Welcome Guest! To enable all features please Login or Register.

Notification

Icon
Error

Bóng ngày qua
tvk
#1 Posted : Sunday, February 6, 2005 4:00:00 PM(UTC)
tvk

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 305
Points: 0

Câu chuyện viết dở dang về một chuyến hồi hương, đăng ở một nơi khác, tvk xin tiếp tục ở đây.


Đảo

Nhóc tì à, hơn một lần, anh chứng kiến em vừa sụt sùi trách móc, vừa nhem nhép nhai một cái gì đó, vừa lầm bầm về kết quả không như ý của một bài tính cho cái dự án em đang làm, vậy mà vài tiếng sau đó đã sáng tác đuợc một đoạn văn lâm li, bi đát, viết theo kiểu đánh du kích . Phục thật! Anh thì khác Nhóc tì ạ . Khi em sụt sùi, nhóp nhép, lầm bầm trách móc, anh khó lòng tập trung tư tưởng để viết bất cứ cái gì . Khi anh viết đuợc đoạn này là lúc cô nàng đang ngoan ngoãn đó. Anh xin bắt đầu đoạn hồi ký bằng những dòng về một hòn đảo nằm đâu đó trong vùng biển quê hương mình, tuy rằng nếu theo thứ tự thời gian, đảo này không phải là nơi đầu tiên đón anh trở về.

Villa Maria của anh Hải, một ngôi biệt thự hai tầng, với cái sân thuợng thay cho mái, trông nguy nga như một cái dinh, nổi bật lên giữa khu vuờn thênh thang rộng ba công đất. Ngôi biệt thự nằm trên triền dốc cao, huớng ra bãi biển ở duới xa kia, đúng như hai câu thơ cổ mà anh Hải gửi cho anh:

Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.

Ngôi biệt thự có lối kiến trúc khác hẳn những nhà khác trong vùng bãi biển, mà chỉ mấy năm gần đây, mới đuợc mở mang . Anh Hải tự phác hoạ lấy, với sự trợ giúp của kiến trúc sư chuyên môn . Anh đã theo dõi công trình xây cất từ lúc khởi đầu, qua những email và hình ảnh anh Hải gửi cho anh . Bây giờ, ngôi biệt thự đuợc dân chúng địa phuơng gọi là cái nhà không mái vì cái sân thuợng của nó . Vùng đồi hoang sơ, lởm chởm đá, đuợc biến thành một khu vuờn xanh tuơi cây trái, cỏ hoa . Trong vuờn, anh Hải đã cho trồng những cây xoài, cây ổi, cây doi, mà tiếng miền Nam gọi là mận, cây na, mà tiếng miền Nam gọi là mãng cầu và nhiều nữa, chen cạnh những khóm hoa giấy, cúc, vạn thọ, hồng ... đuợc săn sóc hàng ngày bởi cô làm vuờn, tên Huờng . Xuôi theo triền dốc là những nhà cửa khác mọc lên trong bốn, năm năm qua, và một khách sạn, mà nguời chủ cũng là nguời bán đất cho anh Hải . Khách sạn này là kết hợp của nhiều nhà chệt nối với nhau bằng những con đuờng lót gạch sạch sẽ, len lỏi duới bóng râm của những tàng dừa . Khách sạn chiếm một vùng rộng nhiều ngàn thuớc vuông, lan xuống tận bờ biển . Những kiến trúc tốn kém, nhưng không hẳn là mỹ thuật, đuợc nguời chủ khách sạn dựng lên trong khu vuờn mà khách sạn chiếm cứ . Các bức tuợng của vài anh hùng trong lịch sử, to cỡ nguời thật, đặt trên bệ cao, chen cạnh những tuợng kỳ quái của nguời cá, của những nhân vật hoạt hoạ quen thuộc của Tây phuơng, nằm rải rác ra đến tận bờ biển, bên cạnh những chòi lá có hình dáng cuả những cây nấm khổng lồ . Cả vùng đất, nửa khách sạn, nửa khu giải trí đó nằm phía triền đồi thấp hơn biệt thự của anh Hải và nằm phía bên kia con đuờng lộ chưa trải nhựa . Muốn ra bãi biển từ nhà anh Hải, nguời ta sẽ phải đi ngang qua đuờng, rồi ngang qua khu khách sạn, hoặc phải đi xa hơn dọc theo đuờng lộ để đến khu bãi biển còn nguyên chưa bị chiếm ngụ bởi tư nhân .

Nguời chủ khách sạn là một nguời giàu có trong vùng, đất đai truyền lại từ đời ông cha . Ông ta bán cho anh Hải, Việt kiều đầu tiên về định cư nơi này . Khi số nguời từ ngoại quốc về muốn mua đất càng ngày càng nhiều, giá đất dần dần tăng lên gấp ba, từ một trăm luợng một công (chừng một ngàn thuớc vuông) lên hai trăm rồi ba trăm luợng . Nguời chủ đất vừa bán đất vừa tư. động dựng hàng rào chiếm thêm đất để rồi Sau một thời gian, "lót đuờng" với giới chức địa phuơng hợp thức hoá quyền sở hữu, biến đất công thành tài sản riêng . Thực ra, vấn đề chiếm đất truớc, hợp thức hoá sau đã xuất hiện khắp nơi, nhất là trong những năm đầu của chế độ mới . Tệ nạn "dĩ công vi tư" này tồn tại cho đến những năm gần đây . Nhiều vùng bãi biển xưa kia quang đãng, nhiều vùng đồi xưa kia bao la, giờ đây đuợc lấp kín bởi những dãy nhà lụp xụp che lấp tầm nhìn .

Nguời ở đâu ra mà nhiều khủng khiếp! Có lẽ cũng là một thứ "baby boom" thời hậu chiến Việt Nam . Trong số bạn bè cũ của anh Hải từ khi còn ở Canada có bốn gia đình nghe lời anh rủ, nhờ anh đặt tiền mua hộ những lô đất xung quanh khu biệt thự của anh . Những nguời định tâm trở về sinh sống ở Việt Nam, cho đến lúc này chỉ có thể mua nhà đất một cách gián tiếp, qua anh em, họ hàng thân tín . Cái danh xưng "Việt kiều" quả đúng là phản ảnh của tính cách ngoại nhân dành cho họ, cũng như danh từ "Hoa kiều" vẫn đuợc dùng để chỉ nguời Hoa sinh sống lập nghiệp ở Việt Nam . Cái danh xưng "khách trú" nếu đuợc dùng để chỉ đám "Việt kiều" có lẽ cũng rất chỉnh .

Sang ngày thứ hai, hai bố con muợn chiếc xe Honda hai bánh của anh Hải chở nhau đi thám hiểm mấy địa điểm đuợc nhắc đến trong cuốn sách huớng dẫn du khách, nhưng anh Hải cảnh giác truớc để anh khỏi thất vọng khi đến thăm tận nơi, nhìn tận mắt những điểm gọi là "thắng cảnh" . Vài đuờng phố chính của quận lỵ, với những nhà ở, những cửa hàng, những tiệm ăn cũ kỹ . Cái bến tàu, và cũng là cái chợ cá, cũng đuợc hai bố con thăm viếng, chụp hình . Đi dăm phút đã về chốn cũ, hai bố con lại chơ? nhau về trên con đuờng huơng lộ, nửa đất nửa sỏi, nhiều chỗ còn bùn đỏ từ trận mưa như trút nuớc đêm hôm truớc, trơn trợt . Thỉnh thoảng có những xe chở hàng phóng như muốn lấn đuờng, chèn các xe nhỏ . Ngay cả cái xứ khỉ ho cò gáy này, giao thông cũng không an toàn chút nào, chưa nói gì đến đại thành phố Saigon .

Thăm viếng như vậy đối với anh tạm đủ để cảm nhận đuợc cái mạch sống của vùng đất này, anh quyết định chỉ ở nhà nói chuyện với anh Hải trong hai ngày còn lại . Ngôi nhà của anh Hải bên trong kiến trúc theo kiểu "open concept" tây phuơng, nên có vẻ thênh thang khoáng đạt . Tầng duới với những phòng khách, phòng ăn, phòng bếp, phon`g giải trí thông nhau, không bị ngăn chia bởi những bức tuờng . Chỉ phòng làm việc của anh là có cửa ngăn riêng biệt . Đồ đạc là những tràng kỷ, ghế tay dựa, đôn bằng gỗ kiểu cổ nặng nề . Cầu thang lót đá bóng, dẫn lên tầng trên với bốn phòng ngủ rộng, cũng bài trí bằng những giuờng tủ gỗ đắt tiền . Ban đêm leo lên sân thuợng, nhìn ra biển sẽ thấy những dãy đèn lấp lánh từ những thuyền câu mực giăng ngang vùng biển tối, trông như có một thành phố về phía đó .

Anh Hải xưa nay vẫn có một cuộc sống đơn độc, không bận bịu gia đình, tận huởng những cuộc du lịch khắp thế giới từ Âu sang Á . Vào những năm mà Việt kiều chưa đuợc về nuớc, hàng năm anh Hải thuờng trở lại một vùng biển hẻo lánh ở Thái Lan, ở đó trọn mấy tháng Hè . Khi anh Hải quyết định về hưu non, sáu năm truớc, anh ấy chọn hòn đảo này làm nơi định cư cho đến lúc già . Qua những năm tháng quen nhau vì là đồng nghiệp công chức, giữa anh Hải và anh, một thứ tình bạn vong niên, trọng nể lẫn nhau dần dần thành hình . Do bản tính kín đáo của anh Hải, phải trải qua nhiều năm, anh mới biết đuợc những nét chính về đời tư của anh ấy . Sinh ra ở miền Bắc Việt, rồi vào Nam đã lâu lắm, giọng nói hoàn toàn là giọng Nam, anh Hải thỉnh thoảng phải hỏi anh những từ ngữ Bắc mà anh ấy không biết . Theo lời của vài nguời quen, anh Hải dời xa gia đình từ lúc còn rất trẻ duờng như dể học tập trong một chủng viện . Anh Hải chưa hề mặc áo dòng, nhưng sống một cuộc đời mẫu mực, ngăn nắp, thể hiện một cách rõ rệt, từ lối sắp đặt ngăn nắp trong nhà đến sự xén tỉa gọn gàng của khu vuờn của bất cứ ngôi nhà nào thuộc về anh ấy . Do một lý do nào đó, anh Hải giữ liên lạc với bạn bè nhiều hơn là giữ liên lạc với những nguời thân trong gia đình . Đêm đầu tiên anh ở đó, ngồi nói chuyện ngoài hiên, anh Hải tâm sự:

- Nhiều nguời ở đây thuờng tò mò về tôi, và hỏi dò những nguời giúp việc cho tôi . Họ thắc mắc tại sao tôi về đây có một mình, vợ con đâu . Tôi nói với họ là tôi goá vợ đã lâu và sống độc thân đã quen . Vậy mà có nguời còn tỏ ý muốn mai mối tôi vơi một cô mới hai muơi lăm tuổi anh ạ!

Sự hiện diện của hai bố con anh hẳn nhiên làm biến đổi một phần nào cuộc sống mực thuớc của anh Hải và hai nguời giúp việc. Anh Hải hỏi anh:

- Buổi sáng tôi thuờng ăn sáng lúc 8 giờ, buổi trưa ăn cơm lúc 11 giờ ruỡi, biểu chiều lúc năm giờ . Có anh và cháu ở đây, ăn cơm chiều như vậy chắc sớm quá phải không? Sáu giờ có đuợc không?

Dĩ nhiên là anh đồng ý . Thế là hàng ngày, những bữa ăn ngon lành, ít nhất là ba món, đuợc dọn ra đúng giờ giấc . Biết thằng nhóc không ăn thịt, anh Hải bảo Dung, cô giúp việc trong nhà, bữa nào cũng phải làm hai món đồ biển hoặc rau đậu cho nó . Dung năm nay hai muơi tuổi, lo việc nấu nuớng và những việc nhà khác . Những qui lệ anh Hải đặt ra cho hai cô giúp việc đuợc tuân theo chặt chẽ, khiến anh có một ý nghĩ ngộ nghĩnh là không biết anh Hải có định in ra thành một tập nội qui hay không . Mỗi khi cơm đã sẵn sàng, Dung mời mọi nguời và hai bố con sẽ theo chân anh Hải đi lại phía bàn ăn . Những món ăn đã đuợc bày ra . Dung xới từng bát cơm đưa bằng cả hai tay cho từng nguời:

- Mời hai chú xơi cơm, mời Thiên xơi cơm .

