Welcome Guest! To enable all features please Login or Register.

Notification

Icon
Error

4 Pages<1234>
VĂN NGUYỄN PHAN NGỌC AN
Nguyenphanan
#41 Posted : Wednesday, July 30, 2008 4:46:28 AM(UTC)
Nguyenphanan

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 536
Points: 0

LỬA MÀU XANH
Tâm bút : NGUYỄN PHAN NGỌC AN

Chu kỳ trái đất, một năm có bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông…Thời tiết của bốn muà cũng khác biệt nhau, mùa Xuân ấm áp, mùa Hạ nóng nực, mùa Thu mát mẻ và mùa Đông rét lạnh…đó là khí hậu thực tại của chúng ta : Hoa Kỳ, còn các nước khác thật tình chúng ta không nắm rõ, duy nước Việt Nam yêu dấu của chúng ta thì bốn mùa cũng không lấy gì xác định rõ ràng lắm, bởi nóng dường như quanh năm, mùa đông cũng chả thấy lạnh bao giờ, chỉ hơi se lạnh vào dịp Noel mà thôi, bởi vậy những chiếc áo len dầy cộm, những áo Jacket hoặc thậm chí bộ Veston cũng khó lòng mà mặc vào những tiệc cưới thời điểm không phải là mùa Noel hay tết…
Ở Việt nam có hai mùa rõ rệt : Mùa nắng và mùa mưa, mưa thì ôi thôi…thối trời tối đất, cho nên cây cối có phần tốt tươi sầm uất, những ngọn núi chằng chịt cây xanh cao ngất chứ không là núi trọc như ở Hoa Kỳ này…những con đường trơn trợt vào mùa mưa, tai nạn giao thông xảy ra hàng ngày, hàng giờ, hàng phút…mưa như thác đổ, câu nói nầy rất đúng, những ngôi nhà có mái lợp bằng tôn lạnh hoặc tôn cemen cơn mưa lớn đổ xuống ầm ầm hòa lẫn tiếng sét, tiếng gầm của không gian long trời lở đất, ở trong nhà hồn vía cũng muốn bay lên mây đừng nói chi đang mắc kẹt ngoài đường phố hay nương rẩy … Cách đây khoảng 20 năm tại miền Tây ( hậu giang) đã có một vụ sét đánh người chết đứng giữa ruộng và thỉnh thoảng vẫn nghe thiên hạ bàn tán sét đánh vào nhà, sét đánh vào những tàng cây có người ẩn úp lúc mưa to …Việt Nam có những tình huống mà vào thời chiến tranh ở thập niên 50 những nơi vắng vẻ ít dân cư thường có ma, dân chúng đi xem cải lương về khuya, qua các cây lớn như cây da, cây me thường bị ma nhát, có khi con ma nó rớt từ cánh tay xuống, rồi rớt từ cái chân xuống, có khi cái đầu rơi xuống đất đánh phịch, cũng có khi trên lộ đêm lù lù một đống thật lớn, càng tới gần càng lớn lên chận cả ngã đường và lúc ấy người ta ù té chạy bán sống bán chết … Một việc mà tôi tin là đúng sự thật dù lúc ấy tôi chỉ lên 5 tuổi, nhưng đã in sâu trong tiềm thức không quên, Ba tôi đã bị ma dấu vào một hóc cây lớn khi ông đi họp về khuya, lúc đó đang thời kỳ phục hưng của thể chế Tổng Thống Ngô Đình Diệm, một nhà ái quốc anh minh và khí tiết, vào năm 1958 có lần ông Ngô Đình Diệm đích thân đến thăm trường tư thục Lạc Hồng do Ba tôi vừa làm Hiệu Trưởng vừa làm thầy giáo dạy học, Tổng Thống đã tặng Ba tôi 2000$ và gởi Ba tôi một bằng khen thưởng … ngày ấy tôi còn nhớ Tổng Thống mặc một bộ veston màu xám đen, đầu đội mũ nỉ xám có vành, tay cầm cây gậy ba- ton dài, gương mặt sáng tinh anh đầy phúc hậu, trước những hàng học sinh đứng nghiêm chỉnh chào Tổng Thống, tôi chỉ là con bé con nhỏ xíu đứng hàng đầu, Tổng Thống bước tới xoa đầu tôi cười nhân hậu với giọng Huế ngọt ngào “ học cho giỏi nhen con”… Giờ này ông đã đi thật xa vào thế giới vô hình và Ba tôi … cũng không còn nữa, nhưng kỷ niệm thì không bao giờ mất trong trí óc nhỏ nhoi này. Tôi vẫn còn nhớ rõ như in trong đầu những câu châm ngôn mà ba tôi viết bằng bút “Rong”rất đẹp treo trên tường để răn dạy học sinh : Trò chơi chẳng thiếu thứ gì, Trèo cây đánh lộn em thì chớ nên…Tiên học lễ, hậu học văn…tích thiện phùng thiện, tích ác phùng ác…Có học phải có hạnh…những câu châm ngôn đó là nền tảng của trường tư thục Lạc Hồng, sau này học sinh xuất thân từ trường của ba tôi đều nên danh phận – Trong huyện này không ai mà không biết ông giáo Tình, nhất là ông Quận Trưởng kính trọng và thân tình một mực với ba tôi … Cho đến bây giờ tôi cũng không tìm lại được từ bốn thập niên qua những nét chữ viết bằng bút Rong rất đẹp như của ba tôi – Thật tình mà nói ba tôi có thực tài về ngòi bút Rong, tôi tiếc là đã không học nghề của ba và sau đó cây bút Rong cũng bị quên lãng trôi dạt về đâu, dọn nhà về tỉnh Ba tôi phải lo kinh tế gia đình, ba tôi vào làm cho hãng Ba Xoong tại Gia Định với chức vụ Phó Giám Đốc vào năm 1960.
Lúc ba tôi còn dạy học, tôi nhớ có một lần Ba tôi đi họp trong quận vào buổi chiều lúc 4 giờ, không hiểu sao tới sáng hôm sau cũng không thấy về nhà, Mẹ tôi và các anh chị em tôi hộc tốc đi tìm, khi ngang qua hóc cây lớn nhìn sâu vào trong mới biết Ba tôi bị ma dấu trong hốc cây, miệng còn đầy những vải vụn nhét cứng không ú ớ được tiếng nào, chúng tôi phải đưa Ba tôi ra khỏi hốc cây và đưa về nhà, chừng tỉnh táo nghe Ba tôi kể lại mới thật sự biết là có ma dấu thật và từ đấy ít khi ai dám ra đường về đêm nữa …
Vào thời điểm chiến tranh, những biến cố như in đậm nét trong đầu tôi, tôi không thể nào quên được ngày chạy loạn, Ba Mẹ tôi lạc nhau, Mẹ tôi phải dìu dắt 5 con thơ trong vùng lửa đạn ngút trời, tôi lúc ấy vừa hơn 3 tuổi, em út tôi vừa hơn 1 tuổi, chạy trước đạn đuổi theo sau, mấy mẹ con tưởng đã chầu diêm vương mấy kiếp rồi ! Đêm đến không biết phải ẩn vào đâu qua đêm, mọi người chạy tán loạn cũng đã lạc mỗi người một hướng, Mẹ tôi túng cùng phải dẫn 5 chị em tôi vào núp trong một đám nương mì ( cây khoai mì) rậm rạp. Nửa đêm nghe tiếng voi gầm, càng lúc càng gần, mà đến mấy con voi gầm chứ không phải một con, khi chúng đến nơi Mẹ con tôi thiếu điều ngất xỉu, Mẹ tôi lấy hết bình tỉnh cầu nguyện Phật Trời, Thượng Đế cứu nguy … May thay, đàn voi quật ngã mấy cây chuối gần bên rồi bỏ đi, thế là mấy mẹ con tôi được sống, bây giờ nhớ lại lòng tôi nghẹn ngào, thổn thức bởi mẹ tôi cũng không còn trên thế gian này nữa !…
Tôi còn nhớ, Ba tôi là một học giả uyên thâm, ông giỏi nhiều ngôn ngữ và đã từng du học nước ngoài, năm đó vì tình hình phải ẩn thân nơi vùng thâm sơn cùng cốc, một chiều nọ có một toán công an vào nhà bắt Ba tôi đem về tỉnh Bà Rịa giam và điều tra tàn ác, chúng đổ nước lạnh vào mũi, châm điện chạy vào tay chân, Ba tôi vẫn cương quyết chịu đựng, bởi vì ông bị nghi ngờ, bắt oan thì biết gì để khai, cuối cùng chúng phải thả Ba tôi về sau khi đã giam giữ hành hạ 6 ngày liên tục, ba tôi về nhà ngồi buồn làm mấy câu thơ :
Hăm ba tháng chạp vừa qua
Công an chiến dịch vào nhà bắt tôi
Tưởng rằng có việc lôi thôi
Đem đi Bà Rịa giữ tôi sáu ngày
Điều tra liên tiếp ba ngày
Té ra chẳng biết chẳng hay việc gì
Về nhà ngày nghĩ đêm suy
Biết ơn chính phủ không khi nào bằng…
Từ đó gia đình tôi trong đầu đã phát sinh hình tượng hận thù lũ công an ác độc, nhưng vẫn phải sống tại nơi này không thể dời nhà đi đâu vì tình cảm xóm giềng, tình cảm của ông Quận Trưởng và nhất là tình cảm của phụ huynh, học sinh đang học với ba tôi…và nữa…đám vườn, đám ruộng bề bề mà ba Mẹ tôi đã đổ biết bao mồ hôi công sức…Tôi vẫn nhớ những ngày tết nơi đây, vào sáng mồng 1 tất cả mặc quần áo mới, dày giép mới đứng xếp hàng dài khoảng 60 đứa kéo nhau đi đến từng nhà hàng xóm, Ba tôi dẫn đi chúc tết để học sinh kiếm tiền lì xì mà…tới đâu là cả đám nghiêm chỉnh hát lên :
Chúng cháu là học sinh
Trường tư thục ông Tình
Đến đây chúc năm mới
Chúc may mắn suốt đời
Chúc sống lâu trăm tuổi
Chúc bình yên vô sự
Chúc gặp lành tránh dữ
Chúc hạnh phúc đời đời
Chúc phú quý nơi nơi
Chúng cháu có đôi lời
Đến đây chúc năm mới…

Năm nào cũng vậy, ngày tết vui không thể tưởng, đêm giao thừa thức sáng đêm không ai ngủ cả, già trẻ gái trai tụ họp hát hò, nấu bánh tét bánh chưng, đúng 12 giờ khuya dọn ra sân cúng giao thừa rồi nổ pháo rền trời, đặc biệt là ai về nhà nấy trước giao thừa, bởi tục lệ ông bà là như thế, không ai được ở nhà ai hoặc ngoài đường khi bước qua đầu năm mới, mồng 1 mồng 2 mồng 3 tết không được quét nhà cho nên mấy ngày tết nhà cửa tràn đầy những xác pháo đỏ, pháo hồng loạn xạ. Ngày nay những tục lệ đó đã bị phôi thai rồi, nhất là ở Hoa Kỳ, giao thừa chả mấy nhà cúng kiếng ngoài sân, mồng 1 tết 5 giờ sáng đã dậy lui cui bỏ cơm canh vào dỏ mang đi làm, chả cử kiêng sẽ cực suốt năm gì cả, cho nên dùng từ cày như trâu cũng không ngoa tí nào phải không thưa quý vị? Đã như thế thì còn tết với nhất gì nữa, ối chu choa…nhắc lại mà phát ớn , vậy mà tôi cũng chịu đựng được 15 cái tết như thế rồi đó các bạn ơi…ồ ! xin lỗi nhen, tôi nói hơi dóc bởi vì cái tết Quý Mùi tôi đã bị layoff rồi còn đâu, và tôi biết chắc rằng vài cái tết nữa tôi cũng chẳng tìm ra việc làm như ý đâu với tình trạng đất nước Hoa Kỳ trong cơn dâu bể, thế là tôi được mấy mùa xuân ngủ đã đời, ngủ để quên khỏi ra đường xuất hành, biết đi về đâu mà xuất hành xuất tỏi ? đời đã không đãi ngộ thì tìm kiếm chỉ mất công thôi các bạn ơi, “ có phần không cần gì lo” “ bôn ba không qua thời vận” mà lị…
Tôi còn nhớ vào khoảng năm 1968 tôi theo ông xã ra sống ở Quân Hàm Tân ( Tam Tân) thuộc tỉnh Bình Tuy, vào đầu xuân năm đó có chuyện rất lạ, nếu những ai cư ngụ tại quận nầy vào thời điểm đó không thể không biết…Chuyện là thế này :
Một hôm đột nhiên ngọn lửa từ đâu bốc cháy trên mái nhà hàng xóm sát nhà tôi đang ở, ngọn lửa màu xanh um không đỏ như những vụ cháy bình thường, mà rất lạ ngọn lửa cháy ngược lại với hướng gió thổi… chú lính leo lên dùng chân và bao cát dập tắt ngọn lửa, lạ lùng lửa không nóng, không hề xây xát gì chú lính cả, nhưng mái nhà vẫn bị cháy môät lõm lớn, một lát sau anh chị Trung sĩ Thành thách thức rằng : ma cỏ gì mà ma cỏ, lửa ma hả, cháy thử coi…tức thì ngay trong chiếc vali quần áo của anh chị phực lên ánh lửa cũng màu xanh và quần áo bên trong cháy rụi thành tro…Chuyện này đến tai ông Quận Trưởng lúc đó là Thiếu Tá Thiện ông công giáo nên không tin, ông đến nhà anh chị Thành nhìn cảnh tượng và nói : Tôi công giáo tôi không tin việc này, làm gì mà có ma lửa, tức thì mũi giày ông đang mang phát lên ngọn lửa, ông hoảng hốt kêu cứu, mọi người phải lấy bao cát dập tắt cho ông … Chuyện lạ nầy xảy ra liên tục trong vòng 4 tuần lễ, ai thách thức là cháy ngay trước mặt, cháy ngay bên cạnh hoặc cháy ngay nhà mình, cháy bất cứ đồ vật gì của người thách thức, tôi ngày ấy thê thảm lắm, cả ngày ở ngoài đường không dám vào nhà, sợ chết oan mạng, đồ đạc quý, tốt, giấy tờ cần thiết luôn nằm ở ngoài sân phòng khi cháy nhà còn giữ lại được những gì cần giữ…Thường thường là đến 2 giờ sáng mới dám vào nhà ngủ, mà cũng lạ lửa chỉ cháy vào ban ngày chứ không cháy vào ban đêm. Tình trạng nháo nhác ăn không được, ngủ không yên cả tháng trời cho quận lỵ Hàm Tân mà cho đến bây giờ tôi mới có dịp viết ra một sự thật lạ lùng này, trong đời tôi chắc chắn không thể gặp lần thứ 2. Nếu vị nào đọc được bút ký ngắn này, mà biết sự thật này, tức là nhân chứng sống hãy đến tìm tôi vì chắc chắn là hàng xóm của tôi trong thời điểm đó rồi bạn ạ ! Tôi không quen viết truyện, hồi ký hoặc làm thơ bằng hư cấu, tưởng tượng, cho nên những gì tôi viết ra đều là thật, thật đến 100% đó quý vị ạ !
Lửa màu xanh … trên thế gian này chỉ nghe và thấy toàn lửa màu đỏ, nhưng ở đây là lửa màu xanh – Một hiện tượng lạ lùng mà đời tôi chắc chỉ một lần nhìn trực diện, phải chi ngày đó được văn minh hiện đại như bây giờ thì chắc hẵn đã ghi lại trên những thước phim quay lịch sử – Việt Nam là một đất nước có nhiều chông gai hiểm trở, nhiều tài nguyên và cũng nhiều kỳ bí lạ lùng mà các nước lân bang không có được – Ngày nay trên xứ Hoa Kỳ văn minh, tôi không còn thấy được những huyền bí xa xưa mà thời tuổi nhỏ đã kinh qua – Đôi lúc nhớ quê hương qua những hình ảnh trong phim, qua những lần tiếp xúc bạn bè nhắc về một thời để nhớ … tôi ray rứt không ngủ được hằng bao đêm, tôi vẫn mong đất nước ngày thanh bình thịnh trị theo mong ước người lưu vong để đồng hương quay về xây lại tổ ấm mà hơn ba mươi năm đã mốc meo tàn tạ và riêng tôi sẽ tìm về quận lỵ Hàm Tân thăm viếng bạn bè, nhắc lại chuyện ngày xưa “ ngọn lửa màu xanh” mà cho đến bây giờ vẫn hằn dấu rất đậm trong đầu tôi, tôi tin chắc dù qua bao cuộc đổi thay vẫn còn những nhân chứng trực diện như tôi ngày xưa để nhắc về một câu chuyện huyền thoại kỳ bí xa xưa mà có thật …


NGUYỄN PHAN NGỌC AN
Nguyenphanan
#42 Posted : Sunday, August 17, 2008 10:54:59 PM(UTC)
Nguyenphanan

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 536
Points: 0

NỖI BUỒN THƯƠNG TIẾC
Tâm bút : Nguyễn Phan Ngọc An


Năm 1993 trong một dịp tình cờ tôi được quen biết nhà báo Tô Ngọc, qua lời kể của bạn anh thì tôi biết anh còn một mẹ già tròn 80 tuổi – Tôi vốn mồ côi mẹ đã lâu, nghe ai còn mẹ là lòng tôi dâng lên niềm cảm xúc, cứ ước gì còn mẹ để được bày tỏ sự thương yêu dành cho mẹ của mình …
Và tôi đã tìm đến thăm bác gái, mẹ anh Tô Ngọc – Bác có một khuôn mặt hiền từ nhân hậu, dù cao tuổi bác vẫn giữ được nét thanh tú với dáng dấp cao lớn, nước da trắng hồng. Tôi đã chuyện trò và thân quý bác từ lúc nào không hay, tôi rảnh giờ nào là xuống chở bác đi chùa, có một dịp Tết tôi và bác đi chùa vào sáng mồng một tại chùa Tàu trên đường Mckee – Hai bác cháu cũng diện áo quần chải chuốt bảnh bao và chụp chung với bác nhiều tấm hình tại chùa …
Ngày tháng qua đi, bác và anh Tô Ngọc sau khi lo đám cưới cho cậu Tấn, đứa con trai duy nhất của anh và là đứa cháu nội đích tôn của bác, bác và anh Ngọc dọn về Sacramento cư ngụ – Tôi cũng đã nhiều lần lên Sacto công việc và ghé thăm bác, trong tâm tôi quý trọng bác như mẹ của mình và bác cũng xem tôi như đứa con gái nuôi của bác, ở bác có rất nhiều đức tính tôi phải học, bác nói năng điềm đạm từ tốn … Tôi không thể nào quên một chuyến đi chơi du ngoạn đông người, trong đó có bác và anh Ngọc, nhìn anh chăm sóc bác mà tôi cảm phục, hai mái đầu bạc trắng của mẹ, của con, anh dẫn bác đi từng bước một, tôi đã buột miệng nói rằng : nhìn anh Ngọc nắm tay dìu bác đi ai mà nghĩ là hai mẹ con, hai mái tóc bạc phơ giống nhau, nếu nhìn phía sau lưng sẽ tưởng là hai người cùng trang tuổi hoặc là hai chị em thôi – Bác cười và nói : Thằng Ngọc con bác nó cứ như vậy thôi, lo cho mẹ chứ chẳng màng đến thân mình cháu ạ ! Nhìn nó già trước tuổi bác đau lòng quá, nhiều lần bác bảo nó lập gia đình để nó có niềm vui thì nó cứ trả lời : không cần đâu mẹ ạ ! con sống một mình quen rồi …
Bác là mẫu người đàn bà đức hạnh, tên tộc của bác là Trần Thị Bào, bác sinh năm 1913 ( Quý Sữu), thuờng thì nam Nhâm nữ Quý nên bác rất được sự quý mến trân trọng của mọi người khi tiếp xúc với bác. Bác lập gia đình năm 17 tuổi, cái tuổi đầy mộng mơ của đời người con gái, với công dung ngôn hạnh đủ đầy bác đã phải lòng Kịch tác gia Ngô Văn Thuật năm 1930 – Bác sinh được ba người con trai, hai người đầu và út đều mất khi còn nhỏ, chỉ giữ lại được quý tử Ngô Sĩ Tô Ngọc mà thôi …
Bác sống hạnh phúc với Kịch tác gia được 28 năm thì chồng bác ngã bệnh và mất ! Bác đau buồn trong cảnh mẹ góa con côi nhưng ý chí kiên cường, bác buôn bán lặn lội vất vả nuôi anh Tô Ngọc, với lứa tuổi trung niên mặn mà nhan sắc đã có rất nhiều người đàn ông theo đuổi nhưng bác vẫn thờ ơ lãnh đạm, đời của bác chỉ một người chồng và chồng chết thì ở vậy nuôi con ăn học thành người hữu dụng – Nhà báo Tô Ngọc lớn lên là một người con hiếu thảo vô cùng, quả không phụ tấm lòng yêu thương và hy sinh của mẹ mình, trước năm 1975 dưới thời Đệ nhất Cộng Hòa tại Sài Gòn chắc ít ai mà không biết tên tuổi ký giả Tô Ngọc của tờ Chính Luận nhật báo.
Sau khi Cộng Sản cưỡng chiếm toàn bộ Miền Nam Việt Nam và trong chiến dịch truy quét các văn nghệ sĩ thuộc chế độ VNCH , nhà báo Tô Ngọc bị CS bắt giam tại trại Gia Trung thuộc tỉnh Pleiku với tội danh “ văn nghệ sĩ chống cộng” … Bác ở nhà một mình vừa buồn vừa khóc cho thân phận đứa con duy nhất, không biết sinh mạng con mình sẽ ra sao ? đêm đêm bác đốt nhang ra sân cầu khẩn Phật Trời độ mang đứa con yêu quý, ban ngày bác buôn tảo bán tần kiếm tiền sinh nhai và để có tiền đi thăm anh Tô Ngọc đang ở tù tại một nơi rất xa thành phố Sài Gòn đến tám chín trăm cây số giữa rừng núi tây nguyên … Thời gian anh Tô Ngọc làm ký giả báo Chính Luận, anh đã yêu thương một người phụ nữ yêu kiều, có nét lai rất đẹp, hai người đã có với nhau một đứa con trai kháu khỉnh, đặt tên bé Tấn để mong tương lai sự nghiệp một ngày một tinh tấn và hạnh phúc mỗi ngày mỗi thăng hoa – Nhưng chuyện nợ duyên là định số an bài, anh chị phải chia tay và bé Tấn từ đó sống với bà nội, hơn mười năm anh Tô Ngọc chôn mình trong lao lý, lãnh biết bao đòn thù từ CS anh vẫn sống trong niềm đau thương con, nhớ mẹ ngập tràn tim óc và đã nhiều đêm anh thầm rơi lệ cho thân phận tù đày không biết được ngày nào xum họp với mẹ già con dại !
Hơn 10 năm tại trại tù tây nguyên Pleiku, anh được thuyên chuyển về trại Z.30D của Quận lỵ Hàm Tân thuộc tỉnh Phan Thiết và hai năm sau anh được trả tự do – Mười hai năm bác sống đơn độc tần tảo vất vả kiếm tiền nuôi con ở tù nuôi cháu ăn học, bác mong mỏi cho Tấn nên người tốt dẫu rằng sống trong một xã hội đen tối chẳng tương lai ! Ngày anh Tô Ngọc về với gia đình, đôi mắt bác sáng rực niềm vui, lòng bác tràn hy vọng … và 6 năm sau bác đã được theo anh và Tấùn đến miền đất tự do Hoa Kỳ theo diện HO.
Bác ơi, đêm nay con không ngủ được, ngồi viết những dòng tâm bút này cho bác, bên ngoài mùa đông cây lá xạt xào rung động như trong lòng con đang từng cơn cảm xúc dâng cao và nước mắt con đã rơi nhạt nhòa dòng chữ trước mặt rồi … Bác biết không, khi được tin bác mất từ anh Ngà cho hay, con bàng hoàng như trong giấc chiêm bao, dẫu biết rằng tuổi bác đã cao và bác đang bị bệnh từ hai tháng nay – Con lái xe mà như lão đão tay lái bác ơi, con thương con quý bác, một người phụ nữ đàm đang, một người đàn bà gương mẫu, một người mẹ hiền đã có những đức tính cao vời giống như người mẹ thân yêu của con đã khuất ! Con biết nói gì đây khi bác không còn trên cõi đời, không còn nghe con nói chuyện tâm tình, không cùng con thỉnh thoảng xiêm y đi thăm viếng các ngôi chùa để hương nhang cầu nguyện … Tất cả chỉ còn trong kỷ niệm, trong tim óc của con, còn bác thì đã yên ngủ giấc nghìn thu, bỏ lại dương trần đứa con trai yêu quý mà ngày nay đã là ông nội của một gia đình nho nhỏ là vợ chồng Tấn và hai con còn bé tí teo.
Ngày con lên viếng bác, ôi nhìn bác nằm ngủ trong tư thế an nhàn thảnh thơi, không biết lúc con đứng bên bác, con nói với bác những lời thầm thì nhắc chuyện ngày xưa, bác có nghe không nhỉ – Con tin rằng bác nghe con nói, bởi suốt cuộc đời thánh thiện thanh cao hồn bác sẽ linh thiêng mầu nhiệm để theo dõi cuộc sống trần gian, phù hộ con cháu và nhân quần xã hội và… phù hộ cho con nữa …
Gương mặt bác ốm đi nhiều so với khi bác chưa ngã bệnh, con ngậm ngùi theo đoàn người đưa tiễn bác đến lò hỏa thiêu, lửa đang cháy phừng phừng, con thương bác quá, chỉ đôi phút nửa thôi bác của con đã biến thành tro bụi, kiếp người là như thế, không ai tránh khỏi con đường sinh tử, con đứng chơ vơ không muốn dời chân khi thân xác bác đã hoà cùng tro bụi …
Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi
Để một mai tôi về làm cát bụi …
Giữa trưa nồng nhưng không nóng bức của miền Sacramento như có câu hát này từ không trung vọng xuống, có phải bác đang hát cho con nghe đấy không, sao tự nhiên ký ức con nhận diện rõ ràng gương mặt bác và con lặng lẽ buồn bước ra khỏi phòng hỏa thiêu để theo đoàn người xa bác mãi mãi.

Hai mái tóc bạc màu tuyết phủ
Sống êm đềm một giấc mơ chung
Con mong mẹ sống lâu trăm tuổi
Mẹ quý con thương cháu tận cùng

Gương tiết liệt thờ chồng mấy kẻ
Hy sinh đời xuân trẻ vì con
Bác đi một bước đã tròn
Xuân xanh bác đã mõi mòn chăn đơn
Công đức bác cháu con được hưởng
Cõi thiên thai mơ tưởng bác về
Đắm trong trần lụy ê chề
Chín mươi ba tuổi nặng nề châu thân
Nay bác đã mãn phần cõi tạm
Về rong chơi thanh lãm niết bàn
Bác vui và chớ lo toan
Gia đình con cháu trần gian xum vầy
Con của bác tình đầy nghĩa nặng
Sống thanh cao lòng chẳng tị hiềm
Công danh anh vẫn điềm nhiên
Phú quý anh cũng chẳng ghiền chẳng mê
Trong anh như nặng lời thề
Nên đời anh vẫn đi về cô đơn
Bảy mốt tuổi chẳng hờn chẳng giận
Tuổi hoa niên bay tận chân trời
Gửi tình theo gió chơi vơi
Niềm vui hòa với cuộc đời thế nhân
Gương sáng bác một thân nuôi trẻ
Anh quyết lòng giống mẹ nuôi con
Chữ hiếu anh đã vuông tròn
Đạo nghĩa anh đã dạy con nên người
Thiên thai bác hãy cười vui
Thảnh thơi trong chốn cõi trời thênh thang…

NPNA











Nguyenphanan
#43 Posted : Sunday, August 31, 2008 11:48:35 PM(UTC)
Nguyenphanan

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 536
Points: 0

Giọt Lệ Giao Thừa

Tâm bút : Nguyễn Phan Ngọc An

Tiếng thắng xe gấp trước cửa nhà, Ngọc ngẩng lên…người lính trong bộ quân phục nghiêm chỉnh chào nàng và nói :
- Thưa cô ! Đại úy bảo em về báo tin cô rõ: Tết nầy ổng không về ăn tết với cô được vì có lệnh ứng chiến một trăm phần trăm…em xin báo cô rõ và xin chào cô.
Nói xong người lính vộ vã ra đi, Ngọc ngồi lặng yên một lát…nàng suy nghĩ và miên man nhớ đến câu chuyện xảy ra cách nay không lâu, lúc nàng vừa đặt chân theo chồng đến xứ lạ…
Nơi Tùng đóng quân là một quận lỵ không mấy trù phú, người ta sống bằng nghề buôn bán vặt vãnh và chăn nuôi. Ngày đầu tiên từ sân bay bước xuống nàng thấy ngỡ ngàng xa lạ và cố nhìn trong đám đông để tìm Tùng…Từ xa một chiếc Jeep tiến tới, Tùng bước xuống ôm chặt lấy Ngọc mừng rỡ…Ngọc chưa kịp hỏi chồng câu gì thì có hai người đàn bà tiến đến chào nàng và bắt chuyện với nàng :
- Xin chúc mừng chị, chị đã đến ! Tôi là Minh còn chị đây là Huệ, rất vui mừng được làm quen với chị.
Ngọc vui vẻ trả lời:
- Xin cảm ơn hai chị, tôi thật rất vui khi mới đến xứ lạ quê người mà đã có bạn, hy vọng chúng ta sẽ gặp gỡ nhau thường xuyên trong những ngày tới…
Tùng xách vali bỏ lên xe Jeep và đỡ Ngọc lên xe. Trên đường về nhà nét mặt chàng đăm chiêu dường như có cái gì không ổn trong lòng chàng ? Thấy vậy Ngọc cũng ngồi lặng im không nói…
Con đường dốc nhỏ gồ ghề, hai bên cây rừng rậm rạp không có một bóng người, Ngọc rùng mình lo sợ…lần đầu tiên trong cuộc đời một thiếu nữ thành đô phải chấp nhận cảnh sống hoang vu rừng rú…Thật ra Ngọc lấy Tùng không vì tình yêu mà chỉ vì áp lực của Tùng, ở trong Tùng có cái gì độc đoán tự hào. Ngày mới quen nhau nàng đã nhìn rõ được bản chất độc tài nơi Tùng lúc nàng không chấp thuận lời cầu hôn của Tùng, chàng đã lên đạn dọa bắn gãy cánh tay trái của chàng nếu Ngọc không chấp nhận cuộc hôn nhân…Mặt Tùng lúc đó đỏ bừng vì men rượu chàng đã uống suốt đêm qua. Ngọc sợ hãi đành phải thuận ý cho Tùng làm lễ hỏi sau đó một tuần…Đến ngày Ngọc đi thi tú tài Ngọc càng thấy rõ ở Tùng một cá tính đáng sợ hơn nữa, nàng gặp hai giám khảo trên đường và ngừng xe lại, hai người thầy giám khảo cuộc thi vừa qua hỏi thăm về bài vỡ nàng đã làm, lúc ấy Tùng xuất hiện và bất ngờ rút chốt quả lựu đạn toan ném vào Ngọc và hai ông giám khảo…Ngọc hốt hoảng lên xe chạy về nhà trong lúc hai thầy giám khảo mặt tái xanh không hiểu chuyện gì và cũng nhanh chân rồ ga vọt lẹ…
Ngọc vừa bước vào nhà thì Tùng đã nói :
- Cô mà đứng 5 phút nữa thì tôi cho cô ăn cái trái nầy ngọt tới tận xương…Ngọc nổi da gà, đây là nhà Ba Mẹ Ngọc mà Tùng dám hành động như thế, một mai sống với chàng Ngọc có thể chịu đựng nổi không ? Nước mắt ràn rụa, đôi vai gầy thổn thức, nàng đã nhìn rõ được cái tương lai đầy ảm đạm của nàng !
Sau lễ cưới ba ngày, Tùng trở ra đơn vị, chàng là Đại Đội Trưởng tác chiến. Ba tháng sau ngày cưới, Tùng bắt buộc nàng phải theo chồng nên Ngọc phải khăn gói ra đi…Một cuộc sống mới xung quanh toàn người xa lạ, gần gũi là một người chồng mà lúc nào nàng cũng thấy e dè sợ hãi ! Với cái tuổi 17 chưa từng có kinh nghiệm cuộc đời, Ngọc như con nai vàng ngơ ngác trước biển người đầy dã tâm ! Rồi những gì sẽ xảy đến cho đời nàng đây ?…Ngọc buông chuổi thở dài và lịm dần trong giấc ngủ mệt mỏi…
Tùng đi hành quân đã 5 hôm rồi, một mình trong căn nhà vắng lạnh, mọi cảnh vật đối với nàng đều xa lạ, tuổi học trò mơ mộng còn đâu ? Giờ nầy các bạn của nàng vẫn hồn nhiên trong chiếc áo học trò…còn nàng…đã bước vào ngưỡng cửa đời ô trọc đầy bão giông…
Có tiếng gõ cửa nhè nhẹ, Ngọc vội bước ra :
- Chào chị Tùng, chị khỏe không ? Hôm nay tôi đến thăm chị và muốn cho chị hay một sự việc quan trọng.
Ngọc giật mình :
- Chuyện gì ? Có phải chồng tôi đi hành quân gặp việc chẳng lành sao ?
Chị Minh trả lời :
- Không đâu, mà trái lại anh Tùnh đi hành quân rất tình tự và ấm áp giống như người ta đi hưởng tuần trăng mật vậy, chị không tin cứ theo tôi vào Quận sẽ rõ ngay…
Ngọc vội vàng rửa mặt rồi theo chị Minh vào Quận. Huệ, chị bạn của chị Minh đang đứng nghiêm túc trước sự quở mắng của ông Quận Trưởng:
- Cô không thấy vợ ông Tùng đến đây rồi sao mà cô cứ lén lút tình tự với ông ta, người ta đi hành quân mà cô cứ đeo theo một bên làm sao đánh giặc được ? lỡ gặp giặc thì cô cũng bỏ mạng luôn…Cô là một cô giáo, một nhà mô phạm, tôi thiết nghĩ cô nên giữ tư cách và đạo đức tối thiểu của cô mới phải …
- Ngọc lặng người trong giây lát…thì ra thế, Ngọc đã sống bên Tùng mà cô ta còn làm như vậy ? Ngọc không thấy lòng ghen hờn mà chỉ cảm nhận một sự buồn tủi vì thật tình nàng đâu có yêu Tùng…Người nàng yêu thì đã không còn trên thế gian này nữa !

Ngọc lẳng lặng xếp quần áo bỏ vào va li, nàng đã quyết tâm trở về sống với mẹ cha, Tùng xấn tới hỏi gặng nàng :
- Em dọn quần áo đi đâu ? Đi theo thằng nào ?
Ngọc nhìn Tùng, đôi mắt căm hờn dường như muốn moi gan chàng mới hả giận :
- Tôi không biết…tôi đi đâu không can dự đến anh, tôi chỉ có thể sống với người chân thật và biết thương yêu tôi chứ tôi không thể sống với loại người dã tâm gian dối…
Tùng tát cho Ngọc hai bạt tai nẩy lửa, Ngọc giận run, máu trong người nóng ran, nàng cào thật mạnh vào mặt Tùng, hai đường rươớm máu trên gò má chàng. Tùng soi gương và điên tiết rút cái cây gỗ gần đó quất tới tấp vào người Ngọc, hàng xóm chạy đến can ngăn, Tùng rút súng bắn chỉ thiên mọi người hoảng sợ bỏ đi hết…
Tùng nhìn chòng chọc vào mặt Ngọc khi nàng đang ngất xỉu dưới nền nhà rồi vươn tay cầm chai rượu Martin đang uống dở nốc cạn một hơi đến hết. Chàng nằm vật xuống đi văng gần đó. Chị Minh bên nhà vội vã chạy qua, rồi chị cạo gió, xoa bóp tay chân cho Tùng trong cử chỉ rất thân thiết. Ngọc đã tỉnh và đang ngồi khóc ấm ức bên cạnh Tùng.
- Ai khóc đó ? Tùng tỉnh dậy và hỏi
- Em – Ngọc trả lời
Tùng nói tiếp :
- Ngọc hả, hồi nãy anh đánh em có đau không ? Em đau một chứ anh đau gấp mười lần em, em biết không ?
Nói rồi hai giọt lệ rơi dài trên má Tùng, chàng ân hận đã đánh vợ quá đáng và ngồi dậy cầm tay Ngọc với cắp mắt ăn năn…Ngọc đã dễ dàng tha thứ cho chồng qua hai dòng lệ của Tùng, Ngọc không còn nhớ chuyện đã qua dù trong người cơ thể nhức buốt rã rời !
Chị Minh lên tiếng :
- Anh chị bỏ qua chuyện cũ hết đi…qua nhà Minh chơi, Minh ở một mình buồn lắm !
Tùng và ngọc cùng bước theo chị Minh vào nhà. Đang ngồi trên bàn trò chuyện bỗng dưng Ngọc xây xẩm mặt mày…Chị Minh kéo vội chiếc màn ruy đô dìu Ngọc vào giường chị nằm nghỉ. Lát sau khỏe lại Ngọc nằm im lặng, tấm ảnh trước mặt nàng đang treo trên tường làm nàng tỉnh hẵn…tại sao như thế ? Có thể như thế được sao? nàng nhìn một lượt xung quanh phòng ngủ, không phải một mà đến ba tấm ảnh nồng nàn như thế…Tùng ơi, anh chả có gì xứng đáng với Ngọc đâu !Mới sống ở đây có bao lâu đâu mà đã thế, Ngọc thật không thể ngờ được chị Minh cũng là tình nhân của Tùng …
Nàng chập choạng bước ra ngoài, chẳng thấy chị Minh và Tùng đâu cả…thây kệ nàng không cần biết về họ nữa, nàng đã quá rõ họ rồi ! Nàng trở về nhà và tiếp tục thu xếp quần áo để sáng mai từ giã nơi nầy…
Đã 3 giờ sáng Tùng vẫn chưa về, màn đêm dày đặc vẫn không đen tối bằng cuộc đời một thiếu phụ đang xuân…nước mắt lại ứa ra, Ngọc lại khóc, nàng nhớ cha mẹ vô cùng, nhớ mái ấm thân thương đã cho nàng biết bao kỷ niệm, bàn tay săn sóc của mẹ hiền lúc nàng đau ốm…Tình mẹ cha bao la quá, tại sao nàng chối bỏ để sống với một người đàn ông đầy dã man và gian dối ? Hạnh phúc là gì ?Nàng nuôi một căm hận trong lòng khi nghĩ đến hai chữ hạnh phúc mà người ta đã chúc tụng nàng trong ngày hôn lễ…

Nàng bước ra khỏi phi trường, xách va li hành lý đón xe về với mẹ cha, những gì bỏ lại phía sau lưng nàng không còn muốn nhớ, cứ tưởng chừng như một cơn ác mộng đã trôi qua…Nàng gầy hẵn đi, nét vô tư hồn nhiên không còn nữa, người con gái 17 tuổi nầy đã dẫm phải chông gai của cuộc đời ! nàng hồi tưởng đến Hiển, người không quân oai hùng đã nằm yên dưới lòng đất lạnh ! Hiển là người yêu muôn thuở của nàng…Hiển ơi, anh không chết…anh vẫn sống mãi trong lòng em…
Em gục mặt trong vòng tay buồn thế kỷ
Mộng và đời…còn gì nữa đâu anh !
Nàng ngâm khẻ hai câu thơ mà nàng rất ưa thích, từ bây giờ nàng phải tìm lẽ sống cho tâm hồn mình, trong tột cùng noun đau phải tìm cho mình một lối thoát để mà sống…nàng bắt đầu sống cho tình yêu dù là một tình yêu ảo tưởng…
Tùng gửi thư về liên tiếp, ăn năn hối hận và hy vọng nàng tha thứ. Nàng đã quyết một lòng không nhớ cũng không quên…tất cả đối với Ngọc không còn ý nghĩa, chỉ còn một hoài niệm, một âm vang quá khứ xa mờ…
- Xin thông báo : Quận lỵ Hàm Tân đã bị bao vây, 18 người chết, 25 người bị thương, tình trạng nguy ngập…hiện Đại đội Quyết tử đang bị lọt giữa vòng vây của địch, tình hình chưa rõ ra sao ?
Tiếng nói trong Radio vọng lên…Ngọc quỳ mọp xuống cầu xin sự an lành may mắn cho Tùng dù trái tim nàng đã lạnh buốt từ lâu…Ngoài kia, pháo nổ đì đùng, thì ra giao thừa đã đến ! Lại một mùa Xuân của chiến tranh, của đất nước đầy đau thương thảm họa ! Ai vui vầy đón Xuân ? Ai đang xã thân ngoài chiến trận, nếu chẳng may Tùng có mệnh hệ gì…Ngọc uất nghẹn, hai giọt lệ lăn dài trên đôi gò má xanh xao…

NPNA










Nguyenphanan
#44 Posted : Tuesday, September 9, 2008 2:19:45 PM(UTC)
Nguyenphanan

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 536
Points: 0

LẠC MẤT MÙA XUÂN
Truyện ngắn : Nguyễn Phan Ngọc An


Người đàn bà tay bế đứa con còn đỏ hỏn, tay xách dỏ đi lẫn vào đám đông, nước mắt ràn rụa trên mi, nàng không biết đêm nay nàng sẽ về đâu ? trời đất xứ người sao cay nghiệt quá, bao la mà nàng không có chỗ dung thân, cơn đói vật vã, mồ hôi ướt lạnh toàn thân, nhìn đứa con vô tội lòng Mai đòi đoạn từng cơn, không lẽ nàng tự vận, ai chăm sóc con thơ vừa tròn ba ngày tuổi ? Cuộc đời Mai là một khối đau thương, tình yêu đã mất, cuộc đời Mai cũng đã hết, Mai không còn thiết tha chi cuộc đời tận cùng ô nhục này nhưng nghĩ đến đứa con thơ, kết quả của tình yêu oan nghiệt, Mai đành nuốt đắng cay chịu nhục nhã mà sống lê lết trên cõi đời này…
Cách nay một khoảng thời gian rất dài, thời điểm mà quê hương Việt Nam vào những ngày mới đổi thay, dấu tích chiến tranh vẫn còn hằn nét trên những con đường, trên làng mạc xóm thôn…nơi làng quê hẻo lánh miền Tây thuộc tỉnh Đồng Tháp, có hai vợ chồng người chiến binh lánh nạn, thay họ đổi tên sống ẩn nấp nơi đây chờ ngày sinh nở – ba tháng sau họ hạ sinh một bé gái , đặt tên bé Phương Mai, trong hoàn cảnh lánh nạn , hai vợ chồng không dám đi làm xa, chỉ lẩn quẩn làm thuê làm mướn trong thôn xóm…một ngày kia, khi bé Phương Mai được 5 tuổi, trong lúc cha mẹ đi làm ruộng dần công bỏ bé ở nhà một mình, khóa trái cửa ông bà yên tâm đi gặt lúa cho hàng xóm – Bé ở nhà tinh nghịch lục lọi gặp chiếc thẻ bài của cha lấy đeo vào cổ vừa đúng lúc có cô bé hàng xóm đến rủ đi chơi – Mai tìm mọi cách ra khỏi nhà…bé leo cửa sổ phóng đại ra ngoài cùng cô bé bạn thong dong ra lộ lớn – hai cô bé đi được một hồi lâu thì gặp một chiếc xe hơi, họ tò mò dừng lại nhìn hai cô bé rồi làm quen, chở hai bé đi ăn phở cách đó khoảng nửa giờ xe chạy – Khi họ phát giác ra trên cổ bé Mai có một tấm thẻ bài, họ lân la hỏi :
- Bé ơi, cho bác xem một tí nhé ! cái nầy của ai mà bé có vậy ?
Mai trả lời :
- Cái này của cháu
- Bậy nào, cháu là con nít không thể có cái này, cái nầy của người lớn, nói đi ngoan nào, bác cho tiền ăn bánh …
Mai khờ dại thú thiệt :
- Dạ cái nầy của Ba cháu , cháu thấy ngộ lấy đeo chơi, cái nầy gọi làø gì hả bác ?
Người đàn ông không trả lời bé, suy nghĩ đôi giây, cái tên trong thẻ bài nếu ông ta không lầm thì là một tên thiếu tá biệt kích của ngụy đã xung kích đánh úp căn cứ bảo mật của ông ta vào năm 1967 tại Hàm Rồng – Mối thù này ông ta chưa có ngày trả – không lẽ là tên H. này – không lẽ hắn không đi trình diện cải tạo ? Phải tìm cho ra sự thật vì khi hắn đánh úp cơ sở bí mật hắn đã bắt sống mình, mình không thể quên mặt hắn – hắn đã tặng mình hai quả đấm vào mặt nhốt mình hơn hai tuần trong hầm sâu, và một đêm mưa bão lớn trời tối đen mù mịt mình tìm cớ đau bụng phải đi cầu và đã trốn thoát…Thế mà đã gần 10 năm rồi, cái tuổi xuân của mình cũng theo chiến tranh mà tan biến, nhớ lại thời chinh chiến người cán bộ không khỏi ngậm ngùi !…
- Nhà cháu ở đâu, bác sẽ đưa về dùm – người đàn ông hỏi bé Mai
- Dạ nhà cháu ở xa đây lắm – nhờ bác đưa hai tụi cháu về chớ không thể đi bộ nổi đâu – Nghe thế ông ta mừng ran trong bụng, được rồi phen này gặp mặt nhà ngươi, nếu quả đúng ta sẽ thịt nhà ngươi cho hả trận thù xưa…
Chiếc xe hơi chuyển bánh đi dần về hướng mặt trời lặn, chẳng bao lâu thì đến nhà, Mai và cô bé bạn nhanh nhẩu cảm ơn và chạy ù vào nhà vì thấy bố đang đứng ngoài sân trông ngóng, vẻ mặt lo lắng tột độ – người cán bộ đã nhìn ra mặt mũi bố của Mai, hắn mĩm cười trong bụng, quả không sai, đúng là tên H rồi, mầy sẽ không thoát được tử thần đâu con ạ !
Ngay đêm đó, họ bố trí người tới bắt cả hai vợ chồng người chiến binh lánh nạn, người vợ than khóc trong khi người chồng bình tỉnh chấp nhận sự trả thù vì đã nhận diện được tên Thượng Uy Đặng Trần Khâm mà 8 năm trước hắên bị bắt và bị giam cầm trong vòng vây biệt kích của quân đội Cộng Hòa ! tất cả là số mạng, người chiến binh lặng lẽ buồn vì không ngờ có cái ngày đại họa hôm nay.
- Này tên H. hẵn anh còn nhớ cái đêm tại Hàm Rồng, tôi tưởng đã mất mạng vào tay anh – nay ân đền oán trả, hãy quỳ xuống nhận tội với nhân dân trước khi về bên kia thế giới …
- Không bao giờ, người chiến binh dũng cảm trả lời : Hãy giết tôi đi vì giữa tôi và anh là hai chiến tuyến , kẻ bại là phải chấp nhận sự hy sinh để giữ tròn khí tiết – chỉ xin các người tha cho vợ tôi để trở về nuôi dạy con thơ – nợ máu riêng tôi, xin hãy đòi một mình tôi – nói xong người chiến binh nghiêm trang nhắm mắt lại chờ chết !
- Ta sẽ cho vợ chồng anh được trùng phùng trọn kiếp, còn con gái anh ta sẽ là người nuôi dạy nó – sẽ cho nó biết cha nó là thằng giặc ngụy xâm lăng – nào hai người chuẩn bị tinh thần đi, ta chúc phúc cho hai người đó !
Một tràng súng nổ vang hai vợ chồng người chiến binh ngã gục trên vũng máu, trời đang lặng gió bỗng đổ trận mưa tầm tã, có lẽ trời cao cũng xót thương vợ chồng chiến binh chết thảm nên đổ lệ chăng - Hai xác người ướt sũng nằm lăn trên mặt cỏ, máu và nước mưa chan hòa thành một khối màu đỏ loang trên thảm cỏ xanh rì…thế là xong một oan tình – cha mẹ hy sinh cho con được sống, đâu biết vì con mà cha mẹ phải mất mạng như thế này ! Người cán bộ hỉ hả cười vì đã trả được mối thù riêng, ông ta cho tài xế nổ máy xe chở ông về hướng nhà bé Phương Mai với quyết định bắt luôn đứa bé về nuôi để có dịp đày đọa thẳng tay.
Phương Mai sau thời gian bị bắt buộc theo về sống trong nhà ông cán bộ, bé buồn và bé khóc thật nhiều – hỏi về cha mẹ thì được biết cha mẹ bị ông cán bộ bắn chết vì tội làm giặc xâm lăng – Ngày tháng trôi qua trong gian khổ, Phương Mai bị hành hạ sai khiến như một tôi tớ trong gia đình người cán bộ…thắm thoát đã mười năm dư Mai sống nhờ gia đình ông cán bộ, một hôm bà vợ cán bộ nói với nàng :
- Mầy lớn rồi, phải lấy chồng thôi ! ông nhà đã tính chỗ cho mầy dựa nương – nhà ông Bình có đứa con trai bị thương tật từ chiến khu ra, ông ta giàu có, mầy về đó sẽ sướng một đời…nghe rõ chưa ?
Mai lặng im không trả lời, nàng thừa biết gia đình ông Bình giàu có thật nhưng là gia đình ác ôn nhất nơi đây – còn người con trai thì bị chiến tranh nên đã thành tàn phế thành thử chẳng ai chấp nhận lấy cậu ta – Mai nghe chút gì nghẹn đắng trong cổ họng, chả lẽ cuộc đời mình rơi vào ngỏ tối như thế này sao ?…thân gái lẻ loi cô độc, nàng biết tìm ai để dựa nương, để chở che bảo bọc ?
Sáng hôm sau lúc nàng còn đang quét dọn nhà cửa thì nghe tiếng ông cán bộ nói vọng vào:
- Ra đây biểu Phương Mai
Nàng vội vàng chạy ra và cúi đầu chờ lệnh :
- Đây là ông Bình và đây là con trai ông ta, tuần sau sẽ tổ chức đám cưới cho mầy với cậu Lễ đây – rán mà ăn ở cho đàng hoàng nghe chưa ?
- Dạ, Mai lí nhí trong miệng, con chưa muốn lập gia đình vì con còn nhỏ quá, xin cho con khất một thời gian nữa, thưa ông ! nói xong nàng nhìn người thanh niên tàn phế mà mai đây phải gọi là chồng, anh ta ngồi trên chiếc xe lăn với một tay bị cụt, một chân bị cụt, mặt đầy những sẹo của chiến trận để lại, lòng Mai trĩu nặng cơn buồn khó tả…
- Không được – tao nuôi mầy chẳng qua để có ngày hôm nay – tao nói thẳng cho mầy biết , tao đã bán mầy với giá 10 tỷ bạc để mầy về hầu hạ cả cha và con ông Bình đó, liệu mà làm dâu làm vợ nghe chưa, từ bây giờ lo sửa soạn tinh thần cho một cuộc sống mới, không nói năng gì nữa hết ! vào trong làm công việc đi.
Phương Mai bật khóc, trời ơi…một ông già có tiếng ác ôn hung dữ , một người con trai tật nguyền…nàng phải sống sao đây ? Có đau khổ đến thế nào Mai cũng phải chấp nhận số phận đãû an bài và ngày ấy đã đến…một đám cưới diễn ra trong bầu không khí gia đình , vỏn vẹn chỉ có vài chục người tham dự, vì nàng đâu phải là con gái của ông bà cán bộ, nàng chỉ là người ăn kẻ ở trong nhà mà thôi, họ bán nàng chứ nào thương yêu mà gã chồng cho nàng đâu !
Hàng ngày Mai phải làm không biết bao nhiêu là việc nặng nề, lại còn phải hầu cơm nước cho hai cha con, vậy mà chẳng yên thân, ông Bình cứ kiếm chuyện đánh đập nàng hoài, người chồng tật nguyền càng khó tính hơn , bắt nàng hầu hạ mọi sinh hoạt cá nhân mà lúc nào cũng cọc cằn chưởi rủa nàng – Được 8 tháng , Mai không còn chịu đựng nổi, nàng trốn đi, nàng không mang theo được một món gì, không của cải, không tiền bạc vì cha con ông Bình là kẻ ác ôn, từ ngày về với gia đình Lễ nàng chỉ biết làm việc và hầu hạ, nàng chỉ biết bị đòn roi chứ chưa bao giờ được biết tới đồng xu nhỏ nào – Đêm nay Mai quyết định bỏ đi, ngoài trời tối đen như mực, thỉnh thoảng lóe lên vài tia chớp, nàng nhờ vào chút ánh sáng ấy mon men ra đường cái, đi được một quãng xa bỗng hai bên đường có hai tên đạo tặc xuất hiện, chúng nhào tới ôm cứng lấy Mai định dỡ trò khốn nạn , Mai la toáng lên , một thanh niên từ xa chạy tới vung tay đấm thẳng vào hai thằng đạo tặc, tiện thể đôi chân đá vút vào cả hai tên té lăn quay ra đất, chúng hoảng viá ù té chạy.
Mai suýt xoa : Trời ơi, người có võ…và nàng lính quýnh : thưa xin cảm ơn ông thật nhiều, ông đã cứu mạng tôi…
Chàng thanh niên cười vui và nói :
- Cô đi đâu giữa đêm thanh vắng như vậy, nguy hiểm lắm, nhà cô ở đâu tôi đưa cô về nhà ?
- Thưa…tôi không có nhà, tôi không có gia đình, tôi là kẻ mồ côi không cha mẹ, thưa ông ! nói xong nàng bật khóc nức nở – người thanh niên lấy làm lạ, vội an ủi nàng :
- Cô hãy bình tỉnh lại, nếu thật sự hoàn cảnh cô như thế, giúp được gì cô tôi sẽ không từ chối, xin cô tin lời nói của tôi…
Phương Mai lần lượt kể lại cuộc đời nàng từ khi lên 5 tuổi, những gì nàng còn ghi nhớ trong đầu, nàng không quên kể rõ tình trạng gặp ông cán bộ và đêm đó cha mẹ nàng bị ông cán bộ bắt và đem đi bắn chết thảm thương, nàng mang lòng thù hận tên cán bộ đã dụ nàng chở đi ăn phở lúc gặp ngoài đường khi nàng mới lên 5 tuổi rồi theo về nhà bắt giết cha mẹ nàng, mãi đến nay nàng vẫn không hiểu được nguyên nhân gì mà hắn giết cha mẹ nàng…người thanh niên hỏi tên ông cán bộ Phương Mai cho chàng biết tên họ ông ta là Đặng Trần Khâm, đồng thời đưa cho chàng xem một tấm ảnh ngày đám cưới chụp chung với vợ chồng ông cán bộ ! Người thanh niên có vẽ tư lự trầm ngâm giây lát rồi hỏi nàng :
- Tôi có thể giúp cô chổ ở và giới thiệu cô đi làm cho một hãng chế tạo đồ nhựa ở gần trung tâm thành phố, cách đây hơn 10 cây số cô đồng ý không ?
Mai mừng thầm và đồng ý ngay – Chàng tự giới thiệu tên chàng là Trung, Mai hỏi họ gì thì Trung chỉ cười không nói , Trung nói nhà cũng ở gần đây và cũng đang làm việc cho hãng chế tạo đồ nhựa trên tỉnh …
Đêm ba mươi nên bầu trời đen thẩm không có một vì sao, ngoại trừ chút ánh sáng của những tia chớp liên hồi, Trung có sẵn cây đèn pin nên hai người nhìn mặt nhau rất rõ trong đêm, Phương Mai lớn lên nàng rất đẹp dù cuộc đời trải qua lắm chông gai gian khổ, Trung cảm giác một niềm hạnh phúc len nhẹ vào hồn, chàng ao ước được cùng Mai nắm tay nhau mãi mãi…đang nghĩ thế, bỗng dưng Trung thở dài, ai biết được trong lòng chàng đang gặp cơn bão tố làm giết mòn mơ ước tương lai…
Hai người quan hệ thân thiết từ sau đêm hôm đó, và sau một thời gian tìm hiểu họ đã chấp nhận sống chung một nhà. Một hôm Phương Mai trằn trọc không ngủ được, cứ nhắm mắt là thấy hình ảnh mẹ cha hãi hùng trên bãi cỏ đầy máu đỏ…nàng trở dậy ra phòng khách ngồi suy tư trong lúc Trung đang ngủ say – Trên chiếc sofa Trung vắt chiếc quần tây dài ngược xuống vô ý rớt ra ngoài ghế chiếc bóp nhỏ của chàng, Mai nhặt chiếc bóp đem trả lại trong túi quần chàng, tự dưng nàng muốn tò mò xem chiếc bóp của chồng, lòng tự trọng từ nhỏ nàng không muốn làm thế, nhưng không hiểu có một ma lực nào xui khiến tay nàng từ từ rút cái bóp trở ra và nhẹ nhàng mở xem bên trong mà nghe trái tim đập thình thình vì hồi hộp sợ Trung dậy bất ngờ bắt gặp thì danh dự nàng cố giữ bấy lâu nay sẽ bay vù vào gió bụi !
Mai giật mình hoảng hốt, một tấm ảnh chụp ba người, Trung ngồi giữa, hai ông bà ngồi hai bên ôm sát lấy Trung, người đàn bà thì rất lạnàng chưa từng gặp, nhưng người đàn ông…rõ ràng là tên cán bộ đã giết cha mẹï nàng ! Không lẽ, không lẽ…Mai tái mặt lẩm bẩm, nàng cầu mong đây không phải là một gia đình mà là người thân quen chụp ảnh chung, nhưng sao Trung giữ gìn tấm ảnh rất kín gắn tận bên trong cùng của ngăn chiếc bóp ? Lòng Mai dâng lên nghèn nghẹn muốn khóc, trời ơi, nếu quả thật anh là con trai ông cán bộ thì chúng ta đành phải xa nhau, em đâu thể là vợ của con trai kẻ thù đã giết mẹ cha em !!! Nàng lật vội phía sau lưng tấm ảnh để mong tìm một lối thoát, nhưng dòng chữ ác nghiệt ghi quá rõ ràng : Kỷ niệm tấm hình Đặng Trần Trung chụp chung với cha là Đặng Trần Khâm và mẹ làï Cao Cựu Liễụ năm 1990 – Nàng đọc đi đọc lại như sợ mình đọc lầm chữ, nhưng sự thật đã hiển nhiên rồi, Mai đau đớn thở dài, không còn hy vọng gì cho tương lai hạnh phúc, áng mây đen đã bao phủ bầu trời ! Trung ơi, mấy tháng qua mình chung sống trong tình chồng nghĩa vợ, sự thật trớ trêu mà anh vẫn dấu em, vì sợ mất nhau chăng ? làm sao em có thể tiếp tục chung con đường hạnh phúc bên nhau khi đã tận tường sự thật, cha anh đã giết cha mẹ em một cách tàn độc và em đã thề không đội trời chung với ông ta…
Đêm đó Mai âm thầm lặng lẽ như không có điều gì xãy ra, đợi tới sáng Trung đi làm, nàng mới thu xếp ra đi và viết cho Trung mấy dòng vĩnh biệt ! Mai lang thang thất thểu như người bị bệnh tâm thần, nàng ghé một quán cà phê ngồi nghĩ mệt, một tên ma cô đến làm quen và hỏi nàng cần gì ? Mai đáp ngay : Tôi cần việc làm – Hắn bảo theo hắn lên gặp ông chủ – Họ đưa Mai vào một phòng có sẵn 4 cô gái ngồi đứng lố nhố bên trong, Mai thắc mắc thì họ không trả lời, xô nàng vào đóng ập cửa lại …Mai lo sợ không biết việc gì sẽ xảy ra, các cô gái kia thì kẻ lạnh lùng, người hớn hở, chẳng ai nói với ai một lời ! Đến sáng bọn nàng bị dẫn lên xe bịt bùng đưa ra sân bay chở thẳng về Đài Loan – Tới đây nàng mới biết số phận không may của mình, nàng đã bị bán cho lũ Đài Loan khát vợ, khát đàn bà ! Mai càng đau đớn hơn khi biết mình đã mang thai với Trung, bụng càng ngày càng lớn, bọn đàn ông Đài Loan càng xử tệ với nàng, chúng đánh đập nàng tàn nhẫn đôi lúc tưởng hồn lìa khỏi xác ! xứ lạ quê người, thân tàn ma dại, Mai hối hận đã bỏ Trung mà ra đi vào con đường vô định…Nhiều lần Mai định quyên sinh nhưng nghĩ tới đứa con trong bụng đành cắn răng chịu đựng, bọn đàn ông Đài Loan biết là không xử dụng nàng được nữa vì cái thai đã lớn nên càng tàn ác hơn với Mai – Nàng dỡ sống dỡ chết nơi đất người , rồi một đêm nàng chuyển bụng sanh con, không người săn sóc, không tiền bạc, nàng vào nhà thương thí của chính phủ Đài Loan nhờ lòng nhân đạo cứu giúp sinh nở – Bệnh viện chỉ cho nàng ở được ba hôm thì đuổi về nhà, nàng không nhà cửa, không người thân, biết về đâu bây giờ ?
Cơn đói làm Mai mệt lã người, phải chi ở quê mình nàng sẽ còn nhờ được sự trợ giúp của người chung chủng tộc, chung ngôn ngữ, đàng này nhìn quanh toàn những người lạ quắc, mặt không điểm một nụ cười thân thiện, mà cũng chẳng ai thèm nhìn nàng để chia xẻ miếng cơm manh áo, ban bố chút tình người ! Nàng đau đớn nhìn đứa bé vừa tròn ba ngày tuổi miệng khô không giọt nước thấm hơi, nàng bật khóc giữa chốn đông người, họ vẫn thản nhiên nhìn nàng rồi đi thẳng không ai hỏi han một lời ! Mai biết làm sao để gợi chút lòng hảo tâm của họ đây…chỉ cần có một số tiền đủ mua vé máy bay để về quê hương Mai cũng đành bó tay, một đồng một chữ cũng không, nói với họ thì ngôn ngữ dị đồng nàng cũng không mở miệng được, mà người nước này thiếu lòng thương người khi nhìn nàng với đứa trẻ còn đỏ hỏn họ cũng chẳng hề xao xuyến lương tâm ! Trung ơi…chắc em và con chết mất ! giờ này anh ở đâu ? Em hối hận vô vàn khi bỏ anh ra đi, phải chi em không có thai với anh thì em còn xoay sở đi làm kiếm tiền về nước, đàng này… Mai khóc ngất … Xung quanh nàng tiếng pháo nổ rân từng đợt, từng đợt , Mai giật mình hoảng hốt nhìn về hướng đèn sáng rực đàng kia, một đoàn người quần áo đỏ xanh đủ màu sắc, bày biện cúng vái giữa ngoài lộ, trước cửa nhà, họ ca hát tưng bừng những âm điệu của đất nước họ, Mai không hiểu gì cả…nhưng với trí thông minh còn ngự trị nàng thừa hiểu đã đến tết rồi và đêm nay là giao thừa, giờ này là giờ giao thừa của họ cũng là giao thừa của đất nước Việt Nam vì cùng là dân Châu Á, ôi, thê thảm cho ta, mùa xuân đã chết !!! Những giọt nước mắt thi nhau lăn dài, lăn dài trên đôi mắt thâm quầng vì vừa bán đi sức lực để sanh con , Mai gục đầu vào đứa nhỏ và thầm cầu mong trời phật cho nàng và con được chết một cách nhẹ nhàng bình an nơi đây vì không còn đất sống , nàng quá đuối sức và bất tỉnh giữa tiếng pháo giao thừa đang nổ dòn tan chào đón mùa xuân mới trên đất lạ quê người …

NPNA
Nguyenphanan
#45 Posted : Sunday, October 5, 2008 3:44:20 AM(UTC)
Nguyenphanan

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 536
Points: 0

MỘT CHUYẾN VƯỢT BIỂN
Truyện Ngắn Nguyễn Phan Ngọc An

Từ trong khu nghĩa địa trên đường Alumrock và Capitol Ave. Dung băng qua lộ đến chỗ parking lot lấy xe, đứng tựa mình vào hông xe ngẩn ngơ nhìn bầu trời xanh đang gợn chút mây hồng, đẹp như bức tranh thủy mạc, tự dưng lòng Dung thấy nao nao buồn, nỗi nhớ mẹ cha canh cánh bên lòng, nỗi xót xa cho thân phận, nỗi thương người yêu bạc phước nên lòng buồn rười rượi, mới đó mà thắm thoát đã 3 năm Tùng nằm yên dưới lòng đất lạnh, Tùng ơi, anh vẫn sống mãi trong em, em đã hứa một đời sống bên anh thì âm dương cách trở cũng không làm cho em thay lòng đổi dạ…ba năm rồi anh biết đó, không một ngày nào Dung không đến thăm anh, than thở, tâm tình với anh , anh không trả lời em như những ngày yêu nhau xa cũ nhưng em biết anh nghe những gì em nói, em biết anh đang nhìn em tha thiết, và anh buồn khi em từ giã ra về…cuộc đời em còn sống gượng nơi đây là chỉ mong chờ một ngày tìm gặp được mẹ cha bên nửa vòng địa cầu xa thẳm cũng như hàng ngày đến thăm anh , nhìn anh nằm yên ngủ, một giấc ngủ dài thiên thu không trở dậy ! Đang miên man với những suy tư nhung nhớ về quá khứ trong lòng, Dung chợt giật mình vì phía trước có tiếng gọi : Ba Mẹ chờ con với…và một cô bé tuổi chừng 12 tíu tít chạy lại bên Cha Mẹ, ông bà hôn hít cô bé ẵm lên xe với nụ cười rạng rỡ trên môi …tâm hồn Dung chùng xuống và quay quắt nhớ đến mẹ cha nơi quê hương vạn dặm, không biết còn sống hay đã vĩnh viễn chia xa !

