Welcome Guest! To enable all features please Login or Register.

Notification

Icon
Error

5 Pages<12345>
Dòng Nhạc Trịnh Công Sơn...
Tonka
#41 Posted : Friday, November 18, 2005 11:50:16 AM(UTC)
Tonka

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,643
Points: 1,524

Thanks: 95 times
Was thanked: 201 time(s) in 189 post(s)
Tím ơi à, cho tonka nghe cái bài gì mà "cuộc đời đó có bao lâu mà hững hờ" đi Smile
O/X nói cả bài hát có cái câu này là phê nhất, nghe thật là thấm. Nhanh nhanh nha, không có tk mượn cái mi-cờ-rô của anh Mary Kay lên đây đứng hát và nhất định không đi xuống đâu đó Wink
Từ Thụy
#42 Posted : Monday, November 21, 2005 8:14:31 PM(UTC)
Từ Thụy

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Editors
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 1,394
Points: 39
Woman

Thanks: 2 times
Was thanked: 3 time(s) in 3 post(s)
quote:
Gởi bởi tonka

Tím ơi à, cho tonka nghe cái bài gì mà "cuộc đời đó có bao lâu mà hững hờ" đi Smile
O/X nói cả bài hát có cái câu này là phê nhất, nghe thật là thấm. Nhanh nhanh nha, không có tk mượn cái mi-cờ-rô của anh Mary Kay lên đây đứng hát và nhất định không đi xuống đâu đó Wink



Tím ơi, Thụy cứu bồ nè floating. Vào đây mà trả công đi chứ Tongue. Chị tonka qua bên này nghe Mưa Hồng để thấy cuộc đời đó có bao lâu mà hững hờ chị há.

http://www.phunuviet.org...OPIC_ID=2769&whichpage=2
Tonka
#43 Posted : Tuesday, November 22, 2005 11:29:48 PM(UTC)
Tonka

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,643
Points: 1,524

Thanks: 95 times
Was thanked: 201 time(s) in 189 post(s)
quote:
Gởi bởi Từ Thụy
Tím ơi, Thụy cứu bồ nè floating.


Wink
Phượng Các
#44 Posted : Monday, April 17, 2006 6:33:34 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
Ca Sĩ Cẩm Vân đến Mỹ hát về TCS
Nhóm THE FRIENDS


Ca sĩ Cẩm Vân có dành cho ban tổ chức Nhóm The Friends một cuộc chia sẻ ngắn về nhạc Trịnh Công Sơn và cảm xúc dành riêng cho chương trình sắp tới: Phúc Âm Buồn Của Trịnh (7:00 p.m. Thứ Bảy, 1 tháng 4, 2006 tại Santa Ana High School Auditorium – 520 W. Walnut St. Santa Ana, CA 92701). Độc giả có thể mua vé ngay từ bây giờ tại Tú Quỳnh 714-531-4284, Tự Lực 714-531-5290, French Deli 714-590-2246, BP Travel 714-903-5425 hoặc ban tổ chức 714-467-5840 (Giá Vé là $30 đồng hạng và $100 VIP). Bên cạnh các ca sĩ, nhạc sĩ trẻ thuộc nhóm The Friends, ca sĩ Cẩm Vân sẽ tham dự như muốn chia sẻ những thương yêu nhạc Trịnh của cô với khán thính giả yêu mến Cẩm Vân và nhạc Trịnh Công Sơn. Saxophonists Hoài Phương đến từ Utah cùng Ian Võ (Nhóm The Friends) sẽ mang đến cho thính giả những cảm xúc sâu lắng có một không hai từ tiếng Saxo. Các bản nhạc đơn ca, tam ca, tứ ca và đồng ca của Nhóm The Friends, cộng với vở nhạc kịch đặc biệt gồm những bài hát quen thuộc: Diễm Xưa, Biển Nhớ, Nắng Thuỷ Tinh và Lặng Lẽ Nơi Này - sẽ mang đến khán phòng một hơi thở mới lạ trong sự thân quen… Và còn nhiều nữa...Sau đây là cuộc chia sẻ của nhóm và ca sĩ Cẩm Vân:

Nhóm The Friends: Là người trình bày sáng tác của nhiều nhạc sĩ, tại sao người ta vẫn cảm nhận rằng Cẩm Vân hát nhạc Trinh Công Sơn rất thật, rất tình cảm và …rất là Trịnh Công Sơn? Chị có đồng ý với lời nhận xét trên?
Cẩm Vân: Cẩm Vân rất cảm ơn vì những lời nhận xét từ phía khán giả. Riêng mình tôi, không dám nhận xét gì về cách hát và thể hiện của tôi với nhạc Trịnh. Tôi chỉ biết rằng từ thuở nhỏ, khi tôi nghe nhạc Trịnh, tôi đã nghêu ngao hát theo; tôi yêu nhạc Trịnh cũng có phần rất quan trọng bởi chính tôi đã được sanh và lớn lên tại Sài Gòn nên âm nhạc của anh đã thầm dẫm vào tôi như lời ru của mẹ!
Nhóm The Friends: Lần cuối (không kể ngày TCS đau bệnh) chị gặp Trịnh Công Sơn khi nào ? Trịnh Công Sơn và Cẩm Vân nói về điều gì, chị có thể chia sẻ?!
Cẩm Vân: Lần cuối gặp được anh cũng chính là lần sinh nhật cuối cùng của anh (ngày 28/2/2001, trước 1 tháng anh mất). Hàng năm, cứ đến ngày đó là những anh em bạn bè thân quen, không hẹn trước cũng đến với anh và lần này thì trầm lặng hơn bởi anh không còn đi đứng vui vẻ như những lần trước. Anh ngồi trên ghế và vẫn tươi cười khi bạn bè đến đông đủ và khi gặp tôi, anh nói: “Vân ơi, hát cho anh nghe bài Sóng Về Đâu…” Tôi không ngần ngại và đã hát lại ca khúc này trong căn phòng nhỏ mà anh chỉ dành để tiếp những người thân của mình.
Nhóm The Friends: Được biết ngày 1 tháng Tư, Cẩm Vân là người đã gọi điện thoại cho nghệ sĩ Trần Quốc Bảo để đau xót báo tin rằng TCS đã ra đi. Điều này chứng tỏ Cẩm Vân là người rất tình cảm và quan tâm đến nhiều người. Chị có thể cho biết cảm xúc của chị khi nghe tin TCS mất?
Cẩm Vân: Đúng vậy! Tôi là người gọi phone từ Việt Nam qua báo tin anh Sơn mất cho anh Trần Quốc Bảo biết. Vì có nhiều điều mà tôi cần phải báo cho anh Trần Quốc Bảo biết: Trước tiên, anh Bảo là người yêu nhạc Trịnh và anh cũng là người quý mến nhạc sĩ TCS. Lý do nữa mà tôi cần phải báo cho anh vì tôi biết chỉ có anh có thể làm được là thông báo với các chú bác, anh chị em văn nghệ sĩ tại hải ngoại về sự ra đi của anh TCS. Còn riêng cảm xúc của tôi thì không thể nói được, mặc dù biết trước anh sẽ không qua được cơn bệnh này. Khi hay tin tôi đã không oà khóc! Nhưng cảm giác thật vô cùng và lời hát “sóng bạc đầu và núi chìm sâu, ta về đâu đó …về chốn nào mây phủ chime bao. Cạn suối nguồn, bốn bề nương dâu …ta tìm em nơi đâu?...” luôn quanh quẩn tôi trong suốt thời gian đó!
Nhóm The Friends: Cẩm Vân có thấy sự khác biệt về cách cảm nhận của khán thính giả yêu nhạc Trịnh TRƯỚC và SAU khi Trịnh Công Sơn mất không? 5 năm qua, trong rất nhiều lần trình diễn nhạc Trịnh, phản ứng của khán thính giả mọi nơi ra sao, thưa chị?
Cẩm Vân: Rõ ràng khi nhạc sĩ mất đi thì tôi thấy hết được sự yêu mến của khán giả dành cho anh; từ những người buôn ghánh bán bưng, người đạp xích lô cho đến những người trí thức, sinh viên học sinh và những người có địa vị trong xã hội – họ đã bày tỏ sự thương yêu anh trong những ngày tang lễ quàng tại tư gia anh. Chúng tôi, sau giờ đi hát về là ở với anh đến gần sáng mới về nhà trong suốt thời gian lễ tang và thấy khán giả đến với anh ngày một đông hơn. Cũng như thế, sự đón nhận âm nhạc của Trịnh Công Sơn thật rầm rộ và cho đến nay, những đêm nhạc Trịnh được tổ chức thì vé hết trước và khó có thể mua hoặc đặt được chỗ để xem. Nhất là vào ngày giỗ của anh, hầu hết những nơi tổ chức ca nhạc, các phòng trà và sân khấu đều làm chương trình nhạc Trịnh Công Sơn và khán giả lúc nào cũng phải đặt trước mới có chỗ.
Nhóm The Friends: Hai CD’s Trịnh Công Sơn của chị rất thành công về mặt nghệ thuật. Mọi người Việt trên thế giới đều nhắc về: Huế - Sài Gòn – Hà Nội và Xin Cho Tôi! Điều gì khiến chị cho ra 2 CD’s này ? Và điều gì đã đem sự thành công đến 2 CD’s này, thưa chị?
Cẩm Vân: Album Huế - Sài Gòn – Hà Nội là do chị Khánh Ly gợi ý cho tôi. Tôi còn nhớ vào mùng 1 Tết Nguyên Đán, tôi nhận được điện thoại của chị gọi từ Hoa Kỳ sang chúc Tết chúng tôi và chị cũng gợi ý; nói với tôi rằng: “Em chọn 5 bài nào của anh Sơn mà em cảm thấy hát hay nhất thì thâu vào, gửi qua cho chị và chị sẽ cùng để chung với em 1 CD.” Tôi rất vui và suy nghĩ ngay đến việc chọn bài hát và chính điều đó đã cho tôi có được album “Huế - Sài Gòn – Hà Nội”. Tôi vui mừng vì sự đón nhận của khán giả đã dành cho album này và sau đó, nhân kỷ niệm 3 năm ngày mất của TCS, hội âm nhạc có tổ chức đêm nhạc của anh rất quy mô, tôi chọn bài “Xin Cho Tôi” để hát. Tập dợt xong, đến giờ hát, tôi nhận được tin là bài hát này chưa được phép hát?! Nhưng sau đó 1 tuần thì đọc báo thấy bài hát này đã được phép lưu hành. Chính vì vậy mà tôi quyết định chọn “Xin Cho Tôi” làm chủ đề album nhạc Trịnh thứ 2 của tôi. Ngoài những tác phẩm của nhạc sĩ TCS, thành công lớn nhất của 2 album này phải nói đến là phần hoà âm quá xuất sắc! Tôi đã được hát và thả hồn mình vào cách hoà âm 2 CD’s này.
Nhóm The Friends: Và “Xin Cho Tôi” đã và đang là một trong nhiều bài Cẩm Vân hát thành công nhất. Chị có thể nói đôi điều về cảm nhận của chị riêng cho bài hát này? Tại sao Cẩm Vân quá xuất thần trong ca từ của bài hát ấy?
Cẩm Vân: Cảm ơn sự ca ngợi của khán giả về ca khúc “Xin Cho Tôi” mà tôi đã trình bày. Nhạc Trịnh với tôi khó hát vô cùng bơi khi hát tôi luôn mang một áp lực nặng nề. Tôi hát ca khúc này, khán giả chấp nhận thì đối với tôi đã quá đủ! Khi tôi hát nhạc Trịnh, tôi không có một tham vọng nào khác, chỉ là thích hát và chính vì vậy, bài “Xin Cho Tôi” là một trong những bài gai góc mà tôi thích nhất. Tôi đã hát ca khúc này với cách của mình và cố nói lên được sự khao khát tốt bụng của một con người gần như tuyệt vọng, không còn niềm tin – nhưng trong nỗi khát khao tuyệt vọng đó, vẫn hằn sâu một niềm tin mãnh liệt.
Nhóm The Friends: Trịnh Công Sơn luôn nhắc nhở mọi người về “tấm lòng”. Theo Cẩm Vân, để mỗi chúng ta có được “tấm lòng” ấy, khó hay dễ ? Cẩm Vân nghĩ Cẩm Vân đã có được “tấm lòng” mà Trịnh thường nhắc chưa?
Cẩm Vân: Theo tôi, điều đó tuy dễ mà khó. Khó cho những ai sống không có tấm lòng. Tôi không dám tự đánh giá mình nhưng tôi lại rất hãnh diện về những gì mình đã sống.
Nhóm The Friends: Hằng năm, sau 2001, vào mùng 1 tháng Tư, Cẩm Vân thường làm gì?
Cẩm Vân: Sau 2001, hằng năm, chúng tôi thường ghé đến nhà của anh Sơn trước giờ đi trình diễn để thắp cho anh một nén nhang và lại thăm anh. Thuở còn sống, anh cũng vậy! Thích bạn bè, thích vui và thích được cưng! Tôi còn nhớ, cứ mỗi lần sinh nhật của anh thì anh đều nói Cẩm Vân hôn anh một cái. Và bây giờ cũng vậy, những ngày này, tôi thường đến trước tượng của anh và hôn vào anh như lúc anh còn sống vậy!
Nhóm The Friends: Đến với chương trình Trịnh quy mô “Phúc Âm Buồn Của Trịnh” do nhóm The Friends tổ chức, cảm giác của chị ra sao? Chị sẽ mang gì trong chuyến đi này từ Việt Nam qua Mỹ để trình bày những bài hát của Trịnh Công Sơn?
Cẩm Vân: Đến với chương trình “Phúc Âm Buồn Của Trịnh”, Cẩm Vân rất vui và cảm thấy sung sướng vô cùng khi được mời tham gia chương trình này. Cẩm Vân sẽ mang khả năng nhỏ bé của mình để đóng góp cho thành công của chương trình. Cảm ơn nhóm The Friends đã quý mến mời Cẩm Vân tham gia chương trình này. Xin gửi lời chào đến các bạn trẻ trong nhóm và khán thính giả thân yêu.ª


nguồn: vietweekly
Dong Ta
#45 Posted : Friday, May 5, 2006 8:30:56 PM(UTC)
Dong Ta

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 22
Points: 0

Hi, chao chi Lavender !
Hom nay duoc them chut kien thuc ve am nhac TCS la nho chi do.Cam on chi nhieu lam.
Chi nghe nhac TCS nhieu nhu vay nhung chi da thu nghe nhung cach the hien moi chua vay??Tai Ta tui thay chi co kien thuc ve nhac Trinh nen muon duoc nghe y kien cua chi ve nhung giong ca sau nay vay ma hihih...Khg biet chi co ranh roi de chi giao them chut xiu khg vay??
Nhung nguoi moi sau nay nhieu nguoi cung theo dong nhac TCS lam, co nguoi thi hat theo nguyen thuy, co nguoi thi hat pha cach( dien hinh la Thanh Lam do). Bao chi khen cung co, che cung nhieu nhung Ta tui muon tim hieu them mot chut y kien rieng cua chi Lavender vay do( neu chi khg phien).
Chuc chi nhieu suc khoe , luon vui ve de ma co suc de post nhac len cho moi nguoi thuong thuc hihih...
Hien gio, vao ngay 12/5 toi day o saigon co dien ra live show cua Hong Nhung , trong Ls nay HN se hat nhac Trinh nhieu lam do. Khg biet neu ma chi co o saigon ngay thoi diem do thi chi co di coi khg ha??
Chi co nghe Phuong Thanh va Thanh Lam hat nhac TCS chua?? Quang Dung thi dung la khoi noi roi, giong ca moi nhung hat nhac Trinh rat ok.
Song Anh
#46 Posted : Thursday, May 11, 2006 5:29:46 PM(UTC)
Song Anh

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 1,004
Points: 18

TRỊNH CÔNG SƠN
Tiếng hát Hoà Bình



Báo Văn Học, California, số 39, tháng 4-1989, có ghi lại một buổi tọa đàm về bộ truyện Mùa Biển Động của Nguyễn Mộng Giác, nhà văn Nhật Tiến đã phát biểu ngoài đề :

"Nói về tác phẩm văn nghệ mà ảnh hưởng rõ nét nhất, tôi nghĩ có lẽ mình chỉ có nhạc Trịnh Công Sơn, nó gây cái tâm lý phản chiến. Còn tác phẩm văn thơ của chúng ta nó chỉ bàng bạc thôi". Anh còn khẳng định : "nó đi thẳng vào đời sống". Nhà văn Hoàng Khởi Phong vùa vào : "Riêng với nhạc Trịnh Công Sơn, tôi nghĩ có đi thẳng vào lòng người" (tr. 55).

Trong văn chương, ngoài đề có khi là lời tâm huyết. Nhật Tiến nổi danh về lòng ngay thẳng và nghĩa khí. Hoàng Khởi Phong là cựu đại úy quân cảnh, một binh chủng mà Trịnh Công Sơn thường phải dè chừng ...

Cái thời làm nhạc phản chiến ... thời đại bác ru đêm ...


Dùng chữ nhạc phản chiến, theo kiểu anti-guerre, anti war, là nói cho gọn, và đã có người phản bác, cho rằng mông lung, vì người nghệ sĩ chân chính nào mà không chống chiến tranh ? Ngoài ra, những ca khúc Trịnh Công Sơn tố cáo chiến tranh, gào gọi hoà bình còn bày tỏ khát vọng thống nhất đất nước, tình tự dân tộc, tình yêu nhân loại, niềm tin vào cuộc đời, tình người và hạnh phúc lứa đôi. Những tình cảm này đan quyện vào nhau. Hơn nữa, một số nhạc tình thuần tuý, nội dung không quan hệ gì đến chiến tranh, khi nghe trong đám đông, cũng tạo nên một cảm giác thời thế, từ một thời phản chiến.

Vì vậy, gọi nhạc "phản chiến" là nói tắt, trong điều kiện bất túc của ngôn ngữ. Gọi cách khác, là ca khúc tranh đấu cho hoà bình, tuy dài dòng mà vẫn không đủ ý.

Nói chung, những ca khúc "phản chiến" của Trịnh Công Sơn gia tăng số lượng và cường độ dài theo cuộc chiến, đồng thời cũng chuyển mình theo từng giai đoạn ngắn của thời cuộc thập niên 1963-1973. Nhưng là tiếng nói tự phát, phản ứng tự nhiên của một cá nhân, một công dân, không thuộc đảng phái hay tổ chức chính trị nào. Đây là điều kỳ lạ trong hoàn cảnh chính trị thời đó và chính nó đã tạo ra hào quang của Trịnh Công Sơn : người ta hát, và yêu Trịnh Công Sơn, tạo ra hiện tượng Trịnh Công Sơn, một là vì ca khúc của anh đáp ứng lại những khát vọng của thời đại, hai là người nghe, trực cảm rằng những lời ca ấy không mang một ý đồ chính trị nào.
Bây giờ, hơn ba mươi năm sau các sự cố, nghe lại ca khúc Trịnh Công Sơn, so sánh với những yêu sách thời đó, chúng ta có thể tin được vào chứng từ của họa sĩ Bửu Chỉ, bạn thân với Trịnh Công Sơn trong nhiều giai đoạn, trước và sau 1975,

"Tắt một câu, trong dòng nhạc phản chiến, của mình Trịnh Công Sơn đã chẳng có một toan tính chính trị nào cả. Mà tất cả làm theo mệnh lệnh của con tim mình (...). Trái tim nhân ái, nhạy cảm, chỉ biết nói lên những cảm xúc nồng nhiệt của mình đối với quê hương, dân tộc, dù thiếu vắng một thái độ chính trị, nhưng trung thực. Nghĩa là tự đáy lòng mình thì mình nói"

Bửu Chỉ đã tham dự vào Phong Trào Sinh Viên đấu tranh cho hòa bình, trực diện chống đối chính quyền Sài gòn, bị bắt 1971 và chỉ được phóng thích năm 1975. Anh sinh hoạt với Trịnh Công Sơn tại hội văn nghệ Bình Trị Thiên những năm 75-79, cho đến nay vẫn được xem như là một tiếng nói trung thực. Khi Bửu Chỉ nhận thấy - hay thật ra là phản ánh một dư luận - cho Trịnh Công Sơn là "thiếu vắng một thái độ chính trị, nhưng ..." thì chúng ta có thể hiểu thêm được một hoàn cảnh, để từ đó tìm hiểu vị trí Trịnh Công Sơn trong thế sự, giữa những âm thanh và cuồng nộ.

Và phải chăng vì chỉ viết "theo mệnh lệnh của con tim", chứ không theo một thứ mệnh lệnh khác, mà ngày nay những ca khúc tranh đấu của Trịnh Công Sơn, dù đã đóng góp lớn lao vào biến chuyển của đất nước, đã không được in lại, hát lại trong nước, như một số tác phẩm khác, của các vị Tôn Thất Lập, Trần Long ẩn, v.v. Và những văn bia, những kỷ yếu chính thức ghi lại thành tích cách mạng thời đó, ngày nay cũng không nhắc nhở gì đến Trịnh Công Sơn.

Ngoài ra, nếu nhạc thời thế của Trịnh Công Sơn xuất phát từ cảm xúc, thì ta có thể lần theo lịch trình sáng tác để tìm đến những biến chuyển trong tâm tư tác giả trước thời cuộc sôi động lúc đó. Tuy nhiên chúng tôi khó nắm chắc thời điểm thành hình của từng ca khúc, dù đã cố gắng. Chỉ mong đề xuất những nét chính.

