhậu nhẹt đến cả bao gái cho các bạn luôn…Ngày đó mẹ mất sở hụi chuyến xe chở khách mà lại còn phải tốn cho anh một số tiền khá nhiều. Mẹ chiều anh quá nên anh hư, mà cũng do anh hung dữ áp đảo nên mẹ phải chiều cho xong chuyện, thành ra càng ngày anh càng hư hỏng, nghĩ mà thương mẹ…Bây giờ sắp xa mẹ để bước vào con đường rủi may của mệnh số, lòng anh bùi ngùi vô hạn, mẹ có hiểu cho sự hối hận tràn đầy trong anh, mai này cầu xin cho anh đến được bến bờ tự do, anh nguyện trong lòng sẽ đền ơn báo hiếu hầu an ủi phần nào cho mẹ nơi quê nhà…
Đã đến giờ ấn định, anh vội vã bước ra đường nhìn về hướng sông Hương. Đêm qua, anh từ giã mẹ xuống nhà quen ngủ cho gần sông Hương, bến sông vắng tanh, không một bóng người ! Anh lặng lẽ đi dọc theo bờ sông Hương, bầu trời mùa thu mát mẻ, thỉnh thoảng những chiếc lá khô rơi rụng bay lả tả uốn tròn trong gió sớm, nhìn cảnh thấy đẹp như một bức tranh sống, anh buồn trong lòng, chỉ phút chốc nữa anh phải lià xa quê hương, lià xa những phong cảnh tuyệt vời đã cùng anh ấp yêu bao kỷ niệm cùng gia đình, bè bạn thân thương…Lòng anh chùng xuống nặng nề, anh ngồi qụy trên mõm đá sát bờ sông để nghe từ tâm thức mình đang dâng lên cơn bão động ! Anh chợt thấy lo sợ cho một cuộc hành trình phú cho định mệnh, một cuộc hành trình bấp bênh hoàn toàn nhờ vào sự rủi may…Làm sao anh có thể quên được những hình ảnh hãi hùng trong ký ức chỉ hơn hai năm qua, bến sông này đã trôi giạt vào hơn một trăm xác chết, nổi lềnh bềnh ghê rợn, cả thành phố ai cũng túa bủa ra để tìm kiếm thân nhân, những tiếng khóc nức nở vang dậy một khúc sông buồn, một người đàn ông trạc gần 50 tuổi, tay dẫn hai đứa con thơ ra tìm xác vợ, ông ta đứng chết lặng bên một tử thi người đàn bà đã cứng đờ…thành phố này không ai còn xa lạ với ông ta, ông là một sĩ quan vừa đi tù Cộng Sản về, vợ ông là cô Linh, một người phụ nữ đẹp chuyên nghề buôn bán thuốc tây tại tỉnh nhà để nuôi hai đứa con và nuôi chồng tù tội – Cuộc đời là những đổi thay, tráo trở nào ai biết được nên ông Trời đã đặt cho nhân loại một câu nhắc nhở “ Thiên bất dung gian” để cảnh cáo loài người nhưng chẳng ai biết sợ cứ thản nhiên hành động bất nhân gian dối để rồi lãnh hậu quả tức thì – Anh vẫn nhớ mãi câu này Mẹ anh thường nói để khuyên anh trong cuộc sống đảo điên trăm bề, anh tuy phá của phá tiền nhưng không làm điều gian dối, lường gạt ai bao giờ mà trái lại anh rất thương người, giúp đỡ người, rộng rãi với mọi người…
Mọi người đứng xung quanh cha con ông sĩ quan mà ứa nước mắt, ông tên Quân, ông Quân không khóc, gương mặt đầy nỗi khắc khổ đến thương tâm, từ trái tim cằn cỗi khổ đau kia đang chồng chất thương yêu và thù hận ! Chị Linh vợ anh đã tàn nhẫn bỏ ông và hai con, trốn đi vượt biên với nhân tình, ông đã nghe trong thời gian qua là vợ đang cặp bồ với một người đàn ông khác và hay lân la cùng người đó quan hệ ghe tàu – Ông Quân đã nghe phong phanh cả 4 tháng qua nhưng chỉ biết cầu nguyện ơn trên cho đây là chuyện bịa đặt, hơn thế nữa, ông là một kẻ tội tù vừa được hồi sinh từ địa ngục trần gian, ông cần phải sống, ông đã từng mơ ước bao năm ngày xum họp vợ con, ông không thể làm điều gì khác hơn là im lặng và buồn tủi trong lòng mà thôi ….Ông Quân và hai đứa con quỳ xuống lạy xác chị Linh rồi thuê xe mang xác về tẫn liệm, một người phụ nữ đẹp đã đi vào thiên cổ lúc tuổi còn xuân xanh ! phải chăng đây là hình phạt mà ông trời dành cho những kẻ sống vô nhân, bạc nghĩa, bạc tình ?
