Welcome Guest! To enable all features please Login or Register.

Notification

Icon
Error

Toa thuốc bắc trị mỡ máu, huyết áp cao
kimnga
#1 Posted : Monday, November 8, 2004 4:00:00 PM(UTC)
kimnga

Rank: Newbie

Groups: Moderator
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 79
Points: 0

Tác giả
hcGởi: Fri Jun 18, 2004 10:05 am Tiêu đề: Toa thuốc bắc trị mỡ máu, huyết áp cao

Toa thuốc bắc trị mỡ máu, huyết áp cao

Đây là toa thuốc bắc trị mỡ cao và huyết áp cao do một vị sư Trung Hoa tặng cho một Phật tử đi du lịch Trung Quốc ghé viếng chùa. Toa thuốc bằng tiếng Hán đã được dịch ra và nhiều người uống có kết quả cao.

Phương thuốc dân gian trà Long Tỉnh

1) Công năng chủ yếu: Giảm mỡ trong máu, giảm cholesterol, chữa trị bịnh đường tiểu (niệu đạo).

2) Ðối tuợng chữa trị: những nguời bị bệnh xơ cứng động mạch, cao huyết áp và bệnh đuờng tiểu (niệu đạo).

3)Thành phần toa thuốc:

- 10 grammes trà Long Tỉnh,龍井茶 ( Lung Ching Tea/Green Tea)
- 10 grammes Sơn Tra,山渣( Hawthorn Berry)
- 5 grammes Trần Bì (vỏ quít khô).陳皮( dry tangerin skin)


4) Cách dùng thuốc:

Dùng 200 mililittres nuớc suối (hay nuớc lọc thông thuờng), để nguội, pha vào thành phần toa thuốc nêu ở số 3 trên dây, ngâm từ bốn giờ đồng hồ trở lên; sau đó cứ khát là lấy ra uống, công hiệu trị liệu sẽ thấy rất rõ ràng. Nguời bị bệnh cao huyết áp thì dùng nuớc sôi châm và ngâm, gia thêm một chút mật ong. Uống càng lâu dài thì hiệu quả càng tốt.


Ðặc tính các duợc liệu trên đây và cách pha chế:

1) Duợc liệu

- Trà Long-Tỉnh là tên chung loại trà đặc xuất ở vùng núi phía Nam Hàng Châu, tỉnh Triết Giang, và là một loại trà xanh ( Green tea). Vậy nếu không có hiệu trà Long Tỉnh bạn mua loại trà xanh khác cũng duợc.

Ngoài hiệu Long Tỉnh, còn có các loại trà xanh khác trên thị truờng nhu Su phong, Bạch-Vân, Bảo Vân, Tu Duẫn, Thọ Mi (Trung Quốc), hay Thanh-Trà, Thiên Vụ, Tùng Bách Thanh (Ðài Loan), v.v. Các loại trà xanh bạn mua ở chợ Á châu nào cũng có. Giá tiền khác nhau là tuỳ theo trà một lá hay hai lá, Trà một lá đắt hơn.

- Trần Bì là võ quít phơi khô .Nếu không gặp nguời biết tiếng Việt ở tiệm thuốc, bạn chịu khó phát âm hai chữ này như ông hề Xuân Phát - chần pì, may ra chủ tiệm cũng hiểu duợc.

- Sơn-Tra là một loại dâu dại, Hawthorn Berry, mọc đầy đồng bên miền Ðông và MidWest vào mùa xuân và hè. Tên khoa học của nó là Crataegi Fructus. Tôi vào tiệm thuốc tàu hỏi Sơn Tra, nhung đọc trài trại ra một chút, họ cũng hiểu và bán cho tôi.


2) Cách pha chế

Toa thuốc nói trên ngâm 10gr trà Long-Tỉnh, 10 gr Sơn-Tra, 5 gr Trần Bì trong 200ml nuớc suối, hoặc nuớc lọc, nấu sôi và để nguội. Lúc nuớc ấm là ngâm đuợc rồi. Và phải ngâm trên 4 tiếng.

Nếu xài dung luợng của Mỹ thì 1oz # 30ml. Vậy 200ml gần bằng 7oz. Riêng tôi khi pha tôi dùng luôn 1 cup = 8oz cho nó tiện việc sổ sách.

Thông thuờng ngâm một lần sức thuốc chưa ra hết, bạn có thể ngâm thêm lần thứ hai, hai phần này đổ chung lại uống. Ðể tiện và sẳn sàng, bạn nên ngâm thuốc ngày hôm nay, bỏ vào tủ lạnh, mai đi làm mang theo uống những lúc khát. Cứ tiếp tục nhu vậy, nay làm mai uống, lúc nào bạn cũng có sẵn mà xài.