Sau đệ nhị thế chiến, nhiều tư trào hoà bình trên thế giới đã tạo ra giòng thơ nhạc phản chiến như bài Barbara, thơ Prévert, Kosma phổ nhạc, đã thịnh hành tại Miền Nam những năm 1950, với lời ca thật mạnh "ôi ngu xuẩn chiến tranh" nguyên văn tiếng Pháp khá tục "quelle connerie la guerre". Tiếp đó, là những bài hát phản chiến thô bạo của Boris Vian đã vang dội một thời trong tuổi trẻ Trịnh Công Sơn. Theo sau là nhạc phẩm của Bob Dylan và Joan Baez. Chúng tôi đã nhắc qua điều này trong một bài trước đây .

Có lẽ những suy nghĩ về dân tộc, đất nước, số phận con người trong chiến tranh đã manh nha từ lâu ở Trịnh Công Sơn, và đã được khơi động từ những biến cố tại Huế và miền Trung năm 63, mà bạn bè anh đã tham gia tích cực và sôi nổi. Bản thân Trịnh Công Sơn không dự cuộc trực tiếp, nhưng khó có thể nói là không giao động. Sau những bản nhạc tình đã nổi tiếng, thì 1964, Trịnh Công Sơn đưa vào Lời Mẹ Ru một vài âm hưởng xót xa, báo hiệu cho những ru khúc đau thương về sau :

Lời mẹ ru con nghe ra nỗi niềm
Đời mẹ ru con mây kia cũng buồn
Con ngủ trên mây
Tiếng khóc ban đầu còn đau, còn đau
Ru con khôn lớn ... Con Rồng cháu Tiên
Một đời ru con, nên mắt ưu phiền

Về thời điểm, tư liệu của Hoàng Nguyên Nhuận, bút danh của Hoàng văn Giàu, xác nhận "năm 1963, trong lúc anh chị em chúng tôi lận đận trong tù, sau chiến dịch Nước Lũ thì Trịnh Công Sơn vẫn còn mơ màng Nhìn Những Mùa Thu Đi. Đến năm 1964, sau khi nhập Tuyệt Tình Cốc, thì Trịnh Công Sơn hầu như đã trở thành một người mới" .

Lối hát ru Việt Nam, như ru con Nam Bộ, thỉnh thoảng cũng có câu thắt thẻo ruột gan, nhưng ít khi diễn tả buồn đau trong thân phận làm người như ở Trịnh Công Sơn, càng về sau càng da diết.

Vết Lăn Trầm, 1965, là một ca khúc đậm đặc phong cách Trịnh Công Sơn, đau thương và huyền bí :
Vết lăn trầm vết lăn trầm
Hằn lên phiến đá nâu thêm ưu phiền
Như có lần chim muông hằn dấu chân
Người đi phiêu du từ đó chưa thấy về quê nhà
Người chợt nhớ mình như đá
Đá lăn vết lăn trầm
Từ cơn đau ấy lưu thân mỏi mòn
Ôi mắt thầm van xin lời thánh đêm
Bài ca dao trên cồn đá
Trên ngai vàng quê hương ...

Ca từ rệu rã, u hoài, xa vắng, nhưng cô đọng cả tâm giới Trịnh Công Sơn, lúc ấy và về sau. Về sau, sẽ có hằng vạn chuyến xe claymore lựu đạn, hằng vạn tấn bon trút xuống đầu làng, cũng chỉ là âm vang lăn trầm vết đá. Hoàng Phủ Ngọc Tường, bạn thân Trịnh Công Sơn đã tinh ý nhận xét:

"Vết Lăn Trầm bắt đầu tiếp cận nỗi bất hạnh của một tuổi trẻ bị cuốn hút vào cơn lốc của chinh chiến, và đây là bài hát mở đầu nội dung phản chiến của nhạc Trịnh Công Sơn "

Chọn 1965 làm thời điểm cho nhạc thời thế Trịnh Công Sơn, còn có những lý do khác : đó là cao điểm của chiến tranh Việt Nam, thời của những Người Chết Trận Đồng Xoài, Pleime ... thời người Mỹ đổ bộ lên Miền Nam, bắt đầu ném bom miền Bắc. Cũng là cao trào tranh đấu miền Trung trước khi bị dập tắt vào năm 1966.

Thời đó, ca khúc Trịnh Công Sơn, nhạc tình và nhạc tranh đấu, được in ronéo, chuyền tay. Năm 1966, nhà An Tiêm xuất bản tập Ca Khúc Trịnh Công Sơn, Thần Thoại Quê Hương, Tình Yêu và Thân Phận, 12 bài, ngoài Tuổi Đá Buồn làm từ 1961, những bài khác làm vào 1965-1966, đều mang nội dung : thân phận trong chiến tranh.

Mùa hè 1965, trong năm 1966 và sang 1967, Trịnh Công Sơn đã sáng tác một loạt ca khúc chống chiến tranh nổi tiếng : Người con Gái Việt Nam Da Vàng, Đại Bác Ru Đêm, Tình Ca của Người Mất Trí, ... Tác giả tự ấn hành lấy, do đó không ghi năm xuất bản, thành tập Ca Khúc Da Vàng. Về sau, sau Mậu Thân, 1968, anh thêm 2 bài : Hát Trên Những Xác Người và Bài Ca Dành cho Những Xác Người, ghi là Ca Khúc Da Vàng 2, dự tính in trong tập Kinh Việt Nam, tự xuất bản 1968. Những bản in lại về sau, không thấy 2 bài này. Vậy ta có thể xem Ca Khúc Da Vàng gồm 12 hay 14 bài, tùy phương pháp.

Gần đây Khánh Ly có hát và phát hành ba đĩa hát CD lấy tên Ca Khúc Da Vàng I (1996), II (1998) và III (1999), mỗi CD gồm 10 bài, có đủ 14 bài da vàng chính danh. Những bài khác là nhạc phản chiến nổi tiếng của Trịnh Công Sơn.

Tập Kinh Việt Nam mở đầu bằng lời tựa, tác giả bày tỏ khát vọng hoà bình, viết 1968, có lẽ sau Mậu Thân và tin tức về hòa hội Paris ; tập nhạc gồm có 12 bài, bắt đầu bằng Dân Ta Phải Sống và khép lại với Nối Vòng Tay Lớn.

Năm 1970, dưới tên nhà xuất bản Nhân Bản, anh tự ấn hành Ta Phải Thấy Mặt Trời, gồm 11 bài, như : Việt Nam ơi hãy Vùng Lên, Huế Sài Gòn Hà Nội, v. v.

Năm 1972, sau Mùa Hè đỏ lửa, anh cho in tập Phụ Khúc Da Vàng, vẫn dưới tên nhà xuất bản Nhân Bản, gồm 9 bài : Một Ngày Vinh Quang, Một Ngày Tuyệt Vọng, Xác Ta Xác Thù, Chưa Mất Niềm Tin. ...

Bửu Chỉ sau khi nhắc lại thư mục, đã ghi : "tổng kết 5 tập với 58 ca khúc, chưa kể những bài rời được sáng tác ngay trong những cuộc xuống đường, cùng thanh niên, sinh viên, học sinh Huế" (bài đã dẫn).

Trong một tiểu luận Cao học đệ trình tại Đại Học Paris 7, 1991, Michiko Yoshi, cũng là bạn , được Trịnh Công Sơn giúp đỡ và hướng dẫn, đếm được 69 bài phản chiến. Trên tổng số 136 bài làm từ 1959 đến 1972 mà cô ấy sưu tầm được, tỷ lệ là 51 %. Nếu chỉ tính từ 1965 đến 1972, tỷ lệ còn cao hơn nữa. Nghĩa là trong một thời gian dài, thời gian sáng tác khoẻ nhất, rung cảm chính của Trịnh Công Sơn là thời thế. Và ngược chiều, chính những ca khúc kêu gọi hoà bình đã làm nên danh tiếng Trịnh Công Sơn, đã tạo nên huyền thoại Trịnh Công Sơn, trong một thời điểm nhất định của miền Nam Việt Nam vào những năm 1966-1972.

Thời điểm sáng tác hay in ấn một nhạc bản không quan trọng bằng việc công chúng phổ biến, hưởng ứng những bài hát đó trong giai đoạn, hoàn cảnh nào. Chúng tôi ghi cặn kẽ thời điểm để làm tư liệu về sau.

Hoàng Nguyên Nhuận nhắc lại "nếu Huế là thánh địa của Phật Giáo và nếu bản nhạc Phật Giáo Việt Nam của Lê Cao Phan là nhịp đạo hành của thanh niên Phật tử, thì Trịnh Công Sơn chính là nhịp đập con tim của phong trào thanh niên trên đường vận động hoà bình, độc lập và an lạc cho đồng bào đồng loại " (b.đ.d) tại các thành phố miền Nam từ 1963 đến 1966.

Từ 1965, theo trí nhớ Đinh Cường, Trịnh Công Sơn mới trực tiếp "xuống đường" tham dự vào những buổi hát của sinh viên, học sinh Sài Gòn, bắt đầu tại trước viện Đại Học Sài Gòn, rồi từ khuôn viên trường Đại Học Văn Khoa. Sau đó Trịnh Công Sơn thường hát với Khánh Ly, từ 1967, theo lời Khánh Ly kể, cho đến sự cố nổ súng tại trường Đại Học Văn Khoa cuối năm 1967. Sau biến cố này, Sơn thôi đi hát "cho đồng bào tôi nghe" hát trước quần chúng đông đảo, chủ yếu là thanh niên, sinh viên Sài Gòn. Nhưng vẫn còn về hát cho sinh viên Huế cho đến 1970-1971.

Nhiều người đã nhắc đến giai đoạn này, nhưng ít ai còn nhớ cụ thể : Trịnh Công Sơn và Khánh Ly đã hát những bài gì. Michiko còn giữ cuộn băng thu lại một buổi hát cộng đồng, có lẽ một trong các buổi cuối cùng tại Quán Văn Sài Gòn, tháng 12 năm 1967, với cả không khí quần chúng :

Trịnh Công Sơn hát : Người Già Em Bé, Đêm Bây Giờ Đêm Mai, Ngày dài Trên Quê Hương, Ngụ Ngôn Mùa Đông, Tôi Sẽ Đi Thăm, Đi Tìm Quê Hương, Người Con Gái Việt Nam Da Vàng.

Khánh Ly hát : Diễm Xưa, Mưa Hồng, Ru Em Từng Ngón Xuân Nồng, Gọi Tên Bốn Mùa, Còn Tuổi Nào Cho Em, Tình Ca Của Nguời Mất Trí, Xin Cho Tôi, Xin Mặt Trời Ngủ Yên, Tuổi Đá Buồn.

Trịnh Công Sơn và Khánh Ly song ca : Nhìn Những Mùa Thu Đi, Ca Dao Mẹ.

Chúng ta lưu ý đến nội dung xen kẽ của những ca khúc, được trình diễn trong các buổi hát công cộng, đông đảo đến hàng trăm, hàng ngàn người nghe hay trong những cuộc họp mặt bỏ túi giữa bạn bè. Tình khúc được hát giữa những bài chống chiến tranh, tự dưng cũng mang tác dụng "phản chiến". Đây là hậu quả tâm lý tự nhiên, mà ngày nay lý thuyết liên văn bản đã thừa nhận. Những bài hát ca ngợi tình yêu, tiếc thương hạnh phúc, những Diễm Xưa, Tuổi Đá Buồn bỗng nhiên mang một nội dung hòa bình. Từ đó xác định được trong sự nghiệp Trịnh Công Sơn bài nào là nhạc "phản chiến", không phải là việc đơn giản về mặt thực tế. Dù rằng về mặt sách vở, ta có thể đếm được 58 bài như Bửu Chỉ hay 69 bài như Michiko.

Làm sao em biết bia đá không đau...
Này em đã khóc chiều mưa đỉnh cao...
Tóc em như trời xưa đã qua đi ngàn năm...
Tuổi nào ngồi khóc tình đã nghìn thu...
Rồi mùa suân không về, mùa thu cũng ra đi ...

Những câu hát, trích từ tiếng hát Khánh Ly thời 1967 ca ngợi tình yêu, nhưng có nhất thiết là tình yêu trai gái ?
Gọn hơn nữa : tình yêu như trái phá, là chuyện tình yêu, hay trái phá ?


Về ý nghĩa, âm hưởng của một bài hát tuỳ thuộc vào bối cảnh, trong lý thuyết liên văn bản. Nhìn Những Mùa Thu Đi là một bản nhạc tình, không can dự gì đến thế sự. Nhưng Thái Kim Lan đã kể lại một kỷ niệm súc tích : Ngày 20/8/1963, chính quyền Sài Gòn tấn công vào chùa chiền khắp nước, chị bị bắt tại Huế cùng với nhiều thanh niên sinh viên Phật tử và nhiều người bị tình nghi, như Hoàng Phủ Ngọc Tường, tình cờ trong túi có mảnh giấy ghi bài hát :

"Huế dạo ấy đang độ vào thu, ban đêm mưa sầm sập trên mái ngói, buổi sáng sớm trời trong trẻo, một thứ trong suốt như đóng đinh vạn vật dừng lại ở một điểm cố định, cây bàng độc nhất trong sân đứng với mấy chiếc lá đỏ trên cành, chúng tôi ngồi 'tay trơn' trên nền nhà, trẻ măng là mái tóc và vầng trán, trẻ măng là sự ôm ấp những lý tưởng, những hoài vọng, những ước ao, những chờ đợi của tuổi hai mươi - và chúng tôi đã đếm ngày tháng bằng ' Nhìn Những Mùa Thu Đi' ..."

Và trong tù, sáng trưa, chiều tối, ngày này qua ngày khác, các bạn trẻ đã huýt sáo hay ngân nga bài này.

"Trong đời tôi, đã nghe và đã hát một bài chưa bao giờ nhiều lần và trong một quãng thời gian dài liên tiếp trong 3 tháng như thế (...)
Có thể nói hành trình ca khúc Trịnh Công Sơn thực sự bắt đầu từ 'Nhìn Những Mùa Thu Đi' chứ không phải 'ướt mi', dù 'ướt Mi' đã làm cho người ta biết đến Sơn"

Chị nói vậy là chủ quan. Nhưng vô hình trung, đã tiết lộ một sự thật : Nhìn Những Mùa Thu Đi có thể là tác phẩm đầu tay, dưới dạng thức một bài thơ, làm từ 1957, Trịnh Công Sơn đã tự phổ nhạc nhiều lần, nhưng chỉ mới chép tay cho bạn bè. Do đó mà tình cờ nó nằm trong túi Hoàng Phủ Ngọc Tường đêm 20/8/1963, khi anh đang ngủ ở nhà thì bị công an đến bắt. Nếu không có sự cố, có thể là bản thảo sẽ bị thất lạc, như nhiều sáng tác của Trịnh Công Sơn, có thể lên đên 50 % trên tổng số.

Về nội dung bài hát, không phải chỉ một mình Thái Kim Lan nhận ra niềm u hoài của một thế hệ, khi hát và nghe trong hoàn cảnh đặc biệt. Bản thân tôi không tranh đấu, không tù tội gì, cũng đã cảm nhận được tâm sự của một lứa tuổi :

Gió heo may đã về
Chiều tím loang vỉa hè
...
Thương cho người rồi lạnh lùng riêng

Nó không tình luỵ như Chiều tím chiều nhớ thương ai của thơ Đinh Hùng, Đan Thọ phổ nhạc. mà là vết bầm tím trong tâm tư một thời đại. Bây giờ tôi còn cảm động khi nghe lại bài hát, do chính Sơn hát cùng với Khánh Ly :

Trong nắng vàng chiều nay
Anh nghe buồn mình trên ấy
Chuyện chúng mình ngày xưa
Anh ghi bằng nhiều thu vắng
Đến thu này thì mộng nhạt phai

Tình và Mộng ở đây, không nhất thiết phải dính dáng gì đến phụ nữ.

Mãi đến gần đây, tôi mới nghe Lý Quý Chung kể lại rằng chính quyền Sài Gòn hồi ấy đã nghi ngờ "trên ấy" là trên chiến khu

Thêm một liên văn bản khác : Nguyễn Quốc Trụ trong bài viết tưởng niệm Trịnh Công Sơn, kể lại rằng cho đến khoảng 1966 :

" Chưa để ý đến nhạc Trịnh Công Sơn, nói rõ hơn, nó chưa thấm vào tôi. Phải khi đứa em tôi mất, tới lượt tôi vào Trung Tâm Ba Quang Trung, trong những đêm cận Tết, nằm trên chiếc giường sắt lạnh lẽo, một anh chàng nào đó, chắc quá nhớ bồ, cứ huýt sáo bài 'Tình Nhớ', gần như suốt đêm, thế là tiếng nhạc bám riết lấy tôi, rứt không ra. Lúc này tiếng nhạc của anh, đối với riêng tôi, qua lần gặp gỡ trên, như trút hết những âm tiết địa phương, và trở thành tiếng nói chung của Miền Nam, tức là của cả thế giới, vào thời điểm đó, khi cùng nói : hãy yêu nhau thay vì giết nhau. Bởi vì chưa bao giờ và chẳng bao giờ Miền Nam chấp nhận cuộc chiến đó. Chính vì vậy, họ lãnh đạm với chính quyền, ưu ái với Miền Bắc, vì họ đều tin một điều : Miền Bắc sẽ kết thúc cuộc chiến, và người Mỹ sẽ ra đi. Nhạc Trịnh Công Sơn nói lên tiếng nói đó.

Tính phản chiến của nhạc anh, chính là tính phản chiến của cả một miền đất" .

Giữa một rừng than khóc ki khu, thì bài Nguyễn Quốc Trụ, nhanh, ngắn nhưng giá trị. Vì chính xác và dũng cảm. Ai đó nói : hình học là nghệ thuật lý luận đúng trên một hình vẽ ... sai. Nguyễn Quốc Trụ khởi đi từ một bản nhạc tình ... ngoài đề. Tình Nhớ thì can dự gì đến phản chiến ? Bài hát đại khái :
Người ngỡ đã xa xăm
Bỗng về quá thênh thang
Ôi áo xưa lồng lộng
Đã xô dạt trời chiều ...

Nói về nhạc phản chiến , cứ gì phải dựa vào Đại Bác Ru Đêm ?

Một ví dụ liên văn bản nữa, bài Cõi Tạm, thường được nghe sau này,

Nhân gian về trọ nhiều nơi
Bâng khuâng là những đôi môi rất hồng

Là một câu hát nhẹ nhàng, vui tươi, nhưng gợi đau thương cho những kẻ đã từng biết tiền thân câu này :

Nhân gian về trọ nhiều nơi
Riêng đây là chốn chưa nguôi máu đào

Tác phẩm được làm năm 1973, hoà ước Paris đã được ký kết mà bom đạn vẫn tiếp tục rơi trên đất nước. Và nhà thơ Ngô Kha, thân thích với Trịnh Công Sơn, đã bị bắt và tra tấn đến chết, thủ tiêu mất xác tại Huế.

Nếu chỉ làm nhạc tình, thì Trịnh Công Sơn sẽ là Lê Uyên Phương hay Từ Công Phụng ; nếu chỉ làm nhạc đấu tranh Trịnh Công Sơn sẽ là Nguyễn Đức Quang hay Tôn Thất Lập ; nếu pha pha tình yêu và thân phận, Trịnh Công Sơn sẽ là Vũ Thành An. Nếu chỉ phản chiến, e chỉ hơn Nguyễn văn Đông.

Nhưng Trịnh Công Sơn đã tổng hợp một thời đại và xây dựng được một sự nghiệp riêng, gắn bó với vận mệnh đất nước.

Rào nhạc phản chiến Trịnh Công Sơn vào một ấp chiến lược, là việc không sát với thực tế xã hội. Trong thời gian 1967-1972, Sơn sáng tác khoảng 70 bài hát kêu gọi hòa bình, và khoảng một nửa được phổ biến rộng rãi. Nhưng những ca khúc thuần tuý thế sự đó đã được kết hợp với hàng trăm tình khúc khác, cùng phong cách, trong một hoàn cảnh xã hội và chính trị đặc biệt, đến với quần chúng thanh niên cùng tâm trạng. Những điều kiện đó đã hội tụ vào thời hoàng kim của kỹ thuật thu âm bằng máy ghi âm gọn nhẹ, từ băng cối chuyển sang băng cassette, phổ biến từ trong nước ra đến hải ngoại. Từ những Trung Tâm Băng Nhạc và ... Đài Phát Thanh Sài Gòn !

Nghệ thuật Trịnh Công Sơn xét trong toàn bộ, nội dung, hình thức, chủ đề, thể loại, hội với những điều kiện khách quan về chính trị, xã hội, kinh tế, kỹ thuật đã tạo danh tiếng Trịnh Công Sơn trong một thời gian kỷ lục, như Phạm Duy đã nhắc : "Tình khúc Trịnh Công Sơn ra đời, từ giàn phóng là Quán Văn được hoả tiễn Khánh Ly đưa vút vào phòng trà, rồi vào băng casette và chỉ trong một thời gian rất ngắn đã chinh phục được tất cả người nghe.. So sánh với những tình khúc ba bốn chục năm qua, ngôn ngữ trong nhạc Trịnh Công Sơn rất mới" .