Lần lượt trong ký ức anh sống lại những chuyện hãi hùng của những chuyến vượt biên xãy ra liên tiếp tại ngay tỉnh nhà của anh, anh cảm thấy hồi hộp khác thường cho chuyến đi mạo hiểm này, anh còn nhớ cách đây hơn bốn năm, cách nhà anh chừng 200 mét, cô Ánh dẫn 4 đứa con đi vượt biên, các con của cô đứa lớn nhất cũng đã 14 tuổi, là bạn quen của anh. Chú Soi chồng cô Ánh làm nghề sửa tủ lạnh, máy giặt rất chuyên nghiệp - Chú Soi, Cô Ánh ly dị đã 5 năm, cô cặp bồ với chú chủ ghe còn trẻ hơn cô 7 tuổi, trong một đêm không trăng, không sao, chiếc ghe rời bến, chiếc ghe đã ra đi mãi mãi không bờ bến đậu, chiếc ghe đã đưa những con người đang mơn mởn yêu cuộc sống về vùng đất nghìn trùng, về với biển cả bao la ! Hơn bốn năm rồi không tin tức, cả đoàn người trên chiếc ghe không có một tin tức nào về cho gia đình, cho thân nhân hay cho bạn hữu…Anh càng không quên chuyến ra đi vượt biển đầy gian lao của vợ chồng Chú Nghĩa cô Phụng ngay sau lưng nhà anh cũng cách nay chừng 3 năm – Chuyến ghe khoảng hơn 80 người , vợ chồng chú Nghĩa mang theo hai con nhỏ, giữa biển lớn gặp cơn bão cấp 12 tàn bạo, chiếc ghe chống chọi không nỗi với thần biển nên bị sóng lớn đánh lật úp – Anh Nghĩa vì quá lo cho hai đứa con, anh cố bám kéo hai con nên cùng ngập xuống biển sâu, chị Phụng may mắn chụp được cái can không bằng nhựa, chị bíu chặt bơi theo dòng nước xoáy, chị là gái miền tây bơi rất giỏi, cuối cùng trên chiếc ghe định mệnh chỉ còn sống sót một mình chị Phụng, tất cả đã ra đi không một lời từ giã, không hẹn ngày trở lại bao giờ !!!
Nhớ lại và hình dung lại, anh rùng mình sợ hãi tháo bước quay lui, những mơ ước về chân trời hoa gấm đã nhạt nhoà trong anh, bầu trời tự do như không còn ý nghĩa gì để có thể níu kéo bước chân đứng lại, anh chạy một mạch về nhà người bạn, thu gom vài món đồ của mình rồi ra xe Honda ôm về nhà – Mẹ thấy anh về, hốt hoảng hỏi :
- Cớ sao con lại trở về nhà ?
- Con chờ hoài chả thấy ghe đâu cả, không lẽ đứng đó chờ Công An lại bắt ? Anh trả lời.
Chợt có tiếng xôn xao ngoài đường lộ trước nhà, anh chạy ra nghe ngóng, họ đang bàn tán về chiếc ghe vượt biên bị bắt vào buổi sáng hôm nay, tất cả có 49 người, bị bắt đem nhốt trong trại giam của Công An Tỉnh, trong đó có cô ca sĩ nổi tiếng Thanh Lan, vừa đẹp vừa hát hay mọi người ai cũng thích cô cả…Anh bàng hoàng, hỏi ra tên chủ ghe anh mới xác định đúng là chiếc ghe mẹ đã lo cho anh đi, ghe đã bị bắt còn anh thì cứ đứng trên bờ sông trông ngóng ! May mắn từ đâu đem đến cho anh, anh lầm thầm cảm ơn Thượng Đế, cảm ơn Trời Phật đã cứu anh thoát tù tội…
Thời gian trôi qua, anh vẫn quen thói ăn chơi phá của phá tiền, mẹ lại gởi anh đi…lần này đi ghe lớn. Ông chủ ghe tên Chú Ba Hạnh, nhà tại Phú Mỹ thuộc tỉnh Bà Rịa, thành phố Vũng Tàu, theo như mẹ anh nói thì chiếc tàu chứ không phải chiếc ghe vì lớn lắm tới 6 máy đầu xanh Kubota – Đêm tới, một chiếc xe cam nhông đổ tại chợ để chờ bốc khách, mẹ anh cũng là một trong những người lo lương thực và bãi bến nên anh không phải tốn vàng đóng cho chú Hạnh. Anh leo lên xe cam nhông theo đoàn người lên trước, tự nhiên như hành khách đi xe đò không thấy ai sợ hãi bắt bớ, thì ra chú Hạnh đã mua đứt Công An tại đây…Trên đường xe chạy đến cầu Phú Mỹ thì thấy đàng trước có công an chận lại tuần tra về đêm vì lúc đó là 2 giờ sáng, mẹ anh thì chạy xe Honda phiá trước để dò đường xem tình hình an ninh hay trở ngại cho xe cam nhông – Trước mặt mẹ là hai chú công an đang cầm đèn pin dọi xa về phiá chiếc xe cam nhông, mẹ anh lanh trí tốp xe Honda lại sát vào hai anh Công An, làm bộ hỏi han lăng xăng nhờ các anh chỉ tìm mụ đở đẻ cho người chị đang chuyển bụng, các anh đêm khuya gặp phụ nữ xinh xắn nên vồn vã nói chuyện làm quen…thế là xe cam nhông vượt qua thoát nạn ! Lên một quãng xa đến chỗ quẹo trái để vào bãi bến, khách vừa đổ xuống để đi bộ xuống bãi thì chó hai bên đường sủa vang làm chấn động đêm khuya tĩnh mịch…mọi người sợ hãi chạy nhanh, anh cũng chạy theo họ. Khi đến bến bãi, anh đã nhìn thấy chiếc tàu to lớn nằm chờ ngoài xa, sát bờ là 4 chiếc ghe nhỏ lần lượt đưa khách ra tàu lớn…tưởng đã an toàn, mọi người hăm hở bước sang tàu lớn, chú Hạnh là người lên tàu sau cùng sau khi đã chuyển hết người nhà và khách lên tàu. Bỗng một loạt súng nổ vang, một toán khoảng gần 10 người công an bô đội du kích gì không rõ chạy nhanh tới, bắn ào ạt xuống tàu lớn la to “đứng lại, đứng lại”…Người tài công không dám chạy khi những phát đạn ria gần tàu tứ tung làm ông khiếp đảm và tung tóe cả mặt nước đen ngòm về đêm nhưng chú Ba Hạnh giục tài công phải chạy vì cả tài sản lớn lao này ông không thể để mất vào tay họ, ông đã bán nhà, bán vườn và còn lấy một số vàng của bạn bè bỏ vào mua tàu và cho gia đình họ cùng đi trên chuyến tàu này !