Anh trao đổi câu mời với Dung và anh Hải, nhớ lại hồi còn bé, trong nhà anh cũng vậy . Truớc khi cầm bát lên, mời ba, mơi me, mời anh, mời chị, rồi mới bắt đầu ăn . Sau này có con, anh không còn giữ truyền thống Bắc kỳ đó nữa . Anh dấu trong lòng sự ngạc nhiên của mình về những lễ nghi mà anh Hải còn giữ đuợc và áp dụng . Tự nhiên trong trí anh nảy ra một ý nghĩ về thành quả của chế độ đuơng thời . Kinh tế thị truờng đuợc áp dụng và đuợc hiểu là kinh tế chụp giựt, bốc hốt, ăn xổi ở thì . Thuơng mại đuỢc đặt căn bản trên sự lỪa đảo, bịp bợm . Xã hội thì đầy giẫy tham ô, tiền giấy lót đuờng, đi đâu cũng lọt, quyền lợi riêng tư đuợc đặt trên quyền lợi chung . Nói chung, cái hủ hoá mà nguời cộng sản gán cho nguời "quốc gia" truớc kia, bây giờ không những đuợc đem ra áp dụng triệt để mà còn đuợc làm cho tinh vi hơn gấp trăm lần . Tham ô bây giờ như một thứ ung thư bất trị, để rồi một ngày nào đó sẽ ăn mòn, xoi thủng đưa đến một sụp đổ toàn diện . Mặt khác, cái biên giới phân chia giai cấp mà nguời cộng sản muốn xoá bỏ lại trở nên rõ nét hơn bao giờ . Những quan hê. phân chia giai cấp nào phải là lề lối của lớp nguời cũ như anh Hải, mà chính giai cấp "truởng giả mới" đã củng cố sự cách biệt giai cấp một cách hết sức tự nhiên . Những cán bộ, chẳng cần phải là cao cấp, cũng đầy dẫy kẻ hầu nguời hạ . Chẳng cần phải có một khả năng quan sát bén nhậy mới nhận thấy sự hiện diện khắp nơi của giai cấp thống trị mới này . Cái giọng bắc kỳ với lối phát âm lạc giọng những chữ mang dấu sắc, những khuôn mặt, nam thì đẹp trai như Phạm Văn Đồng, nữ thì đẹp gái như Nguyễn thi. Minh Khai (dù anh không biết Nguyễn thi. Minh Khai đẹp gái như thế nào) xuất hiện khắp nơi, nắm những địa vị quan trọng, nắm những "jobs thơm".

Cuộc sống của anh Hải thấp thoáng hình ảnh của một nhân vật nào đó trong một cuốn tiểu thuyết Quỳnh Dao: căn biệt thự thênh thang, nếp sống mẫu mực đơn độc, những nguời giúp việc khuôn phép . Buổi tối ngồi truớc hiên nhà nói chuyện, anh Hải nói thêm về những nguời giúp việc của anh: - Tôi trả luơng cho họ rất hậu, không ai có thể trả bằng tôi, và còn giúp đỡ gia đình họ mỗi khi họ cần . Nhưng tôi ra điều kiện cho hai cô này là ngày nào còn làm việc cho tôi thì tôi không muốn các cô ấy có bạn trai . Tôi nói với các cô ấy: các con còn trẻ, lo gì không kiếm đuợc nguời bạn đời đàng hoàng . Khi nào không làm cho chú nữa, hãy nghĩ đến chuyện đó . Nếu các con không đồng ý thì cứ nói cho chú biết, nhưng đó là điều kiện của chú . Hai cô ấy than là làm việc cho tôi mà cứ như sống trong một tu viên anh ạ . Thực ra thì đâu đến nỗi thế. Anh nẩy ra một ý tuởng ngộ nghĩnh về cái điều "nội qui" khá khe khắt này của anh Hải . Nếu có bạn trai sẽ phải nghỉ việc, thì ra tình và tiền không đuợc đi đôi với nhau!

Một qui lệ nữa của anh Hải là các cô không được nhận tiền bạc các khách của anh Hải tặng . Vì vậy, ngay hôm đầu tiên, khi anh đưa cho Dung một tờ bạc, không nhiều nếu tính ra tiền ngoại quốc, nhưng tương đương với khoảng một phần năm số lương tháng của Dung, cô này nhất định từ chối . Khi anh nói với anh Hải thì anh Hải cho biết đó là qui lệ anh đặt ra .

Ngoại trừ cái dấu hỏi liệu hai cô giúp việc có làm lâu cho anh Hải được không, với những điều kiện anh Hải đặt ra, anh Hải dành cho họ mọi sự tin cậy, và giao cho họ toàn quyền trông coi nhà, mỗi khi anh có việc đi xa . Sống ở một nơi thôn dã xa lạ, dĩ nhiên việc giao tế, hoà đồng với lối sống địa phương là điều cần thiết . Anh Hải lần hồi tạo được thân tình với một số giới chức địa phương, nhưng đồng thời cũng nhận được những dấu hiệu đố kỵ . Anh Hải thố lộ:

- Có những người quí mến tôi, nhưng cũng có những người cho rằng tôi là một trong những kẻ ngồi nhà mát ăn bát vàng . "Xưa kia lúc còn tranh đấu, thì các anh không dự vào, đến bây giờ yên ổn, trở về ăn trên ngồi chốc" . Anh biết không, họ để ý cả cái phone bill của tôi và nói qua hai cô giúp việc, không biết ông Hải làm gì mà dùng điện thoại nhiều thế, tháng nào cũng một cái danh sách dài . Thế là tôi lại phải bắn tin là tôi dùng Internet, một phương tiện truyền thông phổ biến khắp nơi mà nhà nước cũng đang khuyến khích . Bị dòm ngó như vậy đó, anh thấy có chán không ? Còn nhiều việc khác mà tôi cứ nhắm mắt làm ngơ, xin hai chữ bình an .

Rồi cũng đến ngày từ giã . Hai bố con đến thăm anh Hải tổng cộng chỉ có bốn ngày, nhưng kiến thức thâu nhận được rất quí giá . Dường như để cho cảm tưởng về nơi này được sâu đậm hơn, hai bố con phải chứng kiến thêm một điều nữa trên xe taxi ra phi trường . Chiếc xe ngon trớn chạy, từ xa một con chó bắt đầu băng ngang con lộ, người tài xế thản nhiên như không nhìn thấy con vật, không giảm tốc độ, không đạp thắng . Anh ngồi cạnh nghiến răng:

- Con chó! Coi chừng con chó!

Vừa nói, chân anh vừa đạp xuống sàn xe như thể đạp lên bàn đạp thắng . Bóng con chó bị thân xe che khuất . Một tiếng "thịch" của da thịt con vật dội vào sắt thép . Anh ngoái cổ nhìn lại phía sau, trông đợi xác con vật nằm dẫy chết trên mặt lộ, nhưng chỉ thấy con vật khốn nạn tấp tểnh băng sang bên kia đường . Nhìn sang cái mặt thản nhiên mỉm cười của gã tài xế, anh chỉ muốn đấm cho hắn một quả . Cái đồ chó chết! Anh thầm nghĩ .

Hai bố con ra đi, trả lại sự phẳng lặng cố hữu cho biệt thự Maria . Ngồi trên máy bay nhìn xuống dải giang sơn xanh mướt như gấm vóc, trải dài dưới kia anh nghĩ đến một thời điểm nào đó, có lẽ là xa lắm trong tương lai, khi hòn đảo đã trở thành văn minh, phồn thịnh, người trong vùng, mỗi khi kể cho nhau nghe về sự phát triển của hòn đảo, sẽ nhắc đến ngôi biệt thự của anh Hải như một trong những cái mốc đầu tiên cắm xuống bởi những người từ xa quay về . Họ sẵn sàng chấp nhận mọi thử thách, âm thầm dệt lại cái miếng vải xã hội rách nát bằng những sơi tơ, sợi chỉ bền chắc, thấm nhuần trong môi trường tự do từ bao năm qua . Hiện tại thì dường như tấm vải thô còn chưa trong tầm với, đến bao giờ đất nước này mới trở thành gấm vóc mượt mà ?

(còn tiếp)
tvk
#2 Posted : Tuesday, February 8, 2005 12:54:09 AM(UTC)
tvk

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 305
Points: 0


Nhatrang

Bây giờ anh kể cho Nhóc tì nghe tiếp về những chặng đuờng Việt Nam khác. Anh từ đảo kia trở lại Sài Gòn, ở vài hôm rồi đáp xe lửa đi Nha Trang .

Toa tàu là hạng giuờng "mềm", có máy lạnh, nghĩa là thuộc vào hạng "chất luợng cao", nói theo danh từ thông dụng ở Việt Nam bây giờ . Nào là quần áo chất lương cao, tiệm ăn chất lượng cao, khách sạn chất lượng cao ... Toa tàu có bốn giường ngủ, nhưng hôm đó chỉ có hai bố con, nên sự không phải chung đụng với người khác cũng là một lý do khiến chuyến xe lửa, vốn là một phương tiện di chuyển an nhàn, lại càng thêm dễ chịu . À, Nhóc tì này, chỉ có một người anh muốn chia cái "privacy" lúc đó... Đứng ngoài hành lang nhìn qua khung cửa kính xe lửa, ừ, giá mà có Nhóc tì, hẳn là anh đang khoác vai Nhóc tì chỉ trỏ ... Anh lấy mấy lon bia lạnh ra, dựa cửa kính uống và lại nghĩ: Ừ, nếu có em, anh sẽ cho em thử mấy hớp, chia nhau cái lâng lâng, choáng váng nhẹ nhàng . Con tàu lao đi trên con đuờng sắt, xuyên qua những khu dân cư đông đúc, san sát nhà cửa, như vô tình đối vơi sự an toàn của dân cư sinh sống sát cạnh đuờng sắt . Sự an toàn của họ lệ thuộc một cách rất mong manh vào những thân cây gỗ hạ xuống, tạm thời cắt ngang dòng xe cộ đông đảo, nhường chỗ cho con tàu . Anh tự hỏi không biết hàng ngày dọc theo con đuờng sắt, có bao nhiêu thảm kịch xảy ra . Cái mạng sống của con dân một nuớc nghèo khổ, cái khó bó cái khôn, luôn luôn rẻ mạt . Anh lan man nghĩ đến những cái khốn khó khác của đất nước này đã gò bó lấy những giải pháp liên quan đến y tế, ô nhiễm môi sinh, an ninh xã hội . Anh nhớ đến những đoạn tin về sự tái xuất hiện của bệnh "cúm gà", về những con buôn gian manh vội vàng làm thịt hàng loạt gà để tung ra thị trường với giá rẻ khi vừa khám phá ra một số gà mang triệu chứng "cúm", anh nghĩ đến nỗ lực đáng ngờ, những hành động tắc trách của nhà cầm quyền, không đủ để bảo vệ chính những nhân viên có nhiệm vụ diệt bệnh . Cái khó bó cái khôn và bó chặt lòng người, thắt chặt thêm lòng ích kỷ của con người, hay chính lòng ích kỷ, tham lam của con người đưa đến sự khốn cùng ? Làm điều phạm pháp trắng trợn, nguy hiểm đến tính mạng của thiên hạ mà vẫn có thể trốn tránh sự trừng phạt, vì mọi thứ đều có thể mua đuợc bằng tiền . Tiền khiến nguời ta đặt cái lợi riêng của mình lên trên lợi công .

Một thanh niên từ toa bên cạnh cũng buớc ra hành lang, đứng tựa cửa kính nhìn ra ngoài . Anh bước lại gần, gợi chuyện:

- Anh có biết khi nào thì tới Phan Rang không ?

Người thanh niên, có lẽ khoảng ngoài ba mươi, nhìn anh trả lời:

- Chắc chỉ chừng gần một tiếng nữa là tới .

Anh gợi chuyện tiếp:

- Anh đang trên đường đi đâu vậy ?

- Tôi quay về lại Phan Rang . Nhà tôi ở đó .

- Anh đi Sài Gòn chơi trở về à ?

- Không, tôi đi công tác có hai hôm . Họp xong, trở về .

- Chắc anh làm công chức ?

- Vâng, tôi làm cho Kho Bạc Nhà Nước .

Anh và nguời thanh niên trao đổi với nhau những câu về ngành tài chánh của anh ta, liên quan đến việc cho vay để phát triển nông nghiệp, những chuyện lặt vặt chung quanh sự khó khăn trong việc đòi lại những khoản tiền nhà nước cho vay, rồi sang đến những vấn đề chung chung liên quan đến ngành tài chánh, việc học, mức lương trung bình, giá sinh hoạt . Luơng bổng thì như anh đã mường tượng, một tháng luơng của một nguời mới ra trường còn ít hơn một ngày lương của một người thư ký bên kia đại dương . Tiền thuê một căn nhà trọ cho một gia đình nhỏ ba người bằng tiền anh thuê taxi hai ngày đi chơi Sài Gòn . Anh cũng trao đổi với anh ta những điều về xã hội bên kia . Câu chuyện đưa đến một sự so sánh về đời sống ở hai nơi . Người thanh niên nhận xét:

- Đời sống ở Việt Nam so sánh với bên Mỹ ổn định hơn .

Câu nói làm anh cảm thấy buồn cuời, nhưng khi nhìn mặt nguời thanh niên và không tìm thấy nét khôi hài nào, anh hỏi:

- Tại sao anh nghĩ vậy ?

Người thanh niên trả lời:

- Bên Mỹ nghe nói tội phạm lan tràn, cộng thêm vấn đề chống khủng bố, là mối lo hàng đầu của chính phủ Mỹ .