Theo tôi thấy toa thuốc này làm tiêu mỡ rất nhanh, giúp máu huyết luu thông nhẹ nhàng. Nếu uống liên tục, đều đặn chừng một đến hai tuần là bạn có thể cảm nhận đuợc kết quả trong nguời. Nhứt là những nguời bị cứng, tê các ngón tay sẽ rất mau hết.
Ngoài việc uống toa thuốc trên, để giúp cho cơ thể mình duợc nhẹ nhàng, bạn nên uống nuớc nhiều, mỗi ngày 7-8 cup, và tập thể dục đều đặn.

Toa thuốc Trà Long-Tỉnh có thể giúp bạn chữa trị bệnh tật nhưng bạn cũng phải giúp bạn nữa. Vì nếu toa thuốc giúp bạn tống chất dơ ra một, cùng lúc bạn lại nhậu nhẹt, ăn uống và đem vào nguời chất dơ hại, lúc ấy kết quả còn tệ hơn là khác. Vậy khi thấy kết quả tốt, bạn cũng nên xem xét lại cách ẩm thực của mình một chút.

(ST)


hc Gởi: Fri Jun 18, 2004 10:20 am

Bệnh cao mỡ máu và nấm linh chi

Theo y học cổ truyền, nấm linh chi là một trong những vị thuốc quý, có công dụng ích tinh khí, an thần và làm mạnh gân cốt. Trong vài chục năm gần đây, nấm linh chi là một trong những dược liệu được các nhà khoa học chú ý nghiên cứu rất sâu trên mọi phương diện. Kết quả cho thấy, tác dụng dược lý của nó hết sức phong phú, trong đó có công năng hữu ích đối với hệ tim mạch. Ngoài tác dụng làm hạ huyết áp, cường tim và tăng cường tuần hoàn của động mạch vành, nấm linh chi còn có khả năng làm hạ mỡ máu và dự phòng tích cực tình trạng vữa xơ động mạch.

Bởi vậy, đối với những người bị rối loạn lipid máu, đây là một trong những vị thuốc rất quý. Tuy nhiên, để đạt được hiệu quả cao thì nhất thiết phải sử dụng một cách kiên trì. Mỗi ngày nên dùng 5-7 g bằng cách hãm hoặc sắc uống thay trà. Nếu dùng dưới dạng các chế phẩm khác như viên nang, cao lỏng thì phải tuân thủ đúng theo hướng dẫn của thầy thuốc chuyên khoa.

Tam thất cũng là một trong những vị thuốc quý của y học cổ truyền, có công dụng hoạt huyết, hóa ứ và cầm máu. Kết quả nghiên cứu hiện đại cho thấy, đối với hệ tim mạch, tam thất cũng có tác dụng rất hữu ích như ức chế sự ngưng tập tiểu cầu, bổ huyết, phòng chống xuất huyết, cải thiện tuần hoàn động mạch vành, hạ huyết áp, dự phòng tích cực tình trạng thiểu năng tuần hoàn não và điều chỉnh rối loạn lipid máu.

Bởi vậy, việc phối hợp dùng nấm linh chi và tam thất là rất tốt và trên thực tế, nhiều cơ sở sản xuất Đông dược thành phẩm đã nghiên cứu và đưa ra thị trường các sản phẩm phối hợp giữa hai dược liệu này, như viên nang Linh chi - Tam thất, trà Linh chi - Tam thất... Tuy nhiên, hiện nay tình trạng tam thất giả không phải là hiếm. Vì vậy khi mua dùng, tốt nhất bạn nên tìm đến các cơ sở kinh doanh Đông dược có đủ tư cách pháp nhân và uy tín.

ThS Hoàng Khánh Toàn, Sức Khoẻ & Đời Sống

********

Nấm Linh Chi và Nhân Sâm

Từ hơn 4000 ngàn năm trước, ở Trung Quốc, nấm Linh Chi đã được coi như một loại thần dược chỉ dành riêng cho các bậc vua chúa. Vì thế Linh Chi còn có nhiều tên gọi khác nhau như : Bất lão thảo, Thần tiên thảo, Vạn niên, nấm Thần Lim... Ngày nay, nấm Linh Chi đã được khai thác, trồng trọt và chế biến thành các sản phẩm đắt giá với quy mô công nghiệp.
Một loại dược thảo thiên nhiên khác đó là nhân sâm, một loại rễ cây có hình dáng hơi giống cơ thể con người. Từ lâu, nhân sâm được gán cho nhiều đặc tính bồi bổ sức khoẻ và trị liệu bệnh tật, kể cả việc cứu sống sinh mạng con người mà hiếm có loại dược thảo nào sánh kịp.

Mỗi năm, thế giới tiêu thụ hàng trăm tấn Linh Chi, Nhân Sâm dưới dạng thực phẩm, hay dược phẩm. Nhờ khả năng làm gia tăng tính miễn dịch của cơ thể, Linh chi và Nhân sâm đã góp phần không nhỏ vào công việc nghiên cứu ngăn ngừa, điều trị AIDS, ung thư, tim mạch, tiểu đường, hô hấp... những căn bệnh đang có chiều hướng gia tăng trong khi giới y học chưa có biện pháp phòng chống, chữa trị hiệu quả, nếu không muốn nói là vô phương cứu chữa.

