Welcome Guest! To enable all features please Login or Register.

Notification

Icon
Error

2 Pages<12
Chân dung các nhân vật lịch sử
Phượng Các
#21 Posted : Saturday, July 16, 2005 12:18:10 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)




Cường Để

viethoaiphuong
#22 Posted : Monday, December 17, 2007 10:02:47 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
Bài Mới Trang Nhà LêAnhChí trung tuần tháng 12-2007

Cập nhật trung tuần tháng 12-2007 :

A) Bài Mới www.LeAnhChi.com/BaiMoi.html

Văn-học, Văn-chương, Lịch-sử :

Vua Lê Thái Tổ dụng binh như thần, giỏi hơn và đức độ hơn Gia Cát Lượng 2
( Vua Lê Thái Tổ và các võ tướng cứu nước, giữ nước suốt 55 năm (1416-1471) )

Tướng của vua Lê Thái Tổ tài ba nhất so với tất cả các triều đại

( Vì vua Lê Thái Tổ là bậc đại anh hùng, tài năng quán thế và . . .)
( Lam Sơn Ngũ Hổ : Lưu Nhân Chú, Lê Chích (Nguyễn Chích), Lê Khôi, Trần Lựu, Lê Văn An) )


B) Sơ Lược về bài mới.

a) Sau đây là Dàn Bài của bài đoản luận:
_ Vua Lê Thái Tổ dụng binh như thần giỏi hơn và đức độ hơn Gia Cát Lượng 2
_ (Vua Lê Thái Tổ và các võ tướng cứu nước, giữ nước suốt 55 năm (1416-1471))

VI) Gia Cát Lượng kỳ thị các võ tướng
VII) Vua Lê Thái Tổ có tài huấn luyện võ tướng
VIII) Vua Lê Thái Tổ và các võ tướng cứu nước, giữ nước suốt 55 năm (1416-1471)
IX) Vua Lê Thái Tổ dùng người đúng chỗ, Gia Cát Lượng thất thủ Nhai Đình
X) Vua Lê Thái Tổ giỏi chiến lược hơn Gia Cát Lượng
XI) Mưu mẹo mai phục thần kỳ
[Còn Tiếp]

ĐVSKTT = Đại Việt Sử Ký Toàn Thư
GCL = Khổng Minh Gia Cát Lượng

Võ nghiệp của Vua Lê Thái Tổ không phải chỉ ở chỗ cứu dân nước ra khỏi ách bạo tàn của giặc Minh, mà còn phải kể đến công trình giữ gìn cương thổ :
_ Vua Lê Thái Tổ và các võ tướng đã cứu nước, giữ nước suốt 55 năm (1416-1471)
Vì Vua Lê Thái Tổ tuyển dụng và huấn luyện 90 đại tướng tài ba. Những vị này cứu nước, giữ nước suốt 55 năm, trải 4 triều vua.
(Thật là xưa nay chưa từng có !)
Xưa nay chưa từng có vì thường khi một vị vua tài năng quán thế mất đi, các võ tướng như rắn mất đầu, để cơ nghiệp nghiêng ngả và có khi chém giết lẫn nhau hoặc mưu toan cướp ngôi. Như trường hợp các vua: Ngô vương Quyền, Đinh Tiên Hoàng, Quang Trung.
Các tướng Lam Sơn, được Vua Lê Thái Tổ tuyển dụng , huấn luyện và trọng đãi , đã rất trung thành và đã tỏ rõ tài lược thao suốt 40 năm sau khi Thái Tổ băng hà. Các vị này đã chống quân Chiêm Thành , Ai Lao, các dân tộc thiểu số , một cách dễ dàng.
Riêng nói về Chiêm Thành : Nhớ rằng thời đó, Chiêm Thành rất mạnh. Cuối đời Trần, quân Chiêm vào Thăng Long như vào chỗ không người.
Vậy mà , hai tướng Lê Khôi , Lê Chích (Nguyễn Chích), lần lượt trấn thủ miền nam, đã đánh bại quân Chiêm Thành dễ dàng, như bỡn. và cuối cùng Chiêm Thành bị ta tiêu diệt cũng bởi tay võ tướng của Thái Tổ. . .

Cho nên, diệt Chiêm Thành thời Thánh tông cũng có thể xem là võ nghiệp của Vua Lê Thái Tổ.
Thật là Võ nghiệp vĩ đại xưa nay chưa từng có !


b) Sau đây là Dàn Bài của bài đoản luận:
_ Tướng của vua Lê Thái Tổ tài ba nhất so với tất cả các triều đại
_ ( Vì vua Lê Thái Tổ là bậc đại anh hùng tài năng quán thế và . . .)
_ ( Lam Sơn Ngũ Hổ : Lưu Nhân Chú, Lê Chích (Nguyễn Chích), Lê Khôi, Trần Lựu, Lê Văn An)

Lời phi lộ : vua Lê Thái Tổ là bậc đại anh hùng tài năng quán thế và là nhà mô phạm lỗi lạc
I) Võ nghệ cao cường , anh dũng tuyệt luân
II) Khí phách anh hùng,hiểu lược thao
III) Võ nghệ cao cường nhất: Lê Khôi
IV) Sách lược lớn : Lê Chích
V) Nguyên soái Lưu Nhân Chú
VI) Nhập nội thiếu bảo Trần Lựu
VII) Nhập nội thiếu bảo Lê Văn An
VIII) Lam Sơn Ngũ Hổ: Lưu Nhân Chú, Lê Chích (Nguyễn Chích), Lê Khôi, Trần Lựu, Lê Văn An
IX) Tam Thập Hổ Tướng : Lam Sơn Ngũ Hổ và Phạm Vấn, Lê Sát, Lê Ngân, Lê Lý , Đinh Liệt, Nguyễn Xí , Trịnh Khả, Lê Thụ . . .
[Còn Tiếp]

Vua Lê Thái Tổ là bậc đại anh hùng tài năng quán thế . Vua còn có tài huấn luyện võ tướng.
Ngược lại với những lời vu khống của nhà Mạc , nhà Trịnh ; vua ta không đa nghi hiếu sát, vua ta không giết hại công thần. Vua Lê Thái Tổ tín nhiệm các tướng, giao phó quốc gia cho 90 đại tướng tài ba. Những vị này đã đáp ứng được kỳ vọng của vua, giữ gỉn cương thổ ; đã đánh bại đám giặc mạnh thời bấy giờ là quân Chiêm Thành dễ dàng, như bỡn. và cuối cùng Chiêm Thành bị ta tiêu diệt cũng bởi tay võ tướng của Thái Tổ . . .

Tài năng và Võ nghiệp Thái Tổ thật vĩ đại xưa nay chưa từng có !
Cho nên,
_ Tướng của vua Lê Thái Tổ là tài ba nhất và công lao lớn nhất so với tất cả các triều đại . . .
viethoaiphuong
#23 Posted : Tuesday, January 1, 2008 6:22:20 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
HOÀNG TỘC NHÀ NGUYỄN VIỆT NAM !!

http://hoangtocvietnam.de.ki/
viethoaiphuong
#24 Posted : Tuesday, September 2, 2008 6:40:37 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
Cựu Hoàng Bảo Ðại

Tác giả: (nhiều tác giả)

Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy (22 tháng 10, 1913 – 31 tháng 7, 1997), là vị vua thứ mười ba và cuối cùng của triều Nguyễn với niên hiệu Bảo Đại. Ông là vị vua cuối cùng của chế độ phong kiến Việt Nam. Đúng ra "Bảo Đại" chỉ là niên hiệu nhà vua chọn nhưng nay thường dùng là tên nhà vua khi tại vị và sau khi thoái vị dưới danh nghĩa cựu hoàng.

Vua Bảo Đại tên húy là Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy, còn có tên Nguyễn Phúc Thiển, sinh ngày 22 tháng 10 năm 1913 (năm Quý Sửu) tại Huế, là con của vua Khải Định và bà Từ Cung Hoàng Thị Cúc. Năm 1922, ông được sách lập Đông Cung Hoàng Thái Tử. Ngày 24 tháng 4 năm 1922, Vĩnh Thụy được vợ chồng cựu Khâm Sứ Trung Kỳ Jean François Eugène Charles nhận làm con nuôi và đưa sang Pháp học ở trường Lycée Condorcet rồi sau ở trường Sciences Po (École Libre Des Sciences Politiques), Paris.

Năm 1925, vua Khải Định băng hà. Ngày 8 tháng 1 năm 1926 ông được tôn kế vị, lấy niên hiệu là Bảo Đại, là vua thứ 13 của triều Nguyễn khi đúng 13 tuổi. Sau khi lên ngôi, ông lại trở sang Pháp để học tiếp, còn việc triều chính trong nước giao cho Tôn Thất Hân nhiếp chính trong thời gian vua vắng mặt.

Tháng 9 năm 1932, vua Bảo Đại hồi loan trở về nước, chính thức làm vua.

Ngày 20 tháng 3 năm 1934, vua Bảo Đại làm đám cưới với Marie Thérèse Nguyễn Hữu Thị Lan và tấn phong bà làm Nam Phương Hoàng hậu. Đây là một việc làm phá lệ bởi vì kể từ khi vua Gia Long khai sáng triều Nguyễn cho đến các vị vua về sau, các vợ vua chỉ được phong tước Vương phi, sau khi mất mới được truy phong hoàng hậu. Ông là nhà vua đầu tiên thực hiện bỏ chế độ cung tần, thứ phi. Cuộc hôn nhân này cũng gặp phải rất nhiều phản đối vì Nguyễn Hữu Thị Lan là người Công Giáo và mang quốc tịch Pháp.

Vua Bảo Đại đã cho bỏ một số tập tục mà các tiên vương đã bày ra. Từ nay thần dân không phải quỳ lạy mà có thể ngước nhìn long nhan nhà vua khi nhà vua tới, mỗi khi vào chầu các quan Tây không phải chắp tay xá lạy mà chỉ bắt tay vua, các quan ta cũng không phải quỳ lạy.



Hình chụp ngày 28 tháng 12/1951 tại thị xã Hòa Bình (Bắc Việt) với Cựu Hoàng Bảo Ðại cùng một số sĩ quan Pháp đang ghé thăm một đơn vị Nhảy Dù.
(HÌNH ẢNH: VNCTLS sưu tầm)

Vua Bảo Đại cũng cải tổ bộ máy hành chính, cho các thượng thư già yếu hoặc kém năng lực như Nguyễn Hữu Bài về hưu, sắc phong thêm 4 thượng thư mới xuất thân từ giới học giả và hành chính. Ông thành lập Viện Dân biểu để trình bày nguyện vọng lên nhà vua và quan chức bảo hộ Pháp và cho phép Hội Ðồng Tư Vấn Bắc Kỳ được thay mặt Nam triều trong việc hợp tác với chính quyền bảo hộ.

Sau khi Nhật đảo chính Pháp và tuyên bố trao trả độc lập cho Việt Nam, ngày 11 tháng 3 năm 1945, vua Bảo Đại ra đạo dụ tuyên cáo Việt Nam độc lập, tuyên bố hủy bỏ Hòa ước Patenôtre ký với Pháp năm 1884, khôi phục chủ quyền Việt Nam. Ngày 17 tháng 4 năm 1945, vua Bảo Đại ký đạo dụ số 5 chuẩn y thành phần nội các Trần Trọng Kim và ngày 12 tháng 5 giải tán Viện Dân Biểu Trung Kỳ. Tháng 6 năm 1945, chính phủ Trần Trọng Kim đặt quốc hiệu là Đế Quốc Việt Nam.

Năm 1945, cuộc Cách Mạng Tháng Tám thành công. Ngày 25 tháng 8, chánh phủ lâm thời Hồ Chí Minh buộc vua Bảo Đại phải thoái vị. Vua Bảo Đại thoái vị trong một buổi lễ long trọng ở Ngọ Môn, Huế vào chiều 30 tháng 8, trao quốc ấn Hoàng Ðế Chi Bửu và thanh kiếm bạc nạm ngọc cho đại diện của chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là ông Trần Huy Liệu. Vua Bảo Ðại trở thành "công dân Vĩnh Thụy." Trong dịp này, ông có câu nói nổi tiếng, "thà làm dân một nước độc lập hơn làm vua một nước nô lệ."

Tháng 9 năm 1945, Bảo Ðại được Chủ Tịch Chánh Phủ Lâm Thời Hồ Chí Minh mời ra Hà Nội nhận chức "cố vấn tối cao" trong chánh phủ. Ông là một trong 7 thành viên của Ủy Ban Dự Thảo Hiến Pháp do Chủ Tịch Hồ Chí Minh đứng đầu.

Ngày 6 tháng 1 năm 1946, Bảo Ðại được bầu làm đại biểu Quốc Hội khóa đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa. Ngày 16 tháng 3 năm 1946, ông tham gia phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa sang thăm viếng Trung Quốc, nhưng ông không trở về nước.

Năm 1947, cựu trùm mật thám Pháp ở Đông Dương là Cousseau đã tiếp xúc với Bảo Đại tại Hồng Kông, ngỏ ý mời ông về nước nắm quyền, hình thành nên "giải pháp Bảo Đại" để chống lại cuộc chiến giành độc lập của phong trào Việt Minh.

Ngày 5 tháng 6 năm 1948, Bảo Đại đã gặp gỡ Cao Ủy Pháp Bollaert ở vịnh Hạ Long. Bản Tuyên Ngôn Hạ Long ra đời, theo đó nước Pháp thừa nhận nền độc lập của Việt Nam.

Ngày 8 tháng 3 năm 1949, Tổng Thống Pháp Vincent Auriol và cựu hoàng Bảo Đại ký Hiệp ước Elysée, thành lập một chính quyền Việt Nam trong khối liên hiệp Pháp, gọi là Quốc Gia Việt Nam, đứng đầu là Bảo Đại. Bảo Đại yêu cầu Pháp phải trao trả Nam Kỳ cho Việt Nam và Pháp đã chấp nhận yêu cầu này.

Ngày 24 tháng 4 năm 1949, Bảo Đại về nước. Hai tháng sau, vào ngày 14 tháng 6, Bảo Đại tuyên bố tạm cầm quyền cho đến khi tổ chức được tổng tuyển cử và tạm giữ danh hiệu hoàng đế để có một địa vị quốc tế hợp pháp. Ngày 1 tháng 7 năm 1949, chính phủ lâm thời của Quốc Gia Việt Nam được thành lập, tấn phong Bảo Đại là quốc trưởng. Bảo Đại cũng tuyên bố tạm kiêm quyền thủ tướng, vì vậy cử tướng Nguyễn Văn Xuân, nguyên là thủ tướng xuống làm phó thủ tướng kiêm Bộ Trưởng Quốc phòng. Tháng 1 năm 1950, Bảo Đại chỉ định Nguyễn Phan Long làm thủ tướng kiêm Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao trong một thời gian ngắn.

Quốc Trưởng Bảo Đại sống và làm việc tại biệt điện ở Đà Lạt. Xung quanh nơi ở của Bảo Đại có cả một trung đoàn ngự lâm quân bảo vệ và có cả một đoàn xe riêng gọi là "công xa biệt điện." Lại có cả một đội máy bay riêng do các phi công người Pháp lái phục vụ.

Sau Hiệp định Genève 1954, Pháp phải rút khỏi Đông Dương, nước Việt Nam chia đôi tại Vĩ Tuyến 17. Miền Bắc thuộc Chủ Tịch Hồ Chí Minh và Ðảng Cộng Sản Việt Nam, và miền Nam thuộc chánh phủ Quốc Gia Việt Nam. Đến ngày 26 tháng 10 năm 1955, Quốc Trưởng Bảo Đại bị truất phế sau cuộc trưng cầu dân ý và bắt đầu cuộc sống lưu vong tại Pháp cho đến khi qua đời.

Ông sống tại Cannes, sau đó chuyển đến vùng Alsace. Bảo Đại giao du với Jean de Beaumont, cựu nghị sĩ Nam Kỳ, một tay săn bắn có hạng. Bị cơ quan thuế để mắt tới, không còn tiền tài trợ của chính phủ Pháp, ông phải bán dần tài sản của mình. Năm 1963, Nam Phương Hoàng hậu qua đời ở Chabrignac.

Tháng 2 năm 1972, khi đã tiêu pha hết cả tài sản, Bảo Đại kết hôn với Monique Baudot, một phụ nữ Pháp kém Bảo Đại 30 tuổi.

Năm 1982, nhân khai trương Hội Hoàng Tộc ở hải ngoại, Bảo Đại lần đầu tiên sang thăm Mỹ với tư cách cá nhân. Trong chuyến đi này ông đã nhận tên cha để làm lại giấy khai sinh cho những người con ngoại hôn trước đây không ghi tên cha. Tại thị trấn Sacramento, ông được tặng chiếc chìa khóa vàng tượng trưng cho thị trấn này. Ông cũng được bà thị trưởng thành phố Westminster, California tặng danh hiệu "công dân danh dự" của thành phố.

Năm 1988, Bảo Đại làm lễ rửa tội, lấy tên thánh là Jean-Robert.

Cựu hoàng Bảo Đại là vị vua thọ nhất nhà Nguyễn. Ông mất ngày 31 tháng 7 năm 1997 tại Quân Y viện Val De Grace, hưởng thọ 83 tuổi. Ông cũng là một phế đế sống thọ nhất trên thế giới thời hiện đại. Trước đó ông có nhận lời về tham dự hội nghị thượng đỉnh các nước nói tiếng Pháp (La Francophonie) được tổ chức tại Hà Nội vào 1997 sau đó vài tháng.

Đám tang Bảo Đại được chính phủ Pháp tổ chức với một tiểu đội lính lê dương và sĩ quan mang quốc kỳ Pháp, quân phục trắng, gù đỏ trên vai, bồng súng đi bên linh cữu. Ông được an táng tại nghĩa trang Passy, quận 16, Paris, gần tháp Eiffel.

Bộ Ngoại giao Việt Nam đã gửi điện chia buồn đến tang quyến và Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam đã gửi vòng hoa viếng.

Vietnam War 1954-1974
viethoaiphuong
#25 Posted : Saturday, January 31, 2009 6:31:07 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)

VUA QUANG TRUNG
Vị Anh Hùng Dân Tộc




VUA QUANG TRUNG

Đệ nhất anh hùng giữa thế gian
Dẹp tan xâm lược cứu giang san
Đống Đa giặc Mãn thây chồng chất
Xoài Mút quân Xiêm xác ngổn ngang
Kim Cổ vĩ nhân so xứng bậc
Đông Tây danh tướng sánh cùng hàng
Quang Trung thế hệ tài năng trẻ
Tô điểm nhà Nam rạng vẻ vang

Triều Phong Đặng Đức Bích


1. Vinh Danh Anh Hùng Dân Tộc
Người Pháp tự hào về Napoléon Bonaparte. Ông là một thiên tài quân sự, đã chinh phục một phần lớn lãnh thổ Âu Châu, nhưng cuối cùng thất bại trận Waterloo tại nước Bỉ.
Dân tộc Pháp luôn luôn tôn kính ông. Du khách đến Paris thấy ở đầu đại lộ Champs Elisée, Khải Hoàn Môn được xây dựng, một công trình kiến trúc Văn Hóa Hùng Sử Pháp, để tưởng nhớ Napoléon Bonaparte, với những chiến thắng vẻ vang liên tiếp đã làm rạng danh trang sử Pháp.
Vào thời gian này, tại Mỹ Quốc cũng có cuộc cách mạng Hoa Kỳ. Chính George Washington, một chính trị gia lỗi lạc, một anh hùng dân tộc, đã đưa đất nước Hoa Kỳ đến chỗ vinh quang.
Việt Nam chúng ta có vua Quang Trung Nguyễn Huệ là kết hợp hai đặc điểm Thiên Tài Quân Sự của ông Napoléon Bonaparte và chính trị gia lỗi lạc của ông George Washington. Vua Quang Trung hành quân tốc chiến tốc thắng, biến hóa như thần, hiệu lệnh nghiêm minh, kỷ luật sắt thép. Từ khi làm Tướng, giữa lúc nước nhà ly loạn khắp nơi, đến khi ông mất, xông pha trăm trận bách chiến bách thắng, ông chưa hề biết chiến bại.
Chúng ta phải lập Khải Hoàn Môn Việt Nam để vinh danh vị anh hùng dân tộc Quang Trung Nguyễn Huệ, là gương sáng cho thế hệ con cháu mai hậu noi theo. Chỉ trong 5 ngày chiến đấu ào ạt, Vua Quang Trung đã tiêu diệt 20 vạn quân Thanh, chiến thắng vẻ vang trong những trận đánh thần tốc oai hùng. Đây là một chiến công lớn lao, so sánh với chiến công của các danh tướng Đông Tây Kim Cổ trên thế giới, là niềm hảnh diện chung cho Dân Tộc Việt Nam.

2. Cuộc Cách Mạng Dân Tộc
Vào thế kỷ thứ 18, nhiều cuộc Cách Mạng Dân Tộc nổi lên khắp nơi từ Âu, Mỹ, Á. Cách Mạng Pháp 14/7/1789 lật đổ chế độ phong kiến tiếp nối qua nhiều thế hệ. Sự thống trị cha truyền con nối từ đời nầy sang đời khác bị đánh đồ, nông nghiệp phải nhường bước cho thương nghiệp. Nhiều nước đua nhau lập đội thương thuyền, tranh giành thị trường và chiếm thuộc địa.
Tại Việt Nam thời bây giờ, loạn lạc nổi lên khắp nơi như vụ loạn Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Cầu, Nguyễn Danh Phương, Hoàng Công Chất…, quan quân địa phương dẹp không nổi.
Trong Nam, năm 1782 Nguyễn Phúc Ánh Nhà Nguyễn bị Nhà Tây Sơn đánh bại tại Ngả Bảy Thất Kỳ Giang không còn manh giáp, Nguyễn Phúc Ánh chạy thoát thân ra đảo Phú Quốc. Trong trận nầy, Nguyễn Phúc Ánh cầu cứu một người Pháp tên là Manuel đem thủy quân đến giúp, nhưng không chống nổi, Manuel phải đốt tàu mà chết. Về sau, Nguyễn Phúc Ánh nhờ Giám Mục Bá Đa Lộc (Alexandre de Rhodes), đem con là Hoàng tử Cảnh đi cầu cứu nước Pháp, nhờ đem quân sang giúp, chống lại nhà Tây Sơn, khơi mào cho sự dòm ngó tìm thị trường và thuộc địa của Đế quốc phương tây. Một trăm năm đô hộ giặc Tây ! Dân Việt trải qua bao nhiêu sự đau khổ, bị áp bức, chết chóc, sưu cao thuế nặng.
Năm 1784, Nguyễn Phúc Ánh rước quân Xiêm La do hai tướng Xiêm là Chiêu Tăng và Chiêu Sương, đem quân và 300 chiến thuyền chiếm Rạch Giá, Ba Thắt, Trà Ôn và Mân Thít. Đi đến đâu quân Xiêm cướp bóc và quấy nhiễu đến đó, thật là tai hại.
Ở miền Bắc Trịnh Giang chuyên quyền, giết vua Lê, tàn sát các công thần. Họ Trịnh ăn chơi xa xỉ khiến công quỹ hao hụt, sưu thuế nặng nề. Cuộc tranh bá đồ vương Trịnh Nguyễn phân tranh kéo dài trên một trăm năm (1620-1775) làm dân chúng chết chóc, điêu linh khổ sở.
Năm 1788, Lê Chiêu Thống rước quân Tàu do Tôn Sĩ Nghị, Tổng Đốc Lưỡng Quảng, đem quân xâm chiếm Việt Nam, thiếu chút nữa nước ta bị quân Tàu đô hộ một lần nữa. Một ngàn năm đô hộ giặc Tàu, qua bốn lần Bắc thuộc, khởi đầu từ năm 207 trước Tây lịch, thiệt quá khủng khiếp! Người dân phải lên rừng tìm ngà voi, xuống biển mò ngọc trai, sưu cao thuế nặng dưới sự cai trị áp bức của quân xâm lược. Dân tộc Việt Nam, trải qua hàng chục thế kỷ bị đô hộ, với biết bao nhiêu sự phấn đấu vượt bực để khỏi bị người Tàu đồng hóa.
Giáo sĩ Diego de Jumilla viết: “Để đáp ứng nguyện vọng của toàn dân, Nhà Tây Sơn đã đứng lên làm cuộc Cách Mạng Dân Tộc, lật đổ chế độ thối nát, đem công bằng và cơm no áo ấm cho dân chúng”.
Buttinger, nhà nghiên cứu lịch sử chính trị đã nói: “Những lực lượng xã hội thời bấy giờ, như khách trú người Hoa, người Chiêm Thành, các giới nhà chùa Phật Giáo, Lão Giáo, Các Sắc Tộc thiểu số đều nhiệt liệt hưởng ứng và giúp đỡ, đưa phong trào Tây Sơn đến chỗ thành công”.
Jean Chisneaux, giáo sư sử học Pháp viết: “Sự kiện lớn nhất đối với Nhà Tây Sơn là việc khôi phục, thống nhất đất nước, xóa bỏ việc chia cắt đất nước thành hai vương quốc Trịnh-Nguyễn đối địch”.
Trong cuốn Việt Sử Cương Mục Tiết Yếu của ông Đặng Xuân Bảng, có đoạn viết: “Trận chiến lúc bấy giờ giống như cái thế Tam Quốc bên Tàu: Bắc Ngụy, Tây Thục và Đông Ngô. Ở Việt Nam Nhà Tây Sơn đã đánh Chúa Nguyễn, diệt chúa Trịnh, thống nhất đất nước”.