- Lái mau đi, tụi nó không có ghe đâu thể rượt bắt mình kịp, tăng tốc độ lên, mau lên…Chú Ba Hạnh hổn hển vừa thở vừa gấp gáp nói.
Tàu chạy được một khoảng xa, chưa kịp mừng thì từ đàng xa một chiếc ghe chạy với tốc độ thật nhanh tiến tới, trên ghe tới gần thấy rõ hàng chữ “ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam” , “thôi chết rồi” chú Hạnh buột miệng thở dài…tài sản của chú sẽ thành tro bụi! Họ bước lên tàu trong khí thế hung hăng, súng chĩa vào từng người, chú Hạnh là người bị mang còng số 8 trước tiên ! Họ ra lệnh cho tàu quay trở lại chỗ cũ, bao nhiêu con người trên tàu đau đớn nhìn nhau, những người đã bỏ vàng chung vào mua ghe để cùng đi, họ chết lặng cả tâm hồn và não giác, họ bước đi không nổi…thím Hạnh và một bầy con nhỏ 8 đứa, đứa nhỏ nhất chỉ mới 2 tuổi, thím khóc gào thê lương thảm thiết khi nhìn chồng bị khóa đôi tay !
Tàu trở vào chỗ cũ, bọn họ đã giữ hết 4 chiếc ghe nhỏ và bắt giữ 4 người chủ ghe này – thì ra khi tàu lớn cố tình vượt thoát, họ đã về trạm điện đàm cho Công An Biên Phòng ngoài khơi để bắt lại – Tình thế bắt buộc Công An Biên Phòng phải bắt, nếu không hoạ lây cả đám biên phòng, chứ nội tình bên trong là chú Hạnh chủ ghe đã đút tiền cho đám biên phòng rồi và cũng đã cho tiền mấy đứa du kích tại xã này …chú Hạnh ỷ lại mình quen lớn nào ngờ giờ chót bầy chó sủa vang làm bể hỏng một cuộc hành trình đã xếp đặt bằng mồ hôi, nước mắt, bằng cả những tài sản bạc vàng của cải lớn lao !
Khi đoàn người bị đưa lên bờ để chuẩn bị vào trại giam, anh nhìn quanh quất không thấy mẹ anh đâu, trong lòng anh lo lắng bồn chồn, lo sợ không biết mẹ anh có bị bắt hay không ? Khi những người công an biên phòng bước lên bờ nói chuyện to nhỏ cùng đám công an du kích, thì đột nhiên họ ra lệnh cho giải tán, ai về nhà nấy, không bắt một ai chỉ riêng bắt mình ông chủ tàu là chú Hạnh mà thôi ! Tàu bị kéo về Sài Gòn trong đêm và giam giữ tại xa cảng Cầu Sài Gòn.
Trên tàu chú Hạnh có cất ở một góc dưới ghế tài công 30 lượng vàng đem theo phòng khi đến xứ người có mà ăn tiêu qua ngày lúc ban đầu khó khăn, chú tiếc hùi hụi mà không biết cách nào để lấy, nước mắt chú tuôn trào nhìn con tàu dần dần xa khuất trong màn sương đục mà nghẹn đắng cổ họng, chú không còn gì nữa rồi ! ba mươi năm lăn lóc khổ cực, một phút giây thành tro bụi ! Vợ con chú bây giờ sẽ cư ngụ nơi đâu ? Một vợ tám con thơ, liệu sống làm sao đây trong tình thế chú bị tù đày, từ xưa nay thím Hạnh chỉ là người đàn bà lo cho chồng cho con trong nhà, thím hiền hậu, nhu mì, chưa một ngày va chạm xã hội bên ngoài, làm sao sống được khi không nhà cửa, không tiền bạc, một tay nách 8 con thơ còn nhỏ dại !!!
Chú Hạnh bị tống giam vào trại giam Phan Đăng Lưu gần chợ Bà Chiểu, thỉnh thoảng mẹ anh đi cùng vợ chú Hạnh lên thăm – cũng còn may mắn khi đi chú Hạnh để lại đứa con gái lớn có chồng, nó không chịu đi và ở bên nhà chồng, thằng No chồng nó tối ngày cày sâu cuốc bẩm, ai nói tới chuyện vượt biên là nó phản đối kịch liệt, bởi vậy khi biết cha vợ toan tính đi vượt biên là nó cấm không cho con Thủy vợ nó về nhà thăm cha mẹ ruột – Bây giờ thím Hạnh và 8 đứa nhỏ tá túc đỡ trong gia đình xui gia, ba má chồng của Thủy. Chiều đến là thím Hạnh ngồi ngoài hè nhà khóc rấm rức, thương chồng tù tội, thương con lê lết đói khổ, thiếu thốn trăm bề…mẹ anh những lúc rảnh thường chở anh lên thăm thím Hạnh, mang những món quà cho các đứa bé đáng thương kia !
Thế là hai lần vượt biên không thành, anh chán ngán không còn nghĩ đến chuyện ấy nữa, thì bỗng nhiên mẹ được giấy bão lãnh từ Mỹ gởi về, anh yên lòng chờ ngày đi bằng máy bay cho sung sướng cuộc đời, không lo chết chóc, bắt bớ tù tội…Tháng rồi thằng cha thầy bói ghé ngang nhà, tự dưng gặp anh, ông ta dừng lại nói chuyện hỏi han, anh vui miệng nói “ chuẩn bị đi bão lãnh với mẹ và chị”, ông ta nghiêm mặt nói “ cậu không có số ở nước ngoài, còn cô này mới có đường đi xuất ngoại” ông chỉ vào người chị của anh và nói như thế…Anh cười khì chẳng tin mà còn thách “ ông mà nói đúng tôi biếu ông cả gia tài này”.