Có bao nhiêu loại nấm Linh Chi?

Theo “Thần Nông bản thảo kinh” viết cách đây hơn 2000 năm thì loại nấm hoang thường mọc ở những vùng rừng núi Á Đông ẩm ướt có tác dụng chữa bệnh kỳ diệu chính là Linh Chi. Đời Minh, nhà y dược học Lý Thời Trân trong “Bản thảo cương mục” cũng đã nói: “Linh Chi có tác dụng tối ưu hóa quá trình tuổi, tức là làm cho cơ thể khỏe mạnh, lâu già, tăng tuổi thọ. Như dân gian đã có câu: “Linh Chi dùng lâu ngày, mình nhẹ, trẻ mãi như thần tiên”.

Linh Chi là loại nấm gỗ có tên khoa học là Ganoderma licidum. Về hình thức, đó là một loại nấm có mũ đính bên, quả thể nấm khi non thường có màu trắng, sau thành vàng đến màu nâu nhạt. Theo đông y, tên của Linh Chi có thể đặt tùy theo màu sắc của nó: Bạch chi - màu trắng, Hoàng chi - màu vàng, Thanh chi - màu xanh... Mỗi màu đặc trưng cho một tác dụng dược lý khác nhau. VD: Thanh Chi có vị chua, không độc, chữa sáng mắt,, bổ gan, khí an thần, tăng trí nhớ. Hồng Chi, màu đỏ, vị đắng, không độc, tăng trí nhớ, dưỡng tim. Hoàng Chi, vị ngọt, không độc, an thần, tích tỳ khí. Bạch Chi, vị cay, không độc, ích phổi, thông mũi, cường ý chí, an thần. Hắc Chi vị mặn, không độc, trị chứng bí tiểu, ích thận. Tử Chi vị ngọt không độc, trị đau nhức khớp xương - gân cốt...

Theo nghiên cứu của nhiều tác giả trên thế giới: trong quả thể cũng như khuẩn ty nấm có gần 100 chất. Các nhóm chất và các chất có hoạt tính sinh học là: Protein, polysacchrrid, tritepen, steroid, alcaloid, nucleotid, axit béo, enzim kháng sinh và các nguyên tố khoáng. Đặc biệt có các hoạt chất quý: axit gannoderic, sesium, gecmanium (lớn gấp 20 lần ở nhân sâm)... Về mặt hoạt tính dược lý: Các hoạt chất thuộc nhóm axit béo có khả năng ức chế giải phóng Histamin. Nhóm nucleotid ức chế kết dính tiểu cầu, thư giãn cơ, giảm đau. Nhóm protein chống dị ứng phổ rộng, điều hòa miễn dịch. Nhóm alealoid trợ tim. Nhóm sterois giải độc gan, ức chế sinh tổng hợp cholesterol. Nhóm polisaccherrid hạ đường huyết. Nhóm polisacc chống ung thư tăng tính miễn dịch, tăng tổng hợp protein, tăng chuyển hóa axit nucleic và trợ tim. Nhóm triterpen hạ huyết áp ức chế ACE bảo vệ gan, chống khối u. Linh Chi có tác dụng làm tăng hệ thống miễn dịch, chống các tế bào lão hóa, khử các gốc oxy tự do, sửa chữa cấu trúc ADN (gen) bị hỏng, trung hòa các chất độc, bảo vệ gan ngừng tổng hợp cholesterol, trung hòa virus, ức chế một số vi khuẩn gây bệnh, tác động vào trung ương thần kinh, làm giảm đau và phục hồi những dây thần kinh đã bị hỏng và kéo dài tuổi thọ (Willard 1990). Mặt khác Linh Chi còn khắc phục được những tác dụng có hại của hóa trị liệu và liệu pháp chiếu tia trong điều trị ung thư (Kupin 1993). Ngoài các tác dụng đã được chứng minh từ lâu đối với các bệnh ung thư phổi, ung thư vú và ung thư dạ dầy, gần đây người ta còn thấy nó có tác dụng với ung thư tử cung, ung thư khoang miệng, ung thư đại tràng, ung thư gan... Đặc biệt nếu kết hợp với hóa trị liệu thì sẽ có kết quả nhanh hơn. Vì vậy mà từ năm 1993 chính phủ Nhật Bản đã chính thức đưa Linh Chi vào điều trị ung thư tại các trung tâm chống ung thư. Năm 1998, Nhật Bản đã thành công vào việc chữa trị khối bệnh cho 300 bệnh nhân bằng nấm Linh Chi, dựa trên nguyên tắc điều hòa miễn dịch mà không có một tác dụng phụ nào (Side - effects). Ông Morishige - giáo sư tiến sĩ y khoa của Nhật đồng thời cũng là chuyên gia trong lĩnh vực này đã nói: “Tôi chưa thấy một chất nào có tác dụng ngăn ngừa và điều trị ung thư như nấm Linh Chi”. Ở Trung Quốc, các bệnh viện lớn cũng đã dùng Linh Chi để điều trị bệnh, đặc biệt các bệnh như: ung thư, tim mạch, huyết áp, tiểu đường, hô hấp... Tại bệnh viện Sơn Đông (Trung Quốc) các bệnh nhân bệnh gan và tiết niệu cũng đã được điều trị bằng chế phẩm Linh Chi. Người ta cho bệnh nhân ăn “súp” Linh Chi để giải độc và bổ gan có kết quả trên 90% cho 70.000 trường hợp. Tại đây các bác sĩ còn cho biết: nấm Linh Chi bóng có tác dụng tốt trên đường tiết niệu, điều hòa rối loạn tuần hoàn não, tránh các cơn kịch phát nghẽn và làm dịu thần kinh.

