Welcome Guest! To enable all features please Login or Register.

Notification

Icon
Error

Phụ nữ và Phật giáo
Phượng Các
#1 Posted : Saturday, March 19, 2005 4:00:00 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
ĐỨC PHẬT VÀ VẤN ĐỀ PHỤ NỮ

Một lời dạy không phải là lời của Phật


Kurt Schmidt

(bài tiểu luận trong cuốn :“Leer ist die Welt” (“Thé giới rỗng không”) của Kurt Schmidt, 1953, nxb Christiani Konstanz)

Thái Kim Lan chuyển từ Đức ngữ.

Tiểu luận của Kurt Schmidt, trích trong tác phảm “Leer ist die Welt” (Thế giới rỗng không) của tác giả.

Tác phẩm “Thế gìới rỗng không“ gồm 13 tiều luận về các vần đề tôn giáo, triết học, đạo đức học, ngôn ngữ học và lịch sử triết học liên quan đến Phật giáo của nhà nghiên cứu Phật giáo Đức Kurt Schmidt, một trong những người tiên phong (từ những năm 20) nghiên cứu Phật giáo sâu sắc, nghiêm túc và trung thực tại Âu châu. Mặc dù ngày hôm nay Phật giáo không còn xa lạ với tư tưởng Âu châu và những nghiên cứu về Phật giáo càng ngày càng được đào sâu và phổ biến khắp nơi trên thế giới, những thành quả nghiên cứu và suy tư của Kurt Schmidt vẫn là những viên ngọc qúi cống hiến và soi sáng lời dạy của Đức Phật và hệ thống tư duy của tư tưởng Âu châu. Tôi hi vọng lần lược có thể trình bày những nghiên cứu khúc chiết về tương quan giữa triết học Phật giáo và cơ cấu tư tưởng phương Tây qua các hệ thống triết học điển hình của các triết gia kinh điển phương Tây như I. Kant, G.W.F. Hegel, F. Nietzsche v.v. ( Thái Kim Lan )

Theo truyền thuyết, không lâu trước khi nhập niết bàn, Đức Phật đã trả lời Ananda, thị giả theo hầu cận Phật nhiều năm, khi vị này xin Phật chỉ dẫn cách đối xử cho các vị tỳ kheo mỗi lần gặp phụ nữ . Theo truyền thuyết, lúc ấy Phật đã dạy : “Không được nhìn !" Trả lời câu hỏi tiếp theo nếu trong trường hợp đã lỡ nhìn thấy ngưòi phụ nữ rồi thì phải ứng xử như thế nào, Phật lại dạy , cũng theo truyền thuyết : “Không được bắt chuyện !" Trả lời câu hỏi thứ ba, các tỳ kheo phải đối xử như thế nào, khi chẳng đặng đừng câu chuyện đã được bắt đầu với người phụ nữ, Phật lại khuyên – cũng theo truyền thuyết : “Hãy giữ vững tâm trí !"

Trong kinh Đại Niết bàn, - bản kinh lớn tường thuật về giai đoạn cuối đời và cái chết của Đức Phật có ghi đoạn đối thoại trên. Đoạn này không thật, mà là một thêm thắt của người đời sau. Điều đó có thể chứng minh được.

Đáng nghi ngờ trước hết là vị trí mà ở đó cuộc đối thoại trên được ghi lại ở trong kinh. Liền ngay trước đólà lời tường thuật Đức Phật đã an ủi lời kêu van Ananda rằng sau lúc nhập diệc của đấng toàn hảo các tỳ kheo sẽ không còn có nương tựa kiết tập bằng cách nêu lên 4 địa điểm chiêm bái, ở đó những người sùng đạo về sau sẽ lũ lượt kéo đến : đó là nơi ĐP hạ sanh, cây Bồ đề là nơi ĐP đã chứng ngộ chân lý, khu rừn Isipatana (Lộc uyển) tại Banares, nơi ĐP thuyết pháp lần đầu tiên và khu rừng Sala thông thọ tại Kusinara, nơi ĐP nhập niết bàn – và ngay sau vị trí nói trên là lời tường thuật về việc Đức Phật đã yêu cầu các đệ tử của ngài không nên lo lắng về nghi lễ tẩm táng cho ngài mà nên để cho các cư sĩ lo việc ấy. Hai chuỗi tư tưởng trước và sau này liên kết với nhau một cách không gượng ép, còn sự hướng dẫn của Đức Phật về cách hành xử với phụ nữ xen vào giữa phá vỡ sự liên hệ của hai sự kiện nói trên. Điều này đã đủ cho thấy rằng đoạn văn về phụ nữ đã được thêm vào về sau.