Anh nói:

- À thì ra vậy. Đối với một nuớc lớn 290 triệu người, nếu không có tội phạm, thì là thiên đường còn gì . Ở Mỹ những gì xảy ra đều được nhà báo phơi bày, không phải lựa chọn xem tin nào đuợc đăng, tin nào không . Cái ổn định của nuớc Mỹ hay bất cứ một nước dân chủ tây phương khác nằm ở ngay đây! - Vừa nói, anh vừa đưa ngón tay gõ vào trán mình - Cái tinh thần thượng tôn luật pháp của hầu hết mọi người, tinh thần tự giác của hầu hết mọi người mới chính là căn bản cho sự ổn định của một xã hội. Nếu anh đem những văn kiện luật pháp, những bộ luật hình sự của một nước văn minh tiến bộ ra so sánh với những luật lệ của một nước độc tài, lạc hậu, anh sẽ thấy những luật lệ đó y chang như nhau, không khác gì hết! Cũng hình phạt đó, cũng những đòi hỏi khắt khe đó, và có khi luật lệ của nuớc lạc hậu kia còn khắt khe hơn luật lệ của nước tiến bộ nữa là khác! Nhưng sự hữu hiệu của luật pháp không phải là cái đẹp trên giấy in, mà chính là do cái tinh thần tôn trọng luật pháp của dân chúng . Trong một nước dân chủ, văn minh, cái tinh thần đó nó ăn sâu vào đầu óc nguời dân, người ta nhìn rõ cái tương quan nhân quả của hành động phạm pháp và sự trừng phạt, chứ không phải là một sự hoang mang tự hỏi: liệu kẻ phạm pháp có tiền chạy tội không, tôn trọng luật pháp có lợi gì không, hay bị coi là đồ ngu . Cái thiếu ổn định của xứ Việt Nam này là như vậy đó . Tham nhũng, hối mại quyền thế đuợc coi là nền tảng của mọi sinh hoạt, thì thử hỏi cái bề ngoài "ổn định" có thể hiện sự thật không hay chỉ là sự che dấu những ung thối, mục rữa ngấm ngầm ? Tôi xem những chương trình truyền hình mà có cảm tưởng, một là dân chúng có trình độ thấp kém, hai là những thông tin tuyên truyền chỉ nhắm ru ngủ một đại đa số yếu kém ? Những bài học công dân giáo dục sơ đẳng, nêu cao những giá trị tinh thần cao quí như: lao động tốt, cố gắng hơn nữa để phục vụ dân, niềm hạnh phúc của nguời tiêu thụ là niềm hạnh phúc của nguời công nhân quèn, đuợc đưa ra lập đi lập lại để ru ngủ tầng lớp công nhân, nông dân, và trẻ em, biến họ thành những người dân ngoan ngoãn . Trong lúc mà tầng lớp ngờ nghệch này đuợc ban cho những thú tinh thần cao quí, thì ở tầng trên cao là những trò điên đảo, tham ô, hàng tỉ đô la, diễn ra như cơn lốc xoáy! Theo ý tôi, cái mà anh nghĩ là sự ổn định của Việt Nam này, có lẽ không phải là sai, nhưng đó chi là cái lớp sơn tạm bợ bên ngoài mà thôi .

Người thanh niên lắng nghe những lời nói ôn hoà của anh, gật gù, không nói gì thêm . Con tàu sẽ đến Phan Rang không bao lâu nữa . Nguời thanh niên bắt tay anh từ giã rồi trở vào toa tàu của anh ta sửa soạn hành lý .

Thiên ra đứng cạnh anh, lặng lẽ nhìn ra ngoài đồng lúa di động vùn vụt ngược chiều . Anh hỏi con:

- Cho đến lúc này, con nghĩ sao về Việt Nam ?

Hướng về phía những người lom khom xa xa trên ruộng lúa, nó nói:

- Con đang nghĩ không biết những người nghèo kia họ có sung sướng hay không .

Trong trí còn vấn vương những ý nghĩ mới trao đổi với người thanh niên toa bên kia, anh cố trả lời câu hỏi không dễ trả lời của con:

- Ai cũng có lúc vui, lúc buồn, lúc sướng, lúc khổ, cho dù người đó nghèo hay giàu . Nhưng bố nghĩ cuộc đời người ta bị chi phối rất nhiều bởi yếu tố "may mắn". Chúng ta có cái may mắn là đã trở thành công dân của một nuớc tự do, ổn định . Cái an bình của đất nước mình sinh sống đóng một vai trò rất lớn trong cái an bình cá nhân . Nếu những nguời kia có cái quyền lựa chọn như chúng ta, bố nghĩ là họ sẽ chọn sự ổn định của đất nước mà chúng ta sẽ quay trở lại sau chuyến đi này đó con .

Thiên không nói gì. Anh biết nó có những tư tưởng rất sâu sắc, mà bình thường nó sẵn sàng bộc lộ. Hôm nay vì một lý do nào đó, nó chỉ yên lặng. Anh ngắm nhìn những cánh đồng mênh mông, những rặng núi, và những bờ cát uốn cong ven biển . Lần lượt, những địa danh: Muờng Mán, Tháp Chàm, Phan Rí, Phan Rang đã hiện ra, rồi lui lại đàng sau như một cuộn phim diễn ra trên màn ảnh . Cuối cùng, con tàu đã đến Nha Trang, từ từ chậm lại tiến vào sân ga . Ngày xưa còn bé, anh đã ở thành phố này, đã đi ngang sân ga này, nhưng đây là lần đầu tiên anh đến đây với tư cách một du khách. Sân ga cũ kỹ, với những toa tàu, những đường sắt như bao sân ga khác . Rời khỏi toa tàu, bước vào cái nóng hầm hập, anh không cảm thấy nỗi háo hức của ngày trở về thăm lại chốn xưa, mà ngược lại, sẵn sàng trông đợi những mất mát, thờ ơ của một thành phố lạ.

(còn tiếp)
tvk
#3 Posted : Friday, February 11, 2005 6:27:40 AM(UTC)
tvk

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 305
Points: 0

Nhatrang

(tiếp theo)

Xe taxi đi qua những đường phố cũ, với những cái tên mới, và bộ mặt sầm uất mới . Những khu nhà ở bây giờ trở thành những khu thương mại . Cũng như ở Sài Gòn, thành phố Nha Trang chen chúc, hỗn loạn những người và xe cộ, đa số là xe gắn máy . Con đường bờ biển, ba mươi năm trước hẹp và vắng, bây giờ rộng và tấp nập . Một bên đường là bãi biển với rất nhiều công trình xây cất, có chỗ làm tăng vẻ đẹp của bãi biển, có chỗ bưng bít hết bờ biển . Bên kia đường phía trong thành phố là nhiều dinh thự mới chen lẫn những biệt thự cũ kết hợp thành khu thương mại, với những cửa hàng, nhà hàng ăn, khách sạn, bên cạnh những công sở . Dọc theo lề đường là những quán nhỏ, mà tất cả vốn liếng nằm trong cái tủ hình chữ nhật, nửa gỗ, nửa kính, có bốn bánh xe nhỏ, có thể di động được . Những tấm bạt được căng ra cạnh đó làm mái cho cái cửa hàng của họ, hoặc nếu là quán ăn, những bàn ghế thấp được bày ra sẵn sàng đón khách . Cũng như Sài Gòn, thành phố Nha Trang là nơi tiếp nhận lớp sóng người tư miền Bắc, miền cực Trung, các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, đổ vào Nam, lập nghiệp hoặc đầu tư . Họ có mặt khắp nơi, giàu thì là chủ khách sạn, nhà hàng, buôn bán lớn, nghèo thì làm đủ nghề, lái taxi, chạy xe thồ, làm thuê làm mướn .

Anh định sẽ đưa con đi thăm những nơi quen thuộc đối với anh hồi nhỏ, nhà cũ, trường học cũ, hòn chồng, tháp bà . Bạn cũ chẳng còn ai, Hoàng đã chết, Bình cùng gia đình đi vùng kinh tế mới, hình như Long Khánh, biệt tăm từ lâu, chỉ còn vài cái tên người quen mà một người bạn đưa cho anh bên Canada . Anh sẽ tìm đến nhà cũ của Hoàng để thăm bà mẹ và người anh nếu họ còn ở đó, và sẽ hỏi họ về những người khác . Xe chạy ngang ngôi trường cũ mang tên Võ Tánh, ngang ngôi trường nữ trung học, có cái tên cũ là Huyền Trân, anh chợt nhận ra là mình không cảm thấy xúc động bồi hồi như anh tưởng, và nhận thức này làm anh bối rối tự hỏi ta vô tình với cảnh, hay cảnh vô tình với ta ? Có phải vì người quen, bạn cũ không còn nên lòng ta dửng dưng ? Anh loay hoay tìm câu trả lời, để rồi tư tưởng lại quay về với Nhóc tì .

Nếu có em ở đây, anh sẽ không dấu được sự náo nức, đưa em đi thăm những nơi ghi lại những kỷ niệm của anh ngày còn bé . Anh sẽ nhớ ra rất nhiều chỗ để khoe em, và biết rằng em cũng sẽ háo hức không kém muốn biết về cái quá khứ đã bảo bọc anh . Này nhé, anh sẽ đưa em đi tìm cái vết anh khắc trên thân cây sau ngôi trường cũ, anh sẽ đưa em băng ngang khu ruộng bắp đến tận bờ sông ngày xưa trốn học đi chèo thuyền với thằng Quốc, thằng Hạnh, thằng Xuân, anh sẽ đưa em tìm đến tận ngôi thánh đường đá xám trên dốc cao, tìm đến tận cái cửa sổ ghép bằng hàng ngàn miếng kính đủ màu, đủ hình dạng, sẽ chỉ cho em xem dấu vết của trò nghịch ngợm thiếu suy nghĩ tuổi nhỏ, những góc cửa sổ mà những mảnh kính màu bị cạy gỡ đi, để trơ ra cái khung kim loại mềm . Và quan trọng hơn cả, anh sẽ có em bên cạnh để làm chứng cho anh chuộc lại lỗi lầm thơ dại . Những miếng kính màu cửa sổ nhà thờ bị anh lấy đi ngày xưa sẽ được anh trang trọng thay thế bằng một thứ kính vạn hoa, một thứ kaleidoscope tâm hồn mà chỉ có em và anh có thể thấy được . Phải, nếu có Nhóc tì ..."

Taxi đưa hai bố con, anh và Thiên, đến một khách sạn trên con đường bờ biển . Sáng hôm sau, hai bố con ghi tên đi chơi biển, thăm những hòn đảo trong vùng biển Nha Trang . Du khách tây và Việt khoảng 50 người, leo lên chiếc tàu dài khoảng 30 thước . Ghế ngồi là những băng gỗ ở giữa và dọc hai bên thành tàu . Cái tàu nhỏ nhưng thành phần gồm đủ thứ quốc tịch, Việt, "Việt kiều", Pháp, Đức, Nhật, Úc . Chuyến đi không có gì đặc biệt . Hai hướng dẫn viên, một Nam một Bắc, thay phiên nhau tìm cách làm vui hành khách bằng những câu giới thiệu hài hước bằng ba thứ tiếng Việt, Anh, Pháp . Anh không buồn cười vì những câu khôi hài nhạt nhẽo của họ, nhưng xúc động vì những cố gắng sinh nhai bằng một cái nghề phóng khoáng, gần gũi với sóng nước . Biết đâu hai con người đen xạm, khắc khổ kia, trao đi niềm vui để đổi lấy những đồng tiền người đồng hương đem về, chẳng là hai người lính cộng hoà năm nào .

Tàu đi qua bốn hòn đảo, nhưng chỉ ghé vào đảo có cái tên Bãi Trù . Du khách lên bờ thuê ghế bố ngồi dưới những lều tranh hoặc xuống nước bơi . Tàu ngưng lại gần một đảo khác có tên Bãi Miếu, bỏ neo gần bờ cho khách nhảy xuống biển bơi . Bữa trưa, nhân viên tàu gấp các ghế lại thành một cái sàn bằng phẳng, rồi dọn các món ăn ra cho khách ngồi bệt xuống xung quanh ăn . Họ dọn ra một "mâm" thứ hai ở trên mui tàu bằng phẳng và có lan can, che bạt cho khỏi nắng . Anh và Thiên Bảo leo lên nhập vào nhóm trên mui . Các món ăn một phần được làm trên tàu, một phần mang từ bờ . Anh vốn ăn uống rất dễ dãi, như anh thường nói với Nhóc tì, nhưng lúc đó, ăn uống gượng gạo, có lẽ vì trời quá nóng làm hết đói . Lúc đó anh chỉ cần một lon bia, và một cái ghế để ngả ra, thay vì phải ngồi khoanh chân bó gối một cách khó chịu xung quanh hàng chục món ăn cầu kỳ, chả giò, mực nhồi thịt, và gì gì nữa, bày giữa cái sàn ướt át . Thằng nhóc thì hoàn toàn không đụng đến món ăn nào dù anh cố thuyết phục .

- Từ trước đến giờ con không bao giờ bị say sóng, dù đi xe, đi máy bay, đi tàu, sao hồi nãy con nôn hết ra vậy ?

- Con không say sóng mà khó chịu và buồn nôn từ lúc ăn món trứng chiên với bánh mì buổi sáng ở khách sạn . Không hiểu họ chiên bằng thứ dầu gì .

- Nếu vậy ăn trái cây đi . Mình đi cho đến chiều, nếu không ăn gì sẽ rất mệt .

- Không, con không muốn ăn gì hết . Cứ nghĩ đến đồ ăn là con buồn nôn rồi .

Ngồi khoanh chân cạnh anh là một cô gái "Việt kiều" Pháp, đi cùng với anh bồ tây . Anh quay qua gợi chuyện bằng một câu gì đó về món ăn hay về nước Pháp, nơi cô ta ở, thế là Ti Ti (tên gọi ở nhà của cô) vui vẻ quay qua nói chuyện không ngừng, quên cả ăn, bỏ mặc anh bồ tây ngồi ăn một mình . Hồi nãy ở dưới khoang, nét mặt nhìn nghiêng, cặp kính đen sậm trên sống mũi, không che dấu được cặp mắt đưa qua đưa lại quan sát, Ti Ti có vẻ như sắc xảo, tương phản với cái môi trên nhọn nhọn, cái miệng mở hé, trông như ngờ nghệch, bây giờ khi nói chuyện, cái phần sắc xảo lấn cái phần ngờ nghệch một cách không thể chối cãi .