Trong việc thử nghiệm chế phẩm Linh Chi nơi phòng thí nghiệm và trên lâm sàng. Tại phòng thí nghiệm, khi lấy nước chiết từ quả thể, và sinh khối nấm Linh Chi đun dịch chiết, cho khuếch tán trên thạch đĩa, với vi khuẩn kiểm định là G+ và G- đã cho thấy hoạt tính kháng sinh ở quả thể và sinh khối nấm Linh Chi khá mạnh, có khả năng ức chế vi khuẩn G+, G-. Đặc biệt Linh Chi sinh khối cho vòng kháng khuẩn to và rõ nhất. Thực tế, hiện nay trong y học có nhiều loại vi khuẩn đã kháng lại nhiều loại thuốc làm ảnh hưởng tới việc điều trị của bác sĩ, nhưng khi đem thử khả năng chống vi khuẩn của Linh Chi đối với một số vi khuẩn gây bệnh như : Staphylococus aureus gây nhiễm trung máu, Salmonella vi khuẩn gây bệnh thương hàn, Bacillcus, gây độc tố nhiễm độc thức ăn thì kết quả cho thấy kháng sinh của quả thể và sinh khối Linh Chi đã ức chế được các vi khuẩn gây bệnh kể trên. Nghiên cứu này phù hợp với nghiên cứu của Willard và Fones 1990 cho thấy nước chiết từ quả thể nấm Linh Chi ức chế vi khuẩn Streptococus (tụ cầu khuẩn), Staphylocous, Bacillus pneumoniec (vi khuẩn gây viêm phổi). Về độ độc tính củasinh khối Linh Chi khi thí nghiệm trên chuột nhắt trắng có trọng lượng 18-20 gam, cho chuột uống liều 160g/kg, trọng lượng gấp 800 lần liều dùng cho người mà chuột vẫn không chết. Điều đó chứng tỏ thuốc không có aflatoxin và có độ an toàn cao về độc tính cấp. Đối với lâm sàng: thử trên 300 người, bị các bệnh huyết áp, tim mạch, tiểu đường, tâm thần, động kinh, khối u, ung thư... kết quả Linh Chi có tác dụng tốt với các loại u như: u vú, u tử cung, u gan, u dạ dày, u não, u vòm họng, u đa tủy, tăng bạch cầu cấp, và một số bệnh nhân viêm gan siêu vi trùng. Một số tác dụng khác như say tàu xe, ngộ độc thức ăn, say rượu...

Hiện nay, trên thị trường thế giới đã có bán nhiều loại nấm Linh Chi của Nam Hàn, Nhật Bản, Trung Quốc, kể cả của Mỹ... sản xuất, tuy nhiên giá thành rất cao. Một kilô nấm Linh Chi khô có giá xê dịch từ 50 đến 100 Mỹ kim, tùy theo chất lượng. Hiện nay, ở nhiều nước như Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản,... đã sản xuất Linh Chi theo phương pháp nuôi trồng nông nghiệp. Tuy nhiên chất lượng của nấm còn phụ thuộc vào việc nuôi trồng nấm trên loại gỗ gì, chủng loại nấm cũng như thời gian thu hoạch. Vì vậy, không phải ngẫu nhiên mỗi năm Nhật Bản thu được 350 triệu USD từ nấm Linh Chi cũng như các chế phẩm của nó. Ngay cả Trung Quốc được coi là nước sản xuất nấm Linh Chi lớn nhất trên thế giới thế mà vẫn có nhu cầu nhập thêm để sử dụng. Ở Nhật Bản, giá 1kg nấm Linh Chi khoảng 200-350 USD, ở Nam Hàn 100 USD, ở Đài Loan có người đã phải mua tới giá cao hơn gấp 10 lần, tức từ 3.000 - 8.000 USD.