Và…một ngày anh đã xuất ngoại bằng máy bay, sung sướng như anh mong muốn, và…một ngày anh đã phải trở về quê hương trong đen tối mịt mù bên bốn bức tường tù tội, anh hối hận đến tận cùng xương tuỷ, nhưng tất cả đã muộn màng ! Anh vô tội, nhưng một chế độ theo luật rừng, nhất là anh, một người từ nước ngoài về, anh là miếng mồi ngon cho chúng chụp, nỗi oan tình này biết tỏ cùng ai, mẹ đã xa anh hơn nửa quả địa cầu ! Bản án 7 năm đối với anh là tiếng sét đánh giữa đầu, anh là kẻ từ phương xa về thăm quê hương vài tuần thì biết gì mà tổ chức, thế mà họ đã cột anh vào tội nặng nề đó, anh đã quá rõ về cái xã hội kim tiền này, và anh cũng đã biết rằng vì cái mác Việt Kiều mà anh lãnh bán án oan tình 7 năm nơi lao lý, anh đã làm đơn chống án nhưng chả ai xét xử cho anh, anh ngồi trong bóng đêm hằng giờ để tự ngẫm suy dày vò tim óc mình, anh chưa tạo được điều gì tốt đẹp cho gia đình, cho xã hội như lòng anh mong ước…
Anh chợt nhớ lại lời ông thầy bói, quả tình ông ta nói đúng vì anh đâu còn cơ hội trở về Mỹ, ngày nào đó đủ hạn 7 năm tù anh cũng là người của Cộng Hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam mà thôi, bởi anh qua Mỹ theo diện PIP ( gọi là diện nhân đạo, diện ăn theo) ra khỏi nước Mỹ 7 năm lại vướng lao tù, chắc chắn anh muôn đời “ lục quân Việt Nam” thôi.
Anh có ân hận không vì những nông nổi trong cuộc đời đưa anh sa lầy thê thảm, hay là số mệnh của mỗi con người không ai tránh khỏi, ông thầy bói linh thiêng kia ơi, tôi có còn tài sản gì nữa đâu mà biếu ông như tôi đã thách thức ông mười năm về trước, hay là tại tôi gây nhiều nghiệp chướng, vung tiền phá của, ngày nay phải chịu hậu quả của đất trời…Anh gục đầu nức nở bên bốn bức tường lạnh ngắt, đành buông xuôi cho định mệnh an bài…
Bên ngoài trời tối đen như mực, xung quanh anh có vài tiếng thở dài, những bạn tù cũng đang thao thức trăn trở như anh, những người tuổi trẻ đáng thương của một xã hội chậm tiến, bảo thủ, anh đã từng sống bao năm trên đất nước tự do, văn minh, phú cường, sao anh lại về đây chôn đời trong lao lý ? thật là vô lý !!! Anh hận thù chế độ phi nhân, giận cho số mệnh và…giận chính bản thân mình nên đã nhiều đêm thức trắng…
Trời đang lặng gió bỗng nổi cơn thịnh nộ, sấm chớp lập lòe như xé không gian, mưa trút xuống như thác đổ, anh ngồi bó gối khổ sở, anh cảm nhận trong anh một niềm hối tiếc vô vàn…anh nhớ những con đường freeway thênh thang, những siêu thị rực rỡ đèn màu, cửa hiệu thâu băng nhạc của anh và…anh nhớ nhất là chiếc xe Lexus mới mua chưa đầy một năm ! tất cả bây giờ chỉ còn là ảo tưởng, anh đã đánh mất tất cả rồi, ngay chính con người anh, anh cũng không còn là sỡ hữu, tự nhiên nước mắt anh tuôn trào, anh khóc như chưa bao giờ được khóc…ngoài trời mưa vẫn chưa dứt, cây lá rung xào xạt giữa đêm khuya, anh nghe như có luồng gió lạnh tràn vào thấm buốt tận buồng tim…

NPNA


Nguyenphanan
#16 Posted : Monday, February 20, 2006 9:21:33 AM(UTC)
Nguyenphanan

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 536
Points: 0

Truyện ngắn : Nguyễn Phan Ngọc An

VỀ QUÊ ĂN TẾT


Hai mươi năm Kiều Thư làm thân viễn khách, sống yên lành không lo sợ mảy may, dẫu cuộc sống chẳng giàu có bằng ai nhưng tâm hồn được thảnh thơi, nhẹ nhàng…nàng không may mắn có được những bằng cấp để ngồi văn phòng mở business hay địa ốc, insurance. Thư làm việc cho một dịch vụ bán máy bay được 3 năm nàng chuyển sang nghề truyền thông và làm việc với một ban ngành bộ sậu mới, từ cấp lãnh đạo cho đến bạn bè ai cũng thương mến nàng, dẫu thế, nhưng nhiều đêm ngồi nhớ mẹ cha, nhớ các em Kiều Thư vẫn không sao ngăn được giọt lệ ngắn dài, nhất là vào mùa Thu hay mùa Đông nỗi nhớ quê hương càng thêm thấm thía tâm can kẻ sống ly hương, lià xứ sở…
Ngày đầu tiên đến xứ này, Kiều Thư bỡ ngỡ lạ lùng trước quang cảnh, trước con người, họ không vui vẻ, vồ vập mừng rỡ khi gặp gỡ nhau ngoài đường, dẫu trước kia là người thân quen, là hàng xóm, cảnh vật thì im lìm lặng lẽ, các shopping, chợ hay cửa hàng ăn uống gì cũng đóng cửa im thin thít như chỗ không người, chỉ khi vào bên trong mới thấy được những sinh hoạt rầm rộ của loài người đủ các sắc dân từ các nơi trên thế giới…Kiều Thư ngơ ngác nhìn xung quanh nên dẫm phải chân một chàng thanh niên, Thư vội vàng xin lỗi : Xin ông tha lỗi, tôi vô ý quá ! Chàng thanh niên chỉ cười nhìn Thư không chớp mắt, rồi chậm rãi nói : Không có gì đâu người đẹp, được dẫm chân mới có dịp làm quen chứ, lại là một người đẹp của xứ thần tiên, một nơi mà tôi vẫn ước ao được đặt chân đến một lần cho biết…Kiều Thư cười e lệ khi nghe lời khen của người lạ, nàng vẫn biết với tuổi đời xuân xanh 18, nàng thường được mọi người khen nàng đẹp xinh dịu dàng quyến rũ từ khi còn ở Việt Nam, nhưng hôm nay nàng không khỏi ngượng ngùng khi người đàn ông lạ cất lời khen khi mà nàng đang cảm thấy mình vô duyên đi đứng không nhìn trước nhìn sau để phải xin lỗi người ta! Kiều Thư vốn con nhà nề nếp trâm anh, từ mọi sinh hoạt trong gia đình, ngoài xã hội nàng luôn tự hào là người gương mẫu vẹn toàn, vậy mà sang nước người…đã lẩm cẩm rồi !