Hồi ức Dung sống dậy như chuyện mới hôm qua, hồi đó Dung cũng có Mẹ có Cha, năm 12 tuổi nàng cũng sống cảnh êm đềm hạnh phúc bên gia đình thân thương, Cha Mẹ lúc nào cũng nuông chiều yêu thương nàng. Bỗng một ngày không ai ngờ trước được, chiến tranh lan tràn thôn xóm, Dung thất lạc mẹ cha, chạy theo đoàn người tị nạn chiến tranh, trôi dạt về vùng đất khô cằn, sỏi đá sống nhờ vào tình thương của những người cùng chạy nạn với nàng. Từ đó cuộc đời Dung như khôâng còn ý nghĩa, năm năm trời vất vả gian nan Dung đã lớn khôn trong sự tủi hờn, nghèo đói, trong nỗi cô đơn cùng cực, và vào một đêm mưa to gió lớn Dung nghe có tiếng người chạy rần rật bên ngoài , họ ào vào nhà kéo tuột Dung ra khỏi nhà, nói gấp gáp :
- Đi, đi mau lên !
Dung ấm ớ :
- Đi đâu hả bác Ba, cô Tám ?
- Đi vượt biên – Bác Ba trả lời
Dung lo sợ :
- Cháu không đi đâu, cháu sợ lắm, hơn nữa cháu không có tiền để trả họ
Cô Tám ngắt lời :
- Tiền bạc gì mà lo, có ông bà chủ Phát Ngân và hai cậu con trai lo tất cả rồi, đi mau đi em…
Dung đưa mắt ái ngại nhìn ông bà chủ Phát Ngân và hai người con trai đang tươi cười gật đầu chào thân thiện với nàng, trong lòng thấy vững tin, nàng lên tiếng cảm ơn và thu xếp vài bộ áo quần theo chân ho, ï một chuyến đi bất ngờ, một chuyến đi định mệnh…Lần cuối nhìn lại quê hương trong màn đêm dày đặc, nơi đó cha mẹ nàøng không hiểu sống chết ra sao vì từ 5 năm trôi dạt nàng không tìm được một tin tức gì về mẹ cha nàng ! nước mắt Dung tự nhiên tuôn trào như một lần vĩnh biệt người thân yêu, vĩnh biệt quê hương yêu dấu … Một bàn tay nắm nhẹ vào cáùnh tay Dung kéo vội đi, một giọng nói nhẹ nhàng trầm ấm :
- Cô đừng lo, Cha Mẹ tôi là tỷ phú nơi đây, chuyến đi này có quan chức địa phương lo hết rồi , cô cứ yên tâm theo chúng tôi…
- Xin cảm ơn anh thật nhiều, nói xong Dung thoăn thoắt theo chân người thanh niên là con trai ông bà Phát Ngân và đúng lúc ấy một loạt súng nổ liền 3 phát, trước mắt Dung là 2 chiếc ghe nhỏ chờ sẵn – Đoàn người khoảng 25 người tranh nhau leo lên 2 chiếc ghe nhỏ, tách bờ ra khơi….Trong ánh đèn mờ mờ của chiếc ghe, Dung nhìn lén mặt người thanh niên, với sống mũi cao, gương mặt vuông chữ điền, biểu lộ tính hiên ngang trung thực và đầy nghị lực, tự nhiên mọi lo lắng tiêu tan trong lòng Dung, nàng e lệ mĩm cười vì thoáng qua trong hồn một cảm tình vương vấn nhẹ nhàng như mặt hồ đang gợn sóng li ti, nàng mơ ước chuyến đi định mệnh này sẽ đưa nàng đến một chân trời đầy hương hoa rực rỡ.

Chiếc tàu lớn đang đợi sẵn , từng người tuần tự lên như không sợ hãi mộät ai bắt bớ, đúng là có sự bảo vệ an toàn cho chuyến vượt biên này, Dung yên tâm ngồi xuống và nhắm mắt lại thả hồn về cha mẹ, con xin mẹ cha tha lỗi cho con , nếu trời thương con đến được bến bờ tự do, con sẽ trở về tìm ra Cha mẹ và chúng ta sẽ đoàn tụ với nhau ! những ngày lênh đênh trên biển, người thanh niên con ông bà chủ luôn kề cận và săn sóc nàng , lo cho nàng từng miếng ăn thức uống, không ngớt hỏi han an ủi nàng, Dung cảm thấy một tình cảm thương yêu đang nẩy nầm trong tim, nàng cầu xin mau chóng đến bến bờ để ước mơ thành sự thật…
Tàu chạy được bảy ngày đêm ròng rã thì gặp hải tặc Thái Lan, chúng bắn súng thị oai bảo tàu dừng lại, bọn người tị nạn trên tàu hốt hoảng không biết phải làm sao ? Bọn hải tặc ép sát tàu chỉa súng vào mọi người, trên tàu không có vũ khí chống đỡ, đàn ông bị bọn hải tặc vứt xuống biển, đàn bà bị chúng hiếp dâm, xéù toang quần áo, cảnh tượng hỗn loạn thô bỉ xãy ra trước mắt Dung…lúc đó mọi người chạy tán loạn, mạnh ai lo mạng sống của mình, bọn hải tặc đứng ngay trước mặt, không ai còn có thể giúp đỡ ai được nữa…Dung sực nhớ cái miệng khoang thuyền, nơi hàng đêm người thanh niên lo sẵn một chiếc chăn ấm đưa nàng vào đó ngủ qua đêm, Dung chạy vội đến miệng khoang thuyền chui nhanh vào, tim nàng như muốn ngừng đập khi bàn tay chạm phải một người đang ngồi trốn trong đó, Dung chồm người định chạy ra ngoài nhưng người ngồi trong đó đã kéo nàng ngồi lại và đưa tay bịt miệng nàng khi nàng hoảng hốt định la bởi trong lỗ hang miệng khoang thuyền tối tăm không nhìn thấy gì cả…Dung hồi hộp lẫn lo sợ đến chết điếng, lo lắng lũ hải tặc bước đến miệng khoang tàu thì tính mạng chẳng ai còn. Điềàu lo sợ ấy cũng không tránh khỏi, chúng la hét ầm ĩ tìm đến miệng khoang tàu lôi nàng và người đàn ông ra, người đàn ông té xấp xuống mạn thuyền , bọn hải tặc nả liên hồi những phát đạn vào ông ta, còn Dung thì chúng chồm đến xé toang quần áo, đè xuống khoang thuyền hãm hiếp, thõa mãn xong thú tính chúng cầm dao mã tấu rạch nát bộ ngực trắng hồng của Dung, lúc ấy người đàn ông tỉnh dậy vung đôi tay dựt con dao mã tấu văng khỏi tay tên hải tặc và ông gục xuống bởi vết thương hai chân quá nặng, bọn ác ôn một lần nữa dùng con dao đó chặt đứt đôi cánh tay của ông ! Dung rú thêm thãm thiết vì vừa nhận ra người đàn ông đó chính là người con trai của ông bà chủ Phát Ngân, người đã dìu dắt lo lắng săn sóc nàng bao ngày qua trên đường vượt biển ! Đôi ngực máu đỏ tuôn tràn nhưng Dung không đau đớn bằng nhìn người thanh niên kia ngất lịm trên vũng máu với hai tay bị chặt đứt nằm lăn lóc bên cạnh – Dung không còn khóc được nữa, máu ra nhiều quá và nàng cũng ngất lịm đi…

Khi Dung tỉnh dậy, ngơ ngác nhìn bốn xung quanh, thấy người anh cả con ông bà chủ Phát Ngân và là anh trai của người thanh niên bị bắn và bị chặt đôi cánh tay trên khoang thuyền đêm qua, nàng mường tượng thời gian vì không còn biết là đã mấy ngày qua rồi, người anh bước lại gần Dung khóc nức nở và thuật lại sự việc xãy ra trên tàu cho nàng biết cặn kẽ :
- Cô Dung, cô tỉnh lại tôi mừng lắm, chuyến tàu vượt biên đầy máu và nước mắt này đã khiến tôi thành kẻ mồ côi, em trai tôi thành tàn phế nặng nề, cô thì tàn một đời hoa ! ôi đau đớn quá cô ơi !
Dung lặng người không nói được, lát sau nàng cố gượng hỏi người anh :
- Trời ơi ! ông bà chủ…trời ơi, em trai của anh…còn bao nhiêu người trên tàu ?
- Không còn một ai, chúng xô cả xuống biển sâu kể cả những đàn bà bị chúng hãm hiếp, tôi may mắn thoát chết là vì tôi có mặc theo mình chiếc áùo phao, khi tình thế hỗn loạn tôi cặp theo bờ thuyền núp dưới nước nên thoát được …tôi không thấy được hết những gì xãy ra trên tàu chỉ nghe tiếng người rớt xuống biển và tiếng khóc la vang dậy, một lát sau có chiếc chiến hạm đếán và lũ hải tặc vội vàng lên ghe của chúng chạy hết . Tôi mon men leo lên tàu, trước mắt tôi chỉ còn hai xác chết nằm bất động, cô và em trai tôi – Tôi khóc ngất lên khi biết cha mẹ và tất cả đã chìm dưới lòng đáy biển , em trai đã chết không toàn thây và cô cũõng đã chết ! Tôi la gào thật to, tôi khóc thật to… chiến hạm đã dừng sát chiếc tàu và vài người nhảy qua hỏi tôi tự sự, tôi run rẩy thuật lại sự việc xãy ra, họ vội đến bên hai xác người, lật ra và bế xốc lên chiến hạm, đồng thời kéùo tôi cùng lên chiến hạm của họ – Họ bảo tôi yên tâm, họ sẽ cứu mạng hai người sắp chết này và cho tôi ăn mẫu bánh mì , uống một ly sữa bảo tôi nhắm mắt ngủ, họ cho tôi bộ quần áo để thay, đắp cho tôi tấm chăn thật ấm vì tôi đã ngâm mình dưới nước suốt hai giờ liền – Họ rất tốt, họ đã cứu sống cô và em trai tôi, nhưng đau đớn quá cô ơi, em tôi chỉ còn là một khúc cây biết nói biết khóc mà thôi !

Dung đau lòng tột độ, nàng biết người thanh niên tốt bụng kia đã vì nàøng màø ra nông nỗi, nếu nàng không chui vào chỗ ẩn nấp của anh ấy thì dễ gì ai phát hiệän ra, nếu không vì lương tâm đạo đức khi đang nằm trên vũng máu đào vẫn hiên ngang dựt con mã tấu trên tay tên hải tặc thì anh đâu phải mất đôi cánh tay – tất cả quá lớn lao cho cuộc đời nàng, quá ân sũng cho cuộc đời nàng, Dung phải làm sao đây để đền đáp trong muôn một … Nàng chỉ biết khóc và khóc thật nhiều , cuộc đời nàng đau thương gian khổ đã nhiều nhưng chưa bao giờ tàn khốc như ngày hôm nay. Một khúc gỗ chỉ biết khóc , trời ơi, trời ơi …
Ba tuần sau Dung được xuất viện và được người anh chăm sóc cẩn thận – nàng đã hồi phục sức khỏe, người anh và nàng được chu cấp hai phòng kế bên nhau trong một gian nhà 40 căn dành cho gia đình binh sĩ chiến hạm Hoa Kỳ – Điều mong ước đầu tiên của Dung là xin người anh cho nàng đến thăm người em đang còn nằm bệnh viện – trên đường đến bệnh viện Dung hỏi tên người anh và tên người em để tiện bề xưng hô khi gặp mặt người em – nàng được biết người anh tên Thông, người em tên Tùng – Đến nơi Dung lảo đảo tưởng như sắp quỵ xuống nền gạch, Tùng chỉ còn là một khúc cây với đôi mắt đẫm lệ ! Dung ôm chặt lấy Tùng hứa với chàng suốt cuộc đời còn lại Dung sống cho Tùng, chăm sóc Tùng, thương yêu Tùng vì chỉ có Tùng mới là lẽ sống cho Dung, một người phụ nữ vô phần và bất hạnh !!!

Thắm thoát rồi Tùng cũng đến ngày xuất viện, sáu tháng qua không ngày nào Dung không đến thăm Tùng, nước mắt khổ đau của hai người đã chan hòa cho nhau, họ đã thật sự hiểu và thương yêu nhau – Sáu tháng qua, nhiều lần Thông tỏ tình yêu thương Dung nhưng đều bị nàng từ chối, tâm hồn Dung quả là một thiên thần, tình cảm Dung là một tấm gương sáng ngời nhân thế . Ngày mai chuẩn bị cho Tùng về nhà, Thông nhẹ nhàng nói với Dung :
- Dung à ! anh thật tình yêu Dung, thời gian gần gũi anh không thể dấu lòng, em đừng mặc cảm gái hư rồi vì hải tặc – tai họa chứ nào phải tại em ? Thương em không hết mà Dung, anh và em sẽ chăm lo cho Tùng chu đáo và cả ba chúng ta sống nơi đây một thời gian nữa, chính phủ Hoa Kỳ sẽ nhận chúng ta vào Mỹ.
Dung trả lời thẳng thắn :
- Không đâu anh Thông – Dung đã nguyện một đời sống chết bên Tùng – ân tình anh ấy dành cho em lớn hơn cả núi non – cao hơn cả mọi thứ trên đời – em yêu anh ấy ngay từ khi gặp gỡ ban đầu trên chuyến vượt biên – xin anh hiểu cho em – chỉ có Tùng mới là nguồn sống của em, anh hai ơi, xin anh nhận nơi em một lạy này gọi là đền đáp ân tình của anh, một lạy này nữa để xin từ chối tình yêu của anh, em luôn quý trọng anh, xin anh giữ mạng sống cho Tùng, anh hiểu mà, Tùng sẽ chết khi không còn có em bên cạnh, em mong đến ngày vào Mỹ chúng em sẽ tổ chức đám cưới, chàng rể ngồi trên chiếc xe lăn và cô dâu đứng sau lưng ôm choàng chàng rể, em tin chắc chưa có một đám cười nào như thế, hãnh diện cho em, sao ta không làm những việc mà thiên hạ không làm được hở anh hai ?
Thông nghẹn họng không dám nói gì nữa, lặng lẽ cùng Dung lái xe đến bệnh viện đón Tùng về, Tùng được cấp một xe lăn loại rất tối tân nên chàng xê dịch qua lại rất dễ dàng – Dung dành được ở bên Tùng chăm lo, Thông ở phòng bên kia – Đêm đêm Thông qua phòng Tùng ở đến gần sáng, những ánh mắt , những ngôn từ bóng gió những cử chỉ tha thiết ân cần của Thông dành cho Dung không qua được cặp mắt của Tùng, chàng đau khổ âm thầm và chỉ biết khóc những lúc Thông đã về phòng riêng và Dung mệt mỏi ngủ say bên cạnh chàng.
“ Anh có còn gì đâu mà làm khổ đời em, Dung ơi”…lời nói nhẹ như hơi gió thoảng, nước mắt Tùng tuôn trào ướt đẫm khuôn mặt Dung, nàng giật mình tỉnh dậy hoảng hốt ôm lấy Tùng, an ủi chàng mọi lẽ vì cho rằng chàng đau đớn cho tấm thân tàn phế thảm thương kia chứ nào biết đâu từ tận cùng sâu thẳm trái tim đang rướm máu từng cơn, Dung đâu biết là Tùng đã hiểu chuyện tình cảm của Thông dành cho Dung – còn gì để anh sống nữa Dung ơi, thân anh không còn là con người, tim anh đang dãy chết…Tùng gục xuống bên Dung nghẹn ngào tức tưởi !
Một tháng sau cả ba người được chính phủ Hoa Kỳ làm thủ tục nhận vào nước Mỹ, được chính phủ cấp cho một căn nhà 3 phòng tại vùng Bắc Cali, Thông đi làm cho một hãng Tiện, Dung đi làm cho một hãng Điện Tử – mỗi tối sau khi đi làm về họ thay phiên nhau săn sóc cho Tùng – Ban ngày Tùng được chính sách ưu đãi của chính quyền Hoa Kỳ giúp người tật nguyền, Tùng được một y tá đến thăm bệnh săn sóc hàng ngày, chàng được chu cấp nhiều thuốc men và sữa hộp, thịt hộp cả ba anh em dùng không hết – Hôm nào Tùng khó chịu trong người là y tá ở lại trực suốt đêm không ngủ chăm lo cho Tùng – Mỗi đầu tháng là Tùng nhận check tiền từ cơ quan bảo trợ người thương tật, so với Tùng 1200 mỹ kim mỗi tháng là số tiền dư ăn dư để, lòng Tùng ngậm ngùi mỗi khi nhận lương hàng tháng … Lòng Tùng xót xa nghĩ đến thân phận tật nguyền đã làm gì cho đất nước Hoa Kỳ mà lại nhận lãnh sự đền đáp ân huệ lớn lao cho cuộc đời mình – Từ khi đặt chân lên đất nước này, gia đình ba người của Tùng đã nhận không biết bao nhiêu là ân huệ, anh Thông được cho đi học Anh Văn và nghề nghiệp miễn phí lại còn mỗi tháng được lãnh tiền trợ cấp đều đều, Dung người yêu của chàng lại còn may mắn hơn, nàng được ông bà người Mỹ giàu có nhận làm con gái nuôi, cho nàng tiền bạc học nghề học chữ trở thành bác sĩ, kỹ sư nhưng Dung vì tình yêu của Tùng chỉ nhận ở cha mẹ nuôi tiền bạc họ cho và nàng tự lập học nghề điện tử và đi làm để hàng ngày được chăm sóc kề cận người yêu bạc phận. Nghĩ đến lòng bao la nhân đạo của Hoa Kỳ dành cho dân tị nạn các sắc dân và chính bản thân chàng, Tùng cảm nhận một sự biết ơn tràn ngập óc tim, trời ơi … phải chi Tùng không là kẻ tật nguyền, chắc chắn chàng sẽ là một công dân ưu tú, đem kiến thức và xương máu vun bồi đất nước tự do đầy nhân đạo này – Tất cả là định số, Tùng phải chấp nhận để vượt qua mà sống cho xong cái kiếp khổ đau…
Một hôm Tùng lâm trọng bệnh, cơn sốt hoành hành thân xác, chờ mãi cũng không thấy anh và vợ về như mọi ngày – đã 9 giờ đêm Tùng suy nghĩ mãi không hiểu vì sao cả hai không về như thường lệ, đầu óc quay cuồng không còn tỉnh táo… Tùng cố xê dịch chiếc xe đến bên tủ thuốc , chàng lắp chiếc tay giả vào mà từ khi được cấp đến nay chàng không hề xử dụng bởi bất tiện vì chàng không thể lắp vào một mình, chàng gắn sơ cánh tay mặt vào rồi với tay lên tủ thuốc lấy nguyên típ thuốc an thần của Dung uống cạn, Tùng viết lại mấy dòng nguệch ngoạc trước khi lìa xa cõi trần đau thương, lìa xa Dung yêu quý và anh Thông người anh một mực kính thương của Tùng…viết xong Tùng bỏ chiếc tay giả ra và nước mắt tuôn trào !
“ Dung yêu quý ! anh đi đây, điều anh mong ước duy nhất là em đừng khóc để anh đi được nhẹ nhàng, em ơi ở đời đâu ai khen một cặp rể dâu tật nguyền mà đẹp đôi, mà xứng lứa, anh mong sau khi anh đi rồi em hãy cùng anh Thông có một đám cưới và chung sống bên nhau thật hạnh phúc” Tùng khóc nức nở và lịm dần vào cõi hư vô…bên ngoài có tiếng xe cứu thương ngừng ở cửa, họ dìu Thông vào nhà, chàng sơ ý trong lúc làm việc nên bị máy tiện dập đứt một bàn tay đã băng bó xong từ bệnh viện Basscom trở về – Thông bước lần đến kêu Tùng dậy, chàng ngỡ ngàng khóc ngất , lá thư tuyệt mệnh của Tùng, trời ơi, em tôi !!! Tùng đã chết , tim đã ngừng đập, nước mắt còn ướt đẫm trên má trên mi , chan hòa trên ngực áo – Dung từ ngoài bước nhẹ vào như những lần nàng đi làm về sợ phá giấc ngủ của Tùng, hôm nay là lần đầu tiên nàng làm thêm giờ overtime vì hãng có nhiều hàng cần gấp – Dung nhìn thấy anh Thông đứng chết sững, Tùng thì nằm bất động, nước mắt ràn rụa trên thân người lạnh ngắt ! Lá thư kia… Dung chết lặng , xung quanh nàng bầu trời tối xẫm lại, nàng té xuống nền gạch và không còn biết gì nữa !

NPNA






Nguyenphanan
#46 Posted : Thursday, January 1, 2009 3:23:35 AM(UTC)
Nguyenphanan

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 536
Points: 0

TÌNH YÊU HAI MẶT
Tuỳ bút : Nguyễn Phan Ngọc An


Tiếng cười nói ồn ào ngoài cửa làm Quỳnh Châu thức giấc, đã 5 giờ chiều, sau cuộc hành trình vất vả nàng đã đến được nơi nầy – Người ta tiếp nhận nàng như một thượng khách, lo cho nàng ăn uống chu đáo và một căn phòng cho nàng nghỉ ngơi…Đêm qua Quỳnh Châu nhận được bức điện khẩn của Vũ gởi cho nàng, Châu quen vũ đã hai năm, chàng hiện là trưởng công an của huyện này – Thời gian quen nhau Vũ thường xuyên lái xe xuống thăm Châu vào cuối tuần rồi chở nàng đi xem phim, đi bát phố…Được điện tín Châu đã vội vã đón xe lúc 5 giờ sáng vậy mà đến mãi bây giờ cũng chưa thấy Vũ đến gặp nàng ! Quỳnh Châu cảm thấy hoang mang, một chút gì lo sợ trổi dậy trong óc nàng – Xưa nay Vũ rất đúng hẹn, chưa bao giờ để Châu chờ dù là một phút ! Không lẽ điện tín giả mạo ? và tại sao những người xa lạ này lại đối xử với nàng quá tốt ? Quỳnh Châu hồi hộp đợi chờ và suy nghĩ mãi không tìm ra câu giải đáp…
Tiếng xô cửa mạnh và Vũ bước nhanh vào, Châu mừng chảy nước mắt, chưa kịp trách người yêu câu gì thì chàng đã kéo vội Châu ra ngoài đẩy nàng lên xe rồi chạy rất nhanh về hướng trước mặt. Quỳnh Châu lo lắng nhưng thấy thái độ nghiêm trọng của Vũ nên lặng thinh không dám mở lời…Một lúc lâu Vũ mới nói :
- Em ạ ! Đêm nay là đêm quyết định tương lai và sự nghiệp của anh và em – Chúng mình sẽ đi vượt biên ngay đêm nay, tàu đang chờ chúng ta dưới bến. Anh mong em chấp nhận ra đi với anh và xuống dưới đó không nên hỏi han hay nói một điều gì ! Quỳnh Châu gật đầu mà nghe nghèn nghẹn trong ngực…tại sao Vũ không bàn tính trước với nàng ? vả lại Châu còn cha mẹ già ai chăm sóc ? xưa nay nàng không bao giờ nghĩ đến chuyện vượt biên, biết bao người đã vùi thây biển cả, biết bao người tan gia bại sản mang thân tù ngục ! Một chuyến mạo hiểm ngoài ý muốn của nàng, đến nước này rồi Châu không biết phải làm sao…nàng gượng gạo bước theo Vũ xuống ghe.
Màn đêm bao phủ, gió lạnh rít từng cơn, Vũ đưa cho nàng một áo lạnh và một xách tay hành lý rồi giao nàng cho một người đàn ông vừa bước đến – Châu nhìn Vũ ngạc nhiên, chàng cúi xuống hôn lên trán Châu và ra dấu lặng yên đừng hỏi. “ Em xuống tàu trước, anh thu xếp cho mọi người rồi xuống ngay” Vũ nói với Châu rồi biến nhanh trong đêm tối.

Tàu đã bắt đầu rời bến, Quỳnh Châu ngồi bó gối trong một góc tối, nàng không biết xung quanh nàng là ai chỉ thấy rất đông kẻ ngồi người đứng, ai cũng lặng im – Nàng đưa mắt nhìn lần cuối quê hương yêu dấu, nghẹn ngào chào biệt mẹ cha…Tàu mỗi lúc mỗi đi xa, quê hương của nàng đã mờ dần theo ngấn lệ !
Đã một tuần lênh đênh trên biển cả, thức ăn chỉ cầm chừng mà hình bóng Vũ thì biệt tăm, Quỳnh Châu buồn và cảm nhận một sự lừa dối ở Vũ ! Nhưng Vũ có lợi gì khi gởi nàng đi, chàng đâu có đòi hỏi tiền bạc hay chỉ vàng nào cả, vậy thì tại sao Vũ ở lại không đi với nàng?…
Tiếng reo hò inh ỏi của mọi người trên tàu cắt đứt dòng suy tư trong đầu Châu, một chiến hạm to lớn đang tiến dần đến gần tàu của Châu, nhưng rồi chiếc tàu lớn ấy đã lạnh lùng không cứu vớt đoàn người vượt biên ! Lần lượt trong năm ngày như thế, bảy chiếc tàu to lớn dửng dưng, tàn nhẫn không xót thương với những lời thống thiết van xin khóc lóc của những người trên tàu…Quỳnh Châu mất hết nghị lực và niềm tin, trước mắt nàng là cõi chết !
Lại tiếng người la lối hỗn độn, rồi những người đàn ông cởi áo vẫy túi bụi trên không, tàu của Châu đi đã đến gần vào một chiếc tàu đồ sộ, còn cách chừng 150 mét. Mọi người mừng rỡ, hy vọng tràn trề, đàn bà con nít nhao nhao cả lên như bầy ong vỡ tổ, đột nhiên chiếc tàu quay hướng băng ngang làm sóng đánh tràn vào ghe nàng đi, chiếc ghe trước lượn sóng to lớn đã hụp xuống biển sâu rồi lại trồi lên mặt nước, mọi người không ai còn hồn viá, nhìn nhau mặt mày xanh lét như bị sốt rét rừng kinh niên, khi chiếc ghe đã lấy lại được thăng bằng mọi người thở ra đánh phào vì đã thoát chết, một số đàn bà và trẻ con ói mửa lung tung, cảnh tượng ghê rợn giữa biển trời mênh mông, Châu rùng mình sợ hãi nghĩ thầm : “Sao họ ác thế, không cứu chúng tôi còn đánh sóng một cách bạo tàn cho chìm ghe chúng tôi, họ là người hay là loại thú không có lương tâm” chiếc ghe đang chòng chành trước sự kềm hãm hết sức lực của tài công, mười mấy ngày lênh đênh trên biển cả Quỳnh Châu chỉ thấy mỗi một người cầm lái và xoay sở mọi vấn đề trên ghe cũng như khi gặp sự việc bất trắc thình lình – người này không ai khác hơn là người đàn ông mà Vũ đã giới thiệu và gởi nàng lên ghe này…khi sóng lặng gió yêm nàng lân la tìm tới làm quen người đàn ông đang lái ghe :
- Thưa ông, xin ông cho Châu được biết quý danh, ông đã cho Châu cơ hội tìm tự do, một đời Châu không dám quên ơn ông.
- Không có gì đâu cô, người đàn ông vừa chăm chú lái ghe vừa trả lời nàng, tôi cầu mong cho tất cả chúng ta đến được bến bờ tự do, đó là tâm nguyện duy nhứt của tôi khi quyết định mua ghe rồi chấp nhận cả những việc mà chưa từng làm bao giờ như cô đã nhìn thấy mười mấy hôm nay đó…còn tên tôi, cô cứ gọi Năm Nhân là được rồi, mà tôi đâu đến nỗi già mà cô gọi bằng ông dữ vậy !
Quỳnh Châu trong lòng đã nể phục người có tài này, nay nghe những lời nói khiêm nhường nhã nhặn lòng đã thấy bồi hồi vui vui một niềm vui không rõ nguyên nhân…Châu ngồi xuống bên cạnh Năm Nhân hạ giọng :
- Bao nhiêu ngày lênh đênh trên biển cả, Châu thấy chỉ có một mình anh cầm lái và xông pha mọi việc, ngay cả chuyện ăn uống anh cũng quên luôn, chỉ hơn mười ngày trông anh khác hẵn buổi đầu tiên Châu bước lên ghe, chắc anh đang mệt lắm phải không ?
- Phải đó cô Châu, tôi mệt lắm, không riêng về sức khỏe mà lẫn cả tinh thần, tôi rất lo lắng cầm trong tay sinh mạng bao nhiêu con người mà tôi lại không phải là tài công, chưa từng làm hoa tiêu, trước sự việc bất đắc dĩ này, tôi phải liều mạng thôi, thú thật với cô đây là lần đầu tiên tôi lái ghe ra biển lớn vì tôi sắm ghe mới bốn tháng nay chỉ với hoài bão hôm nay nên cứ lẩn quẩn trong bờ đánh cá với hai cháu còn nhỏ xíu cho có lệ qua mắt bọn công an mà thôi…còn nghề hoa tiêu chấm hải bàn thì càng khổ cho tôi bởi tôi là sĩ quan pháo binh chuyên chấm tọa độ cho trọng pháo bảo vệ các tiền đồn, căn cứ trên đất liền – tôi chỉ cầu xin trời phật phò hộ tai qua nạn khỏi vì chúng ta đi giữa mùa giông bão lớn mà lại là lúc có lệnh ngưng cứu vớt người tỵ nạn trên biển dưới mọi hình thức của các nước trên thế giới – thôi thì cùng nhau cố mà cầu nguyện sự linh thiêng nhiệm mầu của đấng tối cao vậy. Nói xong chàng chỉ hai đứa cháu trai đứa đứng đứa ngồi trên sàn ghe :
- Đó, hai cháu kêu bằng cậu, đứa tên Sơn, đứa tên Phong con của đứa em gái – bốn tháng trời ba cậu cháu cực khổ vô biên trên nghề đánh cá vì có ai biết gì về nghề biển cả ghe tàu gì đâu, hôm tuần rồi lạc ghe khi tổ chức bị bể, tưởng hai đứa này và thằng Nghĩa chết đói ngoài biển rồi đó chứ !
- Anh Nhân, Châu thân thiện tâm sự với chàng : trên ghe này ngoài hai cháu kêu bằng cậu anh có còn thân nhân nào của anh nữa không ? nếu đã sắm ghe hẵn anh phải đem gia đình vợ con đi chứ, sao tư øngày đi đến nay Châu không thấy người nào săn sóc cho anh hết vậy ?

- Ồ ! chuyện đó dài dòng lắm cô Châu ơi, tôi đi với hai đứa con gái nhưng chúng đã bị bắt hết rồi vào hôm tổ chức tuần trước, đợt này tổ chức đi một cách khẩn cấp, hai đứa nhỏ còn đang kẹt trong tù nên tôi đành chấp nhận đi một mình với hai thằng cháu thuyền viên bé tí này thôi…
Quỳnh Châu bàng hoàng xót xa cho hoàn cảnh của anh Nhân, lòng đã quyết tìm hiểu về gia cảnh riêng tư của anh bởi trong Châu đang dâng lên một cảm tình rào rạt xen lẫn niềm trân quý anh Năm Nhân, người thanh niên mà suốt đoạn đường vượt biển đã cho nàng thấy rõ tài năng và tư cách của chàng.
- Châu có linh tính là anh đang buồn và cô độc, Châu cũng là kẻ bị bỏ rơi, người thanh niên gởi Châu lên ghe anh đã tàn nhẫn bỏ rơi Châu rồi, một chuyến ra đi Châu không hề biết trước, anh ta sắp sếp chủ động mọi việc mà cho tới hôm nay trên chiếc ghe định mệnh này Châu chẳng thấy anh ta đâu cả ?
- Cô Châu nói về Vũ đó hả ! anh ta đâu có đi vượt biên làm gì, anh ta là công an tổ chức bãi cho tôi mà, anh ta thường xuyên làm nghề này nên nghe đâu giàu kết sụ, có mấy tiệm vàng và sắp lấy vợ cũng con gái tiệm vàng…
Quỳnh Châu nghe nhói trong tim, thì ra Vũ đã gạt nàng, đưa nàng đi cho khuất mắt, khỏi làm chướng ngại vật để cản Vũ trong việc hôn nhân, đối xử với nhau như vậy sao ? Châu lẩm bẩm trong bụng, lòng dạ con người khó mà đo lường được, nhưng dù sao mình cũng cảm ơn Vũ đã giúp mình một lối thoát để không ngỡ ngàng cho cả hai nếu sự thật phũ phàng kia xãy ra ! Đời người con gái của Châu đã bị Vũ chiếm đoạt rồi, nàng yêu Vũ mà không hề nghi ngờ chàng một điều gì, nào hay đâu Vũ đã có sẵn mối tình song đôi, nào hay Vũ đang tính toán lợi hại trong tình yêu, đây cũng là dịp may cho mình, nếu mình ở lại quê hương thì ngày đám cưới của Vũ…mình sẽ ra sao ? phũ phàng nhục nhã nào hơn cho mình ! Nghĩ được điều này, lòng Châu nhẹ nhàng thanh thản, nàng phớt lờ như chẳng có tình cảm riêng tư gì với Vũ :
- Thì do thế mà anh ta không có ý vượt biên, thôi cũng cầu chúc anh ta tròn mộng ước, Châu mới quen anh ta nên không biết gì về cuộc đời riêng tư của anh ấy, cứ tưởng mọi người ai cũng thích ra đi tìm tự do, anh Nhân sao anh không kể chuyện riêng tư của anh cho Châu nghe với có được không, Châu muốn được chia xẻ cùng anh…
- À ! chuyện vợ con thê tử ấy nhắc lại chỉ làm đau lòng thôi, vì hoàn cảnh chiến tranh vợ chồng tôi phải xa nhau, hiện nay nàng ở Hoa Kỳvới hai đứa con của tôi, tôi có 4 cháu, 3 gái, 1trai…
- Nhưng anh có hy vọng ngày xum họp với chị không ? Quỳnh Châu tò mò hỏi.
- Tôi không rõ thế nào, tuy rằng trong lòng tôi lúc nào cũng hy vọng điều đó, vợ tôi là người đàn bà hiền hậu thủy chung, nàng rất thương tôi, nàng vẫn viết thư về nói là vẫn chờ đợi tôi và hai đứa con còn kẹt lại Việt Nam…Nhân trả lời Quỳnh Châu mà lòng nghe nghẹn đắng, chàng biết khi Mỹ Nương ra đi với người đàn ông khác thì không trông mong ngày xum họp với chàng, càng tệ hại hơn khi ông ta quen biết chàng, nhà ở cùng xóm với chàng, ông ta bỏ vợ con ở lại để ra đi với vợ chàng, thì chuyện đoàn viên e không thể có, mặc dù đôi lần Mỹ Nương viết thư về an ủi “ em vẫn chờ anh và hai con” !
Quỳnh Châu im lặng thở dài không hỏi nữa, bấy nhiêu đó đủ cho nàng thấy được chỗ đứng của nàng ở đâu rồi, chàng ra đi để xum họp người xưa đang chờ đợi, mình chỉ là hoài vọng chuyện mây bay gió thoảng, Châu dằn lòng để cố xem anh Nhân như một người anh, chuyến đi này nàng hoàn toàn cô độc khi đến bến bờ tự do, có một người anh kết nghĩa chả là quý lắm sao…Châu là người con gái nghị lực nên nàng không yếu mềm trước tình cảm, nàng cười tươi nói tiếp :
- Anh Nhân này ! hoàn cảnh em khi đến nước người không có một ai là thân quen, xin anh nhận Châu là em gái kết nghĩa, nếu anh bằng lòng em xin cảm ơn anh thật nhiều đã giúp em có niềm tin trên đường vượt biển.
- Gì chớ điều đó tôi chấp nhận ngay – Anh em mình đến xứ người chân ướt chân ráo ai cũng bơ vơ, có em gái cũng có miếng cơm ăn đỡ phải chui vào bếp phải không Châu ? Quỳnh Châu nghe mừng ran trong bụng không trả lời chỉ cười, như vậy là anh Nhân đâu có xum họp người xưa, chắc anh chàng đang dấu diếm sự thật não lòng rồi đây…nàng mĩm cười mãn nguyện và tự hứa không tìm hiểu chuyện riêng tư của anh Nhân nữa, nàng đã có niềm tin và hy vọng…
- Anh Năm ơi, có tàu lớn ở đàng xa đang tiến tới ghe mình, Long hốt hoảng vừa chạy vừa kêu to – Long là em vợ của chàng, tội nghiệp nó cũng vất vả lắm trong chuyến đi này, những ngày qua nước tràn vào ghe nó và các bạn trên ghe tát nước thay phiên, cứ 5 người này rồi thay 5 người khác tát nước liên tục, ghe đã cũ nên chẳng bảo đảm chuyện nước lọt vào các lỗ bị hư thủng khi bị sóng đánh tơi bời, mưa bão phủ đầy chiếc ghe chỉ 8 mét chiều dài, 2 mét rưỡi chiều ngang – Năm Nhân nghe Long báo tin như thế vội nhìn theo hướng Long chỉ, đúng là một chiếc tàu đồ sộ đang tiến thẳng hướng này, mọi người trên ghe nhốn nháo cả lên, đàn bà con nít khóc òa lên, đàn ông thanh niên vẫy vẫy túi bụi trên không những chiếc áo, những chiếc quần dài họ cỡi ra để vẫy, người chỉ còn vỏn vẹn chiếc quần đùi với thân thể ốm teo bởi mười mấy ngày lênh đênh đói khát…Nhân nhìn những thân hình đó mà thương hại, nhớ lại ngày ra khơi họ còn vạm vỡ, lúc gặp tàu quốc doanh chạy gần đến, Nhân đã dồn họ xuống hầm ghe với những bộ áo quần tươm tất, đâu như bây giờ…tàu quốc doanh nhìn sơ thấy ghe vẫn nổi, Nhân ngồi trên tay lái, đàng sau một thuyền viên đứng, Hiệp bị rớt lại vào giờ chót nên một số dầu cung ứng cho ghe và một số người bên cánh Hiệp không đi được, thành thử giờ xuất phát chỉ có khoảng 23 người tính luôn con nít và ¼ số dầu dự định nên chiếc ghe vẫn nổi trên mặt nước, nhờ đó mà thoát được chiếc tàu quốc doanh đang tuần tra bắt người vượt biên vì họ nghĩ chắc rằng đây là chiếc ghe đi đánh cá về đêm !
Chiếc tàu đồ sộ kia cũng tàn nhẫn không cứu giúp đoàn người tỵ nạn, đã đến thật gần rồi nó lại lách ra xa, Nhân đứng chết lặng buông cả tay lái, nước mắt chàng ứa ra, chàng phải làm sao đây nếu lần nầy không được vớt nữa thì tất cả sẽ bỏ mạng vì đói vì khát, vì bão giông, không còn lương thực, không còn dầu mỡ 2 ngày rồi, ghe cứ thả lều bều trên mặt biển bao la mưa bão đùng đùng ghê rợn ! Bỗng nhiên chàng ra lệnh đục thủng ghe cho nước tràn vô rồi xốc mạnh một đứa bé giơ nó lên cao trên không, Nhân la lớn bằng tiếng Anh :
“ Xin các ông hãy bắn tôi chết đi, tôi không thể đứng nhìn thân nhân của tôi từ từ chìm sâu dưới lòng đáy biển, hãy bắn tôi đi, hãy bắn tôi đi” – Đứa bé la toáng lên khi bị nhấc bổng lên cao và khóc thét, nước đã tràn vào trong ghe…thế là hết…Quỳnh Châu nhắm mắt lại chờ thần chết đưa xuống biển sâu ! Nàng không ngờ đời nàng kết thúc đau thương đến thế !!!
- Họ cứu chúng ta rồi, mau leo lên thang, mau lên ! tiếng la lớn của anh Nhân, Châu mở bừng mắt ra, từng người một vội vã leo lên chiếc thang giây do chiếc tàu to lớn thả xuống, thì ra họ vẫn còn lòng nhân đạo trước hiểm nguy của kẻ khác…Quỳnh Châu bật khóc nức nở bám chặt thang giây…

Vào đảo được 3 tuần thì anh Nhân và hai cháu được chính phủ tách riêng ra theo diện Sĩ Quan QLVNCH tỵ nạn Cộng Sản, từ đó Quỳnh Châu không còn gặp được anh Nhân – Quỳnh Châu buồn lắm, tưởng qua xứ người sẽ được kề cận anh Nhân, cơm nước cho anh như lời anh đã nói với nàng khi còn lênh đênh trên biển cả, đúng là “tính trước bước không tới” – dù không còn gặp anh, nhưng trong lòng Châu vẫn thấy như luôn gần gũi một con người Châu kính phục, anh đã tài ba lèo lái con tàu vượt tử thần, làm tài công, làm hoa tiêu, mưu trí đục thủng tàu, nói tiếng Anh lưu loát…cứu sống bao nhiêu sinh mang, người như thế mà sao ơn trên không cho nàng diễm phúc hầu hạ ? rồi những ngày dài lê thê sắp tới, cuộc đời nàng sẽ trôi dạt về đâu, nàng có quên được anh không ? nàng cầu xin dù ở đâu anh vẫn được ơn lành bù đắp, anh nhân hậu, anh tài ba xứng đáng được hưởng những gì may mắn nhất của kiếp người trên dương thế…
Một năm sau Quỳnh Châu được nhận vào Mỹ, nhờ có chút vốn Anh Văn, nàng đi làm cho một văn phòng ngoại giao của chính phủ Hoa Kỳ – Nơi đây nàng đã gặp Luật, chàng là Tiến Sĩ Kinh Tế bộ Ngoại thương Hoa Kỳ, Luật du học từ năm 1973 nên chàng không hiểu được những đau thương mất mát của quê mình ! Luật càng yêu quý Châu hơn khi nghe nàng kể lại cuộc vượt biển của nàng, nàng không quên nhắc đến anh Nhân với cả sự quý trọng mang ơn và kính phục, Luật bồi hồi mong ước sẽ có ngày được gặp ân nhân nơi miền đất bao la này.
Cho dù có tình cảm mới, Châu vẫn không quên cha mẹ, vẫn chưa quên Vũ, nàng định một chuyến về quê ở lại ăn tết một tháng – Châu đã mua vé máy bay từ tháng trước, nàng cũng đã chuẩn bị một ít quà cho cha mẹ và cho cả Vũ cho dù Vũ đã phụ nàng…
Về đến quê xưa Châu mới biết Vũ đã lấy vợ, chàng lấy cô con gái nhà giàu và Vũ có hai tiệm bán vàng – Châu dò hỏi được biết sau nhiều chuyến Vũ đứng ra tổ chức cho người vượt biên Vũ đã giàu có lớn, và ngay sau ngày Quỳnh Châu đi được hai tuần Vũ đã cưới vợ, đám cưới thật lớn tổ chức nhà hàng đến 3 ngày ba đêm, đám cưới xong Vũ xin giãi ngũ không làm công an nữa…Châu nghe tin này chỉ biết mĩm cười chua chát trong lòng…
Quỳnh Châu trở về Mỹ sau một tuần thăm mẹ cha, nàng quyết định lấy Luật, nàng không còn điều gì ray rứt lương tâm khi biết rõ Vũ đã phụ nàng ! hạnh phúc đang chờ đón nàng, Châu tin tưởng rằng Luật là người trí thức cao hẵn chàng sẽ khác xa Vũ…chàng sẽ không bao giờ bán rẻ lương tâm vì vật chất, nàng sẽ có một đám cưới thật rỡ ràng, nàng sẽ là cô dâu đẹp nhất và hạnh phúc nhất trên thế gian này…nàng sẽ qua đài phát thanh, qua báo chí tìm cho được anh Nhân, ân nhân muôn thuở của nàng, đám cưới nàng anh Nhân sẽ đứng chủ hôn vì Luật du học nên cũng không có thân nhân ruột thịt, còn gì vui hơn, sung sướng hơn với những ý nghĩ miên man thú vị trong đầu, Quỳnh Châu cười mãn nguyện, nàng không thấy oán hận Vũ nữa mà trái lại cảm ơn Vũ đã vô tình cho nàng một tương lai tươi sáng, một hạnh phúc bất ngờ…Tết năm nay mới thật sự là một cái tết hạnh phúc nhất của nàng mà bao năm Quỳnh Châu hằng mơ ước …

NPNA



Nguyenphanan
#47 Posted : Wednesday, January 7, 2009 7:35:10 AM(UTC)
Nguyenphanan

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 536
Points: 0

TRẦN NHÂN TÔNG

Nhà Trần kể từ Ðức Thái Tông tới vua Anh Tông, là một giai đoạn lịch sử cường thịnh nhất trong dòng sử Việt. Vua thánh tôi thần, nên đã lập được nhiều chiến công hiển hách oanh liệt nhất, qua ba lần đuổi đánh quân Nguyên-Mông ra khỏi bờ cõi Ðại Việt. Năm Tân Sửu 1301, Thái Thượng Hoàng Trần Nhân Tông khi du ngoạn tại Chiêm quốc, có hứa với vua Chế Mân là sẽ gã Huyền Trân công chúa cho người nhưng triều đình, nhất là Vua Anh Tôn không tán thành, nại lý do xa xôi diệu vợi lại thêm phong thổ và tập quán khác biệt giữa hai dân tộc, nên không muốn đưa em gái mình tới miền đất lạ. Cuối cùng vua Chiêm phải dâng hai châu Ô và Lý, làm sính lễ mới được chấp thuận.

Tháng 6 năm Bính Ngọ (1306) Huyền Trân lên đường sang Chiêm quốc khi nhà Trần đã tiếp nhận miền đất trên và đổi thành Thuận-Hóa cũng là các tỉnh Quảng Trị,Thừa Thiên và phần đất cực bắc của Quảng Nam ngày nay. Dù thời gian có đổi thay và bia lời nọc rắn của vài kẻ đố kỵ ganh hờn vẫn còn kéo dài chưa dứt, lại không ngớt đặt chuyện trách chê biếm nhẽ, nhưng muôn đời Trần Huyền Trân, cũng vẫn là một anh thư nước Việt và trên hết, câu chuyện tình tay ba giữa Huyền Trân-Khắc Chung-Chế Mân, nếu có cũng là một huyền thoại diễm tình nhất trong những mối tình đẹp có máu lệ, của những phụ nử phi thường đất Việt, mà mở đầu là mối tình đắm đưối của Trọng Thủy-Mỵ Châu,tới nay ai cũng muốn nhắc, cho dù chỉ đề thương sầu và tiếc hận cho tha nhân hay chính mình.

Xưa nay tình là cái gì, chẳng qua cũng chỉ là những niềm đau đứt ruột , nên ta sao dám trách tiền nhân, vì có ai trong chúng ta đã thoát được nợ tình ?

‘ Người đến đó rồi đi vào thiên cổ
bỏ trơ ta với nguyện ước mùa xuân
cuộc tình hờ e ấp lắm bâng khuâng
nay thoáng chốc thành tình sầu cô quạnh ..

Ôi đau đớn trót sinh nhằm thế kỷ
nên cho dù có đắm đuối hiến dâng
người là hoa ta đâu dám lại gần
chỉ vĩnh cửu ôm tình hờ bước vội .. ’ ’

Cũng theo sử liệu còn ghi, thì phần đất ranh giới giữa hai nước Chiêm Việt lúc đó tức là các quận Hiệp Ðức, Ðại Lộc thuộc vùng tây bắc tỉnh Quảng Nam trước tháng 4-1975, nay VC gọi là huyện Hiên, huyện Giằng.. núi non trùng điệp hiểm trở, sông suối thác ghềnh chảy xiết nhưng lại có các đặc sản là trái bòn bon ngon ngọt, rừng quế và bến Giằng (Thạnh Mỹ) với câu chuyện diễm tình liên quan tới Huyền Trân Công Chúa.

Truyện kể rằng trước khi về kinh đô Ðồ Bàn (Bình Ðịnh) để làm lể sánh phong hoàng hậu Chiêm quốc, Huyền Trân cùng đoàn tùy tùng phải tới thánh địa Trà Kiệu (Quảng Nam) để tương kiến với quốc vương Chế Mân đang đợi theo nghi thức tôn giáo. Thuở đó sự giao thông đường bộ rất khó khăn, nhất là trên các thượng đạo chênh vênh hiểm trở. Khi trời sắp vào chiều thì mọi người tới một bến sông nước trong xanh vắt, công chúa muốn dừng kiệu để nghĩ nên mới biết, đây chính là phần đất cuối cùng thuộc hai châu Ô Lý vừa được nhập vào Ðại Việt.

Cảm khái trước cảnh sông núi muôn trùng, càng làm tăng thêm nổi nhớ nhà xa nước. và trên hết làợ phận gái lênh đênh nên nàng đã khóc thầm, làm cho những giọt lệ thương hận sầu tủi kia đã từ trên đôi má phấn vô tình rớt xuống dòng sông. Nhưng cũng thật lạ lùng vì nó đã không hòa tan vào dòng sông mà lại chìm sâu dưới đáy nước, kết tinh thành một viên hồng ngọc, để rồi hằng đêm nổi lên soi sáng một góc rừng lặng vắng. Bến sông này từ đó được gọi là bến Giằng, diễn tả sự bịn rịn thảm thê của nàng công chúa nước Việt, trước khi bước chân xuống thuyền qua sông, coi như vĩnh viễn đoạn lìa cố quốc.

Ngoài ra huyền thoại còn ghi rằng mùi hương từ mái tóc dài óng mượt của công chúa, theo gió ngàn phương bay vào khu rừng mông mênh trước mặt, làm nẩy sinh ra mõr giống cây đặc biệt có hương vị lạ đời nên được gọi là quế. Sau đó Huyền Trân trở thành hoàng hậu Chiêm quốc với mỹ danh Paramervan rất được vua yêu dấu, nuông chìu nên đã cho người ra tận biên giới xứ Quảng đốn gổ quế mang về kinh đô, đẻo thành đôi guốc để nàng mang trị chứng bệnh phong thổ trong suốt thời gian ‘ nước non ngàn dặm ra đi ‘.

Tóm lại từ năm 1306, cũng nhờ có cuộc hôn nhân trên với món sính lễ ‘ vuông ngàn dặm ‘ mà phên dậu của Ðại Việt lên được tới đỉnh Hải Vân Sơn cao ngất sát biển đông. Và Huyền Trân cũng là người con gái đầu tiên của nước Việt đã qua cửa ải ngăn cách giữa hai nước để theo chồng.

1-TRẦN NHÂN TÔNG :

Sinh năm 1258 trong giai đoạn đất nước vừa trãi cuộc chiến th?m khốc lần thứ nhất với giặc Mông Cổ. Ông là con trai của Thánh Tông, được lịch sử đánh giá là một minh quân thánh chúa, tài kiêm văn võ, trí thức uyên bác lỗi lạc nhất là tài ngoại giao uyển chuyển được thể hiện qua bài thơ viết năm 1289 để tặng sứ thần nhà Nguyên tên Lý Tự Diễn ‘ Tịch hiệp thiên hà tẩy chiến trần, thắng như cầm điện ngũ huyền huân ‘.Nhờ vậy nhà vua đã lảnh đạo quân dân đánh bại được hai trong ba cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ vào các năm 1285 và 1288. Thắng được quân giặc được xem là mạnh nhất thế giới vào lúc đó, đã là một chiến công kinh thiên động địa của Ðại Việt. Rồi phải làm sao để không làm chạm đến tự ái của đế quốc thực dân phương bắc, thì còn khó hơn gấp vạn lần nhưng cuối cùng vua Nhân Tông cũng xoa dịu được lòng tham của Hốt Tất Liệt nhờ sự mềm mỏng khôn khéo ngoại giao.

Có lẽ trong giòng sử Việt, không có vị vua nào có thể sánh nổi Trần Nhân Tông về lòng Nhân và đức Trí, Dũng song toàn, nhân từ với thần dân trong nước kể cả những người có tội, vị tha với kẻ thù vừa quyết đấu tử sinh nay ngã ngựa. Ngoài ra nhờ đã cùng vào sinh ra tử với quân dân trong hai cuộc chiến, nên nhà Vua cũng đã nhìn thấy sự quan trọng của vùng phên dậu biên giới phía Nam với Chiêm Thành. Vì vậy dù đã nhường ngôi cho vua Anh Tôn giữ chức Thái Thượng Hoàng nhưng Ngài vẫn hết lòng lo toan việc nước, bôn ba khắp nơi để thấu triệt tình hình. Cuối cùng đã nhận lời gã Huyền Trân Công Chúa cho vua Chế Mân để tạo nên mối tình thân như các vị vua đời Lý cũng đã làm từ trước, khi đem các công chúa Việt gã cho các vị tù trưởng Mường, Thái, Nùng.. ở thượng du. Nhờ đó mà vùng này bao đời đã trở thành phên dậu kiên cố của Ðại Việt ngăn chống quân xâm lăng phương bắc.

