Rank: Advanced Member
Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC) Posts: 18,432 Points: 19,233 Location: Golden State, USA Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
|
(chưa sửa dấu khi hoán chuyển)
LỆ KHÁNH Một đời thơ gian truân bạc phận Tùy bút M.H.Hồi Linh Phương
Trong nhịp sống xứ người hối hả, tôi đã nhiều lần đuối sức, quỵ ngã khi chạy theo vòng xe xuôi ngược để làm lại từ đầu đời mình một lần nữa. Tơi không còn giờ khắc nào để suy nghĩ suốt bao nhiêu năm ở trường từ sáng đến tối mù. Và cuối tuần thì tất tả một công việc part-time cho đời cơm áo... . Nhưng những buổi sáng sương mù co ro trong hơi lạnh đi đến lớp, nhìn hoa hồng rực rỡ trong vườn nhà ai, tôi bỗng nhớ Dalat đến thắt lòng, đến một nơi chốn thân quen, như một quê hương êm ấm để tìm về, ở đó... có những vạt hoa vàng trên đồi cao, lũng thấp, có những kỷ niệm một thời gắn bó, dấu yêu, và ở đó, còn một điều xé lòng để nhớ, Lệ Khánh, người chị văn nghệ đầy bất hạnh của tôi. Tơi muốn ủ lại, giữ kín thật sâu nỗi niềm riêng của chị. Sự phơi bày, với tôi là một điều không chấp nhận. Tội nghiệp cho chị và cho cả những người thân của chị. Nhưng, trong nỗi bất lực riêng tôi trước hòan cảnh bi thương của chị, sự tiếp tay đầu tiên của anh Vũ Uyên Giang, Chủ Biên Tạp chí Đất Sống, trích từ quỹ tương trợ của Đất Sống khoản tiền nhuận bút của anh em trong ban biên tập tự nguyện đóng góp gửi về cho chị, sau khi nghe tôi cho biết, từ một người quen, chị lâm trọng bệnh giữa cơn túng quẩn, ngặt nghèo, rồi kế đến là Tạp chí Tiếng Vang, đã lên tiếng xẻ chia những giọt nước mắt mặn đắng của một người thơ Dalat ngày xưa, cho tôi bớt những ngần ngại, phân vân khi viết lên những lời kêu cứu tuyệt vọng của chị. Tơi quen Lệ Khánh thật tình cờ. Thuở ấy tôi chưa đến 15 tuổi, mắt tròn xoe với hai bím tóc, còn ngậm ô mai, áo đầm trắng trường soeur, mang sandale như các nữ tu dòng Mến Thánh Giá, thường đăng thơ hàng ngày trên nhật báo Chính Luận, thì Lệ Khánh đã là một nhà thơ tên tuổi lúc bấy giờ, rất nhiều độc giả muốn làm quen, ái mộ. Chị làm việc ở Tòa Hành Chánh Dalat, mỗi năm thường về thăm quê ngoại ở Nha Trang. Ở đó chị có những người bạn văn nghệ học lớp Đệ Nhất C Võ Tánh, như Sao Trên Rừng, Sương Biên Thùy, Trăng Thệ Hải và... anh Duy - con nuôi của Ba Mẹ tôi. Đến một ngày chị khám phá ra anh Duy, bạn chị, có một cô em làm thơ vớ vẩn là tôi - rất chân tình, chị mừng rỡ, viết cho tôi chung cùng trong lá thư gửi cho anh Duy, khuyến khích tôi hãy làm nhiều thơ hơn nữa, từ nay chị sẽ có thêm tôi, một cô em nhỏ. (Lúc ấy, anh Duy đã vào Saigon học Văn Khoa và sống chung với gia đình tôi). Và chúng tôi liên lạc