- Này cô ơi, cô giận tôi chăng ? tại tôi quá trực tính, thấy cô đẹp thiệt nên xưng hô như thế, nếu có gì không vừa lòng xin cô thứ lỗi cho sự đường đột vô duyên của tôi – dù thế nào tôi vẫn muốn được làm quen với cô, nơi đất khách quê người buồn tẻ lắm, gặp được người đồng hương không thể không làm quen, tôi tự giới thiệu tôi là Hùng, du học Hoa Kỳ từ năm 17 tuổi, tính ra cũng hơn 10 năm rồi, tôi nhớ quê hương quá cô ạ ! đây số phone của tôi xin gởi cô, nếu có đôi phút rỗi rãnh xin nhớ gọi cho tôi, tôi chờ…Người thanh niên đưa cho Thư một tấm card rồi nhìn nàng âu yếm và lặng lẽ bỏ đi, Thư bồi hồi giây phút không biết phải làm gì và nói gì nên cũng âm thầm bước ra khỏi chợ quên khuấy người nhà đang chờ ngoài xe tự nãy giờ…
Đêm đó, Kiều Thư không ngủ được, nàng nhớ mới vài ba hôm trước nàng còn ở quê hương của nàng, xum họp trong căn nhà ấm cúng của gia đình, xung quanh nhà bước ra cửa là đã nghe tiếng chào tiếng hỏi tiếng cười líu lo, ai cũng vồn vã thương yêu nàng, mẹ cha thì khỏi nói một mực chiều chuộng bất cứ điều gì nàng muốn…bây giờ nơi xứ lạ quê người, chán chết luôn ! Hôm phi cơ vừa hạ cánh xuống phi trường San Francisco lúc ấy giờ Hoa Kỳ là 10 giờ đêm, đồng hồ của Thư vẫn còn để giờ Việt Nam, Thư phải hỏi thăm mới đổi đồng hồ cho đúng giờ của Mỹ, Thư đã thấy khí hậu lạnh buốt tới xương, nàng sống quen với khí hậu miền nhiệt đới nên đến miền ôn đới nàng không chịu nổi những làn gió lạnh thê lương này nên đã thấy sợ khi bước chân đầu tiên đặt xuống miền đất lạ…khi phi cơ từ từ hạ xuống độ thấp Thư nhìn thấy cả một rừng hoa màu vàng lấp lánh dưới sương đêm, nàng đến đây vào tháng 12 nên lạnh lẽo không thể tưởng, về đến ngôi nhà lạ của thân nhân nàng sống cũng phải mất hơn một giờ đồng hồ, rồi nấu nướng ăn uống chuyện trò râm ran hỏi han đủ mọi việc bên quê nhà…Khi bước vô phòng là Thư đánh một giấc đến 12 giờ trưa hôm sau mới dậy. Nàng loay quay làm vệ sinh cá nhân, thay quần áo theo người nhà đi phố chợ. Loanh quanh trong chợ không biết là bao lâu, khi bước ra cửa chợ thì trời tối thui chẳng trông thấy thứ gì…Thư thắc mắc trong lòng : Ủa lạquá, xứ Mỹ sao ban ngày ít quá vậy, vừa ngủ dậy đi chợ là đã hết ngày rồi ! Hỏi ra nàng mới biết xứ tây phương giờ giấc mùa đông là thế, chỉ 4:30’ là trời đã tối rồi, mùa hè thì 9 giờ vẫn còn sáng.