Lịch sữ Việt đã gọi cuộc phiêu du nam phương của Trần Nhân Tông là bước chân kỳ diệu dù rằng sự hy sinh của nàng công chúa đất Việt là nổi đau rĩ máu nát lòng nhất của vị vua nhân từ . Nhưng tất cả cũng chỉ vì lịch sử mến yêu của nước Việt mà phải hy sinh to lớn để đổi lấy sơn hà, nhờ vậy ta mới có được Huế và Sài Gòn hôm nay. Sau này, Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên cũng noi theo tiền nhân, hy sinh cả hai người con gái cưng là Ngọc Vạn và Ngọc Khoa để đổi lấy con đường an toàn cho dân Việt từ Thuận Hóa tới Mũi Cà Mâu dựng nghiệp và mở nước, công đức được sử xanh truyền tụng và ghi nhớ đời đời.

+ VUA CHẾ MÂN :

Ðọc Việt sử, tới những trang viết về cuộc tình của Huyền Trân công chúa và vua Chế Mân,
thường thấy bên lề câu chuyện chính sử, có kèm theo những câu ca dao không rõ xuất xứ ,

‘Tiếc thay cây quế giữa rừng,
để cho thằng Mán, thằng Mường nó leo
tiếc thay hạt gạo trắng ngần,
đã vo nước đục, lại vần lửa rơm.’

Thực tế không thấy chính sử nào đề cập tới chuyện tình giữa công chúa Huyến Trân và quan Nhập Nội Hành Khiển Thượng Thư Tả Bộc Xạ Trần Khắc Chung, mà toàn là lời đồn bên lề. Chắc là vậy, cho nên thời tiền chiến, đả có một nhà văn viết cuốn tiểu thuyết dã sử ‘ cánh buồm thoát tục’, nói về câu chuyện tình lãng mạn trên. Mới đây trên báo chí VC năm 1995, có Nguyễn Nhân Thống viết bài, nói vua Chế Mân bị bệnh phong lác, nên đã có tên là vua Lác qua tên Chàm là Po Klong Giray (1151-1205). Ðây là một sự lầm lẫn vô tình hay giả vờ quên có ác ý, với mục đích đổ dầu vào lửa, làm sống lại một niềm đau quá khứ mà chẳng ai muốn . Theo sử liệu, vua này sinh trước vua Chế Mân hơn một thế kỷ, và nổi danh là mốt đấng minh quân của Chiêm Thành. Ngài đã xây dựng Ba Tháp và Ðập Nha Trịnh, trên sông Dinh tại Phan Rang, tỉnh Ninh Thuận ngày nay.

Cũng căn cứ vào sử liệu, ta biết vua Chế Mân có tên là Harijit, con vua Indravarman đệ ngủ, hiện gia phả của dòng họ này, còn thấy khắc trên văn bia Ðông Dương I và II, tại tỉnh Quảng Nam ( Trung Phần ) như sau : ‘ Triều đại UROJA, Paramxvara sinh Uroja ố Dharmaraja ố Rudravarman ố Indravarman ố Jaya Indravarman ố Jaya Sinhavarman, tức thế tử Harijit hay vua Chế Mân ố sinh Chế Chi, Chế Ðà A Bà Niêm và Chế Ða Ða ( con Huyền Trân).

Theo Việt sử, tháng sáu năm Aãt Mùi (1295), Thái thượng hoàng Trần Nhân Tông đi tu, sau khi nhường ngôi vua cho con là Anh Tôn. Tháng tám năm Kỷ Hợi (1299), Ngài vào núi Yên Tử, sống đời khổ hạnh và trở thành Tổ của Thiền phái Trúc Lâm, đạo hiệu Trúc Lâm Ðại Sĩ. Việc vua Trần Nhân Tông hứa gã công chúa yêu quý nhất của Ngài cho vua Chế Mân, cũng không ngoài việc ‘ anh hùng trọng anh hùng’, qua cái tư cách hào hoa mã thượng của nhà vua trẻ này, đã thể hiện vào năm 1283, vua Chế Mân đã lãnh đạo quân dân Chiêm quốc chống lại quân Mông Cổ khi chúng xâm lăng nước này. Chinh vua Trần Nhân Tông đã tăng cường, 2 vạn quân và 500 chiến thuyền sang giúp Chiêm Thành trong lúc đó.

Do tình cảm gắn bó tốt đẹp trên , nên khi Thượng Hoàng cùng với đoàn tăng lữ sang tham quan và nghiên cứu tình hình tôn giáo của nước này, được dịp chứng kiến hành động của vua Chế Mân, khiến ngài quý trọng mới chịu gã Huyền Trân. Theo sử, thì tháng 2 Aãt Tỵ (1305), sứ bộ nước Chiêm do sứ thần Chế Bồ Ðài tới Thăng Long, dâng lễ cầu hôn, tháng 6 năm Bính Ngọ (1306) thì gã công chúa Huyền Trân. Nói tóm lại, qua con mắt của Trúc Lâm Ðại Sĩ, việc gã công chúa Huyền Trân cho vua Chế Mân là xứng đáng vì nhà vua là bậc anh hùng thời đại, chứ không phải thằng Mường hay Mán, cũng không phải là lửa rơm hay nước đục gì cả. Ngoài ra hiện nay có ít người không biết dựa vào nguồn sử liệu nào, đã kết tội cho nhà Trần là đem Huyền Trần gã cho Chế Mân, mục đích chỉ để chiếm đất đai của người Chàm. Họ quên là lúc đó, Ðại Việt rất hùng mạnh, kể cả đế quốc Nguyên Mông vô địch thế giới, nhưng khi đến nước Nam, cả ba lần đều bi đánh tan. Như vậy lúc đó, trong sức mạnh xẽ núi đó, quân Việt nếu có lòng xâm lăng cướp đất lân bang, liệu người Chiêm chống giữ nổi hay không ?

Về việc bia miệng căn cứ chuyện Khắc Chung cứu Huyền Trân, sau đó gần một năm mới về nước, mà cho rằng hai người đã tư thông. Chuyện này đến nay vẫn là huyền thoại vì chính sử không hề nhắc tới. Theo sử liệu, trong phái đoàn sang Chiêm Thành giải cứu công chúa Huyền Trân lúc đó, rất đông đảo, ngoài Chủ tướng họ Trần còn có An phù sứ Ðặng Vân..

Phương chi, Thượng tướng Trần Khắc Chung là một người rất có danh vọng đời Trần, ông còn là một thiền sư, đã từng đề bạt cho tập ‘ Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục’ do nhà sư Pháp Loa biên tập, vua Nhân Tông hiệu đính. Bao nhiêu đó đủ thấy đạo đức của ông, vì vậy sau khi về triều, Trần Khắc Chung vẫn được từ vua tới dân chúng kính nể ngưỡng mộ, qua các triều Anh Tông, Minh Tông. Sau rốt theo sử, cho biết vua Anh Tông rất nghiêm khắc, nếu quả thật Trần Khắc Chung tư thông với Huyền Trân, làm nhục quốc thể Ðại Việt, liệu ông có thoát được sự trừng phạt của triều đình lúc đó, như thượng phẩm Nguyễn Hưng, chỉ can tội đánh bạc, mà đã bị vua Anh Tôn ra lệnh đánh chết vào tháng ba năm Bình Thân 1296.

+ HẢI VÂN QUAN :

Từng được nổi danh là ‘ thiên hạ đệ nhất hùng quan ‘ và được sáp nhập vào lãnh thổ Ðại Việt vào năm 1306 nhờ cuộc hôn nhân giữa Công Chúa Huyền Trân và Vua Chế Mân. Hải Vân Quan nằm trên cao độ 1192m sát biển Ðông. Sự kiện lịch sữ này đều được ghi trong các tài liệu cổ như Dư Ðịa Chí của Nguyễn Trãi (1438) , Thiên Nam Du Hạ Tập thời Hồng Ðức (1470-1494), Ô Châu Cận Lục của Dương Văn An (1555) , Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quý Ðôn (1776) và Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí của Phan Huy Chú (1821).. đều mô tả sự hùng vỹ với độ cao tới tận mây xanh và tiếp liền với biển cả, cho thấy tầm mức quan trọng của một biên ải từng ngăn chận bước tiến của quân Việt trên đường về phương nam.

Về địa thế của Hải Vân Sơn, căn cứ vào các bản đồ xưa như Thiên Nam Tứ Chí Lộ Ðồ Thư (1630-1653) , Giáp Ngọ Niên Bình Nam Ðồ (1774) và sách Hoàng Việt Nhất Thống Dư Ðịa Chí (1806) của Lê Quang Ðịnh .. đều có ghi Ải nằm trên đường quan lộ Bắc-Nam. Ðây là nơi đã tạo rất nhiều cảm hứng cho các danh nhân qua nhiều thời đại như Lê Thánh Tôn (1471) , Chúa Nguyễn Phúc Chu (1719).. Tuy nhiên Hải Vân Quan thời trước được xây dựng rất sơ sài, mãi tới năm 1826 đời vua Minh Mạng, ải mới được kiến trúc kiên cố và hùng vĩ. Tất cả đều được ghi lại trong các sách Ðại Nam Thực Lực, Minh Mệnh Chính Yếu và Ðại Nam Nhất Thống Chí của Quốc Sử Quán Triều Nguyễn.

Thời Pháp thuộc đã cho phá hủy một đọan đường dài trên quan lộ xuyên Việt để làm quốc lộ 1 không còn chạy qua cửa ải theo con đường cũ cao chót vót trên đỉnh núi. Tóm lại Ải Hải Vân Sơn còn lại ngày nay là một công trình được xây dựng từ thời vua Minh Mệnh. Nhưng cái nền cũ của Ải đã có từ bao đời, hằng in đậm bước chân của tiền nhân mang gươm đi mở cõi. Trong số đó có một người con gái Việt mang tên Huyền Trân. Năm 1859 liên quân Pháp-Y Pha Nho do Rigault de Genouilly và Théodore Francois Page chỉ huy, trên đường từ Ðà Nẳng ra Huế, đã bị quân Việt chận đứng tại Ải Hải Vân. Vị tướng chỉ huy lúc đó là Phạm Văn Nghị đã cảm hứng viết ‘ Ải mây trên vách đá sừng sững, công tích ghi truyền muôn đời sau ‘.

+ THÀNH LỒI : Tên gọi một lũy đất nàằm trong địa phận hai xã Thủy Xuân và Thủy Biều lấn sang một phần Phương Ðức, cách cố đô Huế về hướng tây-nam khoảng 7 km. Từ ngày 17.5.1996 VC tại Huế đặt tên cho đoạn đường chạy ngang qua đây là Huyền Trân Công Chúa, còn đường Huyền Trân cũ trước tháng 4-1975 thì đổi thành Bùi Thị Xuân.

Tới nay vẫn chưa có ai giải thích được xuất xứ của ‘ tên thành Lồi ‘ kể cả học giả người Pháp là Léopold Cadière (1892-1955) và sử gia Tạ Chí Ðại Trường qua bài viết đăng trên tap chí Sử Ðịa số 17-18 xuất bải tại Sài Gòn 1970..

Cuối cùng cũng vẫn là miệng đời được lưu truyền trong vùng này tới nay vẫn được người ta nghe qua rồi kể lại câu chuyện có liên quan tới cuộc tình của Huyền Trân và vua Chế Mân bắt nguồn từ năm 1306 với món sính lễ là hai châu Ô và Lý. Miền đất này được Trần Anh Tôn sai tướng Ðoàn Nhữ Hài tới tiếp nhận và đổi tên là Thuận-Hóa năm 1307.

Cũng trong năm này vua Chế Mân đột nhiên qua đời và theo phong tục Chiêm Thành, thì hoàng hậu lẫn phi tần phải lên giàn hỏa để chết theo vua. Do đó vua Anh Tôn đã sai tướng Trần Khắc Chung cầm đầu phái bộ qua nước này mượn cớ phúng điếu và cứu được Huyền Ttân đem về Thăng Long. Ðiều này đã làm cho người Chàm tức giận nên tân vương là Chế Chi (Java Simhavarman IV) cử 5 vạn binh mã do một tướng lãnh tên Lồi chỉ huy đánh chiếm lại hai châu Ô và Lý đã dâng hiến cho Ðại Việt.

Nhưng quân Chiêm đã bị chận lại bên này bờ sông Trong (sông Hương ngày nay) bởi quân Trần do Ðoàn Nhữ Hài chỉ huy. Hai bên cầm cự bất phân thắng bại nên tướng Lồi của Chiêm Thành đề nghị hưu chiến với thỏa ước ‘ mỗi bên phải xây ngay trong đêm một biên thành để chứng minh chủ quyền ‘.Ai thua phải rút quân về nước để tránh cảnh sinh linh đồ thán. Cuối cùng nhờ mưu trí nên chỉ trong một đêm Ðoàn Nhữ Hài đã dựng được một tòa thành đồ sộ cao ngất bằng gạch vôi, có cả cổng chính và phụ với cờ xí cắm đầy. Người Chiêm buồn rầu chấp nhận thua trận và rút quân về nước.

Thật sự thì ngôi thành mà Ðoàn Nhữ Hài đắp vội trong đêm chỉ làm bằng phên tre được sơn phết trang hoàng như thật. Riêng ngôi thành của người Chiêm đắp bằng đất ở mạn nam sông Hương nay vẫn còn dấu tích và được địa phương gọi là thành Lồi, nằm kế bên một hồ nước lớn có ngôi miễu thờ Long Vương hay điện Voi Ré, bên kia là đồi Long Thọ.

Câu chuyện truyền khẩu trên đã được Nguyễn Chí Thành sưu khảo viết bút ký đăng trên tập san Khai Trí Tiến Ðức số 4 xuất bản tại Hà Nội năm 1941 (Gốc tích Thành Lồi ở Huế) . Sau này Nguyễn Ðổng Chi (1915-1984) đã dựa vào tài liệu trên để viết ‘ sự tích thành Lồi ‘ trong tác phẩm ‘ kho tàng truyện cổ tích VN ‘.Theo tài liệu còn ghi trong Dại Nam Nhất Thống Chí ‘ vào năm 1833 vua Minh Mệnh cho xây một ngôi miếu tại Thành Lồi để thờ cúng các vị vua Chiêm Thành, thường niên đều cử các quan hàng tam phẩm tới tế lễ. Ngôi miếu trên đã bị thực dân Pháp phế bỏ năm 1911 khi mở các trục lộ giao thông xuyên qua vùng này nhưng bị dân chúng Việt lẫn Chàm phản đối kịch liệt, nên tòa khâm sứ Huế phải xây lại một ngôi miếu mới cũng gần đó và tồn tại tới năm 1945 ..

2–HUYỀN TRÂN CÔNG CHÚA VỀ CHIÊM QUỐC :

Sử đã kể lại cuộc tiễn đưa Huyền Trân công chúa về Chiêm quốc làm vợ vua Chế Mân, thật long trọng. Từ kinh đô Ðại Việt đến Bến Ðông Bộ Ðầu, cờ xí rợp trời, hai bên đường người đứng xem đông nghịt.

Dẫn đầu là sứ bộ Chiêm Thành, kế đó là kiệu hoa của công chúa, bên tả là kiệu của Văn Túc Vương Trần Ðạo Tải, bên hữu là kiệu của Thượng tướng Trần Khắc Chung, tiếp theo là Trí Khu Mật viện Sự Ðoàn Nhử Hài, Trạng Nguyên Mạc Ðỉnh Chi, Hoàng Giáp Nguyễn Trung Ngạn. Ðoàn tuỳ tùng gồm các quan văn võ và hoàng gia theo đưa tiễn, trên ngàn người. Riêng dân vì lòng mến mộ một vị công chúa vì nước hy sinh, lại có đức hạnh và nhan sắc thiên kiều bá mỵ, nên nô nức rủ nhau đi xem đông không kể xiết.

Dù cố gat lệ trước mặt những người đưa tiễn, nhưng công chúa cũng không sao cầm lòng nổi khi bước chân xuống thuyền, nên nàng chỉ còn biết đưa tay vái lạy,non nước và đồng bào trong giờ vĩnh biệt. Người sau cảm thông nổi niềm cay đắng của một kiếp hoa vì nước quên mình, nên đã trút cạn lòng mình trong lời ca bi thiết của điệu Nam Bình :

‘Nước non ngàn dặm ra đi,
Mối tình chi
Mượn màu son phấn
Ðền nợ Ô Ly
Xót thay vì
Ðương độ xuân thì.. ’ ’

Và rồi một phát pháo hiệu nổ vang, tiếp theo là hàng chục ánh pháo bông tỏa sáng khắp bầu trời. Ðoàn thuyền căng buồm rời bến. Trong khoang thuyền, công chúa ngồi giữa hoa trầm thơm hương ngào ngạt nhưng hồn thì như đã gởi tận ngàn phương. Bên tai, tiếng cha già căn dặn vẫn còn văng vẳng :’ Ðây là cuộc tình ngoại giao, con phải cố làm sao giữ hòa khí giữa hai nước và trách nhiệm làm làm vợ đối với Chế Mân ‘.Thuyền ra khỏi cửa biển Ðại Hoàng vừa lúc hoàng hôn ập xuống bao trùm vạn vật. Người buồn gặp cảnh càng buồn hơn, làm ai có thể ngăn được lệ, huống chi là một công chúa đa sầu ?

Thật ra nhiệm vụ của Huyền Trân hoàn toàn khác xa với lần đi cống Hồ của Chiêu Quân hay Trần Hạnh Nguyên. Công Chúa lấy chồng vì trách nhiệm với đất nước, vừa đem về bờ cõi thêm hai châu Ô-Lý, vừa kết thân với Chiêm Quốc làm thành thế phên dậu, chống giặc Mông-Nguyên phương bắc. Thế nhưng thiên hạ cứ vô tình, mai mỉa, ngay cả hoàng tộc cũng không tha

‘ hoài công mà gã chồng xa,
trước là mất giỗ, sau là mất con.. ’ ’

Sáng hôm sau, trong khi đoàn thuyền hoa còn đang lênh đênh trên biển, thì bổng vang lên một tiếng pháo lệnh thật lớn, thì ra đoàn thuyền rồng của vua Chế Mân ra tận biển rước công chúa. Khi hai đoàn thuyền xáp lại gần nhau, bên thuyền Hoàng gia Chiêm Thành trống kèn, đàn sáo vang lên rộn rã. Trong lúc đó, đoàn thuyền của Ðại Việt cũng đốt pháo mừng, xác pháo theo gió bay đỏ cả mặt biển. Hòa thượng Du Già, trong bộ áo cà sa màu vàng, đội mũ hoa sen, đứng trước mũi thuyền rồng, đại diện cho vua Chế Mân, tiếp kiến Hòa thượng Minh Thái, đại diện cho vua Trần Anh Tôn của Ðại Việt. Sau đó hai đoàn thuyền song song tiến vào đất liền, nơi biên giới giữa hai nước.

Thuyền cập bến, cũng vừa lúc vua Chế Mân từ kiệu vàng tiến lại. Nhà vua cao lớn, mình vận áo bào trắng, quần che cũng màu trắng, ngoài khoắc áo giáp đan bằng sợi vàng, chân mang hia đen thêu chim thần Garuda. Ngang ngực thắt đai ngọc, lung lẳng bên hông là một thanh bảo kiếm khắc hình thần Ganesa đầu voi mình người, võ kiếm bằng vàng, chuồi kiếm bằng ngà voi nạm hồng ngọc. Ðầu đội mũ trụ bằng vàng, chóp nhọn, trên đỉnh nạm một viên ngọc quí to bằng trứng chim sẽ, luôn luôn tỏa ánh sáng bảy màu.

Vua còn trẻ, da màu nâu sạm nhưng cốt cách thanh kỳ, toát lên cái vẽ hào hoa phong nhã của một quân vương đa tình, đa cảm. Bên này, Huyền Trân e ấp chấp tay khép nép chào nhà vua bằng tiếng Chàm, khiến vua sững sờ không ngờ một nàng công chúa Ðại Việt , lại thông thạo tiếng nước mình một cách trôi chảy. Rồi cả hai sóng đôi bước về phía kiệu đang chờ, giữa tiếng hô chào vang dậy của thần dân Chiêm quốc, dành cho một hoàng hậu người Ðại Việt. Trước hương án nghi ngút khói hương nơi vùng biên tái, có sự chứng kiến của Hoà thượng Minh Thái, bên cạnh công chúa Huyền Trân, quốc vương Chiêm Thành là Chế Mân dõng dạc tuyên bố sẽ dâng hai châu Ô-Lý cho Ðại Việt như lời hứa để làm sinh lễ cưới công chúa Ðại Việt, phong cho công chúa Huyền Trân làm hoàng hậu Chiêm quốc, tên hiệu là Paramervan, cùng với hoàng hậu Tapasi, cả hai đều làm mẫu nghi thiên hạ.

Tương truyền, khi còn cầm quyền, vua Chế Mân đã lập vườn Mai Uyển ở Cà Ná, ranh giới giữa Ninh và Bình Thuận. Tại đây, vua cùng hoàng hậu Paramervan (Huyền Trân) dạo chơi và thưởng ngoạn các loại hoa quý trong vườn, nhất là Mai đủ loại, từ bạch mai, hồng mai hai tầng cánh rất lạ cho tới loại hoàng mai cánh vàng mỏng mà ta thường thấy trong những ngày tết.

Trước khi Việt Cộng từ Nga Tàu tràn vào đô hộ VN, thị xã Phan Thiết có một con đường rất dài, chạy dọc theo bờ sông Mường Mán, từ Trường Trung Học Tư Thục Chính Tâm ở Bình Hưng, qua Ấp Hưng Long và Vĩnh Phú, tới tận cửa biển Thương Chánh, mang tên Huyền Trân Công Chúa. Ðây cũng là một trong những con đường diễm tình của Phan Thiết, vì hằng ngày có rất nhiều tà áo dài trắng của các trường trung học xuôi ngược, khiến cho con đuờng đã heo hút vì chiều dài, lại càng thêm gợi tình, khi những cánh hoa đẹp mất hút trong mù sương nhưng vẫn để lại chokhách tình si một mùi hương diễm tuyệt :

‘ Chào em áo trắng giờ tan học
gót ngọc làm mây vỡ cuối trời
phố nhỏ buồn hiu chờ thức giấc
những hàng phượng cũng vổ tay vui ‘
lá xanh bông trắng lại chen nhụy vàng
nhụy vàng bông trắng lá xanh
gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. ‘

Viết từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
Ðầu năm 2009
MƯỜNG GIANG


Nguyenphanan
#48 Posted : Sunday, April 26, 2009 2:19:05 PM(UTC)
Nguyenphanan

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 536
Points: 0

NHỮNG NGÀY GAI LỬA

Một câu chuyện thật của tác giả viết về trận chiến 30 - 4 – 1975

Hồi ký : Nguyễn Phan Ngọc An


Ầm…ầm…Những tiếng nổ như long trời lở đất , nàng bồng vội con thơ chạy ra sân nhìn về hướng trước mặt, cả một vùng trời khói bay nghi ngút…Mới hôm qua nơi đây là một thành phố đẹp, hôm nay đã thành bãi chiến trường !
Thảo sống nơi đây cũng gần được ba năm, chồng nàng, một vị Quận Trưởng của Quận nầy, tuy gia đình không mấy gì hạnh phúc nhưng vợ chồng Thảo không để mất lòng một người dân. Sáng qua, có tin mật báo về, Tuấn, chồng nàng đã vào Quận ứng chiến suốt ngày đêm…
Giữa trưa hôm qua, một trận pháo kích tới tấp vào thành phố nầy, phá tan cuộc sống yên lành của người dân , phá tan bao mơ ước xây dựng cơ đồ sự nghiệp. Từng loạt dãy nhà sụp đổ tan hoang ! bao nhiêu người bị thương, bao nhiêu người đã chết ở ngoài kia…Thảo rùng mình lo sợ, nàng không thể hiểu được những gì xảy ra bên ngoài vì không còn ai dám bước ra khỏi nhà. Những căn nhà có hầm trú ẩn coi như tạm bình yên còn nhà Thảo không có hầm trú ẩn, Thảo biết làm sao đây ? Một thân nàng với bốn con thơ dại, Tuấn thì không thể về nhà trong giai đoạn này…sinh mạng mẹ con nàng như chỉ mành treo chuông …
Ngoài kia tiếng lao xao ầm ỉ, trên đường lộ hàng loạt người gánh gồng tị nạn, họ bất chấp những hiểm nguy, những đợt pháo kích giết người tàn khốc đang đổ trút xuống thành phố thân yêu một thời của họ. Thế còn Thảo …nàng phải làm sao ? nếu ở lì lại đây chắc gì đã sống ? còn dìu dắt bốn con thơ xông pha ngoài lửa đạn cũng chắc gì thoát được hiểm nguy ? thôi thì một phen liều mạng, Thảo không mang theo được một của cải gì ngoài chút tiền sẵn có trong túi áo. Chiến tranh đã làm Thảo đảo điên, nàng đã mất trọn số tiền lớn của kỳ thu nhập Câu lạc Bộ cuối tháng ba này. Hôm nay là 23 còn hai ngày nữa là đến kỳ phát lương của các Tiểu Đoàn…Chiến tranh tàn ác, chiến tranh dã man, giành giựt xâm chiếm để máu đồng loại đổ tuôn, để xác người cao hơn non núi, để thảm họa đói rách cho muôn người !
Thảo nghẹn ngào nhìn căn nhà lần cuối rồi kéo vội các con chạy theo đoàn người tỵ nạn, đứa nhỏ nhất còn ẵm trên tay. Đến giữa lộ, một tiếng nổ long trời, rồi hai tiếng, ba tiếng…bụi cát bay mịt mù, Thảo không còn trông thấy gì nữa… mấy mẹ con té nhào xuống lộ rồi kéo dìu nhau đứng dậy tiếp tục chạy.
Tiếng pháo kích như đuổi theo sau từng loạt, từng loạt nghe như xé cả không gian. Trước bước chân nàng bao xác nằm ngổn ngang, bao tiếng thét gào do hậu quả đợt pháo kích vừa qua, nàng thầm cầu nguyện Phật Trời thương tưởng, cứu nhân gian cứu cả mẹ con nàng thoát qua cơn lửa đạn…
Thảo chạy tấp vào căn nhà quen phía chợ khi bên tai nàng vẫn còn nghe tiếng depart của loại hỏa tiễn 122 giặc pháo tới. Đã bao năm sônág trong tiền đồn , quận lỵ nàng đã rành rọt như những người lính. Nàng cũng biết bắn súng, biết xử dụng lựu đạn, biết lái đủ loại xe trong quân đội và cũng biết các mật mã truyền tin nữa…
Lại một tràng pháo kích vang dậy đất trời, thế giới quanh nàng là bãi tha ma, là đất chết…biết lấy ai cứu mẹ con nàng trong cõi chết, nàng không còn lối thoát thân…
Thảo gục xuống nền gạch, đôi mắt chan hòa ngấn lệ! Nàng thương các con nàng, tuổi măng non nào có tội tình chi ! nàng muốn các con nàng được sống dù phải đánh đổi đi sinh mạng của nàng…Thảo nhìn các con mà không kềm được tiếng nấc nghẹn…
Tiếng pháo kích tạm ngưng vì đã 3 giờ sáng. Tiếng đập cửa thình lình vội vã, Thảo điếng người, tưởng họ đã xông vào nhà thì chỉ còn lên trời mà trốn…Dì Năm chủ nhà vội mở cửa, Tuấn hiện ra nơi cửa, bế xốc các con nàng bỏ lên xe thiết giáp, kéo vội Thảo lên xe phóng thẳng về hướng Quận lỵ, Thảo la to : Không được, không được, em và các con phải ra khỏi nơi này, hãy quay xe chở em ra hướng khác để đón xe đò thoát khỏi nơi đây, mau lên, mau lên …
Tuấn gạt phăng : Không còn lối ra nữa, chúng đã chận hết các nẻo đường, cứ tạm vào Quận rồi tính sau !
Tuấn đưa Thảo và các con xuống hầm tử thủ cuối cùng của Quận. Đường đi xuống ngoằn ngoèo sâu thẳm, ánh sáng chập chờn của những cây đèn pin không đủ rọi cho các con nàng, chúng té liên hồi trên những bậc tam cấp, khi xuống đến cuối hầm mẹ con nàng ngất xỉu…
Tiếng điện đàm vang vang làm Thảo giật mình choàng tỉnh, nàng đã rõ đây là nơi trú ẩn duy nhất cho mẹ con nàng. Xung quanh nàng là những người lính truyền tin làm việc không ngưng nghỉ với nét mặt nghiêm trọng khẩn cấp từng hồi. Bảy ngày đêâm dưới hầm trú ẩn Thảo chỉ biết thời gian qua chiếc đồng hồ đeo tay của nàng, mẹ con nàng tạm sống với những gói mì và những bịt gạo sấy… Qua ngày thứ tám Tuấn liên lạc được phi cơ tải thương để đem xác chết ra khỏi Quận lỵ, chàng vội dẫn mẹ con nàng ra khỏi hầm trú ẩn kéo lên xe Jâeep phóng nhanh ra cửa Quận. Tiếng depart của hỏa tiễn giặc vút lên, Tuấn đạp thắng gấp kéo tuột mẹ con nàng chạy vào ẩn nấp trong lô cốt tuần canh ngay cửa Quận . Địch pháo kích ngay phi trường, chiếc trực thăng vừa hạ cánh đã phải cất cánh lên ngay, những xác chết lại một lần thứ hai trúng miểng hỏa tiễn của giặc, những người lính hào hùng buông băng ca ngã quỵ tại phi trường…từ lổ chiến hào nhìn ra lòng Thảo đau lên từng đoạn, thương cho người chiến sĩ xã thân vì đất nước, giờ tử biệt không có một người thân bên cạnh, xác sưng phồng hôi thối không biết đến ngày nào mới được chôn cất mảnh xương tàn? Cuộc chiến tranh nồi da xáo thịt, anh em giòng họ giết nhau, cuộc chiến triền miên từ ngày Thảo mở mắt chào đời, nàng chưa thấy một ngày bình yên trên quê hương của nàng ?…
Tuấn đưa mẹ con nàng trở xuống hầm tử thủ, Thảo khóc nức nở, nàng không còn hy vọng gì về với mẹ cha…mẹ con nàng sẽ phải vùi thây đau đớn như những chiến binh đã bỏ xác giữa sa trường !
Sau một tiếng đồng hồ Tuấn bắt được liên lạc với phi cơ, chàng chuẩn bị sẵn cho vợ con một chiếc xe thiết giáp rồi kéo nhau đến tọa độ mới để phi cơ có thể đáp xuống an toàn. Một khu sân rộng đủ để máy bay hạ cánh. Bên kia những người lính đang khệ nệ khiêng ba chiếc băng ca của ba vị sĩ quan tử trận bó bằng ba lá cờ vàng ba sọc đỏ, xác để lâu ngày nên phồng to và có mùi hôi…Bên nay là mẹ con Thảo, Tuấn và hai chú lính trong tư thế sẵn sàng khi máy bay hạ cánh.
Tiếng phi cơ đến gần, Thảo hồi hộp từng giây, không biết bình yên hay tai họa nữa đây ? Loại tải thương H20 trên cao thẳng xuống và lên thẳng vội vàng và cấp bách vì sợ địch khám phá mục tiêu. Bên kia thảy ba xác chết lên phi cơ, Tuấn và hai chú lính liệng nàng và các con nàng lên phi cơ, nàng và các con ngồi trọn trên ba xác chết cứng đờ, bíu chặt vào những mảnh vải lá cờ để được sống vì phi cơ hai bên không có cửa…Máy bay lên thẳng ruột gan mẹ con nàng lộn nhào, một tay Thảo níu xác chết, một tay Thảo níu các con !
Véo ! véo ! véo… những âm thanh nghe rợn người, những đóm lửa bay tung tóe hai bên phi cơ, trước mắt nàng không gian cơ hồ sụp đổ ! trời ơi…ai cứu mẹ con tôi ! Phi cơ lên độ cao để tránh tầm đạn lửa của địch, tiếng đạn lửa rít xung quanh làm phi cơ chao đảo nhưng rồi viên phi công đã lấy lại bình tỉnh lái thoát ra vùng đạn lửa đang đuổi theo sau .
Thảo hoàn hồn, nàng lâm râm cảm ơn Thượng Đế, cảm ơn Trời Phật đã xót thương cứu độ mẹ con nàng qua cơn tai biến, nàng tưởng tượng mẹ con nàng vừa chết đi và sống lại nhờ vào phép nhiệm mầu của đất trời một kiếp đoái thương…
Phi cơ hạ cánh tại phi trường Tân Sơn Nhất, Sài Gòn vẫn tấp nập xe cộ vì tình hình nơi đây chưa đến hồi nguy ngập, mọi người chen chúc bán buôn tuy nhìn lên gương mặt ai cũng thoáng nét lo âu. Thảo cùng các con đón xe về Vũng Tàu nơi cha mẹ nàng cư ngụ.
Chiều chiều, nàng tựa cửa chờ mong tin tức Tuấn với cả sự nôn nóng lo âu, chợt sáng nay có tin chàng gọi về từ chiến trận. Thảo vội chạy đến điện đài của Tỉnh để nói chuyện với chồng. Đầu giây bên kia tiếng chàng thảng thốt :
- Em và các con vẫn còn sống đấy chứ ? Lạy trời cho đây là sự thật ! em biết không ? khi anh nhìn thấy những viên đạn lửa bắn theo máy bay anh không còn một hy vọng gì mẹ con em sống sót, anh quỳ xuống khóc ngất và liên tưởng ra những hình ảnh hãi hùng, anh tưởng em và các con đã chết cháy và không tìm được xác ! bây giờ anh yên tâm rồi, Quận đã mất , anh dẫn tàn quân đang tìm lối thoát thân về Tỉnh. Em yên tâm, anh vẫn mạnh.
Tuấn cúp phone ! Thảo bàng hoàng se sắt, cả cuộc đời nàng chưa bao giờ trải qua những kinh hoàng đến thế cũng chưa bao giờ thấy lo lắng xót xa và thương Tuấn như bây giờ, cầu xin cho chàng được bình yên để có ngày xum họp.
Đêm nay trời u ám lạ thường, cơn mưa thình lình trút xuống như thác đổ, đã buồn Thảo lại buồn thêm…phải chăng trời cũng xót thương nhân gian nên đẫm lệ ? phải chăng dân tộc Việt Nam đã đến buổi tương tàn ?…
Thảo nhìn vào khoảng không xa vắng, mới hôm nào cũng tại mái nhà nầy Thảo là một cô bé ngây thơ, bên mẹ cha dỗi hờn nũng nịu, tung tăng trong chiếc áo dài màu trắng học trò. Bây giờ, tay dắt tay bồng dạn dày sương gió, trải qua biết bao khủng khiếp của cuộc đời…một thiếu phụ tuổi đang xuân nhưng tâm hồn như già đi trước tuổi …
Ngoài hiên, mưa vẫn rơi tí tách không ngừng …Thảo đưa tay gạt đôi dòng lệ ! mưa khóc cho người hay mưa khóc đời ta ?!…

NPNA California Hoa Kỳ




Nguyenphanan
#49 Posted : Wednesday, May 27, 2009 2:20:09 PM(UTC)
Nguyenphanan

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 536
Points: 0

Em Sáu của tôi

Sau nhiều năm suy nghĩ về em Sáu tôi thấy có bổn phận phải viết lại những dòng chữ kể lại cuộc đời của em.

Năm tôi lên hai tuổi, em Sáu đã được một. Sanh năm một chắc là má tôi mệt lắm. Hai vợ chồng gọi là trẻ nhưng cũng không còn trẻ nữa phải lo cho đến năm đứa con. Sau hiệp định Genève chia đôi đất nước, hoà bình lập lại ở miền Nam. Từ một làng chài lưới, nhà lá mái tranh, ba má tôi dời cư về ấp du lịch, nơi có núi, có biển. Thời chiến tranh ấp này đầy Việt Minh ẩn núp, nên là vùng mất an ninh, nhưng khi nước nhà độc lập, ấp này trở thành nơi du lịch, người ta có thể đến đó để mở quán ăn, nhà hàng.

Ba má tôi về cắm dùi trên một miếng đất cạnh biển. Cất lên một căn nhà lá, mái lợp bằng tranh, vách bằng lá dừa. Chị em tôi áo quần vá chằng chịt. Có một tấm hình tôi còn giữ mãi đến hôm nay. Trong hình tôi đen đúa, ở truồng, chỉ được có chiếc áo sơ-mi màu đen che được cái lưng mỗi khi dang nắng khỏi phổng da. Sau này khi nhìn tấm hình này, vợ tôi hay cười nói rằng hồi nhỏ tôi xấu quá trời! Hình chụp trước quán ba má tôi, với những người khách du lịch giàu có từ Sàigòn xuống đây để tắm biển, nghỉ ngơi cuối tuần, sau ngày đất nước đã có hòa bình. Tôi đứng cạnh một thằng bé con tuổi bằng tôi, có quần áo đẹp và giày sandal sang trọng. Trong hình tôi đang nhìn nghiêng hướng mắt về thằng bạn. Đâu thấy thẳng mặt tôi, vậy mà bà xã vẫn chê tôi xấu, chắc tại vì tôi quá đen, đứng bên cạnh mấy cậu Sàigòn có da mặt thật trắng.

Quán ba má tôi bán cà phê suốt cả ngày. Bán thức ăn chỉ có hai ngày cuối tuần. Cứ bất cứ lúc nào khách muốn có cà phê, hay nước giải khát, đều có ngay trong khoảng từ 5 giờ sáng đến 10 giờ tối. Vừa sáng sớm đã có chiếc xe đò chạy chuyến sớm nhất mang cho quán nửa cây nước đá, để bán cho suốt cả ngày. Đường sữa, cà phê, nước ngọt thì khi hết ba tôi lấy xe đạp đi đến làng lân cận mua đem về. Ngày thường má tôi ngồi bán lai rai, ba tôi làm trưởng ấp, làm thêm vườn rẫy. Nhộn nhịp nhất là hai ngày cuối tuần. Khách Sàigòn xuống tấp nập. Ba má tôi phải lo nấu ăn cho khách, bỏ mặc anh chị em tôi muốn làm gì thì làm.

Gió biển hài hòa cứ thổi và từ từ chị em tôi cũng dần lớn lên trong khoảng thời gian thanh bình của đất nước. Dãy núi nằm trước mặt nhà tôi gần đến đổi tôi còn nghe tiếng con man tát (man kêu) mỗi buồi sáng. Sương và mây trắng phủ trong những ngày mùa đông. Hè về lá cây xanh màu rực rỡ. Phía sau nhà là biển, gió biển thổi vào nhà suốt cả ngày. Mùa hè ánh nắng rọi xuống mặt biển. Mặt biển chiếu sáng như màng kim tuyến. Mùa gió bấc, mặt biển lồng lộn với những cơn sóng, đầy bọt trắng.

Dần dà có tiền ba má tôi phá bỏ cái quán ăn làm bằng tranh và lá dừa, xây lại quán bằng gạch, xi-măng, mái lợp tôn thiếc. Có thể nói quán ba má tôi là trung tâm „dịch vụ“ ở đây. Những người dân từ ở nơi xa dời cư về đây làm nghề hái cũi hầm than, làm vườn làm rẫy trồng khoai bắp trái cây; những gia đình được chủ Tây, chủ Việt mướn đưa về đây để làm gát-dan cho những Villa to lớn vừa mới cất, hay đến ba tôi để xin hỏi những giấy tờ cần thiết. Không nườm nượp, nhưng trong quán ba má tôi hằng ngày thường vẫn có khách vãng lai.

Thế rồi nhịp độ chiến tranh ngày càng tăng, khách vãng lai ngày càng vắng, vì những buổi chiều thỉnh thoảng đã có những du kích Việt cộng xuất hiện. Ban đầu chính quyền Quốc gia còn chịu để dân tiếp tục sinh sống nơi đây, sau du kích làm quá nên chính quyền ra lịnh cho dân tản cư về vùng an ninh. Như mọi người dân khác trong ấp, gia đình tôi đành bỏ ấp du lịch, dời lại về làng đánh cá.

Dù xa núi rừng ở ấp du lịch, nhưng từ xa, những sớm mai, hay những buổi chiều, từ nơi nhà mới chúng tôi đều có thể dỏi mắt về những đỉnh núi xa xa, màu xanh đậm và mơ một ngày nào sẽ quay về lại nơi đây, khi không còn chiến tranh.

Đến mười tám tuổi, tôi phải vào lính. Tôi xa nhà, xa các chị, dần dà không còn nghĩ gì đến chuyện của em Sáu. Chuyện về em dần dần mờ như sương chiều mỗi lúc một dày đặc phủ trên cảnh vật theo theo thời khắc của đêm thâu. Bỗng nhiên, lúc đang ở quân trường tôi nghe nhà nhắn tin ra là nhà đã tìm lại được em Sáu. Qua những thư từ nhà gửi đến, tôi cũng thấy rộn ràng trong lòng. Lý do: Em Sáu của tôi rất đẹp, dù cô mới 17 tuổi. Nhà cho biết thêm, cứ nhìn cô ca sĩ cải lương Phượng Liên, thì nhan sắc của em Sáu tôi cũng vậy. Phượng Liên vóc dáng mảnh mai, giọng ca rất ngọt. Cô đẹp nhưng bao giờ trong tuồng hát mặt cũng dào dào buồn vì đóng đào thương. Dù là anh em ruột, thất lạc nhau từ lúc em còn nhỏ, nhưng nghe tin tôi cũng mong có ngày về phép để gặp em.

Năm em Sáu vừa được gần một tuổi, ba tôi có lăng nhăng với một người nấu ăn cho đoàn hát, tên Dì Hai. Rất mê cải lương nhưng ba tôi không mê đào hát mà lại mê người nấu ăn cho đào hát. Có lẽ mỗi buổi sáng đi chợ mua hàng về cho quán ăn, ba tôi đã quen Dì Hai. Ba tôi lén lút gặp mặt Dì Hai, chớ không ra mặt, vậy mà cũng đến tai má tôi. No mất ngon, giận mất khôn, đang mệt mõi với năm đứa con, cộng giận chồng có vợ nhỏ, má tôi đem em Sáu tôi đi cho.

Chỉ chưa đầy một tháng sau đó, ba tôi nghe tin mất con, về đi xin lại. Đến nơi họ giấu, họ không muốn cho lại. Chúng tôi mất em Sáu từ đó.

Nỗi buồn dần dà vì một đứa em, đứa con bị mất, cũng theo ngày tháng phôi pha. Chị em tôi lớn lên với những gợn sóng biển lăng tăng trong ngày hè. Lớn dần lên với những người bạn hàng xóm, như Hùng như Lạc, cô gái hàng xóm sớm chiều có nhau. Chúng tôi cùng vào tiểu học ở ngôi trường làng, vì ấp du lịch không có trường tiểu học. Chiều thứ bảy tan học, chị em tôi cùng anh em Hùng, Lạc đi bộ từ làng về ấp, nơi còn gia đình tôi và Lạc. Ngày chủ nhật cuối tuần, xa trường lớp, chúng tôi sống với núi rừng cây cỏ trong ấp. Sống trọn vẹn một ngày, để sáng hôm sau, thứ hai lại phải cắp tập lục đục trở về làng để học. Chiến tranh từ từ lan rộng, tàn khốc hơn. Chúng tôi linh cảm được rằng ngày chúng tôi phải xa ấp không còn bao xa.

Rồi qua tuổi thiếu niên, bước vào tuổi thanh xuân tôi cũng biết yêu người, yêu đời. Hình ảnh em sáu ngày càng xa hơn.

Tết năm 1973 tôi được về phép thăm nhà và là dịp đầu tiên tôi gặp em Sáu. Chị tôi diễn tả về em Sáu không sai. Nét mặt em giống cô đào cải lương Phượng Liên lắm. Ở nhà quê nên em không mặc quần áo điệu đà. Em mặc rất đơn giản. Một chiếc áo bà ba màu hồng và chiếc quần dài đen.Tóc em để đến thắt lưng. Màu tóc đen mượt. Vóc mình em nhỏ, mảnh mai. Nếu không biết trước là anh em, gặp đâu đó ngoài đường, những thằng thanh niên đang đi lính như tôi, chắc theo chọc ghẹo, tán tỉnh em ngay. Anh em từ ngày đẻ ra đến mười chín hai mươi năm sau mới gặp mặt lần đầu, nên dù muốn thân thiện cũng không thể thân thiện nhanh được. Hai anh em nói chuyện với nhau như cặp tình nhân vừa mới quen, còn đầy e ngại. May mà em đã về lại nhà tôi được hơn nửa năm, nên trong gia đình em không còn ai rụt rè e lệ với ai, ngoại trừ tôi, người anh vừa từ xa về nhà.

Đời lính, nên sau mấy ngày phép rồi tôi cũng phải ra đi. Và em Sáu tôi vẫn đi qua lại giữa hai gia đình cha mẹ nuôi và ruột của mình. Trong thư từ về gia đình lần nào tôi cũng viết vài lời thăm em Sáu. Sau đó tôi còn biết em Sáu sắp lên xe hoa với một trung sĩ Địa Phương Quân. Gái lớn lên thì phải lấy chồng và em Sáu đi lấy chồng là việc bình thường. Tôi ở xa quá nên cũng không về dự đám cưới được. Và tôi chỉ gặp lại em Sáu, cũng như gặp lại gia đình là sau ngày ba mươi tháng tư năm bảy mươi lăm, khi đất nước được gọi là đã chấm dứt chiến tranh.

Nhưng khi tôi vừa về đến nhà sau ngày đất nước vừa hòa bình, thì như nhiều người dân Việt Nam lúc bấy giờ thường gặp những chuyện buồn, tôi cũng biết được một chuyện buồn cho em Sáu: chồng em mới vừa tử trận chỉ trước ngày 30 tháng 4 vài tuần! Đang xin tiền tử thì miền Nam hoàn toàn được „giải phóng“. Chồng chết, tiền tử không có, con chưa đầy một tuổi. Bao chồng chất khó khăn cho người thiếu phụ.

Đất nước vừa có hoà bình. Tiếng súng đã không còn đêm đêm vọng về, nhưng nỗi lo âu về sự đói khổ, thiếu ăn, đã làm mọi gia đình ở miền Nam trong những ngày tháng này cũng thật khổ sở.

Trong những ngày này chúng tôi rủ nhau đạp xe trở về ấp du lịch để thăm lại làng bản ở đây và ngôi nhà của cha mẹ nằm cạnh bờ biển. Quang cảnh tiêu điều. Cầu sập. Đá núi lòi ra trắng xoá vì bom đạn. Đường xá đầy những lỗ đào để chống chiến xa. Cây hai bên đường bị bom cày sới….

Phải tạm quên tất cả để bước vào giại đoạn mới của đất nước. Phải làm lại từ đầu. Phải lao động. Trong nhà tôi phận ai nấy làm. Việc ai người ấy tiếp tục. Riêng em Sáu vì chồng chết nên không còn ở bên nhà chồng, em về tá túc lại với nhà cha nuôi. Vì gia đình trong hiện tại chỉ còn mình ông. Dù sao em Sáu cũng phải có bổn phận chăm sóc ông trong tuổi già. Em làm lại nghề may, ngồi may ở nhà, hằng ngày nấu cơm, chăm sóc con nhỏ và người cha nuôi.

Gái một con trông mòn con mắt. Người đời nói không sai. Em Sáu đã đẹp, giờ sau một lần sanh nở lại đẹp hơn. Đang độc thân nên không thiếu ong bướm ve vản. Nhà cha nuôi của em Sáu cách nhà tôi khoảng mười cây số, nên thỉnh thoảng có việc ngang qua chị em tôi hay ghé thăm Sáu. Ngược lại em Sáu thỉnh thoảng cũng ẳm con xuống thăm gia đình ba má ruột.

Ở miền Nam vào thời kỳ sau năm 75, chắc ai cũng còn nhớ là Cộng Sản có chính sách đưa bộ đội xin vào ở trong nhà dân. Nhà nào đông con cự tuyệt không cho thì họ chịu. Nhà nào ít người thì phải chịu để cho họ ở chung đụng trong nhà. Nhà cha nuôi em Sáu chỉ có ba người nên phải để bộ đội vào ở. Thấy Sáu đẹp, tên trung úy người Bắc, đại đội trưởng, lấy nhà Sáu làm bộ chỉ huy đại đội. Nghĩa là cả ngày và đêm hắn ở đây, ngoài lúc đi công tác. Tên này đã có vợ con ở ngoài Bắc, nhưng lại mê em Sáu kinh khủng, dù biết Sáu là vợ “lính Ngụy”. Chuyện anh trung úy bộ đội “thả dê” em Sáu manh nha đến tai ba má tôi. Nhưng dù có thương em Sáu, ba má tôi cũng phải để em Sáu tiếp tục ở nhà người cha nuôi để chăm sóc ông trong lúc tuổi ông cũng đã già và đã phải chịu chứng ghiền rượu đế. Mỗi bữa cơm không có nửa xị rượu cho ông là không được. Ông lại có thêm bịnh suyễn.

Biết phận mình không lo gì được cho em trong cuộc sống mới đầy gian nan vất vả, nhưng vì tình máu mủ ruột thịt vẫn còn đó, nên thỉnh thoảng tôi ghé thăm gia đình người cha nuôi của em Sáu, nhất là muốn thăm em và đứa con trai đầu lòng vừa được sinh ra đã mất cha. Tình thương em trong tôi không khắng khít mặn nồng như mùa hè chói chang, không quá lạnh lẽo như mùa đông, mà mơ hồ như mùa thu, bàng bạc với cơn gió nhẹ. Tôi cũng nghe nói có anh bộ đội đang theo đuổi em nhưng cũng không biết phải khuyên can em ra sao. Vài chuyện tình của tôi sau ngày đất nước không còn chiến tranh cũng đã đi vào ngỏ cụt. Chuyện tình cảm của tôi, tôi còn lo chưa xong thì còn biết lo cho ai! Ngọc từ Sàigòn lặn lội đến thăm tôi một lần rồi biệt tăm vì biết tôi không thể nào trong hiện tại lập gia đình với Ngọc được. Hoàn cảnh sau 75 đầy khó khăn, có muốn một mái ấm gia đình nho nhỏ cũng là chuyện không đơn giản chút nào. Vài cô gái cùng làm chung trong nhà thầu xây dựng, cũng chỉ là nỗi vui để qua những ngày rộng tháng dài không thấy tương lai trong lúc này.

Nhưng tai họa lớn nhất cho em Sáu là sau khi em có bầu với người bộ đội. Anh này biết tẩy ông già nuôi em Sáu nghiện rượu nên cứ chiều chiều mua về cho ông một xị rượu đế, uống xong ông còn biết trời trăng là gì, và tay bộ đội cứ ra tay hành động theo những toan tính đã có từ trước. Ngày mọi người hàng xóm biết em Sáu có bầu cũng là ngày không còn thấy bóng dáng anh chàng bộ đội này trong nhà em Sáu nữa. Anh xin đổi đi đơn vị khác hay xin phục viên ra khỏi bộ đội cũng không ai biết, mọi người chỉ biết một điều là anh đã có vợ con ở ngoài Bắc. Điều này do chính những người lính Bắc Việt dưới quyền anh “báo cáo” cho bà con làng nước biết.

Em Sáu lại có bầu, lại sanh con một mình, nói như câu người đời thường nói là đi biển một mình! Chị em tôi thỉnh thoảng ghé lại thăm em Sáu và hai đứa cháu không cha. Ba má tôi ít dám bàn nhiều đến chuyện em Sáu vì nghĩ mình có ít nhiều trách nhiệm đến cuộc đời gian truân của em trong hiện tại.

Sau này, khi nói chuyện đôi lúc em Sáu tâm sự với tôi. Mình là đàn bà con gái ở một mình, lại mấy ổng cứ nói mình là vợ của “lính ngụy”, nên ổng hiếp mình, mình cũng phải ráng chịu chớ biết đi thưa với ai. Sau bảy mươi lăm có người vợ “lính ngụy” nào dám đi thưa cán bộ, bộ đội nếu bị họ chọc nghẹo, bị hiếp? Không khéo còn bị qui chụp là nói xấu cán bộ! Cũng tại số phận hết anh Năm à! Cũng có thể Sáu bị hiếp, cũng có thể Sáu nông nỗi, cũng có thể sự đòi hỏi từ người goá phụ trẻ…, mọi câu hỏi từ từ cũng không ai buồn nhắc đến. Mọi người chỉ thấy Sáu lo tần tão may vá nuôi hai đứa con mà cha nó là hai người Việt Nam, trong thời chiến tranh Quốc Cộng đã ở hai bên chiến tuyến. Một đã hy sinh cho miền Nam và một đang chốn tránh vì hành vi “tiêu cực” của mình.

Bây giờ, mỗi khi anh em gặp lại, là mỗi lần tôi thấy em Sáu mập thêm ra. Lại cũng giống y như cô đào Phượng Liên khi tôi thấy cô xuất hiện trên sân khấu ở hải ngoại. Cũng mập ra. Lớn tuổi nên người mập ra là chuyện bình thường, nhưng có lẽ do gia đình không còn quá khó khăn vất vả vì con trai con dâu biết ráng lo làm ăn, dành dụm, nên người đàn bà dễ trở nên đẫy đà, có da có thịt. Hai đứa con trai Sáu trở thành tài xế cho một công ty lo về xây dựng. Cả hai đã có gia đình. Một ở riêng và một ở chung với Sáu. Ngoài giờ coi cháu, đưa đón cháu đến trường, hình như Sáu chỉ còn một việc làm và làm mỗi ngày là đánh Tứ sắc, nhất là trong dịp Tết. Tôi nghe hàng xóm Sáu nói như vậy. Tôi cũng thấy, những bà hàng xóm đến rủ Sáu đi đánh Tứ sắc, thình lình gặp tôi họ cũng thập thò không dám vào rủ, phải đợi đến lúc tôi về họ mới dám trở lại rủ gầy sòng. Chắc mấy bà này cũng bực mình vì tôi lắm. Đồ kỳ đà cản mủi. Ai có ghiền bài bạc, Tứ sắc thì biết sự ghiền ra sao.

Nghe Sáu kể hai thằng con trai rất thương yêu nhau. Sáu không cho tôi biết tụi nó có biết là hai đứa cùng mẹ khác cha không. Nhưng chuyện này không quan trọng. Quan trọng là chúng biết thương yêu nhau và cùng lo cho người mẹ đã vì cha chúng nó mà phải trải qua một thời thanh xuân đầy gian truân, khổ cực. Giờ Sáu phải có quyền được hưởng sự an bình, hạnh phúc trong tuổi già bên cạnh cháu con.

Những ngày trước Tết chị tôi thuận đường xe hay ghé cho tiền để em Sáu sài, sau đó em mang bánh trái qua nhà chị chúng tôi cho lại. Gặp nhau em Sáu thường lập lại với chị tôi: Giờ ba má cả ruột lẫn nuôi đều chết hết rồi. Hồi nhỏ em không ở được với anh chị vì hoàn cảnh gia đình, giờ em chỉ còn anh chị là ruột thịt, anh chị cho phép thỉnh thoảng em ghé thăm anh chị, nhà có giỗ lễ ba má, anh chị gọi điện thoại cho em, em sẽ đến phụ anh chị cúng kiến, dù gì cũng là cha mẹ của chung, em cũng muốn phụ một tay.

Người chồng trước đã chết thì không nói làm gì. Người chồng sau, bộ đội, mãi đến tận hôm nay vẫn chưa trở lại để nhìn mặt đứa con trai đã có với Sáu.

Đó là câu chuyện về em Sáu của tôi.