thư từ thường xuyên với nhau kể từ ngày đó... Hầu như lần nào từ Dalat về Saigon chị cũng ghé thăm tôi. Hai chị em lăng quăng đi phố, ăn quà vặt và kể chuyện đất trời. Chị thường mặc áo dài đen ẩn hoa tuyn mỏng. Ở chị có một cái gì hút xa, sâu thẳm. Chị có một thân hình đẹp, nếu khơng nói là hấp dẫn. Tôi nhận ra chị rất mượt mà, có gì là “Em là gái trời bắt xấu” như chị thường than thở đâu, mặc dù cái mũi bị gãy gập lại. Hay là tại tôi thương chị nên nhìn khuơ6n mặt chị tôi khơng cảm thấy một điều gì bất ổn. Chị không đẹp, nhưng cũng đâu có nghĩa là xấu. Chị nói đi cạnh Phương, chắc người ta tưởng Phương là... con chị. Tôi lúc lắc đầu. Trời ơi! Phương đâu có bé tí xíu đến vậy đâu - Phương không tin hả? Nhìn hình hai chị em chụp chung đây này. Giống y chang. Trong cái đầu ngây ngơ của tôi lúc ấy, chị cái gì cũng hay và giỏi. Kinh nghiệm, từng trải, từ chuyện thơ văn mơ mộng đến cả chuyện đời thường. Những lần vui đó, tiếng cười khua vang một góc phố, còn có Ngô Kim Thu, nhỏ bạn văn nghệ cũng tập tành viết văn, làm thơ con cóc như tôi. Thu cũng mê thơ Lệ Khánh, lên Dalat đi tìm chị, và chúng tôi trở thành ban tam ca Ba Con Chí Mén hăng say sáng tác tưng bừng gởi thơ đăng các báo. Nhưng có phải, không ai có thể đứng lại hòai bên một dòng sông cũ. Năm tháng đã trôi. Nụ cười đã tắt. Tôi được tin Lệ Khánh về hẳn ở Saigon, thuyên chuyển về làm việc ở Tòa Hành Chánh tỉnh Gia Định. Chị liều lĩnh đắm mình trong một mối tình ngang trái. Chuyện một màu alpha đỏ xưa đã là quá khứ. Và cháu Vũ Khánh Thục ra đời. Chị không có ai là họ hàng thân thuộc ở Saigon. Mỗi ngày tôi vào thăm chị ở bảo sanh viện Đức Chính, mang cho chị những thứ cần thiết, ru cho cháu Thục ngủ... Người đàn ông của chị tôi chỉ gặp một lần (Thuở ấy, lúc mới quen chị, chúng tôi có đi ăn tối cùng với Đinh Hùng, Phổ Đức, Nguyễn Thị Vinh, Động Đình Hồ ở một quán nhỏ bên Gia Định, và càfé Thu Hương khi đêm đã vào khuya...). Và sau đó, gần như cách vài tuần tơi gặp chị một lần. Chị sống một mình với con trên một căn gác nhỏ lợp tôn thuê ở một con ngõ sâu đường Nguyễn Huệ, Gia Định. Căn gác nóng hầm hập vào mùa hè đổ lửa. Chị bươn chải cô đơn trong cảnh đời phồn hoa xa lạ, xót xa nhìn con trẻ khóc, để thơ chị chỉ còn là những tiếng thở dài: Bây giờ mẹ chỉ có con Con thơ thơm sữa, mẹ mòn tuổi yêu. (Lệ Khánh) Tơi thương cảm sự nhẫn nhục của chị. Cơn mê đã tàn. Tình yêu đã tắt. Từ một cô con gái tiểu thư, con gái một Phó Ty Cảnh Sát Dalat, với nhà cao cửa rộng, chị đuổi theo một hạnh phúc mong manh, để bắt đầu một đời bạc phận, long đong... Những ngày trước 75, chị đã có một chỗ ở khang trang hơn, trong một cư xá công chức