3. Binh Pháp Nguyễn Huệ
Vào thời Xuân Thu Chiến Quốc, “Binh pháp Tôn Tử” nổi danh và được áp dụng qua nhiều thế kỷ. Các nhà quân sự phương đông và Việt Nam thường hay nghiên cứu và áp dụng binh pháp nầy, nhưng kết quả thành bại, phần lớn tùy vào khả năng và sự tài giỏi của người điều khiển.
Vua Quang Trung Nguyễn Huệ, xông pha trận mạc khắp các chiến trường, đánh vào phía nam, bốn lần bạt thành Gia Định, đánh ra phía Bắc, ba lần vào Thăng Long, thắng Chúa Nguyễn, diệt Chúa Trịnh, đánh bại quân Xiêm La, phá tan quân Mãn Thanh, áp dụng binh pháp thiên biến vạn hóa: Binh Pháp Nguyễn Huệ.
Quân đội hùng dũng
Kỷ luật sắt thép
Tình báo chính xác
Kế hoạch tinh vi
Chuyển quân chớp nhoáng
Chỉ huy dũng mãnh
Trận đánh thần tốc
Ân uy, độ lượng
Vua Quang Trung tổ chức một đội binh dũng mạnh. Ông thường nói: “Binh lính cốt hòa thuận chứ không cốt đông, cốt tinh nhuệ chứ không cốt nhiều”.
Theo lời các nhà truyền giáo Tây Phương, quân đội của ông có tinh thần chiến đấu cao, kỷ luật sắt thép, không xâm phạm tài sản của dân chúng. Người lính được huấn luyện gan dạ, một chống nổi ba bốn nên đánh đâu thắng đấy.
“Biết địch biết ta, trăm trận trăm thắng”, nói lên tính cách quan trọng của tình báo. Vua Quang Trung có một đội ngũ tình báo tài giỏi, tháo vát, lại có thêm hai thủ lãnh người Hoa là Lý Tài và Tập Đình về giúp, tình báo viên len lỏi, xâm nhập vào lòng đất địch để lấy tin tức chính xác, biết quân địch muốn gì và đang làm gì.
Kế hoạch hành quân, tấn công chớp nhoáng vào địch quân là một chiến thuật thần tốc kỳ tài của Vua Quang Trung, thiên biến vạn hóa, áp dụng như thần trên các chiến trường Nam Bắc. Quân Xiêm La được Nguyễn Phúc Ánh rước về Nam Việt Nam và làm chủ tình hình Gia Định từ tháng 8 năm 1784. Nguyễn Huệ đem quân vào Rạch Gầm - Xoài Mút thuộc tỉnh Định Tường, áp dụng chiến thuật lùi để nhử địch vào các điểm chiến lược. Quân Xiêm đến, quân của Nguyễn Huệ tràn ra đánh cả hai mặt thủy bộ, quân Xiêm xoay trở không kịp, chết rất nhiều, chỉ còn vài ngàn người, tìm đường thoát thân chạy về nước.
Quân Tàu được Lê Chiêu Thống rước về Bắc Việt Nam qua ba ngả Nam Quan, Tuyên Quang, Cao Bằng và làm chủ tình hình Thăng Long từ tháng 11 năm 1788. Quân ta ít, quân Tàu đông, quân ta ở xa tới, quân Tàu đã xây đồn lũy, làm chủ tình thế. Sách Hoàng Lê Nhất Thống Chí viết, Vua Quang Trung tuyên bố: “Lần nầy ta ra trận hành quân, phương lược tiến đánh đã có sẵn, chẳng qua 10 ngày là đuổi được quân Thanh”. Ông chia quân làm 3 đạo, với binh pháp Nguyễn Huệ, mẹo mực như thần, hành quân tốc chiến tốc thắng và chưa đầy một tuần lễ, đã phá tan đoàn quân xâm lược Mãn Thanh, quân ta chiến thắng vẻ vang, chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại.
Một điểm khác, Vua Quang Trung điều binh rất nhanh. Ông chuyển quân vào Miền Nam, ra Miền Bắc quân thủy bộ đi rập với nhau, ăn khớp trong việc lập thế trận. Trong Hoàng Lê Nhất Thống Chí, Trần Công Xán phát biểu: “Người Tây Sơn hành quân như bay tiến quân rất gấp, xem họ đi lại vùn vụt mau chóng như thần, chống không thể được, đuổi không thể kịp”.
Vua Quang Trung cũng áp dụng đúng mức chiến tranh tâm lý, là để quân Xiêm La và quân Xâm lược Mãn Thanh, cướp bóc hiếp đáp nhân dân, tạo nộ sĩ trong dân chúng, với lòng căm phẫn quân thù bạo tàn. Ông là một tướng tài, một vị vua khoan dung độ lượng, lấy ân uy và đảm lược chinh phục lòng người, nên ai nấy đều kính sợ.

4. Cái Trí và Cái Dũng
Ông là người có một bộ óc thông minh lỗi lạc, một nhãn quan đặc biệt, một uy vũ khác thường. Sách Đại Nam Chính Biên Lược Truyện có đoạn tả chân dung của Vua Quang Trung Nguyễn Huệ: “Ông ta tiếng nói như chuông, mắt lập lòe như ánh điện, là người thông minh kiên quyết, giỏi chiến đấu, người người đều kính nể”. Ngoài cái dũng của vị anh hùng tài trí, tiên phong nơi chiến trận, ông có nhiều mưu lược tùy cơ ứng biến trong các trận đánh khác nhau, từ đồi núi đến đồn lũy, từ bộ chiến đến thủy chiến, biến hóa không lường, chiến thuật điều binh chớp nhoáng, đem lại chiến thắng vẻ vang :
Đệ nhất anh hùng giữa thế gian
Dẹp tan xâm lược cứu giang san
Đống Đa giặc Mãn thây chồng chất
Xoài Mút quân Xiêm xác ngổn ngang
Kim Cổ vĩ nhân so xứng bậc
Đông Tây danh tướng sánh cùng hàng
Quang Trung thế hệ tài năng trẻ
Tô điểm nhà Nam rạng vẻ vang
Vua Quang Trung có nhiều sáng kiến đặc biệt, phát sinh từ một tinh thần Quốc Gia cấp tiến và sáng suốt về việc sử dụng chữ Nôm, một ý niệm Cách Mạng Tự chủ Độc Lập. Ông nghe ai tài giỏi hiền đức, lấy lễ Tân Sư, tức vừa coi là khách vừa coi là Thầy, mời tham gia việc nước Các bậc tài danh như La San Phu Tử Nguyễn Thiếp, Ngô Thời Nhiệm, Phan Huy Ích, Trần Văn Kỷ, Ninh Tấn, Đoàn Nguyễn Tuấn, Trần Bá Lâm, Võ Huy Tấn … đều được mời tham chính. Ông chỉnh đốn triều chính, cải cách ruộng đất, cải tổ thuế khóa. Ông nghĩ ngay đến việc đúc tiền để độc lập về mọi mặt và đồng tiền “Quang Trung Thông Bảo” được thay đồng tiền Cảnh Hưng khắp chợ cùng quê.

5. Niềm Tự Hào Dân Tộc
Dân Tộc Việt Nam tự hào về vua Quang Trung Nguyễn Huệ. Thế hệ con cháu mai hậu sẽ xây Khải Hoàn Môn Việt Nam tại núi Bàn Sơn, nơi xuất quân ra Bắc đánh quân xâm lược, hay tại Gò Đống Đa, nơi chiến thắng quân Tàu để vinh danh ông. Ông là bậc kỳ tài dũng mãnh, với một thời gian ngắn kỷ lục, ông đã tiêu diệt 200 ngàn quân Thanh mau như chớp nhoáng, đến nỗi Vua Càn Long phải nể vì, mời Vua Quang Trung tham dự lễ Khánh Thọ Bát Tuần của mình được tổ chức tại Nhiệt Hà bên Tàu, để nhìn mặt thật sự và chiêm ngưỡng người đã chiến thắng vẻ vang Thiên Triều phương Bắc. Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện có đoạn nói Vua Càn Long Nhà Thanh rất vui mừng và phê ngay vào góc tờ biểu: “Ta sắp được gặp nhau là điều mong ước lớn”.
Từ những chiến thắng vinh quang ấy, khi Vua Quang Trung tại vị, bãi việc cống người vàng thế mạng Liễu Thăng, mà nước Tàu đã áp đặt các vị vua Việt Nam, hàng năm phải triều cống từ năm Đinh Mùi 1427.
Vua Quang Trung đề cao tinh thần Quốc Gia Dân Tộc, dùng chữ Nôm thay thế chữ Hán trong các chiếu, biểu, sắc, dụ, thi phú. Những vần thơ trữ tình của Nữ Sĩ Hồ Xuân Hương, thiên trường ca Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu, bản dịch Chinh Phục Ngâm của Đoàn Thị Điểm là những áng văn chữ Nôm tuyệt tác, với sự đóng góp cơ bản thuần túy Dân Tộc vào nền Văn Hóa bắt đầu mang tích cách Độc lập, Tự chủ của Dân Tộc Việt Nam.
Hơn thế nữa, Vua Quang Trung còn chuẩn bị kế hoạch đòi lại 6 châu thuộc Hưng Hóa, 3 động thuộc Tuyên Quang, đã bị nước Tàu xâm chiếm trước kia, sát nhập vào Lưỡng Quảng. Công việc đóng tàu, đúc vũ khí, rèn luyện binh sĩ đã sắp đặt từ lâu. Sứ giả sang Tàu năm Nhâm Tý 1792, cầu hôn cưới Công Chúa Thanh Triều và đòi đất đai, là cái cớ đánh lấy lại đất, nếu Thanh Triều từ chối. Nhưng tiếc thay, khi phái bộ Sứ giả Việt Nam sang Trung Quốc thì được tin Vua Quang Trung thăng hà, sứ giả phải quay về.
Bài học Lịch Sử có đoạn:
Máu đào nhuộm thắm từng trang
Chỉ quen chiến đấu đầu hàng không quen
Em ơi nước mất bao phen
Mà phen nào cũng vang tên anh hùng
Nói lên những trang sử Việt Nam viết bằng máu và nước mắt. Nhiều vị anh hùng đã đẩy lui quân xâm lược phương Bắc như Lê Lợi, Trần Quốc Tuấn, Lý Thường Kiệt, Nguyễn Huệ …, nhưng chiến thắng Đống Đa của Vua Quang Trung là trận đánh kiêu hùng nhất, vẻ vang nhất, trong thời gian kỷ lục 5 ngày đã tiêu diệt 20 vạn quân Thanh, nhanh chưa từng thấy, làm quân Tàu hãi hùng khiếp sợ, làm rạng danh trang sử Việt Nam. Từ cửa ải Lạng Sơn trở lên phía Bắc, người Tàu già trẻ dìu dắt nhau chạy trốn, trên mấy trăm dặm tuyệt nhiên không có người và khói bếp.
Trong Sách Trí Thức Việt Nam cuối thế kỷ 18, ông Hồ Văn Quang viết : “ Vua Quang Trung mang một bản sắc đặc biệt, không chỉ riêng cho Dân Tộc Việt Nam mà cho cả thế giới. Đối với chúng ta, không có gì gượng gạo, là quá đáng khi ghép đằng sau tên ông những danh từ đẹp đẻ, kính trọng đầy thán phục như : Anh hùng, thiên tài quân sự, thiên tài ngoại giao, một chính trị gia lỗi lạc, một nhà cải cách xuất chúng, một vị Thánh, một vị Thần linh, vì chỉ có ông ta mới xứng đáng mang danh Đại Đế, đã đưa Dân Tộc nhỏ bé như Việt Nam có thể đạt đến đỉnh vinh quang sáng chói nhất tại vùng Đông Nam Á vào cuối thế kỷ 18 ”.
Vua Quang Trung là niềm hãnh diện và tự hào của Dân Tộc Việt Nam, là tấm gương sáng cho thế hệ tuổi trẻ tương lai, lòng tràn đầy nhiệt huyết, đang vùng dậy khắp nơi, nhận lãnh trách nhiệm cao cả, đầy hy vọng, tạo thành một sức mạnh cho dân tộc Việt Nam.

Triều Phong Đặng Đức Bích

Tài liệu tham khảo :
Đại Nam Nhất Thống Chí - Nguyễn Tạo
Hoàng Lê Nhất Thống Chí - Ngô Thời Chí
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư - Ngô Sĩ Liên
Việt Nam Sử Lược - Trần Trọng Kim
Việt Sử Cương Mục Tiết Yếu - Đặng Xuân Bảng
Việt Sử Toàn Thư - Phạm Văn Sơn
Trí Thư'c VN cuối thế kỷ 18 - Hồ Văn Quang
L'hisfoire du Việt Nam - Philippe Devillers
L'lmpire d'Annam - Gosselin
viethoaiphuong
#26 Posted : Thursday, August 27, 2009 10:06:20 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
Cuộc Đời Bi Hùng của Cựu Hoàng Đế Hàm Nghi


Từ đầu năm 2008, Nhà nước, chính quyền tỉnh Thừa Thiên - Huế và cộng đồng Nguyễn Phước tộc (trong và ngoài nước) đã có những động thái tích cực để đưa di hài vua Hàm Nghi về Huế. Vị vua yêu nước, mang tinh thần dân tộc quật cường đang sắp sửa về lại cố hương sau 120 năm biệt xứ chốn lưu đày.

Cuộc nổi dậy kháng Pháp bất thành, kinh đô Huế bị thất thủ ngày 23-5 năm Ất Dậu (1885). Vua Hàm Nghi theo phụ chính đại thần Tôn Thất Thuyết chạy ra Tân Sở và ban chiếu Cần Vương kêu gọi sĩ phu và toàn thể dân chúng nổi dậy chống Pháp.

Sau ba năm kháng chiến ở rừng sâu, đêm 2-11-1888, giữa lúc trời mưa lạnh, vua Hàm Nghi bị tên Trương Quang Ngọc phản bội bắt đem nộp cho Pháp. Không thể mua chuộc được ông vua trẻ lúc ấy chỉ mới 18 tuổi, thực dân Pháp đã đưa vua xuống tàu La Comète vào Sài Gòn, rồi đưa qua tàu Biên Hòa, lưu đày biệt xứ sang Algeria. Trước đó, thực dân Pháp đã yêu cầu viên toàn quyền Algeria đối xử tử tế với toan tính có thể đưa Hàm Nghi trở lại ngai vàng một lần nữa...

Ngày 13-1-1889, tàu Biên Hòa cập bến thủ đô Alger của Algeria. Tại đây, nhà vua được chính quyền tiếp đón đàng hoàng và được nhiều học sinh người Việt tìm đến viếng chào. Nhà vua được cấp Villa des Pins (biệt thự Hiên Tùng) sang trọng, nằm gần Alger. Ông cũng được viên toàn quyền Pháp tại Algeria là Tirman tiếp kiến và mời cơm thân mật tại gia đình.

Không chịu khuất phục

Mười ngày đầu, cựu hoàng tạm trú tại L'hotel de la Régence (Toà nhiếp chính). Sau đó, ông được chuyển về ở Villa des Pins (Biết thự Rừng thông) cách Alger 5 cây số.

Vua Hàm Nghi ở tại Algeria nhưng thái độ bất hợp tác của vua tỏ rõ ngay từ đầu. Thời gian khởi nghĩa nhà vua thường nói rằng mình thà chết trong rừng hơn là trở về làm vua mà bị người Pháp kiềm tỏa. Ngay trước thời điểm lên tàu đi xa, có cơ hội về thăm gia đình, thăm người mẹ đang đau nặng, nhưng nhà vua cự tuyệt: “Tôi thân đã tù, nước đã mất, còn dám nghĩ chi đến cha mẹ, anh chị em nữa!”.

Ngày 24-1, Toàn quyền Tirman tiếp kiến và mời cựu hoàng ăn cơm gia đình. Ít ngày sau, qua Toàn quyền Tirman, cựu hoàng nhận được tin thân mẫu là Bà Phan Thị Nhàn (vợ thứ của Ngài Hồng Cai, Hoàng Tử thứ 26 của vua Thiệu Trị) - đã từ trần vào ngày 21-1-1889 tại Huế. Thân phụ mất (1876) lúc cựu hoàng mới 5, 6 tuổi. Đến nay lại được tin thân mẫu qua đời, cựu hoàng đau khổ vô cùng.

Gần mười tháng tiếp đó, cựu hoàng không chịu học tiếng Pháp. Ông cho rằng tiếng Pháp là thứ tiếng của dân tộc đã cướp nước Việt Nam, không học làm gì. Mọi việc giao thiệp đều qua thông ngôn Trần Bình Thanh. Nhưng dần dần ông thấy người Pháp ở Algérie không phải là loại người Pháp thực dân ở xứ An Nam, không những họ không thù hận ông mà trái lại họ còn quý mến và giúp đỡ ông. Đến tháng 11-1889, cựu hoàng chịu học tiếng Pháp với giáo sư Néopol.

Sau mấy năm học tập, cựu hoàng nói và viết tiếng Pháp giống như một người Pháp. Tuy nhiên, ông luôn nói tiếng Việt và ăn cơm Việt Nam do những người bên Việt Nam cử qua phục vụ. Cựu hoàng giao du quen thuộc với nhiều trí thức nổi tiếng Pháp. Năm 1899, cựu hoàng được qua thăm Pháp. Trong những ngày tham quan thủ đô Paris, cựu hoàng được xem triển lãm tranh của Gauguin (1848-1903), về sau vẽ tranh, cựu hoàng đã chịu ảnh hưởng của phong cách Gauguin.

Người dân Alger thì quen gọi vua Hàm Nghi với cái tên thân thiện là “ông hoàng An Nam” (Prince d'Annam), bởi nhà vua luôn nói tiếng Việt, đầu búi tó, đội khăn vành, vận áo dài đen, quần trắng, ăn các món ăn của người Việt do người Việt nấu... Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân: “Về sau khi tiếp xúc với nhiều người, gặp nhiều người Pháp tốt, nhà vua nhận ra không phải người Pháp nào cũng là kẻ thù và ông mới chịu theo học tiếng Pháp đến mức thông thạo”. Nhà vua cũng thường vẽ tranh, chụp ảnh như là những thú vui tao nhã trong đời sống của mình.

Khi đã tiếp cận, học hỏi nhiều điều từ văn hóa, văn minh Pháp, có người ca ngợi lịch sử nước Pháp trước mặt ông, nhà vua không bàn cãi mà chỉ đáp lời: “Lịch sử nước Pháp rất hấp dẫn tôi nhưng lịch sử nước tôi cũng hấp dẫn tôi không kém!”...

Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân kết luận: “Vua Hàm Nghi giao du quen thuộc với nhiều trí thức nói tiếng Pháp; nhiều quan chức cao cấp của Pháp rất trọng nể tinh thần yêu nước và phong cách sống phương Đông của ông”. Ông Tôn Thất Hanh, nguyên chủ tịch hội đồng Nguyễn Phước tộc, nói: “Vua Hàm Nghi là biểu tượng của sự chống đối đối với thực dân Pháp từ trẻ đến già, với cái tâm thật trong sáng!”.

Tác giả Bửu Diên - Hoàng Oanh, trong đặc san tưởng niệm Ba vị hoàng đế cách mạng Hàm Nghi - Thành Thái - Duy Tân do hội đồng hoàng tộc Nguyễn Phước hải ngoại ấn hành năm 2004, nhận xét: “Cuộc đời sóng gió, lòng yêu nước và đức độ của vua Hàm Nghi đã cảm hóa được nhiều người bạn ngoại quốc”, thông qua nhắc lại tường thuật của cô Blanche - con gái vị đại tá tư lệnh Alger thời bấy giờ đã viết về vua Hàm Nghi: “Nếu Người bằng lòng trở lại ngôi báu thì người Pháp chúng tôi rất vui mừng vì Người đã được dân chúng và sĩ phu sùng bái.. Lòng yêu tổ quốc, yêu quê hương, yêu đồng bào của Người lớn hơn cả chiếc ngai vàng. Tôi yêu mến tổ quốc của tôi nên tôi rất quí trọng những người yêu tổ quốc của họ!”.

Một gia đình Việt giữa xứ người

Theo nghiên cứu của ông Nguyễn Đắc Xuân, vào đầu thế kỷ 20, thông qua một người Pháp, vua Hàm Nghi viết thư về Huế yêu cầu gửi hai người cháu là Bửu Thùy và Bửu Phong, con của công tử Ưng Uyển, anh cùng cha khác mẹ với mình, sang Alger ở cùng.

Vợ ông Ưng Uyển, là con gái của đại thần Nguyễn Hữu Độ, không đồng ý. Đến năm 1904, khi đã 33 tuổi, vua cưới vợ là cô Marcelle Laloe, con gái ngài luật sư chánh án tòa thượng thẩm Alger. Ngài Laloe góa vợ, có một con gái duy nhất, là người rất được trọng vọng đối với dân bản xứ, có lẽ thông cảm với hoàn cảnh của vị vua nước Nam đang lưu vong nên đã gả con gái cho.




Ngày cưới, vua Hàm Nghi vẫn phục sức kiểu Việt với áo dài, khăn đóng, búi tóc cổ truyền, đi trên chiếc xe song mã rước vị hôn thê đến nhà thờ làm lễ.



Những bức ảnh tư liệu cho thấy hàng nghìn người đã theo dõi lễ cưới của vị vua An Nam, và đây trở thành một sự kiện văn hóa của người dân trong vùng..