Ti Ti sống ở Marseille, được nghỉ hè ba tuần, về Việt Nam lần này là lần thứ năm, có gia đình ở Huế. Câu chuyện xoay quanh về những kinh nghiệm du lịch Việt Nam của Ti Ti . Nào là nên đi máy bay, không nên đi xe đò, nào là những cái tours bao giờ cũng được quảng cáo thật màu mè, đầy hình ảnh hấp dẫn, nhưng sự thật chán phèo, nào là khách sạn gạt gẫm khách, nào là nên đi Hà Nội, chứ không nên đi Huế trừ năm có hội lớn, như năm nay . Bữa ăn kết thúc và người ta bắt đầu dọn dẹp, anh quay sang nói chuyện với Thiên, quay lại anh bồ tây của Ti Ti đã chen vào ngồi giữa anh và Ti Ti, xoay cái lưng về phía anh . Cười thầm trong lòng, anh chào Ti Ti rồi cùng Thiên xuống khoang tàu bên dưới để tàu chuẩn bị đi tiếp sang hòn đảo khác .

Tàu quay lại Nha Trang lúc xế chiều . Về đến khách sạn, Thiên không muốn ăn gì, chỉ leo lên giường ngủ. Anh đi ra phố ăn một mình, buồn buồn vì con không khoẻ . Những hoạt cảnh thường nhật diễn ra, xe gắn máy chạy như điên, ồn ào, nóng nực, những mời chào ...

- anh ơi đi xe không?

- anh ơi đi chơi không, có con nhỏ này làm thợ may ngon lành lắm, có nhà riêng đàng hoàng .

- go ride ? go ride ?

Ăn xong, anh đi tìm cháo mua về cho thằng nhóc . Khuya đó nó lên cơn sốt, ăn gượng gạo chút cháo đồ biển, rồi ngủ tiếp . Nó trằn trọc lăn qua, lăn lại, đầu sờ khá nóng . Mong sao nó chỉ khó chịu tạm thời và không phải là triệu chứng của bệnh gì khác . Ở một nơi xa xôi như thế này, phương tiện y tế chậm chạp, đáng ngờ . Nếu cần phải điều trị, biết có an toàn không ? Áng mây mờ lo âu năm nào kéo về trong trí anh, cái lần nó chín tuổi phải vô bệnh viện vì một triệu chứng về tim . Bố là người đưa con về đây, để cho con thấy nơi bố sinh ra và lớn lên như thế nào, nhưng nếu vì vậy mà con ngả bệnh trong tình trạng thiếu thốn về y tế, bố sẽ ân hận vô cùng.

Anh không ngủ được sau khi nói chuyện điện thoại với em, lấy sách ra đọc được mấy trang thì đèn tắt phụt . Thật là đáng ngại . Anh nhấc thử điện thoại thì thấy không dùng được vì không có điện . Anh tính toán trong đầu xem sẽ phải làm gì nếu điện bị cắt lâu . Đêm mùa Hè nhiệt độ khoảng 36, 37 độ C. Bước ra khỏi cửa luồng khí nóng dày và nặng bao bọc lấy thân người, làm sao cho cơn sốt của con bớt đi nếu máy lạnh không chạy một thời gian lâu ? Có lẽ sẽ phải nằm xuống sàn gạch, và tắm nước lạnh . Anh cởi trần nằm xuống sàn đá mát lạnh và cảm thấy yên tâm phần nào vì đã tìm ra cách khẩn cấp làm bớt nhiệt độ trong người . Anh chạy cầu thang xuống tầng dưới lấy nến ở front desk . Cũng may, điện lại có sau khoảng chừng 45 phút .

Từ hôm đó cho đến hết mấy ngày còn lại ở Nha Trang, thằng nhóc bị nôn nao, đau bụng, không thiết ăn uống . Nghĩ đến đồ ăn làm nó buồn nôn nên chỉ ăn qua loa mấy gói mì ngâm nước sôi anh mua cho nó . Mấy hôm sau thì khỏi hẳn. Cái câu hỏi làm sao để khỏi bị nhiễm độc vì ăn uống là một nỗi ám ảnh liên tục trong trí của hai bố con . Trước khi đi, anh và nó đã chích ngừa, mua đem theo thuốc trụ sinh, thuốc đau bụng theo toa bác sĩ . Đến Việt Nam, rau sống, nước đá không dám đụng đến, tránh những quán lề đườmg, dù ăn trong tiệm cũng chưa chắc đã sạch sẽ hơn nhiều . Ai cấm họ "rửa" bằng cách nhúng bát đĩa vào một cái thùng nước cho hết vụn đồ ăn, rồi đem ra dùng cho khách đến sau? Nếu cơ thể con người không có sức đề kháng tự nhiên, có lẽ anh đã ngả bệnh từ lâu rồi .

Đứng trước cái cổng mang địa chỉ cũ của Hoàng nhìn vào, anh nhận ra ngôi nhà của ba mươi năm trước vẫn còn đó, nằm thụt vào bên trong, trên khu đất giáp hai mặt đường . Góc của lô đất, trước kia chỉ là hai mặt hàng rào, bây giờ là một nhà hai tầng, có cửa sắt xây theo lối cửa hàng . Anh nhấn chuông . Một người đàn bà từ trong nhà đi ra, băng ngang khoảng sân lát gạch, mở cổng .

- Chị làm ơn cho tôi hỏi thăm, đây có phải là nhà Hoàng không ? Tôi biết Hoàng đã mất, nhưng không biết gia đình Hoàng có còn đây không ?

Người đàn bà trẻ , thoáng tươi nét mặt, đưa tay chỉ sang ngôi nhà mới, cửa sắt theo lối tiệm buôn, ở góc đường, mà anh đã thấy, nói:

- Bây giờ nhà vợ anh Hoàng ở bên kia. Anh sang đó sẽ gặp chị ấy.

Anh cám ơn rồi đi về phía đó. Bước vào cửa tiệm, anh trông thấy người đàn bà anh đoán là vợ Hoàng, đứng sau tủ kính quầy hàng, nét mặt tươi tỉnh . Anh gật đầu chào, chị đáp lại, mắt đăm đăm nhìn . Anh hỏi:

- Chị có phải là chị Hoàng không ? Tôi là bạn của Hoàng .

Người đàn bà mỉm cười:

- Anh có phải là anh Huy, Nguyễn Huy, không ?

Anh cười ngạc nhiên:

- Vâng, đúng tôi đây . Chưa gặp chị lần nào mà sao chị biết cả tên lẫn họ tôi ?

- Tôi vẫn còn tấm hình anh gửi cho anh Hoàng từ trước khi chúng tôi lấy nhau . Đã hai chục năm rồi mà trông anh không khác chút nào . Khi anh Hoàng còn sống, anh ấy nói về anh rất nhiều .

Anh chợt nhớ lại đã gởi cho Hoàng tấm hình của anh và Minh Hương chụp trong một công viên . Khi ấy cuộc đính hôn của Hoàng với một người con gái khác vừa phải bỏ dở. Sau đó Hoàng kết hôn với người vợ hiện thời lúc nào anh không biết . Anh cảm động nói:

- Vậy hả chị ? Tôi thật ân hận là đã không liên lạc với Hoàng thường xuyên hơn . Về thăm được thì Hoàng không còn nữa . Từ bên Canada, năm ngoái tôi đã nghe một người quen nói là Hoàng mất .

Chị Hoàng mời anh ngồi rồi rót nước ra ly mời anh . Chị nói tiếp:

- Cuộc đời anh Hoàng lận đận về mọi phương diện, kể cả phương diện tình cảm anh ạ . Anh Hoàng cũng kể hết cho tôi về cô fiancée . Mười năm sau ngày giải phóng, anh Hoàng đính hôn, và cùng gia đình cô fiancée vượt biên . Không may cuộc vượt biên thất bại, cả anh Hoàng và cô ấy bị bắt giam . Gia đình cô ấy chạy cho cô ấy ra trước . Anh Hoàng trốn được ra sau, nhưng phải trốn tránh không dám về nhà . Cuộc hôn nhân coi như huỷ bỏ, rồi gia đình cô kia đi thoát . Anh Hoàng quay về, cố đi vượt biên cùng với gia đình anh Bình mấy lần nữa nhưng cũng không được . Anh Bình bỏ đi Long Khánh làm rẫy và từ đó đến nay không có tin tức gì nữa . Chúng tôi lấy nhau có được hai cháu, đứa lớn là con gái, đang học đại học ở Sài Gòn . Anh Hoàng bị ung thư gan, khi khám phá ra thì gan đã nát như tổ ong, đưa vô Sài Gòn mổ không ăn thua gì, rồi lại đưa về lại Nha Trang cho đến khi anh ấy mất . Năm ấy là năm 1990, đến năm sau thì má anh ấy mất, có lẽ vì đau buồn .

Nghe những lời kể của chị Hoàng, anh nao nao nhớ lại những ngày tháng rong chơi với bạn bè năm xưa, hai thằng bạn thân bây giờ không còn nữa . Những ván bi-da ồn ào như mới hôm nào, với hình ảnh hai thằng có lẽ không bao giờ anh quên được . Anh nhớ câu chửi thề theo kiểu bắc kỳ của thằng Hoàng, dù nó là người Trung, mỗi khi được một cái "giò gà" ngon lành, tạo bởi vị trí ba quả banh, mà một trong hai thằng kia vô tình tạo ra cho nó:

- Đị .. M..! Ông được cái giò gà, hế hế hế!

Anh nhớ điệu bộ thằng Bình "phệ" mỗi khi chọc được một cú đẹp, quả banh từ từ lăn, nó vẹo vẹo cái mông, làm như có thể lái quả banh chạy theo ý nó, trong lúc miệng dài ra kêu:

- Mướt, mướt, mướtttttttttttttt . Hé hé hé!

Em biết không, anh vẫn còn thiếu hai đứa một chầu bò viên vì thua ván bi-da chơi với chúng nó lần cuối cùng, trước ngày gia đình anh di tản vào Sài Gòn, vào cuối tháng Ba năm đó . Ước gì có một phép màu nào đó để anh được trả hai thằng bạn món nợ ba mươi năm trước. Bình "phệ" ơi, có bao giờ tao được gặp lại mày để cùng cười vui, ôn lại kỷ niệm xưa, và cùng âm thầm nuốt những giọt nước mắt nhỏ xuống cho thằng bạn đã mất đi trong khốn khó, đau buồn? Hay chính mày cũng không còn nữa trên đời này?

Chị Hoàng kể cho anh nghe về hai đứa con và tính tình mỗi đứa . Đứa con gái gần gũi với chị hơn, đứa con trai thì trầm lặng . Cả hai đứa đều chăm chỉ và học giỏi . Anh đem chuyện của mình ra chia xẻ với chị Hoàng và trấn an chị ấy về những lo âu về các đứa con tuổi mới lớn .

Anh hỏi chị Hoàng địa chỉ vài người quen nữa, rồi đứng lên chào ra về, sau khi để lại cái phong bì mà anh đã mang theo trong túi:

- Chị cho tôi gửi cái này cho các cháu.

Từ giã chị Hoàng, anh căn cứ vào địa chỉ chị Hoàng cho, tìm đến nhà anh Sơn, anh của Hảo, một thằng bạn cũ . Anh không thân với Hảo, nhưng anh vẫn tìm đến nhà người anh, hỏi thăm xem bây giờ nó ra sao .

Tiệm bán đồ kỷ niệm của hai vợ chồng anh Sơn nằm trên con đường mang tên Biệt Thự. Đường này vẫn giữ cái tên cũ, là một trong những đường đâm thẳng ra bờ biển. Con đường, trước kia luôn luôn yên tĩnh như cái tên của nó, bây giờ đã trở thành khu buôn bán đông người .

Dung mạo, hình dáng anh Sơn của ba mươi năm trước, anh chỉ nhớ mang máng, tóc dài chấm vai, gầy gò, cao lêu khêu, dáng điệu ăn chơi . Thời đó, làm luật sư mà giàu có, nhất là còn rất trẻ như anh Sơn, thì chắc chắn là phải làm những "áp-phe" không liên quan gì đến khả năng chuyên môn . Anh còn nhớ anh Sơn lái chiếc xe Toyota màu xanh mới tinh duy nhất, cả thành phố không ai có . Cả nhà bốn năm anh em trai ở với nhau, mẹ đã mất, bố không biết ở đâu . Anh Sơn lớn nhất, có lẽ chưa đến ba mươi tuổi, còn mấy đứa em trên dưới hai mươi, vậy mà không đứa nào "đi quân dịch vì thương nòi giống" như lời của một bài hát dạo đó. Có lẽ cái việc miễn dịch của mấy anh em nhà này có liên quan đến những đồng tiền vô như nước từ những "áp-phe" của anh Sơn . Thuở ấy, sự khôn ngoan của con người được uốn nắn theo một khuôn mẫu kỳ lạ của thời thế . Những khía cạnh xấu xa nhất của bản năng con người nổi bật lên thành một thứ khuôn mẫu sáng chói làm mù mắt biết bao người . Ở vào cái thời mà sinh mạng con người mong manh vì chiến tranh, cả một kỹ nghệ phồn thịnh nẩy sinh từ nỗi đe doạ đó. Để trốn tránh hiểm nguy của một cuộc chiến mà đa số người dân không cảm nhận được chính nghĩa của nó - cái chính nghĩa đã trở nên vô-chính-nghĩa, phục vụ thiểu số cầm quyền thối nát, người ta, mạnh ai nấy tìm đủ cách để khỏi chết ngoài mặt trận . Người ta sẵn sàng xoay sở vay mượn để mua được những tờ giấy miễn dịch làm bùa hộ mạng. Kỹ nghệ làm giàu trên nỗi lo sợ này có một lãnh vực rất rộng, bao trùm một phần lớn của guồng máy tư pháp, hành chánh . Ngoại trừ một thiểu số trong sạch, đa số tham ô hiện diện khắp nơi . Người ta hối lộ cảnh sát, nếu bị cảnh sát bắt vì không giấy tờ hợp lệ, hối lộ toà án, nếu bị đưa ra toà xét xử . Luật sư là kẻ trung gian, giữa bị can và toà án, "nặn" tiền thân chủ được càng nhiều càng tốt, để vừa giữ lại cho mình, vừa chia chác với toà . Để lương tâm được an ổn, những người sống vì những "áp-phe" này, những ông toà ăn hối lộ, những luật sư đem tiền đến cho toà, tự biện minh là họ chỉ giúp những kẻ có tiền trốn nghĩa vụ, chứ không làm thiệt hại cho ai . Có khi họ còn coi việc làm của họ là việc làm phúc đức, cho dù động cơ cho hành động của họ chỉ là lòng tham . "Trăm sự nhờ luật sư giúp cho", "Xin ông chánh án làm ơn làm phúc tha cho cháu", v.v... là những câu đưa đẩy cho những kẻ nhận tiền khỏi bị lương tâm cắn rứt . Một kỹ nghệ đem lại giàu sang, uy quyền một cách dễ dàng, nhanh chóng như vậy, tất nhiên hấp dẫn nhiều người, và việc mua quan, bán chức lại là một khía cạnh khác của tham ô.