Tác dụng y dược của Nhân Sâm

Năm 1833, giới y học dành cho nhân sâm một chỗ đứng trong bảng phân loại dược thảo, với tên khoa học là Panax. Từ Hy Lạp pana có nghĩa “tất cả”, còn axos có nghĩa là “chữa trị”. Do một sự trùng hợp thú vị, từ panax với từ panacae (thuốc trị bách bệnh) có cùng một nguồn gốc. Một văn bản y học Trung Hoa cổ vào thế kỷ V có liệt kê những tác dụng trị liệu của nhân sâm: tăng cường sức mạnh của nội tạng (gan, thận, tim, phổi, tuyến tụy) có tác dụng an thần, chống lại mệt mỏi, suy nhược, nhức đầu, kiệt sức, đổ mồ hôi, tăng cường sức đề kháng với viêm nhiễm và bệnh tật, tăng cường thị lực và khả năng hoạt động tinh thần, kéo dài tuổi thọ... Mới đây, một cuộc nghiên cứu khoa học đã bổ sung cho nhân sâm nhiều tác dụng mới: cấu tạo hồng cầu, bảo vệ cơ thể chống lại chứng thiếu máu, huyết áp thấp, bệnh tim, gia tăng sự tiết dịch của cơ thể chống lại bệnh tiểu đường, bình thường hóa hoạt động của phổi, tăng cường hệ thống dạ dày - ruột, ngăn ngừa bệnh tiêu chảy, táo bón, phòng ngừa sự sưng tấy, viêm nhiễm và những bệnh về da, kích thích tiết hormone để tạo dễ dàng cho việc điều trị các bệnh phụ khoa như đau bụng lúc hành kinh, những triệu chứng của tuổi mãn kinh. Gần đây nhứt, những thử nghiệm lâm sàng tiến hành tại Nhật trên những người mắc bệnh ung thư (đã qua nhiều lần chiếu tia X và hóa liệu pháp) cho thấy nhân sâm giúp bệnh nhân bình phục nhanh, làm gia tăng cơ may sống sót của họ bằng cách khử độc gan và phục hồi khả năng thanh lọc độc tố trong máu của bộ phận này.

Một câu hỏi được đặt ra là làm thế nào giải thích được những tác dụng trị liệu kỳ diệu đó của nhân sâm? Trong Tây y, vẫn còn một số người xem thường nhân sâm, coi đó như sự lừa bịp của hai thiên niên kỷ tiền khoa học đầy chuyện lố lăng. Tuy thế, nhiều thầy thuốc và nhà nghiên cứu được đào luyện theo Tây y vẫn công nhận tác dụng bồi dưỡng và trị liệu của nhân sâm. Họ đưa ra những lời giải thích về hóasinh, chiết xuất các thành phần của nhân sâm và đặt cho chúng những cái tên đầy tính... nhân sâm: ginsenoside, panaixin, panquilan... Họ nghiên cứu tác dụng của chúng với hệ nội tiết, hệ tuần hoàn và sự sinh sản chất tủy xương. Còn đối với đa số người Á Đông tin tưởng vào công hiệu của nhân sâm thì nguồn gốc sức mạnh của nhân sâm nằm ở... đất. Khoa vũ trụ học của người Trung Hoa cổ coi toàn bộ vũ trụ bị chi phối bởi một sinh lực gọi là chi. Sinh lực này tập trung dưới lòng đất và giải thích tại sao người Trung Hoa và người Cao Ly xưa rất quan tâm đến nơi tống táng những người thân. Họ tin rằng xương cốt của tổ tiên, cha mẹ họ được tống táng ở vùng đất tốt sẽ giúp cho họ thành đạt trong cuộc sống. Chính điều này giải thích nguồn gốc sức mạnh của nhân sâm...