mới xây gần Tòa Hành Chánh tỉnh Gia Định mà chính phủ VNCH cho nhân viên trả góp. Đó là chút vốn liếng đầu tiên của chị sau khi lập gia đình. Nhưng chị nói với tôi, chị muốn về lại Dalat để ở gần Ba Mẹ chị, cho cháu Thục còn có ơng bà, và các dì, cậu. Đơn thuyên chuyển đã gửi đi, chị về lại Dalat, chưa kịp nhận nhiệm sở, thì Dalat mất. Chị lại cùng với gia đình di tản về lại Saigon, cùng với thời gian Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam rút quân. Mọi dự tính, ước mơ tan như bọt sóng. Về Saigon với hai bàn tay trắng, căn nhà cũ đã được bán đi trước khi về Dalat, chị nương náu trong một căn nhà trống trước, trống sau, gần như bỏ hoang trước đó của Ba chị dành cho. Nỗi khổ của chị gần như cũng giống với nỗi đau của những người điêu linh trong di tản, trong cái họa mất nước của tháng tư đen. Tại nơi này, tôi đã gặp vài người đàn bà quen chị, thuộc giới áp-phe, cũng là phu nhân của các vị sĩ quan trước 75. Chị nói với tôi họ giúp chị buôn bán, làm ăn. Nhưng chỉ vài tuần sau đó, căn nhà của chị bị nhà nước quản lý, và chị phải ăn nhờ, ở tạm một nơi khác. Từ đó, cuộc sống chị hòan tòan bất định. Tơi chỉ gặp chị nếu chị xuất hiện ghé thăm tôi. Cĩ việc gì cần tìm chị tơi khơng biết tìm ở đâu, vì chị nĩi mình đã ở nhờ nhà người ta mà cịn tiếp bạn bè, ngại lắm. Rồi bẵng đi một dạo, tơi phải rời thành phố để đi dạy học ở một miền xa, tơi khơng cịn biết tin tức gì về chị nữa. Bỗng một lần tơi ghé về thăm nhà, Ngơ Kim Thu cho biết, Lệ Khánh đang bị giam chung với một số văn nghệ sĩ can tội viết bài gửi đăng báo ở hải ngoại. Nhưng tội trạng của chị khác với mọi người, chị can tội hình sự, vì lường gạt tiền bạc theo đơn thưa. Tơi nghe trái tim mình nhĩi đau, quặn thắt. Định nệnh nào nghiệt ngã đã đẩy đưa người thơ Dalat với giọng thơ trữ tình chan chứa, thành một tội phạm giữa cảnh đời đá nát, vàng phai. Ngơ Kim Thu nĩi, chị khơng dám liên lạc với chúng tơi, cũng khơng dám nhắn về chị đang gian nguy, khốn khĩ vì tránh cho chúng tơi những hệ lụy. Cĩ một người đàn bà quen biết gia đình Thu được tha về, bị giam chung phịng với chị đã kể lại. Chị thật thà quá, chị khơng lường gạt ai hết, nhưng đã bị những tay áp-phe đầu nậu hất vào tù khi chuyện bể ra, bởi chị cùng chung băng nhĩm. Tơi chợt nhớ đến những người đàn bà tơi đã gặp ở Gia Định một ngày nào, vừa sau khi mất nước, mà rất vui mừng chị kể tơi nghe chị phải đi theo họ để học chuyện bán buơn... Chiều hơm đĩ, đi với Thu qua những con phố xưa, Saigon đã thay tên, chúng tơi đi trong Saigon mà nhớ Saigon. Nhớ đến chảy nước mắt khoảng trời mênh mơng cũ, Lệ Khánh tội tù, cịn tơi ngày mai lại trở về với kênh đào, nước