Hồi ấy, anh Sơn thuộc về giới người "khôn ngoan" trong kỹ nghệ làm giàu này . Như những con thiêu thân khác, anh theo đuổi cái khuôn mẫu phong lưu chói loà giữa thời buổi chiến tranh lan tràn, chết chóc bên ngoài cái tầm nhìn của thành phố. Khi sự sụp đổ của miền Nam xảy ra, sự khôn ngoan của anh Sơn không đủ để anh thoát khỏi nhà tù cộng sản, là nơi cộng sản dựng lên với mục đính chính là trả thù những kẻ thù ý thức hệ . Anh đã được một người quen bên Canada kể lại việc anh Sơn đi tù, nhưng hôm nay ghé thăm, anh muốn được nghe những kinh nghiệm bể dâu từ chính người trong cuộc .

Bước vào cửa tiệm, anh trông thấy một người gày gò, ngồi trên cái ghế bố dùng ngoài bãi biển, khuôn mặt khắc khổ mà anh không tìm thấy một nét quen thuộc nào. Anh biết ngay là anh Sơn, dù mái tóc dài thượt năm xưa bây giờ đã được thay bằng mái tóc húi ngắn. Sau lời tự giới thiệu của anh, và vài câu nhắc nhở về Hoà, chút bỡ ngỡ ban đầu tan đi, nhường lại cho cuộc nói chuyện thân thiết . Vợ chồng anh Sơn lấy nhau sau ngày cộng sản chiếm và sau khi anh Sơn đi tù về. Lẽ ra, nhiều người làm nghề luật sư thời cộng hoà, khi Việt cộng vào, cũng không đến nỗi tù tội, nhưng vì anh Sơn là đảng viên đảng Dân Chủ, trong khi người thư ký văn phòng anh là cộng sản gộc nằm vùng, anh Sơn được liệt kê trong danh sách đi tù. Tù được ba năm, bỏ trốn, bị bắt lại, thế là anh bị tù thêm bốn năm nữa. Cái mỉa mai mà chính anh Sơn xác nhận là, sự đi tù của anh không phải vì cái tội dự vào những sinh hoạt tham ô trước kia mà lại vì cái tư cách đảng viên đảng Dân Chủ, mà anh anh mới vừa gia nhập cho... hợp thời trang, chỉ mấy tháng trước ngày giải phóng! Đau là ở chỗ đó! Hình ảnh con người ăn chơi của anh Sơn năm nào, mà anh còn mơ hồ mường tượng, bây giờ không còn nữa, thay vào đó là những vết hằn đăm chiêu trên trán, những nét khắc khổ, hao hao như khuôn mặt Trịnh Công Sơn. Câu chuyện đi tù, nội dung tương tự như bao chuyện đi tù khác, được anh Sơn kể lại với giọng chua chát . Nỗi đắng cay vất vả sau khi được thả về, với những buôn bán lặt vặt lề đường, theo đuổi anh Sơn thêm nhiều năm nữa, cho đến khoảng mười năm trở lại đây, cuộc sống mới bắt đầu sáng sủa hơn . Hoà, thằng em, đã lấy vợ nhưng không ở gần đó, hai người em khác đã sang được Mỹ và đã làm giấy tờ bảo lãnh gia đình anh . Vợ chồng anh Sơn còn lưỡng lự chưa sốt sắng ra đi lắm, vì ngại chưa biết sẽ sinh sống ra sao bên xứ người . "Sang đó chắc chỉ đi cắt cỏ, mà cũng chưa chắc đã đủ sức mà cắt ." Anh Sơn nói . Để anh Sơn đỡ bi quan, anh nhắc đến những khía cạnh sáng sủa của cuộc sống bên kia, đó là tương lai của hai đứa con gái anh, vừa tuổi đôi mươi, chúng sẽ vượt qua những khó khăn ban đầu như bao người trẻ đi trước khác . Khi chia tay với vợ chồng anh sơn, anh nhận thấy bầu không khí có vẻ lạc quan hơn . Anh Sơn nói:

- Có lẽ chúng tôi sẽ sang Mỹ tháng Mười năm tới . Dù sao bên đó cũng có nhiều cơ hội hơn cho hai đứa con tôi.

Anh quyết định sẽ rời Nha Trang sớm hơn dự định vì thời tiết khó chịu quá, có ở lại thêm cũng không làm được gì trong lúc thằng nhóc không khoẻ. Buổi sáng cuối cùng ở Nha Trang, mới sáu giờ, trời còn chưa có nắng, anh thả bộ ra bờ biển phía bên kia đường . Sau bao nhiêu năm sống xa cái nóng, bây giờ quay lại anh mới nhận ra sự hiện diện của nó, không như xưa kia, mùa Hè là mùa đạp xe đi chơi Thành, một vùng quê cạnh Nha Trang với vô số vườn cây ăn trái, hay đi ra biển để bơi, để lặn xiên cá, trong lòng đầy háo hức mà không bao giờ bận tâm về thời tiết .

Trước kia những hoạt động thể dục, thể thao được làm trong nhà riêng, hay tại sân vận động, hay những câu lạc bộ thể thao. Những câu lạc bộ này dành cho những người dư giả, có tiền trả những chi phí hội viên tốn kém. Họ chơi tennis, họ đấu kiếm, họ bơi lội, nhưng những câu lạc bộ đó được lập ra dường như để làm trọn vẹn hình ảnh của một giới người, đó là nơi để cho người ta khoe thời trang thể thao, nơi để cho người ta gặp gỡ nới rộng vòng giao thiệp, hơn là vì sức khoẻ. Ngày nay những sinh hoạt thể thao được đưa ra bãi biển, và trở thành quen mắt . Cái tính cách tập thể của sinh hoạt thể thao, sinh ra từ thời dân chúng bị ép buộc ra đường tập thể dục mỗi sáng, nói một cách công bình, còn để lại chút tàn dư hữu ích đến bây giờ . Nhưng điều lạ lùng là đất nước thanh bình đã ba mươi năm, cái tinh thần thể thao của dân chúng không được nhà cầm quyền khuyến khích thêm để đào tạo được một thế hệ mới khoẻ mạnh hơn . Ba mươi năm đã qua, niềm tự phụ của kẻ "đánh bại" đế quốc vẫn chưa được chuyển biến sang một chiều hướng khác, để người dân thực sự cảm thấy mình tài giỏi về những mặt khác hơn là tài chém giết .

Sáu giờ sáng bãi biển đã bắt đầu nhộn nhịp và trở nên đông đảo từng phút một . Người Việt có thói quen dậy sớm thể hiện cho sự cần cù, nhưng sao cái nghèo đói, lạc hậu cứ bám chặt lấy đời sống, trái với một câu ngạn ngữ tây phương "Tương lai thuộc về những người dậy sớm." Mặt biển mùa Hè phẳng lặng với những con sóng nhè nhẹ vỗ vào bờ, vì đây là một trong những tháng biển êm nhất trong năm . Anh rời bãi biển ghé vào tiệm ăn buổi sáng còn vắng, gọi ly cà-phê sữa nóng, thèm một chút lành lạnh mà không có, để ly cà-phê đem lại cảm giác ấm cúng . Sự yên tĩnh của quán cà-phê không kéo dài được lâu . Một anh chàng trẻ tuổi, với một thứ tiếng Anh trọ trẹ của một xứ nào đó trong Liên Hiệp Anh, bước vào, với chai bia trên tay . Chàng ta ghé ngồi xuống chiếc ghế trống trước mặt anh sau khi hỏi anh có phiền không . Anh lơ đãng đối đáp với anh chàng "Tây balô" này . Sáng sớm chưa kịp ăn mà bia đã nốc thế này, chỉ có thiên đàng Việt Nam mới có . Rượu bia rẻ mạt, tha hồ uống mà chẳng có ai cười, hèn chi rất nhiều người ngoại quốc mà dân Việt Nam gán cho cái tên "tây balô", chẳng xách "balô" từ một phương trời Tây sang đây, tất cả hành trang khoác trên vai, nay nhà trọ này, mai nhà trọ khác, tiết kiệm tối đa, để say sưa trong nhàn hạ. Anh tự hỏi khi trở về bên kia, họ sẽ sinh sống ra sao. Chắc họ sẽ nuối tiếc những tháng ngày rong chơi, không ai dòm ngó, nơi cái xứ nóng nực nhưng rẻ mạt đó lắm .

Rời tiệm ăn, anh thuê xe tìm về nhà cũ của anh. Con đường Đống Đa xưa kia yên tĩnh, toàn nhà ở, bây giờ vô số cửa tiệm mọc lên, trở thành khu buôn bán . Phía trước nhà bây giờ những cây leo che kín cả hàng rào và che kín hẳn ngôi nhà bên trong . Anh buớc lại cổng, nhìn qua những song sắt, nhận ra ngôi nhà cũ vẫn như trước . Cái phòng nhô ra phía bên trái có cửa mở ra hiên nhà là phòng của anh, mà bên trong từng món đồ đạc và vật dụng hiện ra rất rõ rệt trong trí anh . Cái bàn học kê sát cửa sổ nhìn ra đường, cái giường kê cạnh cửa sổ thứ hai nhìn sang nhà hàng xóm . Đối diện giường là tủ sách, cuối chân giường là cái đàn guitar dựng ở góc phòng . Cái giang san ngày mới lớn của anh đó, Nhóc tì ạ, nơi mà anh lén uống ly rượu đầu tiên, và lén hút điếu thuốc đầu tiên, bị ba anh bắt gặp . Một đêm, anh đang phì phà tập hút điếu thuốc, thì cánh cửa thông vào phòng trong lạch cạch mở, anh vội vàng dụi điếu thuốc vào gầm bàn . Hồi đó cái tục lệ gõ cửa trước khi bước vào phòng không hiện hữu trong gia đình anh, nên việc phi tang bằng chứng bị thiếu mất một giây, và cái vẻ lúng túng của anh chắc hẳn rất rõ rệt và buồn cười . Ba anh bước vào, hít hít mấy cái rồi nhẹ nhàng hỏi:

- Mày hút thuốc à ?

Không chối được, anh đành nhận, nhưng ba anh đi ra không nói gì . Hôm sau anh đang ngồi học, ba bước vào, quăng một gói thuốc lên bàn, nói:

- Cầm lấy mà hút .

Cái tên gói thuốc lá Mỹ, Philip Morris, anh vẫn còn nhớ đến bây giờ .

Người đàn ông lặng lẽ dứng nhìn qua cánh cổng ngôi nhà cũ . Ý định đưa tay nhấn chuông cửa thoáng qua trong đầu, nhưng rồi bị gạt đi . Đã gần ba mươi năm rồi, nhưng biết đâu họ tưởng mình về đòi nhà, và một chút êm đềm xưa cũ có thể bị làm cho vẩn đục . Xin chào một lần cuối miền đất đã một thời nuôi dưỡng ta, đã nhìn ta lớn lên. Ta đã trở về để tìm lại bóng ngày qua, để rồi nhận ra rằng, không có em bên cạnh để chia xẻ, sự tìm kiếm đó như một giấc mơ không trọn vẹn . Những ngày đã qua sẽ không còn là những cái bóng, mà được hồi sinh trong anh, khi ta đi bên nhau, nghĩ cùng ý nghĩ, cố dằn xuống niềm yêu thương chỉ chực dâng trào thành những cái hôn ngấu nghiến.

(còn tiếp)
tvk
#4 Posted : Monday, February 14, 2005 3:55:27 AM(UTC)
tvk

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 305
Points: 0

Đà Lạt

Hôm sau, anh và con ra bến xe đi Đà Lạt. Chuyến đi khởi đầu bằng việc người tài xế nhồi nhét thêm hành khách không mua vé nhưng trả tiền thẳng cho tài xế. Hành khách đi xe kiểu này rẻ hơn vì không phải trả trọn tiền vé . Chiếc xe có thể chở được mười sáu người, bây giờ hơn hai chục . Sự bực bội của anh vì cái viễn ảnh bốn, năm tiếng đồng hồ trên băng ghế chật chội lại càng tăng thêm vì kiểu chạy xe bạt mạng của người tài xế trẻ . Anh tự trách đã tự mình đem giao sự an toàn của mình và con vào tay anh tài xế lái ẩu. Anh không đi bằng máy bay vì phi trường Liên Khương khá xa trung tâm thành phố Đà Lạt. Những ý tưởng hắc ám về những tai nạn xảy ra vì xe đò không được bảo trì đúng mức, chẳng hạn thắng xe quá cũ bị hư, bánh xe nổ vì đã quá mòn, v.v... cứ ám ảnh anh. Phải, ngay bên Canada, vấn đề xe vận tải vi phạm luật lệ an toàn từng được đặt ra, huống chi ở đây vấn đề thanh tra chắc chắn rất sơ sài. Nếu chỉ một mình anh, anh còn có thể tha thứ cho sự ngu xuẩn của mình, nhưng đàng này còn con anh... Anh định nói người tài xế ngừng lại giữa đuờng để anh tìm xe quay lại Nha Trang rồi đi bằng máy bay, hay bằng một cách khác. Anh càng tức bực thêm khi trông thấy trên băng ghế chật chội phía trước cạnh tài xế, gã đàn ông kia cứ dí sát cái mồm vào má "thằng" tài xế để nói qua tiếng ồn của xe, của gió, trong lúc "thằng" tài xế nhấn ga phóng xe như không có ngày mai. Anh đưa tay vỗ mạnh vào vai gã đàn ông dằn giọng:

- Này ông! Để cho anh ta chú tâm lái xe đi ông!