Thật thế, những sự ghi xen vào như thế được tìm ra khá nhiều ngay chính trong kinh Đại Niết Bàn (so sánh tiểu luận về “Lịch sử và huyền thoại trong kinh Đại Niết Bàn" trong quyển sách này ). Cho nên thật ra cũng không có gì lạ lùng khi nhận định rằng những lời dạy về cách đối xử với phụ nữ đều là những lời thêm thắt của người đời sau đưa vào. Quả nhiên giả thuyết ấy có thể chứng minh được từ sự khảo sát chính đoạn văn. Đoạn văn đó như sau :

Katham mayam bhante mâtugâme patipajjâmâti. Adassanam ânandâ ti. Dassane bhagavâ sati katham patipajjitabbanti. Anâlâpo ânandâti. Âlapantena pana bhante katham patipajjabbani . Satí ânandâ upatthâpetabbâti .

1. đoạn văn bắt đầu bằng mấy chữ : “Katham mayam bhante". Cũng với cụm từ ấy bắt đầu đoạn văn sau, ở đó dòng ý tưởng của đoạn văn (về bốn thánh tích) trước đoạn về phụ nữ dược tiếp tục. Những cụm đồng âm đều đều như thế luôn luôn đáng nghi ngờ ; nó có thể giải thích như vầy : vào những thời trước, khi kinh tập còn được truyền miệng từ người thầy đến học trò, vị giáo thọ, thường là một tỳ kheo lớn tuổi, thường đọc to đoạn văn cho học trò học thuộc lòng, lắm khi ông ta bị cụm đồng âm thu hút, xướng to lên một câu mà ông đã học thuộc ở đâu khác cùng với cụm từ khởi đầu kia; cùng lúc ông ta chợt nhớ ra câu đúng của bài kinh nên cứ việc đọc tiếp một mạch. Những học trò thì chỉ việc nhắc lại câu xen vào không đúng chỗ mà thầy đã xướng, giữ lại trong trí nhớ và truyền lại sau đó cho người học trò khác, khi họ trở thành giáo thọ. Theo cách ấy mà những lời kia có thể rơi vào vị trí đã nói ở trên. Nhưng khả năng cũng có thể xảy ra là một vị giáo thọ, ví dụ như Kassapa (Ca Diếp), muốn giữ đúng giáo luật một cách nghiêm khắc quá đáng, đã cố tình thêm vào những lời trên và gán cho đó là lời của Đức Phật, hầu tăng thêm quyền uy cho chúng.

2. Ngoài ra mỗi khi Ananda trình Đức Phật một câu hỏi, cụm từ được đưa ra trong ĐNBKinh thường thường là : “Atha kho âyasmâ ânando bhagavantam etad avoca“ – “Khi ấy trưởng giả Ananda đã thưa với Đấng Chánh đẳng giác như vầy". Câu dẫn nhập này không có ở đoạn văn về phụ nữ nói trên.

3. Từ ngữ patipajjâma đập vào mắt. Như là thể cách hiện tại, nó không có ý nghĩa, như là thể cách mệnh lệnh nó lại không hợp vào trong câu hỏi. Ít nhất phải có một thể cách tương lai : đó là patipajjissâma, nhưng đúng hơn thì nó phải là một thuộc từ trạng từ patipajjitabbam như trong những câu kế tiếp. Nhưng dĩ nhiên nếu như thế thì vần mayam lại không hợp, và nếu không có từ mayam thì người ta đã không thể đưa đoạn văn nói trên vào một cách dễ dàng như thế.

4. Trong kinh Đại Niết Bàn Ananda bạch Phật với chữ bhante có nghĩa là “Ông, Ngài", nhưng trong đoạn này lại có chữ vocativ (xưng tụng) : bhagavâ “đấng chí tôn". Cách tôn xưng này không tìm thấy trong toàn Kinh DNB ngoài đoạn nói trên.

5. Từ âlapentena là một dụng từ (Intrumentalis) trong lúc ở đây là phải có một thuộc từ trường sở cách (Locativ). Sự lẫn lộn Intrumentalis với Locativ thường hay xảy ra trong tiếng Pali trẻ hơn (tân Pali), nhưng trong tiếng Pali cổ, mà Kinh ĐNB được ghi lại, thì lại rất hiếm hoi.