[img]http://img.photobucket.com/albums/v416/Cha_IGI/Dam_cuoi_vua_HamNghi2.jpg" alt=""/>

Vợ theo Thiên Chúa giáo, vua Hàm Nghi tuy không theo đạo nhưng rất tôn trọng vợ, thỉnh thoảng có đến nhà thờ, và hai người sống với nhau rất hạnh phúc cho đến cuối đời.

Nhà vua có ba người con, con đầu lòng là hoàng nữ Như Mai sinh năm 1905, năm 1908 có thêm cô con gái kế là Như Lý và đến năm 1910 sinh con trai út Minh Đức.

Ý thức về sự đày ải suốt cuộc đời, biệt thự Hiên Tùng được vua đổi tên thành biệt thự Gia Long, trong đó xây một cổ lâu theo kiểu kiến trúc Việt truyền thống, biến thành nơi để thờ phụng, tế tự dòng tộc nhà Nguyễn. Ông thường bảo: “Các con chưa thể được làm người dân Việt Nam tốt thì hãy là những người Pháp tốt”.

Cách sống và cách dạy con dựa trên tinh thần Việt của nhà vua đã tác động tích cực nên các con ông đều trở thành người rất có tư cách. Con gái đầu Như Mai năm 1925 đã đỗ đầu kỹ sư nông học tại Trường canh nông Quốc gia Grignon, là người phụ nữ đầu tiên đỗ đầu trường này.

Bà không lập gia đình mà đem tri thức giúp dân nghèo cải tạo nông nghiệp tỉnh Dordogne, biến vùng đất nghèo trở nên giàu có... “Bà chúa nước Nam” theo cách gọi của dân địa phương đã dựng được một lâu đài lớn tại làng Thonac, về sau biến một phần đất trở thành nghĩa trang gia đình, nơi đặt di hài vua Hàm Nghi hiện nay.

Người con gái kế Như Lý đang học đại học ngành dược đã bỏ học đi lấy chồng là một nhà quí tộc thành công trong nghề nông, sinh được ba người con, hiện đang sinh sống tại Pháp. Phần hoàng thân Minh Đức, cũng như bao nhiêu thanh niên Pháp, phải đi lính trong Thế chiến thứ 2. Theo tác giả Nguyễn Xuân Thọ, sau thế chiến hoàng thân ở trong quân đội Pháp với cấp thiếu tá.

Sau khi Đức thua trận, ông được lệnh đưa đi Việt Nam trong hàng ngũ quân Pháp, nhưng ông thẳng thừng từ chối. Ông Jean De Latour Dejean - một đại sứ làm việc cho Bộ Ngoại giao Pháp, từng là sĩ quan, bạn thân và là đồng đội với ông Minh Đức lúc ấy - kể câu chuyện hoàng thân tuyên bố với Chính phủ Pháp rằng ông không thể cầm súng bắn lại đồng bào ông. Nếu Chính phủ Pháp muốn đưa ông ra tòa án binh thì cứ đưa. Ông không chịu đi qua Việt Nam để đánh giặc cho Pháp, chống lại Việt Nam.

Đã gần ngày về với quê nhà

Nhiều sử liệu cho rằng vua Hàm Nghi mất vào ngày 4-1-1943; tuy nhiên ông Nguyễn Đắc Xuân dẫn theo lời bà Như Lý cho rằng vua mất vào ngày 14-1-1944, tại biệt thự Gia Long và an táng ngay tại đây. Đến năm 1962, khi Algeria độc lập thì biệt thự Gia Long được trả về cho Algeria và ba năm sau di hài nhà vua được chuyển về cải táng ở khu lăng mộ tại làng Thonac, trong khu vực lâu đài của trưởng nữ Như Mai ở tỉnh Dordogne.

[img]http://farm2.static.flickr.com/1229/1354357196_4172ad99eb_o.jpg" alt=""/>

Ông Xuân cho biết khu lăng mộ hiện có năm hài cốt gồm: vua Hàm Nghi, bà Marcelle Laloe - vợ vua (mất năm 1974), bà quản gia (mất 1941), ông Minh Đức (mất 1990) và bà Như Mai (mất 2000). Theo ông Xuân, nếu đưa về Huế nên thiết kế một khu lăng mộ riêng cho phong trào Cần Vương và cải táng vua Hàm Nghi và gia đình, cùng việc bố trí các chí sĩ trong phong trào Cần Vương như: Tôn Thất Thuyết, Tôn Thất Thiệp, Tôn Thất Đạm... để vừa trở thành điểm tưởng niệm, tham quan học hỏi...

Đến nay tỉnh Thừa Thiên - Huế đã bước đầu thống nhất phương án chọn địa điểm đặt nơi yên nghỉ vĩnh hằng cho vua Hàm Nghi tại vùng đồi Thủy Xuân - TP Huế. Đó là một khu đất nằm kề các khu lăng những người thân của vua gồm lăng người cha Kiên Thái vương và hai vua anh là Đồng Khánh và Kiến Phúc (nằm trong khu vực lăng Tự Đức)...

(trích đăng từ Báo Người Lao Động số Xuân 2004 của Tác giả Nguyễn Đắc Xuân)


Vua Hàm Nghi và câu chuyện cổ tích kỳ lạ

Vũ Thanh (dịch từ bài của GS.TS. N.L.Nikulin gửi trước khi mất)

Cuộc đời và những câu chuyện kể về vua Hàm Nghi - vị vua tài năng và có số phận kỳ lạ không chỉ được ghi lại trong lịch sử của nước Việt Nam, mà còn đi vào văn học, tiểu thuyết nước ngoài như một câu chuyện cổ tích thần kỳ.

Hàm Nghi - Vị vua tài năng có một số phận không bình thường

Khi có dịp đến thăm Huế, tôi đã lang thang rất lâu khắp Kinh đô, khắp các cung điện, đền miếu, lăng tẩm kỳ bí.
Ở đây tôi được thưởng ngoạn một nền kiến trúc phức tạp, tinh tế, đẹp mê hồn, ngắm nhìn phong cảnh Huế tuyệt vời từ cửa Ngọ Môn, hít thở thật sâu bầu không khí kỳ lạ của cố đô được hòa quyện bởi hơi mát của biển và dòng sông Hương huyền diệu..
Lòng đầy xúc động, tôi đứng trước ngai vàng triều Nguyễn, ngẫm xem những ai đã từng ngồi trên chiếc ngai vàng này, và đặc biệt tôi nghĩ về một người trong số họ, một con người rất đỗi tài năng và có một số phận không bình thường.
Tên tuổi ông không chỉ gắn liền với những sự kiện lớn lao trong lịch sử cuộc đấu tranh giải phóng của nhân dân Việt Nam chống lại ách thống trị của thực dân Pháp, mà còn là sự khởi đầu cho nền hội họa hiện đại Việt Nam.
Tên tuổi ông cũng gắn liền với một trong những cuộc tiếp xúc trực tiếp sớm nhất trong lịch sử quan hệ văn hóa Việt - Nga và đó cũng là một trang tuyệt vời trong lịch sử văn hóa nhân loại nói chung.

Nguyên mẫu của một tác phẩm

Có thể nói, từ nửa cuối thế kỷ XVIII, các nhà văn Nga đã bắt đầu quan tâm ngày càng nhiều đến các quốc gia phương Đông và nền văn hóa của họ. Chính vì vậy mà suốt thế kỷ XIX, nền văn hóa Nga, ở mức độ nào đó, đã trở nên giàu có màu sắc thẩm mỹ hơn nhờ nắm bắt được một cách nghệ thuật thực tại của các nước phương Đông, cùng với nền văn hóa và nghệ thuật của họ, trong đó có Việt Nam, mặc dù sự tiếp xúc với Việt Nam là rất ít. Nhưng các nhà văn Nga vẫn luôn quan tâm đến nỗi đau tinh thần của nhân dân Việt Nam với một tình cảm chân thành.
Tôi đã được xem một tác phẩm của nền văn học Nga, in năm 1903, viết về vấn đề này. Nguyên mẫu của tác phẩm là một nhân vật lịch sử. Người ta còn lưu giữ được chân dung thật của ông. Tấm ảnh cũ chụp một người trong trang phục truyền thống của các nho sĩ Việt Nam, đầu đội khăn xếp, nét mặt suy tư toát lên vẻ đẹp tinh thần. Đó là một khuôn mặt thông minh, tài ba, có tâm hồn và đầy trách nhiệm.

Trong giai đoạn lịch sử hết sức cam go, khi đất nước Việt Nam của ông đang nằm dưới ách thống trị của bọn thực dân, năm 1884 ông lên ngôi vua khi mới 13 tuổi, trước ông, chỉ trong một thời gian ngắn, đã có hai ông vua trẻ bị truất quyền. Có tư tưởng phản kháng chính quyền thực dân, nhà vua lập tức trở thành người đứng đầu phong trào khởi nghĩa Cần Vương yêu nước.
Bọn thực dân tìm cách sát hại ông. Khi ông trốn vào vùng rừng núi chúng đã truy lùng ông ráo riết. Cho tới năm 1888 nhà vua bị bắt do có kẻ phản bội.
Chúng đưa ông đi đày ở tận Bắc Phi - Angiêri. Và tại đây, theo nhà Việt Nam học người Nga V.V. Remartruc, mùa xuân năm 1902, trên đường về Nga, nữ văn sĩ Tachiana Lvôpna Sepkina-Kupernhic đã gặp vị vua Việt Nam đang bị lưu đày - Hàm Nghi. Các tài liệu lịch sử hiện còn lưu trữ cũng đã xác định điều này.
Nữ văn sĩ 28 tuổi này, đến thời điểm đó rất được công chúng của đất nước mình ái mộ với tư cách là một cây bút hấp dẫn, có học vấn. Bà có một tình yêu tha thiết với sân khấu và văn học. Bà tán đồng những tư tưởng tự do, dân chủ của thời đại mình. Tachiana Lvôpna có tư chất nghệ sĩ, đầy sức sống, rất tài năng, nổi bật bởi sự cần mẫn phi thường, thông thạo nhiều ngôn ngữ châu Âu..
Thiếu bà khó có thể hình dung được lịch sử sân khấu Nga nửa đầu thế kỷ XX. Sân khấu là vận mệnh của bà. Cụ cố của bà là nghệ sĩ Nga vĩ đại M.C. Sepkin. Từ thời thơ ấu Tachiana Lvôpna đã hít thở bầu không khí của nhà hát. 18 tuổi bà đã là tác giả vở kịch "Bức tranh mùa hè" được dàn dựng ở Maxcơva trên sân khấu của Nhà hát Malưi danh tiếng vào năm 1892. Sau đó tiếp tục là những vở kịch khác của bà. Từ 1894 cho đến cuối đời nữ văn sĩ đã dịch ra tiếng Nga nhiều vở kịch của các nhà viết kịch phương Tây như Sêcxpia, Lôpơ đơ Vega, Môlie, Gônđôni, P.B. Seriđan và nhiều tác giả khác.

Bà có cuốn du ký hai tập mang tên "Những bức thư từ phương xa" (1903-1913) viết về những chuyện kỳ lạ ở nước ngoài. Nguyên mẫu của nhân vật trong một truyện ký ở tập I là vua Hàm Nghi. Truyện có nhan đề Hoàng tử Ly Tdong (mà không phải Hàm Nghi), người mà trong các thư từ trao đổi, Tachiana Lvôpna và những người quen của bà gọi là Hoàng tử An Nam, hoặc theo kiểu Pháp: Prince d’ Annam.

Câu chuyện cổ tích thần kỳ

Trong phần đầu tác phẩm của mình,
Sepkina-Kupernhic đã phủ lên nhân vật một bức màn cổ tích lãng mạn, đôi chỗ bà phải lược bỏ những chi tiết có thật. Đối với nữ văn sĩ thì chân dung tâm lý của nhân vật là quan trọng hơn; từ đây để bảo vệ họ, tên thật được thay thế bằng những cái tên hư cấu như trong trường hợp Hàm Nghi. Sự thay đổi tên tuổi còn có thể giải thích bằng lý do tránh sự kiểm duyệt.
Có thể thấy rõ rằng - khi đối chiếu các sự kiện trong cuộc đời Hàm Nghi và nhân vật trong truyện ký của Tachiana Lvôpna như: nơi tù đày, biệt thự cách không xa thành phố Angiê, tài năng nghệ sĩ, sự quan tâm đến học thuyết Nho giáo v.v..., và rằng trong tác phẩm của bà còn lưu giữ rất nhiều diện mạo tinh thần và vóc dáng thực sự của Hàm Nghi - truyện ký đã dựa trên cơ sở tài liệu thuần túy và nhân vật hoàn toàn đồng nhất với Hàm Nghi.

Nữ văn sĩ đã vẽ nên bức tranh với những đặc điểm của đất nước Việt Nam. Đó là một bức tranh kỳ lạ về một đất nước thuộc vùng văn hóa Viễn Đông. Bà đã nhiều lần nhấn mạnh đến nét nhỏ nhắn, duyên dáng của những con người từ đất nước “phương Đông xa xôi” - những đặc điểm đập ngay vào mắt người nước ngoài từ cái nhìn đầu tiên khi làm quen với những người Việt Nam có văn hóa. Vị hoàng tử “được dạy dỗ bởi những bậc hiền triết của đất nước mình”, “theo đạo Nho và tôn thờ những giáo lý của nó".
Nhân vật truyền thống của truyện cổ tích thần kỳ thường là các hoàng tử, thế tử, mà không phải là vua, càng không phải là những ông vua bị hạ bệ.
Theo tinh thần của truyện cổ tích, việc xâm lược của bọn thực dân trên đất nước của hoàng tử đã được kể lại: “Vào một buổi sáng bất hạnh xuất hiện những người phương Tây cùng với vũ khí sáng lòa và những viên đạn thảm khốc, chúng đem lại sự hủy hoại.” (Sepkina-Kupernhic, tr.392).
Tiếp theo, tính cổ tích của truyện bị vi phạm bởi việc kể lại một cách chân xác những sự kiện lịch sử có thực: “Chàng bị bọn thực dân bắt và bị đưa đi đày. Theo sự lựa chọn của những ông chủ mới của đất nước chàng - trên ngai vàng của cha ông chàng đang ngự trị những bóng ma câm lặng, - còn chàng thì bị giữ làm con tin vĩnh viễn, suốt cuộc đời.” (Sepkina-Kupernhic, tr.392). Nếu đó đúng là truyện cổ tích thì có lẽ đây sẽ là một câu chuyện cổ tích thật khủng khiếp. Buộc phải dời khỏi quê hương mình, hoàng tử bị đưa đi đày ở Bắc Phi: “Ở đó là Tổ quốc chàng; còn ở đây là bậc thang để đi đến nấm mồ.” (Sepkina-Kupernhic, tr.396).

Câu chuyện cổ tích của Tachiana Sepkina-Kupernhic kết thúc bằng những tình tiết chân thực : “Dáng dấp nhỏ bé của hoàng tử (chàng xuất hiện giữa chúng tôi, giữa những bạn bè chung) trong bộ trang phục nửa Âu nửa Á, ngay lập tức đã lôi cuốn sự chú ý của tôi. Chiếc khăn xếp màu trắng trùm trên mái tóc đuôi sam, chiếc áo dài màu đen với ống tay áo rộng buông xuôi được lót bằng lụa tơ tằm màu xanh tươi (màu xanh của quê hương chàng); nước da vàng ngăm đen mang sắc màu của chiếc ngà voi lâu năm; còn rất buồn và rất thông minh là đôi mắt đen hơi xếch lên phía thái dương; tay và chân chàng nhỏ nhắn - Tất cả điều đó khiến tôi nghĩ về một bức tượng quý giá, được chạm trổ bằng bàn tay tài hoa của một nghệ sĩ phương Đông” (Sepkina-Kupernhic, tr. 394).

Tất nhiên, chiếc khăn xếp màu trắng là màu quốc tang. Hàm Nghi không dùng để che mái tóc đuôi sam, mà che búi tóc truyền thống mà các nhà nho Việt Nam thường để. Nhưng toàn bộ chi tiết của quần áo và vẻ ngoài, rõ ràng, được tái hiện lại từ một người có tài quan sát.

Tới thời gian của cuộc gặp gỡ này, vua Hàm Nghi đã thông thạo tiếng Pháp. Khi đến Angiêri, trong lúc bị cưỡng bức đi đày, thời gian đầu ông đã định sống thu mình lại, chính xác hơn là cách ly hoàn toàn với thế giới bên ngoài. Cách sống này không chỉ là thái độ cực đoan của tuổi trẻ mà trước hết là của sự khó chịu với những gì liên quan tới thực dân, tới “bọn Tây”.

Cùng với điều đó, Hàm Nghi còn giữ lại cho mình nhiều thói quen như khi còn sống trong cung đình Huế. Nữ văn sĩ Nga đã dẫn ra tình tiết sau: bên cạnh hoàng tử luôn có hai người trẻ tuổi từ các gia đình trí thức Việt Nam, họ tự nguyện theo ông trong cảnh tù đày.
“Họ đi lại nhẹ nhàng dường như không có tiếng động trên những chiếc đế giày màu trắng. Còn khi hoàng tử quay về phía họ hỏi bằng tiếng mẹ đẻ, họ trả lời rì rầm chỉ đủ để nghe, giống như tiếng của những chiếc chén trà Trung Hoa nhỏ nhắn chạm nhau và ngân vang trên khay nước..” (Sepkina-Kupernhic, tr. 400). Ở đây, nữ văn sĩ đã ghi nhận cung cách tinh tế, lịch thiệp, tôn kính của giới quý tộc Việt Nam với nhà vua, mặc dù họ đang ở tại nơi tù đày của bọn thực dân.
Rõ ràng, lúc đầu vua Hàm Nghi đã chối từ việc học tiếng Pháp, tiếng của “bọn Tây”. Nhưng ông nhanh chóng thay đổi quan điểm của mình. Ông quan tâm đến văn hóa châu Âu, say mê âm nhạc, và điều cơ bản nhất - ông hết sức yêu thích hội họa. Hơn nữa, hội họa trở thành niềm ham thích của ông, nuôi dưỡng cuộc đời ông, thành nghề nghiệp của ông.

Số phận đã khiến ông cũng là người sáng lập nền hội hoạ hiện đại Việt Nam. Vua Hàm Nghi có thể có vị trí vinh dự không chỉ trong lịch sử của cuộc đấu tranh vì tự do chống lại chủ nghĩa thực dân, mà còn cả trong lịch sử nền nghệ thuật Việt Nam. Không đâu ở châu Á, châu Phi và Nam Mỹ, một cựu hoàng lại có được một vai trò tương tự như vậy trong lịch sử nền văn hoá của dân tộc mình.

Vua Hàm Nghi - một hoạ sĩ

Dáng dấp lạ lẫm, gợi cảm cùng với sự trang nhã của hoàng tử và sự bí ẩn của chàng đã tạo nên mối thiện cảm lớn lao trong lòng nữ văn sĩ Nga. Và bà cùng với bạn bè của mình đã trở thành khách mời tại nhà ông, nơi mà bên cạnh những bản thảo và nhạc cụ (cả Đông và Tây), bên cạnh các bản nhạc (mà giữa chúng có cả các tác phẩm của nhà soạn nhạc vĩ đại người Nga Mikhain Ivanôvich Glinka), thì thu hút sự chú ý của khách lại là những bức tranh do chính hoàng tử vẽ, chúng chứng tỏ cho khách thấy tài năng nghệ thuật của ông.

Ở đó còn có chiếc giá vẽ cùng với bản thảo dang dở. Trong biệt thự của hoàng tử, nữ văn sĩ Nga còn nhìn thấy “ những vật quý giá và thiêng liêng như: Những tấm lụa quý treo tường, cùng với những câu danh ngôn của Khổng phu tử được dát bằng vàng trên lụa, những nhạc cụ của đất nước chàng, những cuộn bản thảo, mực và bút trên bàn viết, những chiếc chiếu cói trên nền nhà. Ở một chỗ khác trong nhà là cây đàn dương cầm, chiếc viôlông, những bản nhạc, giữa chúng tôi tìm thấy Glinka của chúng ta, và giá vẽ cùng với bản thảo dang dở. Trên những chiếc bàn khắp nơi là phác thảo của hoàng tử, tranh của chàng, chúng cho tôi biết rằng trong thân hình nhỏ bé như chiếc ngà voi kia ẩn giấu tâm hồn của một nghệ sĩ lớn. ” (Sepkina-Kupernhic, tr.398). Qua nhận xét này của nữ văn sĩ - một người có tầm hiểu biết nghệ thuật sâu rộng, đã biểu lộ niềm kính trọng lớn lao đối với Hàm Nghi.

Vua Hàm Nghi vẽ gì trong những bức tranh đầu tiên của mình? Nữ văn sĩ đã thông báo ngắn gọn điều đó: “ Khu vườn của chàng... Những cửa vòm kiểu La Mã ở Tamgađa, cảnh hoàng hôn trên biển..., cảnh điêu tàn của Kôxntantina và cánh rừng cọ El-Kantari, mái vòm trắng của nhà mộ Marabi, những trẻ em da đen - tất cả đều sống động, hiện lên trên nền vải. ” (Sepkina-Kupernhic, tr. 398). Rõ ràng, nhà vua đã vẽ mẫu thực tất cả những gì ông có thể quan sát được trực tiếp.

Nữ văn sĩ đã viết một đoạn cần thiết để lồng vào thiên truyện ký của mình, nói về bi kịch sâu kín của hoàng tử và đất nước thân yêu, cùng với khát vọng về tự do, về nền độc lập trước bọn thực dân của chàng. Trong số những người tới làm khách, có một người dường như muốn tỏ sự quan tâm tới chàng: “ Thật là có lỗi, nếu như không triển lãm những tác phẩm của mình ở Pariss, thưa hoàng tử ? - Một phụ nữ xinh đẹp người Pháp có mặt ở đó hỏi một cách nông nổi. Hoàng tử hơi tái mặt, chàng tỏ ra hào hiệp, lịch sự nhưng vẫn trả lời một cách dứt khoát: - Tôi lại cho rằng, sẽ là có lỗi nếu triển lãm những bức tranh của mình ở Pariss! ”( Sepkina-Kupernhic, tr.399).

Ý thức tự hào và lòng tự trọng về đất nước thân yêu bị xúc phạm được biểu hiện trong câu trả lời tế nhị và giàu ý nghĩa của hoàng tử. “ Và ý nghĩa chân chính của câu trả lời này đã thức tỉnh tôi! ” - nữ văn sĩ kết luận. Hoàng tử đã có thể cởi mở với nữ văn sĩ hơn là với những người Pháp về những quan điểm chính trị của mình với niềm xúc động khi nhớ về Tổ quốc.

Vua Hàm Nghi và ước mơ về nước Nga không thành hiện thực

“ Nhưng rõ ràng rằng, chàng không muốn và không có thói quen nói chuyện với những kẻ xâm lược đất nước mình và cái gì đang rung động trong trái tim chàng, đang muốn tìm kiếm lối thoát, chàng có thể dễ dàng cởi mở với một người sinh ra ở đất nước Nga xa xôi. Chàng tin rằng, sự động chạm của bàn tay tôi sẽ không thể làm đau chàng, và lần đầu tiên thật bất ngờ, chàng đã bắt đầu nói với tôi về chính Tổ quốc mình .” (Sepkina-Kupernhic, tr. 402)... Nữ văn sĩ đã thấy cần phải nhấn mạnh: “ Và cuộc nói chuyện của chúng tôi đã bắt đầu: đó là cuộc đối thoại giữa hai người khác nhau, hai nền văn minh, hai chủng tộc .” (Sepkina-Kupernhic, tr. 401).