Vũ Nam - Ðức Quốc
Nguyenphanan
#50 Posted : Sunday, June 21, 2009 9:49:01 AM(UTC)
Nguyenphanan

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 536
Points: 0

LỬA MÀU XANH
Tâm bút : NGUYỄN PHAN NGỌC AN

Chu kỳ trái đất, một năm có bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông…Thời tiết của bốn muà cũng khác biệt nhau, mùa Xuân ấm áp, mùa Hạ nóng nực, mùa Thu mát mẻ và mùa Đông rét lạnh…đó là khí hậu thực tại của chúng ta : Hoa Kỳ, còn các nước khác thật tình chúng ta không nắm rõ, duy nước Việt Nam yêu dấu của chúng ta thì bốn mùa cũng không lấy gì xác định rõ ràng lắm, bởi nóng dường như quanh năm, mùa đông cũng chả thấy lạnh bao giờ, chỉ hơi se lạnh vào dịp Noel mà thôi, bởi vậy những chiếc áo len dầy cộm, những áo Jacket hoặc thậm chí bộ Veston cũng khó lòng mà mặc vào những tiệc cưới thời điểm không phải là mùa Noel hay tết…
Ở Việt nam có hai mùa rõ rệt : Mùa nắng và mùa mưa, mưa thì ôi thôi…thối trời tối đất, cho nên cây cối có phần tốt tươi sầm uất, những ngọn núi chằng chịt cây xanh cao ngất chứ không là núi trọc như ở Hoa Kỳ này…những con đường trơn trợt vào mùa mưa, tai nạn giao thông xảy ra hàng ngày, hàng giờ, hàng phút…mưa như thác đổ, câu nói nầy rất đúng, những ngôi nhà có mái lợp bằng tôn lạnh hoặc tôn cemen cơn mưa lớn đổ xuống ầm ầm hòa lẫn tiếng sét, tiếng gầm của không gian long trời lở đất, ở trong nhà hồn vía cũng muốn bay lên mây đừng nói chi đang mắc kẹt ngoài đường phố hay nương rẩy … Cách đây khoảng 20 năm tại miền Tây ( hậu giang) đã có một vụ sét đánh người chết đứng giữa ruộng và thỉnh thoảng vẫn nghe thiên hạ bàn tán sét đánh vào nhà, sét đánh vào những tàng cây có người ẩn úp lúc mưa to …Việt Nam có những tình huống mà vào thời chiến tranh ở thập niên 50 những nơi vắng vẻ ít dân cư thường có ma, dân chúng đi xem cải lương về khuya, qua các cây lớn như cây da, cây me thường bị ma nhát, có khi con ma nó rớt từ cánh tay xuống, rồi rớt từ cái chân xuống, có khi cái đầu rơi xuống đất đánh phịch, cũng có khi trên lộ đêm lù lù một đống thật lớn, càng tới gần càng lớn lên chận cả ngã đường và lúc ấy người ta ù té chạy bán sống bán chết … Một việc mà tôi tin là đúng sự thật dù lúc ấy tôi chỉ lên 5 tuổi, nhưng đã in sâu trong tiềm thức không quên, Ba tôi đã bị ma dấu vào một hóc cây lớn khi ông đi họp về khuya, lúc đó đang thời kỳ phục hưng của thể chế Tổng Thống Ngô Đình Diệm, một nhà ái quốc anh minh và khí tiết, vào năm 1958 có lần ông Ngô Đình Diệm đích thân đến thăm trường tư thục Lạc Hồng do Ba tôi vừa làm Hiệu Trưởng vừa làm thầy giáo dạy học, Tổng Thống đã tặng Ba tôi 2000$ và gởi Ba tôi một bằng khen thưởng … ngày ấy tôi còn nhớ Tổng Thống mặc một bộ veston màu xám đen, đầu đội mũ nỉ xám có vành, tay cầm cây gậy ba- ton dài, gương mặt sáng tinh anh đầy phúc hậu, trước những hàng học sinh đứng nghiêm chỉnh chào Tổng Thống, tôi chỉ là con bé con nhỏ xíu đứng hàng đầu, Tổng Thống bước tới xoa đầu tôi cười nhân hậu với giọng Huế ngọt ngào “ học cho giỏi nhen con”… Giờ này ông đã đi thật xa vào thế giới vô hình và Ba tôi … cũng không còn nữa, nhưng kỷ niệm thì không bao giờ mất trong trí óc nhỏ nhoi này. Tôi vẫn còn nhớ rõ như in trong đầu những câu châm ngôn mà ba tôi viết bằng bút “Rong”rất đẹp treo trên tường để răn dạy học sinh : Trò chơi chẳng thiếu thứ gì, Trèo cây đánh lộn em thì chớ nên…Tiên học lễ, hậu học văn…tích thiện phùng thiện, tích ác phùng ác…Có học phải có hạnh…những câu châm ngôn đó là nền tảng của trường tư thục Lạc Hồng, sau này học sinh xuất thân từ trường của ba tôi đều nên danh phận – Trong huyện này không ai mà không biết ông giáo Tình, nhất là ông Quận Trưởng kính trọng và thân tình một mực với ba tôi … Cho đến bây giờ tôi cũng không tìm lại được từ bốn thập niên qua những nét chữ viết bằng bút Rong rất đẹp như của ba tôi – Thật tình mà nói ba tôi có thực tài về ngòi bút Rong, tôi tiếc là đã không học nghề của ba và sau đó cây bút Rong cũng bị quên lãng trôi dạt về đâu, dọn nhà về tỉnh Ba tôi phải lo kinh tế gia đình, ba tôi vào làm cho hãng Ba Xoong tại Gia Định với chức vụ Phó Giám Đốc vào năm 1960.
Lúc ba tôi còn dạy học, tôi nhớ có một lần Ba tôi đi họp trong quận vào buổi chiều lúc 4 giờ, không hiểu sao tới sáng hôm sau cũng không thấy về nhà, Mẹ tôi và các anh chị em tôi hộc tốc đi tìm, khi ngang qua hóc cây lớn nhìn sâu vào trong mới biết Ba tôi bị ma dấu trong hốc cây, miệng còn đầy những vải vụn nhét cứng không ú ớ được tiếng nào, chúng tôi phải đưa Ba tôi ra khỏi hốc cây và đưa về nhà, chừng tỉnh táo nghe Ba tôi kể lại mới thật sự biết là có ma dấu thật và từ đấy ít khi ai dám ra đường về đêm nữa …
Vào thời điểm chiến tranh, những biến cố như in đậm nét trong đầu tôi, tôi không thể nào quên được ngày chạy loạn, Ba Mẹ tôi lạc nhau, Mẹ tôi phải dìu dắt 5 con thơ trong vùng lửa đạn ngút trời, tôi lúc ấy vừa hơn 3 tuổi, em út tôi vừa hơn 1 tuổi, chạy trước đạn đuổi theo sau, mấy mẹ con tưởng đã chầu diêm vương mấy kiếp rồi ! Đêm đến không biết phải ẩn vào đâu qua đêm, mọi người chạy tán loạn cũng đã lạc mỗi người một hướng, Mẹ tôi túng cùng phải dẫn 5 chị em tôi vào núp trong một đám nương mì ( cây khoai mì) rậm rạp. Nửa đêm nghe tiếng voi gầm, càng lúc càng gần, mà đến mấy con voi gầm chứ không phải một con, khi chúng đến nơi Mẹ con tôi thiếu điều ngất xỉu, Mẹ tôi lấy hết bình tỉnh cầu nguyện Phật Trời, Thượng Đế cứu nguy … May thay, đàn voi quật ngã mấy cây chuối gần bên rồi bỏ đi, thế là mấy mẹ con tôi được sống, bây giờ nhớ lại lòng tôi nghẹn ngào, thổn thức bởi mẹ tôi cũng không còn trên thế gian này nữa !…
Tôi còn nhớ, Ba tôi là một học giả uyên thâm, ông giỏi nhiều ngôn ngữ và đã từng du học nước ngoài, năm đó vì tình hình phải ẩn thân nơi vùng thâm sơn cùng cốc, một chiều nọ có một toán công an vào nhà bắt Ba tôi đem về tỉnh Bà Rịa giam và điều tra tàn ác, chúng đổ nước lạnh vào mũi, châm điện chạy vào tay chân, Ba tôi vẫn cương quyết chịu đựng, bởi vì ông bị nghi ngờ, bắt oan thì biết gì để khai, cuối cùng chúng phải thả Ba tôi về sau khi đã giam giữ hành hạ 6 ngày liên tục, ba tôi về nhà ngồi buồn làm mấy câu thơ :
Hăm ba tháng chạp vừa qua
Công an chiến dịch vào nhà bắt tôi
Tưởng rằng có việc lôi thôi
Đem đi Bà Rịa giữ tôi sáu ngày
Điều tra liên tiếp ba ngày
Té ra chẳng biết chẳng hay việc gì
Về nhà ngày nghĩ đêm suy
Biết ơn chính phủ không khi nào bằng…
Từ đó gia đình tôi trong đầu đã phát sinh hình tượng hận thù lũ công an ác độc, nhưng vẫn phải sống tại nơi này không thể dời nhà đi đâu vì tình cảm xóm giềng, tình cảm của ông Quận Trưởng và nhất là tình cảm của phụ huynh, học sinh đang học với ba tôi…và nữa…đám vườn, đám ruộng bề bề mà ba Mẹ tôi đã đổ biết bao mồ hôi công sức…Tôi vẫn nhớ những ngày tết nơi đây, vào sáng mồng 1 tất cả mặc quần áo mới, dày giép mới đứng xếp hàng dài khoảng 60 đứa kéo nhau đi đến từng nhà hàng xóm, Ba tôi dẫn đi chúc tết để học sinh kiếm tiền lì xì mà…tới đâu là cả đám nghiêm chỉnh hát lên :
Chúng cháu là học sinh
Trường tư thục ông Tình
Đến đây chúc năm mới
Chúc may mắn suốt đời
Chúc sống lâu trăm tuổi
Chúc bình yên vô sự
Chúc gặp lành tránh dữ
Chúc hạnh phúc đời đời
Chúc phú quý nơi nơi
Chúng cháu có đôi lời
Đến đây chúc năm mới…

Năm nào cũng vậy, ngày tết vui không thể tưởng, đêm giao thừa thức sáng đêm không ai ngủ cả, già trẻ gái trai tụ họp hát hò, nấu bánh tét bánh chưng, đúng 12 giờ khuya dọn ra sân cúng giao thừa rồi nổ pháo rền trời, đặc biệt là ai về nhà nấy trước giao thừa, bởi tục lệ ông bà là như thế, không ai được ở nhà ai hoặc ngoài đường khi bước qua đầu năm mới, mồng 1 mồng 2 mồng 3 tết không được quét nhà cho nên mấy ngày tết nhà cửa tràn đầy những xác pháo đỏ, pháo hồng loạn xạ. Ngày nay những tục lệ đó đã bị phôi thai rồi, nhất là ở Hoa Kỳ, giao thừa chả mấy nhà cúng kiếng ngoài sân, mồng 1 tết 5 giờ sáng đã dậy lui cui bỏ cơm canh vào dỏ mang đi làm, chả cử kiêng sẽ cực suốt năm gì cả, cho nên dùng từ cày như trâu cũng không ngoa tí nào phải không thưa quý vị? Đã như thế thì còn tết với nhất gì nữa, ối chu choa…nhắc lại mà phát ớn , vậy mà tôi cũng chịu đựng được 15 cái tết như thế rồi đó các bạn ơi…ồ ! xin lỗi nhen, tôi nói hơi dóc bởi vì cái tết Quý Mùi tôi đã bị layoff rồi còn đâu, và tôi biết chắc rằng vài cái tết nữa tôi cũng chẳng tìm ra việc làm như ý đâu với tình trạng đất nước Hoa Kỳ trong cơn dâu bể, thế là tôi được mấy mùa xuân ngủ đã đời, ngủ để quên khỏi ra đường xuất hành, biết đi về đâu mà xuất hành xuất tỏi ? đời đã không đãi ngộ thì tìm kiếm chỉ mất công thôi các bạn ơi, “ có phần không cần gì lo” “ bôn ba không qua thời vận” mà lị…
Tôi còn nhớ vào khoảng năm 1968 tôi theo ông xã ra sống ở Quân Hàm Tân ( Tam Tân) thuộc tỉnh Bình Tuy, vào đầu xuân năm đó có chuyện rất lạ, nếu những ai cư ngụ tại quận nầy vào thời điểm đó không thể không biết…Chuyện là thế này :
Một hôm đột nhiên ngọn lửa từ đâu bốc cháy trên mái nhà hàng xóm sát nhà tôi đang ở, ngọn lửa màu xanh um không đỏ như những vụ cháy bình thường, mà rất lạ ngọn lửa cháy ngược lại với hướng gió thổi… chú lính leo lên dùng chân và bao cát dập tắt ngọn lửa, lạ lùng lửa không nóng, không hề xây xát gì chú lính cả, nhưng mái nhà vẫn bị cháy môät lõm lớn, một lát sau anh chị Trung sĩ Thành thách thức rằng : ma cỏ gì mà ma cỏ, lửa ma hả, cháy thử coi…tức thì ngay trong chiếc vali quần áo của anh chị phực lên ánh lửa cũng màu xanh và quần áo bên trong cháy rụi thành tro…Chuyện này đến tai ông Quận Trưởng lúc đó là Thiếu Tá Thiện ông công giáo nên không tin, ông đến nhà anh chị Thành nhìn cảnh tượng và nói : Tôi công giáo tôi không tin việc này, làm gì mà có ma lửa, tức thì mũi giày ông đang mang phát lên ngọn lửa, ông hoảng hốt kêu cứu, mọi người phải lấy bao cát dập tắt cho ông … Chuyện lạ nầy xảy ra liên tục trong vòng 4 tuần lễ, ai thách thức là cháy ngay trước mặt, cháy ngay bên cạnh hoặc cháy ngay nhà mình, cháy bất cứ đồ vật gì của người thách thức, tôi ngày ấy thê thảm lắm, cả ngày ở ngoài đường không dám vào nhà, sợ chết oan mạng, đồ đạc quý, tốt, giấy tờ cần thiết luôn nằm ở ngoài sân phòng khi cháy nhà còn giữ lại được những gì cần giữ…Thường thường là đến 2 giờ sáng mới dám vào nhà ngủ, mà cũng lạ lửa chỉ cháy vào ban ngày chứ không cháy vào ban đêm. Tình trạng nháo nhác ăn không được, ngủ không yên cả tháng trời cho quận lỵ Hàm Tân mà cho đến bây giờ tôi mới có dịp viết ra một sự thật lạ lùng này, trong đời tôi chắc chắn không thể gặp lần thứ 2. Nếu vị nào đọc được bút ký ngắn này, mà biết sự thật này, tức là nhân chứng sống hãy đến tìm tôi vì chắc chắn là hàng xóm của tôi trong thời điểm đó rồi bạn ạ ! Tôi không quen viết truyện, hồi ký hoặc làm thơ bằng hư cấu, tưởng tượng, cho nên những gì tôi viết ra đều là thật, thật đến 100% đó quý vị ạ !
Lửa màu xanh … trên thế gian này chỉ nghe và thấy toàn lửa màu đỏ, nhưng ở đây là lửa màu xanh – Một hiện tượng lạ lùng mà đời tôi chắc chỉ một lần nhìn trực diện, phải chi ngày đó được văn minh hiện đại như bây giờ thì chắc hẵn đã ghi lại trên những thước phim quay lịch sử – Việt Nam là một đất nước có nhiều chông gai hiểm trở, nhiều tài nguyên và cũng nhiều kỳ bí lạ lùng mà các nước lân bang không có được – Ngày nay trên xứ Hoa Kỳ văn minh, tôi không còn thấy được những huyền bí xa xưa mà thời tuổi nhỏ đã kinh qua – Đôi lúc nhớ quê hương qua những hình ảnh trong phim, qua những lần tiếp xúc bạn bè nhắc về một thời để nhớ … tôi ray rứt không ngủ được hằng bao đêm, tôi vẫn mong đất nước ngày thanh bình thịnh trị theo mong ước người lưu vong để đồng hương quay về xây lại tổ ấm mà hơn ba mươi năm đã mốc meo tàn tạ và riêng tôi sẽ tìm về quận lỵ Hàm Tân thăm viếng bạn bè, nhắc lại chuyện ngày xưa “ ngọn lửa màu xanh” mà cho đến bây giờ vẫn hằn dấu rất đậm trong đầu tôi, tôi tin chắc dù qua bao cuộc đổi thay vẫn còn những nhân chứng trực diện như tôi ngày xưa để nhắc về một câu chuyện huyền thoại kỳ bí xa xưa mà có thật …


NGUYỄN PHAN NGỌC AN










Nguyenphanan
#51 Posted : Tuesday, September 1, 2009 6:11:34 AM(UTC)
Nguyenphanan

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 536
Points: 0

SUNG SƯỚNG THAY CHO NHỮNG AI CÒN MẸ ! MƯỜNG GIANG
Ngày nay khắp thế giới, đâu đâu cũng có những tượng đài , thơ văn, bài hát, tuồng kịch .. để ca tụng công đức biển trời của người mẹ, mênh mông tám hướng như biển Thái Bình. Bởi Mẹ là nguồn ngọn của mọi tình thương trên cõi đời này . Mẹ cũng là một hình ảnh tuyệt diệu , diễm hằng, muôn trùng ngời sáng, không bao giờ có thể thay thế được. Ôi sung sướng thay cho những ai còn Mẹ và cũng tủi xót cho những người mất mẹ nửa đời, mỗi khi tưởng nhớ, chỉ còn lặng lẽ ước ao ngóng về xóm nhỏ, nơi nhũng bờ bụi khóm tre, ngàn năm lau lách sạt xào.
Con đã bước qua hết hai phần đời, để được thắm thía rằng : chỉ có một nguồn suối tình thương mang tên Mẹ, là vĩnh cửu không bao giờ khô chảy. Thực là cảm động biết bao, khi nhớ lại ‘ Tôi đi học ‘ của Thanh Tịnh ‘ Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh, mẹ tôi âu yếm nắm lấy tay tôi, dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp.. ’ ’ ’ hay nổi nhớ mẹ của Lưu trọng Lư ‘ Tôi nhớ me tôi thuở thiếu thời, lúc người còn sống tôi lên mười, mỗi lần nắng mới reo ngoài nội, Áo đỏ người đưa trước dậu phơi.. ’ ’
Chẵng vậy mà nhà văn Pháp Edmon de Amacid, đã viết trong ‘Tâm Hồn Cao Thượng’, Hà mai Anh dịch rằng :’ Người Mẹ sẵn lòng đem một năm hạnh phúc của mình, để đổi một giờ đau đớn cho con. Người Mẹ cũng sẵn sàng hy sinh cả tính mệnh , để cứu sống con mình. Con ơi, suốt đời con sẽ có những ngày buồn rầu đau thương, và cũng là chuỗi ngày sầu thảm nhất : Ðó là ngày con mất mẹ ‘.
Giờ mới hiểu tại sao có những đứa con, do hoàn cảnh mà phải tha phương , biệt xứ, lưu lạc quê người, lại là những kẻ khao khat tình mẫu tử, nhung nhớ kỷ niệm, dù rằng đó chỉ là những hình ảnh đơn sơ mộc mạc nơi chốn quê nghèo :
“Chiều chiều ra đứng ngõ sau
trông về quê mẹ, ruột đau chín chiều
Mẹ ơi đừng đánh con đau
Ðể con bắt ốc hái rau mẹ nhờ
Ghe bầu trở lái về đông
Con gái theo chồng, bỏ mẹ ai nuôi”
Ðó là những câu ca dao hay nhất từ trước đến nay, đọc từ đầu đến cuối không tìm thấy một chữ nào thần bí hay cầu kỳ nhưng trong ý nghĩa và mùi vị, thì đượm thắm nồng nàn , khiến cho người ta phải đau khi nhớ và không cầm nổi nước mắt khi thực sự đối mặt với chiều buồn. Cũng cùng trong cái hình ảnh trên, người buồn hồn lại thêm buồn, khi nhà ai bên ngõ, bỗng dưng vô tình có tiếng gọi con, trong khi lưng trời, chiều tàn, đàn chim về tổ, ríu rít gọi nhau, làm cho nổi nhớ quay quắt không ngừng, khiến cho đứa con lạc bầy, bừng bừng nhớ mẹ, rưng rưng nhớ lúc nói láo tránh đòn, khi về nhà trễ vì ham chơi với bạn sau khi tan trường.
Rồi thì lưu lạc mười phương cơ hàn đói lạnh, gian truân tù ngục, hận hờn thương tủi, chỉ một mình con gánh chịu, chính là lúc nước mắt lưng tròng, bâng quơ tưởng tiếc cái thời ngồi chờ mẹ về , để có những món quà của buổi chợ quê, mà mẹ luôn dành sẵn :
“cơm người khổ lắm mẹ ơi
không như cơm mẹ, chỉ ngồi xuống ăn”.
NHỮNG GƯƠNG HIẾU TỬ XƯA NAY ÐƯỢC ÐỜI XƯNG TỤNG :
Mẹ là nguồn ngọn của mọi tình thương trên cõi đời, nên rất phù hợp với chân lý của mọi tín ngưỡng, đều lấy nhân hiếu làm căn bản xử thế và hành đạo. Bởi thế con người, trong lúc gặp hoạn nạn đau khổ, thì thường than thầm hay gào to :’ Mẹ ơi con khổ quá’ , đồng thời với lời cầu khẩn các đấng thần linh giúp đỡ. Do trên , từ trước tới nay, tự đông sang tây, đã có mẹ hiền thì cũng không thiếu gì những gương hiếu tử, đáng làm gương cho hậu thế soi chung muôn đời. Những câu chuyện kể sau dây, chỉ là những chiếc lá lẻ loi trong rừng thơ, nhạc, truyện, ký.. mà nhân thế kim cổ đã sáng tạo, để vinh danh những trang hiếu tử ngời sáng muôn đời .
Theo Ðại Nam Nhất Thống Chí, có viết về Nguyễn Văn Liễu người Phan Thiết, thuộc phủ Bình Thuận. Năm lên 8 tuổi, mồ côi cha, ông thờ mẹ rất có hiếu. Khi mẹ chết, làm lều bên mộ me tới ba năm, người đương thời ai cũng xưng tụng. Năm Minh Mạng thứ 8, vua nghe tiếng, biểu dương là trang hiếu tử.
Joseph Sadese sinh năm 1935 tại Toulouse (Pháp). Năm 1956 cha bị thất nghiệp, ông phải tình nguyện đăng lính, để có tiền giúp đở gia đình. Sau đó lại chuyển sang binh đoàn lính đánh thuê Lê Dương, để lấy trước tiền tử tuất, gởi về nhà lo thuốc thang cho mẹ bị bệnh nặng, cũng như giúp đỡ các em kiếm sống.Tại Algerie, trong một trận kịch chiến, ông bị thương nặng phải cưa một chân nhưng vẫn xin ở lại trong quân ngủ, để có đủ tiền lo cho mẹ già, em dại. Nhưng rồi năm sau, nhận được điện tín, báo tin mẹ già đã qua đời, bèn tức tốc trở lại quê, thì người nhà đã chôn mẹ. Ông vội chạy ra nghĩa trang, ôm mồ mẹ than khóc thảm thiết và nói :’ mẹ ơi, con đi lính là để lo cho mẹ, nay mẹ không còn, thế là hết ‘.
Nhạc Phi (1103-1142) là một danh tướng, đồng thời cũng là một vị anh hùng của Trung Hoa. Ông sống vào thời Nam Tống, tự là Bằng Cử, người Huyện Thang Âm, tỉnh Hà Nam. Nhà nghèo nhưng học hành chăm chỉ , lại được từ mẫu giáo dục từ thuở nhỏ , nên tài đức vẹn toàn. Trước khi trở thành đại tướng nắm giữ binh quyền cả nước, mẹ ông đã khắc vào vai con bốn chữ : ‘ Tận Trung Báo Quốc ‘ . Do trên suốt đời Nhạc Phi chỉ biết vì dân vì nước và cuối cùng đã bị tên Hán gian Tần Cối, tư thông với giặc Kim, hãm hại, vu cáo, chết trong ngục, lúc mới 39 tuổi, dù biết nhưng vẫn cam chịu. Người Trung Hoa luôn lấy Nhạc Phi làm gương , đời đời kính nhớ người con chí hiếu, cũng là một người anh hùng dân tộc, một bậc sĩ phu dũng liệt trung thần.
Thẩm Lục Hưng người Tân Trịnh, Duyên Châu, sống vào đời Vua Tống Huy Tôn (1174-1189), Trung Quốc. Ông mồ côi cha từ thuở nhỏ nhưng được mẹ hết lòng nuôi nấng và dạy dỗ nên người, cho ông ăn học thành tài. Năm 25 tuổi, Thẩm Hưng thi đổ, được bổ Tri Huyện . Trong vùng có một hào phú, đem tặng ông 30 lượng vàng, để xin khẩn hoang vùng đất còn trống ven huyện . Người này còn thuyết phục ông, nên bắt chước các quan tiền nhiệm, phải biết tham nhũng, hối lộ, để trở thành giàu có, sống sung sướng nhưng bị ông từ chối và nghiêm phạt.
Mười năm sau, thân mẫu ông tuổi già nên bị bệnh nặng . Lúc đó có một hào phú mang đến tặng ông một túi nhân sâm cực quý, để xin quan huyện giúp cho con trai mình thi đổ trong kỳ thi sắp tới. Thẩm Hưng vui vẻ nhận lời và nói :’ Mẹ tôi đang lúc đau nặng, nhờ túi sâm này , hy vọng sống thêm được vài năm nửa.’ Thế là từ đó cho đến ngày thi, thay vì gửi gấm , quan Huyện thu xếp thời giờ riêng, đích thân dạy kèm cậu con trai ông phú hộ. Nhờ đó, em được thi đổ, còn mẹ ông uống nhân sam quý, nên sống thêm được vài năm nửa, mới qua đời. Ðây là tấm gương cao quý, mà người Trung Hoa xưa nay thường lấy đó để dạy dỗ con cái mình.
Tác phẩm Nhị Thập Tứ Hiếu của Tàu, được Lý văn Phức diễn nôm, thuật lại gương hiếu tử của 24 người con Trung Quốc, đời đời được mọi người lấy đó làm gương , trau dồi đức hạnh. Trong các câu chuyện trên, theo mọi người, chuyện Ngô Mạnh Tông, nằm ván khóc măng là cảm động nhất. Ông mồ côi từ thuở nhỏ nhưng ở với mẹ rất có hiếu. Năm nọ mẹ bệnh nặng lại thèm ăn chén canh măng. Lúc đó trời vào đông, có mưa tuyết dầm dề, vạn vật kể cả con người đều như muốn chết cóng dưới cái lạnh kinh hồn của đất trời., thì tìm đâu để mẹ có măng ăn trong lúc đó. Có lẽ tấm lòng hiếu tử đã cảm động tới Trời Phật, , nên trong cảnh mưa tuyết dầm dề, bổng mọc lên một mụn măng nõn nường ngon tuyệt. Mẹ già nhờ ăn được chén canh măng nên khỏi bệnh :
“Giữa bình địa, phút giây bổng nứt
mấy rò măng, mât đất nõn xanh
Ðem về nấu được bửa canh
Ăn rồi bệnh mẹ, lại lành như xưa
Cho hay hiếu động cao dày
Tình sâu nên khóc, cỏ cây cũng tình” ..
TÌNH MẪU TỬ TRONG THẾ GIỚI ÐỘNG VẬT :
Gần 40 năm về trước , nhà sinh vật học được giải Nobel năm 1973 là Konred Lorenz , chuyên nghiên cứu về sự tiến hóa của loài vật, đã cùng với nữ bác sĩ thú y là Marie Claun Bonsel, chuyên theo dõi đời sống của muôn thú. Qua nhiều năm thu nhặt, kết quả hai người đã tuyên bố :’ Dù con người có nghĩ thế nào chăng nửa, hoặc sự việc xảy ra do bản năng, thì chắc chắn muôn vật sẽ không còn tồn tại, nếu chúng không có tình mẫu tử .’
Do trên ta đã thấy, trong bất cứ loài thú nào, ở vào giai đoạn cực kỳ nguy hiểm , thì thú mẹ luôn lấy thân mình bảo vệ cho con cái, dù biết là mình sẽ chết. Tuy nhiên có sự khác biệt giữa con người và muông thú, đó là con vật mẹ sẽ không thấy có lỗi , khi bỏ rơi con cái hay giành lấy thức ăn để sinh tồn , mặc kệ con cái có bị chết đói cũng không màng tới. Cũng do đặc tính này mà các nhà nghiên cứu đã kết luận, thú vật chỉ có bản năng tình mẫu tử, chứ không hề có tình yêu tình mẫu tử như con người. Nhưng dù thế nào chăng nũa , ta cũng phải khâm phục chúng, trong khi đối xử với con cái , hết sức dịu dàng, trìu mến , giữa một thế giới vạn vật luôn thù nghịch, đầy hiểm họa, phải giết tróc lẫn nhau để sinh tồn.
Ðối với các loài thú hoang dã, khi thú con dứt sửa, thú con bị đuổi đi để tự sinh tồn. Ðây cũng là tập quán , lẽ sinh tồn của rừng xanh. Với loài khỉ đột, khỉ cái do mỗi lần sinh đẻ chỉ độc nhất một con, cho nên chăm sóc con mình rất chu đáo, can thận. Riêng khỉ đực thì dửng dưng vô trách nhiệm, vì loài khỉ theo chế độ đa thê. Loài báo bờm khi sinh con, báo con không có lông và mở mắt được trong 15 ngày, nên báo mẹ phải chăm sóc và bảo vệ con nhỏ , đồng thời bỏ đàn tìm một nơi vắng vẻ đê nuôi con, vì báo cha sẽ ăn thịt báo con khi đói.

Nhưng vĩ đại nhất vẫn là tình yêu con cái nơi loài chim cánh cụt , chúa tể của miền băng tuyết Nam Cực, một địa danh lạnh nhất hoàn cầu. Ðể chim con ra đời và sinh tồn, chim cha và chim mẹ phải thay phiên đứng giữa băng giá lạnh lẽo , suốt thời gian bốn tháng rưởi, dùng bản thân mình để ấp trứng . Riêng loài Vượt Châu Á, một loài thú được con người ca tụng nhất, vì tình mẫu tử thiêng liêng bất diệt, yêu thương con cái hết mực, nên lúc nào cũng sẵn sàng lấy thân mình , để che chở con cái khi hiểm nguy. Cũng do tình mẫu tử thiêng liêng, nên các ác thú như cọp, sư tử, rắn hổ mang mẹ, sẽ trở nên hung dữ dị thường, để bảo vệ con khi chúng sinh nở. Ðặc biệt nhất nơi loài gấu, vì sợ gấu cha ăn thịt, nên gấu mẹ lúc nào cũng cõng gấu nhỏ trên lưng khi chúng mới ra đời. Do tình yêu thiêng liêng đó, nên tục ngữ mới có câu : ‘ Hùm dữ còn không nở ăn thịt con ‘.
Ý NGHĨA CỦA MẸ TRONG NGÀY LỄ VU LAN :
Tình mẫu tử bao la đã theo thời gian trở thành nguồn cảm hứng vô tận, như con thuyền bát nhã, đưa con người trần tục đến gần các đấng từ mẫu, trong mọi tôn giáo lớn của hoàn cầu. Trong dòng lịch sử Hồng Lạc, chúng ta có Mẹ Âu Cơ , quốc mẫu của dân tộc Việt và được nối tiếp bởi một trái tim từ mẫu thời cận sử : Thái Hậu Từ Dũ, một trái tim nhân từ của các bà mẹ Việt Nam :
“Gió Ðộng Ðình mẹ ru con ngủ
trăng Tiền Ðường ấp ủ năm canh
bống bồng bông, bống bồng bông
võng đào mẹ bế con rồng cháu tiên ..( ca dao )
Riêng trong tín ngưỡng bình dân , ta có Thánh Mẫu Liễu Hạnh ở miền bắc và Mẫu Thiên Y A Na, dù phát nguồn từ Chiêm quốc, nhưng từ thế kỷ XVI trở về sau, đã được người Việt phụng thờ , mà Hội Ðiện Hòn Chén hay lễ Viá Mẹ hằng năm vào rằm tháng bảy tại Thừa Thiên, là một minh chứng . Ngoài ra, còn có Ðức Phật Bà Quan Thế Âm Bồ Tát của Phật Giáo và Ðức Me Ðồng Trinh Maria trong Ky Tô Giáo..
Hằng năm, tại các nước Âu Mỹ đều cử hành long trọng ngày ‘ Nhớ Ơn Mẹ (The Mother’s Day)’ . Tại các nước Ðông Nam Á theo Phật Giáo vào ngày rằm tháng bảy âm lịch, đều cử hành long trọng Hội Vu Lan Bồn. Cả hai lễ hội trên, tuy hình thức có khác biệt nhưng vẫn chung nội dung với ý nghĩa ‘ VINH DANH CÔNG ƠN SINH THÀNH DƯỠNG DỤC CỦA TỪ MẪU ‘.Ðây là một ngày lễ lớn và cũng là dịp để con cái tu nhơn tích đức, làm việc từ thiện trả ơn , báo hiếu cho cha mẹ mình, dù còn sống hay đã qua đời.
Lễ Vu Lan, Tết Trung Nguyên hay Ngày Rằm Tháng Bảy Xá Tội Vong Nhân.. đều là những nghi thức cúng bái của nhà Phật. Theo sử liệu cho biết, phong tục này đã có từ mấy ngàn năm về trước và đến nay, vẫn còn được tồn tại một cách tốt đẹp, trang trọng hầu hết tại các nước Ðông Phương theo tam giáo : Nho-Lão và Phật. Trọng tâm cao siêu của ngày lễ này là để các tín đồ, vì trung tiên vong linh của tiền nhân mà làm tròn đạo hiếu. Nghi thức Vu Lan Bồn theo nguyên ngữ của Phạn ngữ là ULAMBANA, có nghĩa là Cửu Ðàn Huyền, mang ý nghĩa cứu độ siêu vớt cho tất cả chúng sanh , vì tội lỗi tiền kiếp nên phải bị hành hạ khổ nhục trầm luân, treo ngược đầu tại các tầng địa ngục nơi âm phủ.
Theo hầu hết giáo lý của các tôn giáo hoàn cầu như Phật, Ky Tô, Bà La Môn và Hồi giáo, thì nhân sinh lúc sống làm chuyện ác đức, lăng loàn, phản dân, hại nước, hại người, buôn trời bán thánh.. lúc chết, kẻ đó phải sa vào dịa ngục , để đền lại các quả báo mà chính mình đã gieo trồng . Theo nhà Phật, cõi âm có tất cả 12 tầng hỏa ngục nhưng kinh khiếp nhất vẫn là Ngục A Tỳ, theo nguyên nghĩa của Phạn Ngữ, chỉ nơi chốn giam người, không bao giờ gián đoạn sự hành hạ. Ai đã bước vào đây rồi, thì đời đời kiếp kiếp, vỉnh viễn không bao giờ được đầu thai trở lại kiếp người. Ngoài ra từng phút giây phải chịu ngàn muôn hình phạt khổ đau, không bút mực nào tả được, như truyện Quan Âm Thị Kính đã viết :
“Lại xem một ngục A Tỳ
Mấy tầng chông sắt , đen sì tối om”
Cũng trong học thuyết ghi nơi Vu Lan Bồn kinh có kể chuyện Mục Kiền Liên, xuống điạ ngục cứu me. Theo Phật sử, Mục Kiền Liên Bồ Tát là đệ tử của Phật Tổ Như Lai, tuy đã đắc thành chánh quả nhưng ngài vốn là một hiếu tử, nên lòng vẫn xót xa đấu nhói, vì mẹ ruột là Thanh Ðề, hiện đang bị quỷ sứ giam giữ hành tội tại ngục A Tỳ. Do trên, ngài đã khẩn cầu Ðức Thế Tôn, cứu vớt mẹ mình khỏi vòng nghiệp chướng. Phật Tổ ưng chịu nhưng bắt Mục Liên khi xuống âm phủ cứu me, đồng thời cũng phải giải thoát luôn các vong linh khác, đang bị giam giữa hành tội nơi địa ngục, nhân ngày cuối cùng kết thúc kỳ an cư mùa hạ, nhằm ngày rằm tháng bảy âm lịch.
Do ý nghĩa trên hằng năm đúng vào ngày này, các tín đồ Phật Giáo đã lập hội Vu Lan Bồn. Tai Trung Hoa thời Nam Bắc Triều, chính vua Lương Vũ Ðế, là người đầu tiên khai Hội Vu Lan, kể từ khi Phật Giáo Ðại Thừa được truyền từ Ấn Ðộ vào đất Tàu. Vu Lan Bồn ngoài việc bầy tiệc chay cúng dường Tăng, Ni, còn cử hành thêm Thủy Lục Ðạo Tràng và Phóng Diêm Khẩu, để bố thí cho các oan hồn uổng tử , không thân nhân cúng quẩy thừa tự.
Theo truyền thuyết, Mục Liên đã nhờ bình bát và gậy phép của Phật Quan Âm để vượt qua các tầng địa ngục. Nhưng trên hết là do lòng hiếu tử đã làm cảm động tới Phật Trời, nên ngài chẳng những cưu được mẹ già mà còn giải thoát được những oan hồn uổng tử đang bị đọa đày nơi địa ngục. . Nhân đó, Mục Liên xin mẹ thành tâm ăn năn sám hối, quyết lòng tu niệm để giải trừ nghiệp chướng tội lỗi đã trót gây ra. Nhờ vậy Thanh Ðề sau này cũng đắc thành chánh quả. Ngoài ra trong ngày lễ Vu Lan, còn có tục cúng cháo và đốt vàng mã .
TỤC CÚNG CHÁO :
Trong ngày Tết Trung Nguyên nhằm Rằm Tháng Bảy, tại tư gia cũng như nơi đình chùa, ngoài cỗ bàn cúng Trời Phật, Thổ Công, Tổ Tiên.. còn có tục cúng cháo cho các cô hồn , tử sĩ đang vất vưởng nơi cõi ta bà, không ai thờ phụng cúng tế, thật là thê thiết tội nghiệp. Theo tập tục cổ truyền, mâm cỗ cúng cô hồn , được đặt trước cửa nhà, chùa, đình, cầu quan, chợ búa hay bãi tha ma.. Ðồ cúng thường được bày trong một nia lớn , gồm có cháo hoa nấu bằng gạo, thêm cơm vắt thành nắm, hoa quả, bánh kẹo, trầu cau và vàng mã.
Tại các đình chùa, lễ cúng cháo được tổ chức qui mô hơn, có lập đàn tràng cầu siêu cho các vong linh, trước khi thí cháo. Tại đây, cháo được đựng trong các bồ đài lá mít , cắm dọc theo hai bên vệ đường dẫn vào lễ đài. Ngoài ra còn thêm một nồi cháo lớn , để trước sân chùa. Ở vùng quê Bắc Phần, khi cúng xong, đã có những người nghèo và bọn mục đồng chờ sẵn, xông vào giựt cháo. Tục này được gọi là Cướp Cháo, hiện vẫn còn thịnh hành tại các tỉnh Bắc Trung Phần và Bắc Việt. Cũng như tại miền quê Trung Hoa.
TỤC ÐỐT VÀNG MÃ :
Tục này từ Trung Hoa truyền vào Việt Nam thời Bắc thuộc. Bên Tàu, thời xưa, trong ngày Lễ Vu Lan, người ta dùng bạch ngọc làm lễ vật, cúng đốt cho người chết. Về sau, thấy bạch ngọc quý hếm và mắc mõ, người ta lại dùng tiền thật để thay thế. Số tiền này cũng được đốt bỏ sau khi đã cúng cho người chết. Trước sự phí phạm vô ích tai hại trên, vua Ðường Minh Hoàng , ban lệnh dùng tiền giấy thay thế tiền thật, để cúng cho người cõi âm. Về sau, vào thời Ngũ Ðại, trong ngày Lễ Vu Lan, ngoài việc đốt tiền giấy, còn thêm tục đốt vàng mã cho người đã khuất, gồm quần áo, đồ dùng, kể cả xe ngựa và nhà cửa. Lại còn có tục làm một chiếc giường ba chân bằng tre, để đựng các đồ cúng lễ. Tất cả đều được đốt bỏ , sau ngày lễ Vu Lan. Ngày nay tất cả các nước theo Phật giáo, hầu như đã bãi bỏ tục đốt vàng mả, hoặc chỉ đốt tượng trưng mà thôi, vì quá tốn kém.
Tháng bảy mùa thu còn chớm và bắt đầu những trận mưa ngâu, dù trời chỉ thoáng một chút heo mây nhè nhẹ. Ven đường những cánh phượng vỹ cuối cùng , đã mất đi màu hoa rực rỡ., tơi tả rơi rụng trên đôi bờ vai khô héo của đời. ‘ Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc ‘ màu trời và nước mưa, mênh mông như dãi Ngân Hà, chứa đầy những giọt nước mắt, từ các cuộc tình trên cõi tiên , mà truyền thuyết cho là của Ngưu Lang và Chức Nữ.
Mùa thu cũng là mùa trái cây chín rộ với ổi, sấu, xoài, chuối và cốm vồng .. bầy bán đầy trong những quán nước dọc đường, bên trong bà cụ nghiêng cánh liếp che mưa, đã thấy hồn run theo mưa ngâu, thứ mưa thập loại chúng sinh, thấp thoáng đầy bóng âm hồn, nhởn nhơ đợi chờ trần gian vong nhân xá tội.
Tháng bảy tiết trời Hạ Uy Di như đã chuyển sang thu, sắc nắng gió biển và những cơn mưa phùn bất chợt se mát, đã gợi nhớ những kỷ niệm quê hương của một thời xưa xa nồng thắm. Ở đây, mỗi lần nhớ mẹ, đứa con xa nhà lãng du khổ hận, chỉ còn ước ao lặng lẽ, khóc cưới mê tỉnh và bước vội lên con thuyền viễn xứ mộng mơ, để nhắm mắt mừng vui tủi tủi như thấy con đang quỳ bên gối mẹ năm nào.
Mưa ngâu muôn đời, năm nào cũng đầm đìa lặng lẽ. Chắc vì Chức Nữ-Ngưu Lang đã quá vui mừng , cho nên chỉ cắn răng âm thầm nuốt lệ ? hay vì tháng bảy ngày rằm xá tội vong nhân, ngày ma gặp người, nên ai cũng tủi buồn mà quên cười rộ ? chỉ riêng có con với mẹ, thì ngàn đời xa biệt, dù trong đêm mưa ngâu tháng bảy, đứa con viễn xứ đã chạy theo mưa, mà gào to :’ mẹ ơi, con của me đã về ‘
Tháng bảy năm nay trời càng buồn hơn vì tôi vừa mất thêm một người mẹ !
Viết từ Xóm Cồn Hạ Uy Di - Mùa Vu Lan 2009
MƯỜNG GIANG

Nguyenphanan
#52 Posted : Sunday, September 20, 2009 12:45:58 PM(UTC)
Nguyenphanan

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 536
Points: 0

San Jose 9/09
Kính gửi thi sĩ Hà Thượng Nhân

Bố thương kính

Từ khi con rời quê hương đến nay đã 18 năm rồi, cơ duyên văn nghệ cho con gặp bố và bố đã nhận con là con gái thơ của bố - Lúc ấy cha con vẫn còn sống bên Việt Nam, con đã vui biết bao khi có được hai người cha, bố nuôi ở Mỹ và bố ruột ở Việt Nam – Trong tâm con lúc nào cũng quý trọng hai người bố như nhau và niềm vui sinh hoạt thơ văn đã đưa con gần gủi với gia đình của bố từ đấy.

Con vẫn nhớ vào những năm 93, 94 bố đi đâu cũng phải chống gậy, con đã từng dìu bố đi khắp những nơi bố tham dự, tính bố rất khiêm cung và hiền hậu, bố chẳng bao giờ lên ngồi những chiếc ghế mà Ban Tổ Chức dành cho bố, bố chỉ ngồi trên những chiếc ghế dưới cùng của buổi sinh hoạt, tính bố dễ chịu và đáng kính như vậy đó, vì thế con đã nhận thấy sự thương mến kính nể của mọi người khi tiếp xúc với bố, con vui và hãnh diện có được người bố văn thơ như thế. Ông Trời cũng thương bố lắm, chỉ sau một thời gian chưa tới một năm bố khỏe ra và bỏ hẳn cây gậy đến ngày nay, sau đó bố mập mạp và tươi trẻ hồng hào trở lại, nhất là tâm hồn bố như chàng trai tuổi trung niên, yêu đời, yêu người, yêu vạn vật xung quanh, nhất là bố yêu thơ say đắm…

Bố chả bao giờ biết giận hờn ai, bố chỉ cười xòa khi có ai đó nói hành nói tỏi về bố, có lúc họ đưa bố lên cả báo đặt điều châm chích chuyện riêng tư tình cảm của bố, có lúc họ đưa bố lên báo vì tự ái vì cái tôi, nhưng tất cả hoàn toàn vô nghĩa vô tác dụng với con người thật chân chính vô tư của bố - Con học được ở bố rất nhiều đức tính tốt mà cho đến bây giờ tuy con không còn gần gủi săn sóc bố như mười mấy năm qua, con vẫn luôn ghi nhớ và thương quý bố vô cùng …

Bố đã từng là nhà báo nổi tiếng từ thập niên 50,60, bao nhiêu tờ báo bố phụ trách, rồi trang thơ Ðàn Ngang Cung mãi đến bây giờ vẫn còn vang vọng trong lòng độc giả, nói đến tên bố ai cũng trầm trồ : Ông ấy làm thơ nhanh lắm và hay lắm, xuất khẩu thành thơ, ai mà không biết danh ông ấy - Vậy mà bố chả thèm in lấy một cuốn thơ dù con đã nói nhỏ nói to biết mấy chục lần với bố - Thơ của bố bây giờ tản lạc khắp nơi, chứ nếu gom lại được phải đến mấy ngàn bài thơ đó bố - Nhiều lần con xin mãi bố cũng đưa thơ cho con, có khi con nhặt được vô tình đâu đó hay cố ý hỏi thăm Trần Thiện Ðạt xin được những bài thơ từ mấy thập niên qua của bố con in vào sách hoặc post lên các diễn đàn, tính ra con có nhiều thơ của bố nhưng chỉ là trong muôn một số thơ của bố mà thôi - Nhiều người góp ý in thơ cho bố để lại mai hậu thưởng thức bố đều gạt phăng ra không đồng ý, bố coi cái danh chỉ là hư ảo, bố nói cái thực đây mới là quý, sống làm sao khi chết rồi vẫn được mọi người nhắc nhở tiếc thương …Ðối với làng thơ bố là cây cổ thụ, bởi vậy ngày nay bố có biệt danh là Hà Chưởng Môn, là Thi Bá - Qua tấm lòng quý trọng mọi người đã đặt cho bố hai bút danh này từ cả chục năm qua.

Trong nhiều năm con gần gủi gia đình bố, con tự thấy vui vô cùng vì đã được mẹ và bố thương yêu, các anh chị trong gia đình cũng quý mến con, đi đâu con cũng được bố giới thiệu với mọi người là con gái của bố, có người thắc mắc hỏi có phải là con ruột, bố trả lời : con nuôi hay con ruột cũng là con, nó là con gái thơ nhưng chăm sóc chẳng khác gì con ruột, tôi đau bệnh nó chở đi Bác Sĩ, tôi muốn ăn uống gì nó đi chợ mua, ngày nào nó cũng dành thời giờ đến đây với vợ chồng tôi, như thế chả là quý lắm sao …
Có một lần con chở bố và mẹ đi mua vài món cần thiết chỗ chợ Rite Aid trên đường S. Park Victoria, khi mẹ đã ngồi ghế trước xong xuôi, con đợi bố lên ghế băng sau cả đến 5 phút, hỏi bố xong chưa bố trả lời xong rồi, con đề ba xe thật chậm khi nhìn kiếng chiếu hậu thấy bố đã ngồi lên băng nghế, ai dè … úi trời ơi, chết tôi – Con hoảng hồn khi nghe tiếng la yếu ớt của bố, thì ra bố còn một chân bên ngoài cửa xe nên bố rớt xuống lề và con mừng quá khi bố chẳng hề hấn gì và từ đó con rất cẩn thận khi chở bố mẹ cũng như những người già cả như các cụ Trùng Quang, Võ Toàn, Ðinh Việt Liên …

Bố thương kính – năm 1999. cha ruột con qua đời tại Việt Nam, mẹ con thì mất từ năm 1989 nên con hoàn toàn mồ côi và từ đó xem bố mẹ như là cha mẹ ruột của con, con dành rất nhiều thì giờ và tình cảm cho bố mẹ, đã có vài người vì tâm địa hẹp hòi bảo là con làm chuyện tào lao, chuyện bao đồng, ông bà ấy có con cái tại sao NA phải hầu như thế, với tôi thì đừng hòng, con thẳng thắn trả lời : Thôi chị ạ - Mình không có tiền bạc của cải để giúp người, mình giúp chút công để lấy phước cho đời sau chị ơi, hơn nữa đây là bố mẹ nuôi của tôi mà.
Bố ơi, con đâu ngờ sau đó họ đã phá con, ly gián con và gia đình bố bằng cách thọc gậy với mẹ rằng con chuyên môn chở bố đến nhà một nữ sĩ - Khổ thay người nữ sĩ này vì quý mến bố nên có làm thơ qua thơ lại và bị mẹ nghi ngờ suốt thời gian qua – Con đã thanh minh dùm chị ấy nhiều lần nhưng mẹ vẫn chưa tin - Bố khổ sở biết bao trước câu chuyện bịa đặt ác tâm này và mẹ đã rầy ra liên tục khiến bố quên ăn bỏ ngủ cả tháng trời !
Con giận mẹ nhẹ dạ nghe lời kẻ xấu, lại nữa họ đến chở mẹ đi đây đi kia, họ đã nói “với tôi thì đừng hòng”, vậy mà làm ngược lại, nịnh nọt mẹ mọi bề, dành chở bố và mẹ đi mọi nơi, hất con ra khỏi gia đình bố - Từ đấy con giận mẹ và không đến gia đình bố nữa, chỉ thỉnh thoảng gọi phone thăm bố thôi – Con biết qua phone bố vẫn thương con như xưa, mỗi lần bố đón nhà thơ từ phương xa về, hoặc có party tổ chức tại nhà là y như không có mặt con nữa vì kẻ xấu kia đâu cho bố gọi con đến, con đành chịu thua trước âm mưu xảo quyệt của họ và con xa dần bố mẹ từ đấy …

Hôm nay trời sắp vào thu, cơn gió chiều hắt hiu buồn từ đâu đưa đến, tiếng điện thoại reo vang, từ Việt Nam gọi qua, tâm linh báo cho con điều chẳng lành ! Và bố ơi, khi nghe tin dữ bên gia đình con, con chỉ muốn chết đi cho rảnh cuộc đời, con đã khổ triền miên với chồng nên chia tay ba mươi năm rồi, nhưng nợ đời của con còn quá nặng với thằng con út, con trả mãi không xong và có lẽ … thằng con út của con sắp về cõi vĩnh hằng !
Dù đau đớn thế nào con cũng phải đến thăm bố ngày bố theo đạo Chúa – Cha đang giảng, luật sư đọc bài kinh, bố thì nằm dựa sofa đôi mắt mệt mỏi nhắm nghiền, miệng thở từng chập – Con nhìn bố mà đau trong lòng, chả biết bố còn sống với chúng con được bao lâu nữa, nhân sinh cõi vô thường, ai biết trước được đâu, bố còn khẳng định với con là bố sinh năm 1914, như thế bố đã 95 tuổi rồi sao ? Con không tin nhưng bố bảo đó là sự thật tuổi bố, con ngậm ngùi lấy gối cho bố tựa đầu cho đỡ mệt, con thương bố vô cùng khi nhìn bố gầy ốm hơn ba năm trước nhiều, con cầm tay bố mà rưng giọt lệ, tay bố yếu lạ lùng và chỉ còn xương da nhợt nhạt – Cùng lúc ấy nhà thơ Tố Nguyên và nhà thơ Võ Thạnh Văn đến thăm bố, bố tuy yếu gầy già cọp hẵn đi thấy rõ nhưng vẫn tỉnh táo nhận ra ngay những người em cháu đến thăm – Con muốn được nghe bố nói chuyện thơ văn như mấy năm về trước cho chúng con nghe nhưng buồn quá bố ơi, con nhắc mấy lần mà bố không nói nổi, bố chỉ gật gật và thốt từng tiếng một làm se thắt cả tim con…
Kính thưa bố - Con viết thư này như một lời trần tình, để bố hiểu cho con vì sao thời gian qua con không đến săn sóc lo cho bố như mười mấy năm qua, và con tin chắc bố thừa biết nguyên nhân tệ hại này, tuy thế bây giờ con quên hết rồi, không giận mẹ nữa và thương bố vô cùng – Con cũng thương mẹ nữa khi nghe bố thì thào : Con ơi bà ấy bây giờ lẫn rồi, ai đến thăm cũng không biết là ai nữa, ngay cả con, bà ấy cũng không nhìn ra đâu ! Ðời con người đã đến giai đoạn cuối, con nhìn bố, nghe chuyện mẹ mà nghĩ tới viễn ảnh của mình, nhớ tới chuyện thương đau trong lòng, con như đứt từng đoạn ruột bố biết không – Con ngồi mãi với bố không muốn về, chỉ sợ lần sau có còn gặp bố nữa không !

Lá thư này con viết giữa đêm khuya, cảm giác chán đời bỗng dưng ập đến, hai năm rồi con bỏ thung lũng hoa vàng mà đi, nơi đây cho con rất nhiều kỷ niệm khó quên, vì thế con lại quay về và lần này chắc con không đi đâu nữa bởi con đang muốn làm một điều gì mà con đã tâm nguyện mấy năm nay.

“Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” Cali vào chớm thu khác nào mây giăng sầu tám hướng, con tưởng tượng đâu đây tiếng lá vàng rơi nhẹ bên hiên, con liên tưởng đời người cũng chẳng khác chi chiếc lá, xanh rồi vàng rồi rụng … ngắn ngủi thay cho một kiếp người, chưa làm được gì đã vội ra đi – Con cũng già rồi bố ơi, cũng đi dần theo bố mà thôi !
Con mong bố sống thêm đến ngày mừng 100 tuổi, con nghèo đến đâu cũng nhất định làm tiệc ăn mừng bố của con, một nhà thơ nhà báo chân chính, một chiến sĩ hào hùng đầy chí khí, một người cầm bút tài ba lỗi lạc khó ai bì, một tâm hồn bác ái từ bi khiêm nhượng … tìm đâu ra trong cõi sống thác loạn này, chỉ lo tranh đua hơn thiệt , háo danh bè phái, xem đạo đức nghĩa nhân như là sương khói …

Bài thơ bố viết tặng cho con mười mấy năm rồi, con biết bố chẳng còn nhớ nội dung đâu, con xin ghi lại đây để làm món quà tinh thần bố đã cho con, nếu bố sống được 100 tuổi như con mong ước là nhất định chúng con sẽ ăn mừng đại thọ - Con quý bài thơ lắm, mỗi lần con đọc bài thơ là khuôn mặt bố như đâu đó mĩm cười khích lệ con, con đứng vững một phần là do bài thơ của bố đó, bố biết không ?
Thư đã dài, con xin ngừng bút – Kính chúc bố mãi mạnh khỏe, thân tâm an lạc để sống thêm với gia đình, với anh chị em thân hữu, thi văn hữu, với mọi người thương quý bố cũng như con thương quý bố vô cùng.

Ðây là bài thơ bố đã viết tặng con năm 1995 :

BÀI THƠ KỶ NIỆM

Con xin Bố bài thơ làm kỷ niệm
Một trăm câu…cuộc sống một trăm năm
Ta mĩm cười lặng lẽ ngước nhìn An
Người phụ nữ yêu thơ và thích nhac…

Ta vốn sống một cuộc đời đạm bạc
An nhận ta làm Bố của văn thơ
Ta nghe qua mà lòng thật không ngờ
Giữa nước mỹ, giữa văn minh nguyên tử

Phải nhà cửa, phải tiện nghi đã chứ
An biết không, thơ chẳng thể nuôi thân
Còn ai nghèo hơn mấy gã thi nhân
Là duyên nghiệp từ ngàn xưa đã vậy…

Nhưng chắc hẵn nàng thơ thừa biết đấy
Thờ Phật Trời nào có lợi gì đâu
Trời không cho không đãi chuyện sang giàu
Chỉ cần giúp một niềm tin để sống

Ðể phấn đấu, để luôn luôn hy vọng
Nếu cõi trần chẳng có một bông hoa
Nếu ngày xuân không có nắng chan hòa
Nếu tuổi trẻ không thấy lòng rung động

Ngắm tà áo ai bay bay trước cổng
Nếu cuộc đời chẳng còn có giai nhân
Không thi ca, âm nhạc, chỉ còn ăn
Thì cuộc sống có gì là thú vị ?

Sống như thế, còn có chi mộng mị
Như muông chim, ta chẳng muốn làm người
Khi chúng ta còn biết khóc biết cười
Khi nhắc đến Việt Nam còn nhỏ lệ !

Thấy nghèo khổ cứ cúi đầu mặc kệ
Thấy bất công cứ ngoảnh mặt làm thinh
Trước điêu ngoa cứ không chịu, bất bình
Cứ tồn tại, ù lì như gỗ đá …

Khi tất cả chỉ còn là băng giá
Ta không còn đến cả những cơn mơ
Lũ chúng ta vì thế phải làm thơ
Khi no đủ, người phải cần biết đẹp

Khi ta đói, bát cơm đầy bụng lép
Ðã no rồi, ta phải thích ăn ngon
Ðọc ca dao, ta bỗng thấy bồn chồn
Nghe câu hát bỗng thấy lòng náo nức…

Khi thế giới còn bất công áp bức
Những nhân văn, giai phẩm vẫn không lùi
Từ ngàn xưa mây trắng lững lờ trôi
Vẫn còn kẻ lòng không nguôi thắc mắc

Muốn hiểu biết, muốn tìm ra sự thật
Nếu như không khoa học chẳng còn đâu
An sinh ra, khôn lớn ở Vũng Tàu
Quê hương ấy có núi dài bể cả…

Khi đứng ngắm làn sóng xô nghiêng ngã
Khi đêm rằm trăng chiếu sáng mông mênh
Khi bên sân hưởng làn gió thanh bình
An bỗng thấy lòng mình nôn nả quá !