Sau buổi đi chợ vô ý ấy về nhà Kiều Thư mãi không yên, gọi người ta hay không gọi ? cuối cùng Thư đã gọi và câu chuyện êm ả đến hơn nửa giờ trên phone, người ấy có vẻ rất quý mến mình, không biết điều gì sẽ xãy ra đây ? Thư lẩm bẩm một mình…Sau vài lần đi cùng thân nhân trên xe hơi nhà, Kiều Thư đã biết chút ít tôn ti tập quán xứ người, nhân lúc anh trai nàng đi làm việc Thư lấy chiếc xe dư trong nhà lái thử, Thư biết lái xe từ khi còn ở VN vì nhà nàng có xe hơi du lịch. Khi ra lộ cách nhà cả mấy trăm mét rồi Thư mới hoảng sợ muốn quay về nhưng nhìn kiếng chiếu hậu thấy cả một hàng xe đang nối đuôi sau xe nàng, Thư quýnh quáng lái sang phải, chạy một hồi rồi lại lái sang trái, cứ như thế vì nàng không thể dừng xe lại được và cũng không thể nào quẹo trở về được vì xe dính liền phía sau, cứ như thế, quẹo trái, quẹo phải …mồ hôi đã vả ra từng giọt dưới cằm vì run sợ ! nàng đã lạc lên ngọn núi trước mặt, Thư không biết phải làm sao vì không biết đường xá mà cũng không thấy chỗ nào có phone công cộng để gọi về nhà, trong khi anh trai nàng đã dặn 4 giờ ra coi văn phòng thuế cho anh đi họp. “Chết rồi, biết đường xá đâu mà quay về, lại nữa quẹt xe ai một cái là thúi đời nhà ma luôn, xứ này không như VN đâu mà coi thường”, Thư nói một mình như lên cơn tẩu hỏa nhập ma, bình tỉnh…bình tỉnh đi nào…Mặt Thư không còn chút máu, nhìn thử vào kính chiếu hậu mới biết mồ hôi sợ toát ra đầy mặt ! Đàng kia có cái parking lot, ta vào đó sẽ liệu…Thư cho xe vào đậu parking, bước ra ngoài với hy vọng tìm người đồng hương hỏi thăm đường xá để trở về, nào thấy ai là VN đâu toàn dân mũi lỏ, dân da đen đầu tóc quăn tít, rồi dân Mễ Tây Cơ khinh khỉnh lạnh lùng, chỉ còn một cách liều mạng ! Thư bước đến gần, một tên Mễ đạp xe đi bỏ báo rong chạy ngang, Thư gọi xí xô “ hello, hello, please help me, please help me” tên Mễ dừng xe đạp lại hỏi “ what you need”, Thư vội vàng hỏi nó đường nào về khu chợ Lion Plaza trên đường King và Tully, nó trả lời một tràng dài, Thư không hiểu gì cả, liền xin nó vẽ dùm đường đi trên tờ báo nó có sẵn…Nhờ đó Thư tìm được đường về nhà tuy rằng nàng lạc rất xa. Kể ra mình gan thật , Thư mĩm cười và tự hứa từ nay không dám ẩu như vậy nữa và cũng cương quyết không hé môi nửa lời, ông anh mà biết được thì chỉ có nước nghe chết chửi mà thôi, anh ở Mỹ lâu rồi nên nguyên tắc luật lệ ghê lắm chứ không phải dân “ điếc không sợ súng” như nàng…
Sau hai tuần tạm quen với cuộc sống mới Kiều Thư xin ông anh cho học lái xe để lấy bằng ở Mỹ cho hợp lệ, ông anh còn quá bận rộn, Thư tìm báo thằng Mõ đọc và tự ý gọi ông Thành đến dạy lái xe. Ông Thành thử tay lái Thư vì nàng nói biết lái xe, ông ta đồng ý chỉ nhận 50 đô vì Thư lái xe rất rành, mặc dù lúc đó giá cả là 200 đô. Thư xin anh tiền đóng để học lái, ông anh la toáng lên “ mầy mà cần gì học lái xe, không cần học, mầy lái xe rành quá rồi học làm chi cho tốn tiền phi lý”, Thư đành chịu thua ông anh và ngay tuần sau nàng đi ghi danh thi bằng viết và bằng lái…Bằng viết thi chỉ một lần đậu ngay, bằng lái nàng thi đến 5 lần vẫn không đậu, lần thứ nhất rớt vì quên gạt thắng tay lên khi đã dừng ở parkinh lot, lần thứ hai rớt vì quẹo trái sớm khi người đi bộ vừa nhốm bước xuống đường vài bước, lần thứ ba quẹo trái rớt vì thấy đèn xanh trước mặt là đề pa mà không biết là chỉ khi đèn mũi tên mới được ưu tiên, lần thứ tư rớt vì chen len không nhìn lại đàng sau, lần thứ năm rớt vì de xe không nhìn lại đàng sau chỉ nhìn kính chiếu hậu…Sau 5 lần thi lái rớt nàng bị hồ sơ thuộc diện lái xe nguy hiểm phải đưa ra hiring và buộc phải đi học tại trường dạy lái xe. Khi đi học mất hết 200 đô, khi đi thi phải thi đúng một tiếng đồng hồ vì trường hợp người lái xe nguy hiểm phải trắc nghiệm tay lái thật kỹ, bao nhiêu là vất vả gian nan Thư mới có được cái bằng lái xe trong tay, rõ ràng hà tiện 50 đô mang thêm tai ách dập dồn vì tuy biết lái xe từ lâu nhưng cái luật lệ xứ người khó khăn và khác xa luật rừng của quê nhà, khi vỡ lẽ ra thì Thư biết cũng rất nhiều người đã biết lái xe hơi chẳng hạn như mấy ông sĩ quan QLVNCH đã từng lái xe Jeep, xe GMC đi thi lái cũng rớt lộp độp như nàng…