Ở Cao Ly, những người dân sơn cước chuyên tìm sâm được gọi là Shimmani. Trong tiếng Đại Hàn cổ, Shim có nghĩa là nhân sâm, còn maini trong tiếng Phạn có nghĩa là to lớn. Shimmani là những con người lãng mạn, hào hùng, việc làm của họ được ghi nhận trong nhiều huyền thoại và chuyện kể dân gian. Trước khi đi tìm nhân sâm, họ phải tẩy sạch cơ thể bằng cách tắm trong những khe suối trên núi cao và cầu nguyện Sanshil-Ryung (thần núi). Họ tin rằng chỉ có một tấm lòng trong sạch mới đưa họ đến với nhân sâm. Họ cũng phải tránh giao hợp với phụ nữ, không ăn những con thú bốn chân và không giết chết bất cứ một sinh vật nào. Rồi họ kiên trì chờ thần núi hiện ra trong mơ và chỉ cho họ nhân sâm ẩn kín nơi nào trong núi. Khi được sự hướng dẫn của Thần núi, các Shimmani đi tìm sâm vào ban đêm, định vị sâm nhờ ánh hào quang của nó phát ra và dùng một cây gậy đánh dấu nơi có sâm. Sáng hôm sau, sau một loạt nghi thức để cảm tạ thần núi, họ bắt đầu đào lấy củ sâm, một công việc hết sức tinh tế để tránh làm tổn thương, dù là một sợi rễ nhỏ nhất. Xong việc, các Shimmani đặt củ sâm đào được trong một chiếc hộp bằng gỗ và đi xuống núi, tránh không nói chuyện với ai. Có một điều cấm kỵ, đó là các Shimmani không được mang theo bất cứ thứ vũ khí nào trừ gậy, dù họ dễ dàng bị thú dữ hay bọn cướp rừng đe dọa. Bù lại, nếu thoát được những hiểm nguy trong hành trình đi tìm sâm, các Shimmani sẽ được tưởng thưởng xứng đáng với công sức bỏ ra. Chỉ cần bán một củ sâm hàng trăm năm tuổi còn nguyên vẹn, một Shimmani có thể nuôi sống cả gia đình một năm liền. Do nhu cầu về nhân sâm ngày càng tăng cao mà các Shimmani mỗi ngày phải đi xa hơn trong rừng sâu mới có sâm, nên ngày nay phần lớn sâm trên thị trường nội địa tại Nam Hàn hay xuất khẩu ra nước ngoài đều là sâm do con người trồng trọt. Để tránh cho cây sâm không phải tiếp xúc trực tiếp với mưa, nắng và gió, các nông gia Nam Hàn trồng chúng dưới những nhà lợp tranh xếp thành từng hàng dài, nhất là ở đảo Kanghwa. Sâm trồng cần từ 4 đến 6 năm để trưởng thành. Chúng hút hết mọi chất dinh dưỡng từ đất đến mức hàng chục năm sau khi thu hoạch xong, không có loại cây nào còn có thể sinh sống được trên đất đã trồng sâm.

(ST)

hcGởi: Fri Jun 18, 2004 10:38 am

Chữa sỏi túi mật bằng cách ăn nhiều nấm

http://img77.photobucket...hatcat/Nam_linh_chi.gif
Nấm linh chi có thể làm nên những điều kỳ diệu.

Vì không tin tài mổ xẻ của các đồng nghiệp, một bác sĩ ngoại khoa hàng đầu của Anh đã tự chữa chứng sỏi túi mật bằng cách ăn nhiều nấm mua từ siêu thị. Kết quả là sau 3 tháng, những hòn sỏi đã biến mất.

Vị bác sĩ này nói: "Nếu chứng sỏi mật tái phát, tôi sẽ không ngần ngại dùng chế độ ăn nhiều nấm. Tuy nhiên, tôi không thể khuyên các bệnh nhân của mình dùng một phương pháp điều trị chưa được nghiên cứu. Khoa học vẫn chưa thể giải thích trường hợp khỏi bệnh của tôi". Theo ông, chế độ ăn nghèo chất béo có thể góp phần tạo nên kết quả này.

Phương pháp dùng nấm chữa bệnh cũng nhận được sự ủng hộ từ các chuyên gia nghiên cứu y học tiếng tăm khác của Anh. Bác sĩ John Wilkinson, Đại học Tổng hợp Middlesex, nói: "Ở Trung Quốc, nấm được sử dụng để chữa bệnh từ hằng nghìn năm nay. Tới bây giờ, phương Tây mới nhận thức được tầm quan trọng của thảo dược. Thế hệ tiếp theo của thuốc có nguồn gốc từ thiên nhiên sẽ là nấm ăn".

Bác sĩ Wilkinson cho biết, nấm đồng thông thường có tác dụng làm tan sỏi mật, dù điều này còn chưa được chứng minh. Trong khi đó, nấm linh chi tỏ ra rất hiệu quả trong điều trị viêm khớp nhờ các tác nhân chống viêm tên là ftriturpinoids, có tác dụng tương tự corticoid.

Nấm shiitake.

http://img77.photobucket...234/hatcat/shiitake.gif

Nghiên cứu trong phòng thí nghiệm cho thấy, nấm linh chi và nấm shiitake có tác dụng kích thích hệ miễn dịch. Nước uống chế biến từ các loại nấm này thường được người Trung Quốc dùng để chữa viêm khớp, bệnh cúm và cảm mạo thông thường.

Những điều kỳ diệu của cây cỏ

Bác sĩ ngoại khoa Colin Johnson, Bệnh viện đa khoa Southampton, lại tỏ ra tin tưởng vào một biện pháp điều trị khác. Ông nói: "Tôi đã thấy những bệnh nhân nhịn ăn và uống dầu ôliu để trị bệnh sỏi mật. Túi mật sẽ co lại và đẩy sỏi ra ngoài".