Ở nhà văn Nga biểu lộ tư tưởng về sự bất thường của cuộc toạ đàm này, về ý nghĩa to lớn của sự hiểu biết lẫn nhau giữa các chủng tộc, các nền văn minh và các dân tộc. Giữa nữ văn sĩ Nga và Hàm Nghi đã hình thành một tình bạn, một sự tin cậy lẫn nhau. Có thể nói rằng, những miền khác biệt của bầu trời văn hoá đã gặp gỡ nhau...

Cuộc đàm đạo đầy xúc động của hoàng tử với nữ văn sĩ Nga về Việt Nam - đất nước đang bị bọn thực dân nô dịch, niềm tin và mối thiện cảm của ông đối với bà (cuối cùng vào năm 1902 ông đã viết cho bà) - là những tình tiết quý báu trong lịch sử quan hệ văn hoá Nga - Việt. Hoàng tử còn cho bà biết rằng, ông đang viết bằng tiếng mẹ đẻ một cuốn sách bàn về học thuyết Nho giáo, “ Chàng không nói với ai về điều đó, nhưng điều đó tạo nên mục đích cuộc đời chàng ”.

Ngai vàng trong điện Thái Hoà, Huế

Chàng kể về Kinh đô của mình, “ về ngôi báu đang bị kẻ không có quyền được ngồi trên đó chiếm đoạt ”, kể từ đó chàng “ đã bị tước mất quyền, thậm chí quyền được ngắm nhìn bầu trời thân yêu của mình ” (Sepkina-Kupernhic, tr. 402). Như vậy là, vào năm 1902, nữ văn sĩ Nga Tachiana Sepkina-Kupernhic đã đàm đạo ở Angiêri với cựu hoàng Hàm Nghi về cố đô Huế của Việt Nam.

Vẫn còn có một chi tiết quan trọng: Hàm Nghi không chỉ biết về nước Nga, nghĩ về nó mà còn mơ ước được đến thăm mảnh đất này:

“ Sau đó chàng nói:

- Tôi mong muốn được nhìn thấy những bông tuyết và những miền thảo nguyên của đất nước bạn...

- Hãy đến chỗ chúng tôi! - Tôi bật ra lời mà không hề suy nghĩ.

Hoàng tử cúi thấp đầu.

Lát sau chàng ngẩng lên nhìn tôi và mắt chàng đẫm lệ.

- Tôi là một con chim bất hạnh bởi sợi dây đang buộc chặt chân mình. Chàng khẽ khàng thốt lên cùng với nụ cười thường lệ, nhưng lúc này nụ cười ấy đã trở nên đau đớn.” (Sepkina-Kupernhic, tr. 403).



Nước Nga - Ước mơ không thành hiện thực

của Vua Hàm Nghi

Sepkina-Kupernhic đã cảm thấy và truyền đạt lại được toàn bộ tấn bi kịch sâu lắng trong lòng vua Hàm Nghi, những khát vọng cao cả và mối lo âu tới số phận của đất nước Việt Nam thân yêu của ông, nỗi buồn của nhà vua về cố đô Huế, truyền đạt lại cho chúng ta ngày nay mối quan tâm của Người tới nền triết học Nho giáo, tới âm nhạc (phương Đông và phương Tây), kể về tài năng nghệ thuật khác thường của nhà vua và sự quan tâm của Người tới nước Nga xa xôi…

Hàm Nghi không đạt được nguyện vọng là đến thăm nước Nga, không nhìn thấy những bông tuyết Nga. Nhưng tâm nguyện của ông, vào đầu thế kỷ XX - hầu như đã một trăm năm trước chúng ta - mơ ước được đến nước Nga, vẫn không hề bị quên lãng, bởi nữ văn sĩ Nga T.L. Sepkina-Kupernhic đã kể lại điều đó cho tất cả mọi người.

Bà đã thể hiện sự yêu thích thực lòng tài năng hội hoạ của Hàm Nghi qua những bức tranh đầu tiên của nhà vua- hoạ sĩ. Cần phải lưu ý bạn đọc rằng, giai đoạn này, nền hội hoạ hiện đại của Việt Nam còn chưa hình thành, nó mới chỉ thực sự đang nảy sinh. Về những bức tranh được sáng tác trong thời gian trên, tôi mới chỉ được biết có một bức. Đó là tác phẩm “Bình văn” của hoạ sĩ Lê Văn Miến, ra đời năm 1898 và được lưu giữ ở Bảo tàng Mỹ thuật Hà Nội.



"Bình văn" (1898) - Tranh: Lê Văn Miến

Vua Hàm Nghi là một trong những hoạ sĩ đầu tiên của Việt Nam bắt đầu vẽ theo truyền thống châu Âu - với thể loại tranh sơn dầu, bằng sự tính toán theo phép phối cảnh. Hàm Nghi cần phải được coi là người mở đầu cho nền hội hoạ mới của Việt Nam . Và điều rõ ràng là ông đã trở thành một hoạ sĩ chuyên nghiệp.

Tất nhiên, đối với lịch sử hội hoạ Việt Nam, điều lý thú đặc biệt là những câu chuyện được kể về những bức tranh của vua Hàm Nghi, mặc dù đó chỉ là một vài bức. Quan trọng hơn, việc nghiên cứu cuộc đời và sự nghiệp sáng tạo của ông rõ ràng đã làm giàu có thêm nền văn hoá Việt Nam.

Nhưng ở đâu có thể còn đang lưu giữ những bức tranh của vua Hàm Nghi? Điều cần lưu ý thứ nhất là, bởi ông có thời gian sống rất lâu ở Bắc Phi, mất năm 1944 cũng tại đó và được mai táng trong khu vườn biệt thự Gia Long của mình ở ngoại vi trước đây của thành phố El-Biar (ngày nay nằm trong phạm vi của Thủ đô Angiêri - thành phố Angiê), thì việc trước hết là phải tìm kiếm ở chính nơi này.

Tiếp theo, không còn nghi ngờ gì nữa, khả năng rất lớn là những bức tranh của vua Hàm Nghi hiện đang còn ở Pháp. Đó là điều cần lưu ý thứ hai. Điều thứ ba, chúng tôi quan tâm đến một sự kiện đáng lưu ý trong cuộc đời Hàm Nghi từ tài liệu được lưu trữ. Năm 1902 ông đã đến Pariss. Mục đích của chuyến đi là để cưới con gái của Laloer - một quan chức lớn của nước Pháp.

Chúng tôi sẽ dẫn ra đây bức thư được gửi từ Paris của nữ văn sĩ Nga Maria Vxevôlôđôpna Krextôpxkaia cho bạn gái của bà là M. Theixa. Bức thư nói về chính M.V. Krextôpxkaia, người đã có mặt vào đầu năm 1902 tại Angiêri cùng với T.L. Sepkina-Kupernhic; cha bà chính là nhà văn Nga nổi tiếng Vxevôlôđ Vlađimirôvich Krextôpxki, tác giả của cuốn tiểu thuyết được nhiều người biết đến Những vùng hẻo lánh ở Pêterburg , ông đã có mặt ở Sài Gòn vào năm 1880 và đã viết tặng thành phố Việt Nam này một ký sự tuyệt vời.

Bức thư viết cho M. Theixa đề ngày 19 tháng Sáu năm 1902: “ Hoàng tử An Nam đã có mặt được một vài ngày ở Paris, tôi đã gặp chàng và ngay lập tức chàng đã hỏi thăm tin tức của cô bạn gái chưa chồng Tachiana (Sepkina-Kupernhic). Chàng nói: Tôi gần đây không hề nhận được tin tức của Tachiana, và muốn biết khi nào nàng sẽ tới Paris. Thời gian vừa rồi Tachiana có ở Maxcơva không nhỉ, tôi đã gửi thư đến đó, không hiểu nàng có nhận được không? Chúng tôi tập trung nhóm các bạn trẻ quen biết Hoàng tử An Nam để có mặt trong tiệc cưới của chàng sẽ tổ chức vào ngày 9 tháng Bảy ”.

Có đúng thế chăng, bức thư này mang đầy ý nghĩa? Hàm Nghi đã đi từ Angiêri đến Paris và đã gặp một người phụ nữ Nga, và ngay lập tức hỏi thăm tin tức về người bạn gái yêu quý của mình, nữ văn sĩ Nga Tachiana.

Còn nữa, vua Hàm Nghi đã trở thành trung tâm chú ý của những người phụ nữ Nga. Mọi chuyện thật sự đã xảy ra ở Paris, chứ không phải ở Maxcơva hay ở Peterburg. Ngoài ra, từ bức thư chúng ta còn biết rõ rằng: trong đám cưới của cựu vương Việt Nam vào ngày 9 tháng Bảy năm 1902 có mặt một phụ nữ Nga. Có thể ở đó còn có mặt những người Nga khác nữa.

Cũng cần biết rằng, cuộc hôn nhân của Hàm Nghi với con gái của Laloer đã cho ra đời hai người con gái. Cả hai đều là những người thành đạt và sống ở châu Âu. Chắc rằng con cháu họ vẫn còn gìn giữ những bức tranh của hoạ sĩ Hàm Nghi...

Số phận đã khiến ông cũng là người sáng lập nền hội hoạ hiện đại Việt Nam. Vua Hàm Nghi có thể có vị trí vinh dự không chỉ trong lịch sử của cuộc đấu tranh vì tự do chống lại chủ nghĩa thực dân, mà còn cả trong lịch sử nền nghệ thuật Việt Nam. Không đâu ở châu Á, châu Phi và Nam Mỹ, một cựu hoàng lại có được một vai trò tương tự như vậy trong lịch sử nền văn hoá của dân tộc mình.

Trang Vu
viethoaiphuong
#27 Posted : Saturday, September 19, 2009 6:14:11 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
Nhớ về người Tư Lệnh cũ
Cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu
(29/9/2001 – 29/9/2009)




Trong các đơn vị thuộc vùng 3 Chiến thuật, Sư đoàn 5 Bộ binh là đại đơn vị trấn nhậm một trọng điểm có tầm sinh tử đối với thủ đô Sài Gòn nhất. Do đó, các cuộc binh biến không thể thiếu sự đóng góp của Sư đoàn 5 BB. Đại tá Nguyễn Văn Thiệu nhờ vào chức vụ Tư lệnh SĐ5BB mà đã được mời tham gia vào cuộc đảo chánh lật đổ cố Tổng thống Ngô Đình Diệm vào ngày 1 tháng 11 năm 1963.

Từ các căn cứ ở Bình Dương, chỉ cách Sài Gòn không đầy 30 ki lô mét, các đơn vị mang số 5 đỏ giữa ngôi sao trắng đã được nhanh chóng điều động về thủ đô chiB Am cứ các cơ quan trọng yếu của chế độ. Trong tấm ảnh chụp chung của các Tướng lãnh tham gia đảo chính, Đại Tá Thiệu lúc đó còn ngồi một cách khiêm tốn ở hàng sau giữa những ông tướng có vẻ hùng hổ, tự đắc. Khuôn mặt ông Thiệu ngày đó còn gầy guộc, nhưng đã thấy trong đôi mắt nét sắc sảo, hứa hẹn một bước tiến chính trị rộng mở trong tương lai.

Là một sĩ quan cấp úy nhỏ nhoi trong đội quân cả triệu người, thì hiểu biết được bao nhiêu mà dám viết về một Tổng thống, một Tổng Tư Lệnh Quân đội! Nhất là về cố Tổng thống Thiệu, người đã được công chúng và nhiều sử gia nhận xét thiếu công minh cho 1ến khi các tài liệu dần dần được giải mật và công bố để trả lại cho ông phần nào sự công bằng.

Lần đầu tiên tôi được gần ông nhất là ngày lễ mãn khoá của Khoá 1 Sĩ quan hiện dịch Chiến Tranh Chính Trị vào đầu tháng 5 năm 1969. Sau đại lễ huy hoàng tại vũ đình trường, các tân thiếu úy được đưa vào hội trường mới xây phía sau lưng toà nhà Bộ Chỉ Huy. Nơi đây, chúng tôi sắp hàng một để lần lược bước đến nhận quà do Tổng thống trao tận tay. Đó là một cây bút bi hiệu Parker, trên đó có in huy hiệu của Tổng Thống bằng kim nhũ và một cửa sổ nhỏ để mỗi lần bấm thì hiện ra theo thứ tự các dòng ch biểu hiện ba mục tiêu mà chính phủ của ông đã đề ra: xây dựng dân chủ, giải quyết chiến tranh, và cải tạo xã hội.

Nhận xét đầu tiên khi đối mặt vị Tổng thống là ông có khuôn mặt nhỏ nhưng rất thông minh, đôi mắt sáng sắc sảo, và nụ cười rất thân tình, cởi mở. Nhờ đó, những tân thiếu úy đã không cảm thấy khoảng cách quá xa đối với người lãnh đạo cao nhất của quốc gia và quân đội. Ông đã dùng cơm với chúng tôi sau khi ban một huấn thị ngắn và đầy ý nghĩa của một người anh đối với các em vừa chuẩn bị bước vào cuộc chiến gian nguy.

Vì=2 0đường công danh chính trị của ông phát xuất từ Sư Đoàn 5 Bộ binh, nên mối quan tâm của ông đối với sư đoàn này cũng có phần đặc biệt ưu đãi. Các tư lịnh sư đoàn thường là những vị thân tín của Tổng thống Thiệu và rất có tương lai trong binh nghiệp. Sau khi ra trường tôi may mắn phục vụ sư đoàn này, và đã từng hãnh diện khi nhìn thấy tấm hình của vị cựu Tư lịnh Nguyễn Văn Thiệu treo trong các phòng họp cấp Sư đoàn và Trung đoàn. Ngoài cái biệt danh “Sư Đoàn Nùng” (vì là hậu thân của một đơn vị toàn người Nùng từ miền Thượng Du Bắc Việt chuyển vào sau hiệp định Geneve), người ta còn gọi chúng tôi là “lính ông Thiệu”.

Thuyên chuyển qua Không Quân cuối năm 1971, tôi không được vinh dự tham chiến trận An Lộc vào Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972, nên không được có mặt công kênh Tổng thống khi ông đến chiến trường ủy lạo binh sĩ giữa lúc tiếng súng còn chưa dứt ở các đồn diền cao su quanh thị trấn An Lộc đổ nát. Chúng tôi quý ông ở điểm này. Là một nguyên thủ quốc gia, ông có quyền hưởng những ngày tết an toàn ở thủ đô trong không khí hạnh phúc của gia đình. Nhưng không có Tết nào mà ông không tìm đến với các đơn vị tiền đồn hẻo lánh. Trong bộ ka ki bốn túi bình dị, chiếc nón jockey đen có phù hiệu hai con rồng, Tổng thống Thiệu đã mang lại cho những người lính chiến chúng tôi niềm an ủi sâu xa thể hiện một mối quan tâm mà hiếm khi thấy được những vị lãnh đạo khác.

Tính bình dị của ông, lần nữa tôi được thấy khi ông đến thăm Căn Cứ 20 Chiến Thuật Không Quân ở Phan Rang. Hồi đó là gần cuối năm 1972, sau khi chúng tôi hoàn tất việc tiếp nhận căn cứ từ Không Lực Hoa Kỳ. Một đại đơn vị tân lập của Không Quân Việt Nam đang thành hình, đi vào ổn định để tích cực tham gia chiến đấu ở Vùng 2 Chiến thuật.
Tổng thống đã đến với chúng tôi, ăn tối với các sĩ quan tại Câu Lạc Bộ trên ngọn đồi nhìn ra hướng bờ biển Ninh Chữ. Không một chút quan cách, lễ nghi, ông đã tươi cười trò chuyện cùng chúng tôi trong h n hai tiếng đồng hồ. Ông đã trao cho Căn cứ một món tiền nhỏ và dí dỏm: “Thường là cấp nhỏ hối lộ cấp trên! Bây giờ thì tôi hối lộ các anh.” Số là Tổng thống còn bà mẹ già đang ở trong căn nhà gần bờ biển. Hàng ngày, các phản lực cơ của Không đoàn 92 Chiến Thuật cất cánh thường bay qua phía làng của Tổng Thống. Tiếng gầm rú của động cơ quấy nhiễu không khí yên bình của bà cụ, làm bà sợ hãi. Ông Tổng Tư Lệnh phải hối lộ cho thuộc cấp để yêu cầu bay chệch một chút, né cái làng Ninh Chữ kia ra.

Miền Nam mất.
Người ta đổ lỗi cho nhau. Người chịu nhiều tai tiếng là Tổng thống Thiệu.

Dĩ nhiên, ông không thể tránh phần trách nhiệm nặng nề đã làm mất miền Nam, đưa đẩy mười lăm triệu đồng bào vào hỏa ngục Cộng Sản, gần ba trăm ngàn đồng đội vào các trại tù khắc nghiệt mà hậu quả có hàng chục ngàn đã chết cách này hay cách khác, cùng với cả triệu người liều thân vượt biển mà con số bỏ thây làm mồi cho cá lên đến hơn một nửa.

Ông cũng bị tai tiếng về tài sản miền Nam, điển hình là 16 tấn vàng mà thực tế là đã do tên phản bội Nguyễn Văn Hảo trao lại cho bọn Việt Cộng. Lưu vong ra nước ngoài, ông đã số ng ẩn dật, không ồn ào phô trương mà âm thầm chịu đựng búa rìu dư luận. Có thể ông có tài sản lên đến bạc triệu đô la. Nhưng nó đáng kể vào đâu nếu so sánh với con số hàng tỷ đô là mà bọn Việt Cộng thủ đắc hiện nay ?
Tôi cầu xin vong linh cố Tổng Thống tha thứ vì chính tôi cũng đã có lần viết thiếu công bằng về ông khi nhìn sự thất bại của miền Nam theo cách nhìn hạn hẹp của mình. Làm lãnh tụ một nước nhỏ, hoàn toàn lệ thuộc về kinh viện và quân viện của ngoại bang, thì việc quyết định không thể nào tự chủ được. Tổng thống Diệm cũng vì yêu nước, kiên cường trước áp lực Mỹ mà bị thảm sát. Tổng thống Thiệu đã vẫy vù ng mà không thoát được. Ông cũng đã từng chứng tỏ sự can đảm, cứng rắn đến độ căng thẳng với Mỹ trong thời gian chuẩn bị Hoà Đàm Paris. Ông cũng từng đối đầu với tên cáo già Henry Kissinger và đã bị tên Do Thái này gán cho những từ ngữ không đẹp. Tựu trung, ông đã chứng minh bản lãnh, lòng yêu nước, trí thông minh đáng để chúng ta khâm phục hơn là trách cứ. Sự thành bại của miền Nam hoàn toàn nằm ngoài tầm tay của chúng ta.

Duy chỉ có một điều chúng tôi trách ông. Đó là việc dùng người của ông thiên về cảm tình, sự trung thành hơn là dựa trên khả năng. Tôi từng tiếc cho những anh tài không được trọng dụng, mà thay vào đó là những tướng lãnh thiếu kinh nghi7m chiến đấu nhưng đầy lòng tham. Hậu quả là nạn tham nhũng đã làm băng hoại tinh thần chiến đấu của quân dân miền Nam. Quân Lực VNCH có hơn trăm vị tướng mà con số vị trong sạch tài đức chỉ đếm trên đầu ngón tay. Mà ngay họ cũng chẳng ngồi lâu hay được trọng dụng đúng với khả năng. Khi thành lập đảng Dân Chủ, Tổng Thống Thiệu đã vì an toàn chính trị của mình mà làm tan vỡ khối đại đoàn kết quốc gia giữa các đảng phái chính trị và tôn giáo. Những năm đấu thập niên 1970, khi tình hình quân sự rất khả quan, phải chi ông chú tâm vào cuộc chiến bài trừ tham nhũng, nâng đỡ đối lập, phát huy thêm tự do để tăng cường sức mạnh quần chúng thì có hy vọng cải thiện phần nào cách nhìn của người Mỹ và cuộc chiến đã khC3ng kết thúc theo chiều hướng bi đát như đã xảy ra năm 1975.

Nói gì đi nữa thì công và tôi của một vị Tổng thống phải chờ thêm thời gian để phán đoán. Những cuốn sách do các chính khách, báo giới cả Mỹ lẫn Việt viết ra sau này, những tài liệu được giải mật đã đem lại phần nào sự xét đoán công minh về vị Tổng thống thứ hai của chế độ Cộng Hoà Việt Nam.

Tôi vẫn quý ông về lòng ái quốc và những đức tính hiếm hoi trong vai trò người lãnh đạo quốc gia và nhất là người Tổng Tư Lệnh Tối Cao của Quân Lực VNCH.

Chúng ta sẽ nhớ=2 0mãi câu nói của ông :”Sống mà không có Tự do, thì coi như đã chết” (To live without freedom is to have already died.)

Austin, tháng 9, 2009
Kỷ niệm ngày giỗ lần thứ 8 của Cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu (29/9/2001 – 29/9/2009)

Đỗ Văn Phúc

Michael Do (Do Van Phuc)
webpage: www.michaelpdo. com
Vietnamese Communists must render FREEDOM, DEMOCRACY and HUMAN RIGHTS to the people before a political defeat would cost them their livelihood and even their lives.

viethoaiphuong
#28 Posted : Saturday, October 31, 2009 10:19:37 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
HAI BÀ HOÀNG CỦA TRIỀU NGUYỄN

Họ là cái bóng của hai khuynh hướng đối ngược nhau. Công chúa Như Lý là con gái thứ hai của Vua Hàm Nghi
người được lịch sử khắc tên như một biểu tượng đấu tranh chống Pháp quyết liệt.



Ngược lại, Nam Phương Hoàng hậu là vợ của cựu hoàng Bảo Đại -đại biểu cuối cùng trong số những ông vua bị xem là bù nhìn, được người Pháp nuôi dưỡng, giáo dục, đặt lên ngai vàng và cuối cùng bị phế truất.







Thật oái oăm, về cuối đời, hai người phụ nữ ấy lại trở thành hàng xóm của nhau, trong một vùng quê hẻo lánh miền Tây Nam nước Pháp. Thế nhưng, trong suốt 5 năm làm "hàng xóm", hai bà hoàng ấy vẫn không một lần gặp mặt thăm viếng nhau.


Rời kinh thành Huế ngày 6/7/1885, Vua Hàm Nghi đã bôn ba khắp các vùng rừng núi từ Tân Sở (Quảng Trị), sang tận châu Mường Mahasay (tỉnh Khăm Muộn, Lào) rồi vòng về Hương Khê (Hà Tĩnh), ban hịch Cần Vương và làm biểu tượng tinh thần cho phong trào sĩ phu chống Pháp.


Tháng 2/1886, trước khi lên đường sang Trung Quốc cầu viện nhà Thanh, Đại thần Tôn Thất Thuyết đã giao việc hộ giá ông vua trẻ cho hai con trai là Tôn Thất Đạm và Tôn Thất Thiệp đảm trách.
Tôn Thất Đạm được Vua Hàm Nghi cử làm Khâm sai, chịu trách nhiệm liên lạc với các lực lượng nghĩa quân kháng chiến và huy động lương thực. Tôn Thất Thiệp thì ngày cũng như đêm, luôn có mặt bên cạnh để bảo vệ nhà vua.


Khi vua trẻ dừng chân tại làng Thanh Lạng, Tuyên Hóa, Quảng Bình, đội ngũ hộ giá còn có thêm hai người nữa là Nguyễn Định Trình, người đã theo vua từ năm 1885 và Trương Quang Ngọc, một người địa phương rất giỏi bắn cung, được vua ban chức Lãnh binh.