Sống như thế là sống người văn hóa
Phải không An, con gái của thi ca
An nhận ta, ta cảm động lắm mà
An biết đấy, ta tuy nhiều tuổi đó …

Nhưng những buổi đêm nằm nghe lá đổ
Nghe côn trùng rỉ rả khóc canh thâu
Ta bỗng dưng nhỏ lệ chẳng vì đâu
Ðầu đã bạc, nhưng tấm lòng vẫn trẻ…

Vẫn nhớ tiếng sáo diều đêm vắng vẻ
Cùng bạn bè chạy giữa cánh đồng khô
Ðọc Nguyễn Tuân thèm chén rượu giang hồ
Ðọc Nguyễn Trãi thương người, bừng lửa giận

Nước đã mất, muốn phục thù rửa hận
Ôi, thi ca, nghệ thuật…cánh thiên thần
Tà áo ta đã sạm bụi phong trần
Vẫn mê mãi ngâm thơ Tương Tiến Tửu

Ôi, những buổi hứng trăng đầy vạt áo
Ôm vai nhau, hát khúc hát vong tình
Lúc soi gương mình tưởng chẳng là mình
An thôi học lập gia đình khá sớm …

Khi mắt biếc lòng xuân vừa mới chớm
Chồng sĩ quan đâu có mấy khi về
Ngày tan hàng lòng ai chẳng tái tê !
Chồng tù tội, An bơ vơ tay trắng

Cứ như thế mà một mình cáng đáng
Nuôi bốn con khôn lớn, một thân cò
Hầu mẹ cha, lại hiếu thảo không ngờ
Chồng được thả, tưởng gia đình vui vẻ …

Nhưng cuộc sống đâu dễ dàng như thế
Vượt biên đi, chồng vợ cũng chia ly
An không than, không trách một điều gì
Cứ cúi xuống cắn răng mà chịu đựng

Dù bão tố, con người thơ vẫn vững
Vẫn cười đùa, bình thản vẫn làm thơ
Quả thi ca có sức mạnh không ngờ
Mài nghiên bút sống cuộc đời lương thiện…

Nhưng An ạ - An biết câu quyền biến
An phải lo phải liệu những ngày già
Trong tầm tay, hạnh phúc chẳng đâu xa
An sẽ gặp những người yêu văn nghệ

Họ tha thiết được cùng An san sẻ
Những đau thương bất hạnh đã vương mang
Bố chúc cho An trọn giấc mộng vàng
Vòng tay nhỏ ôm choàng chân hạnh phúc …

Bố chỉ biết làm thơ và bố chúc
Con gái thơ…hoa nở giữa mùa xuân
Con gái thơ…thêm duyên dáng bội phần
Trăm câu đó, con bằng lòng…An nhé

HÀ THƯỢNG NHÂN
Thân tặng Nguyễn Phan Ngọc An 1995








Nguyenphanan
#53 Posted : Monday, November 9, 2009 12:27:14 PM(UTC)
Nguyenphanan

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 536
Points: 0

TÌNH NỒNG PARIS
Tâm cảm Nguyễn Phan Ngọc An

Thời gian qua nhanh quá, mới đó mà đã hai tuần tôi rời xa kinh đô ánh sáng Paris, trở về Cali, trở về với cuộc sống thường nhật, chẳng còn đủ hấp dẫn với những người không còn trẻ nữa như tôi … Mùa Thu đã thực sự về với nhân loại, lá vàng rơi tung khắp ngã đường, tôi co ro bước từng bước một với khí trời lạnh buốt chiều nay, những khuôn mặt của khung trời ánh sáng Paris như ẩn hiện quanh tôi … tôi dừng lại bên ghế đá công viên và lấy giấy bút ra ghi vội vàng từng nhân vật vừa tiềm tàng trong tim óc của mình với cõi lòng lâng lâng khó tả …

Ðây là lần thứ hai tôi đến Paris, thủ đô nước Pháp, nơi được mệnh danh là kinh đô ánh sáng của thế giới – Ðoàn chúng tôi đi Pháp tham dự ngày Văn Hoá Thu Tao Ngộ gồm có 16 người : Họa sĩ Vũ Hối, Nguyễn thị Ngọc Dung, Phong Thu từ Virginia, Duy An Ðông, Tôn nữ Mặc Giao, Nguyễn Phan Ngọc An từ San Jose, Anh chị Phan Văn Thành - Tiểu Thu từ Canada, Anh chị Ðoàn Phú Lạc- Chu Kim Oanh từ Arizona, Lưu Hồng Phúc, anh Thuận từ Dallas, Anh Nguyễn Văn Nhiệm, Vũ Nam và anh chị Trúc Giang đến từ Ðức Quốc. Chị Dư thị Diễm Buồn là người phụ trách thực hiện cuốn Món Ăn Theo Bước Di Tản lại vắng mặt vì hoàn cảnh gia đình vào giờ chót, thiếu vắng chị chúng tôi rất buồn trong lòng, đã có vài người lên tiếng trách móc chị nhưng cá nhân tôi thì rất thông cảm cho sự việc xảy ra bất ngờ cho gia đình chị…
Ngồi yên lặng trên phi cơ để đầu óc tôi nhớ lại những kỷ niệm xa xưa đã trôi qua 7 năm rồi, lòng hồi hộp biết bao khi nghĩ tới ngày được nhìn lại thành phố hoa lệ nhất thế giới, gặp lại anh Ðỗ Bình, chị Thúy Hằng, anh Lê Mộng Nguyên, anh Nguyễn Thùy, anh Trọng Lễ, anh Hoài Việt, anh Huỳnh Tâm, anh Từ Trì, anh Quyện Tâm và tất cả các anh chị trong Ban Tổ Chức mà tôi chưa được quen biết như anh chị Võ Hùng Anh, nhạc sĩ Lê Trạch Lựu, N/S Phạm Ðình Liên và phu nhân Minh Cầm, B/S Nguyễn Bá Hậu, nhà văn nhà báo Tô Vũ, anh Trần Ðại Sỹ, anh chị Nguyễn Thanh …nhưng phải nói là mong nhất được gặp lại anh Hồ Trường An vì sau khi ra mắt cuốn Quê Nam Một Cõi tại miền Bắc Cali thành công tốt đẹp, anh trở về Pháp và bị stroke nằm một chỗ gần hai năm nay – Tôi còn nhớ năm 2002 tôi đến Paris với một phái đoàn hội thơ đông đảo do nhà thơ Lê Quang Sinh tổ chức thực hiện chuyến đi với 48 hội viên của hội – BTC là nhà thơ Hoài Việt, nhà văn Từ Nguyên, nhà thơ Quyện Tâm, nhà văn Mạnh Bích, nhà văn Từ Trì và phu nhân Từ Dung, MC là phu nhân anh Mạnh Bích – Quý anh chị đã tổ chức thành công tốt đẹp với số quan khách đông đảo, nhưng vài năm sau thì anh Mạnh Bích đã từ giã trần gian, đến bây giờ nhắc đến anh Mạnh Bích lòng tôi thương tiếc vô cùng, một người chân tình đáng quý đã cùng rất nhiều anh chị khác hướng dẫn đoàn 48 người chúng tôi tham quan khắp nơi trên nước Pháp…Ngày xa xưa ấy không bao giờ phai nhạt trong tôi, nhà thơ Ðỗ Bình đã vội vàng và cấp tốc tổ chức cho tôi một buổi ra mắt sách tại quán cà phê Chiều Tím vì hội thơ chỉ ở lại Paris một tuần rồi phải đi các nước mà hội thơ phải liên tục ra mắt, họp mặt 3 ngày liền tại Paris - Nhắc đến lòng tôi cảm động vô cùng, tấm lòng và sự nhiệt tình của nhà thơ Ðỗ Bình không ai mà không biết, tôi là người đầy may mắn nên đã có cơ duyên được quen biết anh vì chung trong hội thơ tài tử - Hôm ấy tôi vẫn còn nhớ số người tham dự dù cấp bách tổ chức vẫn hơn 100 quan khách, Giáo Sư Nguyễn thị Hoàng giới thiệu tác phẩm, nữ nghệ sĩ Bích Thuận diễn ngâm và hát – Ca sĩ Thúy Hằng và một số ca nghệ sĩ Paris cùng trình diễn tân nhạc – Nhà văn Trọng Lễ độc tấu Lục Huyền Cầm, nữ giáo sư Quỳnh Hạnh Đàn Tranh – Anh Ðỗ Bình vừa là MC vừa giới thiệu tác giả…Chiều ấy đến nay vẫn không hề quên trong lòng tôi, xin mượn bài viết này gửi lời tri ân đến quý anh chị.
Máy bay chúng tôi đáp lại Montréal Canada và sau hai giờ thì transfer qua chiếc phi cơ đến Pháp – Vui làm sao khi gặp lại các anh chị đã chờ sẵn tại phi trường, ngoài các anh đã thân quen Ðỗ Bình, Nguyễn Thùy còn có các anh Phạm Ðình Liên và phu nhân Minh Cầm, anh Minh Nhật, anh NguyễnThanh và phu nhân Mây Thu, chị Mai Ling, anh Cang là người rất nhiệt tình xách phụ những valise và đưa chúng tôi lên hai xe về khách sạn - Tại đây chúng tôi gặp thêm nhiều anh chị khác như Giáo Sư Nguyễn Ngọc Chân, anh chị Võ Hùng Anh, nhạc sĩ Lê Trạch Lựu, nhà văn Phạm Văn Kiểm, anh chị Hải Yến, anh chị Thy Như, chị Vũ Lan Phương đã từng là chủ nhà hàng Ðào Viên lâu năm tại Paris nên chị quen thân rất nhiều thi văn hữu.
Ðoàn chúng tôi được BTC phân phối thành 5 nhóm – Các anh chị của miền kinh đô ánh sáng quả rất nhiệt tâm và tình cảm chứa chan - Một nhóm theo sự hướng dẫn tham quan của anh Chân, anh Minh Nhật, một nhóm theo anh chị Nguyễn Thanh và chị Mây Thu, một nhóm theo sự hướng dẫn của anh chị Hải Yến, nhóm chúng tôi theo chị Ngành, chị Lan Phương, chị Mai Ling và chị Thy Như đi lên thành phố Troyes thăm nhà văn Hồ Trường An, anh Ðỗ Bình hướng dẫn họa sĩ Vũ Hối và nhà văn Nguyễn Thùy đi xem các bảo tàng hội họa cách Paris hàng trăm cây số - Chuyến đi Troyes gồm 2 xe Van, mỗi xe 7 chổ ngồi - Ðường đi xa thẳm có đến hơn 200 cây số nhưng trong lòng ai cũng vui vì sắp gặp nhà văn tên tuổi mà con tạo sắp bày tai họa đến bất ngờ cho anh – Văn miền Nam của anh Hồ Trường An đã lừng lẫy trong giới độc giả yêu văn chương hàng mấy chục năm qua, nói đến anh là nói đến văn phong chữ nghĩa người miền Nam, tác phẩm của anh đã xuất bản có đến trên 60 cuốn, một gia tài đồ sộ, một sự nghiệp văn chương vào hàng phải nể phục.
Chúng tôi đến nơi nhà văn Hồ Trường An cư ngụ, một người Pháp tên Bernard ra tận ngoài chổ xe đậu đón chúng tôi, anh hiền lành và vui vẻ đưa chúng tôi lên lầu 2 gặp anh An - Hơn hai năm mới gặp lại, trông anh An hốc hác gầy ốm hơn xưa, ngồi trên xe lăn đôi mắt nhìn chúng tôi rưng rưng cảm động, một tay anh còn nhúc nhích cử động, tay kia thì băng kín và bất động, một chân cũng bất động như tay và chân còn lại cũng chỉ xê dịch miễn cưỡng mà thôi… Ðau lòng thay cho người anh thân thương, mới hôm nào tại San Jose oai phong lẫm lẫm, ai ai cũng trầm trồ khen anh đẹp trai tráng kiện và chen nhau tới chụp hình với anh - Ðịnh mệnh quái ác, không biết thời gian có trả lại cho anh những ân sũng một thời đã qua, trả lại cho anh nét thanh tú hoàn hảo nữa không hay phải chịu tật nguyền suốt kiếp – Ôi, nghĩ đến điều này lòng tôi chùng hẳn xuống tưởng như cơn bão táp cuồng phong đang trút xuống đầu nhân gian thảm khốc !
Chị Ngành chu đáo bày biện 2 bữa ăn trưa và chiều cho nhóm chúng tôi – Xin thành thật cảm ơn sự nhiệt tình của chị khi biết chị ở khá xa nơi này - Ði tham quan vài chổ trong thành phố Troyes, anh An vì vui cố gắng cùng đi, anh Bernard phải bế anh An lên xe cùng chiếc xe lăn, chúng tôi nhìn thấy cảnh ấy lòng bùi ngùi khôn tả, chào từ giã ra về trong nghẹn ngào rơi ngấn lệ.
Trưa hôm sau, chúng tôi gồm có anh chị Ðỗ Bình, họa sĩ Vũ Hối, nhà văn Nguyễn Thùy, nhà văn nữ Nguyễn thị Ngọc Dung và tôi được Ông bà Giáo Sư Nguyễn Ngọc Minh và phu nhân Ðỗ Quyên mời tham dự Party tại tư gia - Một ngôi nhà trên tầng 4 nằm trong khu biệt thự sang trọng, chúng tôi được chủ gia tiếp đón nồng hậu, quan khách gồm những vị trí thức và trưởng giả quí tộc, những vị phu nhân một thời vàng son trước 1975 - Ðặc biệt bà chủ nhà là một ca sĩ trình bày các bản nhạc Opéra lừng danh, tiếng hát cất lên cao vút mà không cần dùng micro, tiếng vỗ tay nồng nhiệt từng chập dành cho nữ ca sĩ Ðỗ Quyên – Nhóm chúng tôi được xem như khách quý và được trang trọng mời lên giới thiệu cùng thân hữu buổi họp mặt - Chị Ngọc Dung hát, tôi ngâm thơ, tiếng vỗ tay tán thưởng khiến chị Dung bảo thầm vào tai tôi “ vẻ vang dân Việt” khiến cả hai cùng cười xòa - Chị Vân Khanh người bạn học chung trường chung lớp với chị Ngọc Dung thời Trưng Vương áo trắng, hơn 50 năm gặp lại ôm chầm lấy nhau mừng vui vô kể - Anh chị Nguyễn Thanh – Mây Thu từ sáng sớm đã lái chiếc xe hơi nhỏ đến Hotel đón tôi và chị Ngọc Dung đến party, chủ nhà mời nhưng anh chị ngại không vào rồi không rõ anh chị đi đâu vào ngày đầu thu lạnh giá, gió thổi ào ào, anh chị là một cặp uyên ương thật đẹp đôi và thật hạnh phúc - Ðến 4 giờ chiều anh chị trở lại đón chúng tôi khi tiệc chưa tàn, cái tình cảm thiết tha của anh chị NA không thể nào quên được. Chúng tôi chào từ giã mọi người trong khi tiếng ca hát ngâm nga vẫn còn đang vang vọng trong căn nhà ấm cúng – Chúng tôi hẹn gặp lại ông bà chủ gia và quan khách vào trưa ngày 4/10/09 là ngày chính cho buổi Văn Hóa Thu Tao Ngộ do nhà thơ Ðỗ Bình cùng quý anh chị tổ chức.
Ðường phố Paris chật và thường bị kẹt xe, hai chiếc xe hơi của chúng tôi bị kẹt cứng trên đường đến tham quan nhà thờ Sacre’- Coeur - Chị Thúy Hằng chở anh Ðỗ Bình, anh Vũ Hối, anh Nguyễn Thùy – Anh Thanh chở 3 chúng tôi - người dân Paris có cách sống không giống dân Mỹ, mà cách sống lại giống dân Việt Nam, họ thường đi bộ đông đúc ngoài đường, ban đêm tấp nập trong các quán cà phê, quán ăn đến khuya vẫn chưa tàn, khiến tôi liên tưởng đến quê hương và thấy lòng nao nao một niềm thương nhớ quê cha đất tổ, người dân Tây nơi đây họ sống rất nhàn hạ thoải mái thì giờ tuy rằng vật giá nơi đây rất đắt đỏ, tôi nhớ mãi đêm đầu tiên chị Thy Như dẫn chúng tôi đi bộ trên đường phố Paris về đêm, đi mãi đi mãi thật xa gặp các người khách nghệ sĩ Pháp chúng tôi cùng nhập vào ca hát líu lo giữa lộ về khuya, vui thật là vui … Thế rồi tất cả 9 người cùng mỏi chân quá, bảo chị Thy Như cho trở về thì mới hay không thể nào… vì quá xa đành dẫn nhau đi thêm một quảng nữa để đển trạm xe bus – Chân cẳng rã rời, gặp được xe bus trờ đến cả bọn mừng như bắt được vàng vội vã lên xe và xe chạy mãi vẫn chưa đến Hotel, nếu đi bộ trở về chắc là chết sướng hơn phải không đoàn tham quan đi bộ của chúng ta ??? Ở đây không có xe hơi tầm cỡ lớn và dài vì parking rất chật, theo cách nói của người dân bên Pháp thì xe hơi nào muốn vào Parking đậu đều phải tông đằng trước rồi tông đằng sau ầm ầm mới vào được, xe nào cũng mang dấu tích đầu và đuôi xe bởi thật sự khi chúng tôi vào chỗ đậu gian nan vô cùng, vào đã khó mà khi ra càng khó hơn, đành phải đụng cộp cộp vào đầu đuôi các xe khác thôi – Mà cũng lạ, chẳng có ai chạy ra complain hoặc cảnh sát đến phạt gì cả - Tất cả tự nhiên như chẳng có gì xảy ra trong khi chúng tôi ngồi trên xe run cầm cập bởi xứ Mỹ mà như thế là bị gọi Police làm report ngay để lãnh phạt mấy trăm đô rồi đấy !
Chiều hôm sau xe bus 50 chỗ ngồi đến đón chúng tôi tại khách sạn, một Tour đi chơi dòng sông Seine và ăn nhà hàng Ý quả tình thật vui và hấp dẫn - Chiếc thuyền chở nhóm Ban Tổ Chức và chúng tôi được ưu tiên ngồi phía trước, khách trên tàu ra ngồi phía sau – Sông nước nhịp nhàng khiến lòng người lắng dịu, êm ả vô tư… Ði ngang chỗ công nương Diana tử nạn, tôi thấy ngậm ngùi thương xót một công nương đầy lòng từ ái sớm bạc phần – Ði tới đoạn nào là nhà biên khảo Lê Mộng Nguyên và nhà thơ Ðỗ Bình phân tích giảng giãi cho đoàn chúng tôi từng chi tiết về lịch sử các di tích thật là hấp dẫn cho chúng tôi hiểu biết thêm về những câu chuyện xa xưa huyền bí của nước Pháp - Những tấm ảnh chụp trên tàu sẽ là những kỷ niệm mang về xứ Hoa Kỳ cho chúng tôi niềm tự hào đã được tham quan Kinh Ðô ánh sáng bởi thật tình có biết bao người cư ngụ ở Mỹ thật lâu vẫn chưa đến Paris lần nào cả. Riêng bản thân tôi rất nghèo, nay làm mai off nhưng may mắn nhờ vào duyên văn nghệ mà có dịp đi đây đi đó – Âu cũng là cơ duyên cho mình vậy.
Nhà hàng Clément của Ý, tọa lạc trên đại lộ Champs Élysée nổi tiếng sang trọng bậc nhì, ba của Paris cho chúng tôi những món ăn lạ miệng, hấp dẫn du khách bốn phương đến với nhà hàng – Trên đường trở về khách sạn, xe dừng lại bên góc tháp Eiffel, tài xế rất tinh, 5 phút sau đèn tháp Eiffel bật sáng chiếu rực lên liên hồi, đẹp và ngoạn mục vô cùng khi chúng tôi ở cận kề bên chân tháp – Mãi mê với những vĩ đại và đồ sộ thắng cảnh lịch sử của nước Pháp, đoàn chúng tôi đã tham quan tháp Eiffel, nhà thờ Notre Dame, nhà thờ Sacre’- Coeur, Opera Garnier, La Conciergerie , vườn Luxembourg (Lục Xâm Bảo) … và nhiều di tích nữa mà tôi không thể nhớ hết…

Ngày chính thức đã đến, quan khách chật ních cả hội trường, toàn những thành phần chọn lọc : Tôi nhìn thấy Giáo Sư Bùi Sĩ Thành gần 90 tuổi mang theo mình cả bình dưỡng khí đến tham dự mà lòng tôi nao nao xúc động trước tấm lòng yêu văn hóa Việt Nam vô bờ của Giáo Sư, vô cùng trân quý và cảm tạ sự hiện diện của ông - Giáo Sư Thái Hạc Oanh đến tham dự trên chiếc xe lăn có người đẩy, ôi nhìn cụ bà năm nay đã ngoài 90 mà vẫn yêu ngôn ngữ VN đến thế, xin ghi sâu cái tình văn học cao quý mà quý cụ đã dành cho đàn con cháu hậu sinh này - Bác Sĩ Phạm Hữu Trác, đại diện cộng đồng Canada và hải ngoại cũng đã nhín thì giờ quý báu đến chung vui, nhà văn Hồ Trường An vào hội trường với chiếc xe lăn do anh Bernard đẩy xe, trên tay cầm một khúc bánh mì và một hộp nhỏ đưa tận tay tôi - Cảm động xiết bao khi tôi mở ra thấy một thỏi son hồng rất đẹp – Tình văn hữu cao cả làm sao, xin chân thành ghi nhận tình cảm trân quý anh đã dành cho tôi. Từ cách xa trên 200 cây số, anh An và anh Bernal lái xe dìu dắt nhau đến với Chiều Tao Ngộ, xuống tầng dưới nhà thờ với chiếc xe lăn sẽ trở ngại vô cùng vậy mà anh và Bernard vẫn có mặt đúng giờ, thật tôi nhìn anh An và anh Bernal mà lòng cảm xúc dâng tràn…
Còn nhiều lắm những niềm vui bất ngờ đến với tôi, nhạc sĩ Nguyễn Đình Tuấn tìm tôi để gửi bản nhạc mà anh đã phổ gần 10 năm nay khi tôi đến Paris năm 2002, bài thơ Rừng Thu Xưa Vẫn Nhớ đã làm cảm xúc và anh đã phổ nhạc chờ ngày gặp giao cho tôi, chương trình truyền thông văn hóa Việt do anh Huỳnh Tâm phụ trách mời tôi đến phỏng vấn, vui làm sao khi gặp lại anh Huỳnh Tâm, anh Đình Tuấn và chị Yến của truyền hình TVV, bài thơ phổ nhạc đã được tác giả hát và bài thơ mùa Thu cũng được ngâm trong chương trình phỏng vấn dài trên 30 phút – Xin đa tạ những chân tình đã dành cho tôi trong phút giây hạnh ngộ.
Buổi Thu Tao Ngộ thân tình và trang trọng, quý nhân sĩ thương mến BTC đã đến rất đông, được biết ngày 4/10 có đến mấy hội đoàn tổ chức, anh Ðỗ Bình rất lo lắng số quan khách sẽ bị chia nhiều nơi nhưng thật không ngờ, cái hội trường của nhà thờ nằm khuất và sâu dưới mấy tầng vẫn có những tâm hồn đồng điệu, yêu chữ nghĩa văn chương Việt Nam nên đến chung vui ngày họp mặt : ÔB Phan Khắc Tường chủ tịch cộng đồng người Việt tại Paris, nhìn thấy sự điềm đạm và mẫu mực qua tư cách, tự nhiên tôi thấy gần gủi và trân quý ông bà Chủ tịch thật nhiều - Nhà văn Tô Vũ đến với hai chiếc gậy trong hai tay, mái tóc bạc trắng, lưng đã khòm với tuổi đời chồng chất, nhưng tâm hồn ông vẫn trẻ và yêu đời, luôn nở nụ cười trên môi chào mừng xiết tay thật chặt chứng tỏ cả tấm lòng bao la ông dành cho nhóm trẻ chúng tôi - nhạc sĩ Lê Trạch Lựu, đôi chân đi khập khiểng vì tai nạn gì thì tôi không được rõ nhưng niềm tâm cảm dạt dào vẫn hiện rõ trong đôi mắt khi anh tiếp xúc với đoàn chúng tôi – Tôi được dịp gặp gỡ anh chị tiến sĩ Võ Hùng Anh, anh thì cao lớn, chị thì thấp nhỏ nhưng dường như họ là một cặp uyên ương không rời nhau gang tấc - Một nhà Ðiêu Khắc Gia nổi tiếng của Paris, bà Anh Trần cũng đã đến chung vui với chiều Thu Tao Ngộ, Bác Sĩ Nguyễn Bá Hậu, ôi đẹp thay một tâm hồn lương y yêu văn hóa Việt Nam, ông dành bao nhiêu thời gian có được sáng tác thơ văn nhạc để cống hiến cho đời niềm tự hào của một con người làm kinh tế vẫn không bỏ quên ngôn ngữ mẹ đẻ, xin cảm ơn Bác Sĩ đã cùng Bác sĩ Nguyễn Hoàng Việt tận tình giúp anh Ðoàn Phú Lạc với cái chân gout hành hạ và xin cảm ơn B/S đã ưu ái tặng NA 2 cuốn Hoa Tâm và Tha Hương với bút hiệu Phương Du - ÔB Bác Sĩ Huỳnh Trung Nhì quả là đôi nhân tình cao tuổi đẹp đôi mà NA đã được gặp và chuyện trò tại nhà chị Ðỗ Quyên, hôm nay ông bà vẫn dành thời giờ quý báu đến chung vui, thật vô cùng cảm kích - Nữ ca sĩ Ðỗ Quyên, tiếng hát vang vọng cả hội trường, Opéra là loại nhạc cổ nhưng rất thịnh với giới thượng lưu nhàn nhã, trên sân khấu trông bà như một nữ ca sĩ đặc thù, chuyên nghiệp nhưng ai biết được trong gia đình bà là một người nội trợ xuất chúng, buổi party hôm chúng tôi được mời đến do một tay bà nấu nướng khoãn đãi trên 60 thực khách, tôi thầm phục một người phụ nữ tài năng ngoài xã hội và giỏi giang cả trong gia đình…
Cộng đồng Paris thể hiện cho tình người Việt lưu vong thắm thiết, chúng tôi thừa hiểu tạo được một buổi họp mặt không phải dễ dàng vì người Việt cũng không nhiều, đường xá xe cộ đi lại khó khăn, phần đông phải đi xe Métro vì không có parking đậu xe, vậy mà theo danh sách tôi ghi nhận được từ BTC thì quả thật quý vị đã quá nhiều ưu ái, hiếu khách dành cho đoàn chúng tôi từ xa đến, nói đúng hơn quý anh chị trong BTC đã được nhiều yêu thương từ quý vị nên Chiều Thu Tao Ngộ còn rất nhiều gương mặt thân thương hiện diện như : Luật sư Lương Ngọc Chấn, Tiến sĩ Trần Minh Trâm, Tiến sĩ Nguyễn Văn Hướng ( nhà thơ Hoài Việt) Bà Ðỗ Quyên, ÔB K/S Võ Hoài Nam ( nhà văn Tiểu Tử) nhà văn Âu Dương Trọng Lễ, gặp lại anh Trọng Lễ, quả thật tôi không ngờ, anh trẻ ra và đẹp trai mập mạp hồng hào hơn 7 năm về trước, gặp lại NA mừng quá và cảm ơn anh đã tặng cuốn Quê Hương Và Tình Yêu gồm Thơ Truyện và rất nhiều hình ảnh quê hương gợi cho tôi niềm rạt rào thương nhớ dòng sông quê Mẹ - ÔB G/S Tiến sĩ nhạc sĩ Phạm Ðình Liên vẫn keo sơn gắn bó như thuở nào, nhìn chị Minh Cầm không thể ngờ đã 71 cái xuân xanh, trông chị rất trẻ có lẽ nhờ anh Liên có bí quyết chăm sóc - Giáo sư Như Mai, Giáo sư Phạm thị Nhung, Bác sĩ Vũ Thị Thoa, Tiến sĩ Nguyễn Thị Kim Ðàn, nhà báo Nguyễn bảo Hưng, nhà văn Liều Phong, K/S Nguyễn Xuân Lang, Họa sĩ Nguyễn Ðức Tăng, Ô Bùi Hữu Tình, Bà Bích Khuê, T/S Huệ Châu, Nguyễn Thanh Vân, Bích Liên, Michel Tùng, Huy Hoàng, Minh Nhật, Minh Mạch, Trần Văn Trung, nhà báo Phạm Hữu, nhà tranh đấu Trần Hồng ( cựu TTK Văn Phòng liên lạc), ÔB B/S Tạ Thanh Minh Chủ tịch Hội Y sĩ Tự Do tại Pháp, Ông Nhất Long, nữ nghệ sĩ Diệu Khánh, nhà văn nữ Bích Xuân, B/S Phạm Ngọc Tỏa ( Cựu Chủ Tịch Hội Y sĩ VNTD), ÔB B/S Nguyễn Ðương Tịnh hội Hành Thiện, ÔB G/S Bùi Xuân Quang, G/S Nguyễn Ngọc Chân hội Chuyên gia, ÔB tiến sĩ Võ Hùng Anh, B/S Phạm Ðăng Thiện, L/s Dương Minh Châu, K/S Ðỗ Hữu Hứa, Bác Sĩ Nguyễn Hoàng Việt, nhà văn Chu Chi Nam (Liên Ðảng), ÔB Nguyễn Minh Răn ( Chủ tịch văn phòng Liên Đới xã hội), Ô Phạm Văn Ðức( văn phòng Liên lạc quân nhân Âu Châu), Ô Châu Văn Lộc ( Hướng Ðạo VN), Ô Nguyễn Tường Long ( Tổng thư ký Văn phòng Liên lạc các Hội Ðoàn tại Pháp), Ô Lê Minh Triết ( VNQD Ðảng), Ô Lê Văn Tư (Đại Việt QDĐ), B/S Nguyễn Minh Tân (VNQDĐ), B/S Nguyễn Văn Thọ, L/S Trương Hữu Lương, Nữ Sĩ Quỳnh Liên, Nhà thơ Lê Chí Thạnh, anh chị Thanh – Mây Thu, chị Mai Ling, chị Thy Như ..…và tôi tin rằng vẫn còn thiếu sót danh sách quý vị tham dự, xin quý vị niệm tình tha thứ cho. Với một lượng quan khách tham dự hùng hậu và tên tuổi như thế quả là BTC thật tài tình và được nhiều cảm tình từ mọi phía…
Bắt đầu chương trình, nghi lễ Quốc ca VN do anh Nguyễn Hữu Xương điều khiển, tiếp theo là lời chào mừng của Ông Chủ tịch Phan Khắc Tường, Họa Sĩ Nguyễn Ðức Tăng thay mặt BTC gửi lời ngỏ thân tình đến quý quan khách hiện diện, một màn rước đèn Trung Thu do các em nhi đồng trình diễn rất vui mắt, nhà thơ Phương Du đọc thơ Thu, nhà thơ Hoài Việt đọc thơ Thu…
Ðoàn chúng tôi rất hãnh diện được MC đỗ Bình mời lên trình diện quan khách Paris, hai MC Vân Hải & Ðỗ Bình nhịp nhàng linh động với chương trình tâm tình của các diễn giả Lê Mộng Nguyên, Nguyễn Thùy, Hồ Trường An …Tâm tình Thu Paris và Tâm Hồn nghệ sĩ, T/S Lê Mộng Nguyên tâm cảm gợi lại bao kỷ niệm về mùa Thu làm lòng tôi bồi hồi xúc động, G/S Nguyễn Thùy đôi dòng phân tích về cuốn Món Ăn Theo Bước Di Tản nội dung chất chứa bao nhiêu kỷ niệm trong tâm hồn 13 tác giả trên bước lưu vong, tình yêu Tổ quốc, yêu gia đình mãi trường tồn trong trái tim những tác giả định cư Hoa Kỳ, Đức Quốc và Canada nay không ai còn trẻ nữa, người trẻ nhất trong đoàn cũng đã trên 50 cái xuân xanh - Nhà văn Hồ Trường An lên sân khấu với chiếc xe lăn mà thấy thương làm sao, anh vẫn được ca tụng là điển trai nhất nhì trong nhóm cầm bút, thế mà hôm nay … anh tâm tình đầy xúc cảm và không quên giới thiệu hai cuốn Hoa Vàng & Nam Phong do Ngọc An thực hiện năm 2003 và 2005 với số đông tác giả chọn lọc – Cụ bà Thái Hạc Oanh lụm cụm cùng chiếc xe lăn lên sân khấu góp lời ủng hộ tinh thần văn học, khuyến khích các tài năng trẻ - Ca sĩ Ðỗ Quyên trình bày một trích đoạn Les Voiles Opéra Don Carlos của Verdi với phần đệm dương cầm nữ giáo sư nhạc sĩ người Pháp Nicole Rivière – Nữ Ca sĩ Ambrosio Laurant trình bày ca khúc Serenata của Toselh - Nhà văn Nguyễn thị Ngọc Dung được mời lên giới thiệu tờ tam cá nguyệt Cỏ Thơm mà chị là Chủ nhiệm kiêm Chủ bút tại vùng Hoa Thịnh Ðốn nhiều năm qua, tiếng đàn tranh thánh thót của Nữ G/S Âm nhạc Nguyễn Thanh Vân trình bày bài Tương Tư Ngự đã làm hội trường im phăng phắc lắng nghe như đọng từng nốt đàn vào tâm khảm, dìu dặt mà trầm lắng xốn xao…Khi NA lên ngâm bài thơ Mùa Thu Trên Ðất Nước Tôi đã được tiếng đàn tranh của chị Thanh Vân và tiếng sáo trúc của anh Trần Tam Nguyên yểm trợ nên tăng thêm phần hồn cho bài thơ nói về mùa Thu của ba miền Nam Trung Bắc đã được quan khách lắng nghe và chia xẻ nhiệt tình – Tiếp theo là phần giới thiệu tác phẩm của nhà văn Âu Dưoơg Trọng Lễ, nhà văn nữ Trúc Giang do các nhà văn Nguyễn Xuân Lang, nhà thơ Quyện Tâm và nhà báo Tô Vũ nhận định – Sau đó là bài nói chuyện của G/S Phạm thị Nhung về Giai thoại cuộc tình lãng mạn của thi sĩ Vũ Hoàng Chương cùng người đẹp Tố Uyên đầy say mê và cảm động – Xen kẻ chương trình là phần độc tấu Guitar của N/S Phạm Ðình Liên, Paris trong thi ca của G/S Từ Trì, Người Tình Trong Âm Nhạc của N/S Lê Trạch Lựu, nhà báo Nguyễn Bảo Hưng với chủ đề : Sự Huyền Diệu Của Tiếng Việt, Ca sĩ Thúy Hằng trình bày bản nhạc Sương Thu, giọng trầm buồn sâu lắng làm lắng đọng bao tâm hồn yêu nghệ thuật nước nhà, và còn nhiều lắm ca sĩ Minh Cầm, Minh Nhật, Bích Liên, Ngọc Châu…lên trình diễn những bài ca toàn về mùa thu nên buổi Thu Tao Ngộ thật hoàn toàn có ý nghĩa sâu xa và khó quên – Nhà văn nữ Trúc Giang lên sân khấu góp ý tưởng và kể lại lập trường đấu tranh sôi nổi của người dân nước Đức - Chúng tôi rất tiếc là thời gian không cho phép và chương trình đã quá dài chứ nếu còn thời gian thì các nhà thơ nhà văn của chúng tôi tuy cầm bút nhưng cũng là những ca sĩ, nghệ sĩ có hạng của Hoa Kỳ và Canada, Ðức Quốc sẽ lên cống hiến tài năng với quý vị, thôi xin hẹn vào một dịp khác vậy, nhưng đâu dễ gì quý vị ơi, nên rất tiếc và rất tiếc…Phần văn nghệ hào hứng nên hấp dẫn quan khách ngồi lại đến giờ phút chót - Miền đất Paris theo tôi biết thì rất khó khăn tụ họp nhưng buổi tổ chức Thu Tao Ngộ đã quy tụ nhiều gương mặt sáng chói của cộng đồng Paris chứng tỏ BTC có tầm cỡ và tình cảm, tình đồng hương thâm sâu đậm đà như thế nào rồi. Một lần nữa xin cảm tạ anh chị Ðỗ Bình và quý anh chị trong BTC thật nhiều. Cảm tạ quý quan khách đã dành thì giờ quý báu đến chung vui với chúng tôi, nhất là các vị phải dùng xe lăn, mang theo cả bình dưỡng khí và các vị thật cao tuổi - Cảm động biết chừng nào với tấm lòng yêu văn hóa Việt Nam của quý vị - Cảm ơn chị Bích Xuân đã dành cho 4 người chúng tôi: anh chị Ðoàn Phú Lạc – Chu Kim Oanh – Phong Thu và Ngọc An những tình cảm thật đẹp khi đến trú ngụ trong “tòa lâu đài cổ” và những lời tâm tình của hai người độc thân BX- NA nên đã phải thức trắng đêm không ngủ, cảm ơn chị đã tặng mình CD nhạc do chính chị hát …Ðêm cuối cùng để từ giã Paris, NA còn được nhân duyên với chị Mai Ling, về ngủ với chị, một căn phòng dành cho người cao niên, ấm cúng và sạch đẹp với cách trang trí thẩm mỹ - Tôi đã được nghe qua tâm tình thương đau của đời chị và một quyết định về VN sống những ngày còn lại với viện dưỡng lão dù tại nước Pháp chị vẫn còn có ba người con, cái tình người Việt Nam cao đẹp và trường tồn trong xương tủy đến khi gần kề cát bụi vẫn muốn gửi nắm xương tàn trên quê hương Mẹ - Chị Mai Ling rất giỏi về Pháp ngữ, cuốn sách chị tặng tôi mang tựa đề: Le Sixième Sens De La “ Petite Souris” dày 338 trang hoàn toàn bằng Pháp ngữ, rất cảm ơn chị - Cảm ơn chân tình của anh chị Thanh- Mây Thu…Cảm ơn nhà văn Hồ Trường An đã tặng NA rất nhiều sách của anh : Thắp Nắng Bên Trời, Giữa Đất Trời Giao Hưởng, Những Đóa Hoa Nở Muộn, Truyền Kỳ Trên Quê Nam, Giai Thoại Văn Chương, Trở Lại Bến Thùy Dương, Trăng Xanh Bên Trời Huế, Vườn Cau Quê Ngoại, nhà thơ Ðỗ Bình tăng NA cuốn thơ mang tựa đề thật hấp dẫn “ Mùa Xưa Vỗ Cánh” nhà văn Nguyễn Văn Nhiệm với cuốn Ðường Vào Triết Học Việt Nam dày 486 trang với bao công phu thực hiện - nhà văn nữ Tiểu Thu với truyện ngắn Tiếng Hót Vành Khuyên líu lo êm ả và dễ thương không khác gì tác giả - Cảm ơn hai CD của chị Minh Cầm, tuy bận rộn nhưng CD của chị và Bích Xuân NA đã nghe và rất thích – Về Cali NA còn nhận được cuốn Hoa Liên Kiều tác giả Vũ Nam gửi tặng, chỉ mới nghe tên cuốn sách là người đọc phải tò mò rồi đấy, cảm ơn Vũ Nam nhiều - Những cuốn văn thơ quý anh chị tặng sẽ là bầu bạn gối đầu giường mỗi đêm trước khi NA đi ngủ - Cảm ơn G/S Nguyễn Ngọc Chân đã hướng dẫn và giảng thích tỉ mỉ từng chi tiết lịch sử cho đoàn tham quan chúng tôi, rõ ràng ông có bộ óc không khác gì tự điển sống, quý anh chị Hải Yến, Minh Nhật, Mai Ling, Thy Như …tất cả quý vị đã bỏ nhiều thì giờ quý báu đưa đoàn chúng tôi tham quan thắng cảnh Paris, cảm ơn chị Minh Cầm và Chu Kim Oanh đãi một buổi ăn tối tại Phở Hòa trước khi rời Paris, xứ thần tiên về thắng cảnh. Chắc chắn bài viết này còn rất nhiều thiếu sót , bởi tôi từ phương xa đến không thể am tường, xin quý vị rộng lượng đừng chấp nhất, xin ơn trên ban cho tất cả đồng hương tại nước Pháp an lành hạnh phúc. Kính chúc quý vị cao niên của miền kinh đô ánh sáng Paris sống trường thọ, quý vị đang mang bệnh hoạn tật nguyền sớm trở thành lành mạnh để có ngày NA trở lại Paris còn được gặp gỡ hàn huyên cùng tất cả quý vị…
Chiều Văn Hóa Thu Tao Ngộ tại Paris đã được ghi lại từng chi tiết, thực hiện thành những cuốn DVD thật đẹp qua các anh Ðoàn Phú Lạc, B/S Phan Văn Thành và anh Duy An Ðông, xin cảm ơn các anh thật nhiều - Về phần chụp ảnh thì dường như ai cũng mang theo máy ảnh, do đó buổi du lịch Paris quả tình không uổng phí và vô cùng ý nghĩa cho một ngày đầu thu tình thơ văn kết tụ.

Rồi tất cả đã trở lại bình thường, nhưng dư âm vẫn còn vang vọng, trời mùa thu Cali buồn não nuột, những chiếc lá vàng rơi lả tả, gợi lòng ta nỗi ngao ngán cho một kiếp người phù du, lá vàng rồi lá rụng …trời mùa thu mang sắc màu u ám nhưng người thơ lại thích mùa thu, nó gợi trong lòng những cảm hứng mông lung, u uẩn, tiếc nhớ, bâng khuâng…

Cho đến muôn đời thu vẫn đẹp
Lá vàng pha lá đỏ tươi xinh
Bên đường lặng lẽ hàng cây đứng
Những đóa hồng khoe sắc hữu tình

Phố Palo Alto êm đềm thơ mộng
Một buổi chiều lữ khách ghé thăm
Hoa lá reo vui theo gió lộng
Làm say lòng bao gã thi nhân ...

Ta cũng say sưa phố lạ chiều
Muôn trùng lá thắm đọng thương yêu
Dọc theo con lộ dài hun hút
Vàng, đỏ, nâu, hồng ... thoáng tịch liêu

Rừng lá mùa thu trải khắp miền
Ðiểm tô thêm đẹp phố bình yên
Ta ngơ ngẩn với ngàn hoa lá
Hồn bướm mơ tiên ... chẳng lụy phiền

Ta thấy quanh ta xác lá vàng
Quyện tròn trong gió buổi thu sang
Tưởng như ai đó đang vương vấn
Cho mộng thêm dài ... lạnh gối chăn !

Cảnh đẹp cho hồn ta ngất ngây
Tình thơ lai láng giữa trời mây
Nhìn thu ta bỗng lòng say đắm
Giấc mộng Hằng Nga ... giữa cõi này ...

Nhớ các anh các chị các bạn của Paris nhiều lắm, chân tình kia bao giờ chúng tôi đền trả đây – Nhớ những vòng tay ôm xiết chặt dù chỉ mới biết nhau lần đầu, nhớ những nụ hôn thân tình tây phương lên má, lên tóc của những tình cảm thân thương vui mừng tao ngộ, người Việt nơi đất Pháp chân tình và dễ thương một cách lạ lùng, gần gũi và thương mến nhau tựa như trong một đại gia đình vậy - Tình người ly hương thiết tha cho nhau không bao quản nhọc nhằn, vất vả - Xin trân trọng ghi sâu vào tâm não những ân tình mãi mãi không quên…nhớ các anh, các chị các bạn của nhóm chúng ta, dễ gì có một cuộc tao ngộ bên nhau với những gương mặt thân thương này nữa, mùa thu này là mùa thu đầy ý nghĩa của cuộc đời cầm bút chúng ta, mong những hình ảnh của chuyến đi sẽ được trang trọng lưu giữ như những kỷ vật của đời mình…


Thân kính ghi lại đây bài thơ :
“mùa thu trên đất nước tôi” để làm kỷ niệm cùng quý vị

MÙA THU TRÊN ÐẤT NƯỚC TÔI

Sáng hôm nay nghe gió về lành lạnh
Thu đã chuyển mùa, anh có biết không
Mây lang thang, hồn trĩu nặng nhớ mong
Nắng dìu dịu … lòng em buồn man mác

Em bỗng nhớ mùa thu xưa Ðà Lạt
Mây Lâm Viên mờ ảo phủ thông rừng
Mi mô da từng hạt lệ rưng rưng
Bên hồ biếc xôn xao con sóng gợn

Em chưa có mùa thu sông núi Ngự
Huế mơ màng ôm cung điện nghìn xưa
Huế của ai … sao nhiều nắng lắm mưa
Em ao ước được một lần hạnh ngộ

Em nghe nói trời mùa thu Hà Nội
Heo may về từng đợt gió buồn hiu
Lá vàng rơi trên đường phố cô liêu
Hồ Lãng Bạc … vết tích xưa huyền sử

Thế là đã mười tám thu cô lữ
Lá quê người sắc vàng đỏ mênh mang
Nhưng trong em bao kỷ niệm úa vàng
Niềm cố quốc, quê hương xa vời vợi

Anh biết đó, em vẫn hằng mong đợi
Một mùa thu ta nhặt … lá vàng rơi

Nguyễnphanngọcan - California mùa thu 2009







Nguyenphanan
#54 Posted : Wednesday, December 2, 2009 2:20:47 PM(UTC)
Nguyenphanan

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 536
Points: 0

Ðôi Mắt Phượng
Nguyễn đạt Thịnh

Tôi là một quân y sĩ ra trường năm 1974; đơn vị đầu tiên, cũng là đơn vị cuối cùng của tôi, là một tiểu đoàn Nhẩy Dù. (Xin bạn đọc cho phép tôi được bất chấp văn phạm, viết hoa hai chữ “Nhẩy Dù”, vì đó là những chữ tôi thương yêu nhất.)
Tôi lập gia đình năm 22 tuổi, ngày còn là một sinh viên quân y. Mẹ tôi bảo “chờ ra trường, có việc làm, có lương nuôi vợ, rồi hẵng cưới vợ.” Tôi biết mẹ tôi có lý, nhưng tình yêu cũng không vô lý. Tình yêu thúc dục tôi cưới Phượng ngay. Nàng quá đẹp! Thằng Quỳnh, thằng Khương, thằng Ðịnh, những đứa bạn cùng lớp bảo tôi, “Phượng đẹp ngây ngất.”
Phượng là nữ sinh đệ nhất Trưng Vương; nàng cũng yêu tôi nhưng xin một năm đính hôn để học hết trung học. Tôi chờ. Một năm dài được chia thành 52 tuần lễ ngắn hơn, đánh dấu bằng 52 ngày chủ nhật chúng tôi gặp nhau.
Không phải là một nhà văn, tôi không mô tả được nét đẹp của Phượng. Tôi chỉ biết là Phượng rất đẹp, và nhất là có một sức hút dễ sợ; chỉ cần gặp Phượng một lần là không người đàn ông nào quên được nàng.
Xin đừng hiểu lầm Phượng là “típ” người nở nang, ăn mặc khêu gợi. Sức hút của Phượng là sức hút ngầm do duyên dáng, do tình ý, chuyển đi từ đôi mắt. Ðôi mắt thật là tình. Mẹ tôi phán là đôi mắt lẳng lơ. Tôi không thích hai chữ này vì nó làm mất đẹp cặp mắt trữ tình của Phượng.
Trước hôn nhân tôi mê mệt với đôi mắt ấy. Sau hôn nhân tôi khổ sở, bực bội cũng vì đôi mắt ấy. Không một người đàn ông nào, dù chỉ gặp Phượng lần đầu, không có cảm tưởng đã yêu nàng và tình yêu của họ không bị nàng hất hủi. Ít nhất Phượng cũng không xua đuổi, không vô tình với họ. Tôi mất một số bè bạn cũng vì Phượng, vì một vài lần gặp Phượng, chạm mắt với Phượng cũng đủ để họ thầm nghĩ là tôi đã mọc sừng.
Dĩ nhiên vợ tôi không thể có tình ý với tất cả mọi người, nhưng cái khổ là đôi mắt đắm đuối của Phượng không nhìn mọi người một cách thản nhiên như người ta nhìn những vật vô tri quanh mình.
Giờ này, vợ tôi không còn trên cõi đời trần tục nữa tôi mới thấm thiá hiểu được một việc rất giản dị, rất tầm thường là không tạo ra đôi mắt của chính mình. Phượng không có trách nhiệm gì về những đổ vỡ đôi mắt gây ra. Chỉ có tác giả đôi mắt đó, ông Thợ Tạo, mới đúng là người tôi oán trách.
Ði đôi với cặp mắt tình tứ là một đồng tiền rưỡi (một ở bên má trái, và một nửa ở cạnh môi dưới) trên khuôn mặt tươi như hoa, trắng mỏng manh. Cái đồng tiền rưỡi ấy, dù chỉ có đồng rưỡi, cũng đủ ma lực giết người. Xin hiểu hai chữ “giết người” theo nghĩa trắng của nó. Chỉ riêng tôi biết cũng đã có 2 người chết đuối trong cái vũng thịt sâu không đầy nửa ly này.

Một trong 2 người xấu số là bạn thân của tôi. Nó tự bắn vỡ toang đầu ngay trên bậc cửa nhà tôi. Lá thơ tuyệt mạng trong túi nó chỉ có mấy chữ “hình dung em đang nằm trong tay một người đàn ông khác, anh không còn can đảm sống nữa.” Tôi cũng không bao giờ đủ can đảm để tìm hiểu xem vợ tôi có nằm trong vòng tay nó không. Hai giòng chữ nó viết không cho phép tôi hiểu khác được.

Tôi chạy trốn trước mọi ngờ vực. Tôi quan niệm đã không tránh được bão cát thì thà vùi đầu xuống cát để không còn biết tới giông bão bên ngoài nữa. Tôi hèn nhát? Có thể, nhưng tôi làm gì hơn được? Không chỉ yêu thương vợ, tôi vẫn còn say mê vợ tôi sau 3 năm chăn gối.
Mẹ tôi, chị tôi đề quyết vợ tôi đã cho tôi ăn bùa mê, thuốc lú. Tôi hiểu quan điểm những người thân của tôi. Tôi hiểu cả định mệnh của tôi, của vợ tôi, và của cả những người say mê vợ tôi nữa.
Tôi vừa nói tôi hiểu định mệnh của vợ tôi. Ðiều đó cần được giải thích rõ hơn. Đôi khi tôi nghĩ Phượng cũng đáng trách, nhưng trong đa số những đổ vỡ quanh nàng, Phượng chỉ thụ động, đáng thương. Phượng sợ và tránh né tất cả mọi gặp gỡ. Những buổi liên hoan của đơn vị tôi, những cuộc họp khóa, họp bạn của tôi, luôn luôn Phượng cáo bệnh hay tìm cớ bận con để không tham dự.
Cũng như tôi, Phượng sợ hậu quả của những cuộc giao tiếp, sợ cái bản chất đa cảm, đa tình của chính mình. Không phải là một người đàn bà trắc nết, vợ tôi thật sự chỉ là nạn nhân của bản ngã.
Sở dĩ tôi phải dài lời nói về vợ tôi như vậy, là để người đọc hình dung được cái ray rứt, khổ sở của tôi trong 14 tháng tù khổ sai được cộng sản đánh bóng bằng hai chữ “cải tạo.”
Cũng như mọi sĩ quan cấp úy khác, tôi bị cộng sản lừa bằng cách chơi chữ. Trên đài phát thanh, chúng kêu gọi binh sĩ trình diện và đem theo 3 ngày ăn. Sau 3 ngày học tập, thành phần binh sĩ được ra về yên ổn. Tiếp theo đó, chúng kêu gọi các sĩ quan cấp úy trình diện với 10 ngày tiền ăn. Chúng tôi tin tưởng, hoặc ít ra chúng tôi cũng mong mỏi là thời gian cải tạo chỉ kéo dài 10 ngày. Ðó là cái lầm của tôi, cái ảo tưởng đưa đến chỗ tự diệt của mọi cán bộ chỉ huy.

Cộng sản hiểu rằng mặc dù nhất thời thất trận, lực lượng quân sự của miền Nam vẫn còn là một đe dọa nghiêm trọng đối với nền thống trị mà lúc ấy chúng mới rắp tâm đem đặt lên lưng người dân Nam Việt. Một triệu quân nhân bị đặt vào hoàn cảnh thất thế vì những lừa đảo, phản phúc chính trị, những dốt nát chiến lược đã bị những mũi dùi tấn công của 15 sư đoàn Bắc Việt xé thành từng mảng nhỏ. Muốn ngăn ngừa sự kết hợp lại của những mảng quân lực, cộng sản chủ trương đánh vỡ đầu rắn: chúng phải tiêu diệt bằng mọi giá hệ thống cán bộ chỉ huy của QLVNCH. Trong 3 ngày học tập, chúng đối xử hết sức nhã nhặn lễ độ với anh em hạ sĩ quan, binh sĩ. Không một hình thức hành hạ giam cầm, không một lời nói nặng, một đe dọa.

Sau 3 ngày học tập binh sĩ đem loan truyền với chúng tôi cái tin tưởng học tập qua loa, ra về đúng kỳ hạn. Ðiều đó làm đa số sĩ quan cấp úy chúng tôi yên lòng khăn gói lên đường với 10 ngày tiền ăn. Nhiều anh lười, không đem theo cả mùng mền, tính ngủ nhờ với bạn bè cũng đủ qua khoảng thời gian 10 ngày ngắn ngủi.
Dĩ nhiên là chúng tôi đã lầm. Chỉ ngay sau khi cái bẫy xập xuống đầu chúng tôi, cộng sản trắng trợn vứt bỏ mặt nạ “đại đoàn kết dân tộc, xóa bỏ hận thù.”
Bài học đầu tiên chúng tôi được nghe qua giọng nói hằn học căm hờn của một anh cán bộ quản giáo Bắc Việt. Anh ta oang oang bảo chúng tôi, “Các anh quên hết địa vị xã hội của các anh đi. Kể từ ngày hôm nay, vợ con các anh sẽ ngửa tay xin nhân dân từng hột cơm và vài tháng sau vợ các anh chỉ còn nước đi làm đĩ để sống.”
Chúng tôi thắc mắc về thời gian 10 ngày, hắn cười khẩy, vẻ mặt câng câng, đểu cáng, “Các anh chỉ có 10 ngày ăn thôi ư? Ðừng lo, cứ ăn hết 10 ngày đó đi đã. Sau đó ăn bám vào sức sản xuất của nhân dân.”
Trước mỗi cửa phòng giam, cộng sản cắc cớ bắt chúng tôi phải dán lên khẩu hiệu “Không có gì quý bằng độc lập, tự do.” Cán bộ Việt Cộng còn phụ giải “người đi trên sa mạc thấy không có gì quý bằng nước uống. Các anh sẽ thấy đối với các anh thì không có gì quý bằng tự do.”
Ðề cao cái giá của tự do trong nhà giam quả là việc làm vừa châm biếm, vừa độc ác. Nhưng không phải chỉ trong nhà giam tôi mới thấm thía hiểu tự do là quý. Sau này ra khỏi trại cải tạo, sống trong cái nhà giam lớn hơn là nguyên cả Miền Nam Việt Nam tôi càng thấy rõ không phải chỉ một mình tôi, mà cả 20 triệu người dân Nam Việt đều đang khắc khoải giữa sa mạc thống trị, thèm khát ngụm nước tự do.
Xin trở lại với trại cải tạo và với vợ tôi. Tôi bị giam 2 tháng hơn thì một buổi chiều nghe loa gọi lên văn phòng. Tôi tái người, nghĩ ngay đến những vụ thủ tiêu, biệt giam, thường xẩy ra đối với những thành phần cộng sản gọi là ngoan cố.

Bản chất hiền lành, tôi không ra mặt chống đối bọn giảng viên, quản ngục. Cái tội của tôi chỉ là không nuốt trôi được mớ lý thuyết rẻ tiền, lẩm cẩm của cộng sản. Nhưng đối với chúng, đó không phải là một khinh tội. Tôi lo lắng chờ đợi một hình thức trừng phạt vì trọng tội trí thức.
Lên đến văn phòng, tôi được một anh binh ba Bắc Việt, mặt non choẹt, đưa vào phòng chính ủy. Và tôi đã chết đứng khi thấy Phượng trong đó.
Giọng đầy cải lương, nhân vật số một của trại giam bảo tôi, “Xét thành tích học tập tốt của anh, nhân dân đặc biệt cho anh được nhận sự chăm nuôi của gia đình.”
Tôi học tập tốt? Thật là mai mỉa. Những âm thanh giảng huấn chan chát của bọn cán bộ cộng sản đối với tôi không một mảy may khác những tiếng cuốc đất trong giờ lao động sản xuất. Tôi đoán hiểu cái lý do đã khiến “nhân dân đặc biệt cho phép” tôi được nhận sự thăm nuôi của gia đình.
Cặp mắt nẩy lửa vì giận, tôi nhìn Phượng. Vợ tôi đã đến cái nước đi làm đĩ như bọn cộng sản tiên đoán rồi ư? Phượng cũng nhìn tôi, đôi mắt vẫn tình tứ, nhưng buồn thăm thẳm và ướt đẫm. Những giọt lệ lăn dài trên đôi má nhưng mịn màng, làm lòng tôi se thắt.. Tôi thèm bước tới, ôm Phượng vào vòng tay, và hôn dài trên đôi mắt đắm đuối ấy. Nhưng dĩ nhiên ngoại cảnh không cho phép tôi làm việc tôi thường làm đó.
Vợ tôi nghẹn ngào, “Bé Mai nhớ anh lắm.”
Bé Mai! Ðứa con gái 2 tuổi của tôi, báu vật của vợ chồng tôi! Tôi đứng khựng như trời trồng trước cái hình ảnh nhỏ bé, thương yêu mà vợ tôi vừa gợi ra.
Suốt 10 phút gặp gỡ, tôi không nói được một lời nào với Phượng cả. Cổ họng tôi nghẹn cứng, rồi bên tai tôi văng vẳng thật xa có tiếng nói của tên chính ủy: “Thôi, xách đồ ăn về phòng đi, tuần sau lại được thăm nuôi nữa.”

Ðêm đó tôi không chợp mắt. Tôi hình dung những chuyện đã xẩy ra giữa vợ tôi và tên chính ủy cộng sản trước khi tôi được dẫn vào và sau khi tôi bị đưa ra khỏi văn phòng hắn. Tôi không tin đã có gì quá đáng trong phòng làm việc. Nhưng sau đó hắn có thể đến nhà tôi hay bảo vợ tôi đến một chỗ nào đó..

Tuần sau và những tuần kế tiếp, Phượng đều đều đến thăm tôi, mỗi lần đem theo một món ăn mà trước kia tôi ưa thích. Tôi nuốt những món khoái khẩu mà có cảm tưởng như mình đang ăn rơm khô, không mùi, không vị. Mỗi lần thăm viếng chúng tôi được nói chuyện với nhau 10 phút. Toàn những chuyện bâng quơ.. Cả hai đứa chúng tôi đều không dám đả động tới điểm ngờ vực đau xót của tôi.

Có lần Phượng nói với tôi bằng cái giọng thiết tha nhưng nghiêm trọng, “Em chỉ xin mình tuyệt đối tin tưởng là em yêu mình. Suốt đời em, em chỉ yêu có một mình mình. Mặc dù những gì đã xẩy ra hay sẽ xẩy ra thì tình em yêu mình vẫn mãi mãi là sự thật duy nhất.”

Qua tâm linh, tôi biết Phượng nói thật. Tôi muốn quên những việc đáng buồn đã xẩy ra. Quên không được, tôi cố gắng bào chữa cho Phượng. Nhưng ghen tương, ích kỷ, cũng không phải là những cảm nghĩ nhỏ trong lòng người chồng..
Những cuộc thăm viếng kéo dài được 4 tháng thì một hôm Phượng bảo tôi, “Tuần sau em về Long Xuyên với má. Sống ở thành phố, không có sinh kế gì hết.”

Tôi hăng hái khuyến khích vợ tôi xa lìa Saigon . Ít nhất về ruộng sống với mẹ Phượng cũng đỡ phải lo 2 bữa ăn hàng ngày, cái lo to lớn của người thị dân sau ngày bị giải phóng.
“Mỗi tuần được gặp em là niềm an ủi lớn cho anh,” tôi bảo vợ. “Nhưng cái nhìn ngờ vực, khó chịu của 2,000 anh em đồng đội, đồng cảnh trước việc anh được ưu đãi làm anh khổ sở. Anh muốn chịu chung những đầy ải với họ.”

Tuần sau Phượng không đến thăm tôi nữa. Cuộc sống khổ sai không hạn định trở thành dài hơn vì thiếu sự chia cắt của những tiêu mốc ngắn hạn. Tôi trở lại vị trí của cái máy người, vô tri giác, không phản ứng, bảo đi thì đi, bảo học thì học, bảo lao động thì lao động. Những bạn nào đã sống trong trại cải tạo của Việt Cộng hẳn đồng ý với tôi là cộng sản đã thành công trong việc làm chúng tôi mất hết tri giác. Không vui, không buồn, không hy vọng, thất vọng, không mong chờ bất cứ một điều gì nữa. Cuộc sống hàng ngày như một bộ máy được điều động bằng những tiếng còi, những khẩu lệnh. Phần ăn quá đói làm tất cả chúng tôi tìm được cái khôn ngoan của loài vật: không làm một cử động thừa, không nói một câu thừa để không phí phạm bất cứ một phần thật nhỏ nào cái sinh lực còn le lói trong xác người.

Chính trong trạng thái vật vờ của một xác chết chưa chôn ấy, tôi nhận được giấy phóng thích.. Cầm tờ giấy chấm dứt cuộc sống tù ngục của mình trong tay, tôi dửng dưng như cầm một tờ truyền đơn học tập. Nói dửng dưng cũng vẫn chưa đúng. Tôi không ý thức được những thay đổi tờ giấy mang lại cho tôi. Nhẩn nha nhơi từng hột bắp của bữa ăn trưa đói khổ, tôi nghe cơ thể khoan khoái với chút bồi dưỡng ít oi. Trái bắp có trong tay vẫn quý hơn hai chữ “tự do” mới viết trên giấy.
Một cán bộ bảo tôi, “Chiều nay anh khỏi lao động. Về sửa soạn nóp, chén trả lại nhà kho.”