đục, với đám học trị nơng thơn vừa đi học, vừa cấy lúa, nhà ở cách trường một con sơng, mỗi lần đi học, lội bì bõm, quần áo sạch phải cất vào trong cặp, đến lớp, mới chuẩn bị mặc vào. Tơi khơng tưởng tượng được, sự thống trị của CS đã đưa dân tộc ta trở về thời tiền sử, với thời đồ đá, đồ đồng với những phương tiện thơ sơ nhất... Chúng tơi nén để khơng bật thành tiếng khĩc bởi Ngơ Kim Thu và tơi, hai đứa khơng biết phải giúp Lệ Khánh bằng cách nào, trong khi chúng tơi cũng mù mịt tương lai, tuổi trẻ chúng tơi chìm vào tối tăm khơng lối thốt... Tơi vẫn tiếp tục cuộc đời cơ giáo nhỏ, bị lưu đày ở một nơi nước mặn đồng chua vì mang lý lịch “Con gái Ngụy Quân”, vài tháng tạt về nhà đơi lần mang cho Mẹ miếng đường mía, mang cho em chút gạo trắng tiêu chuẩn dành dụm chắt chiu. Một ngày cuối năm 1978, trong một lần về thăm Mẹ, Mẹ tơi cho biết chị Lệ Khánh vừa đến tìm tơi. Chị đang ở vùng kinh tế mới, gánh củi về để bán. Khơng gặp tơi, chị được Mẹ tơi giữ lại, nhưng chị khơng ở, ăn xong bữa cơm chị đi ngay. Mẹ tơi lắc đầu, tội nghiệp quá! Chị đã thực sự bước vào đời lao động sau khi ra tù. Những ngĩn tay trần bây giờ khơng phải để làm thơ, để ca ngợi một màu áo chiến, mà phải đốn tre, xẻ gỗ để tìm miếng cơm, manh áo. Tơi hỏi Mẹ tơi, rồi chị cĩ nĩi bao giờ chị trở lại nữa khơng. Mẹ tơi lắc đầu, Mẹ cĩ nĩi, con đã đi làm xa, lâu lâu mới về, nên Lệ Khánh khơng hẹn sẽ gặp lại. Bởi vì tơi và chị thân nhau, nên từ một thuở nào, chị hịa nhập như một thành viên trong gia đình. Ba Mẹ tơi thương chị. Các em tơi quý chị. Bất chợt chị đến, ăn ngủ và ra đi đĩ là chuyện thường. Nhà tơi, khơng ai thắc mắc. Cĩ tơi, chị ở lại vài hơm. Vắng tơi, chị vẫn ân cần chuyện trị với những người thân tơi, như một đứa con xa lưu lạc... Khi tơi quyết định bỏ việc, về lại Saigon, vì Mẹ tơi mỗi ngày một yếu, các em tơi cịn nhỏ khơng đảm đang nổi trước sau. Ba tơi đã mất trong gơng cùm ở trại giam Yên Bái, Hồng Liên Sơn, cũng là lúc tơi gặp lại chị Lệ Khánh. Chị vẫn ở vùng kinh tế mới. Biết chị là một cơng chức chế độ cũ, nên người ta nhờ chị dạy Bổ Túc Văn Hĩa cho dân trong vùng. Cuộc sống tương đối dễ thở hơn, nhưng chị nĩi khơng thế nào ở mãi nơi này, cịn tương lai của cháu Thục. Nhìn quanh chỉ thấy rừng với núi, đêm đêm nghe tiếng giĩ hú, nhớ Dalat, nhớ Lâm Viên... Mãn hạn tù, khơng hộ khẩu thường trú, chị bắt buộc phải về đây, nhưng phải làm sao để thốt được cảnh đời này. Tơi thương chị. Tơi thương tơi. Tơi thương tất cả số phận hẩm hiu của những người con gái bạc phận trong thời chinh chiến vì khi hết chiến tranh rồi, nghe hịa bình cịn mỉa mai, cay đắng nhiều hơn... Tơi đã tìm được một việc làm mới khả