Không dập tắt được tinh thần đấu tranh chống Pháp của Vua Hàm Nghi, người Pháp đã tìm cách dụ dỗ, mua chuộc những bộ tướng thân tín của ông. Với anh em Tôn Thất Đạm và Tôn Thất Thiệp thì âm mưu này hoàn toàn thất bại. Gần như người Pháp không có con đường nào để có thể thuyết phục và làm lay chuyển lòng trung quân ái quốc của họ. Nhưng với các cận tướng dưới quyền họ thì âm mưu của Pháp đã thành công.

Từ mùa hè năm 1888, lần lượt Nguyễn Định Trình rồi Trương Quang Ngọc và một số người khác đã ra đầu thú, khai báo với Pháp nhiều điều về đường đi nước bước của đoàn hộ giá.


Đêm 1/11/1888, Trương Quang Ngọc và Nguyễn Đình Trình đã dẫn theo khoảng 20 tên phản bội bất ngờ đột kích vào nơi ở của Vua Hàm Nghi. Trương Quang Ngọc đã đâm chết Thống chế Nguyễn Thùy và con trai ông. Tôn Thất Thiệp cũng bị một tên phản bội khác là Cao Viết Lượng giết chết.


Vua Hàm Nghi bị bắt. Trước khi bị giải nộp cho viên Đại úy Pháp Boulangier, Vua Hàm Nghi đã nói với Trương Quang Ngọc: "Ngươi hãy giết ta đi, còn hơn nộp ta cho quân Pháp". Từ đó, mang thân phận một người chiến bại, nhà vua vẫn thường xuyên tỏ thái độ bất hợp tác với Pháp. Ngày 12/12/1888, ông bị thực dân Pháp đày sang Algérie ở Bắc Phi.

Tại Alger, thủ đô của Algérie, ông hoàng mất ngôi được an trí tại Villa des Pins (Biệt thự Ngàn thông) khá tiện nghi. Cuộc sống của ông không đến nỗi chật vật. Rất đông các nhân vật có thế lực trong chính quyền sở tại, các văn nhân, nghệ sĩ tên tuổi trong vùng thường đến làm khách tại nhà ông.

Mang tinh thần bài Pháp cực đoan và nặng tình cố quốc, mỗi khi tiếp khách, ông vẫn khăn vấn áo the và nói chuyện với các "ông Tây" bằng... tiếng Việt, qua người phiên dịch tên là Trần Bình Thanh. Phải mất đúng một năm sau, khi nhận ra rằng người Pháp sở tại không hề "đáng ghét" như những người Pháp thực dân ở cố hương, nhà vua mới thay đổi quan niệm.

Ông bắt đầu học tiếng Pháp, học văn hóa, đọc sách của "Tây dương". Cần mẫn và thông minh, nhà vua tiến bộ rất nhanh. Vài năm sau, ông đã trở nên rất giỏi tiếng Pháp và tỏ ra là một người nghệ sĩ đa tài trong các lĩnh vực vẽ tranh, nặn tượng, từng tổ chức triển lãm cá nhân.

Hơn 15 năm sau ngày định cư tại Alger, tháng 11/1904, cựu hoàng mới lập gia đình. Ông cưới bà Marcelle Laloe







(sinh năm 1884, người Pháp), con gái của Chánh án Tòa án Alger. Thời gian không làm phai lạt nguồn gốc trong tâm trí cựu hoàng. Ngày cưới, chú rể vẫn khăn đóng áo dài.


Bà Laloe lần lượt sinh hạ cho ông 3 người con, đều mang tên Việt là Công chúa Như Mai, sinh năm 1905, Công chúa Như Lý, sinh năm 1908 và Hoàng tử Minh Đức, sinh năm 1910.

Vị hoàng tử này đã chọn binh nghiệp làm sự nghiệp, từng tốt nghiệp Trường võ bị Sant Cyr năm 1935 và phục vụ trong quân đội Pháp suốt 10 năm sau đó.

Hai cô con gái Như Mai, Như Lý cũng được gửi sang Pháp ăn học trong nhiều năm. Công chúa Như Lý sau đó đã kết hôn với một quý tộc người Pháp, trở thành bà Bá tước De La Besse và theo chồng về sống tại lâu dài De La Nauche ở làng Thonac thuộc vùng Vigeois.

Ngoại trừ những người trong gia đình, hầu như không mấy ai trong làng biết bà Bá tước De La Besse đã từng là một công chúa của đất nước An Nam xa xôi.




Lâu đài Nauche.





NAM PHƯƠNG HOÀNG HẬU




Số phận của bà hoàng thứ hai, Nam Phương hoàng hậu còn lắm thăng trầm hơn. Bà là người nhiệt tình ủng hộ việc Bảo Đại đưa Ngô Đình Diệm về nước làm Thủ tướng.

Năm 1955, được sự hậu thuẫn của người Mỹ, Ngô Đình Diệm đã phế truất Bảo Đại và trở thành Tổng thống Việt Nam Cộng hòa. Sự ủng hộ nhiệt tình của Hoàng hậu Nam Phương đã trở thành nỗi thống hận cay đắng. Chính quyền Ngô Đình Diệm đã tịch biên tài sản, xóa bỏ hết toàn bộ quyền lợi của gia đình cựu hoàng Bảo Đại tại miền Nam Việt Nam .

Cựu hoàng Bảo Đại, với thói quen phung phí, kể từ đó gần như lang thang, sống một cuộc đời không dư dật gì cho lắm. Bà Nam Phương cùng các con cũng định cư hẳn tại Pháp, cho đến tận lúc chết cũng không một lần quay lại quê hương, cũng hầu như chẳng mấy khi liên lạc hay gặp gỡ gì đức lang quân cựu hoàng vốn quá nhiều nỗi đam mê phóng đãng hơn là quan tâm đến danh dự, trách nhiệm và cuộc sống gia đình.

Năm 1958, nhằm tránh mặt báo chí, dư luận và những người quen biết, bà Nam Phương đã rời bỏ thành Paris hoa lệ và ồn ào. Những cơ ngơi đồ sộ ở Neuilly , hàng tá căn nhà lớn ở Morocco , biệt thự trên đại lộ Opéra, Paris hay trang trại rộng lớn ở Congo đều không còn sức hấp dẫn để có thể níu giữ nổi bà.

Nam Phương Hoàng hậu đã rời xa Paris 500km về phía nam, về làng Chabrignac mua lại điền trang La Perche rộng 160 ha của một quý tộc Pháp đã sa sút làm nơi sống nốt những năm tháng còn lại.








Lâu đài Perche.



Làng Chabrignac thuộc tỉnh Corrèze, vùng Limousin , miền Tây Nam nước Pháp. Làng Chabrignac phong cảnh khá đẹp nhưng là nơi hẻo lánh, xa xôi, hầu như không mấy người biết đến. Đến giữa thập niên 60 của thế kỷ XX, những con đường ôtô chạy trong làng vẫn chưa được trải nhựa.

Đến năm 2002, làng này cũng chỉ có 444 người. Gia đình bà hoàng sống trong một ngôi nhà dài xây bằng đá, mái lợp ngói, có 32 phòng ngủ, 4 phòng khách, lưng dựa vào sườn đồi và trông ra một vùng đồng cỏ, đầm hồ rộng ngút tầm mắt.

Ngoài hoa lợi thu được từ cây trái trong điền trang, bà hoàng Nam Phương còn nuôi thêm khoảng 100 con bò sữa. Tất cả những người con của bà đều sống với bà trong điền trang La Perche.

Theo Daniel Grande Clemént, tác giả cuốn "Bảo Đại, hay những ngày cuối cùng của Vương quốc An Nam" thì dường như thời gian sống tại điền trang La Perche là những tháng năm bình yên và hạnh phúc nhất của Nam Phương Hoàng hậu.

Bà nuôi trong điền trang 4 công nhân nông nghiệp, một số người hầu gái và một viên quản gia người Pháp. Tất cả người ăn kẻ ở trong nhà đều được bà đối xử thân tình, gần gũi. Trong các dịp lễ, Noel hay ngày đầu năm mới, bà đều không quên có quà tặng cho họ và gia đình.





Rũ bỏ lớp áo vàng son quyền quý, bà Nam Phương quay lại sống đúng nghĩa cuộc đời an lành, bình dị của một phụ nữ An Nam học thức. Hàng ngày, bà dậy rất sớm, thường tự tay trang trí, dọn dẹp nhà cửa và chăm sóc cây cảnh. Vừa làm bà vừa khe khẽ hát. Khi có việc ra ngoài, bà thường tự tay lái chiếc xe hơi hiệu Dauphine , có thêm cô hầu gái hay người quản gia đi theo.


Đối với bà, người quản gia này có một vị trí rất đặc biệt. Thay cho vị trí của cựu hoàng, ông này luôn tháp tùng bà trong những chuyến làm khách, dự tiếp tân đối với các gia đình quyền quý ở trong vùng.

Không ai có bằng chứng xác đáng nhưng dường như những người quen biết trong vùng đều cho rằng, ông quản gia này đã yêu Nam Phương Hoàng hậu. Còn bà thì quý ông vì ông này có khả năng xoa bóp, trị liệu rất điêu luyện giúp bà dịu bớt những cơn đau lưng nhức mỏi.

Nam Phương Hoàng hậu sống rất cởi mở, quảng giao, thường xuyên đi thăm khắp điền trang để gặp gỡ và trò chuyện thân mật với những người nông dân. Thế nhưng rất kỳ lạ, suốt 5 năm sống ở Chabrignac, bà vẫn không hề ghé thăm viếng lâu đài De La Nouche lấy một lần, dù hai điền trang nằm gần như cạnh nhau.

Cả Công chúa Như Lý và Hoàng hậu Nam Phương đều có vẻ như không hề biết đến sự tồn tại của người kia trên cùng một vùng đất, dù trên quan hệ, Công chúa Như Lý là cô chồng của bà Nam Phương.

Tác giả Daniel Grande Clemént phỏng đoán rằng, có lẽ sự ngăn cách của họ không nằm ở những dãy bờ rào mà nằm ở thiên kiến chính trị. Bà Công chúa Như Lý có khuynh hướng ủng hộ chế độ Ngô Đình Diệm, trong khi bà Hoàng hậu Nam Phương lại ghét cay ghét đắng chế độ này, bởi nó đã tước hết mọi quyền lợi của gia đình bà tại cố quốc.

Rất vô trách nhiệm, cựu hoàng Bảo Đại hầu như không đoái hoài gì đến cuộc sống của vợ con mình ở điền trang La Perche. Trong suốt 5 năm, ông chỉ ghé điền trang đúng 3 lần vào dịp đám cưới cô con gái Phương Liên. Cô này kết hôn với Berna Soulain, một thanh niên làm viên chức Ngân hàng Bordeaux . Hai người quen nhau khi cùng du học tại London , Anh. Đám cưới của họ được tổ chức đầu năm 1962, dưới sự chủ lễ của cha xứ Blanchet và sự xác nhận của Trưởng làng Henri Bosselut – một đảng viên Cộng sản Pháp. Người dân làng Chabrignac có dịp thấy mặt cựu hoàng xứ An Nam khi ông đến dự tiệc cưới trên một chiếc xe dài ngoẵng.

Ngày 14/9/1963, vừa từ thị trấn Brive cách điền trang 30 km trở về, bà Nam Phương đã cảm thấy đau họng. Viên bác sĩ được mời đến đã khám qua loa và kết luận là bà bị viêm họng nhẹ, chỉ uống thuốc vài ngày là khỏi. Kỳ thực, bà bị chứng lao hạch tràng hạt, cơn đau tiếp tục hoành hành dữ dội. Trước khi viên bác sĩ thứ hai kịp đến nơi thì Nam Phương Hoàng hậu, 49 tuổi, đã qua đời vì nghẹt thở.

Cựu hoàng Bảo Đại không có mặt trong đám tang của vợ. Mộ phần của bà được đặt trong phần mộ của dòng họ Bá tước De La Besse. Bà Bá tước De La Besse, tức Công chúa Như Lý cũng có mặt trong dòng người đưa tang của làng Chabrignac, với nỗi ân hận vì trước đó hai người đã không hề có cơ hội gặp gỡ nhau. Ít lâu sau, Công chúa Như Lý đã lần lượt cải táng mộ Vua Hàm Nghi từ Alger về nghĩa trang này. Sau đó, Công chúa Như Mai, Hoàng tử Minh Đức cũng lần lượt được đưa về an táng tại làng Chabrignac, cách mộ của Nam Phương Hoàng hậu không xa lắm.

Năm 2000, Công chúa Như Lý đã xúc tiến việc cải táng Vua Hàm Nghi và các thành viên khác trong gia đình về an táng tại Huế. Nhưng việc chưa thực hiện thì đến năm 2005, bà cũng tạ thế. Làng Chabrignac xa xôi hẻo lánh và tươi đẹp ở miền Tây Nam nước Pháp, không định trước đã trở thành nơi an nghỉ của một bộ phận Hoàng tộc thuộc triều đại phong kiến cuối cùng của Việt Nam .

Lời đồn đoán về tình yêu thầm lặng của viên quản gia – cựu đảng viên Cộng sản Pháp - đối với bà Nam Phương Hoàng hậu có lẽ là hoàn toàn có cơ sở. Sau khi mất, ông này đã được chôn cất ngay bên cạnh mộ phần của bà Nam Phương, tất nhiên là phải được bà đồng tình từ khi còn sống. Nơi đất khách, Nam Phương Hoàng hậu có vẻ như đã đoạn tuyệt hoàn toàn lễ giáo phong kiến để tán thành khuynh hướng dân chủ phóng khoáng. Vì thế, tuy đặt nằm cạnh nhau nhưng mộ phần của bà hoàng hậu thì bé nhỏ, khiêm nhường, trong khi mộ của người quản gia lại khá nặng nề và to lớn hơn nhiều!


Nguyễn Lam
viethoaiphuong
#29 Posted : Tuesday, December 15, 2009 7:42:09 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
TT Ngô Đình Diệm: Lịch sử sẽ trả lại sự thật, danh dự và công bằng cho ngài



Quỳnh Thi

Kể từ sau hiệp định Genève 54 chia đôi đất nước giữa Pháp và chính quyền cộng sản Hà Nội . Cuộc chia đôi đất nước đẫm máu đầy bi thương của dân tộc ! Miền Bắc thuộc quyền cai trị của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa , tức là thuộc về cộng sản . Còn miền Nam thuộc về Việt Nam Cộng Hòa (VNCH ), tức là thuộc về thế giới tự do .

Như mọi người đều biết , VNCH có nền Đệ I và Đệ II Cộng hòa. Đệ I Cộng hòa được thành lập vào ngày 07 / 07 / 1954 do Chí sĩ Ngô Đình Diệm bôn ba từ hải ngoại về nước sáng lập và lãnh đạo. Ông được dân chúng miền Nam từ vĩ tuyến 17 đến mũi Cà Mâu bầu lên, bằng một cuộc tổng tuyển cử tự do đầu phiếu làm Tổng Thống đầu tiên của nền Đệ I của nước Việt Nam Cộng Hòa cho đến ngày Tổng thống Ngô Đình Diệm bị Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng lật đổ ngày 01-11-1963.

Sau đó Đệ II Cộng hòa được thành lập cho đến ngày miền Nam rơi vào tay Cộng sản Bắc Việt .

Đây là một bước ngoặt đánh dấu cho một nền dân chủ đầu tiên của dân tộc, chấm dứt chế độ độc tài phong kiến cai trị đất nước cả hàng nghìn năm và một trăm năm đô hộ của người Pháp.

Sau khi hiệp định Genève 54 có hiệu lực. Một làn sóng người di cư tị nạn Cộng sản vĩ đại từ miền Bắc tràn qua sông Bến Hải xuống miền Nam Việt Nam. Đó là một cuộc di cư lánh nạn lớn nhất trong lịch sử, kể từ khi lập quốc. Hơn 1 triệu người từ bỏ tài sản nhà cửa ruộng vườn để đi vào Nam tìm tự do no ấm .

Trước đó những người dân miền Bắc đã sống trong vùng Việt Minh kiểm soát. Họ đã hiểu thế nào là Cộng sản. Thế nào là độc tài sắt máu. Thế nào là sự lừa bịp mị dân. Họ đã từng chứng kiến những cuộc đấu tố dã man. Con tố cáo cha, vợ tố cáo chồng. Những cuộc ám sát thủ tiêu bí mật. Những vụ thanh trừng bắn giết để tiêu diệt các đảng phái yêu nước đối lập như Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt Cách Mạng Đảng… những người không chịu đứng chung trong hàng ngũ với Cộng sản. Tôn giáo được coi là mê tín dị đoan phải xóa bỏ. Chỉ có Bác và Đảng là trên hết .

Cả một xã hội bị ly tán và phân hóa chia rẽ giầu nghèo, người ta gây căm thù giữa hàng ngũ địa chủ và nông dân khiến họ xâu xé, tố khổ lẫn nhau , kể từ khi chính quyền của cái gọi là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập từ mùa Thu năm 45. Mà người Cộng sản thường gọi là Cách mạng tháng 8.

Sau này khi đã lớn khôn , tôi được nghe mẹ kể lại những hệ lụy do cuộc Cách mạng tháng 8 mang lại những bi thương khổ ải cho cả đất nước và dân tộc. Đó cũng là sự nhức nhối ray rức, không chỉ riêng của người viết, mà là với mọi người Việt Nam yêu nước. Đó cũng là động cơ khiến người viết làm nên một bài thơ đã lâu. Nhân đây muốn xin được chia sẻ với bạn đọc. Bài thơ có tên là Một Chiều Thu Ấy như sau:

Có một ngày đã xa còn đó
Quên làm sao vết sẹo nghìn đời
Thân ngã sấp cõng hồn tím lặng
Vách núi sầu lãng đãng trời mây
Giữa ngọ dìm ngày không níu được
Thuyền không neo Trời nước mênh mông
Cứ lênh đênh từ đó tang bồng

Mẹ đứng khóc một chiều Thu ấy
Chưa mừng vui đã vội hao gầy
Kể từ đó tương tàn cốt nhục
Bắc Nam Trung chìm ngập đạn bom
Biết hận thù khi nao xóa được
Chảy biển Đông ngập máu chia lìa

Như chim Yến mỗi ngày thổ máu
Dán đời mình vách đá điêu linh
Ôm trần gian trợn tròn hai mắt
Đá xám đen nghẹn uất chiêm bao

Mùa Thu vàng xác người ướp lá
Nuốt âm thầm lênh láng đau thương
Trách làm chi Trời chập âm dương
Trụ lại thành con người vật vã
Trên trần gian chắp cánh vô thường

Nghe gió thổi rơi vào nghìn kiếp
Vàng rộm hong một chiếc lá bay
Xin ngàn sau thôi trở lại nơi này
Nhưng Trời hỡi ! Đất này tôi yêu quá.

Từ khi hiệp định Genève được hai bên ký kết, khắp miền quê xa xôi hẻo lánh đến các thành phố lớn nhỏ, đồng bào xôn xao bàn tán về chuyện di cư vào Nam. Nhất là đồng bào theo đạo Công giáo. Người ta loan truyền có “tầu há mồm khổng lồ” của Mỹ tới các hải cảng để đón rước đồng bào. Thế là dân chúng lũ lượt về thu xếp gia đình, bồng bế nhau già trẻ lớn bé chạyï trốn. Bất kể đe dọa, bắt bớ lẫn phủ dụ tuyên truyền. Cán bộ Việt Minh khuyên lơn đồng bào ở lại. Họ nói, “bây giờ đất nước đã được hòa bình độc lập rồi hãy ở lại làm ăn, đừng nghe theo đi làm tay sai cho địch” !

Theo nguyên tắc trong văn bản hiệp ước qui định, người dân Việt Nam có quyền ai muốn sinh sống ở đâu, thì được tự do lựa chọn. Nghĩa là ai theo Bác và Đảng thì ở lại miền Bắc. Còn ai yêu quí tự do dân chủ thì đi vào miền Nam sinh sống. Nhưng đó chỉ là trên văn bản giấy tờ, còn trên thực tế thì chính quyền Bắc Việt ra sức ngăn cấm. Nên ở các vùng xa xôi hẻo lánh, ai muốn đi tìm tự do ở miền Nam thì phải lén lút lẩn trốn. Họ chỉ tiết lộ tin tức ra đi cho những người thân quen và bạn bè với nhau mà thôi. Ngoài ra tất cả phải giữ bí mật. Nếu không muốn bị ngăn cản hay bị bắt giữ.

Cuộc di cư của hơn 1 triệu người miền Bắc lánh nạn Cộng sản vĩ đại nhất, từ trước đến nay ở Việt Nam như đã nói. Công lao lớn nhất phải được nhắc đến, là của anh em trong gia đình Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Suốt thời gian còn ở Hoa Kỳ chuẩn bị về nước chấp chánh lãnh đạo đất nước, Chí sĩ họ Ngô đã vận động trong khối Thế giới tự do, đặc biệt là sự giúp đỡ to lớn về tài chính, lương thực,thực phẩm các phương tiện vận chuyển của chính phủ Mỹ và giáo hội Công giáo Vatican đối với người tỵ nạn Cộng sản. Ân nhân của những người di cư tỵ nạn cụ thể nếu không được nói đến là một điều thiếu sót, là Đức Hồng y giáo chủ Spellman của Hoa Kỳ.

Những người tỵ nạn sau khi được các phương tiện đưa tới Sài gòn. Họ được tập trung vào các trại tạm cư, được giúp đỡ phương tiện chuyên chở, tiền bạc, thực phẩm thuốc men một thời gian dài, rồi sau đó họ được đưa về các nơi ruộng đồng phì nhiêu để định cư, tạo dựng cuộc sống mới. Những địa danh sau này nổi tiếng như vùng Cái Sắn Rạch Giá, Hố Nai, Gia Kiệm, Phương Lâm, Blao Bảo Lộc… không một người miền Nam nào là không biết đến .

Suốt 9 năm cầm quyền lãnh đạo miền Nam Việt Nam của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, người dân có dịp sống trong thời gian đó và sống trong thời gian nhiễu nhương của các Tướng lãnh cầm quyền sau này. Khi chế độ Đệ I Cộng hòa bị lật đổ, người ta mới vô cùng tiếc nuối một vị lãnh đạo yêu nước, đức độ tài ba có một tinh thần độc lập quốc gia dân tộc, rất đáng kính trọng .

Ông đã bị một số Tướng lãnh thuộc hạ thân tín, cam tâm nhận tiền bạc, và bị mua chuộc của ngoại bang phản bội. Dưới chiêu bài, lật đổ Chế độ độc tài gia đình trị nhà Ngô, vào ngày 01-11-1963, cả hai anh em ông là Cố vấn Ngô Đình Nhu đều bị sát hại một cách thê thảm .