Sở dĩ đi nhanh như thế vì nhạc tình yêu đã kết hợp với nhạc đấu tranh, được hát trực tiếp, hát cộng đồng. Tác giả hoà nhập vào quần chúng, rồi trở thành một hiện tượng phút chốc thành thần tượng. Đã có lúc thính giả mộ điệu xâu xé để chia nhau mỗi mảnh áo măng tô cũ rách của Trịnh Công Sơn, theo lối "fan" ở phương Tây.

Ngoài ra, hiện tượng Trịnh Công Sơn cũng đã thành hình qua vài yếu tố phụ : dáng người mảnh khảnh, nho nhã, bạch diện thư sinh làm người ta yêu mà không làm người ta sợ. Anh chăm sóc kỹ lưỡng cách ăn mặc, "sang"một cách kín đáo, "thàng" khi trình diễn. Nói năng nhỏ nhẹ, giọng Huế dịu dàng, trung lập, không phải là giọng Bắc Kỳ toàn trị, hay Nam Kỳ tự trị, mà với một giọng Huế trung dung, thường thường là phát âm đúng. Lối nói thân mật, tạo ra ảo tưởng ở nhiều người : mình là người thân thiết của Trịnh Công Sơn, không "nhất" thì cũng gần gần như vậy. Cái cảm giác "gần gần" không phải lúc nào cũng lành mạnh.

Lối sống đơn giản : cà kê bạn bè, khề khà quán sá. Thịnh thời 1967, đêm đi hát, khuya về, kê ghế bố ngủ với bạn bè ở hội Hoạ Sĩ Trẻ, sáng dậy ra quán đợi bạn đãi tách cà phê, mời điếu thuốc lá. Rượu chè, thuốc lá cũng là cách đến, cách ở lại với đời, đãi đưa bè bạn, dần dần tới chỗ đãi đưa số mệnh. Nghiện mà không ngập. Lữ Quỳnh, bạn thân, cho rằng Sơn không nghiện. Nói thế là để bao che, nhưng cũng có cơ sở.

Thêm vào hình ảnh Khánh Ly, "Ôi tóc em dài đêm thần thoại ..." , khi hát đi chân đất – nữ hoàng chân đất, La comtesse aux pieds nus – của một thời – giọng hát rũ rượi, da diết, diễn tả nỗi trầm thống vô vọng : "tin buồn từ ngày mẹ cho mang nặng kiếp người". Hai người đi với nhau, tạo nên hình ảnh "đôi lứa", một đôi trai/gái trong tình bạn hồn nhiên, vô tội, nhắc lại trong giới thanh niên trí thức tiểu thuyết Đôi Bạn chưa xa của Nhất Linh. Cũng có quê hương, tình yêu, thân phận, nhiệm vụ với đất nứơc, trong đó, mùa thu cũng ra đi, mùa đông vời vợi, mùa hạ khói mây, tình yêu dấu chim bay. Lời ca như nhắc lại một cô Loan tựa cửa nhìn xa ... Mây vẩn từng không chim bay đi ... (Xuân Diệu).

Truyền thuyết uyên ương là một ước mơ cao đẹp của á Đông ; nhưng giới hạn tình cảm trong vòng nam nữ, vợ chồng, tính dục. Chuyện Khánh Ly-Trịnh Công Sơn dường như không vậy. Ngày 8/4/2001, Khánh Ly kể lại "một mối liên hệ cao hơn, đẹp đẽ hơn, thánh thiện hơn là những tình cảm đời thường" . Hình ảnh đôi bạn trẻ, một couple ở đây rất mới, đáp lại ước mơ hiện đại của một thế hệ thanh niên muốn phá vỡ quan niệm nam nữ thọ thọ bất thân còn đè nặng lên xã hội Việt Nam . Và muốn lìa bỏ kỷ niệm những mối "tình nghèo, anh cày thuê, em dắt trâu" kiểu đồng hương Ngọc Cẩm-Nguyễn Hữu Thiết.

Trong dư luận, họ cũng không bị nghi ngờ hay tai tiếng, dù người đời có kẻ thắc mắc, tò mò. Những tâm hồn phóng khoáng và "hiện đại" thì gạt phăng đi loại "tò mò bệnh hoạn" ấy. Và đặc biệt Trịnh Công Sơn là người tăm tiếng mà không tai tiếng. Thính giả yêu thương ái ngại cho anh chàng nhạc sĩ tài hoa ngần ấy mà bao giờ cũng bị tình phụ mà không nghe nói phụ tình : Từng người tình bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ. Mà sự thật cũng gần gần như thế, dù rằng không ai đi tìm hiểu vì sao mà "lúc đưa em về là biết xa nghìn trùng".


Hơn nữa, ca khúc Trịnh Công Sơn gây được tiếng vang là nhờ giọng hát Khánh Ly : "Một giọng hát có thể xuống rất thấp, rất trầm, mà cũng có thể lên rất cao, một giọng hát khoẻ, dài hơi, giàu nhạc tính. Khánh Ly bao giờ cũng hát đúng giọng, đúng nhịp, ngân, láy đúng lúc, cách phát âm tiếng Việt chuẩn xác – càng về sau càng già giặn thêm – một giọng hát ngay từ thời ấy, tuy vẫn còn nguyên cái chất tươi mát, hồn nhiên của tuổi đôi mươi, nhưng dường như đã mang nặng sầu đau ; một giọng hát vừa có thể lẳng lơ một cách đáng yêu, trong các bản tình ca lãng mạn, lại vừa có thể phẫn nộ, bi ai, trong các bài ca phản chiến" , như nhận xét của Văn Ngọc. Bạn Văn Ngọc, theo sự hiểu biết của chúng tôi, là một người uyên bác về âm nhạc.

Cuối cùng, Trịnh Công Sơn và Khánh Ly thường đi hát cộng đồng, nghĩa là hát không công, không lấy thù lao, chủ yếu là cho thính giả trẻ, tại các giảng đường, giáo đường. Họ tạo, hay tái tạo, một hình ảnh lý tưởng cho nghệ thuật, nhất là nghệ thuật ca hát – mang theo lý tưởng nhân đạo, tình yêu và chính trị. Trong khi đó, đa số nhạc sĩ khác hát để lấy ca-sê, lấy tiền, hay lãnh lương. Có khi lãnh lương để hát "cho đồng bào tôi nghe".

Trong một dư luận – và hoàn cảnh xã hội – thuận lợi, nhạc Trịnh Công Sơn còn đáp ứng lại nhiều nhu cầu tâm lý khác của Miền Nam, bằng nội dung và nghệ thuật trong ca khúc.

*
* *

Tâm lý thời đó, chủ yếu là chống chiến tranh. Và nói như Phạm Duy, ai mà chẳng phản chiến, cứ gì là Trịnh Công Sơn ?

Như vậy, từ đâu mà nhạc kêu gọi hoà bình của anh lại tạo nên hiện tượng ? Phải chăng từ vị trí Trịnh Công Sơn chọn lựa để tố cáo chiến tranh. Không nên nói giản lược : tự quan điểm nhân dân, vì nhân dân là một khái niệm chính trị khó định nghĩa, thậm chí còn bị nhân danh trong những mưu đồ đen tối.

ở Miền Nam, vào thời điểm 1970, người dân không còn tin cậy vào chính quyền và những tổ chức chính trị. Họ có tín ngưỡng, nhưng không tin cậy vào tôn giáo như là những thế lực chính trị. Thiên Chúa Giáo, Cao Đài, Hoà Hảo, đã từng được võ trang từ thời chiến tranh Việt Pháp. Phật giáo nổi tiếng chủ trương bất bạo động, cũng có thời kỳ được vũ trang, dù chỉ trong giai đoạn ngắn, 1965 ; đường lối đưa bàn thờ Phật xuống đường không phải là ai cũng tán thành. Phạm Duy đã hát những bài Tâm Ca tâm huyết "tôi sẽ hát to hơn tiếng súng bên bờ ruộng già" nhưng mặc bà ba đen đứng chung với những đoàn Xây Dựng Nông Thôn. Tôn Thất Lập Hát cho Dân Tôi Nghe, thì không mấy người hát theo, vì "dân tôi" nhận ra tiếng gọi đến từ phía "bên kia".

Sinh trưởng trong một gia đình phật giáo, Trịnh Công Sơn vẫn giữ khoảng cách với các cao trào chính trị do Phật giáo chủ động, dù về sau, Hoàng Nguyên Nhuận có khẳng định "phong trào đấu tranh của thanh niên sinh viên học sinh Huế bùng nổ tự mùa Hạ 1963, đã đẻ ra Trịnh Công Sơn " (bđd). Thời điểm đó, lời nhạc Trịnh Công Sơn mang từ vựng Thiên chúa giáo nhiều hơn từ vựng Phật giáo : như giáo đường, lời buồn thánh, vùng ăn năn, cát bụi, địa đàng ... Nhưng đây là chữ nghĩa văn chương nhiều hơn là rung cảm tôn giáo, gọi là khuôn sáo cũng được, dùng để đẩy đưa câu hát cho có vẻ "hiện đại". Khi cần phải khẳng định một thái độ chính trị giữa những biểu ngữ, gậy gộc thì Trịnh Công Sơn chọn lựa minh mẫn :

Đợi chờ yêu thương trên cây thánh giá
Đợi xoá sân si dưới bóng bồ đề
(Đợi có một ngày),
trong Phụ Khúc Da Vàng, 1972

Không theo giáo phái, Trịnh Công Sơn không phải là người đảng phái. Không nghe anh nói, mà không nghe ai nói là anh dây dưa với một chính đảng nào, cái đảng của Miền Nam đã để lại kỷ niệm hãi hùng gần nhất là đảng Cần Lao. Còn đảng Cộng Sản thì không dễ gì tiếp xúc, mà nói thực tình, nghe qua đã ớn.

Anh Nguyễn văn Trung, trong nhiều bài báo trên Văn Học gần đây, có nhắc lại giai đoạn đó và cho biết các " phong trào sinh viên thời đó do Thành Đoàn, một tổ chức của Đảng Cộng Sản, chỉ đạo, triển khai điều khiển " . Lê văn Nuôi, chủ tịch Tổng Đoàn Học Sinh Sài Gòn hồi đó kể lại rằng, trong ban Chấp hành Tổng Hội Sinh Viên, nhiệm kỳ 69-70, gồm có 7 người thì đã có 4 là người của Thành Đoàn, như chủ tịch Nguyễn văn Quỳ, phó chủ tịch Huỳnh Tấn Mẫm. Và có lúc phó tổng thống Kỳ đã cho mượn nhà làm trụ sở .

Tuy nhiên, anh Trung không nhắc, có lẽ vì là ngoài đề, vô tình thôi, là những phong trào đó phát triển được là có sự khuyến khích của người Mỹ, với những Chương Trình Hè, Lên Đường, Quận 8, v.v, chưa kể những tổ chức Thanh Niên Thiện Nguyện, Thiện Chí "nằm vùng" từ trước.

Và dĩ nhiên, chính sách của người Mỹ được chính quyền Sài Gòn thực thi. Đó là thời Nguyễn Cao Kỳ, với nội các chiến tranh, chính phủ của Người Nghèo, của người Trẻ, làm Cách Mạng Xã Hội, v.v. Ông Kỳ muốn lấy lòng thanh niên trí thức tiến bộ, trong đó có Nguyễn văn Trung. Ông lại muốn dựa vào khối phật giáo ấn Quang, và có cảm tình với đám tranh đấu miền Trung mà ông đã thẳng tay đàn áp năm 1966. Hoàng Nguyên Nhuận mới đây còn nhắc lại .

Riêng với Trịnh Công Sơn, tướng Kỳ lại có tình riêng, một cảm tình nghệ sĩ liên tài. Ngoài những chai rượu, ông còn cho đi máy bay về Huế để ... hát nhạc phản chiến !

Dài dòng như vậy để người đọc thấy tại sao một nhạc sĩ không hợp lệ quân dịch, lại có thể ngang nhiên hát nhạc phản chiến tại trường Đại Học Văn Khoa, ngay trước dinh Độc Lập, và dõng dạc : gia tài của Mẹ một bọn lai căng, gia tài của Mẹ một lũ bội tình.

Trịnh Công Sơn sống giữa những tranh chấp chính trị mà không dính líu đến chính quyền hay đảng phái, giáo phái, phe phái. Mặc dầu anh thích bạn bè, ưa đàn đúm.
Quần chúng biết ngay điều đó. Chúng ta ngày nay mất công nghiên cứu văn bản, khổ tâm truy tầm tư liệu để tìm hiểu, chứ quần chúng thì họ rất nhạy bén, và nhận ra đâu là tiếng nói vô tư, ngay thật, đâu là tiếng nói có dụng ý, mưu đồ.

Đây là lý do chính giải thích sự thành công nhanh chóng của Trịnh Công Sơn, một sớm một chiều đã thành hiện tượng.

Ví dụ bài Tình Ca Của Người Mất Trí, 1967, đã được tiếp nhận và truyền bá tức khắc :

Tôi có người yêu chết trận Pleime
... chết ngoài Hà Nội
... chết không hận thù
Nằm chết như mơ ...

Quần chúng hiểu ra ngay biểu tượng "mất trí", một bài hát không có lập trường theo bên này, hay được chỉ đạo từ phía bên kia. Lời ca dội vang chiến sự, nhưng không có mưu đồ, quả là lời người mất trí. Mất trí là mất tất cả, không còn gì, ngoài cái trí của mình, của riêng mình. Cái trí xa lìa thực tại, bị sa thải ra ngoài thực tại. Trí tuệ ấy chỉ yêu Một Người, nhưng người yêu duy nhất đã chết trên khắp chiến trường, chết mọi kiểu, mọi cách, thậm chí nằm chết như mơ. Chết như mơ ?
Người ta thường nói : đẹp như mơ, chứ ai nói chết như mơ .

Tinh nghịch đổi vài chữ, câu hát vẫn hợp lý, vẫn hay, dù ý nghĩa bị lật ngược :

Tôi có người yêu gặp tại Ba Gia
Tôi có người yêu vừa mới đêm qua
Yêu thật tình cờ, yêu chẳng hẹn hò
Yêu chẳng thề nguyền hạnh phúc như mơ

Lật ngược hay xếp xuôi, tỉnh trí hay mất trí, tình ca hay chiến ca, ai biết đâu là đâu.

Cũng như bài sau này : Hát Trên Những Xác Người, làm sau Mậu Thân 1968 :

Mẹ vỗ tay reo mừng chiến tranh
Chị vỗ tay hoan hô hoà bình
Người vỗ tay cho thêm thù hận
Người vỗ tay xa dần ăn năn ...

Không biết phải giải thích ra sao, ngoài cơn điên loạn của một thời đại.

Nói về những oan khốc chiến tranh, Trịnh Công Sơn đã có lời nhập đề tưng tửng :

Đại bác đêm đêm dội về thành phố
Người phu quét đường ngừng chổi lắng nghe

Nghe như là nghe nhạc, nghe quen như câu dạo buồn. Nhạc không lời, một loại romance sans parole. Thậm chí : đại bác như kinh không mang lời nguyện.
Đại bác như kinh ?

Bài hát kết thúc bằng cụm từ có mẹ có em. Cũng như những thành ngữ : có mẹ có cha, có anh có em, có vợ có chồng, có mẹ có em, diễn tả cảnh sum họp, ấm cúng, nhưng ở đây là một đống xương thịt bầy nhầy :

Từng vạn chuyến xe claymore lựu đạn
Hàng vạn chuyến xe mang vô thị thành
Từng vùng thịt xương có mẹ có em

Sơn có những lời tưng tửng tàn độc như thế, hay đèn thắp thì mờ, ám ảnh cả một đời bạn mình là Bửu ý. Nguyên tác trong bài Đi Tìm Quê Hương (1967) :

Người nô lệ da vàng ngủ quên
Ngủ quên trong căn nhà nhỏ
Đèn thắp thì mờ ...

Dĩ nhiên, trong văn cảnh, câu hát có nghĩa : đèn không đủ sáng. Nhưng lìa văn cảnh, lời ca dội vào tim : đèn thắp thì sáng, chứ sao đèn thắp thì mờ ?

Nhẫn nhục trong những cơ cực trầm kha truyền kiếp, người phụ nữ Huế có câu hát não nùng :

Ví dầu đèn tắt, có trăng
Khổ thì em chịu, biết mần răng đặng chừ ?

Nhưng cũng không đoạn trường bằng đèn thắp thì mờ. Bây giờ Sơn đã đi xa, nhớ câu hát xưa mà thương những người bạn cũ, những người còn ở lại, trong cuộc đời mà Tản Đà đã định nghĩa : đời là cõi bắt con người phải sống.

Những ngọn đèn. Thắp thì mờ...



Năm 1968 là khúc quành trong thời sự Việt Nam, đồng thời là bước ngoặt trong nhạc cảm Trịnh Công Sơn. Có thể có những lý do riêng chung.

Trước hết, là sự kiện nổ súng đêm hát 20/12/1967, tại Quán Văn trong khuôn viên trường Đại Học Văn Khoa. Để tuyên bố kỷ niệm ngày thành lập Mặt Trận Giải Phóng, một nữ khán giả đã cướp micro ; nhân viên ban tổ chức giành lại, và bị bắn trọng thương. Cô gái lên xe Honda bỏ đi. Khoảng hai trăm thính giả - trong đó có nhiều quân nhân - đã dương mắt nhìn theo. Trịnh Công Sơn cùng với Khánh Ly, từ đêm đó không còn đi hát như thế tại Sài Gòn. Nhưng về Huế vẫn hát với sinh viên, đến 1970-1971 thì lại hăng hái tham gia tích cực những sinh hoạt cộng đồng tại Huế.

Do đó, vụ Tết Mậu Thân 1968, anh ở Huế, và đã ẩn thân ở thư viện Đại Học Huế. Phe cộng sản dường như có lùng kiếm, dĩ nhiên, để yêu cầu tối thiểu là làm một bài hát ca ngợi "Ngôi sao trên đỉnh Phu văn Lâu". Sơn đã không làm điều ấy, và ngược lại đã sáng tác hai bài tố cáo cảnh giết người, chôn người là Hát Trên Những Xác Người và Bài Ca Dành Cho Những Xác Người, với địa danh bãi chôn người chính xác : Chiều đi qua Bãi Dâu ... Sau đó Trịnh Công Sơn vẫn ở Huế, làm một số bài ca gửi vào Sài Gòn, mà sinh viên, thanh niên tiếp tục hát trong những phong trào xuống đường lúc đó rất sôi nổi.
*
* *

Hiệu quả chính trị của vụ Tổng Công Kích 1968 là hoà hội Paris mở ra để kết thúc chiến cuộc. Khả năng hòa bình đã ló dạng và Trịnh Công Sơn chuyển hướng, làm những ca khúc có nội dung chính trị rõ rệt, trực tiếp kêu gọi hoà bình, với tập Kinh Việt Nam (1968) và Ta phải thấy Mặt Trời (1969).

Thời điểm này, họa sĩ Trịnh Cung, bạn anh, đã vẽ bức tranh nổi tiếng : Đứa Trẻ Du Ca, tay ôm đàn cầm, có con chim đậu trên mái tóc, ý muốn nói hòa bình đang về trong thôn xóm. Hoà bình là khát vọng chung của thanh niên, và người dân thời đó, mà ca khúc Trịnh Công Sơn đã vang vọng qua những tiêu đề : Ngày Mai Đây Bình Yên, Cánh Đồng Hoà Bình, Đồng Dao Hoà Bình. Và đặc biệt là Nối Vòng Tay Lớn.

Cho đến ngày hoà...
Song Anh
#47 Posted : Thursday, May 11, 2006 5:36:03 PM(UTC)
Song Anh

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 1,004
Points: 18

Đời và Nhạc TRịNH CÔNG SƠN
Trịnh Công Sơn chánh quán Huế, làng Minh Hương, tổ tiên gốc Trung Hoa. Làng Minh Hương nay sát nhập vào Bao Vinh thành xã Hương Vinh. Bao Vinh là thương cảng của Huế ngày xưa.
Anh sinh ngày 28 tháng 2 năm 1939, tại Lạc Giao, tỉnh Đắc Lắc, lớn lên trong một gia đình buôn bán giữa trung tâm thành phố Huế. Nhà đông anh chị em, ba trai năm gái, mà anh là con trưởng. Tuy có thăng trầm, nhưng nói chung là khá giả.

Trịnh Công Sơn theo học chương trình Pháp, tại Trung học Pháp tại Huế, đến hết cấp 2. Năm ấy, 1955, cùng lớp có ca sĩ Kim Tước (Giáo sư Decoux, dạy khoa học, thỉnh thoảng mang đàn vĩ cầm vào lớp, đàn đệm cho học sinh hát). Lúc này Trịnh Công Sơn chơi guitare đã hay. Trường giải thể, dời vào Đà Nẵng, Trịnh Công Sơn có lúc theo học trường Thiên Hựu, Providence ở Huế. Rồi chuyển vào Sài Gòn, học tại trường Jean Jacques Rousseau. Sau đó vào học trường Sư Phạm Quy Nhơn, rồi đi dạy học vài năm tại Lâm Đồng.