Bác sĩ Wilkinson hiện đang tiến hành nghiên cứu về tác dụng kích thích hệ miễn dịch của khoai tây châu Phi. Những nghiên cứu mới nhất ở Nam Phi (sắp được đăng tải) cho thấy tác dụng này có được là nhờ chất lignans trong khoai. Chất này cũng có ở củ nghệ.

Thu Thủy (theo BBC)

PC Gởi: Sun Jul 11, 2004 3:32 pm

Chị hc ơi,
Có người ở VN gởi mua giùm mấy món này nhưng không ghi tên gì hết nên không biết cái nào là sơn tra cái nào là linh chi cái nào là.... Có phải linh chi là thứ xắt mỏng từng lát nhìn giống như lưỡi heo vậy, có cọng dài tới 4 inches. Nấu uống thử thì đăng đắng chị ơi, coi bộ hổng theo nỗi quá!

hcGởi: Sun Jul 11, 2004 3:51 pm

Chị PC,

Sơn Tra khô xắt lát có hình tròn, cỡ như đồng quater 25 cent, màu nâu, hột trăng trắng, còn linh chi nếu đã xắt lát rồi thì cũng màu nâu như trong hình, quả thiệt giống lưỡi heo mà nó dai lắm á, nếu đắng quá thì chị nấu loãng một chút, cái này cần uống lâu dài nên mình không cần nấu đặc quá khó uống, chịu khó uống đi chị ơi, linh chi giúp tim mạch nữa đó, hồi trước hc chỉ uống trà sơn tra thì mỡ máu có xuống nhưng vẫn cảm thấy nhịp tim không bình thường, nhanh thì khoảng 90-95/phút, chậm thì cũng 80-85/phút, lúc nào nghe nhẹ hơn thì cũng cỡ 75-78/phút, từ khi bày cho người khác uống trị sỏi mật có kết quả, hc cũng uống theo, bây giờ nhịp tim nhẹ lắm, bình thường thì 62-65/phút còn khi mới leo...cầu thang hay vận động nặng xong khoảng 72-75/phút, ôi mừng quá cỡ, nghĩa là nhịp tim đã trở lại bình thường như hồi chưa bị cao mỡ máu.

hc

hcGởi: Sun Jul 18, 2004 8:59 am

Thiền định làm giảm huyết áp và tâm hồn thư thả, êm đềm
Jul 17, 2004


Cali Today News - Thiền định (meditation) là một kiểu trầm tư mặc tưởng quay về với chính mình. Từ 30 năm nay, mỗi buổi sáng, Cheri Huber bắt đầu một ngày mới bằng cách lắng nghe chính mình.

Sue Sommers, một giáo sư giảng dạy môn này tại Viện C. G. Jung ở Chicago, nói: “ai cũng biết một người biết lắng nghe kẻ khác bao giờ cũng thiết lập được mối liên hệ bền vững, có ích… Nhưng mấy ai biết lắng nghe chính bản thân lại làm cho cơ thể và trí não lợi lộc rất nhiều. Thiền định có thể dạy cho ta được chuyện này. Nó làm cho ta ý thức rõ hơn về ‘tiếng nói bên trong’ và chuyện gì đang xảy ra chung quanh ta.”

Huber, người sáng lập Trung tâm “Zen Monasrery Pratice Center” và “The Mountain View Zen Center” ở tiểu bang California, nói thiền định giúp bà đối phó với những thách đố mỗi ngày: “thiền định giúp chúng ta tập trung hơn và có mặt ở hiện tại hơn. Nó giúp chúng ta thêm tự tin .”

Theo kết quả khảo sát được đăng trên tạp chí “the American Medical Journal” thì thiền định giúp kiểm soát được một cách khá chắc chắn áp huyết, làm dịu cơ thể và tâm trí, ngang với kết quả phải dùng thuốc an thần, nhưng lại không có “ side effects “ của thuốc.. Bác sĩ Mimi Guarneri, giám đốc y khoa và sáng lập viên của Viện ” Scripps Center for Integrative Medecine “ ở San Diego, nhận xét :” ngoài các đặc điểm trên, thiền định còn làm nhịp tim giảm xuống, nên tim không phải hoạt động nhiều. Tôi đã thấy kết quả rất rõ nơi các bệnh nhân của mình. Nhiều người trong số họ thiền mỗi ngày 2 lần, mỗi lần 20 phút, thì có áp huyết giảm . Ăn uống đều đăng và tập thể dục thường xuyên nữa thì tuyệt vời.”
Nhiều người hiểu lầm thiền là cái gì rất khó. Đơn giản mà nói, thiền là thở, thở là sống, thiền là sống một cách sống động từng giây phút một.