Khỏi lao động, một tin mừng khác. Tôi trở về căn phòng giam hôi hám nhưng mát rượi như một thiên đàng so sánh với cái hỏa ngục lao động sản xuất mà các bạn tôi đang chịu đựng ngoài trời.
Bốn giờ chiều, Phượng đón tôi ngoài cổng trại giam. Người vợ đài các của một bác sĩ mặc cái áo bà ba vải bông và cái quần đen, đứng vịn một chiếc xe đạp đàn ông cũ kỹ. Có thể tôi sẽ ít ngỡ ngàng hơn nếu từ trong thế giới tù ngục bước ra được gặp lại thế giới cũ của mình với xe honda, với áo dài. Tôi đang bước vào một thế giới hoàn toàn khác lạ sau chưa đầy 2 năm mất nước.
Thế giới bên ngoài nhà tù không phải ít khe khắt, ít đọa đầy. Suốt một năm trời, tôi phải sống trong chế độ “quản chế của nhân dân”. Tôi xin giải thích những chữ văn hoa này. Chế độ “quản chế của nhân dân” có nghĩa là tôi phải làm mọi không công, phải sợ sệt tất cả mọi người. Bất cứ ai trong phường cũng có quyền phán xét là tôi chưa giác ngộ, cần học tập thêm, là tôi lại đi tù nữa.

Tôi cúi mặt trước tất cả mọi người, dù đó chỉ là một đứa con nít. Tôi vâng dạ, tôi tuân lệnh, không cần biết lệnh đến từ đâu. Một bà hàng xóm gọi tôi đến coi chứng bệnh cho thằng con tám tuổi. Sau khi quan sát kỹ mọi triệu chứng, tôi bảo bà là con bà bị thương hàn và không có cách nào hơn là đưa nó đi bệnh viện. Bà quắc mắt, “Anh đi học tập ra mà còn như vậy đó hả? Nhân dân có quá nhiều nhu cầu để bệnh viện thừa chỗ trống cho một đứa con nít nóng lạnh. Anh không biết cách nào khác nữa sao?”
Tôi đề nghị bà đừng cho con ăn gì hết để ruột không hư. Bà ta cáu kỉnh nạt, “Lang băm tư bản.”

Sau khi tôi về không hiểu bà có nghe lời tôi khuyến cáo không, nhưng rất may là đứa trẻ lành bệnh. Suốt nửa tháng trời tôi hồi hộp lo sợ: cái chết của đứa trẻ vì thiếu thuốc, thiếu chăm sóc có thể đưa tôi trở lại trại cải tạo như không.
Nguồn an ủi của tôi là số người thiếu ý thức như bà hàng xóm mà tôi vừa kể tương đối rất ít. Đa số dân Saigon sống trong một tình đoàn kết ngấm ngầm nhưng khắng khít. Một bà cụ dúi cho tôi gói gạo nhỏ qua câu nói chí tình, “Bác sĩ phải ăn thêm mới sống nổi, tôi già rồi, thiếu thốn chút đỉnh cũng không đến nỗi nào.” Bà vợ của một công chức còn đang tù tội cho tôi đôi giầy. Ông hàng xóm sát vách cho cái áo.

Nhưng mọi nguồn vui của tôi đến từ Phượng thì nàng cũng là nguyên nhân của mọi buồn khổ. Phượng làm đĩ ra mặt, không còn e dè gì tôi nữa cả. Vợ tôi không chỉ tống tình cán bộ cộng sản để thăm nuôi tôi nữa, mà xuống đến tận chân thang của xã hội. Mỗi ngày, vài lần, những anh phu xích lô đến gọi Phượng đi khách. Những lần đầu tiên Phượng còn ngượng với tôi, nhưng sau quen dần, nàng chỉ bảo tôi, “lát em về.”
Phần tôi, tôi vẫn phải tình nguyện xung phong trong mọi công tác nặng nhọc của phường như hốt rác, quét đường, trồng cây, thông cống... Tôi xung phong để được chấm điểm, xung phong để khỏi trở lại lao tù cải tạo. Ðôi khi nghĩ quẩn tôi cho rằng đi tù mà còn tự do hơn chế độ nhân dân quản chế.

Thêm một lần nữa, tôi tuyên dương sự thành công của cộng sản. Chúng đã hoàn toàn đập tan uy thế của giới chỉ huy, giới trí thức miền Nam . Suốt một năm ra khỏi tù, tôi không được phép làm bất cứ một việc gì cả. Nói một cách khác, tôi phải ăn bám vào đồng tiền vợ tôi ngày ngày bán thân tạo ra. Sau 31 năm, nghĩ lại tôi vẫn rùng mình khiếp sợ.

Tôi xin độc giả ngưng đọc một phút để hình dung cái nhục nhã của tôi, của tất cả giới trí thức miền Nam . Tôi không đủ can đảm để nói bất cứ câu gì với vợ tôi về việc làm của nàng. Cả hai chúng tôi cúi đầu, chịu phép trước guồng máy xã hội mới.
Nếu một ngày tù dài bằng một ngàn năm sống tự do thì 365 ngày bị trói tay, thất nghiệp, sống đói khổ dưới quyền quản chế của nhân dân, và nhìn vợ đi làm đĩ chắc phải dài hơn sự hiện hữu của cả hệ thống vũ trụ.

Giữa hai vợ chồng tôi nẩy sinh ra một tình trạng ngượng ngập khó tả. Ít khi tôi dám nhìn thẳng vào mắt Phượng, và gần như không bao giờ tôi dám nói với nàng chuyện gì khác hơn là những câu đối thoại tầm thường quanh sinh hoạt nho nhỏ trong nhà.

Thỉnh thoảng bà mẹ vợ tôi lén lút đem được ít gạo, ít thịt lên cho chúng tôi. Qua những cuộc tiếp tế lậu này, tôi khám phá thêm được một bí mật: vợ tôi không hề về Long Xuyên với mẹ như nàng đã nói với tôi. Phượng đã làm gì, ở đâu, trong 7 tháng trời tôi nghĩ nàng về quê sống với mẹ? Cả đến câu hỏi này cũng chưa lần nào tôi dám hỏi Phượng. Tôi trốn chạy một sự thật phũ phàng nào nữa đó sẽ đến, nếu Phượng phải trả lời tôi.

Tối 30 tháng Chín 1978, sau khi theo một anh xích lô “đi khách” về, Phượng kéo tôi vào phòng trong cùng với bé Mai. Trên bộ ván thay cho cái giường nệm đã đi vào chợ trời từ hai năm trước, Phương mở gói thịt quay ra rồi bảo tôi, “Mình ăn với em.”
Từ sau ngày mất nước đây là lần đầu tiên tôi lại được nhìn thấy miếng thịt quay; Phượng lăng xăng bới cơm, và vợ chồng con cái chúng tôi ăn uống ngon lành như chưa bao giờ được ăn ngon đến như thế.
Những đó không phải là điều ngạc nhiên duy nhất của tôi. Ăn uống xong, vợ tôi kéo từ trên đầu tủ xuống một gói giấy: bên trong là một bộ đồng phục thanh niên xung phong. Tay chân run rẩy, Phượng trải bộ quần áo lên mặt bộ ván, rồi giọng nói cũng run rẩy nàng bảo tôi, “8 giờ sáng mai, mình mặc đồng phục này đứng đón tàu ở bến Bạch Ðằng.”

“Ðón tầu? Ðể đi đâu?”
Không trả lời câu hỏi của tôi, vợ tôi chỉ lập cập nói, “Em đã đóng đủ 10 cây cho họ rồi.”
Mười cây vàng! Tôi choáng váng với con số lớn khiếp đảm đó.
“Vàng đâu mà em có đến 10 cây?” Câu hỏi buột miệng không nuốt trở vào được nữa, tôi chỉ còn biết nhìn vợ tôi, câu xin lỗi ngầm chứa trong ánh mắt. Phượng cũng nhìn tôi, đôi mắt thăm thẳm tình tứ trên khuôn mặt vẫn còn đẹp dù đã gầy đi và dạn dầy phong trần.
Sau một phút im lặng, nàng nghẹn ngào, “Em không biết mình có tin hay không, nhưng sự thật lúc nào em cũng yêu mình.”

Tôi ôm Phượng vào long. Giữa một xã hội thù hận, cái bóng mát yêu thương nhỏ bé thật là vô giá. Mặc dù Phượng chưa nói, nhưng tôi cũng đoán hiểu mục đích vượt thoát của chuyến đi ngày mai, và hiểu 10 lượng vàng, giá của chuyến đi là kết quả của những canh dài Phương đem thể xác ra cho thiên hạ dầy vò để góp nhặt từng đồng hầu mua tự do cho tôi.

Cổ nghẹn lại, tôi không nói được một tiếng nào cả. Tôi vừa sung sướng trước những bằng chứng hiển nhiên của một mối tình to lớn, bền chắc, vừa xấu hổ nhận những hy sinh nhục nhã của vợ.
Phượng bảo tôi, “Em chỉ đủ tiền đóng cho mình, nhưng em với con vẫn đi theo mình.” Nàng giải thích cho tôi hiểu chuyến tầu vượt thoát là tầu thầu việc chuyên chở thanh niên xung phong đi làm rừng ở cửa Cần Giờ. Sáng mai, tôi sẽ cùng với 30 người nữa, đội lốt thanh niên xung phong xuống tầu tại bến Bạch Ðằng. Ðàn bà, trẻ con đi đường bộ xuống ngã ba Ðồng Chanh, chờ tại đó và sẽ đổ lên tầu. Họ là những người đi lậu, không đóng vàng.

“Người ta đi lậu nhiều lắm,” Phượng bảo tôi. “Em cũng trà trộn vào đám người đó.. Không lẽ người ta xô mình xuống sông. Sợ gì?”
Tôi sợ. Rùng mình tôi nghĩ đến cảnh “người ta xô vợ con tôi xuống sông”, nhưng có sợ tôi cũng không giải quyết được cái khó không tiền và đành theo mọi xếp đặt của Phượng.

Ðêm đó tôi trằn trọc không ngủ, Phượng cũng không ngủ. Vào khoảng gần sáng nàng hỏi tôi, “Mình đã đủ tin vào tình em yêu mình để tha thứ hết mọi việc cho em chưa?”
“Anh tin. Anh yêu mình.”
“Em còn một tội nữa, chưa thú nhận được với mình.”
Trong bóng đêm, tôi lặng thinh lo lắng. Ngần đó bất hạnh chồng chất vào một cuộc sống ngắn ngủi, cay cực, còn chưa đủ nữa hay sao.

Vợ tôi thở dài, “Lúc đó em còn khờ quá nên chuyện mới xẩy ra. Em phải nói dối mình là em về Long Xuyên với má. Thật ra em không muốn mình buồn.”
Dù vợ tôi chưa nói ra, nhưng tôi cũng đoán hiểu.
“Em có con?” tôi hỏi.
Rúc đầu vào ngực tôi, vợ tôi thút thít khóc, “Mình tha cho em.”
Ðứa con chỉ là hậu quả đương nhiên của những việc làm mà tôi đã nhìn vợ tôi hàng ngày đi theo những bác phu xích lô để làm. Bây giờ tôi lại hiểu mục đích cao cả của việc làm đê tiện đó. Tôi thương Phượng hơn là trách nàng.
“Ngày mai em muốn cho con cùng đi?”
“Nếu mình đồng ý.”
Dĩ nhiên tôi đồng ý; đồng ý đưa những người thân nhất đời mình vào chuyến đi địa ngục, vào vòng tay tử thần.

Trước 5 giờ sáng hôm sau, trong bộ đồng phục thanh niên xung phong, tôi chở Phượng và bé Mai trên chiếc xe đạp mà mấy tháng trước Phượng đã dùng để đón tôi ra khỏi trại tù cải tạo. Mặc dù giờ hẹn là 8 giờ, nhưng tôi vẫn đi sớm để hàng xóm đừng để ý đến bộ đồng phục của tôi. Hơn nữa, Phượng còn ghé Phú Nhuận, nơi nàng gởi nuôi thằng Vinh, đứa trẻ ra đời trong thời gian tôi ở tù.

Mọi việc xuôi lọt và tương đối dễ dàng. 7 giờ sáng tôi đến điểm hẹn. Nhiều người cũng mặc đồng phục như tôi đã có mặt. Nhìn thái độ ngỡ ngàng, dè dặt của họ, tôi hiểu họ cũng như tôi, ngoài bộ áo thanh niên xung phong, chúng tôi không xung phong làm gì hết.

Phượng bảo tôi, “Mình chờ ở đây, em qua Tân Thuận đón đò máy.”
Nhìn vợ lưng đai một đứa con, chở đứa thứ nhì trên thanh ngang xe, ra sức đạp chiếc xe cót két, tôi nghe đứt ruột. Nửa tiếng đồng hồ sau tôi xuống tàu, chọn chỗ ngồi ngay bên hông, hy vọng giúp đỡ Phượng đưa con lên. Khoảng 8 giờ 45, tàu đến ngã ba sông Ðồng Chanh. Bốn chiếc đuôi tôm xáp lại, đàn bà trẻ con ồn ào dành nhau leo lên. Tôi đỡ bé Mai trên tay Phượng, rồi kéo Phượng, tay còn bồng thằng Vinh lên theo. Cuộc đổ bộ của khoảng 70 đàn bà, trẻ con lên tàu không những đã công khai mà còn ồn ào, hỗn độn, tranh dành, la lối, đính chánh hùng hồn cái huyền thoại gán cho cộng sản một hệ thống an ninh bao trùm và hữu hiệu. Hàng chục khách thương hồ và ít nhất là 4 người tài công đuôi tôm đã chứng kiến và chắc chắn cũng đã biết mục đích của chuyến đi, nhưng cộng sản vẫn không bắt buộc được họ khai báo, phản phúc đồng bào ruột thịt.

Mười rưỡi, tàu ra đến cửa biển Cần Giờ, và trưa hôm đó quê hương thương yêu chỉ còn là một vệt dài dậm hơn mầu biển. Ðến lúc này các “giới chức” trên tàu mới hò hét chửi mắng những người vượt thoát lậu. Họ bảo chỉ dự trù lương thực và nước uống cho những người có ghi tên và có góp vàng. Những người khác sẽ không có khẩu phần.

Phần ăn và nhất là phần nước uống ít oi của tôi được chia làm 4. Bao tử trống nhưng tâm tư vợ chồng chúng tôi tràn đầy hạnh phúc. Vợ tôi ngồi sát bên tôi, tay ẵm thằng Vinh, bé Mai nằm gọn trong lòng tôi; đầu vợ chồng tôi đội chung một cái áo, vừa làm nón cho người lớn, vừa làm mái nhà cho trẻ con.
Ngồi bó rọ trong cái cảnh mà nếu được nhìn thấy, chắc mọi người phải gọi là địa ngục trần gian, vợ chồng tôi bàn chuyện thiên đàng mộng tưởng. Cái thiên đàng của chúng tôi rất giản dị: bất cứ nơi nào cho tôi được đem sức đàn ông ra đi làm, làm bất cứ việc gì để nuôi vợ, nuôi con.

Tôi bảo Phượng, “Anh sẽ làm việc, làm ngày, làm đêm, để không bao giờ em và con còn phải thiếu thốn khốn khổ nữa.”
“Em thương mình,” Phượng thủ thỉ bên tai tôi. “Không bao giờ em còn làm mình buồn nữa.”
Tất cả những cam kết, hứa hẹn, dự tính đẹp như mộng ấy, chúng tôi đem ra làm thức ăn để đánh lừa cơn đói. Khẩu phần của tôi mỗi bữa khoảng 2 chén cơm chỉ vừa đủ cho 2 đưa nhỏ. Phượng và tôi nhắp một đầu đũa để cầm hơi.

Qua đến ngày thứ 3, vì đói quá, khi đi lãnh cơm tôi thò tay vào nồi, vừa bốc thêm một nắm cơm vừa nói, “Cho tôi xin thêm chút cơm.”
Một quả đấm bay vào mặt tôi; yếu đuối sau 14 tháng bị giam cầm đói khổ, yếu đuối sau 3 ngày thiếu cơm, thiếu nước, tôi té ngửa dưới sức mạnh của quả đấm trời giáng.
“ÐM quân ăn cướp. Ðã đi lậu mà còn đòi ăn nữa hả.”

Quả đấm tuy đau, nhưng tôi vẫn mừng vì cà mèn cơm chưa đổ. Bưng cà mèn đầy cơm hơn nhờ bốc thêm được một nắm về mái lều to bằng manh áo. Tôi sung sướng nhìn Phượng được ăn thêm miếng cơm thứ nhì. Tôi an ủi vợ, “Mình đi được 3 ngày rồi, nhiều lắm 2 ngày nữa cũng phải đến Thái Lan hay Mã Lai.”
Héo hắt cười, Phượng nhìn tôi. Tôi muốn thuyết phục cho vợ yên lòng, nhưng chính giọng nói của tôi cũng không vững.

Mũi tàu vẫn hướng về phía Nam , điều làm tôi thắc mắc. Mặc dù không có cả đến một tấm địa đồ nhỏ trong tay, nhưng tôi vẫn mường tượng được vị trí của Thái Lan và Mã Lai so với Việt Nam . Tôi góp ý với những người điều khiển tàu là nên cho mũi tàu chếch thêm về hướng Tây Nam . Tôi chưa nói dứt lời, một ông vạm vỡ nạt ngang, “Anh biết gì mà nói.”

Ðến ngày thứ 5 của chuyến hải hành, vợ tôi lả đi vì đói, vì mệt và say sóng. Phượng dựa vào thành tàu, mắt nhắm nghiền, đầu gục xuống. Tôi van xin ông ngồi cạnh nửa thước khoảng trống để vợ tôi có thể ngả lưng trong thế nằm co quắp. Hai đứa bé không còn khóc được nữa. Tiếng khóc của chúng trở thành những tiếng rên nho nhỏ.

Tôi mò xuống bếp tán tỉnh xin phụ việc. Khoản thù lao tôi mong mỏi chỉ là mỗi bữa một chén nước cơm cho trẻ con uống. Chúng không còn sức để nhai và nuốt vật cứng nữa. Một ông “giới chức” hất hàm hỏi tôi, “Trước kia anh làm nghề gì?”
Dĩ nhiên việc đi cải tạo không phải là một nghề, mà cũng không phải là việc đem ra khoe được, tôi đành khai, “Thưa ông, tôi làm bác sĩ.”
“Biết chích không?”
“Dạ biết.”

Thế là tôi biến thành thầy Hai chích dạo. Bà vợ ông giới chức bị bệnh đái đường; ông đem theo một xách thuốc cần thiết cho bà, nhưng thiếu thầy Hai chích. Ðường lên, bà nằm mê man từ 2 ngày nay. Tôi được đưa vào khoang để chích insuline cho bà. Bữa đó không những có được chén nước cơm, mà trong cà mèn còn thêm được một miếng thịt.

Ðược dinh dưỡng, vợ tôi và 2 đứa trẻ cũng tỉnh táo hơn.. Chiều hôm đó tôi lại có thêm một thân chủ: gia đình một người Trung Hoa nhờ tôi chăm sóc cho đứa con bị cảm nắng. Họ tạ thầy một hộp Sumaco, khiến bữa ăn chiều của chúng tôi có thể nói là thịnh soạn.
Cà mên cơm đầy ăn với cá hộp giúp Phượng đủ sức ngồi dậy săn sóc con. Hai đứa trẻ vẫn đuối, nhưng nhờ được uống nước cơm nên không đến nỗi bị lả đi như hôm trước nữa.
Sáng hôm sau tôi trở lại chích thuốc cho bà giới chức. Nhờ insuline làm tan đường, bà đã ngồi dậy được, tỉnh táo hơn. Uy tín lang băm của tôi gia tăng nhanh chóng, số thân chủ cũng gia tăng vì sau 5 ngày ngồi bó rọ phơi nắng, gần như tất cả mọi người đều cảm thấy mệt đuối, đau nhức, nhiều người sốt, cảm và ho.

Nỗi khổ tâm của tôi là trị bệnh không dược liệu. Đem kinh nghiệm 14 tháng giúp bạn tù trị bệnh bằng phương pháp kháng bệnh, tôi chỉ dẫn mọi người cách hô hấp, cánh tập trung tư tưởng để tự kỷ ám thị.

Nhờ hành nghề bác sĩ, khẩu phần của gia đình tôi trở nên sung túc hơn rất nhiều. Mỗi gia đình vượt biển đều có thủ theo một vài thứ thực phẩm khô, họ chia cho tôi một ít để thù lao bác sĩ.
Ðến ngày thứ 7, nhờ được ăn no hơn vợ tôi đã bình phục và hai đứa trẻ cũng tỉnh táo. Trưa hôm ấy chúng tôi gặp hoạn nạn: chiếc áo mái nhà của tôi bị gió biển cuốn đi, vợ tôi lục giỏ tìm cái áo khác ra căng lều. Lần này tôi có ý cột kỹ tay áo vào thành tầu.

Tối hôm đó, đang gục đầu trong thế ngủ ngồi tôi nghe như một biến chuyển lớn đang xẩy ra. Giật mình tôi thức dậy trong tiếng reo hò của mọi người.
“Tới rồi. Thấy đất rồi.”
“Cảm ơn Trời Phật. Chuyến đi quá dài nhưng rồi cũng đến.”
Giọng quát của một giới chức, “Ngồi cả xuống! Chạy tới, chạy lui, mất thăng bằng lật tàu chết cả đám bây giờ.”
Mọi người ngoan ngoãn ngồi trở xuống, nhưng tiếng ồn ào vẫn không ngớt. Người ta bàn tán, “Chắc là Mã Lai.”
“Có lẽ như vậy, vì nó là hòn đảo, chứ Thái Lan thì đã thấy lục địa.
“Không chừng Nam Dương.”
“Rất có thể là Úc.”

Vợ tôi nắm tay tôi bóp mạnh. Tôi nghe như những mừng vui của Phượng đang được truyền sang tâm hồn tôi mà không cần một lời nói. Mọi người mừng vì chuyến hải hành 8 ngày đã đến đích. Cuộc hành trình của riêng tôi và Phượng đã kéo dài gần 4 năm, mà mỗi ngày là một cơn ác mộng bất tận cho cả 2 chúng tôi cũng đang chấm dứt với chuyến đi này. Nỗi mừng của chúng tôi, vì vậy mà to lớn hơn tất cả. Chúng tôi mừng đến không nói được nên lời, không hò reo được như mọi người. Tôi ngồi yên, không buồn chồm lên nhìn hòn đảo mà tàu đang tiến vào nữa. Niềm vui của tôi đã quá đầy từ ngày bước chân xuống tầu, rời bỏ quê hương địa ngục, trên những bằng chứng xác nhận tình yêu tuyệt vời của Phượng đối với tôi. Không một người bạn đồng thuyền nào thỏa mãn bằng tôi.
Ông bạn ngồi cạnh gợi chuyện, “Hình như hòn đảo nhỏ quá.”
“Vâng,” tôi lơ đãng đáp.
“Không chắc đã có người trên đảo.”
“Vâng..”

Mũi tàu vẫn hướng vào hòn đảo cô đơn trong khi niềm lạc quan trên tàu lắng xuống. Khoảng cách thu ngắn dần làm mọi người thấy rõ kích thước nhỏ bé của hải đảo. Nhưng giữa khoảng ngàn trùng của đại dương nhấp nhô hòn đảo kia vẫn là đất, vẫn bảo đảm vững vàng. Hơn nữa, nó cũng lớn tối thiểu bằng 20 lần con tàu dài 15 thước, rộng 3 thước với 140 người trong lòng tàu.

Ða số góp ý kiến nên ngừng lại đảo.
“Biết đâu bờ bên kia lại không có một làng chài lưới.”
“Ghé nghỉ ngơi một ngày, đi lại cho dãn gân; ngồi bó gối mãi, mỏi quá.”
“Có thể tìm nước ngọt, đánh cá tăng thêm thực phẩm trước khi tiếp tục đi nữa.”
Cuối cùng, những giới chức trên tầu quyết định cho tầu chạy một vòng quanh đảo để quan sát trước. Và đó là quyết định cuối cùng của họ với tư cách chỉ huy chiếc tiểu hạm tử thần. Mới chạy được nửa vòng đảo, tàu chạm đá ngầm, vỡ đáy, lật nghiêng qua 30 độ.

Phượng văng từ thành tàu bên này sang thành tàu bên kia, thằng Vinh tuột tay mẹ, rơi thẳng xuống biển. Trên đà nghiêng của con tàu, tôi phóng nhanh đến bên Phượng, trao vội bé Mai cho nàng và nhẩy xuống biển để chỉ vừa kịp nắm tay đứa bé chưa đầy năm, theo nó ngụp vào một đợt sóng lớn. Sóng đưa tôi và thằng Vinh vào gần bờ, và do đó tôi trở thành người đầu tiên đặt chân lên hòn đảo san hô thê lương, sau này biến thành nơi gởi xác của nhiều người trong chúng tôi.

Việc làm đầu tiên của tôi là bồng thằng Vinh đưa lên cao để vợ tôi nhìn thấy mà yên lòng. Cách bờ khoảng 15 thước, mọi người nhốn nháo; tiếng kêu khóc thật là thê thảm, nhiều người nhẩy xuống nước chạy vào bờ.
Sau khi bị vỡ đáy, con tàu mắc cạn đang từ từ trở lại thế thăng bằng, mặc dù vẫn còn hơi nghiêng. Những người trên tàu không đến nỗi phải bám cứng vào thành tàu để khỏi rơi xuống biển nữa.

Nhờ người coi chừng thằng Vinh, tôi lội xuống nước trở ra mạn tàu bồng bé Mai, và xách gói hành lý khiêm tốn của chúng tôi, rồi dắt Phượng lên đảo. Nhiều người khác cũng làm như chúng tôi. Họ lìa bỏ con tàu mà không cần biết là đi đâu, nhắm mắt đưa chân, như 8 ngày trước rời bỏ quê hương Việt Nam .

Ðó là sai lầm của chúng tôi. Hòn đảo san hô khô cằn, lởm chởm, không dung nạp chúng tôi. Tìm được một chỗ bằng phẳng để ngồi xuống cũng đã khó chứ chưa nói đến việc ngả lưng.
Sau gần một tiếng đồng hồ loay hoay tìm kiếm, tôi chọn được một hốc đá tương đối rộng rãi để định cư. Cái áo làm mái nhà đổi vai trò trở thành tấm chiếu cho trẻ con ngồi.
“Ðau đít quá ba ơi,” bé Mai nhăn nhó nói.

Tôi ẵm con lên, đặt nó ngồi trên bọc quần áo, rồi bảo Phượng, “Em coi chừng con, anh đi quanh tìm xem có con ốc, con sò nào không.”

Tôi ngỡ mình là người nhanh chân trong việc đi kiếm ăn, nhưng hơn chục người khác cũng đã lom khom trong các hốc đá tìm kiếm như tôi. Cái may của tôi là trong một kẹt đá nhỏ, tôi chụp được hai vợ chồng một chú tôm hùm khá to, mỗi con khoảng hai kí.
Phượng reo mừng, “đồ biển sẵn thế này là không phải lo đói nữa.”
Phượng lầm, mà tôi cũng lầm. Ðồ biển không sẵn như chúng tôi tưởng, hoặc ít ra thì đó cũng không phải là nguồn thực phẩm đủ cung cấp cho 140 người đói khát.

Tôi đi nhặt rác và rong biển về làm củi nướng tôm; tôi cũng tìm được một mảnh ván nhỏ cho Phượng ngồi. Bữa ăn đầu tiên trên hoang đảo, cách tìm thực phẩm, nướng và ăn bốc theo kiểu thượng cổ, vừa ngon lại vừa vui. Vợ chồng, con cái chỉ ăn hết một con tôm, con thứ nhì để dành..

“Em chưa thấy con tôm hùm nào lớn đến như vậy,” Phượng vừa chôn vỏ tôm xuống cát vừa bảo tôi.
Mới 6 giờ chiều, mặt trời còn cao mà gió biển nghe đã lạnh. Tôi lo lắng bảo Phượng, “Có bao nhiêu quần áo em lấy mặc hết cho con.. Cả em nữa.”
Gói hành lý được mở ra, tắp hết lên người. Mỗi đứa trẻ mặc 4 áo, 3 quần. Phượng được 3 áo, 2 quần. Tôi mặc thêm cái sơ mi nữa ra ngoài bộ đồng phục chưa thay từ ngày đi.

Gia đình ông hàng xóm sát hốc đá nhà tôi định xuống tầu tránh lạnh nhưng bị đuổi trở lên.. Một số thanh niên tổ chức chiếm độc quyền cư ngụ trên tầu. Họ cũng ngưng, không phát thực phẩm như trước nữa.

Ðêm hôm đó một người đàn bà chết, có lẽ vì quá lạnh. Chúng tôi xuống tầu mượn được một cây xà beng và một cái búa để đục đá chôn người xấu số. Ðó là người đầu tiên và người cuối cùng được chôn. Lý do thứ nhất khiến chúng tôi không chôn người chết nữa là vì đục đá làm mồ là một công trình quá khó mà lại không hiệu quả. Lớp đá vụn lấp xác chết không chặt được như đất nên chỉ một ngày sau mùi thối đã xông lên nồng nặc. Lý do thứ nhì chua chát hơn: người ta không muốn vùi đi mấy chục kí thịt của người chết trong lúc tất cả đều đói.

Xác chết đầu tiên tôi thấy bị xẻ thịt là xác một thiếu nữ trắng trẻo, xinh xắn. Tôi đang đi nhặt...
Nguyenphanan
#55 Posted : Saturday, January 30, 2010 1:56:52 AM(UTC)
Nguyenphanan

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 536
Points: 0

NẮNG ĐẸP ẤM TÌNH NGƯỜI
Bút ký Nguyễn Phan Ngọc An

Con người trên cõi nhân gian này thường hay ôm ấp những gì đẹp, những điều hay và ghi khắc những chân tình từ mọi phía để làm hành trang cho cuộc sống, thi vị cho cuộc đời và là kỷ niệm gói ghém tâm tư thầm kín sâu xa - Tôi được cơ duyên đến thăm xứ sở xương rồng từ hai năm trước, lần thứ nhất tôi đến để làm nghề skin care cho một tiệm thẩm mỹ nhưng chẳng được bao lâu, lần thứ hai tôi đến tham dự hai buổi sinh hoạt và lần này tôi lại có dịp đến thung lũng Phượng Hoàng thăm thắng cảnh thần tiên của miền đất có thể gọi là nóng nhất nước Mỹ …Một kỷ niệm đẹp đã thúc dục tôi cầm bút để ghi lại những tình cảm, những sự việc trải qua cùng những thắng cảnh tuyệt vời của miền nắng ấm Arizona.

Tất cả cũng do có nhân duyên hội ngộ mà được quen biết nhau, tôi nhớ lại năm 2005 trên Cao Nguyên Tình Xanh thành phố Seattle trong một dịp tổ chức Đại Hội Phụ Nữ văn chương hải ngoại tôi đã được quen biết hai nhà báo nữ tại Arizona – Chu Kim Oanh chủ nhiệm chủ bút nguyệt san AZ Rạng Đông và phu quân của chị là anh Đoàn Phú Lạc, cô Mộng Tuyền chủ nhiệm chủ bút nguyệt san Bút Tre - Một sự cảm mến chân thành đã len lõi trong tâm hồn cả bốn chúng tôi và kể từ đó chúng tôi thường liên lạc với nhau trên email, thường xuyên tôi gửi bài vỡ đăng hai tờ báo Rạng Đông và Bút Tre.
Lại một nhân duyên thứ hai cũng từ buổi hạnh ngộ Phụ Nữ văn chương hải ngoại tổ chức tại miền Nam Cali năm 2006 tôi được quen biết thêm cô Thanh Mai một nhà truyền thông nữ và anh Lê Hữu Uy nhà báo – Cô Thanh Mai là Giám Đốc đài phát thanh Tiếng Nước Tôi AZ và anh Uy là Tổng Thư Ký của Hội Á Mỹ Cao Niên AZ (Hội AMCN/AZ) cũng là sáng lập báo của hội và người hoạt đông cộng đồng rất tích cực …
Và thêm nữa, nhân duyên thứ ba đến với tôi trong năm 2009 – Nhân ngày Vinh danh những người có thành tích xuất sắc của các sắc dân Á Châu tổ chức tại tiểu bang Arizona mà cô Thanh Mai được bình chọn là “Nhà Quản Trị Doanh Nghiệp Xuất Sắc Nhất Trong Năm”; Và là ngày kỷ niệm 2 năm thành lập Hội AMCN/AZ tôi được cô Thanh Mai và anh Lê Hữu Uy mời qua tham dự, cùng đi có nhà thư họa Vũ Hối - Các bạn ra đón tôi vào một buổi chiều nắng vẫn còn rơi rớt nhưng sức nóng thì như thiêu đốt cả con người – Tôi vô cùng cảm động trước sự nồng nhiệt và ưu ái của các bạn tại AZ dành cho tôi.

Vừa đến Arizona là Chu Kim Oanh gọi phone muốn gặp nhau nhưng tôi hẹn nàng vào ngày khác để cùng các bạn về nhà Thanh Mai nghỉ ngơi - Đêm đầu tiên anh Lê Hữu Uy và cô Thanh Mai tổ chức một buổi họp mặt tại quán Bò Cá 7 món, chủ nhân là một nhà kinh doanh trẻ, Bác Sĩ Nha Khoa Ki Ngô - Được biết qua thành tích vị B/S này rất đãi ngộ cộng đồng, có tấm lòng với cộng đồng nên được sự quý mến của hầu hết người Việt nơi đây – Đêm họp mặt tôi được dịp quen biết anh Lê Văn Ngàn Hội Trưởng Hội AMCN/ AZ, (phải gọi là chú thì phải phép hơn nhưng xin anh cho gọi bằng anh vậy vì thơ văn thường không có tuổi, anh em vẫn thân thiện hơn phải không anh Ngàn), cô Nam Phương nhà báo nữ chủ nhiệm báo Phượng Hoàng, cô Hãi Yến là một nữ lưu trẻ chưa đầy 30 tuổi, là Director Coorporator Hội Y Tế Á Châu Thái Bình Dương AZ, cô còn là Tổng Thư Ký Cộng Đồng Á Châu AZ, và các anh chị của hội Á Mỹ Cao Niên AZ mà về lại San Jose đã gần trọn một năm nên tôi quên mất tên rồi, xin quý anh chị tha lỗi cho…Hôm sau họa sĩ Vũ Hối bận việc phải trở lại CA, nên chỉ có tôi là khách phương xa tham dự buổi vinh danh cô Thanh Mai. Buổi lễ được tổ chức rất quy mô trọng đại do Cộng Đồng Á Châu tổ chức có các Đại Diện chính quyền và giới truyền thông Hoa Kỳ nên thật là vinh dự cho người Việt nơi đây mà nhất là vinh dự cho cá nhân cô Thanh Mai và gia đình - Nhờ buổi tiếp xúc này mà tôi mới thấy rõ nếp sống và sinh hoạt của cộng đồng tị nạn Việt Nam tại Arizona – Có thể nói rằng chưa một tiểu bang nào có tầng lớp tuổi trẻ hăng say tích cực với công tác cộng đồng như ở nơi này, cho dù những tiểu bang đông người Việt như California cũng không thể so sánh với tấm lòng nhiệt huyết của các em tuổi trẻ tiểu bang Arizona - Buổi trưa tham dự kỷ niệm 2 năm thành lập Hội AMCN/AZ thật vui, toàn những vị từ 60 tuổi trở lên, có cụ ngoài 90 vẫn cố gắng đến với hội mang theo nụ cười hóm hém không còn cái răng nào - Hôm đó các em trẻ cũng đến chúc mừng quý cụ, trong nhóm trẻ Mộng Tuyền là người hăng say nhất, cô nói, cô hát , cô chúc mừng quý cụ sống lâu trường thọ, trường trường thọ - Dịp này anh Lê Hữu Uy trịnh trọng giới thiệu tôi trước quý ông bà cao niên của hội, những tác phẩm Thơ Văn, CD của tôi mang theo đã được quý vị ủng hộ, ưa thích, tôi chuẩn bị sẵn một bài thơ sáng tác trước ngày đi ngâm tặng riêng hội AMCN/AZ, những tràng vỗ tay tán thưởng và một bình hoa rực rỡ do quý bà quý chị của hội kết bằng tay tuyệt đẹp trao tặng là một kỷ niệm tôi không bao giờ quên. Tình người Việt nơi này đậm đà và thân thương như một đại gia đình, tình cảm dành cho khách từ xa đến quả là nồng nàn, không chê trách được một điều gì.
Anh Lê Hữu Uy là người bỏ ra mấy ngày đưa tôi đi tham quan thung lũng Phượng Hoàng (Phoenix, thủ phủ của tiểu bang Arizona), nhiều cảnh trí nên thơ, nhiều di tích hùng vĩ của tiểu bang AZ mà nơi tôi định cư không hề có được. Một điều rất lạ là tiểu bang này có thành phố dành riêng cho người già sống, tên gọi Sun City – Không hề có một người trẻ tuổi hay một đứa con nít cư ngụ nơi đây, cả thành phố rộng lớn chỉ toàn các người cao tuổi sống và chung quanh đường phố toàn là cây xương rồng đủ kiểu, đủ cỡ … một chuyện lạ nữa là không hề có rau muống vì nghe đâu có người nào ăn trúng độc nên tiểu bang cấm ngặt không cho rau muống nhập vào, tội cho các người bạn thân thương của tôi chắc là thèm rau muống lắm phải không, hẹn các bạn sang San Jose đi, tôi đãi ngày nào cũng ăn rau muống cho chán ngán luôn. Những ngày ở lại Arizona đã cho tôi rất nhiều kỷ niệm, cho tôi biết cái nóng đến như thế nào vì nơi đây toàn là sa mạc khô khan, núi non trùng điệp bao bọc thành phố, người dân sống nơi đây nước da không được trắng như các vùng lạnh vì khí hậu nóng nhiều hơn lạnh, nhà nào cũng gắn máy lạnh để điều hòa nhiệt độ, xe hơi nào cũng phải có máy lạnh chứ không có thì điên luôn vì mở cửa thì chỉ có chết khô mà thôi !

Thời gian lưu trú tại Arizona tôi có dịp để tham quan thắng cảnh tiểu bang Arizona, nơi có nhiều di tích đẹp và hầm mỏ quặng giá trị, nhất là nhiều loại kim cương đá quý đã khai thác tại đây – Năm 1540 nhà thám hiểm đi tìm vàng người Tây Ban Nha tên Francisco Vasquez De Coronado đã đến các vùng nơi này khai thác mỏ vàng, nhiều phong cảnh kỳ bí của Arizona, ngày xa xưa thổ dân da đỏ cư ngụ nơi đây gọi là Arizonac, từ đó sau này mới có tên Arizona – . Vào ngày 14 tháng 2 năm 1912 Arizona đã chính thức là tiểu bang thứ 48 của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ - Thống Đốc đầu tiên của tiểu bang là ông George W. P. Hunt, nhiệm kỳ 1912 đến 1917. Tên riêng của Arizona là Grand Canyon State, vì vậy bây giờ ai ai cũng nghe danh thắng cảnh Grand Canyon là vậy – Cây xương rồng tên gọi Suguaro là vật biểu tượng cho tiểu bang, giống cây này chỉ tại AZ mới có vì nó chỉ sống ở vùng sa mạc này thôi… Phía Bắc tiểu bang có rất nhiều thắng cảnh thu hút hàng triệu du khách từ khắp nơi trên thế giới đến thưởng ngoạn mỗi năm –Ngọn núi cao nhất đứng sừng sững hùng vĩ phía Bắc Arizona. tên gọi Humphreys Peak độ cao 12,670 feet gần bên thành phố Flagstaff là nơi trượt tuyết nổi tiếng vào mùa đông …
Arizona đúng là miền đất phú cường Trời ban cho thật đúng với phù hiệu Ditat Dues ( God Enriches). Khoáng sản nơi đây có rất nhiều vàng, bạc, chì, kẽm, uranium, nhưng nhiều hơn hết vẫn là đồng đỏ sản xuất nhiều nhất nước Mỹ, cung cấp khắp nơi trên nước Mỹ - Gần bên các quặng mỏ là hàng trăm hãng xưởng dùng để chế biến các kim loại này, kỷ nghệ đúc vật dụng bằng chì đứng hàng đầu của Hoa Kỳ - Ngành công nghiệp điện tử nổi tiếng với các hãng Intel Digital, Honeyweel, Motorola …và khoảng mấy chục hãng trung bình khác, hàng chục hãng hóa chất sản xuất, phụ tùng máy bay, chế tạo máy bay trực thăng và một lò nguyên tử lực tại Palo Verde. Phi trường quốc tế Sky Harbor tại Phoenix là phi trường lớn nhất của Arizona, kế đến là phi trường Tucson, đây là hai phi trường lớn và quan trọng của Arizona - Phi trường Sky Harbor với 4 Terminal tiếp nhận 8 hãng hàng không lớn của Mỹ và hàng chục hãng khác. America West Airline đặt bản doanh tại đây. Hai căn cứ không quân Luke Air Force Base và William Air Force Base, hai căn cứ này cũng từng là nơi huấn luyện hoa tiêu chiến đấu cơ tối tân F18, hầu hết sĩ quan chiến đấu cơ phản lực của VNCH được huấn luyện tại trường này – Nơi đây đã đào tạo nhiều sĩ quan ưu tú cho không lực Hoa Kỳ và quân đội đồng minh.

Điểm tham quan cuối cùng trong chuyến đi này là thắng cảnh Grand Canyon, tôi đã nghe tiếng từ hai mươi năm nay từ khi đặt chân đến xứ tự do này và trên các đài phát thanh vẫn thường có những tổ chức tham quan Grand Canyon, đây quả là kỳ quan thiên nhiên đẹp nhất nước Mỹ và là một trong 7 kỳ quan trên thế giới, hàng năm thu hút cả lượng khách khổng lồ đến nơi đây tham quan từ các nước khác và ngay cả dân Hoa Kỳ - Chúng tôi đến nơi khoảng 12 giờ trưa nhưng khí hậu vẫn bình thường dễ chịu, bởi vì ở độ cao so với mặt nước biển nên khí hậu mát mẻ quanh năm, một số đá ở đây có độ tuổi đến hai tỷ năm ( two billion years) dòng sông Cororado tạo nên hẻm núi vĩ đại này vào khoảng 6 triệu năm về trước, từ bề mặt sâu xuống đáy khoảng 1.6 km, phong cảnh hùng vĩ và tuyệt đẹp nên được mệnh danh là “ Bức tranh sa mạc” mà lần đầu tiên nhà thám hiểm Tây Ban Nha Garcia Lopez De Cardinas năm 1850 dẫn đầu một toán thám hiểm tìm ra thắng cảnh này – Sau đó năm 1869 ông John Wesley Powell người Mỹ tiếp tục hướng dẫn một toán thám hiểm khác vượt sông Colorado đến nơi đây và ông đặt tên cho kỳ quan này là Grand Canyon, những vách đá sừng sững như tòa lâu đài khổng lồ với nhiều sắc màu rực rỡ từ sáng đến chiều kết tụ bởi các loại đá : Limstone, sandstone, shate, gneiss, coare grained, banded rock …
Chúng ta đến tiểu bang Arizona mà quên viếng thăm thắng cảnh Grand Canyon là một thiếu sót lớn trong đời, qua cảnh đẹp hùng vĩ, ngoạn mục của thiên nhiên mà đấng tạo hóa đã huyền bí tạo nên cho nhân loại chiêm ngưỡng - Đứng trước thắng cảnh Grand Canyon ta tự thấy con người quá nhỏ bé trước vũ trụ bao la huyền diệu mênh mông kỳ bí… Còn nhiều nơi nổi tiếng và thu hút nhiều du khách nhưng thời gian có hạn nên đành chờ dịp khác …Mấy ngày ở lại Arizona tôi mê cảnh vật và con người của tiểu bang này một cách lạ lùng, ngoài tình đồng hương ra họ còn có một tình cảm thiết tha của tình bạn, nếu có điều kiện các bạn của tôi ở California nên bỏ thời gian đến viếng Arizona để thưởng ngoạn những cảnh đẹp kỳ thú và những di tích đã để lại hàng bao thế kỷ mà Cali của chúng ta không thể có được, đừng sợ Arizona nóng bức, vẫn chịu được vì không có khí ẩm nên không bị rít, đặc biệt nơi đây đúng là đất ấm và tình người cũng ấm nên đã có biệt danh từ mấy chục năm qua “ Nắng đẹp ấm tình người”

Viết về tiểu bang Arizona với những chi tiết được tai nghe mắt thấy, với những thắng cảnh, với những kỳ quan, với những tài sản quý hiếm người xưa để lại và cuộc sống phát triển cực mạnh theo đà văn minh thế giới, chúng ta không thể không nói đến con người, nhất là người Việt Nam tị nạn – Nhưng điều mà tôi thầm phục và muốn nhắc đến nơi đây là tấm lòng tuổi trẻ VN đầy nhiệt huyết hăng say làm việc và giúp ích cộng đồng thật nhiều – Các em đã làm rạng danh giống giòng Hồng Lạc, làm đẹp mặt Tổ Tiên giống nòi, khi đến đây tôi mới thực sự phục các em vô cùng, các cơ quan, hội đoàn nào đều có mặt các em đóng góp tài năng công sức và tham gia tích cực, vì thế mà tuổi trẻ VN đã được vinh danh trong cộng đồng các sắc dân Á Châu, tôi tin chắc sau này sẽ còn nhiều em tuổi trẻ VN được vinh danh tiếp tục, đây là điều xứng đáng cho các em vì công sức tài năng đã thể hiện qua thời gian dài hoạt động cho cộng đồng Việt và cho quê hương thứ hai này – Tôi càng cảm phục các vị phụ huynh, các vị nhân sĩ đã khéo léo khuyên dạy con cháu của mình nên dường như hầu hết tuổi trẻ nơi đây thành danh, thành công về mọi mặt, nhất là có tấm lòng hăng say phục vụ công tác chung của người Việt, lo gì nữa, sau này cha ông thiếu gì người tài năng yêu nước thay thế, thiếu gì người biết hy sinh cho đại cuộc, hy sinh cho quốc gia dân tộc – Đây là quê hương thứ hai của chúng ta nhưng với các em đây là quê hương nơi sinh ra và lớn lên lẽ ra các em phải chấp nhận chỉ một quê hương Hoa Kỳ, nhưng vui thay và hãnh diện thay khi tôi được dịp tiếp xúc các em, các em đã đồng thanh trả lời : Chúng em là người Việt Nam, dù chúng em được sinh ra và trưởng thành nơi đây nhưng cũng chỉ là quê hương thứ hai, chúng em không bao giờ quên nguồn gốc nên chúng em vẫn là người Việt Nam, mong sau này có cơ hội cho chúng em về dựng xây đất nước…
Cảm động thay những tấm lòng tuổi trẻ Việt Nam nơi xứ người, phải chăng người Việt muôn đời vẫn còn trong huyết quản chí khí và nghị lực nơi ông cha để lại, tấm lòng hăng say phục vụ cho cộng đồng và phục vụ đất nước Hoa Kỳ nơi mình định cư luôn là điểm son đứng hàng đầu trong tư tưởng các em, nhất là tại tiểu bang Arizona, tôi đã tận tường nhìn thấy, chúc các em tuổi trẻ VN cư ngụ bất cứ nước nào trên thế giới sẽ sớm trở thành những nhân tài trong tương lai …

Những người tuổi trẻ hôm nay
Hăng say, hy sinh, can đảm
Tiếp bước cha ông đi trước
Sẵn sàng gánh vác non sông

Các em mà tôi đã gặp
Đều là tuổi trẻ Việt Nam
Bất kỳ là nam hay nữ
Đều mang giòng máu Tiên Rồng

Hãnh diện người Việt Arizona
Nắng ấm tình người càng ấm
Phong cảnh thần tiên ngoạn mục
Tài nguyên phong phú đủ đầy

Thân chúc các em yêu mến
Vang danh thành công mọi mặt
Tấm lòng các em cao cả
Cộng đồng không thể nào quên

Tôi, người từ miền đất lạ
Đến vài lần sao thương mến dâng cao
Mong một ngày đất nước sáng ngời
Các em về cùng chung xây tổ quốc
Các em về điểm tô non nước
Ông Cha ta, rạng nở nụ cười…

Đêm nay dưới bầu trời tối đen không một vì sao, giờ giao thừa sắp điểm, người Việt Nam lưu vong cư ngụ khắp nơi trên quả địa cầu chắc lòng đang hướng vọng quê hương, ngậm ngùi than thở cho số phận lạc loài… Những chiến sĩ từng nằm gai nếm mật, trải tuyết dầm sương để giữ gìn non sông gấm vóc giờ này ngồi lặng lẽ đếm thời gian, tóc bạc da nhăn, mắt mờ theo ngấn lệ - Dù là những anh hùng đầy khí tiết vẫn không thể cầm lòng khi nghĩ đến hai tiếng “ quê hương và thân phận” – Ngày ra đi các anh đã hẹn với non sông ngày trở lại, nhưng rồi …giấc mơ đoàn viên mỗi ngày một xa xôi, kiếp người thì phù du như mây khói, đau lòng thay anh hỡi, biết bao chiến sĩ đã nằm yên trong lòng đất Mẹ để bảo vệ quê hương, giữ gìn cương thổ, nay còn ai biết đến họ tên ngoài thân tộc mà thôi ! Biết bao anh hùng hy sinh cho Tổ Quốc, biết bao nấm mộ hoang bên đường không nhang khói, biết bao xác người chìm khuất dưới biển sâu, trên rừng thẳm… và còn, còn nhiều lắm những chứng nhân cuộc chiến sống lê lết cuộc đời tàn tạ, tật nguyền bên nỗi trăn trở khóc thầm ngày đêm - Những người ly hương trong tim luôn nhức buốt hướng vọng quê nhà mỗi mùa Xuân đến, luôn biết ơn những chiến sĩ đã hy sinh vì Tổ Quốc, luôn ghi tạc khối ân tình với những thương phế binh nay kẻ còn người đã mất, trên đất nước tha hương chiến sĩ cũng đã dần dần thay nhau về lòng đất lạ, tiếc thay ước nguyện duy nhất được gửi nắm xương tàn trong lòng đất Mẹ quê hương không thể nào thực hiện với thời gian tàn nhẫn của vô thường…chẳng chờ chẳng đợi một ai đâu !!!
Gió Xuân miên man trên cành lá, hoa Xuân nở khắp mọi nhà, nhưng vẫn là Xuân đất khách, nỗi buồn riêng của mỗi tâm hồn tuy có khác nhau về hình thức nhưng chắc rằng suy nghĩ chẳng khác nhau, bởi tất cả cùng mong ngày trở lại quê hương hưởng một mùa xuân thanh bình thật sự…

ÐÊM BA MƯƠI

Ðêm ba mươi, đêm dài như vô tận
Chiến sĩ buồn dõi mắt phía trời xa
Quê hương xưa thăm thẳm giải ngân hà
Trong tiềm thức niềm đau đang trổi dậy
Chiến sĩ không quên bão giông ngày ấy
Máu loang dòng trên chiến địa xông pha
Vợ mất chồng và con lại mất cha
Bao thảm cảnh quanh vòng khăn tang trắng
Người chiến sĩ đâu quản gì mưa nắng
Xả thân mình cho hạnh phúc muôn dân
Có bao giờ vui hưởng được mùa Xuân
Giữa bất hạnh núi rừng pha máu đỏ
Xác chiến hữu dập vùi qua lớp cỏ
Cuối cuộc đời thê thảm chẳng người thân
Chẳng khói hương bay cũng chẳng mộ phần
Thân mục rữa tan dần vào cát bụi !
Còn nữa...đau thương chiến tranh dung rủi
Hy sinh bao phần thân thể ngọc ngà
Là ngọc là vàng quý giá của ông cha
Nay bỏ lại trên chiến trường uất hận !
Nỗi khổ niềm đau dài như bất tận
Biển đông buồn ôm xác vạn dân ta
Máu lửa ngập trời bão dậy can qua
Còn thảm họa nào cao hơn thế nhỉ ???

Ðêm ba mươi dài như bao thế kỷ
Anh gục đầu nước mắt đọng rèm mi
Là chiến binh anh dũng có sợ gì
Nay ứa lệ từ tâm linh uất nghẹn
Nay anh khóc cho đời trai tủi thẹn
Chí khí hùng chẳng giữ được non sông
Ðể máu xương dân Việt phải chất chồng
Cao như núi và sâu lòng biển cả...

Ðêm ba mươi trắng đêm dài không ngủ
Phút chạnh lòng lệ rơi ướt vần thơ
Tôi cũng như anh lây lất kiếp bơ vơ
Hoài cố xứ mà tơ lòng...đứt đoạn !!!




Nguyenphanan
#56 Posted : Saturday, December 11, 2010 10:27:22 AM(UTC)
Nguyenphanan

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 536
Points: 0

ĐOẠN TRƯỜNG AI CÓ QUA CẦU MỚI HAY !...
Người đạp xe ba gác
Riêng tặng các bạn cùng cảnh ngộ.