Sau hiệp định Genève 1954, khi ông Ngô Đình Diệm được Hoàng Đế Bảo Đại mời về làm Thủ tướng, công việc của ông lúc đầu thật là khó khăn đầy gian nan vất vả. Chính phủ của ông vừa được thành lập chân ướt chân ráo, ngoài việc tìm những nhân tài yêu nước, có tinh thần quốc gia dân chủ tham gia vào trong Nội các, Quân độI, chính phủ còn phải đối phó với những Đảng phái đội lốt tôn giáo như Cao Đài, Hòa Hảo, Bình Xuyên. Mỗi đảng phái chiếm cứ một vùng để kiểm soát sách nhiễu dân chúng. Những đảng cướp khác cũng nổi lên khắp nơi như hồi Thập Nhị Sứ Quân thời Đinh Bộ Lĩnh, chúng hà hiếp cướp bóc dân chúng , rất khó khăn cho việc ổn định an ninh trật tự. Đó là chưa kể đến sự phá hoại của phía Cộng sản Bắc Việt còn cài Quân đội và tình báo ở lại để đánh phá gây rối loạn cho miền Nam Việt Nam . Trong khi chính quyền còn phải lo xây dựng tổ chức một thể chế chính trị, như tổ chức Trưng cầu dân ý, Tổng tuyển cử bầu ra tổng thống, quốc hội Lập Hiến. Củng cố chính quyền và Quân đội được bàn giao từ phía chính quyền cũ do người Pháp thành lập theo hiệp định Genève qui định .

Kể từ tháng 8 năm 1945 khi Việt Minh chiếm được chính quyền từ tay thực dân Pháp , cho đến ngày miền Nam bị mất về tay Cộng sản 30-04-1975 . Dưới thời chính phủ của Tổng thống Ngô Đình Diệm , đời sống dân chúng rất là sung túc và thịnh vượng . Trong những năm đó đất nước có thể nói được là thanh bình an vui , sau vài năm giặc giã loạn lạc cướp bóc được quét sạch do hậu quả của chế độ thực dân phong kiến để lại .

Chưa có thời gian nào kinh tế của đất nước lại được độc lập và ổn định như vậy. Người dân ở vùng đồng bằng sông Cửu Long có tiếng là làm chơi ăn thật, vì đất đai ruộng đồng phì nhiêu bát ngát, thẳng cánh cò bay, nông dân canh tác không hết. Sông rạch thì tôm cá rất nhiều, bắt không xuể. Ở những miền quê khắp nơi đời sống thanh bình êm ả, nông dân ăn nhậu, đàn hát thâu đêm suốt sáng . Họ không phải lo toan đến cái ăn cái mặc. Cuộc sống tuy phải lam lũ với ruộng đồng , nhưng tinh thần thì rất là thoải mái , sự vô tư và tánh tình mộc mạc chất phát càng làm cho người nông dân Nam Bộ dễ gần , dễ mến hơn .

Ngày đó nền kinh tế của miền Nam rất là thịnh vượng. Đồng tiền Việt Nam rất là có giá trị. Người ta có thể xé đôi tờ bạc 1 đồng ra để mua bán, chi tiêu. Vì con cá, mớ rau được tính từ xu, từ cắc. Muốn rủ bạn đi ăn tô phở chỉ tốn có dăm sáu đồng bạc. Rồi cho đến những năm cuối thập niên 60, tình hình chiến sự ngày càng tồi tệ, do miền Bắc cho quân xâm nhập vào miền Nam, mỗi lúc mỗi gia tăng. Lúc đó chính phủ Mỹ nôn nóng muốn gửi quân sang can thiệp để giải quyết cuộc chiến cho mau lẹ. Biết được ý định đó của Mỹ, chính phủ Ngô Đình Diệm chỉ chấp thuận cho cố vấn Mỹ ở miền Nam và phản đối việc Mỹ đem quân chính quy sang tham chiến trực tiếp ở miền Nam Việt Nam .

Vào cuối những năm thập niên 60 người ta bàn tán , đồn đoán là ông Diệm đã bí mật cho người tiếp xúc với chính quyền Hà Nội để thương thuyết hòa giải giữa người Việt Nam với nhau. Sau này sự việc đổ bể không thành, khiến người Mỹ tức giận nên họ đã quyết định mượn tay các Tướng lãnh sát hại và lật đổ chính quyền của Tổng thống Ngô Đình Diệm vào ngày 01-11-1963 .

Trong thời gian 9 năm cầm quyền của Chính phủ Ngô Đình Diệm, những đảng phái đối lập cho rằng, Chính phủ của Tổng thống họ Ngô là độc tài gia đình trị, kỳ thị tôn giáo. Vì trong chính phủ có ông Ngô Đình Nhu là Cố vấn Chính trị , bà Trần Lệ Xuân vợ của Cố vấn Ngô Đình Nhu là chủ tịch Hội Phụ Nữ Liên Đới. Ông Ngô Đình Cẩn là bào đệ của Tổng thống được cử giữ chức Cố vấn đặc trách miền Trung Nam phần. Ông Ngô Đình Luyện là Đại sứ Việt Nam ở Anh quốc. Tổng Giám mục Ngô Đình Thục làm Tổng Giám mục Giáo phận Huế. Ông Trần Trung Dung cháu gọi Tổng thống Diệm là cậu được cử làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng….

Hồi đó phong trào chống đối mạnh nhất và dữ dội nhất phải kể, là của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Rồi của Sinh viên Học sinh các trường Đại học Trung học do Cộng sản đứng sau lãnh đạo giật dây. Lực lượng Thanh Sinh Công do các Linh mục Cấp tiến dòng Chúa Cứu Thế lãnh đạo.

Họ cho rằng Chính quyền Ngô Đình Diệm dành ưu đãi cho Giáo hội Công giáo như giúp đỡ xây dựng nhiều nhà thờ, các cơ sở Tôn giáo, Trường học… Đề bạt người Công giáo vào các chức vụ then chốt, và kỳ thị các tôn giáo khác, nhất là Phật giáo.

Có dư luận cho rằng những viên chức trong Chính phủ và Quân đội muốn được đề bạt từ cấp Tỉnh trưởng trở lên phải là người có đạo Công giáo. Nên hồi đó đa số Tướng Tá theo đạo Công giáo. Rồi sau ngày Đảo chính 01-11-63 khi Chế độ ông Diệm không còn, họ âm thầm bỏ đạo.

Người ta còn nhớ hầu hết những Tướng Tá, viên chức Chính phủ khúm núm nịnh bợ gia đình họ Ngô một cách thái quá. Thường trong cách xưng hô mỗi ngày khi vào yết kiến hay tiếp xúc, họ gọi ông Ngô Đình Diệm bằng cụ và xưng con. Gọi Ngô Đình Cẩn bằng Cậu cũng xưng con, tuy có người bằng tuổi hay hơn cả tuổi ông Cẩn !

Suy cho cùng Chế độ của Tổng thống Ngô Đình diệm bị sụp đổ và anh em ông bị giết thảm, ngoài bàn tay lông lá của ngoại bang ra, phần nào cũng là do những viên chức, tay chân trong Chính quyền bợ đỡ quá mức làm hại đất nước và gia đình ông.


o0o

Suốt một quãng thời gian khá dài, hơn 46 năm nhìn lại lịch sử cận đại Việt Nam. Trong hàng ngũ lãnh đạo. Người ta có thể bình tâm khách quan, phần nào đánh giá tư cách, công và tội của những vị đó. Sử sách đã nói rất nhiều thiết nghĩ không tiện viện dẫn ra đây.

Riêng cá nhân của Tổng thống Ngô Đình Diệm, kể từ khi bị lật đổ và bị giết cho đến nay đã gần nửa thế kỷ trôi qua. Tư cách và đạo đức của một nhà lãnh đạo, chúng ta chưa thấy ai vạch ra những vết nhơ bẩn thỉu vấy trên người ông. Ngay cả những thế lực căm thù chống đối ông và Chế độ. Thí dụ: như tham nhũng, hối lộ, ăn cắp của công, tiền bạc gửi ở ngân hàng ngoại quốc, dinh thự chỗ nọ chỗ kia, vợ lớn vợ bé, làm tay sai cho ngoại bang phản bội lại quyền lợi của đất nước của dân tộc v.v… Tuyệt nhiên không có ai nói tới. Mà nhiều người giúp việc hay thân cận đã nói về đức độ, đời sống sinh hoạt thường ngày trong suốt cuộc đời gương mẫu của Ngài Tổng thống.

Hầu hết các Tướng lãnh tham gia vào việc hãm hại và lật đổ ông, sau này đã hối hận, có người đã cạo trọc đầu tu tập để sám hối .

Ngô Đình Diệm xuất thân trong một gia đình quan lại phong kiến. Bản thân ông là một quan Thượng Thư Bộ Lại. Sau này được cử làm Thủ tướng Chính Phủ, nhưng ông đã có công xây dựng nền Đệ I Cộng hòa đầu tiên cho Việt Nam tự do dân chủ. Chứ không thiết lập một nền quân chủ độc tài phong kiến để vinh thân phì gia, vinh hoa phú quí như những vua chúa trước đây. Thiết nghĩ đó đã là một nhân cách phi thường ít người nắm được quyền hành có được.

Hiểu như thế chúng ta lớp hậu sinh sau này, có thể thông cảm cho hoàn cảnh một đất nước, một Chí sĩ chân ướt chân ráo, mới bước chân đưa đất nước vào học tập để xây dựng một nền dân chủ đầu tiên cho Việt Nam mà trước đó đất nước đã hình thành hàng ngàn năm vua quan phong kiến. Và mới vừa thoát ra khỏi ách nô lệ Pháp thuộc một trăm năm không khỏi có những khiếm khuyết hoặc sai lầm. Lại phải đối phó với những thế lực ngoại bang áp đặt những điều kiện có nguy hại đến chủ quyền và quyền lợi đất nước .

Công và tội của Chính phủ Ngô Đình Diệm, chúng ta phải bình tĩnh chờ đợi lịch sử sau này phán xét.

Quỳnh Thi
Nguồn



=======


Đôi điều về một bài viết
Quỳnh Thi


Trong bài viết, Tổng thống Ngô Đình Diệm: Lịch sử sẽ trả lại sự thật, danh dự và công bằng cho ngài.

Để tránh sự hiểu lầm của một số dư luận xấu cho rằng, tôi là một đảng viên của Đảng Cần Lao Nhân Vị của Nhà Ngô. Người đã hưởng được nhiều ơn mưa móc của chế độ. Nay muốn tâng bốc nhằm phục hồi, lôi cuốn tàn dư, phe đảng dựa vào quyền lực khi trước, làm những chuyện xằng bậy thao túng xã hội. Những kẻ trước đây thực sự đã nhận được bổng lộc, chức tước dưới thời chính phủ Ngô Đình Diệm, tiếc nuối một thời vàng son ! Họ đã bị vinh hoa phú quí làm mờ lương tri, lớn lối cao rao, ca tụng Chế độ độc tài Gia đình trị, để lấp liếm đi những sai phạm, có thể là tội ác, có hại cho đất nước và dân tộc. Và đó cũng là một nguyên nhân gây nên sự sụp đổ của chế độ.

Tôi xin xác nhận trước công luận rằng: Trước sau tôi chỉ là một người làm thơ, viết văn hèn mọn thuần túy. Không đảng phái, đoàn thể, phe nhóm chức tước xu nịnh bất cứ một chính phủ hay tổ chức nào.

Thời đương đại chính phủ của Tổng thống Ngô Đình Diệm cho đến ngày ông bị lật đổ 01 - 11 - 1963. Tôi còn là một học sinh Trung học Đệ nhị cấp, làm gì có được hân hạnh làm một viên chức chính phủ, dù là cấp thấp. Lấy đâu mà bảo là đảng viên đảng Cần Lao Nhân Vị của ngài Cố vấn Ngô Đình Nhu để được hưởng bổng lộc của chế độ cơ chứ. Muốn được kết nạp làm đảng viên Cần Lao phải là những công chức được tin cẩn, không phải là dễ, ai cũng gia nhập được.

Sau này được bảo lãnh ra hải ngoại tỵ nạn sinh sống, tôi cũng không tham gia vào tổ chức chính trị nào. Không tham gia vào một cơ cấu chính quyền của bất cứ nhà Nước nào sau ngày 30 - 04 - 75 .

Thú thực tôi rất ghét hoạt động chính trị, nhưng lại quan tâm tới diễn biến sinh hoạt chính trị của đất nước. Đó là một nghịch lý của cuộc đời. Nên cực chẳng đã, tôi phải rất khó khăn để biện bạch những điều trên với quí bạn đọc. Mong được thông cảm.

Vả lại sự trung thực và nhân cách của một người viết văn, làm thơ. Không cho phép tôi lặng thinh trước những vấn đề có liên quan đến danh dự của một người đã bị xuyên tạc, vu khống và lăng nhục xúc phạm. Hơn nữa người đó lại là một vị Tổng thống Việt Nam Cộng hòa đầu tiên được bầu lên, có nhân cách đức độ, liêm chính và lòng yêu nước. Vị Tổng thống đó đã vì quyền lợi và độc lập của dân tộc. Chống lại sự áp đặt thống trị của ngoại bang, nên ông đã bị ngoại bang âm mưu muốn lật đổ, để thay thế vào bằng những người lãnh đạo ít năng lực, dễ bảo dễ điều khiển hơn. Nên họ gây ra những cuộc khủng hoảng làm lũng đoạn nền chính trị kinh tế của miền Nam. Họ đã mượn tay của một tôn giáo lớn là Phật giáo gây rối loạn trị an với chiêu bài Chế độ nhà Ngô kỳ thị và đàn áp tôn giáo, Gia đình trị. Chuyện có ít xít nên nhiều, mục đích gây căm phẫn trong hàng ngũ Tăng ni và Phật tử để châm ngòi gây bạo loạn lật đổ chế độ.

Hồi đó những cuộc xuống đường biểu tình ở khắp các thành phố lớn của miền Nam. Họ kích động nổi loạn trong hàng ngũ Sinh viên Học sinh mà họ không hiểu rằng trong lực lượng Sinh viên Học sinh đã có những tên Cộng sản nằm vùng chỉ đạo. Sau này phong trào chống đối lây lan sang một bộ phận của các Linh mục và sinh viên (Thanh Sinh Công) Công giáo cấp tiến có khuynh hướng ngả về phe Xã hội Chủ nghĩa.

Cuộc tranh đấu của Phật giáo bùng nổ mỗi ngày thêm dữ dội và trầm trọng hơn khi Hòa Thượng Thích Quảng Đức xuống đường tự thiêu. Sau cùng khi thời cơ đã đến và chín mùi, họ đã mua chuộc được các tướng lãnh làm binh biến đảo chính lật đổ Chế độ vào ngày 01 - 11 - 1963 như mọi người đều biết, và cuối cùng họ đã giết chết hai anh em Tổng thống Ngô Đình Diệm và ông Cố vấn chính trị Ngô đình Nhu . Sau này họ còn giết hợp pháp thêm người con út của gia đình cố Tổng thống là ông Cố vấn Chỉ đạo Ngô Đình Cẩn. (Cố vấn Tổng thống Chỉ đạo miền Trung). Bằng cách mang ra xử tử hình trước tòa án Quân sự Đặc biệt.

Điều này cần nói rõ và minh bạch, Họ ở đây là Tòa Đại sứ Mỹ và các Chuyên viên bí mật của CIA chuyên về lật đổ những chính quyền đối đầu trên Thế giới hay chính quyền được coi là đồng minh, mà cứng đầu không chịu nghe theo sự chỉ đạo về đường lối chính trị kinh tế và quân sự của họ.

Mục đích của bài viết, Tổng thống Ngô Đình Diệm: lịch sử sẽ trả lại sự thật, danh dự và công bằng cho ngài, như đã nêu trên. Không mổ xẻ đi sâu vào những chi tiết suốt 9 năm cầm quyền của Chính phủ Ngô Đình Diệm mà đã có rất nhiều dư luận khen chê, đúng sai suốt 46 năm nay. Ở đây người viết chỉ muốn trung thực nói lên tấm gương của lòng yêu nước, tư cách, tài năng và đạo đức của cố Tổng thống Ngô Đình Diệm để mọi người có dịp so sánh với các Nhà lảnh đạo khác của hai miền Nam và Bắc Việt Nam cận và hiện đại mà chúng ta đã có dịp biết qua để so sánh, học hỏi. Ngõ hầu trả lại sự thật, danh dự và công bằng cho ngài.

Các Nhà lãnh đạo Thời cận và hiện đại Việt Nam được kể, cùng thời từ lúc và sau khi Chí sĩ Ngô Đình Diệm về nước chấp chính 07 - 07 - 1954. Như: Hoàng đế Bảo Đại, được coi là một ông vua bù nhìn, làm tay sai cho thực dân Pháp. Là người suốt đời ăn chơi trác táng, chẳng nghĩ gì đến quyền lợi Tổ quốc. Ông đã bị truất phế bằng một cuộc Trưng cầu dân ý. Sau này được Pháp bao dung che chở, ông sống ở Pháp cho tới lúc chết.

Chủ tịch Hồ Chí Minh, thì được đảng Cộng sản Việt Nam tôn vinh tài năng và đức độ như một vị anh hùng dân tộc, nhưng như mọi người đều biết, ông đã đưa Chủ nghĩa Cộng sản vào để bần cùng hóa đất nước và gây tang thương cho dân tộc từ bao nhiêu năm qua, khiến bao nhiêu triệu người bị giết, bao nhiêu triệu gia đình bị ly tán. Tội ác do ông và chính quyền Cộng sản gây nên từ trước đến nay không bút mực nào tả xiết. Còn đạo đức cá nhân, thì cũng vợ nọ con kia. Thậm chí đã cho thuộc hạ giết hại và thủ tiêu cả vợ con của mình. ( Như Vũ Thư Hiên đã viết trong hồi ký ) Viết sách "Cuộc đời của Hồ Chủ tịch" , ký tên là Trần Dân Tiên để tự ca tụng mình, sau này bị phát giác, thật là nhục nhã.v . v. . .

Còn Chủ tịch Nguyễn Lương Bằng, Trần Đức Lương, Nguyễn Minh Triết chỉ là những tên cộng sản bất tài. Sống và làm giầu bằng tiền ăn cắp, tham nhũng của công. Làm tay sai bán đất bán rừng cho Tầu cộng. Nay bọn chúng là bọn hèn nhát làm ngơ cho Trung cộng xâm chiếm Trường Sa, Hoàng Sa của Việt Nam. Sau này muôn đời sẽ bị phỉ nhổ lên án.

Và ở miền Nam sau ngày 01 - 11 - 1963 gồm có: Chủ tịch Hội Đồng Quân nhân Cách mạng Dương Văn Minh, cũng chỉ là một người thiếu bản lãnh, nhu nhược, không có tài năng lãnh đạo. Sau này được cử làm Tổng thống đã đầu hàng Cộng sản, trực tiếp làm mất miền Nam Việt Nam rồi sang lưu vong sống ở Pháp.

Trung tướng Nguyễn Khánh, và cuối cùng là Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu độc tài, để tham nhũng lan tràn, làm lũng đoạn Quân đội và chính quyền. Những nhà Lãnh đạo miền Nam Việt Nam, chính trị và quân sự từ sau 01 - 11 - 63 chỉ ỷ lại vào Tòa Đại sứ, Cố vấn Mỹ, vào tiền viện trợ và quân sự của nước ngoài, chủ yếu là Hoa Kỳ. Đến khi Hoa Kỳ cắt tiền viện trợ thì Quân đội bị giao động, di tản rút quân hết Vùng I rồi Vùng II Chiến thuật. Cuối cùng miền Nam rơi vào tay Việt cộng.

Về tiểu sử tài năng và đạo đức của các vị lãnh đạo Nhà nước Hai miền như đã nêu trên, nếu đem so sánh với tổng thống Ngô Đình Diệm mà sách báo, dư luận, đã nói đến rất nhiều từ trước đến nay. Chắc quí vị cũng đã nhận ra đạo đức và tài năng của họ.

Tuy nhiên, nói như thế không phải là Chế độ Ngô Đình Diệm không có sai trái, khuyết điểm. Những viên chức cao cấp giúp việc chủ chốt trong chính phủ, những chức vụ then chốt nắm quyền lực của Chế độ là anh em và những tay chân thân tín trong đảng Cần Lao. Nên chính quyền bị coi là Gia đình trị. Họ tâng bốc ông một cách quá đáng như sau khi làm lễ chào Quốc kỳ thì hát bài Suy tôn Ngô Tổng thống.

Những tai tiếng chỉ đích danh Cố vấn Ngô Đình Cẩn lạm dụng quyền lực một cách thái quá là Lãnh Chúa miền Trung! Rồi một số Linh mục Công giáo được ưu đãi dựa vào Chế độ có uy quyền hống hách, báo chí thời đó gọi là Bạo Chúa Áo đen.

Suy cho cùng, thì một người lãnh đạo đất nước, một mình không thể quán xuyến hết được, mà phải dựa vào tay chân thân tín giúp việc. Trong thời kỳ đầu mới phôi thai, thì luật lệ và nguyên tắc được giữ nghiêm minh, nhưng càng về sau khi quyền lực càng ngày càng lớn thì sự tham lam và hối mại quyền thế mỗi gia tăng, Nhà lãnh đạo không kiểm soát được hết những người giúp việc của mình. Đó cũng là trách nhiệm mà nhà lãnh đạo phải gánh chịu và kết quả như mọi người đều biết. Do vậy đó cũng là một trong những nguyên nhân mà chế độ Đệ I Cộng hòa bị sụp đổ là tất yếu.

Bài viết Tổng thống Ngô Đình Diệm, lich sử sẽ trả lại sự thật, danh dự và công bằng cho Ngài. Như đã thưa, không mô tả chi tiết về Chế độ cai trị mà chỉ khái quát một cách đơn sơ tổng quát. Mục đích muốn nêu lên tư cách và đạo đức lãnh đạo của một Tổng thống yêu nước so với những nhà lãnh đạo cùng thời, hầu những người đi sau suy ngẫm rút ra được bài học có lơi cho đất nước và dân tộc.

Quỳnh Thi
Nguồn
viethoaiphuong
#30 Posted : Thursday, August 26, 2010 5:50:46 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
Những điều ít biết về vương triều của Mai Hắc Đế

24/08/2010 07:03:02

- Không chỉ có những hiểu lầm về cuộc đời và sự nghiệp của vị hoàng đế trong thời kỳ chống Bắc thuộc mà việc nhìn nhận, đánh giá về Mai Hắc Đế cũng có những sai lệch. Bên cạnh đó còn có những dữ liệu ít được biết đến về cá nhân ông cũng như vương triều do ông sáng lập ra.

1. Nhìn nhận sai lầm và việc đánh giá lại

Bộ chính sử đầu tiên viết về Mai Hắc Đế là Đại Việt sử ký toàn thư do Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Hậu Lê biên soạn, trong đó có đoạn viết sơ lược như sau: “Năm Nhâm Tuất [722] (Đường Huyền Tông, Khai Nguyên năm thứ 10), tướng giặc là Mai Thúc Loan chiếm giữ châu, xưng là Hắc Đế, bên ngoài liên kết với người Lâm Ấp, Chân Lạp, số quân nói là có 30 vạn. Đường đế sai Nội thị Tả giám môn Vệ tướng quân là Dương Tư Húc và Đô hộ là Nguyên Sở Khách đánh dẹp yên được”.

Đánh giá sai lầm về tính chất của cuộc khởi nghĩa và vai trò của Mai Thúc Loan của các nhà sử học Hậu Lê được cho là bị ảnh hưởng của sách Đường thư khi tham khảo tư liệu để viết về Kỷ thuộc Tùy Đường của bộ Đại Việt sử ký toàn thư.

May mắn là sai sót đó đã được các nhà sử học sau đó chỉnh lý, sửa chữa; trong Việt giám thông khảo tổng luận viết năm Giáp Tuất (1514), nhà sử học Lê Tung viết: “Mai Hắc Đế nổi lên từ châu Hoan, căm giận ngược chính của Sở Khách, cất quân để đánh, phía Nam giữ đất Hải Lĩnh, phía Bắc chống lại nhà Đường, có thể gọi là bậc vua hào kiệt”.