Gã đàn ông hơi giật mình, quay lại nhìn anh, rồi cũng ngưng nói, nhìn thẳng ra phía trước. Xe đi qua Cam Ranh, rồi Phan Rang, rồi bắt đầu đi lên đèo Ngoạn Mục . Qua đèo không nguy hiểm như anh đã trông đợi, vì xe phải chạy chậm trên con đường rất chật, nhưng thỉnh thoảng, "cái thằng tài xế ngu" vẫn lái văng mạng, không thèm giảm tốc độ ở những khúc quanh, hay những chỗ đỉnh dốc, không trông thấy được xe chạy ngược chiều. Đường đèo quanh co, có những chỗ từ trên cao nhìn xuống trông như cảnh trí của một hòn non bộ, nhưng anh chẳng có tâm địa nào để ngắm. Ngọn đèo vẫn như trong trí nhớ anh của lần đi từ Sài Gòn lên Đà Lạt một Tết năm xưa, lâu lắm rồi bằng xe anh Vương, anh của anh. Không khí càng lúc càng mát mẻ dễ chịu, rồi xe đến Bảo Lộc, đến núi Voi, làm anh hồi tưởng lại ngày còn bé cả nhà đi thăm một nông trại của một gia đình ông bạn của ba anh, với những món thịt hươu nai, heo rừng, thỏ, gà mà ông ta săn được . Xe đến Liên Khương, rồi cuối cùng Đà Lạt. Xe vào đến bến, anh cảm thấy nhẹ nhõm như trút được gánh nặng. Anh nhìn quanh cái bến xe xơ xác với cảnh buôn gánh bán bưng, kể cả cái lồng tre to thường dùng đựng gà, trong đó là những con chó con bị nhồi nhét chặt cứng, nghoẹo đầu, nghoẹo chân, mắt trợn lồi vì ép sát vào lồng, không cựa quậy được . Những con vật tội nghiệp có lẽ sẽ là những dĩa thức ăn trong mấy quán nhậu đặc biệt. Nỗi thống khổ của một loài thú gần gũi nhất với loài người nói lên nỗi thống khổ của những con người xung quanh chúng. Cái cảnh đầu tiên anh được chứng kiến khi đặt chân xuống thành phố cũ của thuở ấu thơ là thế đó Nhóc tì ạ .

Sau hơn hai tuần lễ ở Sài Gòn, Vũng Tàu, Hòn Đảo, và Nha Trang, anh đã thấy nhiều công trình kiến trúc mới, những khu giải trí, thiết kế theo khuôn mẫu tây phương, nhằm lôi kéo du khách, trong khuôn khổ của kỹ nghệ du lịch, một ngành kỹ nghệ chính của kinh tế Việt Nam . Người ta tiếp tục xây cất những trung tâm giải trí mới ngay cả ở hòn đảo còn đầy vẻ nông thôn mà anh đã viếng. Và Đà Lạt cũng không rơi ra khỏi trào lưu phát triển đó. Những công trình đầu tư lớn lao, vượt xa những kiến trúc sơ sài của ba mươi năm trước. Nhưng những khu giải trí tân kỳ ngày nay có cái vẻ quen thuộc đến nhàm chán của những khu tương tự bên trời tây, nên thăm viếng những nơi đó không để lại cho anh một chút hứng thú nào . Nghĩ cho cùng, khi mục đích của chuyến đi là đi tìm kỷ niệm, thì những gì mới lạ sau này, sẽ rất nhạt nhẽo đối với anh. Anh còn nhận ra rằng, ngay cả khi anh về những nơi đầy ắp quá khứ, dù có con anh bên cạnh, một nỗi khắc khoải, không nguôi ngoai, một nỗi cô đơn cứ bám lấy tiềm thức. Và anh đã biết nguyên nhân của nỗi cô đơn đó.

Nhóc tì ạ, anh có thể hình dung Nhóc tì sẽ vờ vịt nhướng mắt "ngây thơ" hỏi:

- Tại sao đi tìm kỷ niệm mà rốt cuộc lại cảm thấy cô đơn hở anh ?

Anh sẽ đưa tay ra kéo em ngả vào lòng, lấy ngón tay ấn vào mũi em:

- Tại vì thiếu bò con đó . Đi tìm kỷ niệm hay đi xây kỷ niệm cũng cần có bò con bên cạnh anh bò con ạ!

Hôm thứ hai sau khi đặt chân đến Đà Lạt, anh tìm đến khu cư xá cũ trường Trần Hưng Đạo, khung cảnh đầy kỷ niệm ấu thơ của anh.

Trong cơn gió lành lạnh, vang tiếng cười rộn rã của những đứa trẻ cùng lứa, Huy xúng xính trong chiếc áo len ca-rô nâu và đen, cổ rộng, bên trong là chiếc áo sơ-mi, may theo kiểu riêng của mẹ, cổ cao như kiểu cổ áo dài, "để gió khỏi làm lạnh ngực, rồi ho", bên ngực trái của áo là một bộ phận quan trọng, không thể thiếu của bất cứ chiếc áo nào mẹ may, đó là cái túi "để cho Huy đựng lạc rang nóng hổi!" . Cái cảm giác ấm nóng, đến độ gần như muốn bỏng da, của những hạt lạc mới rang xong trong cái chảo gang đựng cát, chưa tróc vỏ, chỉ trong chốc lát, trở thành hơi ấm toả ra thật dễ chịu, thấm qua lớp vải áo, thấm vào làn da ngực . Một túi đầy ắp lạc rang cũng kéo dài được bốn năm cuộc chơi đi trốn đi tìm, để rồi Huy lại chạy về xin mẹ thêm một túi nữa .

Huy dắt chiếc xe đạp nhỏ ra khỏi nhà, leo lên đạp đi kiếm thằng Kiên rủ chơi bi . Trên quãng đường lát đá quen thuộc "của mình" mà Huy vẫn đi qua hàng ngày, từ xa Huy đã thấy con bé Bích Vân đang loay hoay vẽ vẽ cái gì trên mặt đá . Huy đạp xe đến, tay bấm chuông liên tục, miệng hét "tránh ra, tránh ra mau!" Nghĩ là con bé sẽ sợ mà tránh sang một bên, ai dè, nó đứng lên gan lì dang hai tay chặn, như muốn ... tự tử! Huy giảm tốc độ, nhưng vẫn đạp tới, và khi đến gần đành thắng mạnh vì Bích Vân vẫn đứng yên! Chiếc xe và Huy ngã lăn kềnh . Bích Vân bị đụng vào chân, chắc khá đau, rơm rớm nước mắt, đứng lên, tập tễnh đi vô nhà nó . Huy vừa hối hận, vừa sợ, dựng xe lên, đạp về nhà mình, rồi cất xe, thập thò nhìn sang nhà ông bà Bửu Vũ, ba mạ của Bích Vân . Một hồi lâu, thấy không động tĩnh gì, Huy từ từ đi ra để nhập vào bọn thằng Kiên, thằng Thạch chơi bi . Còn đang đứng đợi cho tụi nó chơi xong bàn bi, Huy thấy có người vỗ vai, quay lại thì ra bà Bửu Vũ . Bà nói:

- Con vào đây bác nói cái này ...

Biết bà Bửu Vũ gọi mình vô vì chuyện gì rồi, Huy bẽn lẽn đi theo bà. Qua khỏi cửa, bà Bửu Vũ dịu dàng nói:

- Có phải con đạp xe tông vào Bích Vân không ?

Vừa nói bà vừa cúi xuống vén ống quần Bích Vân lên chỉ cho Huy thấy vết bầm và xước da rơm rớm máu . Huy ngượng ngùng gật đầu:

- Vâng

Bà Bửu Vũ tiếp:

- Em nó đau lắm đó, con biết không ?

Huy gật đầu lí nhí:

- Dạ biết ...

Bà vuốt tóc Huy rồi nói:

- Lần sau con đừng làm vậy nghe .

Huy đáp:

- Vâng .

Bà Bửu Vũ đứng lên, Huy chào bà rồi đi ra, trong đầu còn vang vang giọng Huế dịu dàng của bà Bửu Vũ . Lần đầu tiên trong đời, một người không phải là mẹ mình gọi mình là "con", Huy nghe hơi là lạ. Bà còn gọi Bích Vân là "em" nữa! Xưa nay hai đứa cùng tuổi, học cùng lớp, thỉnh thoảng có việc gì bất đắc dĩ phải nói với nhau trong lớp, chẳng hạn Huy phải mượn tập vở của Bích Vân để chép bài khi ốm, và mỗi lần như vậy toàn "trò" với "tôi" trong lớp, và ... "mày" vơi "tao", ngoài lớp, trao đổi mấy câu cụt ngủn, chứ có bao giờ nói với nhau được câu nào tử tế đâu, bây giờ bỗng nhiên bà Bửu Vũ gọi nó là "em" với mình, nghe vừa êm tai vừa ngượng nghịu ...


Anh đứng dưới chân dốc nhìn lên ngôi nhà hai tầng, tường vôi loang lổ, mái ngói cũ kỹ nham nhở, mỗi góc cạnh của ngôi nhà gợi nhớ một kỷ niệm ấu thơ . Cái ban-công gỗ đỏ không còn nữa, nhưng nó là nơi anh Việt cùng Kim, người giúp việc nhà, hay dùng làm "vọng gác" nhìn xuống vườn sau canh chừng những con chó lạ lẻn đến vào ban đêm bắt và ăn thịt những con thỏ nuôi ở góc vườn . Nhóc tì à, em không thể tưởng tượng được nỗi háo hức của anh mỗi sáng nghe anh Việt và Kim kể lại việc hai người dùng đá làm "bom", từ trên ban công, ném đuổi những con chó ăn trộm đêm trước . Anh thèm được dự vào những cuộc "phục kích" đó lắm, nhưng không đêm nào anh chống được cơn buồn ngủ để thức cho đến lúc bóng đen của những con chó lạ vạch hàng rào chui vào, xuất hiện nơi góc vườn, để rồi sáng hôm sau lại ấm ức nghe kể lại diễn tiến của cuộc phục kích đầy hồi hộp của hai người đó, quá nửa khuya đêm hôm trước . Khu vườn sau cũng là nơi mỗi anh em chiếm một ô đất nhỏ trồng mỗi thứ một ít, từ hoa đến rau xà-lách, đến hành, đến cà rốt cho thỏ ăn . Việc trồng trọt khi đó thật dễ dàng. Dường như bất cứ thứ hoa trái, rau cỏ nào cắm xuống đất đều mọc lên rất nhanh. Bây giờ khu vườn đã bị lấp đi bởi mấy mái nhà lụp xụp . Khung cửa kính nhìn xuống vườn sau, nơi ba ngồi đọc báo mỗi đêm, cũng gợi nhớ một kỷ niệm khác . Đó là lần anh lên bảy tuổi, vì không được theo ba me ra phố, vừa khóc vừa dùng tay đập vào cửa ki’nh, không may làm kính bể, rồi bị ba đánh đòn . Anh như còn nghe tiếng gió của một mùa Đông năm nào, rít qua lá thông ngoài trời, trên mái nhà, và ập vào lạnh buốt mỗi khi cửa mở, để cảm nhận được cái ấm áp êm đềm dưới lớp chăn bông trong căn phòng ngủ, tay cầm quyển truyện trẻ con anh Việt mượn hộ ở thư viện công cộng trên đường Yersin, hay lấy từ chính cái thư viện nhỏ của anh Việt ở tầng dưới nhà . Trong cái buồng nhỏ vuông vức phía bên phải cửa ra vào, những quyển sách bọc cùng một thứ giấy dầu, giống nhau, trên gáy ghi số và tựa sách, xếp ngăn nắp trên những kệ đóng dọc theo tường, trông như một cái thư viện công thu nhỏ . Đối diện cửa thư viện là cầu thang đi lên tầng trên, có tay vịn cầu thang bằng gỗ rộng bản, đã bóng lại còn bóng thêm vì hàng ngày được chùi bởi đũng quần của mấy anh em nhảy lên dùng nó như một chiếc cầu tuột .

Trí nhớ anh ắp đầy những kỷ niệm về hồ Vạn Kiếp ở dưới kia, về những trưa hè theo anh Việt đi câu cá . Nhìn những con cá cơm to bằng đầu ngón tay vùng vẫy nơi đầu cần câu, hay giúp anh Việt làm thịt cá, bứt đầu, moi ruột, lăn bột, rồi chiên là những giây phút hãnh diện và sung sướng nhất của tuổi thơ.