Những người đi trước khuyên trước khi thiền, cần tập cho ấm người như yoga, tai chi hay duồi thẳng tay chân (stretching) khoảng 10 phút là đủ. Sau đó lựa một nơi thích hợp và ngồi thẳng lưng xuống. Nếu có đau lưng và mông thì ngồi trên một cái ghế nhỏ, dẹp bằng gỗ, nhưng lưng phải thẳng. Hơi nhắm mắt lại một tí và bắt đầu thở sâu. Đừng nghĩ gì cả, chỉ chú ý đến hơi thở ra vào, thật nhẹ nhàng và sâu lắng.

Cần nhớ là thiền phải tập mỗi ngày và theo giờ giấc đã định trước. Bắt đầu vừa phải thôi, đừng tham lam ngồi lâu quá (bản chất của thiền là buông bỏ mọi tham lam), khoảng 10 phút cũng được, sau quen dần sẽ tăng lên từ từ.


Bác sĩ Guarneri nói: “tôi đã tập thiền rồi chỉ dẫn lại cho bệnh nhân sau. Bạn sẽ không dạy ai được cái gì nếu đích thân bạn không làm chuyện đó. Tôi cảm thấy lợi lộc thật nhiều. Đáng tiếc là tôi đã không biết thiền khi còn là sinh viên y khoa, mà sinh viên y khoa thì hay bị “stress“ lắm. Khi bạn đã quân bình được tâm trí, bạn sẽ cảm thấy sáng suốt hơn và sau đó các giải đáp sẽ tuần tự đến.”
Mục tiêu là sống trọn vẹn trong giây phút này. Không dễ lắm đâu.. Khi bạn ngồi xuống thiền, làm sao mà đầu óc của bạn lại không rối tung lộn xộn với bao tư tưởng về quá khứ và tương lai... Mục tiêu chính của thiền là làm sao hướng vào bên trong bạn, đi vào nội tâm bạn. Chính điều này sẽ làm ta chậm rãi trở lại, ta sẽ hành đông với một tâm trí tĩnh lặng và sáng suốt. Tôi không nói khi thiền là bạn phải đè nén các cảm giác, tôi đang nói về sự tĩnh lặng, nghĩa là bạn đối mặt với một vấn đề với một đầu óc hoàn toàn sáng suốt.”

Thiền định tăng cường các sóng alpha, theta và delta cho não bộ. Các sóng này hoàn toàn đối chọi với các trạng thái tâm lý thay đổi bất chợt và liên tục trong lúc người ta phải trả lời cho một tình huống rất căng thẳng.

Viện “National Institute of Health” khám phá là các trị liệu pháp thư giãn, bao gồm cả thiền, rất có tác dụng trong việc trị bệnh đau nhức kinh niên, đặc biết là các chứng đau lưng, đau hông, các bệnh viêm thống phong và nhức đầu.
Các thay đổi thân xác và tâm thần do thiền định mang lại lúc đầu rất vi tế, khó nhận ra. Anna Walsemann, giảng viên về thiền, yoga, tai chi và các luyện tập để lành bệnh ở “New Age Health Spa“ (New York) nói: “Lúc đầu khi mới luyện tập, tôi chỉ cảm thấy thích là làm cơ thể và tâm trí êm dịu lại. Dần dần, khi tập chuyên sâu hơn, tôi thấy mình có khả năng nhìn rõ hơn để cải thiện kiểu sống của mình và có thể nhìn nhiều khía cạnh của cuộc đời tôi một cách tích cực hơn.”
Walsemann cũng thấy kết quả tốt nơi học trò của mình . Đặc biệt có một cô học trò, vốn bị đời sống gia đình- chồng, con nhỏ và việc làm quật lên quật xuống tơi tả- muốn bắt đầu một khóa học về thiền.

“ Chuyện đầu tiên cô ấy phải làm , Walsemann kể lại, là phải giảng cho cả gia đình cô ấy biết, là cô cần có một khoảng thời gian trong tuầân để tập thiền định mà cô gọi là “quiet time“, một từ mà ngay cả các con nhỏ của cô cũng biết là gì. Từ đó , gia đình cô rất tôn trọng “cái thời gian yên tĩnh“ cô bỏ ra để đi đến thiền đường tập luyện. Thế rồi họ cũng tò mò kéo đến xem và sau cùng cà nhà bắt đầu tập theo.”

Cô gái đó, cũng như nhiều sinh viên khác, bắt đầu có vẻ tập trung và yên tĩnh hơn. Walsemann nói :” dần dần bạn sẽ thấy thái độ mình cần có cho một tình huống nào đó. Vì là người tập luyện mỗi ngày, bây giò tôi có khuynh hướng phản ứng với một tình huống một cách trầm tĩnh và sáng suốt .”

Hồng Quang theo “ Women ‘s Health/ Fitness"
Users browsing this topic
Guest
Forum Jump  
You cannot post new topics in this forum.
You cannot reply to topics in this forum.
You cannot delete your posts in this forum.
You cannot edit your posts in this forum.
You cannot create polls in this forum.
You cannot vote in polls in this forum.