Còn Ngô Thì Sĩ trong cuốn Việt sử tiêu án chỉ viết ngắn gọn: “Người châu Hoan là Mai Thúc Loan giữ châu, xưng là Hắc Đế, bên ngoài giao kết với nước Lâm Ấp và Chân Lạp, có đến 30 vạn quân. Nhà Đường sai tướng quân là Dương Tư Húc đánh bình được. Thúc Loan người làng Hương Lãm, huyện Nam Đường… Đương thời nội thuộc, Mai Hắc Đế không chịu bọn ngược lại kiềm thức, cũng là người xuất chúng trong đám thổ hào”.

Bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục thời Nguyễn viết về Mai Thúc Loan như sau: “Năm Nhâm Tuất [722] (Đường Huyền Tông năm Khai Nguyên thứ 10). Tháng 7, mùa thu, ở Hoan Châu, Mai Thúc Loan giữ lấy châu, tự xưng đế”.

Các cuốn sách sử sau đó như Đại Việt sử ký tiền biên, Việt sử cương mục tiết yếu, Đại Nam nhất thống chí... dù ghi chép không nhiều nhưng cũng có những đánh giá chân thực về Mai Thúc Loan và cuộc khởi nghĩa do ông lãnh đạo.
Lăng mộ vua Mai Hắc Đế ở Nam Đàn, Nghệ An.Như vậy theo quan điểm của sách sử phương Bắc, cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan là “làm phản”, “làm loạn”, là “giặc”, tuy nhiên có sách thì không dùng từ “giặc” mà sử dụng các từ để chỉ về một thủ lĩnh có uy tín trong dân chúng như sách: Tân Đường thư, Tục tư trị thông giám trường biên, Tống sử giám, Tống danh thần tấu nghị gọi Mai Thúc Loan là “An Nam Man cừ”.

Các sách như Cựu Đường thư, Sách phủ nguyên qui, Quảng Tây thông chí gọi ông là “An Nam thủ lĩnh” hoặc “An Nam nhân” như theo sách Khâm định tục thông chí.

2. Mai Hắc Đế là người đầu tiên xây dựng liên minh quân sự với lân bang

Quy mô khởi nghĩa của Mai Thúc Loan rất rộng, theo dã sử, ông đã kêu gọi dân chúng ở 32 châu cùng nổi dậy hưởng ứng, đó là một vùng rộng lớn vượt ra ngoài phạm vi của Hoan Châu (vùng Nghệ -Tĩnh) bao quát gần như cả lãnh thổ nước ta khi đó, một số châu ki mi ở miền núi và có thể là một phần đất nay thuộc nam Trung Quốc.

Để tăng cường lực lượng trong cuộc chiến chống giặc Đường, Mai Hắc Đế còn cho người đi thông hiếu với một số nước láng giềng và thu được kết quả tốt.

Sách Tân đính hiệu bình Việt điện u linh viết: “Năm sau, năm Giáp Dần (713), Tiết Anh, Hoắc Đan phụng chỉ của Mai Thúc Loan đi tuyên dụ hai nước phiên. Hai nước phiên này lâu nay bị khổ nhục vì nhà Đường, đến nay thấy nhà vua cáo dụ, đều nghe theo mệnh lệnh. Vua Lâm Ấp Phạm Hồ Dĩnh sai tướng Chư Hương An đem quân 10 vạn. Vua Chân Lạp là Hề A Khiêm sai tướng là Tham Ninh Na đem quân 10 vạn đến hội với quân ta. Nhà vua vì có người phương xa đến chầu ở triều đình, cho nên uy danh càng sáng tỏ. Người nhà Đường, kẻ nào kẻ nấy dần dần bỏ trốn về Trung Quốc”.

Về việc liên minh quân sự này, các tư liệu chép khác nhau, có sách viết rằng nó diễn ra trước khi cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan giành thắng lợi, có sách chép diễn ra khi cuộc khởi nghĩa đã gần thắng lợi và sau đó quân đội nước ngoài còn ở lại cho đến khi vương triều họ Mai sụp đổ.
Ngoài ra một số tư liệu còn cho biết thêm có cả quân của nước Kim Lân đến hỗ trợ cho Mai Thúc Loan (Kim Lân được một số nhà nghiên cứu cho rằng là một vương quốc cổ là vùng đất ngày nay thuộc Malaysia).

Sử sách Trung Quốc cũng ghi chép về liên minh quân sự này: “An Nam có Mai Thúc Loan làm phản, xưng Hắc Đế, dấy dân chúng 32 châu, bên ngoài liên kết với các nước Lâm Ấp, Chân Lạp, Kim Lân, chiếm giữ vùng Hải Nam, quân chúng có 40 vạn” (Tân Đường thư), “thủ lĩnh An Nam là Mai Huyền Thành làm phản, tự xưng Hắc Đế cùng nước Lâm Ấp, Chân Lạp thông mưu hãm An Nam phủ” (Phủ nguyên quy)…

Có thể thấy Mai Thúc Loan chính là người đầu tiên trong lịch sử Việt Nam có chủ trương và thực hiện thành công việc liên minh với các nước láng giềng trong cuộc chiến chống xâm lược, bảo vệ chủ quyền đất nước. Điều này đã được các triều đại sau này kế thừa, học tập như trường hợp liên minh Đại Việt- Champa thời Trần trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông, hay liên minh giữa nghĩa quân Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo với quân của nước Ai Lao (thuộc lãnh thổ Lào ngày nay).

3. Mai Hắc Đế tên thật là gì?

Sử sách thường ghi rằng Mai Hắc Đế tên thật là Mai Thúc Loan, nhưng thực ra Thúc Loan chỉ là tên tự của ông. Trong sách Tân đính hiệu bình Việt điện u linh có viết về câu chuyện sinh hạ thần kỳ và nguồn gốc tên gọi của ông như sau:

“Khi sinh nhà vua, bà mẹ nằm mộng thấy một người thiếu phụ mình mặc áo đỏ, tự xưng là Xích Y sứ giả, tay cầm một viên ngọc kê sơn bích, nói rằng: “Cho bà cái này, nên dùng làm vật báu”. Bà Vương Thị xem viên ngọc ấy thì thấy giống quả trứng gà nhưng to hơn, năm sắc óng ánh lóe cả mắt, bèn giơ tay đón lấy, bỗng nhiên cầm hụt, ngọc rơi xuống đất vỡ tan, nhân đó giật mình tỉnh dậy.

Khi sinh ra, ở đùi trái Thúc Loan có vết xanh đen giống như một đồng tiền. Mẹ Thúc Loan đem chuyện trong mộng nói với cha Thúc Loan. Cha cậu lấy làm lạ bèn giải thích rằng ngọc nhận ở tay bỗng nhiên rơi xuống đất vỡ tan, bắn tung tóe, có tiếng kêu vang vang, đó là cái ý tiếng tăm vang dậy, chấn động người đời, còn con gà đứng đầu loài có cánh, lại có thêm năm sắc lóe mắt, dùng để làm vật báu, có cái điềm lành của con linh điểu mang năm đức tốt. Ông bèn đặt tên cho chú bé mới sinh là Phượng, tên tự là Thúc Loan. Đó là để ghi lại cái điềm được thấy ở trong giấc mộng vậy”.

Như vậy Mai Hắc Đế tên thật là Mai Phượng, tên tự là Thúc Loan. Tên tự là tên theo âm Hán Việt hay còn gọi là tên chữ do một cá nhân tự đặt cho mình, cũng có khi là do bậc bề trên đặt cho. Tên tự dựa vào nghĩa của tên chính (tên húy) hoặc có ý nghĩa liên quan đến tên chính hay chứa đựng tên chính và việc dùng tên này thường để xưng hô với bạn bè, người ngang vai.

Trong thư tịch cổ của Trung Quốc phần lớn cũng đều chép Mai Hắc Đế tên là Mai Thúc Loan, chỉ có một số ít sách như Cựu Đường thư viết tên ông là Mai Huyền Thành hay Tân Đường thư (phần Khảo chứng) viết là Mai Nguyên Thành.

4. Vương triều của Mai Hắc Đế tồn tại trong thời gian bao nhiêu năm?

Chính sử và hầu hết các tài liệu của nước ta từ bộ chính sử đầu tiên là Đại Việt sử ký toàn thư đến bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục của nhà Nguyễn đều dựa theo thư tịch Trung Quốc, chủ yếu là Đường thư mà viết rằng cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan nổ ra vào năm Khai Nguyên thứ 10 (tức năm 722) và sau đó không lâu nhà Đường cho quân sang đàn áp, cuộc khởi nghĩa nhanh chóng thất bại.

Tuy nhiên thực chất cuộc khởi nghĩa do Mai Thúc Loan nổ ra sớm hơn và tồn tại trong một thời gian dài. Theo sách An Nam chí lược do Lê Tắc biên soạn vào đời Trần trong thời gian sống lưu vong tại Trung Quốc, ở phần nói về viên tướng đã đàn áp cuộc khởi nghĩa chống Đường là Quang (Nguyên) Sở Khách thì năm Mai Thúc Loan nổi dậy là năm đầu niên hiệu Khai Nguyên, mà theo lịch thì đó là năm Qúy Sửu (713), đoạn viết đó như sau: “Nguyên Sở Khách, người Giang Lăng, năm đầu niên hiệu Khai Nguyên đổi làm An Nam đô hộ, cùng Dương Tư Húc dẹp yên cuộc nổi loạn của người Man là Mai Thúc Loan”.

Đặc biệt trong cuốn Tân đính hiệu bình Việt điện u linh cũng chép rõ ràng về thời điểm Mai Thúc Loan khởi nghĩa, chiếm châu huyện và xưng đế là vào “năm Quý Sửu mùa hạ, tháng tư, vào thời Đường Huyền Tông, niên hiệu Khai Nguyên thứ nhất”.

Sau thắng lợi, Mai Thúc Loan đã xưng đế, xây dựng kinh đô tại vùng Sa Nam (nay thuộc Nam Đàn, Nghệ An) thuộc trị sở của châu Hoan và đặt tên kinh đô là Vạn An như một cách đối chọi lại với kinh đô Trường An của nhà Đường. Ngoài ra xung quanh kinh đô là hệ thống các đồn lũy, căn cứ hỗ trợ, bảo vệ là Vệ Sơn, Hùng Sơn, Liên Sơn…

Hiện nay các địa danh ở vùng Sa Nam như Cồn Trận, Đồng Bắn, đồi Guông Cung, Cồn Ngự, truông Cắm Cờ… phản ánh phần nào quy mô cũng như sự bố trí lực lượng của Mai Thúc Loan. Để quản lý điều hành, ông còn thiết lập bộ máy quan lại gồm hai ban văn thần, võ tướng.

Chính quyền của Mai Thúc Loan tồn tại đến năm Qúy Hợi (723), sau khi nhà Đường cho một lực lượng lớn kéo sang đàn áp, kinh đô Vạn An thất thủ, các vua triều Mai lần lượt tử trận trong năm này. Riêng về Mai Thúc Loan, sách Tân đính hiệu bình Việt điện u linh viết: “Nhà vua dấy binh năm Qúy Sửu, mất năm Nhâm Dần, ở ngôi báu mười năm rồi chết”.

5. Biệt danh của các vua triều Mai

Triều Mai tồn tại gần 10 năm, truyền qua 3 đời vua. Điều thú vị là các vị vua của vương triều này đều có biệt danh

- Mai Hắc Đế: Có tài liệu nói sau khi lên ngôi hoàng vua, Mai Thúc Loan xưng là Mai Đại Đế, nhưng dân gian vẫn quen gọi ông là Mai Hắc Đế (vua đen họ Mai) vì ông có nước da màu đen. Nhiều tài liệu dã sử, truyền thuyết, thần tích đều viết tương tự như vậy khi cho rằng Mai Thúc Loan đặt hiệu là Mai Hắc Đế.

Trong bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục có viết: “người Mai Phụ, huyện Thiên Lộc, thuộc Hoan Châu, bây giờ thuộc huyện Can Lộc, phủ Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Thúc Loan người đen lắm nên người Hoan Châu gọi là Hắc Đế”.

Các thư tịch, sách sử cổ của Trung Quốc cũng viết rằng: “Khai Nguyên năm đầu, thủ lĩnh An Nam Mai Huyền Thành làm phản, tự xưng Hắc Đế” (Cựu Đường thư), “Khai Nguyên năm đầu, thủ lĩnh người Man ở An Nam (An Nam Man cừ) là Mai Thúc Loan làm phản, xưng Hắc Đế” (Tân Đường thư), “Khai Nguyên năm đầu, thủ lĩnh An Nam Mai Thúc Loan làm phản, xưng hiệu Hắc Đế” (Quảng Tây thông chí)…

Tuy nhiên cũng có cách giải thích khác, theo sách Tân đính hiệu bình Việt điện u linh: “Mai Thúc Loan bèn đem quân chiếm châu thành, chia quân đóng giữ. Quân thần đến mừng đều xin Mai Thúc Loan lên ngôi báu. Mai Thúc Loan bèn lên ngôi hoàng đế ở phía nam Hương Lãm, tự cho mình là đức “thủy”, xưng là Hắc Đế”.

Theo thuyết Ngũ hành, Dịch lý thì màu đen tượng trưng cho nước, mà Mai Thúc Loan vốn xuất thân ở gia đình nấu muối vùng ven biển nên có thể ông tự cho là mang tính chất của nước.

- Mai Thiếu Đế: Tên thật là Mai Thúc Huy, con út của Mai Hắc Đế, sau khi vua cha mất, kinh đô Vạn An thất thủ, tướng sĩ đã tôn ông lên làm vua kế vị tại căn cứ Hùng Sơn còn gọi là núi Đụn (nay thuộc thị trấn Nam Đàn, Nghệ An) vào giữa tháng 9 năm Qúy Hợi (723). Mai Thúc Huy lên ngôi khi còn nhỏ tuổi nên được gọi là Mai Thiếu Đế (Hoàng đế trẻ con, Hoàng đế nhỏ tuổi).

- Bạch Đầu Đế: Ông tên thật là Mai Kỳ Sơn, con thứ 3 của Mai Hắc Đế. Tháng 10 năm Qúy Hợi (723), khi nghe tin căn cứ Hùng Sơn thất thủ, em trai là Mai Thiếu Đế tử trận nên ông được nhân dân tôn lên làm vua ở Điều Yêu (nay thuộc An Hải, huyện An Lão, Hải Phòng) để tiếp tục lãnh đạo cuộc chiến chống giặc Đường ở vùng duyên hải miền Đông Bắc. Do có mái tóc bạc bẩm sinh nên nhân dân thường gọi ông là Bạch Đầu Đế (Hoàng đế đầu bạc).

6. Số phận các vua triều Mai

- Mai Hắc Đế: Truyền thuyết, dã sử không thống nhất khi nói về cái chết của Mai Hắc Đế, có thuyết nói ông bị tướng giặc là Dương Tư Húc chém cụt đầu tại Hùng Sơn, thuyết khác cho rằng ông bị giặc sát hại khi chúng chiếm được kinh đô Vạn An, thuyết thì nói ông bị thương được quân lính đưa lên căn cứ Hùng Sơn thì mất, thuyết thì cho rằng khi rút lên Hùng Sơn, ông bị rắn độc cắn mà qua đời.

Sách Tân đính hiệu bình Việt điện u linh cho biết vua đã tử trận: “Vua nhà Đường nghe tin Mai Hắc Đế chống lại mệnh lệnh của mình, bèn sai quan thị nội Dương Tư Húc làm chức Tả giám môn vệ tướng quân, Quang Sở Khách làm Đô hộ phủ, đốc suất 75 doanh thủy bộ, người ngựa hơn 30 vạn, hai đường thủy lục cùng tiến, xâm phạm vào thành Long Biên. Quan và tướng của Mai Hắc Đế bị thua trận, quân chết không kể xiết. Người nhà Đường thừa thắng đến vây bức phủ thành của nhà vua. Nhà vua bị hãm trận mà chết. Quốc thống nước ta lại dứt”.

Còn theo sách sử của Trung Quốc thì quân giặc đã sát hại ông khi chúng tấn công nghĩa quân, cho dù cách viết có khác nhau: “Sai Tư Húc đem binh đánh dẹp. Tư Húc đến Lĩnh Biểu, chiêu mộ con em các thủ lĩnh được binh mã hơn 10 vạn, theo đường cũ của Phục Ba mà tiến đánh xuất kỳ bất ý. Huyền Thành nghe tin sợ hãi, không kịp đề ra mưu kế, nên bị quan quân bắt, chém tại trận, giết hết bọn chúng, chất thây làm kình quán rồi rút về” (Cựu Đường thư); “[Khai Nguyên] năm thứ 10, tháng 7, người An Nam là Mai Thúc Loan làm phản, bị giết” (Tân Đường thư)…

- Mai Thiếu Đế: Theo dã sử và truyền thuyết địa phương ở Nghệ An thì khi vua cha mất, Mai Thiếu Đế giữ căn cứ Hùng Sơn để ngăn giặc, chống trả quyết liệt các đợt tấn công của quân Đường. Cuối cùng do lực lượng quá chênh lệch, căn cứ Hùng Sơn thất thủ, Mai Thiếu Đế bị tướng giặc Dương Tư Húc giết chết, mấy ngàn binh sĩ còn lại chiến đấu đến sức lực cuối cùng và đều tử tiết vì đất nước.

Hiện nay tại xã Vân Diên, huyện Nam Đàn (Nghệ An) vẫn còn miếu mộ vua Mai Hắc Đế và Mai Thiếu Đế.

- Bạch Đầu Đế: Khi lên ngôi, ông cùng chị gái là Mai Thị Cầu (Ngọc Chân công chúa) lấy Điều Yêu làm căn cứ đánh giặc. Về sau trong một trận đánh cuối năm Qúy Hợi (723), Mai Kỳ Sơn trúng tên độc mà mất, chị ông cũng uống thuốc độc rồi nhảy xuống một lạch nước tự vẫn, đó là vào ngày mồng 7 tháng Chạp.

Hiện mộ của Bạch Đầu Đế và bà Mai Thị Cầu ở xã Quốc Tuấn, huyện An Hải (Hải Phòng) vẫn được nhân dân chăm sóc, hương khói.

Dù còn một số vấn đề về cuộc khởi nghĩa Hoan Châu do Mai Thúc Loan lãnh đạo và vương triều do ông thành lập cần làm sáng tỏ, xác minh và cần tiếp tục nghiên cứu thêm nhưng những được biết cho thấy vai trò quan trọng của Mai Thúc Loan và quy mô lớn lao của khởi nghĩa Hoan Châu trong thời chống Bắc thuộc, giải phóng đất nước, giành độc lập dân tộc.
Lê Thái Dũng

viethoaiphuong
#31 Posted : Tuesday, January 25, 2011 12:41:49 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)

Thượng tướng Trần Khát Chân

Ông thuộc dòng dõi Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng, một danh tướng trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông ở thế kỷ13. Cũng theo sử cũ, Trần Bình Trọng thuộc dòng dõi Thập đạo tướng quân Lê Hoàn, người sáng lập nhà Tiền Lê thế kỷ 10. Như thế, Trần Khát Chân gốc họ Lê ở Châu ái.

Văn bia xã Tương Mai ghi năm Thuận Thiên thứ 3 (1430) cho biết ông sinh ngày Tân Sửu, tháng Chạp, năm Thiệu Khánh thứ nhất (1370).

Năm Kỷ Tỵ (1389), quân Chiêm Thành vào cướp Thanh Hóa, Hồ Quý Ly đem quân đi chống cự. Bị thua, Quý Ly trốn về Thăng Long. Thượng hoàng Trần Nghệ Tông bèn sai Trần Khát Chân làm tướng đem quân đi chặn đánh giặc đang theo đường sông Hồng tiến về Thăng Long. Ông "vâng mệnh, khảng khái rỏ nước mắt lạy tạ rồi ra đi". Thượng hoàng cảm động cũng khóc, lấy nước mắt tiễn đưa.

Quân Đại Việt đến Hoàng Giang thì gặp địch. Ông liệu nơi ấy không thể đánh nổi nên rút lui về phục binh ở ngã ba sông Hải Triều và sông Nhị Hà. Ngày 23 tháng Giêng năm Canh Ngọ (1390), thuyền địch đi qua đấy, ông tập trung hỏa pháo bắn vào thuyền vua Chiêm Thành là Chế Bồng Nga. Bồng Nga chết tại trận, quân Chiêm tan tác như rắn mất đầu, vội rút về nước không dám gây sự nữa. Chiến công này đã cứu Thăng Long khỏi tai họa bị tàn phá. Ông được phong làm Long Tiệp Bổng thần Nội vệ Thượng tướng, tước Vũ tiết quan Nội hầu và được ban thái ấp ở vùng Kẻ Mơ, phía nam kinh thành Thăng Long.

Năm 1399, thấy Hồ Quý Ly chuyên quyền, giết vua Trần Thuận Tông, ông cùng một số vương hầu nhà Trần mưu sát Hồ Quý Ly trong hội thề ở núi Đốn Sơn (xã Cao Mật, huyện Vĩnh Lộc). Việc bị bại lộ, hơn 730 người bị giết. Người đời truyền rằng khi sắp bị chém, Trần Khát Chân gào thét ba tiếng. Chết qua ba ngày sắc mặt vẫn như còn sống.

Tại nơi ông bị hành hình, sau có đền thờ ở làng Phương Nhai và ở sườn núi Đốn Sơn. Ba tổng Cao Mật, Bỉnh Bút, Nam Cai có tới 29 làng cúng tế. ở Thăng Long, dân vùng Kẻ Mơ cũng lập đền thờ, tạc tượng đá, dựng bia ghi nhớ công đức của ông. Hiện nay, ở Hà Nội có đường phố mang tên Trần Khát Chân.

Nguyễn Quang Ân
viethoaiphuong
#32 Posted : Wednesday, February 2, 2011 9:18:35 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
Andrée Marie VĨNH SAN con gái út vua Duy Tân tử nạn


Andrée Marie VĨNH SAN

Thứ bẩy, 29.1.2011 bà Andrée Marie Vĩnh San bị tử nạn do một vụ bùn lở tại Saint Denis, Réunion (Dom-tom Pháp quốc)

Andrée Marie Vĩnh San sinh ngày 1 - 12 - 1945 tại Saint-Denis. Bà là con gái út của Vua Duy Tân với bà vợ thứ ba - Ernestine Maillot.

Vua Duy Tân Vĩnh San là thiếu tá trong quân đội Pháp thời đệ chiến thứ Hai và đã có cuộc tiếp kiến với tướng De Gaulle về vấn đền Đông Dương và Việt Nam. Vua Duy Tân có dự định tháng ba 1946 (sau 30 năm bị lưu đày)sẽ cùng đi với tướng De Gaulle để về lại Việt Nam. Nhưng ngày 24.12.1945 Vua Duy Tân bay từ Paris qua Alger. Ngày 26.12.1945, trên đường bay từ Alger về đảo Réunion, lúc 18h30 - tới gần Bangui máy bay bị tai nạn. Vua Duy Tân và 2 phi công cùng 5 hành khách khác đều tử nạn.

Vào năm Vua Duy Tân Vĩnh San tử nạn, hai người con khác của Vua với bà Antier (vợ thứ hai)là Georges Bảo Ngọc Vĩnh San- 12 tuổi và Claude Bảo Vang Vĩnh San - 11 tuổi.