Anh tự học nhạc một mình, và đã kể lại :
ôThưở ấy, tôi là một đứa bé thích ca hát. Mười tuổi biết solfốge, chép lại những bài hát yêu thích đóng thành tập, chơi đàn mandolin và sáo trúc. Mười hai tuổi có cây đàn guitare đầu tiên trong đời và từ đó sử dụng guitar như một phương tiện quen thuộc để đệm cho chính mình hát.
Tôi không đến với âm nhạc như một kẻ chọn nghề. Tôi nhớ mình đã viết những ca khúc đầu tiên từ những đòi hỏi tự nhiên của tình cảm thôi thúc bên trong... Đó là những năm 56 – 57 , thời của những giấc mộng ngổn ngang, của những viễn tưởng phù phiếm non dại. Cái thời tuổi trẻ xanh mướt như trái quả đầu mùa ấy, tôi rất yêu âm nhạc nhưng tuyệt nhiên trong tôi không hề gợi lên cái ham muốn trở thành nhạc sĩ... Dạo ấy ba tôi đã mất ... ằ

Những câu hỏi người tò mò có thể đặt ra : một người chỉ học trường Pháp, giáo trình Việt ngữ rất hạn chế và lỏng lẻo, khi đặt lời ca, sao có thể sử dụng tiếng Việt điêu luyện đến như thế ? Thỉnh thoảng anh viết truyện ngắn, tham luận, đều xuất sắc. Bạn bè nhận được thư riêng, đều nhớ rằng Sơn chữ đẹp văn hay.

Tự học đàn hát, rồi sáng tác một mình, Trịnh Công Sơn không thuộc một nhóm sáng tác nào, như những người đi trước, như Lê Thương, Hoàng Quý trong nhóm Đồng Vọng ở Hải Phòng, như Thẩm Oánh, Dương Thiệu Tước trong nhóm Myosotis tại Hà Nội, nhóm Hoàng Mai Lưu tại Nam Bộ. Cũng như sau này, anh sẽ tự học vẽ một mình.

Câu hỏi tò mò thứ hai : tự học nhạc, rồi từ rất sớm đã lao mình vào đời sống sáng tác và tranh đấu, làm sao anh có thể liên tục sáng tác khoảng 600 ca khúc, phần lớn được yêu chuộng ?

Nói rằng Trịnh Công Sơn là thiên tài, cũng dễ thôi. Nhưng trở thành thiên tài trên một đất nước như Việt Nam, được thừa nhận là thiên tài trong một xã hội như Việt Nam - nhất là sau cuộc đổi đời 1975 - thật không đơn giản.

Mục đích của bài này là giải thích sự hình thành của thiên tài Trịnh Công Sơn, giải mã hiện tượng Trịnh Công Sơn và tìm hiểu vị trí của Trịnh Công Sơn trên những trầm luân của đất nước, chủ yếu là khúc quanh 1975.

Chúng tôi cũng muốn cung cấp cho các nhà nghiên cứu về sau một số tư liệu rải rác đây đó, e mai đây khó kiếm, khi những than khóc và tung hô đã lắng xuống.

* *
*

Về hoàn cảnh sáng tác ban đầu, Trịnh Công Sơn đã tuyên bố với Vĩnh Xương, báo Đất Việt, năm 1985 : ô Đến năm 1957, tôi sáng tác, gọi là để bạn bè nghe chơi. Sau đó thấy có hứng thú sáng tác và thử viết thêm một số bài. Năm 1959, tôi viết bài ướt Mi và được bạn bè khích lệ. Tôi mới tìm sách nghiên cứu thêm về nhạc, trao đổi thêm về nhạc lý với bạn bè. Sau đó, tôi phổ nhạc cho khoảng một chục bài thơ tình yêu (như Nhìn Những Mùa Thu Đi chẳng hạn). Năm 63, tôi có một số sáng tác khá thành công như Diễm Xưa, Biển Nhớ, Hạ Trắng. Từ đó, tôi đi vào con đường sáng tác ằ .

Và từ đó, Trịnh Công Sơn nổi tiếng.


* *
*


Khi đặt câu hỏi : sao một thanh niên, rất trẻ, chỉ học ‘trường Tây’ mà sử dụng tiếng Việt tài hoa đến vậy, tôi không có thành kiến - vì bản thân mình cũng chỉ học ‘trường Tây’- mà để tìm hiểu nguồn sáng tạo trong ngôn ngữ.

Trịnh Công Sơn, có lẽ - đây là giả thuyết dè dặt - không học nhiều văn chương Việt Nam được giảng dạy ở nhà trường thời đó, nên không bị nô lệ vào những khuôn sáo trường quy, không suy nghĩ bằng điển cố sẵn có, mà tạo được một hình thức mới cho lời ca. Lời ca ấy sử dụng nhiều hình ảnh, biểu tượng bị xé lẻ, đi thẳng vào tâm tưởng người nghe, mà không đòi hỏi họ phải hiểu nghĩa chính xác. Ví dụ bài Tình Sầu :

Tình xa như trời / Tình gần như khói mây /
Tình trầm như bóng cây / Tình reo vui trong nắng /
Tình buồn làm cơn say
... Cuộc tình lên cao vút / Như chim mỏi cánh rồi /
Như chim xa lìa bầy / Như chim bỏ đường bay /

Mạch lạc nội tại (cohộrence organique) của ca khúc không dựa vào tương quan ý nghĩa : ‘tình xa như trời’ thì hợp lý, nhưng gần, sao lại như ‘khói mây’ ? ‘Tình lên cao vút’, sao lại ‘như chim mỏi cánh rồi’ ? ‘Tình reo vui trong nắng’, thì phải đối ngẫu với ‘tình buồn cơn mưa bay’ mới chỉnh, sao lại say sưa vào đây ?

Thật ra, mạch lạc nội tại được cấu trúc trên hình thức ngôn ngữ : những từ lặp lại : tình, chim, như, những vần luyến láy : mây, cây, say, bay, những từ đối lập : xa/gần, vui/buồn. Hình ảnh nối tiếp nhau, không cần ăn khớp với lý luận, lại được tiết điệu, âm giai nâng đỡ, bay bổng, bay thẳng vào tâm tưởng người nghe.

Chúng ta thử so sánh, để tìm hiểu chứ không phân định hơn thua, một lời nhạc tương tợ của Đoàn Chuẩn-Từ Linh :

Gửi gió cho mây ngàn bay
Gửi bướm muôn màu về hoa
Gửi thêm ánh trăng màu xanh lá thư
Về đây với thu trần gian ...

Hai ca khúc na ná, vì đều là ẩn dụ xâu chuỗi (mộtaphore filộe), nhưng câu sau của Đoàn Chuẩn và Từ Linh được cấu tứ theo ngữ nghĩa và quy ước, theo điển cố : gió+mây, bướm+hoa, gió+trăng, trăng+thu. Nét mới là màu xanh lá thư bị xoá nhoè giữa những ước lệ được liên kết thành một xâu chuỗi kiên cố, chặt chẽ quá làm mất chất thơ. Thêm vào đó là những câu thất ngôn đường luật rất chỉnh chu :

Lá vàng từng cánh / rơi từng cánh
Rơi xuống âm thầm / trên đất xưa

Bài Gửi Gió Cho Mây Ngàn Bay rất hay, nhưng hay một cách khác, đựơc yêu chuộng ở một giới thính giả khác.

Phạm Duy, thời trẻ, đã có những sáng tạo tân kỳ :

Buồm về dội nắng đôi vai
Bao nhiêu màu hoa ngát trên đôi môi
(Tiếng Đàn Tôi), 1947

Sau đó, anh trở về với ngôn ngữ duy lý :

Bao giờ em giở lại vườn dâu (hỡi em)

Là một câu thơ tuyệt vời : vườn dâu là niềm thương nhớ muôn trùng một nền văn minh đã khuất bóng. Nhưng Phạm Duy lại bồi thêm câu sau :

Để anh bắc gỗ xây nhịp cầu (anh) bước sang ...
(Quê Nghèo, 1948)

Thì cái ý đã thu hẹp cái tứ. Câu hát trở thành thô thiển, và giới hạn âm vang.
(Tôi đã có dịp trình lên anh Phạm Duy ý này, anh cười vui : thế à ?)


Tác phẩm Lê Thương uyên bác cả nhạc lẫn lời, đã đựơc người đời yêu thích.
Trịnh Công Sơn sẽ không viết được những câu văn vẻ như Lê Thương :

Bên Man Khê còn tung gió bụi mịt mùng,
Bên Tiêu Tương còn thương tiếc nơi ngàn trùng ...
(Hòn Vọng Phu)

nhưng đã viết :
Đàn bò vào thành phố
Reo buồn tiếng hạt chuông
(...)
Đàn bò tìm dòng sông
Nhưng dòng nước cạn khô
Đàn bò bỗng thấy buồn,
bỗng thấy buồn ... (Du Mục)
Những hình ảnh ngoài trí tưởng tượng của Lê Thương - ông vua đặt lời ca - theo sự đánh giá của Phạm Duy.

Đi vào nền tân nhạc với một tâm hồn mới mẻ, Trịnh Công Sơn đã dần dần xây dựng một nhạc ngữ mới, phá vỡ những khuôn sáo của nền âm nhạc cải cách, thành hình chỉ hai mươi năm về trước.

* *
*


Trịnh Công Sơn tự học nhạc, chứ không được đào tạo theo hệ thống trường quy. Khi bắt đầu sáng tác, được khích lệ, mới ‘trao đổi nhạc lý với bạn bè’, anh không nói rõ là những ai.

Câu hỏi thứ hai người tò mò đặt ra là : học nhạc một mình, thì vốn liếng nhạc thuật lấy đâu ra mà sáng tác nhiều, nhanh và hay như thế ?

Nhiều người cho là tác phẩm anh đơn giản về mặt nhạc thuật, nói là nghèo nàn cũng được.
Văn Cao nhận xét : ‘Trong âm nhạc của Sơn, ta không thấy dấu vết của âm nhạc cổ điển, theo cấu trúc bác học phương tây. Sơn viết hồn nhiên như thể cảm xúc nhạc thơ tự nó trào ra’ .

Lối nhạc hồn nhiên, dung dị này lại đáp ứng lại với nhu cầu thời đại, theo Phạm Duy :
‘Về phần nhạc, toàn thể ca khúc Trịnh Công Sơn không cầu kỳ, rắc rối vì nằm trong một số nhạc điệu đơn giản, rất phù hợp với tiếng thở dài của thời đại’ .

Một thính giả bình thường, yêu quý Trịnh Công Sơn, đã viết sau khi anh qua đời : ‘Xét cho cùng, Trịnh Công Sơn là một nhà thơ. Một nhà thơ lớn. Nhạc là cái xe tải anh lắp lấy để chở thơ anh đến với chúng ta’ (Vũ Thư Hiên, Varsovie, 4/2001). Nhận xét không đúng nhưng tiêu biểu.

Dù cho rằng nhạc thuật đơn điệu, thì cũng phải thừa nhận tài năng, có phần học tập, có phần thiên phú. Hoa hồng đẹp là do cây hồng, nhưng cũng còn nhờ vào đất đai, phân tro, mưa nắng, người chăm sóc, thậm chí cần cả người ngắm, hoa hồng mới có giá trị cái đẹp hoa hồng. Dù ở đây chỉ là một đoá vô thường.

Ta thử nhớ lại thời đại phát sinh tài năng Trịnh Công Sơn.

Năm anh 15 tuổi, 1954, Hiệp Định Genốve chia đôi đất nước, cả hai miền Nam Bắc đều hoá thân trong hoàn cảnh chính trị và văn hóa mới.

ở miền Nam, văn hoá phương Tây tràn ngập thị trường, nhất định phải ảnh hưởng mạnh mẽ đến tuổi mười lăm.

Sách báo, đĩa nhạc Pháp du nhập ồ ạt vào Việt Nam hằng ngày, giá thực tế rẻ hơn tại Paris nhờ trợ cấp hối đoái, và đây lại là thời kỳ phát minh và phát triển của loại sách bỏ túi và đĩa hát rảnh mịn (microsillon), phát hành rộng rãi, kèm theo những phương tiện truyền thanh mới. Thời trước, tuy Việt Nam là thuộc địa Pháp, nhưng văn chương Pháp chỉ du nhập qua nhà trường, giáo trình dừng lại ở cuối thế kỷ XIX : uyên bác như Xuân Diệu mà không biết Apollinaire. Sau 1954, văn hoá Pháp – và phương Tây – du nhập thẳng vào thị trường. Công chúng đọc Franỗoise Sagan tại Sài Gòn cùng lúc với Paris. Trên hè phố, nhất là tại các quán cà phê, người ta bàn luận về Malraux, Camus, cả về Faulkner, Gorki, Husserl, Heiddeger.
Nhà văn Bửu ý, bạn Trịnh Công Sơn - học trước Sơn hai lớp tại Lycộe Franỗais Huế - hát Lá Rụng (Les Feuilles Mortes) một lần với Juliette Grộco ; Đời Hồng Tươi (La Vie en Rose) một lần với Edith Piaff, Barbara một lần với Yves Montand ; trong khi Thanh Tâm Tuyền dịch Barbara của Jacques Prộvert, đăng trên Sáng Tạo và nhà văn trẻ Nguyễn Xuân Hoàng cũng ngân nga Barbara. Nguyễn Trần Kiềm, bạn cùng lớp với Sơn, đi cyclo che nắng bằng sách của Sartre.

Người ta thắc mắc về những tên ca khúc Trịnh Công Sơn cầu kỳ như Mưa Hồng, Tuổi Đá Buồn, trong khi Thanh Tâm Tuyền viết Đêm Màu Hồng, về sau trở thành phòng trà lừng danh, lại viết thêm Lệ Đá Xanh, được danh hoạ Đinh Cường, bạn thân Trịnh Công Sơn, vẽ thành tranh trừu tượng, v...v... .

Song hành với sách báo, các cơ quan văn hoá tây phương mở cửa hoạt động : Phòng Thông Tin Hoa Kỳ, Pháp, Trung Tâm văn hoá Đức ... dĩ nhiên là với những động cơ chính trị trong thời kỳ chiến tranh lạnh, mà chúng tôi không đề cập ở đây, chỉ nhấn mạnh ở ảnh hưởng văn hoá phương Tây thời đó trên đời sống trí thức miền Nam. Những Chiều Chủ Nhật Buồn nằm trong căn gác đìu hiu.. ô hay mình vẫn cô liêu, rồi đến Ngày chủ nhật buồn còn ai, còn ai : ... Tuổi buồn Em mang đi trong hư vô, ngày qua hững hờ... Không thể không nhắc đến bài Chủ Nhật Buồn, Sombre Dimanche của Seress Rejso, nghe nói đã có người tự tử vì nó. Hay vì những hư vô, cô liêu, hững hờ, thịnh hành một thời. Trong bài viết ‘Nỗi lòng của tên Tuyệt Vọng’ anh đã tiết lộ ô tôi vốn thích triết học và vì thế, tôi muốn đưa triết học vào những ca khúc của mình ằ. Ví dụ như : Vết lăn trầm hằn lên phiến đá mà anh gọi là di thạch : roche errante, người hát không hiểu gì, nhưng vẫn thích hát ! Nhưng nói là Rolling Stones cũng không sai.

Ca khúc Trịnh Công Sơn gợi suy tư, đáp ứng lại nhu cầu trí thức chính đáng ở một thiểu số và ảo tưởng trí thức thời thượng ở một đa số, trong đó có các cô cậu, ở mục Tìm Bạn Bốn Phương trên các báo, tự giới thiệu là ‘yêu màu tím’ và ‘nhạc họ Trịnh’, hay ‘nhạc TCS’ viết tắt.

Thời kỳ này, Nguyễn văn Trung đã viết bài ảo ảnh Thanh Thuý. Nói về ảo ảnh Trịnh Công Sơn, ông ấy cũng có thể viết một bài hay.

Nhạc Trịnh Công Sơn đơn giản : một nhược điểm tạo dựng thành công. Phạm Duy nhận xét về Trịnh Công Sơn ô Bài hát chỉ cần một chiếc đàn guitare đệm theo, nếu hoà âm phối khí rườm rà thì không hợp với những bài hát soạn theo thể ballade này ằ. Lại là một yêu cầu khác của thời đại : những Georges Brassens, Joan Baez lẫy lừng với cây đàn ghi-ta. Ca khúc Trịnh Công Sơn, có thể hát cho vài người nghe, cho một nhóm, hay trước quảng đại quần chúng. Nó đi vào quần chúng, nhất là giới thanh niên : Nó khác với nhạc phòng trà, có giàn nhạc và do ca sĩ hát, và thính giả đi nghe (và nhìn) ca sĩ nhiều hơn là nghe ca khúc.

Thời Trịnh Công Sơn cũng là thời của các tác-gia-soạn-giả-trình-diễn (auteur compositeur interprốte) chẳng bao năm mà trở thành huyền thoại : Jacques Brel, Bob Dylan. Báo chí Mỹ gọi Trịnh Công Sơn là Bob Dylan Việt Nam, vì nội dung phản chiến, mà còn vì phong cách trình diễn.

Nhạc Trịnh Công Sơn không phải là nhạc giao hưởng. Những soạn giả bậc thầy của nhạc lý Việt Nam thời đó, như Vũ Thành, Văn Phụng, Nghiêm Phú Phi không có quần chúng.

Trịnh Công Sơn có tài đặt nhạc, soạn lời, lại biết bắt mạch thời đại, sống đúng thế hệ của mình, trong lòng đất nước, trong nhạc cảnh thế giới. Ngần ấy cái tài dồn lại, gọi là thiên tài, cũng không quá đáng.


* *
*


Phân chất những lớp phù sa đã tấp vào dòng nhạc của mình qua những giao lưu văn hoá, Trịnh Công Sơn có nói đến những ảnh hưởng ngoại lai : ô Thưở nhỏ tôi rất thích nhạc tiền chiến và có nghe một số nhạc nước ngoài. Những năm 60, tôi có nghe nhạc Blues nói về thân phận của người da đen ở Mỹ. Tôi rất thích nhạc của Louis Amstrong, D. Ellington... Tôi thấy loại nhạc này gần gũi với mình và thấy có khả năng muốn lấy nhạc này để nói lên tâm sự của mình ằ.

Và cũng trên số báo Đất Việt đó, anh cho biết thêm về ảnh hưởng : ô Những năm 64-66, sáng tác có chất Blues, những năm 67-72, lại mang nhiều chất dân ca ằ.

‘Chất dân ca’ ở đây, phải hiểu theo nghĩa folk songs của Bob Dylan và Joan Baez thịnh hành thời đó. Cả hai danh ca đều hơn Sơn hai tuổi, cùng một thế hệ, cùng một lý tưởng chống chiến tranh, cùng một cây ghi-ta, cùng một điệu hát ; ‘Dân ca’ ở đây không phải là hò mái nhì, hò giã gạo của quê hương. Nhạc dân tộc trong thời gian đầu, dường như không mấy ảnh hưởng đến anh. Những bài theo chủ đề ru con của Trịnh Công Sơn không mấy âm hưởng những bài hát ru em Việt Nam.

Sau này, thỉnh thoảng người nghe có nhận ra chút âm hưởng hò Huế, như trong ô Thuở Bống là Người ằ, hay điệu ru dân tộc, như ô Lời Mẹ ru Con ằ thì cũng chỉ là đôi biệt lệ, không tiêu biểu.

Gần đây, sách báo thường trích dẫn câu Trịnh Công Sơn :
ô Tôi chỉ là tên hát rong, đi qua miền đất này để hát lên những linh cảm của mình về những giấc mơ đời hư ảo ằ.

Lại phải hiểu chữ ô hát rong ằ theo nghĩa hiện đại : không phải là ông sẩm chợ, hát vè Thất Thủ Kinh Đô ở phố Đông Ba mà Huy Cận đã mô tả, mà hình ảnh người du ca hiện đại, những baladins itinộrants trong ca khúc Bob Dylan, trong quan niệm Nhạc Du Bất Tận, Never Ending Tour (1988). Nhà thơ Tô Thùy Yên, chuộng thuyết chính danh, nên đã nói rõ điều này và gọi Trịnh Công Sơn là ‘người du ca chính hiệu’ :
ô Người du ca là một nghệ sĩ đặc biệt đứng giữa âm nhạc và thi ca, đúng hơn, người du ca là một thi sĩ nhiều hơn là một nhạc sĩ.
Người du ca thường khi xuất hiện và nổi bật trong những thời đại được coi là u uất nhiễu nhương, những thời đại mà tiếng nói con người bị lấn át, tự do con người bị cưỡng chế, giá trị con người bị hạ thấp, hạnh phúc con người bị tước đoạt và ước vọng con người bị bao vây .
Thành thử những tác phẩm du ca có thể là những tác phẩm yếu hơi, dễ dãi, sơ sài, những tác phẩm thành hình trong một thoáng cảm hứng nhất thời, những tác phẩm như những ký tự ghi chép vội vàng trên một trang giấy tình cờ, và thả bay ngay theo thời thế ằ.

Trong Cõi Tạm, ăn xổi ở thì này, nơi con người chôm liền chộp lẹ mọi cơ hội để mua lẻ và mua rẻ chút hư danh, có người còn viết được những lời như vậy, là nghiêm túc và tâm huyết. Nhất là viết cho một người vừa khác phe, vừa khác phái.