dĩ, gần gia đình. Bỏ hết bằng cấp về với Saigon, chuyển xoay theo dịng đời xê dịch. Và chị Lệ Khánh cũng về lại với Saigon, sống lang thang bất định, rạc rày, lam lũ. Thỉnh thoảng chị ghé tơi, tơi làm cho chị những gì tơi cĩ thể làm được, từ những kíù gạo trắng đến miếng cá, miếng rau... Chị chỉ nĩi với tơi tạm buơn bán qua ngày, nhưng hụt vốn liên tiếp, nên kết quả, phải đi cầu cứu bạn bè... Với số lương hành chánh ba cọc, ba đồng tơi cũng khơng thể làm một điều gì lớn hơn cho chị. Nhưng khoản tiền chị cần, thơng thường chị hay ghé Ngơ Kim Thu. Vì gia đình Thu cĩ một cơ sở đĩng sách, bế hộp ở Tân Định, cuộc sống tương đối dư dã. Bố của Thu lại là một người làm ăn giỏi trên thương trường. Thời nào cũng vượt qua được những khĩ khăn. Nhìn lại trong đám bạn bè, Ngơ Kim Thu cĩ một tuổi thiếu nữ huy hồng, dài lâu nhất. Bố Thu vẫn giữ được chiếc xe hơi đời mới để di chuyển cơng việc trong khi mọi gia đình khĩ cĩ ai cịn cĩ chiếc xe gắn máy, chỉ cĩ xe đạp đầy đường trong thời buổi “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH” mà thơi! Nhưng đến Ngơ Kim Thu hồi chị cũng ngại, cĩ lúc chị đến hỏi mượn tiền tơi. Tơi diễu cợt cho quên buồn, Thu là “cây tiền” mà chị khơng hỏi nĩ, chị hỏi Phương, thơi chị chờ Phương nuơi heo đất cho lớn chờ chị. Chịu chưa?... Chị vẫn nĩi với tơi là chị đi buơn bán, nhưng chị khơng nĩi là chị buơn bán những gì. Mà tơi là người khơng cĩ thĩi quen tị mị hỏi về những chi tiết mà người thân mình chưa muốn nĩi. Mãi đến một hơm, tình cờ gặp Trần Thị Kim Anh, một độc giả của tơi, cơ nữ sinh Gia Long ngày xưa, sau này làm việc ở trường Trung học Sư Phạm, Kim Anh cho biết thấy chị Lệ Khánh bán những rổ chanh ớt, kim chỉ ở bến xe Chợ Lớn. Chị đội cái nĩn lá sâu, rộng vành, sụp xuống khơng ai nhìn rõ mặt, nhưng Kim Anh vẫn nhận ra... (Kim Anh biết chị Lệ Khánh vì cĩ lần cùng đi với tơi đến thăm chị ở Tịa Hành Chánh Gia Định trước 75, khi chị mới dời từ Dalat về). Với chị trong tơi vẫn là một nỗi thương cảm, ngậm ngùi, quay cuồng với cái ăn, cái mặc chắc chị bây giờ khơng cịn nghĩ nữa đến niềm đau nhan sắc. Vận nước nổi trơi. Một cuộc đổi đời lớn nhất trong lịch sử nhân loại. Cái lằn gạch giữa cĩ và khơng, giữa cịn và mất chỉ là một đường chỉ mỏng. Chỉ cịn lại chăng là tình nghĩa, là tấm lịng cĩ cịn giữ được cho nhau. Mệt mỏi, cơ đơn, một thân lạc lồi nuơi con thơ dại, chị quyết định về Dalat sống với gia đình. Căn nhà xinh xắn của Ba Mẹ chị ở 71 Duy Tân xưa bị nhà nước tiếp thu làm cơ quan, ban ơn mưa mĩc cho cả gia đình hơn mười người được tá túc trong cái garage để xe cũ kỹ chật hẹp của chính họ. Sau nhiều lần sửa chữa, chị cĩ một chỗ riêng, một căn gác