Tâm bút : Nguyễn Hữu Nhân
Sau nhiều lần bạn bè thúc đẩy, bảo tôi phải viết lại câu chuyên thật của mình để các anh em được chia sẻ về cuộc sống của những người tù sau nhiều năm trong ngục tù CS được trở về, vì vậy tôi ước mong đây là câu chuyện vui nhưng đầy nước mắt, một câu chuyện cay đắng cuộc đời, một câu chuyện để nhớ về người mẹ đã suốt đời tận tuỵ lo cho đàn con, mà giờ nầy tôi đã không còn được nhìn lại mẹ nữa, một đau buồn nhất của những người con trong mùa Vu Lan.
Tôi cũng như biết bao nhiêu anh em đã trải qua sau nhiều năm tháng trong các trại tù (tập trung cải tạo). Một buổi sáng sắp hàng để chuẩn bị đi lao động, tôi được đọc tên trong danh sách ra về, còn có nổi vui mừng nào hơn sau 7 năm xa cách cha mẹ, vợ con.
Tôi được ra khỏi hàng và trở về trại để thu dọn tư trang ra về. Khác với những lần trước, vì những lần đó, những anh em được kêu tên, chúng tôi dự đoán các anh em đó được thả về, nhưng cán bộ thì không bao giờ nói là được về mà chỉ cho chúng tôi biết rằng các anh em đó được điều đi một nơi khác mà thôi.
Trở về trại trong niềm suy nghĩ miên man, đã lâu rồi, chuyện ra về coi như đã quên lãng, vì sự chờ đợi đã mỏi mòn mà không đến, nay thì không chờ đợi nữa, chúng tôi đã chán nản, và không còn tin tưởng ngày về nữa thì chuyện được về lại đến với chúng tôi.
Cả trại B trại cải tạo Xuyên Mộc hôm đó được kêu tên để về khoảng trên dưới 10 người, tôi được may mắn nằm trong số đó. Sắp xếp đồ đạc để ra về, tôi thấy không cần đem theo gì cả, tôi để lại hết cho các bạn cùng ăn uống chung với tôi trong thời gian qua, nhóm chúng tôi gồm có Huỳnh Bửu Long (Hải Quân), Nguyễn Văn Yến( Pháo Binh), Trương Công Nhựt Ðại đội trưởng Địa Phương Quân Tiểu khu Phước Tuy và Tôi Pháo Binh Sư Đoàn 18, bốn anh em chúng tôi đã sống chung với nhau từ ở Phước Long và về đến trại nầy cả mấy năm nay. Tôi sẽ để lại những món đồ dùng nầy cho các bạn, có một điều rất buồn là sống chung với nhau cả bảy năm trường, mà hôm nay ngày về tôi đã không được dù là chỉ một cái bắt tay với các bạn. Tôi chỉ đem về duy nhất một bộ đồ mặc trong mình và một bộ nữa để làm kỷ niệm. Bộ đồ mặc trong người tương đối lành lặn nhất, cũng cả hai ba miếng vá, còn bộ đồ mà tôi mang về để làm kỷ niệm thì ít nhất cũng cả chục miếng vá, những miếng vá nầy là những lớp bao cát, chỉ cũng là chỉ bao cát, vá lớp bao cát nầy chồng chất lên lớp bao cát khác, và cứ như vậy các lớp bao cát chồng chất lên nhau. Tôi đem về nhà và sau khi mẹ tôi nhìn thấy bộ đồ đó mẹ tôi đã khóc. Mẹ tôi nói rằng: “Con của tôi bây giờ khổ sở đến thế nầy sao? Tội cho con tôi ngày nào đi về xe cộ đón đưa, áo quần ủi hồ thẳng nếp, mà giờ nầy mặc tòan đồ rách, vá bằng bao cát?”.Tôi chỉ biết ôm mẹ tôi như ngày nào tôi còn bé thơ, và để cho những giọt nước mắt tuôn trào. . .
Từ Xa Ác (địa danh của trại tù chúng tôi) tôi được nhận 12 đồng để làm lộ phí đi về, một số anh em được cán bộ trại trả lại tiền gởi, vì tất cả chúng tôi không được giữ tiền bạc gì cả, mà phải gởi cho cán bộ, khi cần thì xin phép lấy để gởi mua thuốc lào hay đường tán. Riêng tôi từ ngày vào các trại đến giờ, gia đình có quá nhiều khó khăn, tôi chẳng bao giờ có tiền nên không bận tâm đến việc nhận tiền lại.
Đáng lẽ chúng tôi phải đợi xe molotova chở ra Long khánh để lên xe , và từ đó mạnh ai tìm đường về nhà nấy, nhưng kinh nghiệm của những lần trước, có anh em đã chờ để được lên xe, và cuối cùng trại đã hủy bỏ và vẫn còn ở lại cho đến bây giờ, vì vậy khi nhận được giấy ra trại rồi, chúng tôi ba giò bốn cẳng rời khỏi trại ngay bằng đường bộ, tôi không còn nhớ rõ nữa, không nhớ là khoảng cách bao xa, nhưng từ sáng hôm đó, tốp chúng tôi chia ra làm 2, 3 tốp khác nhau và cùng nhau rời trại sau khi đã cẩn thận bọc giấy ra trại trong túi.
Chúng tôi miệt mài đi không nghĩ, đi vào trong những chỗ rừng rậm mà không dám đi trên con lộ chánh, vì sợ sẽ bị hủy bỏ lệnh ra trại và xe chở lại như những lần trước. Thế rồi chúng tôi cũng ra được đến Long Khánh Xuân Lộc. Điạ danh nầy lại cũng là một kỷ niệm khó quên của tôi. Năm 1969 tôi rời khỏi trường Pháo Binh Dục Mỹ, với cái lon quai chảo (Chuẩn Úy), trở về đơn vị pháo binh đầu tiên là tiểu đoàn 183 pháo binh tân lập, khoảng giữa tháng 5 năm 1975 tập trung tại đây, đi hết gần 13 trại tập trung, và cuối cùng hôm nay sau gần 7 năm tôi lại cũng từ đây để đi về nhà, một sự trùng hợp thật đáng nhớ.
Sau 7 năm trời bây giờ nhìn lại Long Khánh tất cả đều xa lạ đối với tôi, mặc dầu trước đây tôi đã ở Long Khánh từ khi mới thuyên chuyển về cho đến ngày trời sập. Tôi đã cùng các bạn Pháo Binh của Tiểu đoàn 181 Pháo binh thuộc sư đoàn 18 Bộ Binh ăn uống ở các quán Ba Thừa, và các quán nhậu xung quanh chợ Long Khánh. Giờ nầy tôi không còn nhận được các nơi mà một thời tôi đã từng đi qua. Long khánh bây giờ tiêu điều, phố xá loang lỗ vết đạn còn in sâu trên tường như để nhắc lại biết bao nhiêu trận chiến đã xẩy ra ở đây vào những ngày tháng cuối cùng của năm 1975. Tôi và người bạn đi vào quán nước giải khát ngay chợ để mua một ly nước uống cho bù lại những tháng ngày qua trước khi mổi đứa chia tay nhau ai về nhà nấy. Trong túi tôi chỉ vỏn vẹn có 12 đồng không còn một xu lẻ nào khác ngoài số tiền đó. Tôi không biết có đủ tiền để đi về nhà không nhưng tới đâu thì kệ nó, tôi thèm được uống một ly nước đá lạnh mà 7 năm trời qua tôi không hề được biết cục nước đá là gì? Tôi hỏi thăm giá cả và biết được tôi sẽ phải trả 2 đồng để uống ly nước đá nầy. Dù sao thì cũng đã lỡ rồi, chẳng lẽ đã vào quán rồi tôi lại bước ra hay sao? Kêu ly nước đá chanh, tôi ngụm từng ngụm nhỏ, để tận hưởng từng giọt nước đá lạnh chạy dài xuống cổ, ôi sao nó ngon đến như thế, bảy năm trời tôi chưa từng được hưởng cái giây phút sung sướng như thế nầy.Thấy ở ngoài hiên tiệm có người bán thuốc lá, tôi thèm được hít một hơi thuốc thật dài cho bù lại những năm tháng dài rít những bi thuốc lào cái sắn, nghĩ vậy tôi bèn tặng cho mình một điếu thuốc. tôi hỏi cô chủ bán thuốc có bán thuốc lẻ không? Cô trả lời, anh hút thuốc Samit nhé, một đồng một điếu. Tôi gật đầu và được cô chủ quán đưa cho một điếu thuốc Samit. Đường đường cũng là sĩ quan Quân lực VNCH, chưa bao giờ tôi lại đi mua thuốc lẻ như bây giờ. Sau khi cầm điếu thuốc trong tay, tôi hỏi cô chủ bán thuốc để mượn hộp quẹt, thì cô ta nhìn tôi bằng cặp mắt kinh ngạc, cô nhìn tôi như người mới ở một hành tinh nào đó vừa xuống quả địa cầu nầy vậy. Rồi cô ta chỉ ngay cho tôi cây nhang đang được đốt cắm trên quày bán thuốc, cô ta nói: làm gì có hộp quẹt mà ông mượn, mồi thuốc vào cây nhang đó!. Ôi sao người dân bây giờ nghèo đến thế nầy ư? Mới có bảy năm trời mà cuộc sống của người dân đến mức độ nầy sao?. Tôi không ngờ sau khi chúng tôi tập trung vào trại, thì người dân ở ngoài cuộc sống cũng khốn khổ không kém. Mồi xong điếu thốc tôi trở vào quán và bắt đầu hít những hơi thuốc thật dài cho bù lại những ngày qua tôi ước ao có được một điếu thuốc thẳng (đây là danh từ của những tên cai tù thường nói với chúng tôi) Không hiểu vì thuốc Samit nặng hay vì đã quá lâu tôi không được hút thuốc nữa, sau khi hít một hơi thật dài, tôi thấy mình lâng lâng như đi vào một thế giới nào đó, thì ra tôi đã say, tôi gục đầu xuống bàn, và thiếp đi độ chừng mười phút rồi tỉnh lại, vài người trong quán họ nhìn tôi bằng cặp mắt khác thường, tôi cảm thấy xấu hổ vô cùng, nhưng phải biết nói gì để họ hiểu tôi đây. Họ hỏi tôi từ đâu đến, tôi có bị trúng gió hay không? Và còn biết bao nhiêu câu hỏi khác nữa v.v… Thấy mình khó nói dối và nhất là bộ đồ mặc trong mình cũng chứng minh cho họ được biết mình là một thằng tù mới được thả về, nghĩ vậy tôi không còn giấu giếm gì nữa và tự nhận mình là một tên “tù cải tạo” vừa được tha về.
Những người có mặt ở đó họ nhìn tôi nửa tin nửa ngờ, họ hỏi tôi sao đến bây giờ anh mới được về ? tôi trả lời vừa cười vừa như mếu máo muốn khóc. Dạ vì tôi học không tiến bộ cho nên mãi đến hôm nay mới được cho về. Tôi từ trại Xa Ác và đã đi bộ hơn nửa ngày mới về được đến đây. Vì mệt và thèm được ngụm một ngụm nước đá cho nên tôi vào quán để mua ly nước uống cho đở mệt trước khi đón xe về Bà Rịa. Mọi người nhìn tôi một cách thương hại! Một số người có mặt trong quán tỏ ra có cảm tình với tôi ngay, họ mời tôi uống thêm một ly nước nữa và họ sẽ không tính tiền cả hai ly nước nầy nhưng tôi từ chối vì thấy đã đủ và không muốn làm họ chú ý nữa, vì vậy tôi cảm ơn chủ quán và bước ra đường để trở lại bến xe về Bà Rịa.
Tôi hỏi những người đã ngồi trên xe và được biết chiếc xe nầy sẽ chạy về Bà Rịa. Tôi mừng trong lòng và tự nghĩ chỉ vài giờ sau tôi có mặt ở nhà, nào Cha, nào Mẹ, nào các em tôi, các con tôi sẽ mừng biết chừng nào v.v… bây giờ nghĩ đến việc trả tiền xe mới là điều mà tôi lo sợ, tôi hỏi về Bà Rịa bao nhiêu tiền, người lơ xe trả lời 20 đồng - nghe đến đó tôi như người bị điện giựt, làm sao tôi có đủ 20 đồng để trả cho họ đây, tôi cũng không hiểu sao hình như mọi người họ đang nhìn tôi, có lẽ tôi có cái gì khác thường ? Ồ tôi đã nghĩ ra rồi, thì ra tôi mặc bộ đồ không giống ai cho nên đã gây sự chú ý với họ. Thôi mặc kệ, tôi cứ nói thiệt biết đâu họ cảm thông và bớt cho tôi tiền xe, vì tôi chỉ còn có 12 đồng mà thôi, nghĩ vậy tôi bèn nói với anh lơ xe:” Anh thông cảm cho tôi, tôi mới ra trại, về đến Bà Rịa, tôi sẽ về nhà xin tiền và sẽ tìm anh để trả tiền cho đủ, vì hiện tại tôi chỉ có 12 đồng mà thôi. Anh lơ xe nói với tôi: “lúc nầy ông nào cũng nói mới ra trai hết, làm sao mà chúng tôi tin cho nổi”, tôi đau nhói cả tim, bảy năm trời tôi ở trong các trại tù, chúng tôi có biết gì ở bên ngoài đâu, làm sao mà có người họ lại giả dạng tù cải tạo như chúng tôi để làm gì? tôi chỉ còn biết năn nỉ mà thôi, tôi nói: Nếu anh không tin tôi sẽ đưa giấy ra trại cho anh xem, nói xong tôi liền móc trong túi ra, trước khi móc được nó ra tôi đã phải tháo nắp miệng túi cẩn thận để lôi tờ giấy ra trại trình cho anh lơ xe, tôi cứ nghĩ tôi sẽ trình tờ giấy nầy khi tôi về đến địa phương chứ nào nghờ lại phải trình cho anh lơ xe nầy. Tôi đưa cho anh ta, nhưng anh ta không thèm coi cái tờ giấy mà tôi đã phải bỏ ra không biết bao nhiêu ngày đêm mới có được tấm giấy nầy, tôi lại xếp lại cẩn thận và bỏ vào túi rồi gài miệng túi lại hẳn hoi trước khi tôi có những đề nghị với anh ta, tôi nói : anh cầm 12 đồng nầy, và một bộ đồ nầy, bộ đồ mà 7 năm qua tôi đã giữ nó như là một bảo vật mà hôm nay tôi đã phải đem nó đi cầm , vì tôi không có một món đố nào đáng giá, ngày mai tôi sẽ ra tìm xe anh và chuộc lại. Anh ta nói bộ đồ của anh không đáng một đồng bạc, bộ đồ rách như vậy tôi cầm để làm gì? Tôi đau nhói nơi tim, trời ơi, có ai hiểu được bộ đồ nầy tôi đã đánh đổi không biết bao nhiêu mồ hôi và nước mắt, từng miếng vá là từng kỹ niệm của các trại tù mà tôi đã trải qua, nếu tôi có tiền, thì có lẽ không có một số tiền nào có thể đánh đổi được nó, bộ đồ mà tôi đang cầm trên tay. Bộ đồ nầy không đáng một đồng bạc! tôi tự lập lại câu nói đó trong lòng và thấy buồn vô hạn, phải, anh nói đúng, nó không đáng một đồng bạc đối với anh, nhưng nó là vô giá đối với tôi, đối với những thằng tù như tôi anh có biết không? Bây giờ đâu phải là chỗ tôi và anh tranh cải, lý luận. Vì vậy tôi nói: Thôi được, anh cứ cho tôi đi được đến đâu hay đến đó, đến chỗ nào anh thấy hết tiền thì cho tôi xuống ở đó và tôi sẽ đi bộ về nhà vậy. Ý kiến nầy của tôi có vẽ thực tiễn và anh lơ xe đã cho tôi được ngồi trên xe đò (xe chạy bằng than) để về Bà Rịa.
Cuộc đời của tôi có những chuyện thật bất ngờ, cũng con đường nầy cách đây 7 năm ngày 20 tháng 4 năm 1975, tôi đã di chuyển đơn vị rời khỏi Long Khánh cũng bằng con đường nầy, lúc đó tôi di chuyển trong lúc những tiếng pháo nổ chát chúa sau lưng, tôi là người chỉ huy đoàn xe và cho lệnh chạy, nhưng bây giờ tôi lại phải xin xỏ, năn nỉ để được leo lên xe !!! Tôi nhìn lại hai bên đường giờ đã thay đổi rất nhiều, trước đây là đồng ruộng thì bây giờ lại có những túp lều mọc lên , những luống khoai, những gốc mì đã được trồng vào những chỗ trống ở giữa những gốc cây cao su v.v. tóm lại họ đã tận dụng không để một khoảnh đất trống nào.
Người lơ xe cho tôi xuống ngay đầu đường góc ngả ba bệnh viện cũ, anh cũng tử tế chỉ nhận 12 đồng và không lấy bộ quần áo cũ của tôi, tôi xuống xe và bắt đầu đi bộ về nhà. Tôi muốn giành cho ba tôi, mẹ tôi, các em tôi, và các con tôi một ngạc nhiên khi tôi bước chân vào nhà.
Từ ngày tôi đi đến giờ tôi không được biết vợ và các con tôi ở đâu nữa, vì vậy khi tôi bước chân vào nhà, tôi không được nhìn thấy những đứa con tôi, mẹ tôi đang nấu nướng ở dưới bếp, tôi chạy xuống ôm mẹ tôi, mẹ tôi vô cùng sung sướng, bà không ngờ tôi lại về vừa đúng lúc gia đình chuẩn bị đi thăm tôi. Tôi đã ôm mẹ tôi thật lâu để bù lại những tháng ngày tôi đã không được gần gủi mẹ tôi, đây là những giây phút mà tôi cảm thấy sung sướng nhất trong cuộc đời của mình kể từ khi còn chập chửng biết đi cho đến ngày tôi khôn lớn, mẹ ơi ! viết những dòng chữ nầy mà giờ đây con đâu còn được gặp mẹ nữa, cả đời tận tụy cho các con, ngày mẹ ra đi con đã không được kề cận mẹ, giờ con hiểu được tình mẫu tử như thế nào thì con đã không còn mẹ nữa. Hãy tha lỗi cho con mẹ nhé, nếu như con có làm gì cho mẹ không vui?
Tối hôm đó, mẹ con quây quần, các em tôi kể lại những gì đã xẩy ra từ khi tôi vắng nhà, đặc biệt là tối hôm đó tôi không được gặp Ba tôi, vì người đang còn ở trên rẩy. Hôm sau tôi trở lên Suối Nghệ, nơi nầy Ba tôi một mình ở trong rừng cao su trồng trọt, cuộc sống của Ba tôi thật đáng thương, ông một mình làm rẩy, vừa nấu ăn, nào bắp, đậu, gạo, khoai, Ba tôi đã bỏ chung tất cả vào nồi, dùng các cành cây nhỏ làm củi để đun, Ba tôi đã ăn uống thiếu thốn và đã sống như vậy kể từ ngày tôi vào tù.
Không có giấy mực nào tả hết nổi thống khổ của gia đình tôi kể từ khi tôi vắng nhà, tối hôm đó tôi ở lại rẩy với Ba tôi, hai cha con nằm trên tấm vạc tre làm giường ngủ, không có tấm vải trải lên phên tre nữa, tối nóng quá Ba tôi đã dùng miếng bìa carton làm quạt cho tôi, ôi tình cha con là như thế đó, biết đến bao giờ tôi có dịp để đền ơn sinh thành dưỡng dục của mẹ cha ?
Hai ngày sau tôi quyết định phải bắt tay đi tìm việc để phụ giúp vào gánh nặng gia đình mà một mình em tôi đã phải gánh vác hơn 7 năm qua. Tôi ỷ vào một số kinh nghiệm trong nhiều năm tháng trải qua ở các trại tù, vì vậy tôi bèn chọn con đường vào rừng chặt tre, vác củi. Theo chân vài người quen cho biết chúng tôi sẽ đi vào rừng Bình Giả để chặt tre đem về bán, sáng hôm sau tôi theo đoàn người chuyên nghiệp chặt tre để cùng đi làm với họ, đạp xe đạp lên tận Bình Giả, rồi từ đó để xe ở nhà người quen và bắt đầu phóng vào rừng, từ đó đi vào rừng cũng cả 3, 4 cây số, chúng tôi lựa những cây lồ ô suông và dài, chặt những cây lồ ô nầy cũng hết sức khó khăn, tôi mãi mê chặt cho đến lúc gọi nhau đi ra, tôi đã bó khoảng 10 cây nhưng nặng quá không vác nổi, lại phải bỏ bớt vài cây, và khi vác được lên vai rồi, tôi không biết làm sao mà tôi có thể ra được chỗ gởi xe đạp nữa, nặng và dài, trong rừng cây cối và dây leo chằng chịt, thật là khó khăn mới đem được bó lồ ô ra đến chỗ gởi xe. Đến đây tưởng đã yên thân, nhưng nào có dễ dàng đâu, từ đây đạp xe với bó lồ ô nầy đem về nhà còn biết bao nhiêu là chông gai nữa, tay nghề chưa quen, không đủ sức khỏe như những dân làm tre chuyên nghiệp, họ đem xe ra đường và leo lên đạp ngon lành, còn tôi ì à ì ạch mãi mới đem được chiếc xe và bó lồ ô ra đường, chưa hết đâu, ra tới đường rồi tôi cột bó lồ ô dọc theo xe đạp, ghi đông bị cứng không bẻ qua bẻ lại được nữa, bây giờ lại là một đại nạn nữa, v.v… còn nhiều và thật nhiều nữa những khó khăn khác tôi mới đem được bó lồ ô về đến nhà. Người ta thì đạp còn tôi thì phải đẩy như vậy trên suốt đọan đường từ Bình giả về đến Bà Rịa. Tối hôm đó tôi về đến nhà cũng gần 10 giờ đêm và quyết định bỏ job, ngày mai không đi làm công việc chặt lồ ô nữa. Bây giờ còn việc đem bán cũng khó khăn không kém, sáng sớm hôm sau tôi vác bó lồ ô ra chợ Bà Riạ để bán, tôi vác lại vựa chỗ tập trung mua sĩ lồ ô, họ chê nào là lồ ô không đẹp, cây không được thẳng, và còn nhiều chê bai khác nữa, tôi buồn qúa vừa buồn vừa thấy tức giận, biết bao nhiêu công sức tôi mới đem được số lồ ồ nầy về đây, thế mà khi đi bán cũng gặp nhiều phiền phức và bực bội, họ chỉ trả cho tôi có 3 đồng bạc, trong khi nếu tôi mua thì họ bán cho tôi 2 đồng một cây. Tôi không bán và vác đi vòng vòng ở các sạp và rao bán, có mấy chỗ họ đồng ý mua và trả cho tôi 10 đồng, tôi nghĩ 10 đồng cũng không đáng công tôi đi nguyên một ngày từ sáu giờ sáng cho đến 10 giờ đêm mới về đến nhà, nhưng không bán thì để làm gì, cũng còn hơn chỗ vựa chỉ mua có 3 đồng. Tôi cầm 10 đồng bạc trong tay mà nước mắt như đang chạy dài xuống má, tôi nghĩ tới câu: “Lao động là vinh quang, lang thang là chết đói”quả đúng như vậy, ngày mai tôi sẽ lên Phước Hòa, Ông Trịnh để đi đốn củi. Sáng sớm hôm sau tôi thức dậy thật sớm, đạp xe lên Láng Cát Ông Trịnh để cùng đi với vài người bạn họ thường xuống chợ Bà Rịa mua vải ở cửa hàng của em gái tôi, đến nơi tôi gởi xe đạp ở nhà của người bạn, rồi cũng như đi chặt tre, tôi và vài anh bạn đi vào rừng đốn củi, tôi chặt một khúc củi tương đối tốt và vác ra đường, sau đó tôi đã đem khúc củi nầy về đến nhà người bạn và từ đó tôi sẽ chở xe đạp về nhà, cũng như lần trước, sau khi cột khúc củi vào xe rồi, tôi cũng không thể đạp được và cũng phải thồ xe đạp và khúc củi về nhà mà thôi. Tương đối đở vất vả hơn đi chặt tre, nhưng tôi cũng phải mất hơn ngày trời và về đến nhà cũng 7 giờ tối. Phải cưa ra và chẻ nhỏ và đóng thành thước rồi mới bán được. Tính chung cũng chỉ kiếm được không tới 7 đồng một ngày, rồi tôi thấy không ổn, vì vất vả và chẳng được bao nhiêu tiền vì vậy nghề nầy rồi cũng phải bỏ, trong lúc tôi đang chán nản, vì thấy kiếm đồng tiền khó quá, sáng sớm hôm sau, tôi ra gặp Tám Kỳ, anh nầy trước đây bán nước đá trong trường Châu Văn Tiếp của chúng tôi, bây giờ ông ta đã trở thành chủ vựa nước đá tại chợ Bà Rịa. Tôi kể hoàn cảnh của mình cho ông ta nghe, sau đó ông đồng ý mướn tôi làm công việc bốc và khuân nước đá, mỗi ngày trả cho tôi 6 đồng. Tôi làm từ 6 giờ sáng, đến 6 giờ chiều thì về, nhưng giờ giấc không nhứt định như vậy, có nhiều hôm xe Phước Tỉnh lên lấy đá, ông cho cô con gái đạp xe đạp vào gọi tôi, tôi ra và làm nhiều hôm đến 12 giờ khuya mới xong việc và ra về, ba bốn ngày liên tiếp như vậy, ngày nào tôi cũng phải ra đục đá cào trấu ra hết để lòi các cây đá ra, và dùng dao răng cưa để chặt vào các đường nối của các cây đá, sau khi đã tách được cây đá riêng ra rồi, kế tiếp là vác cây đá đó ra xe cho khách hàng, công việc liên tục như vậy cho đến người khách cuối cùng mới được ra về, có hôm đang lo cho chiếc xe nầy thì xe khác lại đến và tôi lại phải lo cho xe đó nữa, vì vậy có hôm mãi đến gần 1 giờ sáng tôi mới xong việc và ra về, chỉ có 6 đồng mà tôi thấy mình bị bóc lột sức lao động quá nhiều, vì vậy làm được không đầy một tuần lễ tôi đã xin nghỉ việc. Thời may có Danh trước đây là Trung sĩ Nhất của Pháo Đội của tôi, Danh đang hành nghề xe ba bánh, Danh nghe tin tôi về nên lại thăm tôi và Danh đề nghị tôi nên đạp xe ba bánh, Danh sẽ kiếm mối cho tôi, Thầy trò gặp nhau trong hoàn cảnh thật đáng thương nên rất thương nhau và thông cảm hoàn cảnh của tôi, sau đó Danh đã hướng dẫn tôi đạp xe ba bánh. Gần sát nhà tôi có chiếc xe ba bánh để không của bà Bảy Hường, tôi bạo dạn qua gặp bà ta và đề nghị mướn chiếc xe của bà, bà đồng ý cho tôi mướn 6 đồng một ngày, tôi phải chịu sửa chửa tất cả những gì nếu bị hư hao, tôi đồng ý.
Được một số những người quen cho biết, khoảng 1, hay 2 giờ sáng, ra chỗ vựa cá thì không có sức mà chở, vì lúc đó cá lên, người ta mua bán tấp nập, họ sẽ kêu xe ba bánh chở không kịp. Biết được tin nầy tôi rất mừng, vì vậy sáng sớm hôm sau mới hơn 12 giờ khuya, tôi ghé qua nhà thím Bảy Hường và xin phép lấy xe sớm, khi mở cửa cho tôi đưa xe ra thím còn căn dặn thêm như sau: “ Cậu phải cẩn thận đừng để mất xe, nếu bị mất cậu không có tiền để đền cho tôi đâu, mỗi ngày cậu phải đem xe trả cho tôi, chừng nào chạy thì qua lấy”. Tất cả những điều kiện nào của chủ xe ba bánh tôi đều đồng ý hết, vì nếu không đồng ý thì tôi sẽ không được mướn xe.
Lần đầu tiên trong đời tôi đạp xe ba bánh, chiếc xe không mà tôi cảm thấy quá nặng rồi, tôi nghĩ đến nếu có người ngồi trên xe thì có lẽ không cách gì tôi đạp nổi.Dù sao thì cũng phải ráng, mình không còn con đường nào khác hơn để mà chọn lựa nữa. Tôi bắt đầu đạp xe ra ngõ, rồi bắt đầu đạp xuống chợ cá, vì như những người thông thạo cho biết, mối cá chở không kịp, họ đã bắt đầu làm việc từ 1 giờ sáng, vì vậy tôi phải gấp rút đến đó, kẻo không kịp.
Chiếc xe không, không có một bóng dáng người nào ngồi ở trên đó, vậy mà tôi đã đạp hộc xì dầu, nào là mồ hôi mẹ, mồ hôi con đã bắt đầu rượt đuổi nhau, tôi nghĩ đến công việc kế tiếp phải làm, dầu sao tôi cũng là thằng đạp xe ba bánh:.Tôi cảm thấy buồn buồn cho số phận mình, tôi phải làm gì để sống khi hai bàn tay không có lấy một đồng, còn biết bao nhiêu cay đắng và gian nan đang chờ đón tôi, nào là tôi chưa có quyền công dân, còn đang bi quản chế, mỗi tuần lễ phải lại công an khu vực trình diện và khai báo công việc trong tuần v.v…
Cuối cùng tôi cũng đến được chu chợ cá trong chợ, trời mưa lầy lội, vô đến khu vực nầy là cả một vấn đề, tôi đậu chiếc xe ba bánh của mình ngay hàng xôi ở cuối dãy, các anh em ba bánh đang làm việc tấp nập, họ khiêng những sọt cá nặng nề cho lên xe ba bánh và chạy đi, tôi cũng chẳng biết họ chạy đi đâu nữa, cứ thế xe nầy ra thì xe khác lại vào để chở, có khoảng 4 chiếc xe thay nhau chở cá, riêng tôi đậu xe từ nảy đến giờ chả có ma nào gọi tôi cả, tôi cứ tiếp tục đậu tại chỗ và mong sẽ có người gọi, nhưng chẳng ai thèm gọi tôi cả, vừa đói và vừa buồn, tôi mua một đồng xôi bắp ăn cho đỡ đói, chưa làm được đồng bạc nào mà đã phải mất hết một đồng rồi, tôi ngồi bắt chân chéo quảy trên chiếc xe ba bánh, vừa ăn xôi vừa nghĩ chuyện đời, cũng tại nơi đây, những năm về trước tôi đã từng về đây trên chiếc xe Jeep, có tài xế hẳn hòi, mà giờ nầy tôi lại ngồi trên chiếc xe ba bánh để chở khách kiếm từng đồng v.v..
Tôi đang miên man nghĩ ngợi thì bổng có tiếng gọi: ba bánh, ba bánh, tôi mừng quá tưởng là sẽ có được mánh lớn rôì, tôi bèn trả lời: dạ chị gọi tôi, người đàn bà thoạt nhìn tôi thấy có vẽ quen quen nhưng không dám hỏi, tôi đẩy xe ba bánh khỏi khu chợ cá và đẩy xe lên đường để bắt đầu chuyến xe đầu tiên trong đời, anh chị nầy rất rành đi xe ba bánh vì vậy khi bước lên xe tôi thấy người chồng ngồi lên thành xe, còn hai chị thì ngồi ngay lên cây gác ngang, ba người nấy muốn đi vào ngả ba bệnh viện Bà Rịa, họ hỏi tôi bao nhiêu một người, tôi trả lời, mỗi người một đồng. Khi cả ba người ngồi lên xe rồi, tôi vừa đẩy xe vừa phóng lên đạp, nhưng khổ nổi cho tôi, chiếc xe cứ muốn nhổng về phía trước, vì các người nầy ngồi phía trước quá nặng, vì vậy chiếc yên xe ba bánh muốn nhổng về phía trước hoài, tôi phải dùng cánh tay mặt để cố đè cho yên xe xuống, cố gắng lắm tôi mới lên được yên xe và bắt đầu đạp. Đường đá lổm chổm, tôi đạp được chỉ vài thước mà tôi cảm thấy quá vất vả, tôi không biết có đủ sức để đưa ba người nầy đến ngả ba bệnh viện hay không? đạp được độ vài chục thước, ra tới đầu đường Bạch Đằng, tôi quẹo trái trên đường nầy, đường tương đối bằng phẳng vì vậy tôi cảm thấy yên tâm và tin rằng mình sẽ đưa các người nầy đến nơi mà họ đã yêu cầu, chạy được một khoảng độ 200 thước tới khúc quẹo về nhà Bảo sanh Hữu Phước, trời quá tối, đèn điện thì chỉ sáng lờ mờ, ngọn đèn đường chỉ sáng được tim đèn, đường thì lồi lỏm tôi đạp thấy có vẻ nặng, thình lình bánh xe trước của chiếc xe ba bánh của tôi xụp ngay vào ổ gà, chiếc xe lật úp về phía trước, quăng tôi và ba người ngồi trên xe xuống vệ đường, chuyện xẩy ra quá bất ngờ, tôi bị quăng nằm trong bụi rậm bên vệ đường, còn ba người khách của tôi chẳng biết họ ở đâu nữa, lúc đó tôi chỉ nghe giọng nói của người đàn bà: “Trời ơi! Tôi có bầu” Tôi không còn biết trời trăng mây nước gì nữa, lùm cùm bò dậy, đở chiếc xe bị lật úp lên, miệng không ngớt “xin lỗi”. Người đàn bà gọi tôi lúc nẩy văng mất chiếc dép đâu đó, tìm mãi không được, bà ta đứng dậy và trách móc tôi thậm tệ. Tôi biết lỗi của mình và nín lặng, chỉ mong sao cho họ lên xe để tôi chở đến nơi họ yêu cầu và tôi đề nghị không lấy tiền, nhưng rủi cho tôi họ không chịu lên xe đi nữa, và tiếp tục đi bộ, họ bảo tôi, ông kiếm cho tôi chiếc dép chứ không có dép làm sao mà tôi đi Bình Giả được. Trời tối quá tôi tìm hoài mà cũng không thấy, cuối cùng tôi bèn đưa đôi dép của tôi cho chị ấy, và năn nỉ các chị lên xe tôi chở đến ngả ba bệnh viện mà không lấy tiền, chẳng ai chịu lên xe cả, tôi năn nỉ cách mấy họ cũng không chịu đi nữa, tôi cảm thấy vừa xấu hổ và hối hận vì việc vừa xẩy ra, tôi tiếp tục đạp xe lẻo đẻo theo sau và năn nỉ, nhưng tất cả đều vô ích, họ đã quyết định đi bộ, tôi tiếp tục đạp theo đến đầu đường Thành Thái nhưng họ vẫn không chịu lên xe, tôi bèn quay xe lại và trở về chợ Mới Bà Rịa. Cuốc xe đầu tiên sau ngày đi tù về, không được đồng nào mà còn mất cả đôi dép, bây giờ đạp xe mà không có đôi dép tôi mới thấy đau chân kinh khủng, không có tiền để mua dép khác, tôi quay về nhà, lấy đôi dép chiếc đực, chiếc cái xỏ tạm để tiếp tục đi đạp xe ba bánh.
Từ một giờ đêm đến giờ là 7 giờ sáng mà tôi chưa được đồng nào dính túi. Tôi trở ra chợ Mới, đậu xe theo các anh em đạp ba bánh ngay bên góc chợ. Lúc đó mẹ tôi đi ngang qua, vì mẹ tôi đi chợ về, mẹ tôi nhìn tôi rồi tôi thấy mẹ tôi quẹt nước mắt, mẹ tôi nói với người đàn bà cùng đi chợ với mẹ tôi như sau: “Tội cho con tôi quá, vừa đi cải tạo về, vợ con không còn, ngày nào con tôi đi xe Jeep mà bây giờ phải đạp xe ba bánh”. Tôi nói với mẹ tôi, mẹ lên xe con chở mẹ về, nhưng mẹ tôi sợ tôi mệt nên bà không chịu lên xe và tiếp tục đi bộ về nhà. Tôi nhìn mẹ tôi mà lòng buồn xót xa vô hạn, con không ngờ giờ nầy gia đình mình lại lâm vào cảnh khó khăn như vậy. Con biết làm gì ra tiền để mẹ bớt khổ đây. Nhìn mẹ đi chợ tay xách giỏ mà lòng tôi đau vô hạn, tôi không dám nghĩ đến bảy năm qua trong lúc tôi vắng nhà, gia đình tôi khổ sở đến chừng nào.Tối hôm đó, em gái tôi kể với tôi “ con Tý nó kể có ông nào đạp xe ba bánh chở nó và đã cho vợ chồng nó té văng vào buị, có phải anh không” ? Tôi cười và nói, tao chứ còn ai nữa, lúc bấy giờ là năm 1982, mẹ tôi lúc đó đã 72 tuổi nhưng mẹ vẫn mạnh khoẻ và không đau yếu gì, khác với tôi một trời một vực, tôi giờ chỉ hơn 60 nhưng cứ nay đau mai ốm hoài, phương tiện vật chất thật đầy đủ, nhưng không hiểu sao tôi lại thường bị bệnh, nhất là chứng phong thấp làm cho tôi vô cùng đau đớn, có khi nằm cả tuần không đi đứng gì được.Trong lúc tôi lầm lũi đạp ba bánh, các bạn tôi, có người có được chiếc xe Honda kéo rờ mọc, (Xe Honda có kéo móc hậu phía sau). Tôi cũng có những mong ước như mọi người, và mong ước của tôi lúc bấy giờ là mong sao mình có được chiếc xe lôi như các bạn tôi, ngoài ra tôi không dám mơ một ước mơ nào to lớn hơn. Một cuốc ba bánh thứ hai cũng làm cho tôi nhớ cho đến bây giờ, sáng hôm đó tôi ra đầu chợ Mới Bà Rịa cũng như những lần trước, đậu xe ngay chỗ những người bán cám, thường thường những cuốc xe nầy chở về Phước Hòa, và những người chủ vựa cám thường gọi xe Lambretta để chở, tôi cũng không hiểu tại sao, hôm đó mấy chủ vựa bán cám gọi tôi và một người bạn xe ba bánh khác để chở cám đi xuống bến ghe Phước Hòa. Họ hỏi tôi có muốn chở không, tôi trả lời không một chút do dự, chở chứ sao không, thế là chủ vựa đồng ý cho hai chúng tôi chở, mỗi xe là hai bao cám, mới nghe thì thật tưởng bình thường, nhưng không bình thường chút nào cả, hai bao cám của họ, mỗi bao là hai bao tạ chỉ xanh nối với nhau thật dài, bao cám dài hơn cả hai thước và họ bỏ cám vào và dùng cây để dọng cho thật chặt, bao cám nặng hơn 200 Kgs. Mấy người vựa bán cám và mấy bạn cùng đạp xe ba bánh phụ khiêng các bao cám nầy lên xe cho tôi, họ đồng ý trả cho tôi 35 đồng Việt Nam, tôi nghĩ rằng cuốc nầy hơn cả ngày mà tôi chạy từ trước đến giờ, hăm hở để thực hiện cuốc xe nầy, trong thâm tâm tôi nghĩ, chỉ một cuốc xe mà còn hơn cả ngày làm việc thì còn gì sung sướng hơn. Sau gần 2 tháng trong nghề chạy xe ba bánh, bây giờ tôi cũng tạm có chút bản lĩnh, cũng được nhiều khách hàng mến mộ và cũng có khách liên tục, không bù cho những lúc đầu mới vào nghề, chẳng có ma nào kêu đi đâu cả, nghĩ cũng buồn cho những người mới vào nghề, tôi bắt đầu đẩy xe ra đường và trực chỉ về hướng Sàigòn, khi đẩy xe vừa ra khỏi vựa cám độ vài thước, đẩy không nổi tôi phải lên phía trước để kéo thì xe mới di chuyển được, tôi nghĩ có lẽ vì đọạn đường ngắn và có dốc cho nên xe chưa có trớn nên đạp không được, hy vọng ra đường chánh thì có lẽ không trở ngại, nghĩ thế tôi tiếp tục kéo xe về hướng đường đi Sàigòn, còn người bạn cùng đạp xe ba bánh về Phước Hòa với tôi thì nó đã đi từ hồi nào rồi. Tôi kéo xe ra đến đường vẫn không đạp nổi vì xe quá nặng, tôi tiếp tục kéo như vậy được một đoạn rồi phóng lên xe đạp, nhưng xe vẫn không di chuyển nổi vì 2 bao cám quá nặng, cuối cùng tôi thấy vô phương, không có cách gì đạp nổi cả, vì vậy tôi tiếp tục kéo, 12 giờ hơn mà tôi vẫn chưa tới được Phước Hoà, đoạn đường khỏang 10 cây số mà tôi cứ ngỡ là cả mấy chục cây số lận. Đi hoài vẫn không thấy tới, tôi mệt lả cả người, tôi không ngờ nó chông gai đến như vậy, bây giờ thì mọi chuyện đã lỡ rồi, tôi chỉ còn nước cố gắng kéo cho đến nơi vì mình đã nhận tiền công rồi. Đoạn đường mỗi lúc một dài thêm, từ lúc đưa 2 bao cám lên xe đến giờ tôi không đạp được môt bước nào mà chỉ kéo. Có những đọan đường tôi kéo mà xe hầu như muốn chạy ngược lại vì đoạn đường quá dốc, từ 9 giờ sáng đó là giờ xuất phát của tôi mà bây giờ hơn 12 giờ rồi tôi vẫn chưa tới địa điểm khoảng cách độ 10 cây số. Cuối cùng rồi với sức người “sỏi đá cũng thành cơm”, tôi cũng đã đến được bến ghe Phước Hòa, nhờ những người ở trên ghe phụ xuống, tôi đã hoàn thành công việc mà lúc đầu tôi nghĩ sẽ rất dễ dàng. Thưởng cho mình một ly nước đá lạnh, từng giọt nước mát ngấm dần vào cổ để bù lại nhũng giờ phút vất vả vừa qua. Tôi về đến nhà khoảng hơn 4 giờ chiều và cho mình được nghỉ luôn ngày hôm đó.
Trên đây là kỹ niệm của tôi trong những ngày đi tù về , gởi đến những người bạn cùng cảnh ngộ để cùng chia sẻ với nhau trong cuộc sống “Hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn”.
Qua được đến Mã Lại, tôi lại tình cờ gặp lại được bà chủ vựa cám cũng đi vượt biên bà đến sau tôi vài tuần, tôi thuộc PB 967 (Pulau Bidong), lúc đó tôi được văn phòng Trại giao cho chức vụ Trưởng Khối Xã hội Đảo Bi Ðông vào cuối năm 1983. Bà chủ vựa cám lên gặp tôi để nhận quần áo từ khối xã hội, chị đã nhận ra tôi “thằng đạp xe ba bánh” chở hàng cho chị, chị nhìn tôi bằng cặp mắt kính phục, tôi cũng cảm ơn chị đã giúp tôi trong những ngày tháng vừa qua.
Viết đến đây tôi nghe trên đài phát thanh thông báo Mùa Vu Lan, bông hồng trắng cho những người không còn mẹ, tôi buồn và nhớ mẹ tôi vô cùng, Mẹ ơi! Con của Mẹ giờ nầy không còn đạp xe ba bánh như ngày nào, con của Mẹ có một cuộc sống tương đối , không còn phải vất vả như những ngày còn ở quê nhà, mới vừa ra tù cải tạo, nhưng lúc nào con của Mẹ cũng vẫn nhớ về Mẹ, con thầm ước ao được chở Mẹ trên chiếc xe ba bánh nghèo nàn như ngày nào, nhưng làm sao có được., vì bây giờ làm sao tôi có thể tìm lại được những hình ảnh thân thương đó nữa, xin Ba Mẹ hãy phò hộ cho chúng con, ba anh em chúng con đang sống bơ vơ trên đất người, mùa Vu Lan thiếu cả Mẹ lẫn Cha …

John Nhân Nguyễn - California

Nguyenphanan
#57 Posted : Sunday, December 19, 2010 2:29:32 AM(UTC)
Nguyenphanan

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 536
Points: 0

HAI MÁI TÓC BẠC
Tâm bút : Nguyễn Phan Ngọc An


Năm 1993 trong một dịp tình cờ tôi được quen biết nhà báo Tô Ngọc, qua lời kể của bạn anh thì tôi biết anh còn một mẹ già tròn 80 tuổi – Tôi vốn mồ côi mẹ đã lâu, nghe ai còn mẹ là lòng tôi dâng lên niềm cảm xúc, cứ ước gì còn mẹ để được bày tỏ sự thương yêu dành cho mẹ của mình …
Và tôi đã tìm đến thăm bác gái, mẹ anh Tô Ngọc – Bác có một khuôn mặt hiền từ nhân hậu, dù cao tuổi bác vẫn giữ được nét thanh tú với dáng dấp cao lớn, nước da trắng hồng. Tôi đã chuyện trò và thân quý bác từ lúc nào không hay, tôi rảnh giờ nào là xuống chở bác đi chùa, có một dịp Tết tôi và bác đi chùa vào sáng mồng một tại chùa Tàu trên đường Mckee – Hai bác cháu cũng diện áo quần chải chuốt bảnh bao và chụp chung với bác nhiều tấm hình tại chùa …
Ngày tháng qua đi, bác và anh Tô Ngọc sau khi lo đám cưới cho cậu Tấn, đứa con trai duy nhất của anh và là đứa cháu nội đích tôn của bác, bác và anh Ngọc dọn về Sacramento cư ngụ – Tôi cũng đã nhiều lần lên Sacto công việc và ghé thăm bác, trong tâm tôi quý trọng bác như mẹ của mình và bác cũng xem tôi như đứa con gái nuôi của bác, ở bác có rất nhiều đức tính tôi phải học, bác nói năng điềm đạm từ tốn … Tôi không thể nào quên một chuyến đi chơi du ngoạn đông người, trong đó có bác và anh Ngọc, nhìn anh chăm sóc bác mà tôi cảm phục, hai mái đầu bạc trắng của mẹ, của con, anh dẫn bác đi từng bước một, tôi đã buột miệng nói rằng : nhìn anh Ngọc nắm tay dìu bác đi ai mà nghĩ là hai mẹ con, hai mái tóc bạc phơ giống nhau, nếu nhìn phía sau lưng sẽ tưởng là hai người cùng trang tuổi hoặc là hai chị em thôi – Bác cười và nói : Thằng Ngọc con bác nó cứ như vậy thôi, lo cho mẹ chứ chẳng màng đến thân mình cháu ạ ! Nhìn nó già trước tuổi bác đau lòng quá, nhiều lần bác bảo nó lập gia đình để nó có niềm vui thì nó cứ trả lời : không cần đâu mẹ ạ ! con sống một mình quen rồi …
Bác là mẫu người đàn bà đức hạnh, tên tộc của bác là Trần Thị Bào, bác sinh năm 1913 ( Quý Sữu), thuờng thì nam Nhâm nữ Quý nên bác rất được sự quý mến trân trọng của mọi người khi tiếp xúc với bác. Bác lập gia đình năm 17 tuổi, cái tuổi đầy mộng mơ của đời người con gái, với công dung ngôn hạnh đủ đầy bác đã phải lòng Kịch tác gia Ngô Văn Thuật năm 1930 – Bác sinh được ba người con trai, hai người đầu và út đều mất khi còn nhỏ, chỉ giữ lại được quý tử Ngô Sĩ Tô Ngọc mà thôi …
Bác sống hạnh phúc với Kịch tác gia được 28 năm thì chồng bác ngã bệnh và mất ! Bác đau buồn trong cảnh mẹ góa con côi nhưng ý chí kiên cường, bác buôn bán lặn lội vất vả nuôi anh Tô Ngọc, với lứa tuổi trung niên mặn mà nhan sắc đã có rất nhiều người đàn ông theo đuổi nhưng bác vẫn thờ ơ lãnh đạm, đời của bác chỉ một người chồng và chồng chết thì ở vậy nuôi con ăn học thành người hữu dụng – Nhà báo Tô Ngọc lớn lên là một người con hiếu thảo vô cùng, quả không phụ tấm lòng yêu thương và hy sinh của mẹ mình, trước năm 1975 dưới thời Đệ nhất Cộng Hòa tại Sài Gòn chắc ít ai mà không biết tên tuổi ký giả Tô Ngọc của tờ Chính Luận nhật báo.
Sau khi Cộng Sản cưỡng chiếm toàn bộ Miền Nam Việt Nam và trong chiến dịch truy quét các văn nghệ sĩ thuộc chế độ VNCH , nhà báo Tô Ngọc bị CS bắt giam tại trại Gia Trung thuộc tỉnh Pleiku với tội danh “ văn nghệ sĩ chống cộng” … Bác ở nhà một mình vừa buồn vừa khóc cho thân phận đứa con duy nhất, không biết sinh mạng con mình sẽ ra sao ? đêm đêm bác đốt nhang ra sân cầu khẩn Phật Trời độ mang đứa con yêu quý, ban ngày bác buôn tảo bán tần kiếm tiền sinh nhai và để có tiền đi thăm anh Tô Ngọc đang ở tù tại một nơi rất xa thành phố Sài Gòn đến tám chín trăm cây số giữa rừng núi tây nguyên … Thời gian anh Tô Ngọc làm ký giả báo Chính Luận, anh đã yêu thương một người phụ nữ yêu kiều, có nét lai rất đẹp, hai người đã có với nhau một đứa con trai kháu khỉnh, đặt tên bé Tấn để mong tương lai sự nghiệp một ngày một tinh tấn và hạnh phúc mỗi ngày mỗi thăng hoa – Nhưng chuyện nợ duyên là định số an bài, anh chị phải chia tay và bé Tấn từ đó sống với bà nội, hơn mười năm anh Tô Ngọc chôn mình trong lao lý, lãnh biết bao đòn thù từ CS anh vẫn sống trong niềm đau thương con, nhớ mẹ ngập tràn tim óc và đã nhiều đêm anh thầm rơi lệ cho thân phận tù đày không biết được ngày nào xum họp với mẹ già con dại !
Hơn 10 năm tại trại tù tây nguyên Pleiku, anh được thuyên chuyển về trại Z.30D của Quận lỵ Hàm Tân thuộc tỉnh Phan Thiết và hai năm sau anh được trả tự do – Mười hai năm bác sống đơn độc tần tảo vất vả kiếm tiền nuôi con ở tù nuôi cháu ăn học, bác mong mỏi cho Tấn nên người tốt dẫu rằng sống trong một xã hội đen tối chẳng tương lai ! Ngày anh Tô Ngọc về với gia đình, đôi mắt bác sáng rực niềm vui, lòng bác tràn hy vọng … và 6 năm sau bác đã được theo anh và Tấùn đến miền đất tự do Hoa Kỳ theo diện HO.
Bác ơi, đêm nay con không ngủ được, ngồi viết những dòng tâm bút này cho bác, bên ngoài mùa đông cây lá xạt xào rung động như trong lòng con đang từng cơn cảm xúc dâng cao và nước mắt con đã rơi nhạt nhòa dòng chữ trước mặt rồi … Bác biết không, khi được tin bác mất từ anh Ngà cho hay, con bàng hoàng như trong giấc chiêm bao, dẫu biết rằng tuổi bác đã cao và bác đang bị bệnh từ hai tháng nay – Con lái xe mà như lão đão tay lái bác ơi, con thương con quý bác, một người phụ nữ đàm đang, một người đàn bà gương mẫu, một người mẹ hiền đã có những đức tính cao vời giống như người mẹ thân yêu của con đã khuất ! Con biết nói gì đây khi bác không còn trên cõi đời, không còn nghe con nói chuyện tâm tình, không cùng con thỉnh thoảng xiêm y đi thăm viếng các ngôi chùa để hương nhang cầu nguyện … Tất cả chỉ còn trong kỷ niệm, trong tim óc của con, còn bác thì đã yên ngủ giấc nghìn thu, bỏ lại dương trần đứa con trai yêu quý mà ngày nay đã là ông nội của một gia đình nho nhỏ là vợ chồng Tấn và hai con còn bé tí teo.
Ngày con lên viếng bác, ôi nhìn bác nằm ngủ trong tư thế an nhàn thảnh thơi, không biết lúc con đứng bên bác, con nói với bác những lời thầm thì nhắc chuyện ngày xưa, bác có nghe không nhỉ – Con tin rằng bác nghe con nói, bởi suốt cuộc đời thánh thiện thanh cao hồn bác sẽ linh thiêng mầu nhiệm để theo dõi cuộc sống trần gian, phù hộ con cháu và nhân quần xã hội và… phù hộ cho con nữa …
Gương mặt bác ốm đi nhiều so với khi bác chưa ngã bệnh, con ngậm ngùi theo đoàn người đưa tiễn bác đến lò hỏa thiêu, lửa đang cháy phừng phừng, con thương bác quá, chỉ đôi phút nửa thôi bác của con đã biến thành tro bụi, kiếp người là như thế, không ai tránh khỏi con đường sinh tử, con đứng chơ vơ không muốn dời chân khi thân xác bác đã hoà cùng tro bụi …
Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi
Để một mai tôi về làm cát bụi …
Giữa trưa nồng nhưng không nóng bức của miền Sacramento như có câu hát này từ không trung vọng xuống, có phải bác đang hát cho con nghe đấy không, sao tự nhiên ký ức con nhận diện rõ ràng gương mặt bác và con lặng lẽ buồn bước ra khỏi phòng hỏa thiêu để theo đoàn người xa bác mãi mãi.

Hai mái tóc bạc màu tuyết phủ
Sống êm đềm một giấc mơ chung
Con mong mẹ sống lâu trăm tuổi
Mẹ quý con thương cháu tận cùng

Gương tiết liệt thờ chồng mấy kẻ
Hy sinh đời xuân trẻ vì con
Bác đi một bước đã tròn
Xuân xanh bác đã mõi mòn chăn đơn
Công đức bác cháu con được hưởng
Cõi thiên thai mơ tưởng bác về
Đắm trong trần lụy ê chề
Chín mươi ba tuổi nặng nề châu thân
Nay bác đã mãn phần cõi tạm
Về rong chơi thanh lãm niết bàn
Bác vui và chớ lo toan
Gia đình con cháu trần gian xum vầy
Con của bác tình đầy nghĩa nặng
Sống thanh cao lòng chẳng tị hiềm
Công danh anh vẫn điềm nhiên
Phú quý anh cũng chẳng ghiền chẳng mê
Trong anh như nặng lời thề
Nên đời anh vẫn đi về cô đơn
Bảy mốt tuổi chẳng hờn chẳng giận
Tuổi hoa niên bay tận chân trời
Gửi tình theo gió chơi vơi
Niềm vui hòa với cuộc đời thế nhân
Gương sáng bác một thân nuôi trẻ
Anh quyết lòng giống mẹ nuôi con
Chữ hiếu anh đã vuông tròn
Đạo nghĩa anh đã dạy con nên người
Thiên thai bác hãy cười vui
Thảnh thơi trong chốn cõi trời thênh thang…

NPNA











Nguyenphanan
#58 Posted : Thursday, December 30, 2010 2:37:51 PM(UTC)
Nguyenphanan