Văn Cao cũng là một người sành chữ nghĩa. Trong câu chuyện thân mật, anh thường nói ‘Sơn là một troubadour (kẻ hát rong) có tài’. Nhưng khi viết về Trịnh công Sơn, anh dùng chữ chantre, trang trọng hơn, trong nghĩa ‘kẻ ngợi ca’ : ô bởi Sơn đã hát về quê hương đất nước bằng cả tấm lòng của một đứa con biết vui tận cùng những niềm vui, và biết đau đến tận cùng những nỗi đau của Tổ Quốc Mẹ hiền ằ . Troubadour hát nhạc mua vui cho trần thế, Chantre hát những Lời Buồn Thánh. Tuy nhiên, Trịnh Công Sơn cũng chỉ tự xưng là troubadour, như tên đặt cho phòng tranh anh triển lãm chung với Đinh Cường, Bửu Chỉ tại Gallery Tự Do, tháng 8/2000.
Năm 1969, bạn anh, họa sĩ Trịnh Cung, đã vẽ bức tranh đẹp, tên là Le troubadour = Kẻ du ca, hát để kêu gọi hoà bình. Những chuyện này đều tương quan với nhau.
Khi Phạm Duy gọi ca khúc Trịnh Công Sơn là những ballades, không cùng một nguồn gốc với chữ baladin, cũng là có ý trang trọng.

Các vị ấy tài cao, ý sâu mà lòng thì rộng rãi ; cho nên lời cũng khoáng đạt.


* *
*


Hôm qua trăng sáng lờ mờ
Em đi tát nước, tình cờ gặp Anh

Người con gái Việt Nam da vàng, ngày xưa, đã hát như thế trong ca dao, là để che dấu khát vọng tình yêu, chứ trong đời sống nông thôn thời ấy, làm gì có cái tình cờ.

Đời sống thế giới hiện nay, nghĩ cho cùng, cũng vậy thôi. Những giai điệu blues, nhạc phản kháng Bob Dylan, Joan Baez, thơ Prộvert, Aragon, Eluard ... Trịnh công Sơn đã gặp gỡ, trên dòng nhạc, dòng thơ, dòng tâm tư. Và dòng lịch sử, dân tộc và thế giới. Trong cao trào lớn của loài người, giữa lòng thế kỷ hai mươi : cao trào giải phóng dân tộc, chủng tộc và giai cấp. Đừng quên việc giải phóng phụ nữ : người phụ nữ Pháp đi phá ngục Bastille từ 1789, mãi đến 1946 mới có quyền đầu phiếu.

Người phụ nữ Việt Nam cũng vậy thôi : sau khi chờ chồng hoá đá, họ bước chân vào thế kỷ XX, thì ngồi đan áo. Từ Buồn Tàn Thu của Văn Cao, qua Bếp Lửa của Thanh Tâm Tuyền, thơ hiện đại của ý Nhi, cho đến năm 2000, trong ca khúc Đêm Xanh của Bảo Chấn, cô ấy vẫn ngồi đan áo, trong khi dọc hè phố, áo pull bán rẻ mạt.

Đan áo là hình ảnh ẩn nhẫn, thụ động mà người đàn ông đòi hỏi. Đan áo cho ai đó, hay để tưởng nhớ, chờ đợi ai đó. Ca khúc Trịnh Công Sơn, rất nhiều phụ nữ, nhưng không thấy họ đan áo. Mà chỉ ... ngồi chơi, khi nghiêng vai, khi nghiêng đầu, khi nghiêng sầu. Ngồi chơi chán rồi thì Đứng lên gọi mưa vào Hạ. Nếu khóc, cũng chỉ khóc cho những Chiều mưa đỉnh cao .... Mai kia, có ra đi, thì cũng là Như những dòng sông nhỏ.

Người đàn bà trong Trịnh Công Sơn đẹp dung dị và tự do bình thường. Tự do với cuộc đời, với tình yêu, thậm chí với tình dục. Nhạc Trịnh Công Sơn không nói đến tình dục, vì nói đến ... làm gì ?

Người phụ nữ nghe và hát nhạc Trịnh Công Sơn thoải mái, vì chỉ hát, hay nghe, mà không phải làm gì cả, không phải Hái Mơ, Lái Đò, bán Hàng Cà Phê, Hàng Nước, không phải thay quần áo làm cô Sơn Nữ, cô Láng Giềng hay mua lấy số phận Người Yêu của Lính. Và nhất là không phải ... đi lấy chồng : hạnh phúc không thấy đâu mà chỉ nghe oán trách dài dài suốt nửa thế kỷ : Em đi trên xác pháo, anh đi trong nước mắt... Em ơi tình duyên lỡ làng rồi, còn chi nữa mà chờ ... Và, ở một chân trời khác, họ cũng không phải ba đảm đang, ba sẵn sàng, làm Người Mẹ Cầm Súng, xung phong đi gỡ mìn ở Ngã Ba Đồng Lộc ...
Sau 1975, khi ô Em ở Nông trường, em ra Biên giới ằ thì người nghe có cảm giác cô Tấm đã trở thành cô Cám, và Trịnh Công Sơn sẽ gào gọi Bống hỡi Bống hời, cô Tấm thỉnh thoảng có tái hiện, nhưng cũng đã tân trang nhiều lắm.

Trong xã hội Việt Nam, cho đến hôm nay, chưa chắc gì người phụ nữ đã được giải phóng, và tôn trọng đúng mức. Trong ca khúc Trịnh Công Sơn, họ được giải phóng và tôn trọng. Tôn trọng người đàn bà, không phải là tán tỉnh, Trịnh Công Sơn, rất hồn nhiên đã hiểu ra và nói vào điều đó.

* *
*

Nhạc phản chiến, đòi hỏi hoà bình của Trịnh Công Sơn thì nhiều người biết, sẽ có nhiều người viết về đề tài này. Mới đây, trong buổi tưởng niệm Trịnh Công Sơn, tại Californie, anh Đỗ Ngọc Yến có nói rõ và nói đúng, khác với Đỗ Ngọc Yến cách đây 40 năm và 20 năm.

Tôi không đủ thì giờ viết về đề tài này, nhưng sẽ đề cập đến ở một dịp khác, nay chỉ vội nói ngay mấy ý kiến chủ quan :

1.- Dù đánh giá ra sao đi nữa, nhạc Trịnh Công Sơn cũng là sản phẩm của chế độ Việt Nam Cộng Hoà, trong cả hai mặt tích cực và tiêu cực của chế độ này.
Không có Miền Nam, cũng có thể có một Trịnh Công Sơn, nhưng là một Trịnh Công Sơn khác, đại khái như một Phạm Tuyên hay Phan huỳnh Điểu.

2.- Chính quyền Cộng Sản, sau 1975, sau những thăm dò, đã lưu dung một phần trong nhạc phẩm Trịnh Công Sơn và đã khéo sử dụng Trịnh Công Sơn. Có thể nói sau 25 năm chiến thắng, thành công hiếm hoi, nếu không phải là duy nhất, của chính sách văn hoá của chính quyền cộng sản, là tiếp thu nhạc Trịnh Công Sơn, mà công đầu là Thành Uỷ TPHCM. Dùng chữ ‘chính sách’, là để nhìn toàn cảnh, chứ đối với một cá nhân, chắc chỉ có những quyết định cục bộ, nhất thời, bất thành văn. Dù sao, họ cũng chỉ kế thừa kinh nghiệm Liên Xô vào thời kỳ Tân Chính Sách Kinh Tế (NEP) những năm 1920, sau cuộc nội chiến, khi Lenine thu dung những nhà văn, nhà thơ ‘bạn đường’ (Popoutchiki) như Alexis Tolstoi hay Zamiatine.

Trong chiến tranh chống Pháp, người Cộng Sản đã không thu phục được Phạm Duy. Sau 1954, họ không thu phục được Văn Cao. Nhưng sau 1975, họ thu hoạch được Trịnh Công Sơn, như vậy đã là thành công. Thành công về mặt hiện tượng, không phải về mặt bản chất. Về mặt bản chất, chuyên chính vô sản không bao giờ chấp nhận cái gì khác họ, không phải do họ tạo ra. Mặt khác, ca khúc Trịnh Công Sơn trước kia và bây giờ không có ‘tiêu chuẩn’ đáp lại quy luật của hiện thực xã hội chủ nghĩa. Cố gắng đến đâu thì cây cam cũng không tạo được quả chanh. Trước kia ‘hai mươi năm nội chiến từng ngày’ là sai đường lối, bây giờ hỏi ‘Em còn nhớ hay Em đã quên’ vẫn sai lập trường.

Chấp nhận - dù trong giới hạn - những dư vang của một chế độ chính trị mà mình cố công bôi xoá, chính quyền TPHCM, trong chừng mực nào đó, đã nhượng bộ quần chúng, đã gián tiếp thừa nhận mình thất bại, trong việc ngăn chặn nhạc vàng, và nhất là trong việc đào tạo một nền âm nhạc mới đáp ứng với quần chúng. Chính quyền Trung ương Hà Nội ‘wait and see’ để cho TPHCM ‘phát huy sáng kiến’ ; nếu rách việc thì ra tay chận đứng một ‘quyết đinh địa phương’, nếu vô hại thì án binh bất động, và thêm được tiếng là cởi mở, hoà hợp.

3.- Về phía Trịnh Công Sơn, anh cũng khéo thoả hiệp với chính quyền mới. Việc anh ở lại Việt Nam sau 1975, hợp tác với các hội văn nghệ Huế, rồi TPHCM là hợp lý, sau khi đã sáng tác Khi đất nước tôi thanh bình, tôi sẽ đi thăm... Đó là sự chọn lựa tự do của anh. Cũng như Nguyễn Trãi xưa kia, cháu ngoại nhà Trần, mà không phò tá các phong trào kháng chiến Hậu Trần, lại đi hợp tác với đám nông dân Lam Sơn. Hay như Ngô thời Nhậm, nhiều đời ăn lộc chúa Trịnh vua Lê, mà đã đi hợp tác với nhóm áo vải Tây Sơn. Từ đó người ta có thể thông cảm khi anh làm một số bài ca ngợi chế độ mới, không hay lắm và ít được hát, ít người biết : âu cũng là điều may mắn cho anh, vì anh đã có một số câu chữ không hay và không cần thiết.

Anh là người được hưởng nhiều bổng lộc của chính quyền, nhiều hơn những cán bộ đã vào sinh ra tử trong cả hai cuộc chiến tranh. Anh có thể hát Đời Cho Ta Thế. Thật ra, đời không cho ai cái gì mà chỉ đổi chác ; anh đã phải trả giá, có khi là giá rất đắt. Anh không trả thì nhiều người khác phải trả. ý thức điều đó có lần anh viết : ô Tôi không bao giờ có tham vọng trở thành một người viết ca khúc nổi tiếng. Nhưng đời đã tặng cho tôi món quà ấy thì tôi không thể không nhận. Và khi đã nhận rồi thì phải có trách nhiệm với mọi người ằ.

Nói thì ngon lành như thế. Thực tế không đơn giản : người ta cho anh bó hoa, chai rượu. Ai cho anh trách nhiệm ? Anh hát ô mỗi ngày tôi chọn một niềm vui ằ, khi bạn anh, Thái Bá Vân, phó viện trưởng Viện Mỹ Thuật Hà Nội than : ‘một năm không được một ngày vui’. Muốn mua vui, phải vào Sài Gòn ... chơi với Sơn. Nhưng chẳng qua là niềm vui của phận ‘chim lồng cá chậu’ ; Hiểu như thế, bạn bè không đòi hỏi gì nhiều ở một nghệ sĩ yếu đuối, sống chết giữa trùng vây như anh.

Người ta đánh giá một tác giả qua những tác phẩm anh ta đã thực hiện, chứ không qua những tác phẩm mà ‘lẽ ra’ anh ta phải thực thực hiện. Nhân danh cái ‘lẽ ra’ ấy, người làm văn học nghệ thuật đã là nạn nhân của bao nhiêu là oan khiên, oan khốc và oan khuất.

Không những vì chút tình riêng, nhưng còn vì tình đời, luật công bình, luật tương đối, luật chơi, chúng ta nên gạt sang một bên nhiều cái ‘lẽ ra’ đối với Trịnh Công Sơn, mà chỉ xét những cái anh đã làm ra.

4.- Qua bốn mươi năm truân chuyên, Trịnh Công Sơn đã có những đóng góp lớn lao vào nền văn học nghệ thuật, vào đời sống xã hội, và lịch sử chính trị. Phần lớn sự nghiệp anh đã thành hình và thành công dưới chế độ Việt Nam Cộng Hoà, mà mọi người đã biết. Bài này tạm thời chưa nói đến.

Ngoài quần chúng cũ, nghe nhạc Trịnh Công Sơn vì yêu thích hay để nhớ lại ngững âm hao xưa cũ, thì thính giả khác, giới thanh niên Việt Nam ngày nay, hay người miền Bắc trước 1975, đón nhận ra sao ?

Trong xã hội Việt Nam ngày nay, ca khúc Trịnh Công Sơn mang lại chất Thơ cho đời sống. Nhìn qua một số đĩa hát CD, thu nhiều bài của nhiều soạn giả, thì cái tên chung thường mượn tiêu đề của Trịnh Công Sơn, như Lời Thiên Thu Gọi (Hồng Nhung), Xin Mặt Trời hãy ngủ yên (Mỹ Linh), những tiêu đề nhiều âm vang, nhiều thi vị. Những nhạc sĩ khác, Dương Thụ, Phú Quang, Trần Tiến, Bảo Chấn... đều tài cao, nhưng được đào tạo và trưởng thành trong một xã hội duy dụng và thực dụng, óc sáng tạo cao siêu của họ không đặt ra những câu hỏi vớ vẩn như là Sóng Về Đâu ? Vì thực tế : sóng thì ... về đâu ? Trong một mẩu xã hội nào đó, đặt những câu hỏi như thế, là có cơ nguy bị nhốt vào nhà thương điên.

Chủ nghĩa hiện thực xã hội rất nghiêm khắc, yêu chuộng văn vần, một loại văn xuôi diễn ca (prose versifiộe), với điều kiện loại văn vần ấy không có chất Thơ. Thi phẩm của ‘công thần’ Nguyễn đình Thi còn bị gạt ra nói gì đến ‘hàng thần’ Trịnh Công Sơn ? Nhưng ca khúc Trịnh Công Sơn đã lọt qua được các mắt lưới, vì đã cấp thời đáp lại được ‘lời gọi của khoảng trống’ (l’appel du vide) và ca khúc là một thể loại nhẹ, phù phiếm (genre lộger), chính quyền dung dưỡng vì có khả năng chận đứng bất cứ lúc nào – như đã làm với nhạc Văn Cao ngày xưa : thậm chí bài Quốc Ca còn bị hăm doạ thay đổi. Và đang làm với Phạm Duy ngày nay. Trong các CD thu tại Việt Nam hiện nay có ai thấy Giấc Mơ Hồi Hương, nhạc Vũ Thành ?

Chính quyền dung dưỡng ca khúc Trịnh Công Sơn không phải vì động cơ nghệ thuật, nhưng như một thế phẩm (ersatz), trong thời kỳ quá độ, như bác sĩ ban thuốc an thần cho bệnh nhân mất ngủ. Trong khi chờ đợi, thính giả hưởng lạc khoản, được ngày nào hay ngày ấy. Họ đang được nghe bài Sóng Về Đâu một trong ca khúc cuối đời Trịnh Công Sơn :

Biển sóng, biển sóng đừng xô tôi
Đừng xô tôi ngã dưới chân người
Biển sóng, biển sóng đừng xô nhau
Ta xô biển lại sóng về đâu
Sóng bạc đầu và núi chìm sâu
Ta về đâu đó
Về chốn nào mây phủ chiêm bao

Xã hội chủ nghĩa có thể tạo ra nhiều bài hát hay hơn. Nhưng tạo ra được cái gì na ná như thế thì vô phương. Thiên tài không phải là người không bắt chước ai, mà là người không để ai bắt chước được mình.

5.- Chứng từ cho giá trị một tác phẩm nghệ thuật, là khả năng kết hợp rộng rãi và lâu dài của nó. Nhạc Trịnh Công Sơn được hát rộng rãi ở Miền Nam trước 1975, chúng ta đã biết. Nhưng trước 1975, Miền Bắc đã nghe và đã thích nhạc này, như Văn Cao đã kể lại . Nguyễn Duy kể thêm rằng ở dọc Trường Sơn, bộ đội miền Bắc cũng đã nghe :

ô Mặt trận Đường Chín-Nam Lào (1971)... trong căn hầm kèo bên dòng sông Sêbănghiêng ... Nghe, nghe trộm - vâng, lúc đó gọi là nghe trộm - đài Sài Gòn, tình cờ ‘gặp’ Trịnh Công Sơn qua giọng hát Khánh Ly... Diễm Xưa... Mưa vẫn mưa rơi ... làm sao em biết bia đá không đau ... Quỷ thật ! giai điệu ấy và lời ca ấy tự nhiên ‘ghim’ lại trong tâm tưởng tôi ngay từ phút bất chợt ấy. Rồi Như Cánh Vạc Bay... Quái thật ! ... Cảm nhận bất chợt, những bài hát rất mượt mà, đắm đuối ấy... ừ thì có buồn đấy, đau đấy, quặn thắt nữa đấy... nhưng còn là cái gì lành mạnh nảy nở trong đó. Hình như là cái Đẹp... Bảng lảng, lờ mờ, khó phân định cho đúng nghĩa, nhưng rõ ràng là đẹp, đẹp làm sao... Và cũng hơi ma quái thế nào ... ằ

Người ác ý có thể ngờ vực : Nguyễn Duy là nhà báo có quyền nghe đài, sau này là bạn rượu của Trịnh Công Sơn, nên thêm thắt. Thì đây, một chứng từ khác đến từ một anh bộ đội, không quen biết gì, không điếu đóm gì với Trịnh Công Sơn, nhà văn Nguyễn văn Thọ, hiện ở Berlin :

ô Năm 1972, khi ấy tôi là bộ đội trong rừng Trường Sơn. Thằng bạn tôi, sau chiến dịch Lam Sơn 719 vớ được cái đài Sony rât tốt.
Đêm Trường Sơn, chờ cho mọi người đi ngủ hết, chúng tôi lén mở đài BBC và cả đài Sài Gòn. Đấy là lần đầu tiên tôi được nghe tiếng hát Khánh Ly với nhạc Trịnh Công Sơn.
Chúng tôi là lớp người lớn lên từ Miền Bắc, thường quen với những khúc thức hùng tráng. Trong tiếng chộn rộn rú rít của sóng vô tuyến, tôi vẫn thấy một giọng lạ của một thứ âm nhạc mới. Một thứ nhạc da diết, đầy lãng đãng từ ca từ, tới khúc thức. Một thứ nhạc xanh không giống bất cứ nhạc xanh nào mà tôi từng nghe, kể cả trong những đĩa hát quay tay cổ mở suốt ngày rên rỉ ở đầu chợ trời những ngày sau hoà bình.
Rất lạ, với tôi khi đó nhạc Trịnh Công Sơn như làn gió khởi từ xa xăm đâu đó, tách khỏi hận thù trận mạc, tha thiết một tình yêu đồng loại, giống nòi, yêu bè bạn, hoà bình, đạo lý. Nó lạ, vì lối ca từ phi tuyến tính, không giống cách viết truyền thống trên những ca khúc của Hà Nội khi đó ằ

Quý hoá hơn nữa, anh Thọ đã ghi lại cảm giác khi tiến quân vào Sài Gòn, nghe nhạc Trịnh Công Sơn hát Nối Vòng Tay Lớn, buổi trưa ngày 30/4/1975, trên đài Sài Gòn :

ô Mặt đất bao la ... anh em ta về ... gặp nhau trong bão lớn quay cuồng trời rộng ...
Lời ca không phải là tiếng thách thức tử thủ. Lời ca không phải là tiếng bể máu như kết cục thường của chiến cuộc, lời ca khi ấy làm chùng xuống không khí thù hận và hằn học.
Chúng tôi tiến vào Sài Gòn...
Nối Vòng Tay Lớn
Chiến tranh nào bao giờ chẳng có mặt trái, nhưng tiếng hát kia, bản nhạc ấy, mở ra cho cả hai bên nghe như một liều thuốc vô hình đã làm chùng xuống một thời khắc thường dễ nổi cáu và nổi doá.
Đấy là kỷ niệm thứ hai của tôi về anh ằ

Tiếng hát làm chùng tay súng. Một ngày, một giờ mà sinh mệnh của hằng triệu con người nằm trên đường tơ kẽ tóc, một sự kiện như thế không trọng đại hay sao ?
Văn học nghệ thuật Việt Nam, đã bao nhiêu lần đóng vai trò đó ?

Sau này, Thọ sang sinh sống tại Đức, theo diện xuất khẩu lao động, vẫn nghe nhạc Trịnh Công Sơn :
ô Ngay cả sau này, đôi khi tự an ủi mình, nâng đỡ mình, tôi khe khẽ hát ‘Tôi ơi đừng tuyệt vọng’... và nhiều bài ca khác trong nhiều hoàn cảnh khác nhau, nhưng tôi vẫn nhớ từng chi tiết và cám ơn nhạc sĩ Trịnh Công Sơn ở trưa phát thanh trên làn sóng Sài Gòn ngày đó ằ

ở một chân trời khác, nhiều người oán trách Trịnh Công Sơn về việc lên đài hát Nối Vòng Tay Lớn , trưa ngày 30.4.1975. Thật ra, anh có hát hay không hát, thì chế độ Việt Nam Cộng Hoà cũng tan rã. Anh có hát, và có hợp tác với chính quyền mới, âu cũng là một cách cứu vãn vết tích văn hoá của nền Việt Nam Cộng Hoà đã đào tạo ra anh về mặt tài năng và sự nghiệp, thậm chí tạo ra cả một huyền thoại Trịnh Công Sơn.