nhỏ, mà Ngơ Kim Thu và tơi đã lên sống với chị những giờ khắc ở đĩ. Khoảng trời Dalat lộng giĩ với thơng ngàn, mượt mà hoa hồng và mimosa bị đĩng lại trong cái gĩc tối đen, buồn bã. Chỉ nghe cái hiu hắt lạnh, cái se lịng trong tẫm đẫm hơi sương Dalat. Ngồi ra, một Dalat đã chết, như đời của chị tơi vẫn sống nhưng là một đời sống chết của một kiếp người cơ cực, lầm than... Ba chị ra khỏi tù, bệnh trở nặng. Mẹ chị co ro trong chiếc áo laine cũ ngồi trên lề đường Duy Tân bán từng điếu thuốc lá lẻ. Những đứa em trai sửa xe đạp trước hiên nhà, lặng thinh, câm nín, khơng buồn nhìn đến kẻ lại, người qua. Những đứa em gái nghề nghiệp bấp bênh, Hồng vừa bị cho nghỉ việc vì phong trào chống học ngoại ngữ, mà Hồng là cơ giáo dạy Pháp văn. Trang chuẩn bị thành ma soeur, hiến dâng đời cho Thiên Chúa... Nghe Thu và tơi lên thăm, Ba Má chị nhất định giữ lại ăn cơm. Từ chối thì hai bác buồn, mà nhìn thấy tận mắt cái cảnh đạm bạc của gia đình chị khơng thể khơng nát lịng. Bữa ăn được dọn ra với con cá nục được cắt làm đơi nấu mặn lại với muối, cĩ một ít nước, theo kiểu người miền Trung và tơ canh đọt mùng. Tơi và Thu khơng dám gắp thức ăn để chị em chị dành cá cho cha mẹ, chỉ ăn nước mà thơi... Từ năm sau đĩ, gần như tơi đi Dalat hằng năm, nhưng tơi chỉ gặp mặt chị đơi lần. Thường tơi hay mang một ít thức ăn ở Saigon lên cho chị. Nhưng lần nào Bác cũng nĩi chị đi bán quần áo cũ tối mịt mới về, bán ở chợ khơng cĩ khách hàng chị phải trèo đèo leo núi, quảy túi quần áo cũ trên vai vào những buơn thượng xa xơi. Nên khi chị về được đến nhà, tay chân rã rời, mọi người đã yên giấc. Tơi hẹn sẽ trở lại, chị vẫn bằn bặt. Tơi đi lang thang với Hồng, em gái chị ở café Tùng, ở phở Hiếu... rồi chia tay. Tuy nhiên, cĩ dịp về Saigon là chị đến tơi cĩ thể năm ba tháng một lần. Tơi gom hết quần áo cũ để dành cho chị. Hai chị em cơm nước xong, ghé Tân Định ới Ngơ Kim Thu, rồi về nhà tâm sự cho đến sáng. Trước khi đến sở, tơi đưa chị đi ăn sáng, và lần nào tơi cũng gửi chị tiền xe về lại Dalat, dù chị khơng hỏi. Ngày Vũ Khánh Thục thành hơn, chị cũng xuống gửi thiệp cưới cho tơi. Phương chia xẻ niềm vui với chị, Thục đã lớn khơn, nhưng khơng về Dalat để gĩp vui với chị được cho Phương gửi chút quà mừng. Chị cảm động ơm tơi. Chị khơng ngờ cái tình văn nghệ tưởng chỉ là văn nghệ vậy mà bền chặt đã mấy mươi năm... Thường chị ít chịu kể về những thay đổi trong cuộc sống của chị. Nhưng tơi linh cảm chị khơng cịn ở Dalat nữa, mà ở rất gần tơi. Tuy nhiên lần nào sau khi ghé thăm tơi, tơi cũng gửi chị một ít lệ phí trở về Dalat. Năm nào, những ngày gần Tết chị cũng đến tơi. Tơi cất dành sẵn cho chị những mĩn ăn