Tại La Réunion, Vua Duy Tân Vĩnh San trước khi ra nhập quân đội Pháp, ông làm nghề sửa máy thu thanh và chơi vô tuyến điện, có máy phát và thu thanh. Chính nhờ vậy mà Vua Duy Tân Vĩnh San là người đầu tiên ở đảo này nghe được và truyền tiếp lời kêu gọi kháng chiến Pháp ngày 18.6.1940 của tướng De Gaulle.


Claude Bảo Vang Vĩnh San và Andrée Marie Vĩnh San

PS.
Một vài hình ảnh lịch sử về Vua Duy Tân








(hình ảnh sưu tầm trong google)
Phượng Các
#33 Posted : Tuesday, January 22, 2013 11:48:57 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)


Tổng thống Ngô Đình Diệm
Phượng Các
#34 Posted : Tuesday, December 10, 2013 11:39:20 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)


Chân dung Trần Anh Tông (húy Thuyên, tên giả là Sủy) trong Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn chi đồ. Nguồn: Ngàn Năm Áo Mũ

Phượng Các
#35 Posted : Monday, February 2, 2015 2:14:02 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
Những ngày cuối cùng của vua Hàm Nghi


vua Hàm Nghi

Chỉ còn tiếng thông reo vi vút, nức nở trên từng con đường da diết xót thương một cuộc đời dằng dặc căm thù uất hận đó dài bằng sáu mươi năm biệt xứ.
Biệt thự Gia Long, nơi cụ ở được xây dựng trên khu đồi El-Biar mênh mông, vượt qua hàng trăm quả đồi thấp bé khác, chiếm lĩnh đỉnh cao chót vót cách thành phố Alger mười hai cây số. Trên quả đồi trùng điệp, những hàng thông, cũng như cây cổ thụ, những cành trĩu quả rải ra từng từng lớp lớp. Trong khu vườn nhỏ, có rất nhiều hoa, quanh ngôi đền trang trí Long, Lân, Qui, Phượng, có cầu qua suối róc rách đêm ngày. Xa xa cửa biển Alger lờ mờ xanh trắng lọt thỏm xuống tưởng chừng thăm thẳm vô tận. Chân trời mờ mịt như bức thành kiên cố, đã từ bao giờ, có lẽ từ đời đời kiếp kiếp vững chãi chặn đứng những lớp sóng hung hãn.
Mặt trời mọc ở phía ấy. Nấm mồ hướng về phía ấy. Phía ấy có Tổ quốc Việt Nam, có mảnh đất thân thương còn quằn quại dưới gót xâm lăng của bọn giặc Pháp Nhật. Phía ấy là khát vọng, là nỗi đau xót triền miên trên sáu mươi năm day dứt của người vừa nằm xuống.
Hương đã tàn từ lúc nào trên nấm mộ, mọi người ra về từ lúc nào, chỉ còn tôi đứng đó trước nấm mộ của người, vừa là bạn tâm tình, vừa là ông, là cha: cụ Hàm Nghi, một khuôn mặt yêu nước, bất khuất kiên cường đã từ giã cuộc đời uất hận. Ngày ấy, 24 tháng 12 năm 1943. Cụ thọ 74 tuổi.
Tôi vẫn đứng đấy, đầu óc lúc loãng ra khi đặc lại, mờ mờ ảo ảo, bâng khuâng nhớ đến giọng nói trầm trầm, nụ cười hiếm hoi mà khắc nghiệt, nhớ đến những buổi hai ông cháu tha thẩn trong vườn lo lắng bàn bạc đến số phận và tương lai đất nước.
Tôi vẫn đứng đấy, tâm hồn phiêu diêu cùng cụ bay về những cánh đồng vàng ối hay xanh rờn, về núi Ngự sông Hương, về Hà Nội thân thương có hồ Hoàn Kiếm, có giải sông Hồng đỏ lòm máu giặc thuở nào.
Quê hương ơi! Chỉ có quê hương ta mới có những mái nhà tranh cổ sơ ấm cúng thơm thơm mùi trấu dấm theo dòng khói từ mái bếp tuôn lên.
Hỡi những chiếc cổng tre xiêu xiêu chờ đón những đứa con tha phương! Hỡi những chiếc cầu những con thuyền nằm phơi bến cũ! Ôi! Hết thảy, hết thảy quý giá vô cùng. Hết thảy gợi lên nỗi nhớ nhung quê hương da diết. Biết bao giờ mới được thấy lại mùi mồ hôi chua chua tỏa ra từ những chiếc áo nâu sồng? Hay mùi phân trâu hăng hắc sau trận mưa giông?
Bỗng bà Hàm Nghi và Minh Đức, con trai bà đến dẫn tôi lên nhà cách đó vài trăm thước. Chúng tôi lặng lẽ đi.
Đám tang cụ Hàm Nghi tổ chức theo nghi lễ và tập quán Việt Nam. Cụ mặc áo gấm vàng, chít khăn đỏ. Vải vóc này lấy ra từ trong những chiếc hòm vuông sơn son thếp vàng từ thời xưa. Vải có đủ loại: gấm, vóc, đoạn, the v.v… cuộn tròn từng cây có ghi tên người tặng: Trần Văn Thống, Trần Tấn Bình, Bùi Quang Chiêu v.v… nhưng không bao giờ dùng đến.
Ban đầu, việc chôn cất có bất đồng ý kiến. Bà Hàm Nghi muốn đưa ra nghĩa trang, tôi đề nghị chôn cất trong vườn gần lâu đài cho tiện việc thăm viếng. Hơn nữa, đưa ra nghĩa trang thì thế nào cũng có một thập tự giá đè lên nương hồn cụ! Bà hiểu ra, đã mau chóng nhượng bộ.
Đi đưa đám có đại diện của Chính phủ Pháp và một số ít bạn bè hầu hết là những nhà quý tộc lưu vong; những ông hoàng bà chúa Nga, Hà Lan, Anh, Pháp v.v… và rất đông người Việt. Một trung đoàn lính Việt đóng cách đó mười cây số bất chấp kỷ luật tự động nghỉ, kéo đến dự lễ tang. Bọn sĩ quan Pháp đành làm ngơ, còn ve vãn chia buồn. Chúng rất sợ tinh thần đoàn kết của người Việt. Ở một vài đơn vị tại Pháp, Madagascar, Alger đã xảy ra vụ đánh trói chỉ huy, vụ chiếm lĩnh một doanh trại tại Pháp, kéo cờ xanh sao đỏ hàng tuần và mấy vụ mổ bụng những người cam tâm làm tay sai cho Pháp, lấy gan tế cờ.
***
Sinh năm 1872 tên húy là Ưng Lịch, vua Hàm Nghi lên ngôi ngày 10/6 năm Giáp Thân (31/7/1884) vào lúc trong nước rối ren, quân Pháp luôn luôn tìm cách gây hấn! Trung tướng De Courcy được đưa sang làm Tổng trấn Trung Bắc kỳ quân vụ kiêm toàn quyền, là một tên hống hách ngang ngược làm cho triều đình và nhân dân ta vô cùng căm phẫn. Ngày 4-7, quân ta xông vào đồn Mang Cá đốt phá. Ông Tôn Thất Thuyết và Tôn Thất Liệt chia làm hai cánh phối hợp hành động, bắn đại bác sang sứ quán, nơi De Courcy và bè lũ đang tiệc tùng vui thú.
Phản ứng lại, quân Pháp đánh chiếm kinh thành. Ông Thuyết đưa vua và Tam cung (Bà Hoàng Thái Hậu Từ Dũ mẹ vua Tự Đức, bà Hoàng Thái Hậu Thuận Ý vợ vua Tự Đức, bà Học Phi vợ thứ vua Tự Đức) lên tạm trú ở Khiêm Cung, rồi đưa ra cửa Chương Đức, chạy lên ngã Thiên Mụ. Đạo Ngự gồm chừng một ngàn người.
Quân Pháp cướp được tám trăm mười hai đại bác, nhiều súng tay cùng gươm giáo. Theo phái viên hãng Havas đăng trên Le Tonkin de 1872 et 1886 của Jean Dupuis: “Trong năm ngày, tôi thấy chừng năm mươi người chuyên việc xếp chồng những thỏi vàng bạc. Vàng bạc ấy sẽ gửi về Pháp cùng các thứ bảo vật khác giá trị không thể tưởng tượng được”!
Trưa ngày 6/7/1885 xa giá đến Quảng Trị rồi lên Tân Sở tính mưu khôi phục. Đức Từ Dũ đòi trở về Huế, vua đành lạy tạ Tam cung rồi lên đường.
Tân Sở là nơi Tường và Thuyết lập nên để phòng việc thiên đô. Tân Sở nằm trên đường đi Lao Bảo - Mai Lãnh cách huyện Cam Lộ mười cây số, núi non hiểm trở. Từ hai năm về trước, hàng ngàn người dân phu đến đào hầm đắp lũy xây dựng cung điện trại lính, kho tàng. Lương thực từ các tỉnh Bắc Kỳ, Cửa Việt tải đến Tân Sở để phân phát đi các nơi.
Vua ra Hịch Cần vương kêu gọi toàn quốc đánh Pháp. Hịch Cần vương truyền đi một mồi lửa ném vào đống rơm được đông đảo triều thần, thân hào nhân sĩ và nhân dân nhiệt liệt hưởng ứng. Khắp nơi nô nức mộ quân, đứng lên chống giặc làm cho Pháp vô cùng lúng túng.
Suốt hai năm Bính Tuất và Đinh Hợi cho tới khi bị bắt, vua Hàm Nghi ẩn náu ở miền thượng lưu sông Gianh thuộc Tuyên Hóa (Quảng Bình) với các cận thần Tôn Thất Đạm, Tôn Thất Liệt, Lê Trực, Nguyễn Phạm Tuân v.v… và chừng ba ngàn quân.
Ngày 26 tháng 9 năm Mậu Tý, tên Nguyễn Đình Tính và tên Ngọc là hai hầu cận nhà vua ra đầu thú. Chúng vâng lệnh giặc Pháp dẫn hai mươi thủ hạ đến Tà Bao là nơi vua trú ẩn, đang đêm đột nhập. Tôn Thất Thiệp liều mình bảo vệ nhà vua đã bị chém trúng ngực chết ngay. Một đứa lách ra sau lưng ôm lấy nhà vua, đứa khác quỳ xuống đọc lá thư của đại úy Boulangier xin rước vua về kinh.
Sáng hôm sau 3/11/1888 chúng đưa nhà vua về đồn Thanh Lạng, được ít lâu chúng đưa nhà vua xuống tàu La Comète vào Sài Gòn, rồi đáp tàu Biên Hòa cập bến Alger ngày 13/1/1889. Hàng năm Nam triều trợ cấp hai mươi lăm ngàn quan, và cứ ba năm thay một người phục vụ.
Bà Blanche con viên đại tá tư lệnh Alger kể lại rằng:
“Vào một buổi chiều, tàu Biên Hòa cập bến, chờ làm thủ tục, tôi theo cha tôi ra đón ông Hoàng nhỏ bé ấy. Không hiểu sao tôi cảm thấy một nỗi buồn man mát động lòng trắc ẩn. Dưới bóng chiều chợp chờn, con tàu nhả khói phì phì dường muốn trút vơi nỗi nhọc nhằn trong cuộc hành trình. Một bóng đen nho nhỏ tựa vào lan can, đăm đăm nhìn ra phía chân trời. Người nghĩ gì? Điều chắc chắn là nỗi căm hờn người Pháp chúng tôi đang hừng hực dâng lên như những lớp sóng vô tận đuổi nhau ra khơi chẳng hay có về đến tổ quốc thiêng liêng của Người không?
Nỗi bất bình chiếm lĩnh trí óc tôi. Lòng thương vô hạn con người nhỏ bé ấy sớm bị nanh vuốt cú diều cuỗm đi xa tổ ấm, xa bầu đàn, xa những người thân càng làm tôi băn khoăn thao thức. “Ta phải sửa chữa lỗi lầm này!” Cha tôi chế nhạo tôi đến phát khóc, nhưng cũng khen tôi có trái tim vàng.
Tôi yêu cầu cha tôi đề bạt với phủ toàn quyền cho tôi được trông nom săn sóc người và đã được chấp thuận. Tôi từ bỏ ý định tiếp tục khoa luật, quanh quẩn bên con chim nhỏ bé của tôi. Buồn thay! Con chim ấy đã quên tiếng hót, âm thầm như cá chép (muet comme une carpe - ngạn ngữ Pháp) không nói năng đòi hỏi gì. Tình trạng ấy kéo dài mấy tháng, tôi xoay xở đủ cách cũng vô hiệu.
Một buổi nào đó, trăng luồn song cửa, ôi! Trăng kia mơ màng ảm đạm làm sao. Tôi ngồi trước dương cầm. Xin giới thiệu tôi là một nhạc công tồi, nhưng lúc ấy tôi cảm thấy cây đàn run run lên, dìu dặt ai oán. Nỗi buồn lướt trên phím như tiếng nức nở của con tim, khi vút lên căm hờn sôi sục. Tôi không nhớ đã chơi bản nhạc nào, điều đó không quan trọng. Đây là khúc nhạc lòng tôi, tấm lòng vị tha đầy nỗi bất bình và thương cảm.
Tiếng đàn dứt, tôi ngoảnh lại thấy người đứng sau tôi, cặp mắt long lanh. Tôi hỏi: Hoàng tử có ưa không? Người gật đầu. Có thích học đàn không? Người lại gật đầu. Tôi sung sướng, hôn người, từ đó con cá chép của tôi mở miệng. Có lẽ đó là hạnh phúc lớn nhất của đời tôi...
Vì sao người từ bỏ ngai vàng? Nếu người thuận theo trở lại ngôi báu thì người Pháp chúng tôi vui mừng biết chừng nào. Vì người được toàn dân sùng bái, toàn thể sĩ phu tôn thờ. Tôi hiểu rằng lòng yêu tổ quốc, yêu quê hương, yêu gia đình, yêu đồng loại cao hơn chiếc ngai vàng nhỏ bé. Tôi yêu nước Pháp tổ quốc tôi, nên rất trọng những người yêu mến tổ quốc họ”.
***
Người ta quen gọi cụ là ông Hoàng Annam (Le Prince d’Annam). Cụ Hàm Nghi có hai gái một trai. Cô chị Như Mai thạc sĩ canh nông, không lấy chồng để “trọn đời tưởng nhớ đến ba tôi”. Như Lý lấy một đại tá không quân dòng dõi hoàng tộc Bỉ. Minh Đức là con út, đại úy chiến xa trong quân đội Pháp, khi cụ mất được gọi về. Còn hai chị ở Canne, lâu đài De Losse, không sang chịu tang được vì nước Pháp đang bị Đức chiếm đóng.
Cụ tặng tôi một bức tranh thủy mặc mực tàu có đề thơ và một thanh bảo kiếm.
Cụ quan tâm theo dõi tình hình đất nước, thường băn khoăn chưa tìm được kế sách giúp ích cho tổ quốc. Chưa bao giờ cụ nhắc lại quá khứ lịch sử mà chỉ hỏi tôi về đất nước, dân tình, về phong trào và triển vọng. Có lần cụ hỏi tôi về ông Nguyễn Ái Quốc, nào tôi có biết được là bao! Cụ hỏi tôi về Bảo Đại. Tôi khá rõ Bảo Đại là tay thiện xạ cưỡi ngựa, giỏi tiếng Pháp hơn tiếng mẹ đẻ và rất thạo khiêu vũ. Nghe tôi kể, cụ cười nhẹ: nó là con rối. Đó là nụ cười hiếm hoi. Trong bốn năm tiếp xúc với cụ có lẽ mới thấy cụ chỉ cười đôi ba lần, lại là cái cười châm biếm mỉa mai.
Cụ sống giản dị. Quần áo đều tự may lấy theo kiểu cổ Việt Nam. Cụ để búi tóc củ hành cho tới khi mất. Suốt những năm tháng đó cụ quên mình trong điêu khắc, hội họa và âm nhạc. Nhiều lần triển lãm mỹ thuật họ mời cụ tham gia tác phẩm, cụ đều từ chối. Cụ soạn nhạc hoặc vẽ là để nung nấu tâm hồn u uất và thất vọng. Cụ chỉ đàn khi nào trong lâu đài mênh mông kia không một bóng người. Có lần tôi đến thăm thấy cụ đang say sưa đàn. Hình ảnh một cụ già rất Việt Nam thấp thoáng bên chiếc dương cầm bóng lộn khiến tôi liên tưởng đến ông nội tôi hay một cụ đồ nho khom lưng viết câu đối Tết. Tôi dốt âm nhạc chỉ nghe thấy cây đàn khi nức nở thánh thót, khi bão bùng. Dứt tiếng đàn, cụ dang rộng hai tay đặt trên cây đàn đăm đăm suy nghĩ. Tâm hồn cụ đang bay bổng theo tiếng đàn và đất nước quê hương chăng?
Cụ không có bạn, ít muốn tiếp xúc với ai. Một lần vợ chồng toàn quyền Catroux, lần khác tướng Givand - Tổng thống lâm thời Pháp với De Gaulle đến thăm, cụ đều thoái thác đi vắng, cho tôi thay mặt tiếp. Cụ nói: họ đến với tôi vì tò mò. Bà Foltz là người bạn duy nhất của cụ. Hình như số mệnh đã dắt bà đến với cuộc đời ảm đạm của cụ Hàm Nghi, bà là niềm vui, là chút ánh sáng trong cuộc sống hàng ngày của cụ.
Bà Foltz kém cụ mười lăm tuổi, cháu ngoại dòng chánh thống De Bourbon. Ông thân sinh ra bà là một nhân vật tăm tiếng ở Thụy Sĩ. Bà là một nhà văn. Cũng như bà Blanche không lấy chồng. Người ta không thể hiểu được sức mạnh nào đã lôi cuốn bà ra khỏi chiếc lâu đài cổ kính, đồ sộ nhất Thụy Sĩ mà bà thừa kế, để sang Alger này ngày hai buổi đến dùng trà và chăm sóc sức khỏe của cụ Hàm Nghi.
Tình yêu chăng? Tôi được bà thương yêu như con cũng chưa bao giờ bà hé nửa lời tâm sự. Sự cách biệt về tuổi tác, nhất là lòng mến yêu của bà Hàm Nghi không cho phép tôi được nghĩ đến điều đó. Bà Foltz chỉ nói sơ qua là bà gặp cụ trên bãi biển hồi bà 11 tuổi. Sau mấy năm du học ở Londres và bà sang ở Alger.
Chớ đụng đến nước Annam và người Annam trước mặt bà! Trong một buổi tiệc trà; mụ vợ toàn quyền Catroux muốn lấy lòng bà đã ca ngợi hết lời xứ Annam văn minh: “Tôi kính cẩn nghiêng mình trước dân tộc Annam” (Je m’incline devant la race Annamite”; Tiệc tan, tôi nói với bà Foltz: “khi vợ chồng Catroux ở Đông Dương, chúng đã giết hại hàng ngàn người”. Bà nổi giận ra lệnh ngay cho cô quản gia (gouvernante) Lola xóa tên mụ trong danh sách khách mời đến dự tiệc của gia đình.
Tôi không rõ được xu hướng của chính trị của bà thế nào, có lẽ xu hướng duy nhất là tình người; là lòng nhân đạo, là lẽ phải (bon sens). Bà phẫn nộ khi tôi kể lại tình cảnh sống dở chết dở của người Đông Dương. Thực ra bà còn hiểu biết hơn tôi. Chính bà đã lục trong tủ sách của cụ Hàm Nghi đưa tôi cuốn “Bản án thực dân” (Procès de la colonisation Francaise) của ông Nguyễn Ái Quốc và “Đông dương cấp cứu” của bà Andrée Violla. Bà còn đưa một cuốn không rõ có phải “Con rồng tre” không, tôi đã bỏ qua không đọc vì thấy một bản in li-tô nhòe nhoẹt, cho là chuyện tầm thường, chỉ nhớ mang máng ngoài bìa có một khóm tre, có những chữ to đậm nét như những dóng tre thôi. Nếu đúng là “Con rồng tre” thì đáng tiếc vô cùng. Vào năm 1945, bà đưa cho tôi một trang phụ lục báo đăng chi chít ảnh chụp cảnh chết đói trong nước ta hồi đó. Bà hỏi tôi: anh muốn gì? Cần tiếp xúc với ai, khó khăn mấy tôi cũng làm hết mình miễn là có thể đem lại điều gì tốt lành cho đất nước anh. Bà đã giới thiệu tôi gặp nhà lãnh tụ Cộng sản Vaillant Couturier, bà Viols và cả René Flévon thượng thư bộ thuộc địa để yêu cầu một số chính sách chế độ đối với binh sĩ Việt Nam.
Năm 1947, hồi tôi còn ở Sài Gòn, bà viết thư bảo tôi trình bày với Chủ tịch Hồ Chí Minh, nếu Người cần chuyên gia, thuốc men dụng cụ y tế thì Thụy Sĩ sẵn sàng giúp đỡ. Hồi đó em bà, bà Sihumberger là Chủ tịch Hồng thập tự Quốc tế. Khi tôi ra tận chiến khu ngoài Bắc, tôi sơ suất bỏ qua, ngại không dám đề đạt.
Tôi nghĩ, chính cuộc đời sóng gió, lòng yêu nước và đức độ của cụ Hàm Nghi đã cảm hóa bà, bà đứng hẳn về phía Việt Nam. Sau khi cụ mất, tình thương yêu người Việt Nam càng sâu đậm. Có lần bà khóc mà nói: Tôi rất muốn anh sang Thụy Sĩ, lâu đài đó, vườn tược đó, tôi cần gì đến nữa. Về nước chắc chắn người Pháp sẽ làm khổ anh, nhưng tôi cũng rất muốn anh mau chóng trở về đất nước vì đó là nghĩa vụ, là nguyện vọng cao cả của anh.
***
Bọn xâm lược Pháp, kẻ thù của dân tộc, đã cút khỏi đất nước, nước nhà hoàn toàn độc lập. Cái hy vọng mong manh của cụ trông chờ vào ông Nguyễn Ái Quốc ngày nào đã trở thành hiện thực. Vậy mà cụ không được hưởng. Cụ không còn nữa! Chỉ còn một nấm mồ hoang tận phía trời xa. Mỗi lần qua phố Hàm Nghi, tôi lại thầm ước vọng, nếu như nắm xương tàn của cụ được trở về với núi Ngự sông Hương tưởng cũng xứng đáng và an ủi phần nào mảnh hương hồn của con người khí phách ấy.

Nguyễn Hải Âu
xv05
#36 Posted : Wednesday, May 13, 2015 9:31:44 PM(UTC)
xv05

Rank: Advanced Member

Groups: Registered, Editors
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 5,044
Points: 3,390
Woman
Location: Lục điạ hình trái táo

Thanks: 340 times
Was thanked: 45 time(s) in 44 post(s)
Tấm hình này bị mất ở Post # 26


Lễ cưới của vua Hàm Nghi (1904)
Phượng Các
#37 Posted : Sunday, June 26, 2016 3:59:46 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
Phim hiếm: có cả vua Duy Tân, Thành Thái, Bảo Đại, anh hùng Đề Thám

https://www.youtube.com/watch?v=yvT80KF1Ouc
Phượng Các
#38 Posted : Wednesday, June 7, 2017 5:37:05 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)


Phan Đình Phùng
lãnh tụ của Phong trào Cần Vương
Users browsing this topic
Guest
2 Pages<12
Forum Jump  
You cannot post new topics in this forum.
You cannot reply to topics in this forum.
You cannot delete your posts in this forum.
You cannot edit your posts in this forum.
You cannot create polls in this forum.
You cannot vote in polls in this forum.