Một lần nữa, ông Nguyễn văn Trung, sau ảo ảnh Thanh Thúy nếu viết Trịnh Công Sơn Thực Chất và Huyền Thoại cũng sẽ nghĩ ra nhiều điều hay.

Nếu có ai đó nói rằng : Trịnh Công Sơn là một khổ nhục kế, để kéo dài hơi thở văn hoá của một chế độ chính trị đã bị bức tử, thì là lời đại ngôn, duy cảm, nghịch lý, vớ vẩn.
Vớ vẩn như một số lời ca trong tác phẩm Trịnh Công Sơn. Nhưng biết đâu chẳng là sự thực ? Sự thực trong bao nhiêu cái vớ vẩn, kể cả trong lịch sử.
Chế Lan Viên, năm 1984, đã viết : ô Văn hoá của thực dân mới là con đẻ của chủ nghĩa thực dân mới. Quân sự, chính trị thực dân mới có chết, có băng hà thì nó cũng truyền ngôi cho văn hoá ằ . Và Chế Lan Viên không phải là người vớ vẩn, viết lách vớ vẩn.


* *
*


ô Không xa đời và cũng không xa mộ người... ằ
Trịnh Công Sơn đã xa đời lúc 12 giờ 45 tại Sài Gòn, ngày 01.4.2001.

Đám tang ngày 4 tháng tư, nghe nói lớn lắm, hàng trăm tràng hoa ngập con hẻm 47 Duy Tân. Hàng vạn người đưa tiễn, trong đó có thể có người đi tiễn một điều gì khác, một tâm tình hay u hoài nào đó của riêng mình, chẳng hạn.

André Malraux có nói đâu đây rằng ô trong Thiên Chúa Giáo, chỉ có những pho tượng là vô tội ằ. Trịnh Công Sơn đã sống non nửa sau cuộc đời, trong một chế...
Từ Thụy
#48 Posted : Friday, May 12, 2006 8:34:47 PM(UTC)
Từ Thụy

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Editors
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 1,394
Points: 39
Woman

Thanks: 2 times
Was thanked: 3 time(s) in 3 post(s)
Cám ơn chị Song Anh đã mang các bài viết rất hay về đây Rose.
LeBienHoa
#49 Posted : Saturday, June 3, 2006 6:05:24 AM(UTC)
LeBienHoa

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 39
Points: 0

Nhiều khi tui cúu rờ tay lên trán xem mình...có ấm đầu hay không ! Có mát dây hay không...khi thấy ai cũng khen nhạc của Ông TCS là hay...lời hay , nhạc cũng rất hay. Có người còn cho là...thien tài âm nhạc VN nữa...mà riêng tui cố gắng cách nào cũng không nhấm nháp nổi nhạc của ông ta chút nào , nhất là về lời. Tui cứ thấy như là ông ta viết lời tuỳ hứng theo từng câu cho nên câu trước và câu sau chả có ăn nhập gì với nhau , nó rời rạc...và nếu ngâm kíu cả bài thì...tui chả hiểu ý của bài ông ta muốn viết là gì cả (hầu hết các ca khúc) , hay tại tui...dốt quá không hiểu nổi những ý cao sa của thiên tài chăng ( chắclà vậy mới có thể giải đáp cho trường hợp của tui). "Mưa hồng"...lẽ ra là...zui ,là hy vọng...ấy thế mà...hông phải...tàn là thất vọng thui , nếu là tui tui đạt cái tên bai nhạc đó là " mưa đen thui"...hihi

Mỗi người có cái thưởng thức riêng , chả ai giống ai...tui hiểu điều đó , và đây chỉ là ý của mình tui...góp vài câu cho đề mục thêm màu sắc tương phản. ( Xin đọc lại lời của vài bài đã được post ở phần đâu đề mục để thấy câu trước câu sau chả ăn nhập gì với nhau giống như người đi...hai hàng )
Tonka
#50 Posted : Saturday, June 3, 2006 12:12:53 PM(UTC)
Tonka

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,643
Points: 1,524

Thanks: 95 times
Was thanked: 201 time(s) in 189 post(s)
Lâu quá mới thấy anh LeBienHoa trở lại. Cháu bé ăn uống có dễ dàng hơn chưa, đã vô trường chưa vậy anh?

Âm nhạc cũng giống như thức ăn vậy. Ai nói tiết canh vịt ngon chứ tui sợ muốn chết, dòm người ta ăn cái miệng đỏ hoét, ewww Tongue Mme Ngô tung hô vạn tuế nhạc cổ điển nhưng chị Linh Vang thì tuyên bố nghe nhạc sến nó mới đã Big Smile ..... hi hi, thế nó mới vui anh à Wink
linhvang
#51 Posted : Saturday, June 3, 2006 2:26:12 PM(UTC)
linhvang

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Editors
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 4,933
Points: 1,248
Woman
Location: University Place, Washington State, USA

Thanks: 23 times
Was thanked: 45 time(s) in 43 post(s)
quote:
Gởi bởi tonka


Âm nhạc cũng giống như thức ăn vậy. Ai nói tiết canh vịt ngon chứ tui sợ muốn chết, dòm người ta ăn cái miệng đỏ hoét, ewww Tongue Mme Ngô tung hô vạn tuế nhạc cổ điển nhưng chị Linh Vang thì tuyên bố nghe nhạc sến nó mới đã Big Smile ..... hi hi, thế nó mới vui anh à Wink


Yes, tonka. Ai chê mình sến mình cũng chịu luôn! Big Smile
Phượng Các
#52 Posted : Saturday, June 3, 2006 2:27:42 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
quote:
Gởi bởi LeBienHoa

Nhiều khi tui cúu rờ tay lên trán xem mình...có ấm đầu hay không ! Có mát dây hay không...khi thấy ai cũng khen nhạc của Ông TCS là hay...lời hay , nhạc cũng rất hay. Có người còn cho là...thien tài âm nhạc VN nữa...mà riêng tui cố gắng cách nào cũng không nhấm nháp nổi nhạc của ông ta chút nào , nhất là về lời. Tui cứ thấy như là ông ta viết lời tuỳ hứng theo từng câu cho nên câu trước và câu sau chả có ăn nhập gì với nhau , nó rời rạc...và nếu ngâm kíu cả bài thì...tui chả hiểu ý của bài ông ta muốn viết là gì cả (hầu hết các ca khúc) , hay tại tui...dốt quá không hiểu nổi những ý cao sa của thiên tài chăng ( chắclà vậy mới có thể giải đáp cho trường hợp của tui). "Mưa hồng"...lẽ ra là...zui ,là hy vọng...ấy thế mà...hông phải...tàn là thất vọng thui , nếu là tui tui đạt cái tên bai nhạc đó là " mưa đen thui"...hihi

Mỗi người có cái thưởng thức riêng , chả ai giống ai...tui hiểu điều đó , và đây chỉ là ý của mình tui...góp vài câu cho đề mục thêm màu sắc tương phản. ( Xin đọc lại lời của vài bài đã được post ở phần đâu đề mục để thấy câu trước câu sau chả ăn nhập gì với nhau giống như người đi...hai hàng )


Ha ha, anh LeBienHoa bày tỏ ý kiến như trên là interesting lắm đó chớ. Cũng nhiều người từng nói vậy rồi chớ đâu phải chỉ có mình anh. Tôi cũng từng là một trong số đó. Có lẽ nhóm người này thuộc lọai duy lý. Đọc một bài văn hay thơ thì muốn hiểu từng câu từng chữ cho rạch ròi. Tuy nhiên bảo rằng ta hoàn toàn không hiểu lời của nhạc ông TCS vì câu trước câu sau chả có ăn nhập gì nhau thì cũng quá đáng. nhiều bài của ông ta thật ra nhiều người thích chỉ nhờ một vài câu (ý tứ diễn ra lời) trong một bản mà thôi (tôi cũng là thuộc lọai này). Thí dụ như bài Mưa Hồng mà chính anh lấy ra làm thí dụ. Toàn bài theo tôi chỉ có câu cuối là đi vào lòng người và ở lại trong ta một niềm man mác (nếu anh vẫn không cảm nổi câu cuối thì coi như không còn gì để bàn thảo hay chia sẻ được nữa!). Danh ngôn có câu: Có người vì yêu đôi má lún đồng tiền mà phải bê nguyên một thiếu nữ về làm vợ thì ta cũng có thể theo đó mà nghĩ như thế về nhạc TCS. Tại một hai câu, vài ý tứ trong một bản nhạc mà ta phải thích nguyên bài hát của ông ta vì phải đưa cả bản nhạc lên thì mới chở tới câu có hồn đó .... Tuy bảo là các lời trên không ăn nhập nhưng có phải vì thế mà chúng tạo cho ta một trạng thái rã rời nào đó hay không - thì tại không hiểu mới thấy.....mệt rồi đâm ra rã rời Big Smile ... Mà nếu không khí toàn bài làm cho ta rã rời thì câu cuối hạ xuống mới làm ta thấm thía. Thế là bài hát ở lại trong lòng người thưởng ngoạn. Và rồi người ta thấy nó hay!

Chưa nói về âm nhạc ở đây, lãnh vực này vượt quá khả năng bàn luận của tôi. Mà nếu không có phần âm nhạc thì TCS chắc chắn không có địa vị như ngày nay.

Phụ lục: bài Mưa Hồng từ kho nhạc của dactrung.net

Mưa Hồng
Trời ươm nắng cho mây hồng
Mây qua mau em nghiêng sầu
Còn mưa xuống như hôm nào em đến thăm
Mây âm thầm mang gió lên

Người ngồi đó trông mưa nguồn
Ôi yêu thương nghe đã buồn
Ngoài kia lá như vẫn xanh
Ngoài sông vắng nước dâng lên hồn muôn trùng

Nay em đã khóc chiều mưa đỉnh cao
Còn gì nữa đâu sương mù đã lâu
Em đi về cầu mưa ướt áo
Đường phượng bay mù không lối vào
Hàng cây lá xanh gần với nhau

Người ngồi xuống mây ngang đầu
Mong em qua, bao nhiêu chiều
Vòng tay đã xanh xao nhiều
Ôi tháng năm gót chân mòn trên phiếm du

Người ngồi xuống xin mưa đầy
Trên hai tay cơn đau dài
Người nằm xuống nghe tiếng ru
Cuộc đời đó có bao lâu mà hững hờ


LeBienHoa
#53 Posted : Sunday, June 4, 2006 8:21:35 PM(UTC)
LeBienHoa

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 39
Points: 0

Chào chị Tonka
Cám on chị. Cháu dạo này có khá hon một chút chị à. Cháu đã toi truòng rồi...vất vả quá chị oi.
Chúc chị vui, khoẻ.

Chị Phuong Cac oi
Nguòi VN ta chả mấy ai can đảm nhu...chị LV đâu. Thuong thì họ sọ bị chê là...quê là sến ghê lám , chảng hạn nhu co nhieu nguòi mê hát cải luong...nhung lại khong dám nhận mình nhu thế vì sọ bị chê là...cải luong...hihi. LBH cũng vậy...sọ chi PC chê là...chậm hiểu hết cách bàn nên...vui vẻ đồng ý vói chị câu cuối của bài MH hay lám , mà thật ra theo LBH thì câu nào của ông cũng rất hay, rất tho* , chỉ có tội là nó không có liên kết ý tuỏng vói nhau làm cho toàn bài khó hiểu( dĩ nhiên không là tất cả). LBH có ý so sánh thế này : nhu* truyện cổ tích Tấm Cám...hihi , một thúng gạo trộn chung cả thóc (lúa), có cả đậu xanh, đậu đỏ, đậu đen, có cả hạt báp...lọai hạt nào cũng là nhũng thục phẩm quí, cần thiết...nhung nếu gọi chung nó lại thì LBH này không biết gọi cái thúng, cái mẹt đó là thúng gì , thúng gạo cũng không đúng, thúng thóc cũng không đúng, thúng đậu cũng không đúng...nên thật là rã ròi...
Đông ý vói chị PC , có nguòi lấy vọ chỉ vì cô vọ mình có một đạc điểm nào đó mà mình thích , nhu co ta co má lúm đồng tiền...nhung nguòi chồng đó nhất định phải biết ràng vói chỉ một cái má lúm đồng tiền thôi thì vọ mình không thể là một tuyệt sác giai nhân hay là một hoa hậu đuọc. Muốn là một hoa hậu , để đuọc đội vuong miện , hoa hậu phải đạt đuọc nhũng tiêu chuẩn nhất định nào đó chú không chỉ có một đôi mát đẹp hay một dáng nguòi thon thả...hay có má lúm đồng tiền , hihi
LBH không phủ nhận cái tài hoa của Ông TCS, cái công súc đóng góp vào nền âm nhạc nuóc nhà.của ông..nhung nó có một chùng múc nào đó thôi , ỏ một vị trí nào đó thôi , chú có nguòi cú đua ông lên tận mây xanh...mây âm thầm mang gío lên e ràng co ngày đuòng phuọng bay mù không lối vào...hihi
Cám on chị PC , mà này sao ít thấy nhạc của TCS đuọc các trung tâm nhạc cho hát ỏ hải ngọai vây hen? chỉ có ca sĩ KL là thỉnh thoảng hát vài bài...mà theo ý nghĩ của LBH có lẽ cũng chỉ là để tuỏng nhó lại thòi vàng son xua. Nguòi già thì hay...sống vói quá khú vậy mà. Chị PC có chung cái ý nghĩ đó không nhỉ , hihihi
Chúc chị PC vui khoẻ.
Song Anh
#54 Posted : Sunday, June 4, 2006 8:55:10 PM(UTC)
Song Anh

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 1,004
Points: 18



S.A chào làm quen anh LBH....beerchug


quote:
Gởi bởi LeBienHoa

... Nguòi già thì hay...sống vói quá khú vậy mà. Chị PC có chung cái ý nghĩ đó không nhỉ , hihihi




Theo S.A nghĩ thì chắc là không...rồi....chị PC...trẻ hơn anh nghĩ nhiều....Blush...
Trước khi đi gặp chị PC , S.A cứ "thắc thỏm"...hồi họp như đi gặp Má chồng tương lai vậy Eight BallQuestion..chừng đối diện với chỉ...mới vở lẻ...chỉ...làm chị hai thì xứng hơn....Big Smile
LeBienHoa
#55 Posted : Monday, June 5, 2006 1:14:43 AM(UTC)
LeBienHoa

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 39
Points: 0

Chào Song Anh

he he...Sao SA lại...cố tình gài LBH vào ngõ bí thế nhỉ? LBH nào nói là...PC...già bao giò nào. LBH dù chua gap , chua duoc ngám dung nhan PC dù chỉ qua hình ảnh , nhung nghe tên PC tù lâu rồi và biet rất rõ ràng...PC còn rất trẻ , SA sao lại gán cái tiếng ác ấy cho LBH? bộ LBH có làm gì phật lòng SA rồi SA..."thù" LBH cha(ng? hehe...Nói choi cho vui thôi , đùng để ý nha SA , chú thiệt là SA đã hiểu lầm câu nói trên của LBH rồi. Một...cố tình quá tai hại phải không hõi bà con PNV oi òi...
Phượng Các
#56 Posted : Monday, June 5, 2006 1:18:38 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
quote:
Gởi bởi LeBienHoa

Chào Song Anh

he he...Sao SA lại...cố tình gài LBH vào ngõ bí thế nhỉ? LBH nào nói là...PC...già bao giò nào.

Kệ, cứ nói đi LBH ơi, nói như vậy thì sẽ được ăn thịt bò cuốn lá lốt miễn phí dài dài đó (do người đẹp lá lốt đãi đó nha!). Blush Ủa, mà phải qua Paris mới được ăn đó nha!

Song Anh
#57 Posted : Monday, June 5, 2006 1:47:55 AM(UTC)
Song Anh

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 1,004
Points: 18

quote:
Gởi bởi Phượng Các

quote:
Gởi bởi LeBienHoa

Chào Song Anh

he he...Sao SA lại...cố tình gài LBH vào ngõ bí thế nhỉ? LBH nào nói là...PC...già bao giò nào.


"Người già thì hay...sống với quá khứ vậy mà. Chị PC có chung cái ý nghĩ đó không nhỉ...",
Vậy chớ câu này của anh viết ở trên...phải hiểu làm sao...Question

Tongue

Kệ, cứ nói đi LBH ơi, nói như vậy thì sẽ được ăn thịt bò cuốn lá lốt miễn phí dài dài đó (do người đẹp lá lốt đãi đó nha!)...



S.A nhớ thì mình có viết là..." anh hùng hay anh thư nào ra đở đạn thế mạng cho S.A thì mới nguyện cuốn lá lốt cho ăn mỗi ngày mà..." Blush mà đâu có câu nào nói là " miễn phí " đâu cà...Eight BallQuestion

beerchug

Song Anh
#58 Posted : Monday, June 5, 2006 1:57:27 AM(UTC)
Song Anh

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 1,004
Points: 18

Lời, Từ trong nhạc TRỊNH CÔNG SƠN

Huỳnh Công Tín

Nhớ 5 năm ngày mất nhạc sĩ Trịnh Công Sơn (01/ 04/ 2001 - 01/ 04/ 2006)

1. Sáu mươi ba năm "ở trọ" trần gian, Trịnh Công Sơn đã để lại cho đời một gia tài âm nhạc đồ sộ, vô giá (anh sinh ngày 28/ 2/ 1939, mất ngày 01/ 4/ 2001). Chẳng thế, mà có người không ngần gại xếp anh trong nhóm "tứ trụ" với những tài năng âm nhạc khác của Việt Nam, như Văn Cao, Dương Thiệu Tước, Phạm Duy. Còn riêng anh, khi nói về Văn Cao, anh tự đánh giá mình hết sức khiêm tốn. Anh nói: "Âm nhạc của anh Văn là âm nhạc của thần tiên bay bổng. Tôi la đà đi giữa cõi con người. Anh cứ bay và tôi cứ chìm khuất. Bay và chìm trong thân phận riêng tư.". Nhưng có một điều dễ nhìn nhận khi anh còn sống hay khi anh về bên kia cuộc đời, tôi nghĩ, người đời biết anh nhiều hơn Văn Cao. (Là người Việt Nam, ai cũng biết bài Quốc ca, nhưng có thể nhiều người không biết bài ấy của Văn Cao, và ngoài bài Quốc ca ra, người thuộc nhạc Văn Cao ít hơn). Có thể nói không quá đáng rằng, từ những "công dân hạng một" đến hàng "thứ dân", ai cũng biết anh, ai cũng thuộc đôi ba câu nhạc của anh. Phải chăng vì anh gần gũi như một "sở thích" của họ. Lúc sống anh cũng chỉ có một tâm nguyện: "Ôi nhân loại, còn người trong tôi.". Tài năng âm nhạc của anh, chắc rồi, người đời sẽ còn nói nhiều. Vẫn biết không thể tách nhạc và lời trong những sáng tác của anh. Chúng như hình với bóng và cả hai đều ở mức hoàn hảo, tuyệt vời. Nói như Văn Cao: "Tôi gọi Trịnh Công Sơn là người thơ ca (Chantre) bởi ở Sơn, nhạc và thơ quyện vào nhau đến độ khó phân định cái nào là chính, cái nào là phụ.". Vì nhiều lý do, bài viết này, chúng tôi chỉ khảo sát phần lời, từ trong nhạc của anh. Chắc rằng, sẽ là thiếu sót, vì chúng tôi đã tước đi phần nhạc, một phần hồn khác, không thể thiếu được trong nhạc và lời của Trịnh Công Sơn.

2. Có thể nói, lời, từ trong nhạc Trịnh Công Sơn cũng chính là tâm nguyện của anh về cuộc sống. Anh không viết lời vì bị câu thúc bởi nhạc. Lời, từ trong nhạc anh không có những lời sáo rỗng, vô hồn, to tiếng, đại ngôn, vì anh viết nên nó bằng chính nỗi niềm thật trong sáng, không vụ lợi, không vị nhân; dẫu nỗi niềm ấy đôi lúc nghe như có phần tuyệt vọng, nhưng cũng như anh đã có lần tâm sự, đó còn là nỗi lòng tiếc nuối khôn nguôi với buổi chia lia cuộc đời này. Anh tâm sự: "Mỗi bài hát của tôi là một lời tỏ tình với cuộc sống, một lời nhắn nhủ thầm kín về những nỗi niềm tuyệt vọng và cũng là một nỗi lòng tiếc nuối khôn nguôi đối với buổi chia lìa (một ngày nào đó) cùng mặt đất mà tôi đã một thời chia xẻ những buồn vui cùng mọi người.".