Một buổi chiều sau khi đi dự một buổi sinh hoạt thơ văn về, Thư ghé chợ Lion mua ít thức ăn, nàng mặc bộ áo dài may từ quê nhà mang theo, Thư có tài ca hát và ngâm thơ nên hôm đó nàng phải trình diễn cho nên nàng mặc áo dài – Đàng xa đi tới một anh chàng lẽo đẽo theo làm quen Thư, anh ta nói nhìn chiếc áo dài anh nhớ quê hương, anh thú thật qua Mỹ du học từ hơn 20 năm rồi, anh chỉ toàn giao dịch và công ăn việc làm cũng là với người Mỹ, anh ao ước được tiếp xúc với người Việt Nam…Thư nhìn anh ta và sau khi tiếp xúc vài câu chuyện Thư biết anh là người trí thức cao, hiện anh có bằng Master và là Kỹ Sư chế biến Hỏa Tiễn của Hoa Kỳ. Anh đưa cho Thư tấm card và xin Thư số phone để làm quen – Thư suy nghĩ, nơi xứ lạ quê người đàn ông cũng nhiều người lịch sự quá chứ , chẳng hạn như anh Hùng, rồi bây giờ anh Khánh, nhưng xét cho cùng vẫn không niềm nở tự nhiên như ở quê nhà –
Khánh tìm đến nhà thăm Thư, mấy tháng vật lộn với cuộc sống mới Thư đã dạn dĩ mọi việc, nàng vừa đi học vừa đi làm. Thỉnh thoảng Hùng vẫn gọi phone nói chuyện với Thư, ý chừng muốn bước tới chuyện tình cảm, Thư còn quá xa lạ với xứ người, tương lai chưa có nàng phải cố gắng học hành và đi làm kiếm tiền lo cho bản thân nên chưa dám nghĩ đến chuyện tình cảm, giữ tình bạn là tốt đẹp hơn – Nhưng với Khánh, anh ta dạn dĩ tìm đến nhà để làm quen anh trai nàng và làm quen cả em trai nàng, Thư được Khánh kể hoàn cảnh gia đình và đưa cho nàng xem tờ giấy ly hôn đã ba năm, hiện tại Khánh vẫn đi làm và sống một mình tại Santa Clara – Có lần Khánh rủ Thư đi chơi biển Monterey, nàng đồng ý – xe của Khánh loại Mercedes chạy êm như ru, Khánh rất lịch sự và tế nhị trong giao tế nên Thư cũng thấy lòng pha trộn cảm tình vu vơ. Có lần Khánh đưa Thư về thăm căn nhà riêng thứ hai của chàng ở Concort, thì ra Khánh hiện còn riêng hai căn nhà của riêng chàng – Khánh nhiều lần tỏ chuyện tình cảm và mong được lập gia đình với Thư, Khánh đòi dẫn nàng đi mua xe BMW và yêu cầu nàng chấp thuận sẽ sang tên căn nhà ở Concort qua cho nàng đứng tên – Thư không có gì để chê bai Khánh, chỉ một điều mà nàng không thích, ấy là lúc nào Khánh cũng học, đến nhà Thư chơi, thăm Thư mà ôm theo một chồng sách , ngồi trên sofa giở ra đọc tới đọc lui, cảnh này không qua được cặp mắt người em trai của Thư, có lần cậu nói với nàng “ chị ơi, em thấy anh Khánh học cao, đẹp trai thật nhưng giống như bị nerve ( thần kinh) quá, đến nhà bạn gái mà lúc nào cũng ôm theo sách để học” Nghe cậu em nói thế, Thư cũng thấy bất mãn trong bụng, nhưng vẫn tự nhiên không để lộ cử chỉ gì cho Khánh biết ! Vài tháng quen biết trở thành thân tuy trong lòng Thư vẫn không quên được câu nerve của cậu em dành cho Khánh và mỗi lần đến thăm Thư chàng vẫn không quên mang theo cả chồng sách và ngồi trên sofa học…
Có một lần Thư đi may áo dài, Khánh xung phong được chở Thư đi, đến chỗ nhà may của người bạn gái học chung ESL với Thư , nàng vào một mình và nói với Khánh “ Anh ở đây, đừng vào nhà đàn bà góa, cô ta bị chồng bỏ và ở với hai đứa con còn nhỏ xíu” nói xong Thư vào một mình may áo dài, cô bạn học là thợ may bên Việt Nam, còn về chữ nghĩa thì cô ấy còn kém lắm, học tiếng Anh không trôi, chữ viết thì nguệc ngoạc cỡ lớp ba trường làng…vợ chồng thì đánh lộn chửi bới ngày một, ông chồng nản quá bỏ nhà đi đã gần năm trời, cô ta có nhà housing có tiền nhà nước trợ cấp vì hai đứa con nhỏ, may quần áo kiếm tiền thêm !
Nhiều lần nhận thấy không hợp với kiểu cách của Khánh nhất là câu nerve vẫn không phôi pha, Thư tìm cách tránh và không liên lạc với Khánh nữa…Nàng vui vẻ với công việc hàng ngày và quên bẵng Khánh, công việc về truyền thông đã giúp nàng hiểu biết rất nhiều về mọi khía cạnh xã hội và cộng đồng. Thư luôn được bạn bè quý thương, trong số đó có một nhà văn thơ nữ đã kết tình kết nghĩa với Thư và thương yêu Thư như em ruột của mình.
Một năm sau, nhân có dịp ghé vào nhà cô bạn thợ may sửa lại chiếc áo dài, Thư ngỡ ngàng nhìn thầy Khánh đang ngồi dạy hai đứa bé con cô thợ may học – Thư giả như không quen chỉ gật đầu chào, Khánh ngượng ngập chào lại trong cử chỉ lúng túng buồn cười. Về nhà Thư đã đoán được sự việc, ông này ghê thật, muốn lấy vợ VN quá nên rán nhớ số nhà để trở lại làm quen và lấy cô ta, tuy rằng cô ta trình độ so với Khánh thì thua một trời một vực…
Tám tháng sau Thư cố tình trở lại căn nhà cô ta may áo dài để biết thêm tình tiết của Khánh. Khánh đang ẵm trên tay một đứa bé mới sinh, lính quýnh vụng về chào Thư, nàng phớt tỉnh như chẳng quan tâm gì hiện tượng trước mắt, nhưng thật ra trong lòng Thư thấy coi thường Khánh, vội vàng không kén chọn người vợ cho xứng đáng với mình ! Thư cũng có thể đoán được cuộc tình so le này sẽ đi về đâu ?