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 536
Points: 0

NHỮNG GIỜ PHÚT CUỐI CÙNG TẠI XUÂN
LỘC LONG KHÁNH

Hồi ký : Trung Úy Nguyễn Hữu Nhân Tiểu đoàn 181 Pháo Binh Sư Ðoàn 18 BB


Sau khi tham dự Hành quân để giải tỏa Quận lỵ Võ Đắt với Liên Đoàn 7 Biệt Động Quân, Pháo đội A 181 Pháo Binh giờ thì chỉ còn có 4 khẩu 105 ly mà thôi, chúng tôi đang đợi để nhận bổ sung thay thế 01 khẩu đại bác đã bị Cộng quân đánh phục kích và kéo đi ở Chánh Tâm 2 đường đi Võ Đắt. Hai trung đội ở hai vị trí khác nhau, một trung đội đóng ở Hậu cứ Tiểu đoàn 181 Pháo Binh, nằm cuối phi trường, còn một trung đội được đóng ở căn cứ Núi Thị cách Bộ chỉ huy hậu cứ của Tiểu đoàn độ 5 cây số, Pháo đội chúng tôi ở lại Long Khánh với Thiếu tá Nguyễn Tiến Hạnh trong những giờ phút sau cùng, Thiếu tá Nguyễn Tiến Hạnh xuất thân Khóa 13 trường Võ Bị Quốc gia Việt Nam về thay thế Thiếu tá Tôn Xuân nhận thuyên chuyển đến Tiểu đoàn 47 Pháo Binh tại Long Xuyên.. Được biết ông từ Pháo Binh Thủy quân Lục Chiến, sau cùng về Pháo Binh Biệt Khu Thủ Đô trước khi về nhận Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 181 Pháo Binh. Ngay từ khi mới về nhận đơn vị, Thiếu Tá Nguyễn Tiến Hạnh đã tỏ ra rất vui vẻ và rất dễ dãi với các Sĩ quan và binh sĩ trong đơn vị, mỗi khi có tiệc tùng hay tổ chức ăn nhậu, ông thường kêu các sĩ quan cùng ngồi nhậu và ăn uống chung với ông, không cần biết có mấy sĩ quan, cứ khui một két bia lớn ra, ông chỉ uống những chai có nhãn hiệu trái thơm mà thôi, và số còn laị thì các sĩ quan phải chia nhau uống cho hết. Thường thường mỗi két chỉ có chừng 2 đến 3 chai có nhãn hiệu trái thơm mà thôi.
Vào những giờ phút chót, tôi được điều động lên Núi Thị với một trung đội của Trung Uý Trung. Còn một trung đội đóng chung với Bộ chỉ huy Tiểu đoàn cho đến giờ nầy tôi cũng không còn nhớ rõ trung đội nầy là trung đội mấy của Pháo đội A nữa. Tôi cũng không nhớ rõ lúc đó các Pháo đội B của Đại Úy Vũ Huy Thiện và Pháo Đội C của Trung Úy Trần Hữu Rật đang tham dự hành quân ở đâu nữa, vì sau gần 7 năm tù và qua đây phải vất vả với cuộc sống cho nên trí óc tôi không còn được sáng suốt nữa. Nếu tôi nhớ không lầm thì sáng ngày 8 tháng 04 năm 1975, khoảng 04 giờ sáng Cộng quân đã chận xe đò và chiếm Cua Heo đường vào Quận lỵ Long Khánh, cũng kể từ ngày tháng nầy, con đường xe chạy Saìgòn Bình Tuy hay Sàigòn Võ Đắt – Tánh Linh đã không còn lưu thông nữa, xe chạy trên tuyến đường nầy đã phải đậu laị nối đuôi nhau để chờ giải tỏa, thế nhưng cho đến chiều cũng vẫn chưa được phép chạy, vì vậy các xe đã trở đầu để quay trở lại. Trên hệ thống vô tuyến chúng tôi nghe tin Cộng quân đang chiếm dinh Tỉnh Trưởng, hiện chúng đang quần thảo với Bộ chỉ huy Tiểu khu, chưa biết tình hình Tỉnh trưởng như thế naò, tin trên loan ra làm cho chúng tôi vô cùng hoang mang, ngay cả dinh Tỉnh trưởng mà cộng quân đã chiếm được thì còn chỗ nào an toàn nữa. Tình hình Long Khánh trong lúc bấy giờ thật hết sức nguy ngập.Các đơn vị ở miền Trung đã di tản chiến thuật, bây giờ Long Khánh là cứ điểm cuối cùng, nếu Long Khánh thất thủ thì cộng quân sẽ tiến chiếm vào Sàigòn, vì vậy bằng bất cứ giá nào chúng tôi cũng phải giữ cho được Long Khánh. Các đơn vị trực thuộc Tiểu khu đã chạm súng ác liệt với Cộng quân từ sáng đến giờ, những tiếng súng lớn nhỏ nổ dòn như bắp rang ở hướng dinh Tỉnh trưởng, tình hình ta và địch lẫn lộn, chúng tôi cũng không còn biết tin tức chính xác là như thế nào nữa., đến trưa thì chúng tôi được tin quân ta đã làm chủ được tình hình, đã đẩy lui Cộng quân ra khỏi dinh Tỉnh trưởng, như vậy dinh Tỉnh trưởng đã được giải tỏa sau gần 6 tiếng đồng hồ đã bị cộng quân vây hãm. Trung đội Pháo binh 1A của chúng tôi lúc đó đang được yểm trợ trực tiếp cho tiểu đoàn 2/43 đang trú đóng tại Núi Thị, cùng lúc ấy tôi được lệnh tác xạ trực tiếp từ một sĩ quan Pháo binh của Tiểu đoàn chúng tôi, Trung úy Đinh Văn Phùng, sĩ quan Thủ khoa của Khóa 4/68 Căn bản sĩ quan Pháo binh, Phùng gia đình ở Láng cát Bà Rịa , tôi và Phùng thường về phép chung với nhau và Phùng đang là sĩ quan Liên lạc và ngay sáng sớm hôm đó, tôi đã tác xạ yểm trợ trực tiếp cho Phùng, có lẽ số phận gắn liền nhau cho nên sau khi Cộng quân cưỡng chiếm miền Nam rồi, chúng tôi phải trình diện để đi tù, thì cũng lại gặp nhau tại trại Hoàng Diệu ở Long Khánh, gặp nhau trong cảnh tù gồm có Nguyễn Thanh Liêm, Nguyễn Phước Lễ, Trần Văn Tuyến, Ðinh Văn Phùng, các anh là những bạn học với tôi trong những năm tháng chúng tôi ở mái trường Châu Văn Tiếp Phước Tuy. Những trái đạn điều chỉnh thật chính xác và chỉ mấy phút sau chúng tôi đã được nghe Phùng báo cáo oang oang trên máy:
-Trúng ngay chiếc xe tăng T-54 rồi, bây giờ chiếc xe tăng đã bị lật nằm ngang trên ụ đất phiá ngoài vòng đai phi trường.
- Tin bắn trúng xe tăng của địch đã làm cho binh sĩ trong Trung đội lên tinh thần, tôi dặn các binh sĩ phải tháo đạn thật lẹ, giật cò cho nhanh để yểm trợ thật chính xác.
Những chiếc xe tăng của chúng đã bị Pháo binh bắn trúng lật nghiêng, và những chiếc khác đã bị bắn đứt dây xích nằm môt chỗ không chạy được, chúng đã rồ máy kêu inh ỏi, chúng tôi đã được nghe tiếng máy của xe tăng trong combinet trên máy vô tuyến. Cho đến giờ nầy chúng tôi mới tạm được nghỉ để cho binh sĩ ăn uống, kiểm điểm lại, từ sáng đến giờ chúng tôi đã sử dụng rất nhiều đạn để yểm trợ cho đơn vị đẩy lui Cộng quân ra khỏi vòng đai của Tỉnh lỵ, cũng kể từ ngày hôm nay, chúng tôi đã không còn được đi chợ nấu ăn như trước nữa mà chỉ tòan dùng thực phẩm khô mà thôi. Con đường từ Núi Thị xuống tỉnh lỵ Long Khánh đã không còn sử dụng được nữa, Pháo binh Núi Thị đã trở thành đơn vị Pháo binh duy nhất để yểm trợ cho Sư đoàn và tỉnh lỵ Long Khánh và Chi Khu Xuân Lộc.
Cũng kể từ ngày nầy, chúng tôi đơn vị nào ở đâu thì đóng ở đó, chỉ liên lạc với nhau qua hệ thống vô tuyến mà thôi. Mỗi ngày chúng tôi đếm từng ngày để mong được xuống núi đi chợ thay đổi mua thức ăn tươi, chứ nằm ở trên nầy hoài ăn uống thiếu thốn nên tinh thần binh sĩ rất xuống dốc, qua radio,mỗi ngày chúng tôi lại nhận thêm tin tức mất thêm một vài quận lỵ và tỉnh lỵ từ miền Trung trở vào, vì thế càng làm cho chúng tôi hết sức lo lắng và dự đóan tình hình thật xấu, riêng bản thân và sự suy nghĩ của riêng tôi, với sự ngây thơ về chính trị, tôi vẫn luôn luôn tin rằng không bao giờ có chuyện Cộng quân chiếm Sàigòn, và luôn luôn tin tưởng quốc gia ta sẽ thắng, Cộng quân trước sau gì cũng sẽ phải rút lui mà thôi, vì vậy chúng tôi rất yên tâm chiến đấu, Sau khi đẩy lui cộng quân ra khỏi bờ đai tỉnh lỵ, chúng tôi cảm thấy yên tâm và tin rằng chúng ta sẽ cố thủ Long Khánh cho đến giờ phút sau cùng và nhất là chúng ta đã đẩy lùi bọn chúng ra khỏi vòng đai, Long Khánh sẽ được sống trở lại bình thường, mỗi ngày chúng tôi vẫn bắn liên tục để yểm trợ cho các đơn vị bạn. Thế rồi hôm đó ngày 20 tháng 04 năm 1975, tôi được lệnh của Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng ra lệnh cho tội xuống đồi và gặp ông ở Bộ chỉ huy Tiểu đoàn 181 Pháo Binh, để trung đội do Trung Úy Trung điều hành, tôi có hỏi đoạn đường qua Cua Heo đã đi được chưa vì từ ngay 08 tháng 04 đến giờ chúng tôi chưa hề xuống được núi, nhà binh lệnh là phải thi hành, vì vậy dù rất lo sợ, tuy nhiên tôi vẫn phải xuống núi, tôi đã để lại xe Jeep của tôi tại vị trí Núi Thị và nhờ một binh sĩ chở tôi về trình diện Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng bằng xe Honda của anh ta, tôi biết rằng đi xuống bằng xe Jeep thì quá nguy hiểm cho nên đi xe Honda có lẽ cũng đỡ nguy hiểm hơn, tôi trang bị cho mình áo giáp, nón sắt, dây ba chạc và súng colt 45 và đạn được đầy đủ, trên vai còn mang theo một khẩu M-79 và trên tay cầm một khẩu M-16, giả từ Trung Úy Trung trung đội trưởng của trung đội nầy và các binh bĩ của trung đội, các binh sĩ cũng rất lo lắng cho tôi trên đường đi, tôi nói với trung úy Trung cho súng hướng về đoạn đường mà tôi sẽ xuống núi và yểm trợ cho tôi ngay khi tôi gọi, Hạ sĩ nhất Vũ văn Soạn nhà ở Kiệm Tân nên đem xe Honda để ở trại vị trí trung đội, độ vài tuần thì về phép bằng xe Honda, tôi bảo Soạn đeo thêm máy PRC-25 trên vai và thầy trò tôi bắt đầu xuống núi. Phải chi như bây giờ có điện thoại di động thì còn gì sung sướng cho bằng, vừa gọn nhẹ và dễ dàng cất dấu.
Sau gần nửa tháng không xuống núi, giờ lần đầu tiên trở laị con đường nầy tôi cũng cảm thấy sờ sợ, mong sao cho mau được đến vị trí của bộ chỉ huy tiểu đoàn để chờ ông có lệnh lạc gì mới cho tôi?
Đã lâu lắm rồi, từ ngày làm trung đội trưởng Pháo binh đến giờ, tôi hầu như không còn đi xe Honda nữa, ngay cả những lần về phép tôi cũng dùng xe Jeep để đi phép, ký sự vụ lệnh cho tài xế đưa tôi đi chỗ nầy, chỗ nọ. Tôi ngoại giao rất giỏi, vì thế xe Jeep của tôi lúc nào cũng có xăng đầy đủ để chạy, có những tháng tiểu đòan cấp cho xe Jeep nhưng không cấp nhiên liệu, các sĩ quan khác đành không nhận xe vì không có xăng để xử dụng, nhưng riêng tôi chưa bao giờ không có xe Jeep cả, và ngay cả phương tiện truyền tin tôi cũng đã có máy VRC-34 trên xe ngoài cấp số.
Thật may mắn cho tôi, sau khi từ Núi Thị hai thầy trò tôi chạy thật nhanh, Soạn chạy hết ga sau khi xuống được con đường chánh của quốc lộ, tôi ôm chặt lấy Soạn và mắt nhìn xung quanh rất nhanh, hai bên đường cảnh trí hoang tàn, tiêu điều sau những trận pháo của chúng tôi, đi ngang Cua Heo tôi còn thấy chiếc xe tăng bị bắn cháy đang nằm trơ trọi nơi đó, Soạn chạy riết ở đường ngoài để xuống Chi Khu xuân Lộc, vì lúc bấy giờ bộ chỉ huy Tiểu đoàn đang đóng ở rừng cao su trước quận lỵ.
Tôi vào gặp Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng và được tin tối nay chúng tôi sẽ rút khỏi Long Khánh và bàn giao vùng hành quân nầy lại cho Lữ Đoàn 1 Dù sẽ thay thế chúng tôi.Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng đưa cho tôi những mục tiêu, và tôi chấm lại trên bản đồ toàn là YS nằm trên trục lộ về Đức Thạnh, sau khi chấm những điểm nầy lên bản đồ tôi đã đoán ra được lộ trình mình sẽ đi. Con đường từ Xuân Lộc về Đức Thạnh gần 10 năm nay không được sử dụng, thế mà tối nay chúng tôi sẽ đi lại bằng con đường đó, tôi băng khoăn tự hỏi, bỏ đi cả 10 năm rồi, giờ làm sao đi lại cho được?
Phối hợp một trung đội của Pháo đội A(-) còn lại ở đây và bộ chỉ huy của Tiểu đoàn, tôi tập hợp tất cả lại và chỉ thị cho tất cả chuẩn bị lên đường khi có lệnh, không được mang theo gì cả, ngoaì việc phải kéo hai khẩu 105 ly, móc hậu gạo và móc hậu nước cũng bỏ lại. Tôi không còn nhớ rõ trưởng ban 3 của tiểu đoàn lúc đó là ai nữa, duy chỉ biết Thiếu tá Hạnh nói sẽ đi với tôi và ông nói rằng đi với tôi ông ta thấy yên tâm hơn. Thiếu tá Hạnh sẽ đi xe Jeep sau chiếc xe kéo súng của trung đội, tôi sẽ đi trên chiếc xe GMC kéo súng đầu tiên.
Lúc đó hơn 4 giờ, tôi ra lệnh cho các binh sĩ sẵn sàng di chuyển khi có lệnh, Soạn nói với tôi xin phép cho mang theo chiếc xe Honda, tuy nhiên tôi đã ra lệnh không ai được mang theo gì cả, vì vậy tôi nói với HS1 Soạn là tôi rất tiếc không thể để Soạn mang theo chiếc xe Honda được. Soạn nói với tôi rằng, thôi em sẽ chạy Honda theo hai xe kéo súng của mình và tôi đã đồng ý. Tôi đã cho sắp xếp tất cả xe của đơn vị Pháo binh của chúng tôi ra ngoài đường từ 5 giờ chiều ngày 20 tháng 04 năm 1975. Và ngày đó chúng tôi coi như là một ngày kỷ niệm, cho đến giờ tôi vẫn còn nhớ đến ngày đó.
Tất cả đoàn xe đều nổ máy và chờ lệnh, chúng tôi được biết Thiếu tướng Lê Minh Đảo tư lệnh Sư đoàn đã đi với 81 Biệt cách Dù từ buổi trưa, và bây giờ chúng tôi đang đợi lệnh ông để di chuyển. Thời giờ chờ đợi lúc nào cũng đi thật chậm, chúng tôi càng sốt ruột hơn vẫn chưa được lệnh di chuyển, rồi từ hướng sân bay chúng tôi nghe những tiếng bụp … bụp bụp.. là tiếng depart của pháo địch, chừng vài giây sau những tiếng nổ chát chúa ngay tại vị trí chuẩn bị di chuyển của chúng tôi, trái đạn đầu tiên đã rớt trúng ngay xe Jeep của Thiếu tá Hạnh Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 181 Pháo binh, và những trái pháo kích khác đã rớt xung quanh đoàn xe của chúng tôi, lúc đó chẳng còn lệnh lạc gì nữa, mạnh ai nấy chạy, xe của thiếu tá Hạnh đã bị pháo nên không đi được nữa, ông chạy ngay lại xe GMC kéo súng của tôi và chúng tôi di chuyển ngay lúc đó, chạy về hướng trung đoàn 48 bộ binh đóng ở Long Giao, tôi thiết nghĩ nếu như lúc đó chỉ cần một tràng AK nữa thì tôi tin rằng đơn vị sẽ rả ngủ, chúng tôi cố cho xe chạy thật nhanh, trong khi đó những tiếng nổ vẫn tiếp tục sau lưng chúng tôi, nếu không có phản ứng cấp thời và di chuyển ngay thì có lẽ chúng tôi đã ăn những qủa đạn pháo đó rồi, hai bên đường mùi xác chết xông lên nồng năc, thiếu tá Hạnh ngồi bên trong xe GMC kéo súng làm trưởng xa, tôi nghĩ rằng có lẽ đây là lần đầu tiên một vị tiểu đoàn trưởng pháo binh ngồi trên xe GMC kéo súng, vì pháo binh xe cộ rất đầy đủ, và tiểu đoàn trưởng thì muốn xe gì mà không có, thế nhưng đây là lần đầu và cũng là lần cuối cùng vì sau trận nầy chúng tôi không còn được đi xe GMC nữa mà phải vào các trại tù mà chúng gọi là đi cải tạo. Tôi đứng phía ngoài xe GMC tiếp tục chạy trên đường về Long giao, vừa chạy tôi vừa liên lạc với bộ tư lệnh sư đoàn để nhận chỉ thị, cũng may sau đợt pháo đầu tiên, tôi liên lạc với các xe và được biết tất cả anh em sĩ quan và binh sĩ của chúng tôi hoàn toàn vô sự, duy chỉ có chiếc xe jeep của thiếu tá Hạnh là bị trúng pháo kích và đã bỏ lại ngay lúc khởi hành. Khảng 09 giờ tối chúng tôi đến Long Giao, tôi không còn nhớ rõ nữa nhưng hình như chúng tôi là đơn vị pháo binh được di chuyển có xe còn các đơn vị khác đã di chuyển bộ, vì vậy khi dừng lại Long Giao tôi không thấy một đơn vị nào hộ tống chúng tôi cả, bộ chỉ huy Pháo binh Sư đoàn lúc đó là Đại tá Ngô Văn Hưng, tôi không được nghe tiếng nói của ông lúc đó, nhưng tôi nghe giọng nói của Trung úy Hà Phương Đính. Lệnh cho tôi phải ở lại Long Giao và sẵn sàng tác xạ để yểm trợ cho lữ đoàn 1 Dù đang ở lại để thay thế chúng tôi. Tôi cho dừng xe và ra lệnh cho trung dội đưa súng vào vị trí để chuẩn bị gióng hướng và sẵn sàng tác xạ, hai khẩu pháo nằm chênh vênh trên đường trước cổng Trung đòan 48 tại Long giao (Black Horse) khẩu nầy cách khẩu kia không đầy 5 mét, gióng hướng súng xong và sẵn sàng tác xạ, cọc ngắn 1 mét và cọc dài 3 mét thay vì cọc ngắn 50 mét và cọc dài 100 mét. Tất cả sách vở học trong trường pháo binh đều được bỏ hết mà chỉ thực hành theo điều kiện cho phép, tôi được lệnh qua tần số của Dù và liên lạc để yểm trợ cho họ, lúc nầy mà họ xin tác xạ mới mệt cho chúng tôi quá, nhưng chúng tôi vẫn nhận lệnh và đã bắn yểm trợ cho họ khoảng 10 quả đạn 105 ly trước khi chúng tôi tiếp tục di chuyển. Lúc nầy khỏang 11:30 tối, tôi được lệnh tiếp tục di chuyển để về điểm hẹn, Tôi được biét đơn vị Dù thay thế chúng tôi cũng sẽ đến Long Giao sau khi tôi đi khỏi nơi nầy, tôi liên lạc qua trung đội pháo binh ở Núi thị để hỏi thăm tình trạng của trung đội nầy ra sao? Trung úy Trung cho tôi biết, bây giờ trung đội đang chuẩn bị xử dụng M-14 (đây là loại đạn chỉ dùng khi có lệnh để phá hủy đaị bác, tôi từ ngày gia nhập vào binh chủng Pháo Binh cho đến giờ, tôi cũng chưa hề xử dụng đến loại đạn nầy). Trung đội sẽ nhận lệnh trực tiếp của Bảo Định Thiếu tá Nguyễn Hữu Chế, tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2 /43. Tôi dặn dò Trung úy Trung cố gắng bảo tòan đơn vị và liên lạc chặt chẻ với Bảo Định, sau đó tôi trở qua hệ thống để liên lạc với BCH pháo binh sư đoàn 18 Bộ binh. Đoạn đường đã bỏ từ nhiều năm nên cỏ mọc hai bên đường ngăn cả lối đi, trời thật tối, tôi đứng bên hông xe khoảng 50 thước tôi lại bật đèn Pin lên rọi về hướng trước để tài xế liếc nhìn đoạn đường mà chạy, và cứ thế chúng tôi tiếp tục di chuyển trên con đường đã bỏ trống cả gần 10 năm nay. Lúc tôi di chuyển có đơn vị của bộ chỉ huy tiểu khu cùng di chuyển theo chúng tôi, tôi dừng lại và ra lệnh cho đơn vị nầy phải di chuyển xa chúng tôi và không được mở đèn, đến sáng hôm sau khoảng 9 giò, chúng tôi đã về đến Đức Thạnh, đơn vị tôi tới nơi an toàn, duy chỉ có Trung Tá Long tham mưu trưởng Tiểu khu Long Khánh, ông là người chỉ huy đoàn xe chạy theo tôi lúc đêm qua đã không may bị cộng quân phục kích và ông đã tử thương, tất cả chúng tôi đều hoàn hồn và nghĩ rằng ông Tham mưu trưởng đã mở đèn và vì vậy bọn Việt cộng đã phục kích bắn trúng xe ông ta. Vừa vào đến vị trí, tôi được lệnh phải sẵn sàng tác xạ.
Gióng hướng súng vừa xong thì tôi nhận được lệnh tác xạ yểm trợ cho lữ đoàn 1 Dù. Các mục tiêu nằm ngoài tầm pháo, vì vậy chúng tôi chỉ bắn vài chục quả để dọn mục tiêu, trong lúc đang tác xạ tôi lại nhận được lệnh trung đội lại chuẩn bị lên đường. Đại Úy Hoàng Uông Lễ trưởng ban 4 tiểu đoàn sẽ tiếp tế cho tôi 10 xe đạn vào chiều nay tại ví trí hành quân mà tôi sắp sửa di chuyển đến. 02:00 chiều tôi nhận được lệnh sẽ di chuyển Trung đội trở ngược về hướng Chi Khu Xuân Lộc để yểm trợ cho Lữ đoàn 1 Dù đang hành quân ở Cẩm Tâm, Cẩm Mỹ. Đơn vị hộ tống cho tôi lúc bấy giờ là một đơn vị của Chi khu Đức Thạnh với một trung đội , tôi chỉ thấy họ đưa hộ tống đơn vị tôi bằng 02 xe cơ giới mà thôi, tôi trở laị trên con đường mà sáng nay tôi đã đi qua, trở lại được khoảng hơn 10 cây số, tôi được lệnh đóng tại đây để yểm trợ cho Lữ đoàn 1 Dù. Tôi cho 02 khẩu pháo đóng ngay bên đường đi, chỉ cách đường không đầy 5 thước, gióng hướng súng, thiết lập xạ bảng và sẵn sàng tác xạ. Khi vừa chiếm đóng vị trí xong không đầy nửa giờ, tôi nhận được lệnh tác xạ từ sĩ quan liên lạc của Lữ đoàn 1 Dù, “Đích thân” là danh hiệu của Lữ đoàn trưởng vô hệ thống và ông đã trực tiếp liên lạc với tôi. Tôi đã bắn yểm trợ cho lữ đoàn vào bìa rừng cao su được chừng 20 tràng thì cùng lúc ấy Ðại Úy Hoàng Uông Lễ ông đã dẫn một đoàn xe Quân vận và tiếp tế cho tôi thêm 10 xe đạn nữa. Binh sĩ quá mệt mỏi sau một đêm không ngủ, giờ lại vừa tác xạ và vừa tháo đạn nên rất mệt, tôi liên lạc với Bộ chỉ huy Pháo binh Sư đoàn xin tăng cường người để phụ giúp tháo đạn, tôi được tăng cường thêm 10 loài chim đi biển (Lao công đào binh) để phụ giúp cho các khẩu đội. Tôi cũng không còn nhớ rõ các Lao công đào binh nầy đã đến bằng phương tiện gì nữa, tôi tiếp tục vừa tác xạ yểm trợ cho lữ đoàn Dù cho mãi đến 07 giờ tối, trong lúc tác xạ, đồng bào đã di chuyển từ hướng Long khánh đi ngang qua vị trí cuả tôi rất nhiều từng đợt, từng đợt, tôi nghĩ ngay biết đâu trong đám dân di chuyển nầy lại không có những tên Cộng sản trà trộn, và như vậy chúng nó sẽ báo cáo vị trí của tôi thì chỉ có chết mà thôi, nghĩ như vậy nhưng không làm cách nào ngăn cản người dân di chuyển được, tôi đành nhắm mắt mặc cho mọi việc gì đến thì phải đến mà thôi.
Trời đã quá tối, đơn vị cơ giới bảo vệ cho tôi họ đã đi từ lúc nào chúng tôi cũng không biết, tôi liên lạc với BCH Pháo binh Sư đoàn để báo cáo tình hình và xin lệnh rút lui nhưng lúc đó BCH pháo binh sư đoàn không có lệnh gì cho tôi cả mà bảo tôi chờ ở đó đợi lệnh. Trời bắt đầu tối, những cơn gió lạnh thổi đến, lại thêm những đoàn người di chuyển ngang qua vị trí, càng làm cho chúng tôi càng lo lắng hơn, giá như trong đoàn người di chuyển nầy có vài tên Việt cộng trà trộn, và khi đi ngang qua vị trí của tôi chúng bắn vài phát AK vào vị trí đóng quân của tôi lúc bấy giờ thì tôi không biết sẽ phải giải quyết như thế nào nữa, đơn vị bạn yểm trợ cho tôi thì họ đã đi từ lúc nào, chúng tôi mãi mê tác xạ mà không để ý đến đơn vị bạn đã bỏ chúng tôi đi từ lúc nào rồi, chưa bao giờ một đơn vị Pháo binh yểm trợ mà không có đơn vị bộ binh bảo vệ vị trí như đêm nay. Sau khi biết được đơn vị cơ giới đã bỏ chúng tôi và đã rút lui trước, thật sự lúc đó tôi vô cùng lo lắng, nếu cộng quân tấn công chúng tôi ngay lúc bấy giờ thì không biết chúng tôi sẽ phải đối phó ra sao nữa.
Trời càng tối rất mau, quá nguy hiểm mà đơn vị pháo binh của tôi giờ lại không có ai bảo vệ, không chờ được nữa, tôi ra lệnh cho binh sĩ móc súng vào xe và tự động chạy trở lại Đức Thạnh. Đây cũng là lần đầu tiên tôi tôi đã quyết định một cách liều lĩnh mà không chờ lệnh lạc gì cả, khoảng cách chỉ 10 cây số mà tôi bổng thấy thật xa, xe chạy trong đêm tối, thỉnh thoảng có tiếng súng nổ phía sau lưng càng làm cho chúng tôi lo sợ hơn. Chúng tôi chạy thục mạng, chạy trong đêm tối và chỉ mong sao cho mau về đến vị trí. Đơn vị tôi thật sự may mắn, tôi về đến vị trí Đức Thạnh lúc đó khỏang gần 10 gờ đêm, tôi báo cáo tình hình cho Bộ chỉ huy Pháo binh Sư Đoàn, và lúc đó sĩ quan trực là Trung Úy Hà Phương Đính vẫn còn cho lệnh tôi ở ngoài vị trí và đợi lệnh. Gần 15 phút đứng ở ngoài cổng, tôi được lệnh cho Pháo vào vị trí, tôi cho lệnh các khẩu vào vị trí, gióng hướng súng và xuống đạn dược, anh em binh sĩ và tôi mệt lã người sau 2 ngày di chuyển, cũng may tôi kịp trở về chứ nếu cứ ở đó đợi lệnh thì có lẽ hôm nay tôi không còn để viết trang hồi ký nầy.
Đêm hôm đó chúng tôi tạm ở lại Đức Thạnh và sáng sớm hôm sau đơn vị di chuyển về Long Bình, Thấy tôi qúa vất vả trong những ngày cuối, vì vậy Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng đã ký giấy phép cho tôi về thăm nhà, còn đơn vị sáng sớm hôm sau trở về Long Bình, vì vậy vào những giờ phút chót của đơn vị tại Long Bình tôi không được tham dự.
Bài viết nầy tôi muốn nói lên tinh thần chiến đấu của chúng tôi nói riêng và cũng là tinh thần chiến đấu của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa trong những giờ phút chót ở chiến trường Xuân Lộc. Cho đến những giây phút chót chúng tôi vẫn thi hành lệnh một cách tuyệt đối .Tôi cũng cảm ơn Thiếu Tá Nguyễn Tiến Hạnh, vị tiểu đoàn trưởng sau cùng của tôi, cũng nhờ ông ra lệnh cho tôi từ Núi Thị xuống gặp ông và đã được di chuyển cùng ông trong những giờ phút cuối của Sư đoàn 18 tại Xuân Lộc. Tôi được biết trung đội pháo binh ở Núi thị sau khi phá huỷ súng bằng đạn M-14, Trung Úy Trung đã theo tiểu đoàn 2/43 rút lui xuống núi và đơn vị nầy đã chịu tổn thất rất nhiều, sau đó tôi tập trung vào các trại tù với các sĩ quan trong đơn vị như: Trung Úy Nguyễn Đắc Tài, Trung Úy Nguyễn Tiến Hiệp trong suốt thời gian ở các trại tù GK3 Long Khánh, rồi di chuyển lên Phước Long chúng tôi đều được ở chung trong một tiểu đoàn, cho đến năm 1979 trong lúc đơn vị lên Trung đoàn để chặt tre và gặt lúa, trên đường về các anh đã vượt trại và cho đến nay chúng tôi không nhận được tin tức gì về các anh nữa. Khi vượt biên qua đây, tôi cũng không được tin tức của Trung Úy Trung Trung đội trưởng Pháo Binh đóng tại Núi Thị và các binh sĩ cùa Trung đội nầy.
Tôi đã được gặp lại Bảo Định (Thiếu tá Nguyễn Hữu Chế) Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 2/43 tại San Jose, Thiếu tá Nguyễn Hữu Chế xuất thân khóa 13 Trừ bị Thủ Đức, Ông là một sĩ quan gan dạ, một sĩ quan ưu tú của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, Ông luôn luôn được đề nghị là chiến sĩ xuất sắc của Sư đoàn 18 Bộ binh nói riêng, và là sĩ quan xuất sắc của QLVNCH nói chung. Ông đã viết những bài thật xúc động và chúng tôi không thể ngờ ông không những là một sĩ quan tài ba trên chiến trường mà còn là một cây bút tuyệt tác nữa. Chúng tôi đã được đọc những bài viết của ông như: Võ Đắc Trong Biển Lửa, Lui Binh, Ði Tìm Xác Chồng v.v…Tôi cũng đã được gặp lại Thiếu Tá Nguyễn Tiến Hạnh con chim đầu đàn của Tiểu đoàn 181 Pháo Binh, vị tiểu đoàn trưởng cuối cùng trong đời binh nghiệp của chúng tôi, ông là một sĩ quan trẻ, gan dạ và rất được các sĩ quan trong đơn vị thương mến, tôi cũng đã được gặp lại Đại úy Đặng Hồng Tâm, Đại Úy Hoàng Uông Lễ, Trung Úy Trần Ngọc, Trung Úy Trần Ngọc Thông, Trung Úy Ðinh văn Phùng, Trung úy Nguyễn Phi Hùng, Trung Úy Cao Ngọc Tú, Trung úy Đoàn Thanh Bình, Trung úy Trần Hữu Rật, tôi cũng được nói chuyện qua điện thoại với Thiếu Tá Vòng Phát Sáng Tiểu đoàn Phó, Đại úy Vũ Huy Thiện, Trung Úy Ngô Thanh Lệ, Thiếu uý Hoa tuy nhiên cho đến giờ phút nầy tôi cũng chưa có dịp để ghé thăm quý vị nầy.
Ước mong có một ngày nào đó, chúng ta sẽ lại gặp lại nhau trên mảnh đất Việt Nam quê hương yêu dấu của chúng ta, để nhớ lại những kỷ niệm của thời xa xưa khi quê hương Việt Nam thân yêu của chúng ta thật sự hoàn toàn tự do.

John Nguyen - Nguyễn Hữu Nhân - California






















Nguyenphanan
#59 Posted : Sunday, January 9, 2011 5:43:19 AM(UTC)
Nguyenphanan

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 536
Points: 0

Một tấm gương
Tác giả: Minh Tạo

Sáng nào cũng thấy thằng nhỏ cầm cái lon đứng chầu chực trước quán ăn. Tôi để mắt theo dõi thì hễ thấy thực khách vừa kêu tính tiền thì thằng bé chạy vào nhìn vào những cái tô, nếu còn thức ăn dư mứa thì nó vội vã trút vào cái lon rồi chạy ra ngoài đứng ngóng tiếp.
Khi cái lon gần đầy thì nó biến mất, chập sau thấy nó lại có mặt thập thò trước quán tiếp tục. Bàn tôi ngồi thì đứa bé không bao giờ quan tâm tới, vì mỗi sáng tôi chỉ đủ tiền uống 1 ly xây chừng vì tôi cũng nghèo cải tạo mới về sáng nhịn đói ngồi uống cà phê đen như một cái thú hay một cái tật không bỏ được.
Cứ thế, mà hơn một năm tôi mới quen được và tìm hiểu chút ít về hoàn cảnh gia đình của đứa bé. Tôi cố tình làm quen với thằng bé nhờ hôm ấy trời mưa, thằng bé đứng nép vào trong quán. Thằng bé đứng nép vào ngày càng sâu hơn trong quán vì mưa ngày càng lớn chỉ cách tôi chừng độ nửa thước. Tôi vói tay kéo nó ngồi xuống bàn và hỏi nó có thích uống cà phê không ?
Thằng bé lắc đầu lia lịa và nói không uống. Tôi hỏi nó làm gì ngày nào cũng ra đây? và hiện sống với ai? Thằng bé như đoán được rằng: tôi chỉ là người khách ghiền cà phê nặng nên hàng ngày đóng đô ở đây nên nó cũng trả lời nhanh nhẹn rằng:
- “Con sống với ba má con, Ba con đi làm xa còn Má con đi phụ buôn bán ở ngoài chợ…”
Tôi hỏi tiếp:
- “Còn con có đi học không ?”
Thằng bé nói:
- “Con không có đi học… con ở nhà phụ với má nuôi heo…”.
Đó là lý do để nói lên sự hiện diện hằng ngày của nó nơi quán ăn nầy. Nghe thằng bé nói như thế, tôi nói với chị chủ quán ăn giúp cho nó lấy những cơm và thức ăn thừa, và cũng từ đó nó không còn đứng lúp ló ngoài cửa quán nửa. Và nhờ tánh tình hiền hậu thật thà chị chủ quán cho nó vô phụ dọn bàn đề lấy thức ăn dư mang về và cho nó ăn uống để phụ việc. Từ đó tôi và nó gần gũi nhau hơn và thân với nhau lắm.
Có lần thằng bé hỏi tôi:
- “Chú làm nghề gì vậy hả chú?”
Tôi chỉ trả lời ngắn gọn là ” Chú đang làm thinh”.
Đúng vậy mới cải tạo về mà, vợ con thì đã theo bên ngoại vượt biển hết rồi, nghe đâu đã định cư bên Úc, nay về ở với mẹ già ngày 1 buổi cà phê hai bửa cơm độn qua ngày. Thời gian ngột ngạt chậm chạp trôi qua, may mắn vợ chồng tôi đã bắt liên lạc được với nhau. Thế là những bữa cơm không còn ăn độn khoai củ hay bo bo nữa nhưng vẫn quen cử sáng cà phê quán gần nhà. Không biết chị chủ quán có bỏ bùa mê hay tôi ghiền chổ ngồi mà không bữa nào vắng tôi. Một hôm, tôi đề nghị theo thằng bé về nhà nó chơi cho biết vì nó nói ở cũng gần không xa lắm. Thấy nó do dự và tỏ vẻ sợ sệt, tôi biết ngay nó đang dấu diếm điều gì. Thương nó lắm, tôi dúi tiền cho nó hoài. Mấy hôm sau tôi lẳng lặng đi theo nó khi nó mang cơm và thức ăn dư về nhà buổi trưa. Khi thấy nó lủi vô một cái chòi nhỏ xíu thì tôi thật sự không ngờ. Đứng dưới gốc cây Gòn cách nhà nó không xa tôi thầm nghĩ, nhà chút xíu như vậy gia đình 3 người ở thì chổ đâu mà nuôi heo. Tôi đang đứng suy nghĩ đốt cũng hết mấy điếu thuốc thì thằng nhỏ lục tục xách lon xách nồi đi ra quán để thu dọn thức ăn buổi chiều. Đợi thằng bé đi khuất tôi lò mò đến nơi mà hồi nãy nó vào. Đến đó mới nhìn rõ thì thật ra đâu có phải là nhà, một lõm trống được che dựng lên bằng những phế liệu đủ loại muốn chui vào phải khom mọp xuống. Nghe thấy có tiếng chân dừng lại, có tiếng đàn bà vọng ra hỏi. Tôi trả lời là đi kiếm thằng Tuất, thì nghe giọng đàn ông cho biết nó vừa đi khỏi rồi, và hỏi tôi là ai, mời tôi vào…. Vừa khom người chui vào tôi mới thật sự không ngờ những gì hiển hiện trước mắt tôi.
Người đàn ông hốc hác cụt hai giò tuổi cũng trạc tôi nhưng trông yếu đuối, lam lũ và khắc khổ lắm. Một người đàn bà bệnh hoạn xác xơ cả hai đang ăn những thức ăn thừa mà thằng bé vừa mới đem về. Vừa bàng hoàng, vừa cảm động vừa xót xa, nước mắt tôi bất chợt tuôn rơi mặc dù tôi cố nén…
Từ đó, tôi hiểu rõ về người phế binh sức tàn lực kiệt sống bên người vợ thủy chung tảo tần nuôi chồng bao năm nay giờ mang bịnh ác tính nặng nề thật đau xót. Tôi móc hết tiền trong túi biếu tặng và cáo lui. Về đến nhà tôi vẫn mãi ám ảnh hoàn cảnh bi thương của gia đình thằng bé mà tôi bỏ cơm nguyên cả ngày luôn. Sáng hôm sau ra uống cà phê, thằng bé gặp tôi nó lấm lét không dám nhìn tôi vì nó đã biết trưa hôm qua tôi có tới nhà nó. Nó thì tỏ vẻ sợ tôi, nhưng tôi thực sự vừa thương vừa nể phục nó nhiều lắm. Tôi kêu nó lại và nói nhỏ với nó tại sao không cho tôi biết. Tội nghiệp nó cúi đầu im lặng làm lòng tôi thêm nỗi xót xa. Có khách kêu trả tiền, như có cơ hội né tránh tôi nó chạy đi dọn bàn và tiếp tục công việc thu dọn thức ăn. Hèn gì sau nầy nó để thức ăn dư phân loại đàng hoàng lắm. Tội nghiệp hoàn cảnh của thằng bé mới mấy tuổi đầu mà vất vả nuôi cha mẹ theo khả năng chỉ tới đó. Cha là một phế binh cũ trước 75 cụt hai chân, mẹ thì bị bệnh gan nặng bụng phình trướng to khủng khiếp và cặp chân sưng vù lên đi đứng thật khó khăn, nước da thì vàng mét như nghệ. Thằng bé là lao động chánh trong gia đình, nó có hiếu lắm. Từ đó tôi thường cho tiền đứa bé mua bánh mì cơm gạo về nuôi cha mẹ.
Vợ tôi làm thủ tục bảo lãnh tôi sang Úc. Ngày tôi đi tôi đau xót phải để lại hai nỗi buồn đó là để mẹ và em gái lại quê nhà và không còn cơ hội giúp đỡ thằng bé nữa. Sang Úc định cư, tôi sống tại tiểu bang Victoria mấy năm đầu tôi hết sức cơ cực vì phải vật lộn với cuộc sống mới nơi đất mới và đối với tôi tất cả đều mới mẻ và xa lạ quá. Từ ngôn ngữ đến thời tiết đã làm tôi lao đao không ít. Thỉnh thoảng tôi gởi tiền về nuôi mẹ và em gái không quên dặn em gái tôi chuyển cho thằng bé chút ít gọi là chút tình phương xa.
Mấy năm sau tôi về thăm gia đình, tôi có ghé tìm thằng bé thì nó không còn lấy thức ăn trong quán đó nữa. Tôi mới kể rõ hoàn cảnh thằng bé cho chị chủ quán biết. Chị chủ quán đôi mắt đỏ hoe trách tôi sao không cho chị biết sớm để chị tìm cách giúp gia đình nó. Tôi chỉ bào chữa rằng tại thằng bé muốn giấu không cho ai biết! Tôi ghé vội qua nhà thằng bé thì mới hay mẹ nó đã qua đời vì căn bệnh ung thư gan. Chỉ còn chèo queo một mình ba nó ở trần nằm một góc trông hết sức thương tâm. Hỏi thăm thì mới biết nó đã xin được việc làm đi phụ hồ kiếm tiền về nuôi cha. Chúa nhật tôi tới tìm thằng bé, chỉ mới có mấy năm mà nó đã cao lớn thành thanh niên rất đẹp trai duy chỉ đen đúa vì phơi nắng để kiếm đồng tiền. Tôi dẫn nó trở ra quán cà phê cũ, thấy nó hơi ái ngại, tôi trấn an là bà chủ quán tốt lắm tại không biết được hoàn cảnh gia đình nó. Ra đến quán ăn chị chủ quán năn nỉ nó về làm với chị, dọn dẹp và bưng thức ăn cho khách nhẹ nhàng hơn đi phụ hồ và chị sẽ trả lương như đang lãnh bên phụ hồ, tối về thức ăn thường bán không hết chị cho đem về nhà dùng khỏi phải mua hay đi chợ. Lần đầu tiên tôi thấy nó khóc, chị chủ quán cũng khóc theo làm tôi phải đứng dậy bỏ ra ngoài để khỏi phải rơi nước mắt vì chịu không nỗi. Thằng Tuất vừa khóc vừa nói: “Sao ai cũng tốt với gia đình con hết đó, nhưng vì con đang làm phụ hồ cho anh Năm, anh ấy cũng tốt lắm giúp đỡ gia dình con nhiều lắm, sáng nào cũng mua cho ba con gói xôi hay bánh mì trước khi tụi con đi làm. Con cũng mang ơn ảnh nhiều nên con không thể nghỉ được, con xin lổi”. Không biết thằng Tuất nó nói thật hay nó ái ngại khi quay về chỗ mà ngày nào cũng cầm cái lon chầu chực trút đồ ăn dư về nuôi cha mẹ. Phải thông cảm nó, phải hiểu cho nó, phải cho nó có cái hiện tại và tương lai tốt hơn, đẹp hơn ngày trước. Chị chủ quán vừa gạt nước mắt vừa nói “Bất cứ lúc nào con cần đến cô thì con đừng ngại, cho cô biết nhé “…
Đời nầy cũng còn có những hoàn cảnh bi đát ít ai biết đến, và cũng có những đứa con xứng đáng như thằng Tuất. Ngày về lại Úc, tôi đến biếu hai cha con nó hai triệu đồng, thấy nó và ba nó mừng lắm tôi cũng vui lây. Không biết phải giúp gia đình nó như thế nào, tôi chụp hình ba nó, photo giấy tờ ba nó đem về Úc gởi cho Hội cứu trợ thương phế binh bị quên lãng trụ sở ở Sydney. Mấy tháng sau nhận được thư ba thằng Tuất viết qua, ông quá vui mừng khi được Hội bên Úc giúp đở gởi tiền về, ông cho biết suốt bao nhiêu năm qua lần đầu tiên ông thấy được niềm hạnh phúc khi cuộc đời phế binh của ông còn có người nhớ đến. Không biết ông ấy vui bao nhiêu mà chính tôi cũng hết sức vui mừng khi thực hiện một việc làm đem niềm vui đến cho những người phế binh sống hết sức đói nghèo bên quê mẹ. Tôi xin cảm ơn cả hai: người chiến sĩ vô danh sống trong hẩm hiu và Hội cứu trợ thương phế binh đã thể hiện tình người trong công việc hết sức cao cả này.

Minh Tạo
Nguyenphanan
#60 Posted : Monday, January 10, 2011 5:50:28 AM(UTC)
Nguyenphanan

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 536
Points: 0

ĐÔI ĐŨA LỆCH.
Nguyễn Thị Thanh Dương

Tôi đã thức giấc, nhưng sáng thứ bảy chẳng đi đâu mà vội, anh Bông chồng tôi vẫn đang nằm ngủ ngon lành bên cạnh. Tôi ít khi nhìn thẳng vào mặt người đang ngủ dù đó là chồng mình, người ta nói rằng nhìn mặt người đang ngủ chẳng khác nào đọc trộm thư hay nhìn trộm vào khỏang đời rất riêng tư của họ, nhưng tôi vẫn nhìn thấy anh đang ngoẹo đầu ngủ và mái tóc dầy thì bù xù lên như ổ qụa vì trở mình nhiều trên gối, mái tóc mà từ ngày mới lấy anh tôi đã thích được lồng những ngón tay tôi vào trong đó, nồng ấm và trìu mến yêu thương.
Tôi rón rén cố gắng bò qua người anh và bước xuống giường, vì muốn để anh ngủ thêm được chút nào hay chút ấy. Với một thân mình “bề thế” như tôi mà xuống giường một cách êm ái, không làm anh thức giấc là khéo léo lắm.
Bao giờ ngủ tôi cũng nằm trong theo thói quen từ hồi nào tới giờ, xưa còn bé, là chị cả, nhưng ngủ chung với các em tôi toàn lấy uy quyền làm chị ra để.. hiếp đáp các em đòi nằm giữa hay nằm trong cùng vì sợ ma. Lớn lên tôi lấy chồng thì điều ấy không khó khăn gì, chẳng anh chồng nào đi tranh giành chỗ nằm trên giường với vợ cả, nhất là cô vợ luôn làm nũng vì sợ ma như tôi.
Tôi vào phòng tắm đánh răng rửa mặt xong ra bếp lo sửa soạn cà phê và món ăn sáng cho chồng. Anh Bông khó tính lắm, không đúng ý anh thì anh giận anh buồn, trái ngược hẳn với anh chồng Tư Chuột ngày trước của tôi, người luôn sợ tôi giận tôi buồn.
Anh Tư Chuột lớn hơn tôi 20 tuổi, tưởng rằng tha hồ được làm nũng, được chiều chuộng thế mà tôi vất vả lắm vì phải hầu hạ anh quanh năm, người đâu mà động tí gío máy là ho là cảm, lúc nào cũng chùm khăn chùm áo và ăn kiêng đủ thứ như đàn bà mới đẻ thời bà nội, bà ngoại tôi ngày xưa.
Khi anh 60 tôi mới 40, trẻ trung và xông xáo tôi thích đi chơi xa, đi dạo phố thì anh Tư Chuột chỉ thích nằm nhà nghỉ cho khỏe. Tôi thích xem những phim tình cảm lãng mạn thì anh coi phim tài liệu chính trị hay di tích văn hóa của Việt Nam và thế giới, tôi thích nghe nhạc tình thì anh nghe nhạc cổ điển và hoà tấu cho…dễ ngủ.
Buồn lắm, vì hai vợ chồng như hai con đường thẳng song song. Nhưng cũng may có một điều duy nhất tôi và anh “gặp nhau” là anh và tôi cùng làm ra tiền. Dòng dõi nhà anh là làm kinh doanh, nên ít nhiều cũng có dòng máu kinh doanh trong cái thân thể gầy còm yếu đuối ấy. Vào cái thời hoàng kim của thị trường chứng khóan anh chơi stock, thuở đó ai mua stock loại gì cũng thắng dễ dàng, gà mờ như tôi chơi thử và sau một đêm ngủ dậy thấy tài khoản mình lên hàng chục ngàn. Có nhiều tiền anh lấy ra kinh doanh địa ốc, mua shopping center và apartment. Anh vừa rút hầu hết tiền từ chứng khóan ra thì thị trường chứng khoán bắt đầu suy yếu dần
Không gì bằng trời cho, khi anh Tư Chuột thấy sức khỏe yếu thì bán bớt khu apartment chỉ giữ lại cái shopping center to lớn để dễ bề quản lý
Ai ngờ anh vừa bán xong apartment được cao gía thì địa ốc bắt đầu khủng hoảng, gía nhà cửa rớt xuống rẻ như bèo dạt, như lục bình trôi sông, làm nhiều người khốn đốn lao đao.
Rồi anh Tư Chuột bị stroke năm anh ngoài 70 tuổi, nằm liệt giường 2 năm trời cho tôi hầu hạ anh mới chịu qua đời, nhưng cũng may đã để cho tôi một gia tài không nhỏ.
Đứa con gái duy nhất của chúng tôi đã lấy chồng khá gỉa nên tôi rảnh tay cả về tinh thần lẫn vật chất.
Tôi vừa để tang anh vừa thảnh thơi hưởng cuộc đời độc thân. Thật là mệt nhoài khi mấy chục năm qua ở với anh chồng gìa nay ốm mai đau, ho hen kèn cựa, tôi luôn bận rộn như bà mẹ có con thơ.
Nhưng sau 3 năm góa phụ tôi bỗng thấy mình còn khao khát tình yêu, gần 60 tuổi không còn trẻ nữa nhưng nhất định là tôi chưa gìa sau những năm dài trống vắng. Bạn bè giới thiệu cho tôi vài đám, ông nào trẻ lắm tuổi đời cũng từ 70 trở lên cho đúng ý tôi, nhưng tôi chưa chịu đám nào cả.
Một chị bạn thân của tôi còn cất công tìm đâu ra một ông cụ 80 tuổi và dắt đến hớn hở giới thiệu với tôi:
- Biết bạn lãng mạn thích chồng gìa để suốt đời mãi là người tình trẻ tuổi bé bỏng, để nương tựa tâm hồn, thì đây có ngay. Ngày xưa “anh” là một giáo sư đại học nổi tiếng ở Sài Gòn, đào tạo ra bao người tài giỏi cho đất nước.
Anh giáo sư ôm một bó hoa tươi tặng tôi làm quen, anh run run lê từng bước một đến gần tôi trao hoa, đỡ xong bó hoa của anh, tôi phải đỡ cả anh, dắt tay anh ra tận ghế ngồi kẻo ngã, vì tôi nhận ra rằng chân anh run run vì bệnh tuổi gìa chứ không phải vì anh xúc động trong phút giây tao ngộ đầu tiên.
Gặp anh giáo sư thông thái một thời, bây giờ lú lẩn nói trước quên sau, mắt mờ, tai điếc nghễnh ngãng, lưng còng, tóc bạc phơ không loại thuốc nhuộm nào còn hiệu lực nổi. Tôi đã kéo chị bạn vào phòng nói riêng:
- Chị ơi, em mà lấy ông này thì đời em sẽ phải hầu hạ còn vất vả hơn khi sống với Tư Chuột nữa. Thôi, chị dìu dắt ông ấy về nhà cho an toàn giùm em và khuyên ông ấy bỏ ý định đi thêm bước nữa đi, cái bước gần nhất là mộ huyệt sắp đến rồi.
Rồi anh Bông xuất hiện, anh không xa lạ gì với tôi, vì anh là một chuyên viên về thị trường chứng khóan, cố vấn đầu tư cho tôi và anh Tư Chuột trước kia, anh đã giúp chúng tôi gặt hái nhiều kết qủa tốt đẹp, gia tài chúng tôi tăng lên nhanh chóng.
Anh hay tin muộn, đến thăm tôi để chia sẻ nỗi buồn anh Tư Chuột không còn nữa. Hiện nay anh Bông vẫn làm công việc cũ của anh là Mutual fund Manager dù không đắt hàng như ngày nào nhưng bề ngoài vẫn phong lưu để tạo tin cậy, để tương xứng khi giao tiếp với khách hàng là giới có tiền bạc trong tay.
Tôi không thiết tha gì đến chuyện kinh doanh tiền bạc nữa, nhất là thời buổi kinh tế bấp bênh này, thị trường chứng khóan bất ổn. Lợi tức từ một cái shopping center hầu như lúc nào cũng đông người thuê mướn, tôi xài không hết, tôi chỉ muốn an nhàn hưởng cuộc đời khi tuổi đã xế chiều.
Nhưng anh Bông vẫn kiên nhẫn thỉnh thoảng đến thăm tôi, ban đầu tôi tưởng là anh đang ế khách nên theo mời chào tôi làm khách hàng như xưa, nên tôi đã nói thẳng:
- Chú Bông, chị không muốn chơi stock nữa đâu, em nên đi tìm khách hàng khác đi.
Nhưng anh Bông nói:
- Em qúy mến chị và anh Tư Chuột như người nhà, nay anh Tư Chuột không còn nữa. Chị cho phép em thỉnh thoảng đến thăm chị như tình chị em.Thế thôi.
Cảm động qúa. Tôi cũng coi anh Bông như em vì anh ta kém tôi mười mấy tuổi, những đối tượng này không bao giờ nằm trong danh sách người yêu, người chồng lý tưởng của tôi, nên tôi vẫn vô tư giao thiệp cùng anh, đi với anh đến vài chỗ vui như tiệc tùng, khiêu vũ để lấp kín khỏang thời gian trống vắng và để bù đắp cho ngày xưa làm vợ Tư Chuột tôi chỉ quanh quẩn ở nhà hầu chồng ốm yếu chẳng mấy khi được sánh vai cùng chồng đi đâu.
Và chúng tôi đã thân nhau hồi nào không hay, cùng đi chơi dã ngoại ngắn ngày, dài ngày tùy theo nơi chốn gần hay xa. Mùa Thu đi Lake Tahoe, tham dự Food & Wine Festival để uống rượu nho chếnh choáng với âm nhạc rộn ràng một góc trời, mùa Xuân đi ngắm Niagara Falls ở Canada để từng giọt nước nhỏ li ti từ dòng thác đổ ào ạt bắn lên mặt, lên người một cảm giác mát lạnh mà ấm cúng.
Và một mùa hè tôi đã bâng khuâng xao xuyến khi anh Bông tỏ tình và cầu hôn tôi trong một bối cảnh vô cùng thơ mộng.
Hôm ấy là một ngày đẹp trời tháng Sáu, chúng tôi cùng tham dự một festival hoa Oải Hương tại thành phố Blanco, nằm bên bờ sông tuyệt đẹp Blanco của tiểu bang Texas .
Sau khi đi thăm vài farm trồng hoa Oải Hương, mỗi Farm cách nhau khoảng 20 phút lái xe, thì chúng tôi dừng lại lâu hơn tại một farm có vườn hoa Oải Hương rộng lớn nhất, đẹp nhất, giữa cánh đồng hoa Oải Hương bát ngát màu tím chạy đến tận chân trời, giữa bầu trời trong xanh êm ái của mùa hè mới bắt đầu bằng những cơn nắng nhẹ màu vàng trong như mật ong, mùi hương hoa Oải Hương thơm kỳ diệu toả đầy trong không gian và len cả vào hồn chúng tôi.
Hai chúng tôi đứng chìm giữa hai bên luống hoa Oải Hương, anh Bông cầm tay tôi, nhìn vào mắt tôi, thì thầm dù chẳng có ai gần đây để nghe cả:
- Tôi yêu chị mất rồi. Anh yêu em thật rồi…
- Kìa Bông, sao em lại nói thế, chúng ta chỉ là chị em, là bạn thôi mà?
- Không chị em, bạn bè gì hết, vì anh yêu em, anh muốn cưới em. Hãy đồng ý nhé?
Anh hái ngay mấy nhánh hoa Oải Hương và dịu dàng tình tứ trao tôi:
- Em xem đây như lời cầu hôn với em, bó hoa tình này và trái tim này…
Tôi run rẩy vì cảm động và không thể nào rút bàn tay tôi ra khỏi tay anh, dù anh nắm nhẹ nhàng chứ có kềm kẹp vũ lực gì đâu.
Anh đã hôn tôi, nụ hôn thơm cả mùi hoa Oải Hương mà tôi yêu thích. Tôi đã ngất ngây vì anh và vì hoa Oải Hương xung quanh tôi.
Sau đó chúng tôi lái xe trở về Festival để vui chơi nốt một buổi chiều, đến những quầy hàng ngắm những sản phẩm nghệ thuật, mua đồ kỷ niệm có liên quan đến hoa Oải Hương, và vào food court ăn uống trước khi tạm biệt ra về.
Đó là một ngày đẹp lộng lẫy, một ngày lãng mạn tuyệt vời đáng nhớ nhất trong cuộc đời tôi.
Nhưng tôi cũng đã dằn vặt suy nghĩ mất nhiều ngày nhiều đêm trước khi đồng ý lấy anh Bông. Cả một thời tuổi trẻ tôi đã đạt được ước nguyện mộng mơ lãng mạn của tôi là làm người tình bé bỏng của người chồng lớn tuổi, người chồng gìa rồi, thì tiếc gì quãng đời còn lại, thử thay đổi không khí lấy trồng trẻ tuổi xem sao, cho bõ công những năm tháng khi anh chồng cũ Tư Chuột về gìa đau ốm liên miên, tôi phải chăm sóc cận kề, không có thời gian và không có bạn đồng hành để cùng vui chơi với đời. Với lại tôi cũng thương cảm cho hoàn cảnh anh Bông, thời kinh tế huy hoàng thì vợ chồng anh hạnh phúc, thời kinh tế điêu tàn, lợi tức anh kém hẳn đi thì cô vợ Mỹ xinh đẹp bỏ anh, may mà hai người không có con chung rắc rối.
Bỗng tiếng anh Bông làm tôi giật mình:
- Mấy giờ rồi em?
Anh Bông đã thức giấc nhưng vẫn nằm trên giường và mỉm cười âu yếm với tôi. Tôi âu yếm đáp lại:
- Mới có 10 giờ sáng thôi, anh ngủ đã đời chưa? muốn ăn điểm tâm gì để em làm.
Tôi đã xưng hô “anh em” với anh quen rồi và càng ngày càng ngọt ngào thắm thiết, không còn cảm thấy ngượng ngùng, sượng sùng như những ngày đầu sống chung nữa.
Không biết anh nghĩ từ lúc nào mà đã có sẵn chương trình:
- Thôi, mình đi nhà hàng, em đừng vì anh mà bận rộn cho mất công. Chiều nay em muốn đi phố hay đi shopping gì không? Còn buổi tối nhất định chúng mình sẽ đi night club nhé, anh thèm uống rượu và nhảy nhót trong tiếng nhạc cùng em cho đến khi đêm tàn…
- Anh ơi, em đã nói với anh rồi, lúc này em đang diet mà, cứ đi ăn ngoài liên tục thế thì em mập chết thôi.
Trước khi lấy anh, tôi có dáng người khá thon đẹp, vậy mà chỉ sau 2 năm chung sống, vẫy vùng trong hạnh phúc mới mẻ, tôi đi ăn nhà hàng, đi dự gặp mặt, tiệc tùng với anh liên miên, vì anh là người làm business giao thiệp rộng. Tôi đã tăng cân vùn vụt, bề ngang phát triển tự do, hàng loạt quần áo phải bỏ đi , tôi đã “ăn gian” bằng cách mặc quần, áo, váy, với những màu sắc nhẹ nhàng, hình ảnh kẻ dọc hay bông hoa nhỏ xíu, vải siêu mềm, siêu mỏng thướt tha. Ngoài ra tôi tập thể dục, đi bộ mỗi ngày 2-3 miles mà cũng không cứu vãn được mấy. Có lẽ ngoài nguyên nhân do ăn uống qúa độ, còn do tuổi gìa, khi về gìa phụ nữ dễ mập lắm. Tôi thích giảm cân tự nhiên chứ không uống thuốc diet, có hại cho sức khỏe và cũng chẳng bền lâu.
- Anh cũng đã nói với em rồi, em mập bao nhiêu anh cũng vẫn yêu, vẫn chiều mà.
- Nhưng anh thì vẫn vóc dáng cân đối, vẫn đẹp trai thế kia, trẻ trung thế kia, mình đi với nhau những đứa nhiều chuyện thì thầm sau lưng làm em bực mình lắm.
Tôi đã nghe có đứa xấu miệng ganh tị với tôi rồi, đó là những bà nạ dòng độc thân vì góa chồng hay đỏng đảnh li dị để hòng mong kiếm ông khác “huy hoàng” hơn chồng cũ mà chưa có ai sờ tới. Họ nói lén mà vẫn đến tai tôi:
- Mụ vợ góa Tư Chuột lấy anh Bông trông ngứa cả mắt, gìa hơn, mập hơn, thế mà cứ ăn diện như tuổi đôi mươi và nhởn nhơ đi phố với nhau, đi tiệc tùng, đi khiêu vũ với nhau, thật trơ tráo, thật vô duyên như đôi đũa lệch. Khiếp quá!
- Ối giời! anh Bông đang sa cơ thất thế, cô vợ Mỹ trẻ đẹp bỏ rơi, tiền bạc trắng tay, nghề của anh thì như đi câu không có khách hàng thì miễn có hoa hồng, nên lấy bà Tư Chuột cho ấm thân chứ gì.
Tôi tức lắm và cay đắng lắm, nhưng chẳng làm gì họ được. Những mụ này như đọc được cả tâm tư tôi, có sai chút nào đâu. Một gìa một trẻ sống bên nhau như đôi đũa lệch, nhưng thà chồng già vợ trẻ như anh Tư Chuột và tôi trước kia còn đỡ hơn chồng trẻ vợ gìa như tôi hiện nay với anh Bông.
Đàn ông khỏe mạnh sao mà trẻ lâu thế, anh Bông lại thuộc diện đàn ông thích ăn diện, quần áo, giày, mũ, cái kính anh đeo cũng đúng thời trang, ngay cả những món phụ tùng như lotion, dầu thơm, nước hoa anh cũng kén chọn mùi hương rất trẻ, đa tình và gợi cảm. Anh như một người mẫu đẹp trai ở lứa tuổi trung niên phơi phới.
Còn tôi, cũng ăn diện, cũng thời trang không kém, mà lại toàn là thời trang của giới trẻ, nhưng thân hình tôi thì cứ béo tròn ra, mỗi 3 tuần phải ra tiệm nhuộm tóc tôi lại làm mát sa mặt, dùng kem loại thượng hạng đắt tiền nhất để chống nắng, chống lão hóa những vết nhăn mà vẫn xa anh một khỏang cách vời vợi, đi bên anh ai cũng nhận ra điều ấy.
Anh Bông giục tôi:
- Em đang nghĩ gì đấy, có đồng ý với chương trình hôm nay của anh không?.
Tôi than thở và nũng nịu:
- Thật tình em không muốn đi, vì diet mà còn vì sáng nay thức dậy tự nhiên em thấy đau nhức mình mẩy qúa. Hai năm qua chúng mình vui chơi thế đủ rồi, anh không thích ở nhà bóp lưng, bóp vai và xoa chân tay cho em sao? Anh từng bảo rằng anh không muốn rời em nửa bước kia mà.
Nét mặt anh Bông kém vui:
- Thì đi nhảy cũng là gần kề bên em thôi, tuần trước em từ chối không đi nhảy đầm với anh vì em nhức đầu chóng mặt làm anh phải ở nhà với em rồi. Tuần này em lại đau nhức mình mẩy, nhiều bà sồn sồn vẫn hăng máu yêu đời lắm, còn em thì nay ốm mai đau.
Tôi tưởng như vừa bị anh Bông lôi xồng xôc về qúa khứ, thuở tôi còn là vợ Tư Chuột, tôi cũng đã nói một câu đại ý như thế khi đang cạo gío cho anh: “ Người ta 70 tuổi còn lấy vợ, anh 60 mà đã ốm yếu ho hen thế này”
Bất giác tôi ngẩng lên nhìn tấm hình anh Tư Chuột trên bàn thờ, hình anh đang mỉm cười, nụ cười nhếch mép, quyến rũ và lãng mạn như tài tử Clark Gable đóng vai Rhett Butler trong phim “Cuốn Theo Chiều Gío”. Bây giờ nụ cười nhếch mép của Tư Chuột như đang mỉa mai tôi “ Thấy chưa, cho đáng đời em nhé, ngày xưa em đành hanh, cay đắng với anh vì ông chồng già hay đau ốm bao nhiêu thì ngày nay em lãnh đủ bấy nhiêu…”
Hay ông trời đang qủa báo tôi đấy?
Tôi cố gắng năn nỉ và mời mọc thiết tha:
- Mình ăn nhà hàng dầu mỡ cá thịt ê hề qúa phát ngán, anh Nam kỳ hãy tạm quên món canh chua cá bông lau và cá kho tộ đi, nhà hàng nào cũng quảng cáo chỉ nghe mà đã nhàm chán rồi. Anh hãy ở nhà em nấu món chân quê miền Bắc cho anh ăn: cà muối xổi, thái nhỏ bóp với muối, đường và tỏi, canh riêu cua và đậu hũ chiên ngâm nước mắm rắc hành hoa…tuy đơn giản mà công phu lắm, em phải xé cua biển và giã nhuyễn để nấu canh riêu cua…nhưng vì anh em sẽ làm với tất cả tâm tình em.
- Có mấy món đặc sản này em làm đi làm lại hoài anh cũng chán lắm rồi, không nuốt nổi mấy món chân quê Bắc kỳ của nhà em đâu.
- Ủa, em mới làm liên tiếp ba bốn lần chứ mấy? thời anh Tư Chuột trong vòng một tháng em làm cả chục lần mà anh ấy chẳng hề kêu than gì.
- Anh Tư Chuột và anh Bông khác nhau em ơi…
Tôi ngẫm nghĩ, thấy anh Bông nói đúng, anh Tư Chuột gìa hơn tôi, tuy tôi phải hầu hạ anh vì anh hay đau ốm, nhưng thế là anh chiều chuộng tôi đấy, cơm khô canh mặn anh đều ăn, ở nhà quanh quẩn với vợ cả ngày…Thế mà hồi đó tôi không biết hưởng, cứ oán trách anh Tư Chuột đã làm tẻ nhạt tuổi thanh xuân của cô vợ trẻ.
Bây giờ tôi có anh chồng trẻ điệu nghệ, lịch lãm, thích những cuộc vui, những nơi chốn đông người thì tuổi gìa đã làm tôi chùn bước. Tôi đã chẳng từng mơ những điều ấy hay sao? Đã là đôi đũa lệch thì tôi phải ráng chiều chuộng cho bớt so le chút nào hay chút ấy, nên tôi cố lấy giọng hăng hái:
- Thôi được, em sẽ đi theo chương trình của anh vẽ ra, đi cả ngày luôn, nhưng tối nay anh đừng uống nhiều rượu nhé, về nhà còn đấm bóp cho em, vì em biết chắc là sẽ mệt mỏi lắm đấy.
Anh Bông hoan hỉ ra mặt, thấy anh vui tôi cũng vui theo. Coi như cái số tôi vất vả, lấy chồng già hay trẻ đều có điều không vừa ý, phải chiều theo họ. Nhưng kiếp này coi như hết cơ hội rồi, kiếp sau tôi sẽ không tuyển chọn chồng theo tiêu chuẩn tuổi tác nào cả, mặc cho nhân duyên đưa đẩy.
Trong khi anh Bông vào phòng tắm thì tôi vào phòng ngủ kiếm lọ dầu xanh trong hộc tủ đầu giường để thoa lên những khớp tay, khớp chân và bóp nhẹ cho ấm da thịt, cho đỡ nhức mỏi. Mùi dầu xanh quen thuộc này đã theo tôi từ thời cạo gío anh Tư Chuột cho đến giờ thì dùng cho chính tôi.
Tôi chợt nhìn thấy hình tôi trong tấm gương của bàn trang điểm, thấy rõ dung nhan chưa phấn son, một mụ đàn bà đang tàn tạ hương sắc.
Anh Bông trong phòng tắm, mở nước chảy rào rào, anh vừa tắm vừa hào hứng hát một bản nhạc sống động, tình tứ và yêu đời như giục gĩa tâm hồn tôi đồng điệu.
Thế là tôi chịu không nổi, bèn vùng lên, quẳng lọ dầu xanh vào thùng rác và ra tủ lục tìm bộ váy áo nào đẹp nhất, thời trang trẻ trung nhất để sẽ khoác lên người ngày hôm nay.

Nguyễn Thị Thanh Dương
Users browsing this topic
Guest (3)
4 Pages<1234>
Forum Jump  
You cannot post new topics in this forum.
You cannot reply to topics in this forum.
You cannot delete your posts in this forum.
You cannot edit your posts in this forum.
You cannot create polls in this forum.
You cannot vote in polls in this forum.