2.1. Xét về mặt nội dung của lời, từ, nhiều người cho rằng, khoảng 600 bài nhạc của Trịnh Công Sơn thì đó cũng chính là 600 bài thơ của anh. Chỉ với số lượng thôi, tôi nghĩ, anh cũng xứng đáng được liệt vào hàng các nhà thơ lớn đương đại. Trong số này có rất nhiều bài nhạc mà lời, từ rất đặc sắc. Trong nhiều bài nhạc, lời, từ của anh đậm tính nhân văn, chất triết lý nhân bản hết sức quí. Nói chung, người nghe thích và quí trọng nhạc anh, vì ngoài phần nhạc nhẹ nhàng, đơn giản như gió thoảng, mây bay có sức len lỏi vào tận ngõ ngách mọi tâm hồn của con người, thì phần lời trong nhạc anh lại nêu bật được hình ảnh, thân phận con người trong cõi sống "nhọc nhằn đáng yêu" mà anh cùng nhiều người vẫn cho như thế. Lời ca trong "Một cõi đi về" cũng đã nói lên điều đó: "Bao nhiêu năm rồi còn mãi đi xa. Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt. Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt. Rọi suốt trăm năm một cõi đi về.". Trong kiếp sống ngắn ngủi của con người, anh không kêu gọi con người sống gấp, sống vội, bằng cách cố vun vén cho mình mọi điều, mọi thứ; mà trái lại, anh khuyên họ nên sống giàu lòng nhân ái, đầy sự độ lượng, vị tha. Lời trong bài "Ngụ ngôn mùa đông" và phần lớn những bài trong "Ca khúc Da vàng" của anh đều nêu bật tấm lòng yêu thương con người, tâm lý chán ghét chiến tranh của anh, vì chiến tranh suy cho cùng chỉ mang lại thiệt thòi, chết chóc cho dân lành vô tội: "Một ngày mùa đông, Một người Việt Nam, Thôi lên đồi non, Súng từ thị thành, Súng từ ruộng làng, Nổ xé da con, Phố chợ thật buồn, Cuộn dây gai chắn, Chắc mẹ hiền lành, rồi cũng tủi thân.".

Có lẽ, anh mang nặng nỗi niềm đau nhân thế và ý nghĩa triết lý cuộc đời của tôn giáo nên lúc sống anh vẫn thường nói về cái chết. Anh không sợ nó mà như sẵn sàng đón nhận nó, đôi khi có phần mong đợi: "Hòn đá lăn bên đồi, Hòn đá rớt xuống cành mai, Rụng cánh hoa mai gầy, Chim chóc hót tiếng qua đời, Người ôm lấy muôn loài, Nằm trong tiếng bi ai." (Ngẫu nhiên). Đó còn là giấc mơ về cõi bên kia vĩnh hằng: "Đường nào dìu tôi đi đến cơn say. Một lần nằm mơ tôi thấy tôi qua đời. Dù thật lệ rơi lòng không buồn mấy. Giật mình tỉnh ra, ồ nắng lên rồi.". Hay trong bài "Cát bụi" anh sáng tác trước: "Bao nhiêu năm làm kiếp con người. Chợt một chiều tóc trắng như vôi. Lá úa trên cao rụng đầy. Cho trăm năm vào chết một ngày.".

Ý nghĩ vần thường trực trong anh là cuộc đời ngắn ngủi, thế nên anh cũng sống hết mình với nó, nhưng hình như vẫn phảng phất trong anh một nỗi buồn mênh mang có lý do và đôi khi cũng vô cớ. Có điều, nỗi buồn không đến mức làm con người lạnh đi, bi quan; trái lại, nỗi buồn làm tấm lòng con người ấm lại, nhân ái, bao dung hơn: "Người ngồi xuống xin mưa đầy. Trên hai tay cơn đau dài. Người nằm xuống nghe tiếng ru. Cuộc đời đó có bao lâu mà hững hờ." (Mưa hồng).

Trong gia tài âm nhạc của anh, người ta tìm thấy thân phận và tình yêu, nhưng như anh nói, thân phận thì mong manh, tình yêu lại vô cùng. Anh chỉ mong cứu vớt thân phận bằng tình yêu, anh tâm sự: "Sống giữa đời này chỉ có thân phận và tình yêu. Thân phận thì hữu hạn, tình yêu thì vô cùng. Chúng ta làm cách nào nuôi dưỡng tình yêu để tình yêu có thể cứu chuộc thân phận trên cây thập giá Đời.". Tình yêu trong nhạc anh là một tình yêu nhân thế. Anh đau với nỗi đau của con người: Anh thương các cụ già trong cơn hoạn nạn. Anh thương những người mẹ mất con trong cơn chạy loạn. Anh thương từng người nghèo khổ không chốn nương thân. Anh thương những em bé mồ côi, bơ vơ, thiếu thốn. Anh thương cả những xác thân vô thừa nhận. Hàng loạt những bài trong "Ca khúc Da vàng" như: "Du mục", "Người già em bé", "Hát trên những xác người", "Đại bác ru đêm"... là những bài ca mang nặng tình nhân thế trong tài sản âm nhạc của anh. Anh viết trong bài "Hát trên những xác người": "Xác người nằm quanh đây trong mưa lạnh này. Bên xác người già yếu, có xác còn thơ ngây. Xác nào là em tôi dưới hố hầm này...".

Quan niệm cuộc sống này là cõi tạm bợ, "quán trọ", một quan niệm thường trực trong ý tưởng của anh. Đôi khi nó làm cho anh cảm thấy buồn vì sự bất lực của con người trước cuộc đời, nhưng đôi khi anh thấy bình tâm hơn vì kiếp con người. Trong nhiều bài nhạc, anh đã đề cập tới ý nghĩa triết lý nhân sinh này: "Ở trọ", "Biết đâu nguồn cội", "Cát bụi", "Ngẫu nhiên"... Trong bài "Phúc âm buồn", anh viết: "Còn bao lâu cho thân thôi lưu đày chốn đây. Còn bao lâu cho thiên thu xuống trên thân này. Còn bao lâu cho mây đen tan trên hồn người. Còn bao lâu tôi xa em, xa anh, xa tôi.". Hay trong bài "Biết đâu nguồn cội": "Tôi vui chơi giữa đời, Ối a biết đâu nguồn cội. Tôi thu tôi bé lại, Làm mưa tan giữa trời.".

Tình yêu quê hương trong nhạc Trịnh còn là phố xá, nhưng phố trong nhạc anh cũng phảng phất một nỗi buồn mà căn nguyên khó lượng định: có khi đó là phố buồn của chiến tranh: "Đàn bò vào thành phố không còn ai hỏi thăm..." (Du mục); có khi phố buồn vì vắng bóng của người thân thương, nhưng vẫn còn đó những kỷ niệm một thời: "Em còn nhớ hay em đã quên. Nhớ Sài Gòn mưa rồi chợt nắng. Nhớ phố xưa quen biết tên bàn chân. Nhớ đèn đường từng đêm thao thức. Sáng cho em vòm lá me xanh." (Em còn nhớ hay em đã quên); có khi là phố xưa ẩn chứa nỗi buồn muôn thuở của thời gian: "Còn lại đây những sớm mai buồn. Vì phố xưa cỏ lá mong manh." (Tưởng rằng đã quên); hay "Về trên phố cao nguyên ngồi, Tiếng gà trưa gáy khan bên đồi, Chợt như phố kia không người, Còn lại tôi bước hoài." (Lời gọi thiên thu); có thể là ấn tượng về một lần tới thăm phố cổ Hà Nội: "Hà Nội mùa thu, cây cơm nguội vàng, cây bàng lá đỏ, nằm kề bên nhau, phố xưa nhà cổ, mái ngói thâm nâu." (Nhớ mùa thu Hà Nội).

2.2. Về mặt nghệ thuật của lời, từ, có thể nói không quá đáng rằng, "Trịnh Công Sơn viết dễ như lấy chữ từ trong túi ra." (Nguyễn Xuân Khoát); ấy vậy mà, đó không phải là những lời dễ dãi, vô hồn; trái lại, đó là những lời, ý đẹp và độc đáo đến bất ngờ.

2.2.1. Trước hết đó là nghệ thuật dùng chữ (từ) của anh. Chữ dùng của anh, tôi nghĩ nó chính xác, độc đáo đến độ ta không thể thay, chữa chữ nào khác hay hơn được. Có rất nhiều bài nhạc thể hiện tài năng siêu hạng trong việc dùng từ của anh.

Bài "Ở trọ", chữ "trọ" và chữ "đậu" được nhắc đi nhắc lại trong mỗi đôi câu nhạc, làm toát lên ý tưởng triết lý căn bản của toàn bài. "trọ" và "đậu" cũng là nhờ, tạm bợ; nhưng "trọ" có thể là qua đường, dửng dưng; mà "đậu" có hàm sự nhờ vả, biết ơn. Chữ dùng làm cho lời ý không nghèo nàn, lặp lại khiên cưỡng, mà có tác dụng trợ nghĩa cho nhau: "Con chim ở đậu cành tre. Con cá ở trọ trong khe nước nguồn; Sương kia ở đậu miền xa. Cơn gió ở trọ bao la đất trời; Mây kia ở đậu từng không. Mưa nắng ở trọ bên trong mắt người; Trăm năm ở đậu ngàn năm. Đêm tối ở trọ chung quanh nỗi buồn...".

Trong bài "Em còn nhớ hay em đã quên" chữ "trói chân" được anh dùng quá khéo để diễn đạt lại ý của người xưa "vũ vô kiềm toả năng lưu khách."; rồi hình ảnh đường phố ngập mưa làm anh nghĩ tới "dòng sông" thì không còn sự diễn đạt nào có thể nói là chính xác hơn": "Em còn nhớ hay em đã quên, Trong lòng phố mưa đêm trói chân. Dưới hiên nhìn nước dâng tràn, Phố bỗng là dòng sông uốn quanh.".

Bài "Ngẫu nhiên" với những triết lí khái quát cao: điều tưởng chừng "ngẫu nhiên" có tính "qui luật" này, được anh diễn đạt nghe "hiển nhiên", nhưng không phải ai cũng nhận ra được. Và có nhận ra, thì cũng không dễ gì có được những phân định rạch ròi và chính xác trong từng khía cạnh của nhận thức như anh: "Không có đâu em này. Không có cái chết đầu tiên. Và có đâu bao giờ. Đâu có cái chết sau cùng. Tự mình biết riêng mình, Và ta biết riêng ta.".

Bài "Diễm xưa" với những chữ dùng chọn lọc và những kết hợp từ linh hoạt của anh, đã gợi cho người nghe có được những cảm nghĩ đời thường cùng những suy tư triết lí, nhân tình thế thái hòa quyện vào nhau tạo nên một bức tranh đời vừa thực vừa ảo tuyệt đẹp: "Mưa vẫn hay mưa cho đời biển động. Làm sao em biết bia đá không đau. Xin hãy cho mưa qua miền đất rộng. Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau. Để người phiêu lãng quên mình lãng du.".

Bài "Đại bác ru đêm" có những câu, chữ dùng thể hiện kỹ năng dụng ngôn điêu luyện mà không mấy thi sĩ tài hoa Việt Nam vươn tới: "tương lai rụng vàng, kinh không mang lời nguyện, trẻ thơ quên sống, từng đêm nghe ngóng, ru da thịt vàng, nghe quen như câu ca dao buồn, trẻ con chưa lớn để thấy quê hương...": "Đại bác đêm đêm dội về thành phố. Người phu quét đường dừng chổi lắng nghe. Đại bác đêm đêm tương lai rụng vàng. Đại bác như kinh không mang lời nguyện. Trẻ thơ quên sống, từng đêm nghe ngóng... Đại bác đêm đêm dội về thành phố. Người phu quét đường dừng chổi lắng nghe. Đại bác đêm đêm ru da thịt vàng. Đại bác nghe quen như câu ca dao buồn. Trẻ con chưa lớn để thấy quê hương...".

2.2.2. Nói về sự kết hợp từ, có lẽ phải nói, anh là người tạo ra những cách kết hợp từ "kì diệu" nhất. Bởi, anh là một nhạc sĩ nên anh không có sự ám ảnh về nỗi sợ sức nặng ngôn từ có thể đè bẹp người làm thơ. Và do đó, trong cảm hứng âm thanh dào dạt, anh đã đến được ranh giới tận cùng sự kết hợp cần có của từ ngữ, nên ai cũng thấy lạ, cảm nhận được một ít hương vị của sự kết hợp kì thú mà anh mang lại và cũng không ai vì cảm mến anh mà bỏ qua những lỗi dùng từ của anh, nếu đó là những kết hợp "quái dị" mà ta vẫn bắt gặp ở một số sáng tác hiện nay. Có thể dẫn ra đây hàng loạt cách kết hợp từ độc nhất vô nhị trong nhạc anh, chẳng hạn: "Đường về tình tôi có nắng rất la đà; Môi nào hãy còn thơm. Cho ta phơi cuộc tình... Khi về trong mùa đông. Tay rong rêu muộn màng... Không còn không còn ai. Ta trôi trong cuộc đời; Tôi xin năm ngón tay em thiên thần. Trên vùng ăn năn qua cơn hờn dỗi; Tim em người trọ là tôi. Mai kia về chốn xa xôi cũng gần; Bầy vạc bay qua. Kêu mòn tịch lặng... Từ độ chim thiêng. Hót lời mệnh bạc. Từng giọt vô biên. Trôi chìm tiếng tăm; Những tim đời đập lời hoang phế. Dưới mặt trời ngồi hát hôn mê; Bao nhiêu năm em nợ ngọt ngào. Trả nợ một đời chưa hết tình sâu; Ôi áo xưa lồng lộng, Đã xô dạt trời chiều, Như từng cơn nước rộng. Xóa một ngày đìu hiu; Sợi tóc em bồng trôi nhanh trôi nhanh. Như dòng nước hiền; Hồn ta gió cát phù du bay về; Nghe xót xa hằn lên tuổi trời. Trẻ thơ ơi, trẻ thơ ơi, Tin buồn từ ngày mẹ cho mang nặng kiếp người; Hàng cây đưa em đi về giọt nắng nhấp nhô; Ta nghe nghìn giọt lệ. Rớt xuống thành hồ nước long lanh; Ngày mưa tháng nắng còn buồn. Bàn tay nghe ngóng tin sang; Cúi xuống cho máu ngược dòng, Cho nước sông cạn nguồn, Cho cây khô trên cành trút lá bơ vơ; Ta thấy em trong tiền kiếp với cọng buồn cỏ khô,... với mặt trời lẻ loi; Tìm lại trên sông những dấu hài... Tìm trong sương hồng trong chiều bạc mệnh trăng tàn nguyệt tận chứa từng tuyệt vọng; Có những nghìn năm xưa hoá thân em bây giờ; Bỏ mặc tôi là tôi là ai?... Bỏ mặc hư vô bỏ ngậm ngùi; Sống có bao năm vui vui buồn buồn người người ngợm ngợm; Muốn nói đôi câu giữa chốn thương đau chim xanh bạc đầu cây xanh bạc đầu vội vàng tôi theo; Bàn tay em năm ngón ru trên ngàn năm... Bàn tay em trau chuốt thêm cho ngàn năm; Cuộc tình nào đã ra khơi khi ta còn mãi nơi đây; Em ra ngoài ruộng đồng hỏi thăm cành lúa mới... Em hôn một nụ hồng hỏi thăm về giọt nắng; Buồn đi trong đêm khuya... Buồn rơi theo đêm mưa; Người hãy nhớ mang theo hành trang qua khoang trời vắng chân mây địa đàng; Thôi em đừng bối rối. Trong ta chiều đã tàn; Trăm năm vô biên chưa từng hội ngộ; Đôi khi nắng khuya chưa lên mà một loài hoa chợt tím; Mẹ già cười xanh như lá mới trong khu vườn; Mẹ vỗ tay reo mừng xác con. Mẹ vỗ tay reo mừng chiến tranh. Người vỗ tay cho đều gian nan. Người vỗ tay cho thêm thù hận. Người vỗ tay xa dần ăn năn; giọt nước mắt vui lay lòng gỗ đá; Mặt đất ưu từ đã nở nụ cười. Cùng xương khô lên tiếng nói. Đời sống ấm êm nhân danh con người...".

Trong lối kết hợp từ, dùng chữ được gọi là "kì diệu" của anh, chúng tôi xin dừng lại để phân tích một số cách kết hợp mà chúng tôi cảm nhận được và nhận ra nhiều điều thú vị trong đó, không chắc rằng đã cảm được hết ý anh, như:

Trịnh Công Sơn viết: "Đường về tình tôi có nắng rất la đà". "Nắng rất la đà" là nắng gì? Phải chăng là "nắng say" mà trong đường tình (đường về tình tôi) rất có thể có nắng làm say lắm chớ!

Trịnh Công Sơn viết: "Môi nào hãy còn thơm. Cho ta phơi cuộc tình". Chữ "phơi" dùng trong trường hợp này rất hay, nhưng hiểu là phơi như "phơi áo quần" thì lại dỡ. Anh muốn nói "phơi" phải chăng là "phơi bày" mà phơi bày lại là một cách thổ lộ tình yêu chân thật, như một kiểu trải lòng với người mình yêu.

Trịnh Công Sơn viết: "Bầy vạc bay qua. Kêu mòn tịch lặng". Lối kết hợp hai thành tố "tịch" và "lặng" để tạo thành "tịch lặng" rất tuyệt. Nó như nói lên được cái gì đó của trạng thái "cô độc và lặng lẽ". Hai thành tố này vừa mang nghĩa riêng vừa như hỗ trợ nghĩa cho nhau. Rồi lại "mòn tịch lặng", "mòn" là hao mất đi một ít. Như vậy, "mòn tịch lặng" là không còn sự cô độc và lặng lẽ nguyên sơ nữa, ấy là có một tí động. Một ít động do tiếng "kêu của bầy vạc bay qua" làm khuấy động đêm vắng và cô đơn của nhạc sĩ.

Trịnh Công Sơn viết: "Từng giọt vô biên. Trôi chìm tiếng tăm". Triết lí thời gian được anh diễn tả hết sức hình ảnh: "thời gian qua đi như từng giọt, từng giọt tạo thành biển cả có thể nhấn chìm tất cả".

Trịnh Công Sơn viết: "Tin buồn từ ngày mẹ cho mang nặng kiếp người". Mỗi chúng ta khi sinh ra trên cõi đời này là được mẹ cho tin buồn về kiếp con người nặng những buồn vui, lo toan mà chúng ta phải chấp nhận gánh vác.

Trịnh Công Sơn viết: "Hàng cây đưa em đi về giọt nắng nhấp nhô". Lối kết hợp từ lạ gây nhiều thú vị, có thể hiểu được: cái lung linh của nắng rọi qua những hàng cây kẽ lá bị xao động bởi gió và sự chuyển động của người mà tạo thành giọt, tạo cảm giác nhấp nhô.

Trịnh Công Sơn viết: "Tìm trong sương hồng trong chiều bạc mệnh trăng tàn nguyệt tận chứa từng tuyệt vọng". Ý tưởng của nghệ sĩ, ở một lúc nào đó là hơi "bi quan", nhưng nếu để nói cái bi quan mà nói như vậy thì còn gì bằng, có thể tạm hiểu: tìm một ảo giác đẹp trong một khoảnh khắc buồn ở một con người buồn thì biết làm sao đây?! "...chiều bạc mệnh trăng tàn nguyệt tận chứa từng tuyệt vọng" thì còn lời lẽ nào để miêu tả cho hơn về nỗi khổ đau đã đến hết giới hạn của sự tận cùng.

Trịnh Công Sơn viết: "Muốn nói đôi câu giữa chốn thương đau chim xanh bạc đầu cây xanh bạc đầu vội vàng tôi theo". Hình ảnh "chim xanh bạc đầu, cây xanh bạc đầu" chỉ lạ chớ không quá khó hiểu và nghệ sĩ một phút nào đó như nhận ra mình cũng là "đồng hành tri âm, tri kỷ" nên anh "gấp rút đi theo": "vội vàng tôi theo".

Trịnh Công Sơn viết: "Đôi khi nắng khuya chưa lên mà một loài hoa chợt tím". Người ta bảo làm gì có "nắng khuya", cũng như hoa thì trời sinh có một màu nào đó, chớ làm gì có "một loài hoa chợt tím". Nhưng chắc gì trên đời này cái gì không có. Mà nếu có thì cũng hợp lí thôi: không phải hi vọng nào của con người cũng thành hiện thực, một ít lúc "đôi khi" hi vọng mòn mõi nào đó của ai chưa thành "nắng khuya chưa lên" thì niềm vui hi vọng đã sớm thành nỗi buồn "mà một loài hoa chợt tím" lắm chớ ?!

Trịnh Công Sơn viết: "Mẹ già cười xanh như lá mới trong khu vườn". Tại sao không là "cười tươi, cười vui..." mà là "cười xanh"? "Cười xanh" ý nghĩa hơn. Nó cũng là tươi vui, nhưng còn ẩn chưa niềm hi vọng, cái mới bắt đầu.

Trịnh Công Sơn viết: "Mẹ vỗ tay reo mừng xác con. Mẹ vỗ tay reo mừng chiến tranh. Người vỗ tay cho đều gian nan. Người vỗ tay cho thêm thù hận. Người vỗ tay xa dần ăn năn.". "vỗ tay" để biểu thị mừng, nhưng anh lại viết "reo mừng xác con". Ai muốn con mình chết, nhưng chẳng may chết mà tìm được xác thì mừng quá đi chớ. Và cũng không loại trừ, trước cái chết của con, và sự đổ nát quá lớn, bà mẹ già đã rơi vào trạng thái "tâm thần" không còn có ý niệm vui và buồn, nên "reo mừng xác con", "reo mừng chiến tranh". Sức mạnh tố cáo chiến tranh ở những biểu hiện bất thường này là cực lớn. Rồi cũng có những cái vỗ tay không phải để thêm hạnh phúc, tình thương, thêm lòng hướng thiện, mà không khéo thì "cho đều gian nan, cho thêm thù hận, xa dần ăn năn".