Mùa Thu về, cây cỏ héo tàn , không khí khô làm con người cũng mệt mỏi theo, rồi cái chứng “cảm cúm” đã hành hạ Thư suốt mấy tuần liền, nàng bỏ ăn, bỏ ngủ, chẳng tha thiết gì đến dung nhan và Hùng thì vẫn gọi phone thăm Thư như những ngày đầu quen biết…Một buổi chiều Thư từ chỗ làm việc sắp sửa ra về thì Khánh gọi “ Thư tha thứ cho anh, tại Thư bỏ anh nên buồn quá, anh thì không có cơ hội quen người Việt Nam nên tìm trở lại căn nhà cô thợ may làm quen, cô ta sau vài lần anh tới lui biết anh giàu có, có nhà cửa, có tài sản nhiều động lòng tham, xúi anh về sống chung và yêu cầu để cô đứng tên căn nhà anh đã trả xong tiền nợ. Anh dại dột và cô ta đã để có con với anh để ràng buộc, tuần rồi cô ta nghe lời xúi giục của người chị và người anh để tìm mọi cách chiếm tài sản của anh, bảo anh ký tên cho cô ta luôn căn nhà Concort để lên đó ở và mua cho cô ta chiếc xe mới, đồng thời cô ta cần 50 nghìn đôla để trả nợ cho bà chị và ông anh của cô ta. Anh nghe ớn óc nên từ chối, cô ta cầm phone gọi 911 rồi khóc bù lu bù loa, Cảnh Sát tới bắt anh và còng hai tay anh, đem nhốt vào trại một đêm với tội hành hung, đánh đập cô ta. Thảo nào anh có nghe chuyện cô ta đã gọi phone kêu Police bắt người chồng khi anh chưa quen cô ta và người chồng bị cô kết tội sắp bắn cô nên ở tù cả năm trong khám…Bây giờ anh không sống với cô ta nữa, anh bắt đứa con về nuôi, ngày trước Thư có nhắc nhở anh lập gia đình phải chọn người học thức và hiền đức, ít ra phải tương xứng sự hiểu biết thì mới có hạnh phúc, nay vỡ lỡ cũng tại mình hấp tấp, mà lỗi chính là tại Thư bỏ anh mới ra nông nỗi” ! Nghe xong tâm sự chín nhừ này, Thư mệt mỏi cả tâm can, ba năm rồi Thư sống nơi xứ người, ngày đi làm, tối về đi học thêm Anh Ngữ, nàng chẳng thấy có gì vui hay hấp dẫn nàng, mọi người xung quanh nàng cũng tất bật, có hôm nàng vừa lái xe đi làm vừa trang điểm khi đèn đỏ dừng xe, có lần vừa lái xe vừa ăn sáng – chỉ nghỉ ngày cuối tuần thì đi chợ, thì clean nhà cửa, dọn dẹp giặt quần áo, con người chẳng thấy được nghỉ ngơi thoải mái như ở quê hương. Không làm thế thì không có tiền chi phí nhiều việc từ nhà cửa, bill bọng, insurance…đủ thứ linh tinh…Lại còn thỉnh thoảng gửi tiền về cho cha mẹ, các em nữa, lại còn phải một chuyến về thăm cha mẹ, các em và bạn hữu nơi quê nhà – Thế là Thư sửa soạn một chuyến về thăm cha mẹ ngay dịp xuân về – Nàng lấy vé máy bay ngay và chuẩn bị hành lý thật gọn gàng cho một chuyến về quê ăn tết.
Phi cơ bắt đầu hạ cánh xuống phi trường Tân Sơn Nhất, Kiều Thư hồi hộp lạ thường với những xáo trộn trong đầu khi nhìn thấy lại quê hương sau bao năm dài xa cách – Nàng lững thững bước ra phía ngoài để tìm thân nhân, nàng chỉ mang vỏn vẹn một vali nhỏ quần áo và một xách tay nên dễ dàng đi thẳng ra phía cổng ngoài để gặp cha mẹ – Kiều Thư đang lóng ngóng tìm người nhà thì một cái “phụp”, chiếc xe hai bánh chạy ngang dựt mất cái ví tay của nàng. Thư hoảng hốt nhìn theo, miệng như cứng lại, trời ơi, làm sao đây ? Công An đâu, công an đâu, giúp tôi…chẳng có thằng công an nào cả, chỉ có vài người đứng gần đó rộ ra cười, cái xứ sở gì kỳ cục, thấy bị giựt không giúp đỡ chạy theo bắt hộ còn nhe răng cười ? Thế là nàng mất toi 8000 mỹ kim mới toanh, nàng đổi ngân hàng để về chia cho gia đình tiền mới cho hên ! Hên đâu chả thấy, chỉ thấy bầu trời u ám mây giăng, người nhà giờ này mới xuất hiện, nhìn mặt Thư như kẻ mất hồn, cha mẹ lăng xăng hỏi nguyên do gì ? Thư bật khóc “ nơi nào là chốn bình yên cho con đây ?”…Hai tay nàng dơ lên trời, mắt nhìn theo chiếc xe đã mất hút từ nãy giờ mà nghe trong lòng tan nát từng cơn…



NPNA
Users browsing this topic
Guest (14)
Forum Jump  
You cannot post new topics in this forum.
You cannot reply to topics in this forum.
You cannot delete your posts in this forum.
You cannot edit your posts in this forum.
You cannot create polls in this forum.
You cannot vote in polls in this forum.