6. Theo luật biến cách động từ (flexion) thì từ âlapantena thuộc vào tiếng tân pali. Biến cách của phân từ hiện tại ( Partizipien praesentis) theo thể biến cách a cũng đã thấy ở trong các tạng kinh nhưng theo hiểu biết của tôi thì chỉ có trong thể Chủ từ (Nominativ) hay đối tượng (accusativ). Như thế trong ĐNB người ta chờ đợi phải đọc : âlapatâ (Instr.) hay đúng hơn âlapati (locativ, trường sở cách)

Nếu chỉ có một trong những điểm nghi ngờ nói trên xuất hiện đơn lẻ thì ta còn có thể cho rằng đó chỉ là một điều sơ suất trong sự truyền lại lời dạy của Đức Phật và có thể bỏ qua, nhưng những điểm nghi ngờ này lại tìm thấy toàn thể cùng một lúc ở đoạn nói trên cho ta có đủ bằng cớ thấy được đoạn văn nói trên không thật là lời của Phật. Đoạn văn ấy đã được một vị thuộc trường phái chống phụ nữ và theo khổ hạnh cực đoan đem lén vào và đã đưa vào thời điểm sau sự biên soạn kinh ĐNB một khỏang thời gian khá lâu, khi mà ngôn ngữ Pali đã biến đổi.

Đức Phật đã không bao giờ phát ngôn như thế. Ngài đã nói thế nào về phái nữ, ta có thể tìm thấy trong câu kệ của 42 Bài không thuộc kinh tạng Pali mà bằng tiếng sanskrit, những lời thật đẹp, mà Karl Seidenstuecker đã chuyển dịch từ bản tiếng tàu trong tập “Buđhistische Evangelien" của ông. Những lời ấy như sau :

“Khi nói với một người phụ nữ, hãy làm điều ấy với sự trong sáng của con tim. Hãy tự nói với chính mình : “Ở trong thế giới đầy phiền não này tôi muốn giống như một đoá huệ trong sạch, không bị vây tanh mùi bùn trong đầm hoa đang mọc. Nếu người phụ nữ là một vị già nua, hãy xem như là mẹ. Nếu người ấy là một bà chủ nhân đáng kính, hãy đối xử như một bà chị. Nếu là một người xuất thân thấp kém, hãy xem họ như là em gái của mình. Nếu người phụ nữ còn ngây thơ trẻ con, hãy đối xử tế nhị và lịch sự""

Đây mới chính là - dù không hoàn toàn đúng theo từng chữ, nhưng chắc chắn theo đúng với tinh thần - những lời dạy đích thực của Đức Phật.

Thái Kim Lan chuyển từ bản tiếng Đức.


PC
#2 Posted : Thursday, July 3, 2008 1:07:05 AM(UTC)
PC

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 5,669
Points: 28
Woman

Was thanked: 4 time(s) in 4 post(s)
Hội Nghị Phụ nữ Phật giáo Thế giới lần thứ X
Montsame/Nguyễn Quảng
đăng ngày 02/07/2008



Hội nghị "Sakyadita" hay còn gọi Hội nghị Phụ nữ Phật giáo thế giới sẽ diễn ra từ ngày 1 đến ngày 5 tháng 7 năm 2008 tại Trung tâm Văn hóa Ulaanbaatar, Mongolia.

Chương trình hoạt động của hội nghị gồm nhiều chủ đề thảo luận, kiến giải những vấn đề có liên quan đến Hội phụ nữ quốc tế, giáo dục và đào tạo theo truyền thống tôn giáo, bình đẳng giới tính, cải thiện tinh thần đoàn kết, các mối quan hệ và giữ gìn thế giới hòa bình thông qua giáo pháp của đức Phật... Hội nghị sẽ quy tụ hàng trăm phụ nữ Phật giáo có trình độ chuyên môn cao. M.Bolormaa, bộ trưởng Bộ giáo dục, Văn hóa và Khoa học sẽ làm trưởng ban tổ chức Hội nghị.
Hội nghị phụ nữ Phật giáo thế giới lần đầu tiên được tổ chức vào năm 1987 ở Ấn Độ. Từ đó đến nay, hội nghị đã tổ chức được 9 lần trong nhiều quốc gia khác nhau như Thái Lan, Tích Lan, Ladakh, Cam-pu-chia, Nepal, Đài Loan, Nam Hàn, Mã Lai và lần này tại Mongolia.

Nguyễn Quảng dịch theo MONTSAME





Users browsing this topic
Guest (2)
Forum Jump  
You cannot post new topics in this forum.
You cannot reply to topics in this forum.
You cannot delete your posts in this forum.
You cannot edit your posts in this forum.
You cannot create polls in this forum.
You cannot vote in polls in this forum.