Từ dưới đường nhìn sang phía trái ngôi nhà cũ của anh là quãng dốc cong dẫn lên cổng cư xá, nơi có nhà ông Bửu Vũ, bây giờ cũng xơ xác không tu bổ, anh như còn trông thấy bóng con Tô chạy xuống đón xe ba đi làm về, để rồi phóng theo sau xe cho đến khi xe ngừng hẳn. Khoảng đường cư xá giữa nhà Bích Vân và nhà anh, xưa kia rộng và quang đãng, bằng ba sân tennis ghép lại, đứng ở đó có thể ngó xuống hồ và tầm nhìn phóng đến tận những dãy đồi khu Mả Thánh xa tít . Bây giờ khoảng trống đó bị thu hẹp lại thành con đường hẻm, vì những túp nhà lụp xụp dựng lên sau này, kẽm gai vây quanh từng nhà . Nhà anh cũng như hầu hết những nhà khác trong cư xá đều được người Pháp xây cùng một kiểu . Mỗi nhà đều có hai tầng, có lò sưởi củi, mái ngói nhọn, một bên dốc, môt bên thoai thoải, đặc điểm của những nhà vùng cao nguyên . Khu cư xá rất rộng dành cho công chức, chiếm cả một vùng đồi thông . Bây giờ khung cảnh cũ đã biến thành một bức tranh bần cùng, buồn rầu . Tầm nhìn rất bao quát, khoảng khoát của thời ấu thơ, bây giờ bị che lấp bởi những chắp vá, rách rưới của những túp nhà gỗ ọp ẹp .

Anh chỉ cho Thiên những gì còn lưu lại của ngày còn bé của mình, chụp mấy bức hình có lẽ là những hình ảnh cuối cùng về quê hương để mang về bên kia. Anh và con lên chiếc xe taxi thuê, rời khu cư xá cũ trường Trân Hưng Đạo đi đến trường Bùi thi Xuân, trường tiểu học năm xưa của anh .

Trước kia trường Bùi thị Xuân gồm hai dãy nhà lầu hai tầng, một ở bên trái, một ở bên phải, giữa là sân cờ. Bây giờ có thêm một toà nhà hai tầng nữa hợp cùng với hai dãy nhà kia tạo thành hình chữ U . Những dãy hành lang nối ba toà nhà với nhau cũng là kiến trúc mới sau này . Thêm vào ba dẫy lớp học hai tầng là một nhà chệt văn phòng nằm trên khoảng sân trống ở giữa . Toàn thể ngôi trường vẫn sơn màu vàng nhạt như hồi xưa . Chiếc cổng trường vẫn y hệt như trong trí nhớ, nơi chị Ngọc và anh đợi ba đến đón mỗi buổi trưa, buổi chiều . Thực ra trường Bùi thị Xuân là trường nữ trung học, và là trường của chị Ngọc . Trường tiểu học của anh chỉ mượn tạm dãy lớp học phía bên phải cho bọn nhỏ . Đó là lý do tại sao hai chị em học chung trường, hay nói đúng hơn, trường của hai chị em tình cờ mà ở trong cùng khuôn viên . Những năm học đó anh luôn luôn một mình một trường vì các em được bố mẹ cho học trường tây với cái tên rất mộc mạc là Petit Lycée.

Anh lặng lẽ nhìn những dãy hành lang vắng lặng . Những bức tường hẳn đã được sơn nhiều lớp, và mỗi lớp sơn là một lớp thời gian, một lớp thế hệ học trò. Thật sâu bên dưới đó, là lớp sơn thời gian của thế hệ anh, hằn in những dấu mực để lại từ những bàn tay nhỏ vụng dại . Mỗi lớp có một vị trí nhỏ nhoi của nó giữa hai điểm vô cực âm và vô cực dương của thời gian . Anh đang sử dụng một thứ "xe thời gian" đưa anh về những năm tháng ấu thơ . Anh nhẹ nhàng gỡ đi từng lớp thời gian, làm hiện ra dần dần những hình ảnh, những giọng nói, tiếng cười năm xưa . Năm tháng như một thứ lăng kính càng ngày càng dày, mà ký ức và kỷ niệm lọc qua đó càng ngày càng trở nên tinh khiết .

Cô giáo lớp Hai là cô Linh hiền dịu, dường như không bao giờ biết nóng giận là gì, và không phạt đứa nào bao giờ . Có lẽ bọn tí hon ở cái tuổi học lớp Hai cũng chưa làm gì nên tội để bị phạt . Lần đó cô chỉ cười mà không la khi bắt gặp Huy đang ngửa cổ nhìn những hạt bụi li ti bay bay trong vạt nắng từ cửa sổ chiếu ngang đầu, và đưa tay khuấy cho những hạt bụi đó thêm quay cuồng trong giòng nắng .

Cô Oanh dạy lớp Ba trái lại, vừa dữ vừa đáo để . Dường như cô không khen thưởng đứa nào bao giờ, nhưng phạt thì cô phạt tận tình . Huy không hề bị cô phạt bao giờ, nhưng Huy đã sớm nhận thức được cái tàn nhẫn của cô lần cô phạt thằng Tiến . Ở vào cái tuổi mà đa số bọn con trai còn coi con gái như một thứ gì lạ lắm cần tránh xa, thì thằng Tiến không hiểu bị cái gì nhập vào người mà lén dùng phấn viết nghuệch ngoạc trên bảng một câu thật rùng rợn: "Em Đoan ơi, anh yêu em nắm". Đoan là cháu gọi cô Oanh bằng cô, cũng là học trò của cô, lại ở cùng nhà với cô . Không biết có phải vì vậy mà nó luôn luôn có tên trong bảng danh dự hay không . Thằng Tiến cũng chẳng phải thiên thần; nó vừa du côn, vừa ngỗ nghịch, và có lần Huy đánh nhau với nó vì thói du côn của nó . Ngoài thói du côn, nó còn là thằng nói bậy vô địch . Huy nhớ mãi cái dáng nó ngồi xổm chơi bi, hai đầu gối bẹt ra, rạp sát người xuống đất để nhắm cho chính xác, hai tay đưa thẳng ra phía trước, mắt nheo lại, chuẩn bị bắn viên bi, miệng hát một câu thật tục tĩu:

- Đời anh chỉ một l...........!

Cái chữ cuối cùng nó kéo dài ra cho đến khi viên bi được bắn bung ra khỏi tay! Thật là ... mất dạy không thể tả, nhưng những thằng nhóc dứng quanh nó đa số nhỏ hơn nó vài tuổi, chưa ... đủ trình độ để cười vì câu tuyên bố bất hủ đó . Hiển nhiên là câu khẳng định rất trần tục về cái nhân sinh quan của nó chẳng có liên quan gì đến ván bi cả .

Nó còn có tật nói ngọng và chính vì tật ngọng chuyển sang cả chữ viết, "anh yêu em nắm", nên nội vụ mới đổ bể . Khi cô Oanh bước vào lớp học, nhìn thấy giòng chữ đó, cô lập tức trừng trừng nhìn về phía cái thằng bắc kỳ nói ngọng duy nhất trong lớp là Tiến . Cả lớp cũng đổ dồn mắt về phía nó . Cô Oanh mang vở của thằng Tiến ra đối chiếu với tuồng chữ nghuệch ngoạc trên bảng và xác nhận nó là thủ phạm . Thế là màn hành quyết diễn ra . Đao phủ mà cô Oanh lựa chọn chính là con Đoan, cháu cô, đối tượng tình yêu của thằng Tiến . Cô bắt thằng Tiến nằm dài ra cái bục gỗ cô vẫn đứng trên đó để giảng bài, đưa cái thước dài cho con Đoan quất vào mông thằng Tiến mười roi . Cô Oanh đứng nhìn con Đoan quất thằng Tiến, miệng nói:

- Mới nứt mắt ra mà đã ăn nói bậy bạ .

Thằng Tiến có lẽ là con nhà nghèo, theo như sự quan sát của Huy về lối ăn mặc không lành lặn của nó, hẳn đã được cô Oanh dạy cho một cách rất tường tận bài học về sự khác biệt giai cấp giữa nó và con Đoan, cháu cô . Cô đã vạch cho nó thấy cái lằn ranh thật rõ rệt giữa giai cấp bần cùng của nó và giai cấp thượng lưu của cô . Sau này khi lớn lên và hiểu thế nào là cộng sản, là giai cấp, hình ảnh thằng Tiến, cô Oanh, con Đoan luôn luôn thấp thoáng trong trí Huy . Không biết rồi thằng Tiến có theo cộng sản ? Và nếu nó theo cộng sản trở về gặp lại cô Oanh, không biết nó có còn thù cô ? Hay cũng rất có thể nó là một đứa hời hợt, phổi bò không hề để tâm chuyện đọ

Một lần Huy và thằng Tiến đánh nhau . Huy đang chạy bị nó ngáng chân té nhào rồi nó còn đứng chống nạnh hất mặt một cách khiêu khích, ra cái điều "tao làm mày té đó, coi mày dám làm gì tao cho biết!"

Huy đứng lên phủi quần, xừng xộ:

- Mày muốn gây sự hả mày?

Nó nói giọng du côn:

- Ờ đã sao chưa ?

Huy vừa tức vừa hồi hộp, tim đập thình thịch, nhưng tự ái không cho phép bỏ qua, nói:

- Mày muốn đánh nhau hả mày ?

Nó ưỡn ngực tiến lại . Huy ước lượng tình thế thật nhanh và nhận thấy thằng quỉ này tuy hơn Huy vài tuổi nhưng coi bộ ốm nhách không đáng sợ, liền túm áo nó vật nó xuống đất . Ngay lập tức Huy cảm thấy cái gầy guộc yếu đuối của nó, và dư sức đè được nó nằm dưới . Dùng cánh tay chặn cổ nó, Huy hỏi:

- Mày chịu thua chưa ?

Nó càng vùng Huy càng đè mạnh, cuối cùng nó đành nói:

- Rồi! Buông tao ra!

Huy thận trọng thả nó ra, đứng lên gườm gườm, đề phòng nó đánh lén, nhưng nó chỉ phủi quần áo lẩm bẩm một câu gì đó rồi bỏ đi . Sau lần đó, nó thỉnh thoảng lại hỏi mượn bài vở của Huy như không có chuyện gì xảy ra, và Huy cũng không thấy ghét nó nữa, mà chỉ thấy thương hại . Nghĩ cũng buồn cười cho nó . Đã ngọng còn viết bậy để bị lộ tẩy, đã yếu còn gây sự đánh lộn .

Tuổi học trò lớn lên, con trai thường không tránh khỏi những vụ đánh lộn như thế . Lan, em gái Huy có lần chứng kiến Huy đánh nhau với một thằng bắt nạt các em mình . Về nhà Lan kể lại cho mọi người nghe rồi cười hí hí ra vẻ thích thú lắm . Dường như con gái có một cái nhìn rất bình thản đến kỳ lạ về việc bọn con trai đánh lộn . Đối với con gái, đó là một điều đương nhiên phải có của bọn con trai, và có vẻ khôi hài nữa, nhưng có biết đâu mỗi lần bất đắc dĩ phải đánh nhau như vậy, Huy hồi hộp lắm chứ có phải trò đùa đâu .

Những năm tiểu học của Huy, hình như cứ cách một năm lại có thày giáo hiền, một năm lại có thày giáo không hiền . Sang đến năm lớp Bốn, cô giáo của Huy là cô Linh, vừa đẹp vừa hát hay . Không hiểu cái gì đã khiến Huy nghĩ là cô Linh đẹp, nhưng ấn tượng về cô lúc đó và về sau luôn luôn là như vậy . Ông Đức dạy lớp Năm, tức là lớp cuối của bậc tiểu học, thì "mặt mũi nham hiểm như một thằng cộng sản", như có lần Huy thoáng nghe ba nói với mẹ và ba không biết là Huy đứng gần đó nghe được câu nói của ba về ông thày mình . Huy không biết mặt mũi "thằng cộng sản" như thế nào, nhưng cũng có nhận xét của riêng mình về ông thầy này . Ông ta, miệng luôn mím chặt, nói toàn những câu đạo đức, nhưng mắt thì hấp háy con bé Trang, trưởng lớp xinh xinh, học giỏi . Con bé này lớn hơn hầu hết các bạn cùng lớp vài tuổi, nghĩa là khi ấy nó khoảng mười ba, cái tuổi trổ mã của con gái, cao nghều, ra dáng thiếu nữ, trong lúc lũ con trai còn ngây ngô, lem luốc .


Nhìn những dãy hành lang vắng lặng, anh tự hỏi những đứa bạn ấu thơ bây giờ ở đâu . Thằng Kiên "ghẻ", thằng Thạch "đùn", con Đoan, con Thi, con Bích Vân, chúng mày bây giờ ở đâu ? Bây giờ một lũ già gặp lại nhau "mày mày, tao tao" chắc lạ lắm .

Cũng chiếc taxi thuê bao đó đưa hai bố con đi đến đồi Mộng Mơ, một khu giải trí mới . Khung cảnh thiên nhiên tươi mát chen lẫn những kiến trúc nhân tạo ngoạn mục, những vườn hoa, những suối nước, những nhà sàn mái nhọn kiểu Thượng, và cả một đoạn Vạn Lý Trường Thành thu nhỏ . Đồi được chia ra nhiều khu, mỗi khu được đặt tên của một thi sĩ hay một cái tên thơ mộng nào đó . Biết Nhóc tì cũng yêu thơ và biết nhiều về thơ như anh, anh chọn cái vườn mang bảng Hàn Mặc Tử để chụp hình khoe em, và yên tâm là em sẽ không hỏi "Hàn Mặc Tử là cái gì hở anh ?" Nhìn những cảnh đẹp kia, anh không thể tìm ra điều gì đáng chê, nhưng đó là cái đẹp mà anh nhận biết bằng trí óc, mà không cảm thấy bằng tâm hồn .