ngày Tết, như bánh mứt, lạp xưởng, để chị khơng phải mua sắm, và tủi thân buồn. Chừng như xúc động vì chân tình tơi dành cho chị, cĩ lần chị lãng đãng nĩi: -“Mấy lần Phương đi thăm chị ở Dalat, chị trốn, vì khơng cĩ quần áo đẹp để đi phố với em. Những quần áo em cho, chị túng tiền về bán hết, khơng cịn giữ lại bộ nào. Cĩ lần nằm một mình trên gác, nhìn theo bĩng em khuất xa, chị đã khĩc lặng lẽ... Chị cũng khơng hiểu sao chị làm vậy.” Cũng như cĩ một lần, sau khi tơi đi Dalat về, những mĩn quà Dalat cho gia đình cịn đĩ, chưa được mở ra, chị tất bật tạt qua nhà tơi trong vội vã. Chị kẹt tiền mua bán và hỏi tơi. Rất thật thà, tơi trả lời, em hết tiền, vì vừa mới ở Dalat về. Chị nhận cho em một ít quà được khơng. Chị nhất định khơng cầm gì hết và quày quả bước đi... Sau này chị phản tỉnh, kể lại tơi nghe, lần ấy chị giận tơi lắm, và thề trong lịng khơng bao giờ gặp tơi nữa. Nhưng nghĩ lại, thấy mình vơ lý quá, tơi vẫn đối với chị thật đầy, cĩ lầm lỗi nào đâu? Nên chị lại đã khơng rời xa tơi được. Lần cuối cùng tơi gặp chị, chị hớt hãi, ngơ ngác cho tơi biết khơng thể sống được, chỉ cĩ nước tự tử vì bị úp hụi. Cĩ định mệnh, số kiếp cay nghiệt nào vẫn cịn theo đuổi một người thơ đến suốt cuộc đời. Tình yêu, nhan sắc, danh vọng, bạc tiền là một con số khơng to lớn phủ kín hồn chị. Người chị mong ước sống chết mãi mãi cĩ nhau đã ra đi khơng bao giờ trở lại sau biến cố 75. Từ những tuyệt vọng, khốn cùng, thiếu niềm tin bám víu chị cĩ ý định trở lại đạo, để được nguyện cầu dưới chân Thiên Chúa. Tơi thấy mình nhỏ bé, bất lực. Nỗi khĩ khăn của chị là một đại dương, mà tơi chỉ là con ốc nhỏ. Sự giúp đỡ chỉ như muối bỏ biển, như giĩ vào nhà trống, tơi cúi đầu khơng biết phải làm sao... Và dịng sơng xưa đã về biển lớn, theo gia đình, tơi lìa bỏ quê hương, tìm về một vùng đất mới, bắt đầu kiếp người nổi trơi lưu lạc. Năm tháng đầu tiên xứ người, tơi dành dụm ít tiền kiếm được trong lúc vừa học, vừa cày gửi về cho chị. Vẫn khơng cĩ hồi âm. Chị khơng cịn ở Dalat nữa. Khơng biết chị đã trơi giạt về một phương nào. Tất cả đã ở ngồi tầm tay tơi. Tiếp đĩ tơi biết tin Mẹ chị từ trần, và Ba chị cũng đã nằm xuống năm ngối trong khổ đau vì chị. Chị khơng thể đền đáp hiếu đễ cho mẹ cha từ buổi sinh tiền đến lúc mãn phần vì nợ nần vây kín. Bây giờ nghe tin chị đau nặng, khơng ngồi dậy được, và đã trở về mái nhà xưa vì khơng cịn bơn ba được nữa, sao đất trời, số mệnh vẫn chưa chịu buơng tha. Và nếu nợ nần của chị lên đến hàng trăm triệu do lãi mẹ đẻ lãi con, chị phải đi trốn nợ nên khơng thể thư từ liên lạc với tơi, thì cũng đành thơi, tơi chẳng bao giờ hờn và trách chị bởi bao giờ tơi cũng hiểu chị