2.2.3. Trịnh Công Sơn là một nhạc sĩ, đồng thời cũng là một họa sĩ. Có lẽ, nhờ tài năng ở cả hai loại hình nghệ thuật này hỗ trợ nên anh cũng thành công trong việc thể hiện lời nhạc của mình bằng một thứ ngôn từ giàu hình ảnh, đầy tính hình tượng. Nghe lời nhạc của anh, ta như thấy được từng hình ảnh, nhìn được từng bức tranh được vẽ bằng chất liệu ngôn từ. Anh có những so sánh hình ảnh, cách thể hiện mà ai cũng thầm phục sự tinh tế trong cái nhìn, cách cảm của anh. Ở khía cạnh nghệ thuật này, không thể kể ra đây hết được những hình ảnh nghệ thuật ngôn từ của anh, chỉ xin nêu một số hình ảnh mà Trịnh Công Sơn dùng để thấy được tài năng của anh: "Một đoàn tàu đi nhả khói ấm hai bên đường. Một đàn gà sao tiếng gáy đánh thức bình minh; Ngày vui con nước trôi nhanh. Người đi như nước qua đêm; Thấy đời mình là những quán không. Bàn im hơi bên ghế ngồi; Khi tình đã vội quên. Tim lăn trên đường mòn. Trên giọt máu cuồng điên. Con chim đứng lặng câm... Đời sao im vắng. Như đồng lúa gặt xong. Như rừng núi bỏ hoang. Người về soi bóng mình. Giữa tường trắng lặng câm; Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi. Để một mai vươn hình hài lớn dậy. Ôi cát bụi tuyệt vời. Mặt trời soi một kiếp rong chơi; Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt. Rọi suốt trăm năm một cõi đi về; Con sông là quán trọ. Và trăng tên lãng du... Cây trưa thu bóng dài. Và tôi thu bóng tôi; Dưới vòng nôi mọc từng nấm mộ. Dưới chân ngày cỏ xót xa đưa; Những sông trôi âm thầm. Đám rong rêu xếp hàng. Những mặt đường nằm câm. Những mặt người buồn tênh. Sóng đong đưa linh hồn. Có mưa quanh chỗ nằm. Mãi một đời về không. Trong chập chùng thác nguồn... Xe ngựa về ngủ say... Bóng đổ một mình tôi; Bên sông chiều mưa tới. Bên ta cụm khói rời. Nghe bên ngày nắng mới. Em đi bằng bước chân vui. Sau lưng ngày con gái. Môi son đừng biếng lười. Cho ta còn mãi mãi. Chút buồn phấn hương bay; Mái nhà năm xưa tóc em còn bay; Nhớ Sài Gòn mưa rồi lại nắng. Nhớ phố xưa quen biết tên bàn chân. Nhớ đèn đường từng đêm thao thức. Sáng cho em vòm lá me xanh; Một người về đỉnh cao. Một người về vực sâu, Để cuộc tình chìm mau, như bóng chim cuối đèo; Thành phố hoang vu, Như một lần qua cuộc tình; Tình yêu như vết cháy trên da thịt người... Tình yêu như trái phá, con tim mù lòa... Tình yêu như trái chín trên cây rụng rời... Tình yêu như nỗi chết cơn đau thật dài... Tình yêu như cơn bão đi qua địa cầu... Tình yêu cho anh đến bên cơn muộn phiền... Tình yêu như đốt sáng con tim tật nguyền...Tình xa như trời, Tình gần như khói mây, Tình trầm như bóng cây. Tình reo vui như nắng. Tình buồn làm cơn say... Hồn mình như vá khâu. Buồn mình như lũng sâu... Cuộc tình lên vút cao. Như chim mỏi cánh rồi. Như chim xa lìa bầy. Như chim xa lìa trời. Như chim bỏ đường bay... Nghìn trùng như vết sương. Lạnh lùng như dấu chim. Tình mong manh như nắng. Tình còn đầy không em?... Vội vàng nhưng chóng quên, Rộn ràng nhưng biến nhanh. Tình cho nhau môi ấm, Một lần là trăm năm; Đồi núi nghiêng nghiêng đợi chờ, Sỏi đá trông em từng giờ. Nghe buồn nhịp chân bơ vơ... Biển nhớ tên em gọi về, Chiều sương ướt đẫm cơn mê. Trời cao níu bước sơn khê... Cồn đá rêu phong rủ buồn, Đèn phố nghe mưa tủi hờn, Nghe ngoài trời giăng mây luôn; Nắng có hồng bằng đôi môi em. Mưa có buồn bằng đôi mắt em. Tóc em từng sợi nhỏ. Rớt xuống đời làm sóng lênh đênh... Gió sẽ mừng vì tóc em bay. Cho mây hờn ngủ quên trên vai. Vai em gầy guộc nhỏ. Như cánh vạt về chốn xa xôi; Mưa vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ. Dài tay em mấy thuở mắt xanh xao. Nghe lá thu mưa reo mòn gót nhỏ. Đường dài hun hút cho mắt thêm sâu; Áo xưa dù nhàu cũng xin bạc đầu gọi mãi tên nhau; Hà Nội mùa thu cây cơm nguội vàng cây bàng lá đỏ, nằm kề bên nhau phố xưa nhà cổ mái ngói thâm nâu...".

Có rất nhiều hình ảnh được tạo nên bằng sự so sánh tuyệt vời của anh. Điều này nói lên cái "thiên phú" ở anh. Cái thiên phú trong việc nhìn ra sự tương đồng, tương ứng giữa các sự vật. Nhờ đó mà lối diễn đạt của anh linh hoạt và phong phú hơn người khác. Tôi rất "mê" những so sánh này:

Anh viết: "Ngày vui con nước trôi nhanh. Người đi như nước qua đêm". Tôi cũng đồng cảm với anh về "con nước trôi nhanh" thì vui hơn nước chảy chậm, còn "người đi như nước" thì vô số kể, làm sao mà có thể đếm cho hết được.

Anh viết: "Đời sao im vắng. Như đồng lúa gặt xong. Như rừng núi bỏ hoang. Người về soi bóng mình. Giữa tường trắng lặng câm" thì quá đủ để nói về sự "im vắng" của một khoảnh khắc cuộc đời nào đó trong anh. Anh so sánh "như đồng lúa gặt xong". Sự tương phản rõ rệt giữa hai thời điểm trước và sau gặt ở một cánh đồng lúa chín, càng làm tăng sự im vắng sau khi gặt. Trước gặt thì có thể nói ai: người, chim, chuột... cũng quan tâm. Anh ví "như rừng núi bỏ hoang", rừng núi thì đã hoang vắng rồi mà lại "bỏ hoang" nữa thì hoang vắng phải được nhân lên. Anh liên tưởng "Người về soi bóng mình. Giữa tường trắng lặng câm." thì sự trống vắng, cô đơn là quá lớn rồi. Nếu để thử cảm giác, một lúc cô đơn nào đó bạn hãy "Người về soi bóng mình. Giữa tường trắng lặng câm." như nhạc sĩ đi thì chắc là bạn cũng cảm nhận được ít nhiều điều anh muốn nói.

Anh viết: "Những sông trôi âm thầm. Đám rong rêu xếp hàng. Những mặt đường nằm câm. Những mặt người buồn tênh. Sóng đong đưa linh hồn. Có mưa quanh chỗ nằm. Mãi một đời về không. Trong chập chùng thác nguồn..." thì cần gì chúng ta phải nói thêm.

Hay như những đoạn trong bài "Tình sầu" anh viết thì cũng không cần ai phải diễn giải gì nhiều thêm: "Tình xa như trời, Tình gần như khói mây, Tình trầm như bóng cây. Tình reo vui như nắng. Tình buồn làm cơn say... Hồn mình như vá khâu. Buồn mình như lũng sâu...

Cuộc tình lên vút cao. Như chim mỏi cánh rồi. Như chim xa lìa bầy. Như chim xa lìa trời. Như chim bỏ đường bay...

Nghìn trùng như vết sương. Lạnh lùng như dấu chim. Tình mong manh như nắng. Tình còn đầy không em?...

Vội vàng nhưng chóng quên, Rộn ràng nhưng biến nhanh. Tình cho nhau môi ấm, Một lần là trăm năm.".

Anh viết: "Tóc em từng sợi nhỏ. Rớt xuống đời làm sóng lênh đênh.". Nếu như chúng ta tập trung suy nghĩ và hình tượng hóa tình trạng này một chút, thì chắc sẽ chia sẻ được với Trịnh Công Sơn hình ảnh "Rớt xuống đời làm sóng lênh đênh.".

Anh viết: "Vai em gầy guộc nhỏ. Như cánh vạt về chốn xa xôi." thì không có nét vẽ nào có thể nói là chính xác, đẹp và khéo hơn.

Có rất nhiều hình ảnh được tạo nên bằng tài quan sát nắm bắt được cái "thần" của sự vật, tưởng như bình thường mà không phải ai cũng thấy ra, trừ phi được "con mắt nhà nghề" nhìn tới. Anh là một trong số hiếm hoi có cái nhìn "thiên lí nhãn" ấy. Nghe nói, lần đầu anh ra Hà Nội, không hiểu anh quan sát thế nào mà khi viết "Nhớ mùa thu Hà Nội", anh viết: "Hà Nội mùa thu cây cơm nguội vàng cây bàng lá đỏ, nằm kề bên nhau phố xưa nhà cổ mái ngói thâm nâu...". Nghe câu này thì ai cũng thừa nhận "Đúng là Hà Nội rồi!", "Hà Nội 100%, không lẫn với địa phương nào khác được!". Tất nhiên, điều anh đã viết thì ai cũng thấy như dễ; nhưng trước anh, bao nhiêu người đã đến Hà Nội, bao nhiêu người đã đến nhiều lần, bao nhiêu người là người Hà Nội, bao nhiêu người đã từng sống ở Hà Nội mấy mươi năm, tất cả có nhận ra điều ấy không?

Anh viết trong một ca khúc khác trước đây: "Một đoàn tàu đi nhả khói ấm hai bên đường. Một đàn gà sao tiếng gáy đánh thức bình minh.". Nghe mấy câu nhạc này ngày còn nhỏ, tâm hồn tôi cứ lâng lâng vì những cảnh đẹp làm nao lòng người và chắc có lẽ vì vậy mà tôi yêu nhạc anh từ ngày còn ở tuổi thiếu niên.

2.2.4. Lời từ trong nhạc Trịnh Công Sơn không chỉ cho thấy anh là nghệ sĩ - người có tài năng sử dụng ngôn ngữ nghệ thuật trong sáng tác. Trong nhạc anh, người nghe còn học được cái nhìn triết lí, đầy tính triết học. Những năm tháng học tập khi còn là sinh viên cùng những năm sống và sáng tác đã dần làm cho anh ngộ ra nhiều chân lí của cuộc đời. Đó là kiếp sống mong manh, phù du nhưng đáng yêu, và quí biết bao thân phận con người; đó là tình yêu và tình nhân loại ở con người; đó là những mặt đối lập giữa nợ và tình, tôi và ai, sống và chết, riêng và chung, hữu hạn và vô hạn, chiến tranh và hòa bình, hạnh phúc và khổ đau... Nhiều tên tựa bài nhạc của anh cũng đủ để nói lên điều đó: "Bên đời hiu quạnh, Biết đâu nguồn cội, Cát bụi, Có một dòng sông đã qua đời, Còn ai với ai, Dấu chân địa đàng, Đóa hoa vô thường, Giọt lệ thiên thu, Lời buồn thánh, Lời thiên thu gọi, Một cõi đi về, Ngẫu nhiên, Nghe những tàn phai, Ở trọ, Phôi pha, Phúc âm buồn, Ru ta ngậm ngùi, Tôi ơi đừng tuyệt vọng, Tuổi đá buồn, Vết lăn trầm, Xa dấu mặt trời, Xin trả nợ người...". Anh cũng là nhạc sĩ chiếm giải "quán quân" về nhạc tình với những bài tình ca bất hữu và bất tử: "Biển nhớ, Diễm xưa, Hạ trắng, Mưa hồng, Nắng thủy tinh, Nguyệt ca, Như cánh vạc bay, Nhìn những mùa thu đi, Níu tay nghìn trùng, Ru em, Ru em từng ngón xuân nồng, Ru ta ngậm ngùi, Ru tình, Tạ ơn, Thương một người, Tình nhớ, Tình sầu, Tình xa, Tôi ru em ngủ, Trong nỗi đau tình cờ, Ướt mi...". Anh còn là chàng du ca của một thời và sẽ của mọi thời với tập "Ca khúc da vàng" - tập ca khúc đứng về phía con người lên án cuộc chiến tranh, mà trong đó có những bài nhạc của anh người nghe luôn được nhắc nhở về lòng nhân ái, tính nhân bản, như: "Ca dao mẹ, Du mục, Người con gái Việt Nam da vàng, Đại bác ru đêm, Hãy sống giùm tôi, Hát trên những xác người, Người già - em bé, Giọt nước mắt cho quê hương, Ngày dài trên quê hương, Nối vòng tay lớn...".

Lời nhạc của anh, ta nghe thật thấm thía, nhưng để ngộ được hết triết lí mà anh muốn nói không phải là điều dễ. Vì, đây không chỉ là vấn đề của ngôn ngữ tư duy, "ngôn ngữ bác học" mà đôi khi nó còn đòi hỏi chúng ta phải có cái Tâm, cái Tư gì đó hay ta nói "ngôn ngữ đời sống" gì đó cũng được, một chữ dùng nữa mà tôi không biết có chính xác lắm không, đó là "ngôn ngữ Đạo và Đời". Có thể nói anh có một khả năng sử dụng ngôn từ có chiều sâu của sự khái quát tư duy, nhưng lại là một lối suy tư gần gũi với mọi người. Anh viết: "Tôi vui chơi giữa đời ối a biết đâu nguồn cội", "Cho trăm năm vào chết một ngày", "Dưới vòng nôi mọc từng nấm mộ", "Đường hàm oan nghe tiếng ai than thầm... Đường máu xương chờ lau hết dấu vinh quang", "Trong cuộc bể dâu ôi trăm ngày phố xá cũng trôi theo", "Chìm dưới đất kia, một người sống thiên thu... Chìm dưới sương thu là một đóa thơm tho", "Trong tan hoang vẫn còn bóng mát che ngang", "Một phố hồng một phố hư không", "Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau", "Có những nghìn năm xưa hóa thân em bây giờ", "Bỏ mặc tôi ngồi giữa đời tôi", "Nắng quái yêu ma lung linh thành trì lung linh cửa nhà. Bước tới hư vô khoác áo chân như long lanh giọt lệ long lanh giọt lệ giọt lệ thiên thu", "Trong xuân thì thấy bóng trăm năm", "Lặng lẽ chia xa sao lòng quá vội. Một cõi bao la ta về ngậm ngùi", "Mây che trên đầu và nắng trên vai. Đôi chân ta đi sông còn ở lại. Con tim yêu thương vô tình chợt gọi. Lại thấy trong ta hiện bóng con người.", "Một ngày như mọi ngày xếp vòng tay oan trái", "Người ngồi xuống xin mưa đầy trên hai tay cơn đau dài, người nằm xuống nghe tiếng ru, cuộc đời đó có bao lâu mà hững hờ.", "Hòn đá lăn bên đồi hòn đá rớt xuống cành mai. Rụng cánh hoa mai gầy chim chóc hót tiếng qua đời...", "Tôi nay ở trọ trần gian Trăm năm về chốn xa xăm cuối trời", "Ôi phù du từng tuổi xuân đã già một ngày kia đến bờ. Đời người như gió qua.", "Người còn đó nhưng lời nói rơi về chân đồi. Người còn đó nhưng trong tim máu tuôn ra ngoài.", "Mùa xanh lá vội, ru em miệt mài, còn lời ru mãi, còn lời ru này, ngàn năm ru hoài, ngàn đời ru ai.", "Tôi là ai, là ai, là ai... mà yêu quá đời này.", "Ôi tiếng buồn rơi đều, Nhìn lại mình đời đã xanh rêu.", "Còn lại đây những bến hoang tàn vì xác thân đã quá lênh đênh.", "Hai mươi năm vẫn là thuở nào. Nợ lại lần này trong cõi đời nhau.", "Sau chinh chiến ôi quê hương thần thoại thuở hồng hoang đã thấy đã xanh ngời liêu trai. Còn có ai trên cuộc đời. Ôi nhân loại còn người và tôi thôi rồi lang thang như mây trời...".

Ở đây xin đơn cử một vài vấn đề triết lí được anh viết với ngôn ngữ bình dân, không phải là ngôn ngữ của phong cách khoa học: khái quát, trừu tượng...

Trịnh Công Sơn viết: "Tôi vui chơi giữa đời ối a biết đâu nguồn cội". Tôi cũng đồng ý với anh: cuộc đời này dựa vào đâu để ta làm "điểm mốc" mà biết nguồn cội?

Trịnh Công Sơn viết: "Cho trăm năm vào chết một ngày". Anh muốn nói "Đời người là ba vạn sáu ngàn ngày" nhưng nói như vậy thì vẫn thiếu và trừu tượng, khó hiểu hơn.

Trịnh Công Sơn viết: "Dưới vòng nôi mọc từng nấm mộ" thì suy nghĩ anh không ai phản bác, nhưng nhìn chi kết cục sớm quá vậy anh?

Trịnh Công Sơn viết: "Chìm dưới đất kia, một người sống thiên thu... Chìm dưới sương thu là một đóa thơm tho". "Chìm dưới đất kia, một người sống thiên thu..." thì đúng quá rồi, đúng với người có tín ngưỡng và không tín ngưỡng vì có ai chết lần nữa đâu. Còn "Chìm dưới sương thu là một đóa thơm tho" thì thú thật tôi thấy, lối diễn đạt cụ thể nhưng ý thì khái quát quá, e rằng tôi không hiểu hết mà chỉ nhận ra khía cạnh nào đó trong triết lí của anh về tính hai mặt của vạn vật, của cuộc đời.

Trịnh Công Sơn viết: "Trong tan hoang vẫn còn bóng mát che ngang" thì quá rõ để nói về ước vọng và cái tâm của anh cho cuộc đời đau khổ này.

Trịnh Công Sơn viết: "Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau" thí quá đúng đi chứ. Vạn vật đâu chỉ có đấu tranh sinh tồn mà nhiều hơn thế là sự nương tựa nhau cùng sống.

Trịnh Công Sơn viết: "Nắng quái yêu ma lung linh thành trì lung linh cửa nhà. Bước tới hư vô khoác áo chân như long lanh giọt lệ long lanh giọt lệ giọt lệ thiên thu" thì câu chữ đẹp một cách huyền ảo, nhưng ý niệm về cuộc đời thì buồn quá. Chẳng lẽ "đời là hư vô, đời là bể khổ" thật sao?

Trịnh Công Sơn viết: "Con tinh yêu thương vô tình chợt gọi. Lại thấy trong ta hiện bóng con người.". Từ "con người" của tiếng Việt thật là thú vị. Không biết người xưa hữu ý hay vô tình mà từ này có hai thành tố: "con" và "người". Đôi khi chúng ta sống đan xen giữa hai thân phận này và bị giằn co giữa con và người, thì "con tim" trong khoảnh khắc vô tình đã đánh thức giùm cho những ai đang để mất phần người.

Trịnh Công Sơn viết trong bài "Ngẫu nhiên", nhưng anh không nghĩ đời là ngẫu nhiên mà theo anh nó có tính qui luật: "Hòn đá lăn bên đồi hòn đá rớt xuống cành mai. Rụng cánh hoa mai gầy chim chóc hót tiếng qua đời....
Phượng Các
#59 Posted : Monday, June 5, 2006 2:01:18 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
quote:
Gởi bởi Song Anh
mà đâu có câu nào nói là " miễn phí " đâu cà...Eight BallQuestion


giời ơi, làm business mà không biết cái chiêu quảng cáo sao? Cứ bảo là miễn phí bò lá lốt đi, nhưng mà mình chỉ có tính tiền mắm nêm, bún, rau sống, chanh, ớt và tính bằng cái giá trên trời thì cũng giàu to hà. Thấy đó nhá, bên Mỹ mấy cái sòng bài ở Reno, Las Vegas nó cứ chở mình đi lên sòng bài miễn phí đấy, mà tiền đâu mà nó giả tiền điện đốt sáng rực cả thành phố thế kia?

Nhiều lúc mình vắt tay lên trán mà có một phút suy tư, bên Mỹ chả có charge tiền mỗi lần vô restrooms công cộng, còn bên Pháp hay charge quá, cho nên bất kỳ chỗ nào toilet miễn phí là thiên hạ tranh thủ nhau đi, tính theo cái nhìn quy mô lại thì ra còn hao tiền cho xã hội hơn bên Mỹ!
Song Anh
#60 Posted : Monday, June 5, 2006 2:34:06 AM(UTC)
Song Anh

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 1,004
Points: 18

quote:
Gởi bởi Phượng Các
...giời ơi, làm business mà không biết cái chiêu quảng cáo sao?


Sản phẫm của S.A làm...là sản phẫm " Cao cấp "...." Hữu xạ tự nhiên hương "...nên không cần quãng cáo...nà....Blush

Thấy " lối " dể sợ chưa...Bò mà điên lại...chắc có nước gở bảng hiệu quá ...Big SmileBig SmileBig Smile

Users browsing this topic
Guest (18)
5 Pages<12345>
Forum Jump  
You cannot post new topics in this forum.
You cannot reply to topics in this forum.
You cannot delete your posts in this forum.
You cannot edit your posts in this forum.
You cannot create polls in this forum.
You cannot vote in polls in this forum.