như ngày xưa những lần quá khổ chị đã khĩc với tơi cho vơi nỗi xĩt xa... Cĩ lẽ bây giờ tiếng thơ chị đã nghẹn ngào tắt lịm nhưng những câu thơ xưa thì vẫn đẹp ngàn đời. Ngơ Kim Thu đã viết về thơ chị: “Bài thơ hay như một bình rượu quý, một bức tranh đẹp chẳng hề ảnh hưởng bởi thời gian. Mỗi mùa xuân về, dù đang ở bất cứ nơi nào xa vạn dặm, đọc lại những vần thơ sau đây của người thơ Dalat, người đọc lại thấy mình như đang trở về những ngày xa xưa với những cơ gái Dalat mắt quá đổi trong, mơi quá chừng hồng, những mối mình màu hoa đào thuở đầu đời quá đẹp, mà trên bước đường đời đơi khi chẳng thể cịn gặp lại...” Sau những bộn bề nơi đất khách, một chút trầm tư, bên chén trà sen, kính mời quý vị cùng đọc lại với Phương và Ngơ Kim Thu một bài thơ cũ sau đây của Lệ Khánh, để xẻ chia những thăng trầm, bạc phận của một người thơ xứ lạnh, và hy vọng những dịng tùy bút của Phương hơm nay khơng rơi vào lạc lõng của sự lãng quên. Chiến y làm đẹp phố phường thơ Lệ Khánh Trời hơm nay nắng buồn hong giĩ thổi Chiến y về làm đẹp phố cao nguyên Em lặng nhìn, mang chua xĩt làm riêng Rưng rức nhớ... em gượng cười quên cả Chiến y đĩ nhưng chỉ tồn xa lạ Em cúi đầu nước mắt nhẹ vương mi Áo cưới ngày nào... bạn cũ vu quy Nên áo chiến người yêu xa vắng phố Vui hạnh phúc họ quên em gái nhỏ Hay dỗi hờn, hay khĩc giận vu vơ Tình đơn phương cơ bé sớm làm thơ Và khơn lớn khi tuổi đời chưa lớn Trời hơm nay bướm buồn bay lởn vởn Bướm đùa hoa, hoa cợt bướm... vui chưa? Em nghĩ mình, em thẹn với hồn thơ Thơ vẫn đẹp, sao hồn em chẳng đẹp Áo muơn sắc giữa phố phường khép nép Chiến y về làm hồng má hây hây Mắt đa tình gợn suối tĩc bay bay Alpha đỏù đẹp màu mơi con gái Em kỷ niệm với mía đường tình ái Nên độc hành tìm áo chiến ngày xưa Để đem về ướp trọn mấy vần thơ Thơ nhè nhẹ gửi người trai lính chiến Đêm dừng quân cĩ bao giờ anh biết Cĩ một người em gái nhỏ thương anh Luơn nguyện cầu đất nước thơi chiến tranh Ngày trở lại, cĩ tình em đĩn đợi Hơm nay giĩ, hoa anh đào phất phới Cĩ một người “thi sĩ nhỏ” cơ đơn Gọi tên anh... một tiếng gọi rất buồn: “Người biên ải cĩ thương người hậu tuyến?” Trời Dalat hơm nay nhiều áo chiến Áo chiến mùa đơng pha màu đỏ alpha Em nhớ anh nên nước mắt em nhịa Song gạt vội: “Bụi đường bay ác quá!” Minneapolis tháng 6/01
Ghi chú của Tạp chí Đất Sống: Xin qúy bằng hữu có lòng tốt muốn trợ giúp nhà thơ Lệ Khánh (Chồng của chị là nhạc sĩ Thục Vũ tức Trung tá Vũ Văn Sâm, Tham Mưu Phĩ Chiến Tranh Chính Trị của Sư đồn 5 Bộ Binh. Thục Vũ đã bị cộng sản sát hại trong lao tù); xin gửi về: Địa chỉ Lệ Khánh: DƯƠNG THỊ KHÁNH Số 71 ĐƯỜNG 3 THÁNG 2 DALAT LÂM ĐỒNG - VIỆT NAM
quangio.com
|