Rời Đồi Mông Mơ, xe đưa hai bố con đến Thác Cam Ly. Anh và Thiên leo lên lưng hai con ngựa ốm o, chụp qua loa vài cái hình, ghé vào mấy cái quán bán đồ lưu niệm rồi ra về, giã từ con thác nhỏ và cái mùi nước cống rất nặng đó. Tổng cộng thời gian ở thác Cam Ly chỉ chừng hai mươi phút.

Anh yêu cầu ông tài xế taxi đưa đến Dinh Bảo Đại, xưa kia là nơi nghỉ mát của vị vua cuối cùng của Việt Nam . Bầu không gian bên trong ngôi dinh thự đem lại cho anh một cảm giác vừa an bình vừa ngậm ngùi . Khách sảnh, văn phòng của vua Bảo Đại, phòng đọc sách của Nam Phương Hoàng Hậu, phòng họp mặt buổi tối của gia đình, phòng của các công chúa, phòng của hoàng tử Bảo Long, lầu thưởng nguyệt, từng phòng, từng phòng, dư âm của một thời vương giả như còn vang vọng đâu đây . Năm xưa, có lẽ cũng một buổi chiều tĩnh mịch như chiều nay, bầu không gian đã được rót đầy bởi những cung nhạc thánh thót từ chiếc dương cầm cổ kính kia, hay được đong đầy bằng những tiếng cười trong trẻo, vô tư của bầy trẻ vương giả . Tuổi ấu thơ luôn luôn nhiệm mầu dù vây bọc bởi vàng bạc, nhung lụa, hay ấp ủ trong mái tranh nghèo đồng quê . Cũng qua khung cửa kính viền màn trắng mỏng này, những trú nhân hoàng gia khi xưa đã nhìn xuống vườn hoa, lối sỏi dưới kia và hẳn cũng nghe hồn lắng xuống như người khách tìm về cố hương này . Hồn người xưa như còn phảng phất đâu đây bên những di vật cũ kỹ, những bức ảnh xưa màu xám u buồn . Những con người vương giả đó hẳn đã trải qua bầu không khí ảm đạm của buổi hoàng hôn một triều đại, niềm xôn xao của buổi giao thời, trạng huống bất an của vận nước đổi thay . Cũng là con người như hàng triệu con người khác, họ cũng không thoát khỏi sự chi phối của cái lẽ vô thường .

Dinh Bảo Đại là nơi cuối cùng anh muốn đi thăm trong những ngày ở Đà Lạt . Anh yêu cầu người tài xế taxi đưa hai bố con đi về trung tâm thành phố rồi anh sẽ trả tiền cho ông ta đi về, mặc dù còn thừa thì giờ . Khách sạn cũng nằm gần đó và hai bố con có thể đi bộ được . Anh nói với Thiên:

- Khi đến khu Hoà Bình, bố sẽ chỉ cho con cửa tiệm cũ của bà nội .

Hôm trước, Thiên hỏi anh:

- Bố nói hồi trước nhà bố nghèo hơn nhà mẹ, vậy bà nội có phải buôn bán như thế này không ?

Vừa nói nó vừa đưa hai cánh tay ngang vai như người cử tạ . Khi thấy anh tỏ ra chưa hiểu, nó giải thích:

- Bà nội có phải bán hàng từ hai cái rổ như thế này không ?

Nó làm lại động tác "cử tạ" mà bây giờ anh đã hiểu nó muốn tả người gánh hai thúng bằng đòn gánh . Anh cười vì cách diễn tả của nó:

- À, bố hiểu rồi . Không con ạ, hồi đó ông nội làm công chức như bao nhiêu công chức khác, tuy không giàu, nhưng cũng không túng thiếu . Khi bố học lớp Ba, bà nội nắm lấy cơ hội làm đại lý buôn gạo sỉ, lúc đó còn ít cạnh tranh . Việc làm thương mại là ý thích của bà nội, chứ nếu không có cửa tiệm, nhà mình vẫn đủ sống . Nhưng nếu năm 1975 nhà mình không "đi" được, chắc mình cũng khó thoát khỏi cảnh bần cùng như bao nhiêu gia đình khác, và chắc cũng phải buôn gánh bán bưng cực nhọc mà thôi .

Chỉ là một thắc mắc giản dị của nó, nhưng anh chợt nhận ra là từ trước đến nay, anh đã thiếu sót trong việc nói cho nobiết những điều thông thường về nguồn gốc gia đình mình mà ai ai khi đến một tuổi nào đó cũng muốn biết . Anh nói tiếp:

- Con đã biết khá nhiều về gia đình bố, nhưng hình như con biết rất ít về gia đình mẹ . Hồi trước, ông ngoại có chức vụ cao trong chính phủ, nên gia đình mẹ rất sung túc . Mẹ và các bác đều được ông bà ngoại cho học trường tây, mẹ đi ngoại quốc rất sớm . Ông ngoại rất thanh liêm, không bao giờ nhận tiền đút lót, dù có rất nhiều dịp . Những người có chức vị thua ông ngoại rất nhiều cũng có thể làm giàu dễ dàng vì tham nhũng . Có một sự việc khá đặc biệt trong sự nghiệp của ông ngoại là lần ông ngoại được phong quân hàm đại tá hải quân danh dự, ngang hàng với chức tư lệnh hải quân bấy giờ . Ông ngoại là dân sự, nên ông ngoại cần có đủ cấp bậc và danh nghĩa để có toàn quyền điều khiển một dự án đặc biệt khai toả thương cảng Sài Gòn . Và đó là mục đích của việc ông ngoại được phong quân hàm đại tá . Khi về lại Canada, bố sẽ cho con xem những hình ảnh xưa kia ông ngoại đi kinh lý cùng tổng thống và bộ trưởng đương thời, và cả những hình chụp ông ngoại duyệt binh với tư cách chỉ huy trưởng danh dự hải quân .

Đến khu Hoà Bình, xe thả Thiên và anh xuống một hè phố . Trả tiền cho ông tài xế xong, anh đưa mắt tìm kiếm và nhận ra cửa tiệm cũ của nhà nằm giữa khu phố đối diện chợ Hoà Bình . Cái tên Yên Sơn cũ, dĩ nhiên chẳng còn . Hồi đó cửa tiệm là nơi cả gia đình anh lui tới ban ngày . Mấy anh chị em đi học, ba đi làm, buổi trưa ghé về đó nghỉ ngơi, ăn uống trên lầu . Ban đêm, khi tiệm đã đóng cửa, thường thường, cả nhà quay về nhà ở khu cư xá trường Trần Hưng Đạo . Nhưng mỗi khi mấy anh em được ba me cho phép ngủ lại tiệm, đứa nào cũng khoái vì được thức khuya và tha hồ tung hoành trên lầu trên! Anh chỉ cho Thiên cái ban công tầng trên của tiệm, kể cho nó nghe kỷ niệm những đêm trời lạnh, khi các bác của nó hay buộc giây vào một cái ca bự thả xuống hè phố mua bánh mì nóng ròn của những thằng bé bán bánh mì dạo . Làm như vậy để không phải chạy xuống tầng dưới mở cửa tiệm để mua bánh . Những cái bánh mì nóng hổi vì được ủ kỹ trong cái bị dày, vác oằn vai của thằng bé bán dạo, khi lấy ra, toả mùi thơm phức . Mùi bánh mì năm xưa như đã ăn sâu vào trí nhớ riêng của khứu giác . Sau này mỗi khi đi ngang lò bánh mì hay tiệm bánh ở bất cứ đâu, mùi bánh mì mới ra lò bao giờ cũng đưa anh về những kỷ niệm năm xưa . Khứu giác cũng tương tự như thính giác, có trí nhớ riêng của nó . Một bài nhạc nào đó có thể trở nên gắn liền với một quãng đời đã qua, để rồi mỗi khi tình cờ nghe lại, một cảm giác bồi hồi của riêng một thời quá khứ lại trở về .

Đà Lạt bây giờ đông vui tấp nập, nhưng cái nét thanh lịch thường được gán cho Đà Lạt năm xưa, không còn nữa . Thay vào đó là một đời sống vội vàng, bươn bả , đem lại sự giàu có cho một lớp người mới, mà tiền bạc của họ chỉ làm nổi bật thêm sự thiếu thốn văn hoá . Hai bố con đi bên nhau, hiển nhiên là Thiên tò mò và đang làm quen dần với khung cảnh và sinh hoạt xung quanh nó, nhưng chính anh cũng cảm thấy mình đang bước những bước lạc lõng .

Từ những món ăn uống, anh cũng không tìm được một sự quen thuộc nào . Các món ăn dường như chỉ mang cái tên quen thuộc, nhưng mùi vị thật lạ lùng . Bước vào một tiệm bánh lớn, với đủ mọi thứ bánh trông rất ngon, nhưng nếm thử ba bốn thứ khác nhau, anh không nhận ra một mùi vị quen thuộc nào . Em biết anh là là một người không cầu kỳ mà, phải không Nhóc tì ? Cái bánh nhân tôm thịt, bột dính dính và trong, mà mẹ anh gọi là bánh quai vạc, anh mua về khách sạn, cắn vào khô lăn khô lóc, em tưởng tượng chán thế nào . Cái bánh pâté chaud trông đẹp mắt lắm, cắn vào có mùi lạ lạ . Còn vài món giản dị khác nữa, mà món nào nếm thử anh cũng thấy không quen. Các tiệm ăn mà anh ghé vào thì tiệm nào cũng làng nhàng, không thể bằng những tiệm Việt Nam bên Canada . Những món ăn ở nhà hàng lớn nhất, anh quên mất tên, nằm trên chỗ đỉnh cao, nơi du khách đến mua vé đi xe cable băng ngang núi ngắm cảnh Đà Lạt, các món ăn không có gì đặc biệt, nhưng dầu sao cũng hơn những nơi khác ở chỗ thiếu cái mùi tanh tanh đến từ mặt bàn, và ngay cả từ trong nhà bếp . Khi mà các món ăn đặc biệt về cá, như lẩu cá, gỏi cá chẳng hạn, được kêu, thì khứu giác của anh lại càng bị tấn công dữ dội bởi cái mùi cá . Thiên nhà ta thì lúc nào cũng lịch sự có thừa lúc có bạn bố ở đó, món cá nào dọn ra cũng nói ô kê, nhưng anh biết cu cậu cố gắng hết sức để khỏi làm mất lòng bạn của bố . Nó là thằng không ăn thịt, chỉ ăn cá, nhưng không thể chịu đựng nổi các món ăn có cá vớt ra từ cái nồi nước dùng đun sôi, bốc mùi tanh thay vì mùi thơm, quấn chung với những thứ rau bờm xờm trong cái bánh tráng, lóng nga lóng ngóng, chấm vào cái thứ nước chấm màu tím tím, đục đục, có cái mùi mà nó không biết phải so sánh với mùi gì . Bố nó dĩ nhiên đã quen thuộc lắm với những món mắm nêm, mắm tôm, chứ nó thì chắc đang trải qua một cú khủng hoảng ... văn hoá! Trong một tuần lễ ở Đà Lạt, chỉ có hai lần anh ăn ngon, đó là lần ăn phở vào buổi sáng hôm sắp đi Sài Gòn, và một lần ăn bánh giò của bà cụ người bắc trên đường Phan Đình Phùng . Những cái bánh giò bên Canada chưa bao giờ được như vậy . Còn một tiệm bán bánh bao ngon nổi tiếng cũng nằm trên đường Phan Đình Phùng thì anh đến hơi trễ một chút, người ta đã bán hết . Chỉ là một khía cạnh của chuyến đi, dĩ nhiên về thăm quê hương chẳng phải để ăn.

Trở về khách sạn, anh bắt đầu thấy khó chịu, nôn nao, triệu chứng giống như Thiên lúc ở Nha Trang . Chỉ cần nghĩ đến bất cứ món ăn hay thức uống gì cũng đủ để anh cảm thấy những gì còn lại trong dạ dầy muốn dâng lên cổ . Chỉ mới ngày thứ hai ở đây mà đã thế này rồi thì còn làm ăn gì . Anh mang vài thứ thuốc mang theo ra uống rồi nhấc phôn gọi cho Cát, anh chàng bác sĩ xưa nay vẫn nổi tiếng đẹp trai như Mạc Đĩnh Chi . Anh chàng chắc sẽ trách mình sao không gọi ngay khi đến.

tvk
#5 Posted : Wednesday, June 29, 2005 7:35:17 AM(UTC)
tvk

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 305
Points: 0

Đà Lạt
(tiếp theo)

Cát đến, vẫn khuôn mặt khắc khổ, và dĩ nhiên già hơn xưa. Cát hỏi han, chẩn bệnh, và cho biết có lẽ anh bị ngộ độc vì ăn món bánh mì hôm trước trong đó có mayonnaise mà họ nói là bơ. Mayonnaise họ tự làm bằng trứng là thứ rất dễ gây ngộ độc. Cát cho anh thứ thuốc than đen xì, nhai nuốt để chất than hút đi những chất độc trong ruột. Từ xa về thành phố lạ, lại có người bạn cũ là bác sĩ, không có gì làm cho mình an lòng hơn. Cát cho biết mấy hôm nữa sẽ đi Sài Gòn thăm một bệnh nhân và hỏi anh có muốn đi cùng xe của Cát không. Dĩ nhiên anh đồng ý vì anh thấy ở chơi Đà Lạt năm sáu ngày là đủ rồi. Ngoài Cát ra, anh đâu có ai quen ở Đà Lạt, nên đi hay ở, không bị ràng buộc gì. Những ngày sau đó, mỗi khi ở bệnh viện về, Cát đưa hai bố con đi chơi tối, đi ăn chỗ này chỗ kia. Ban ngày anh và Thiên cũng chỉ đi quanh trong thành phố, chứ không đi đâu xa nữa. Rốt cuộc, kiểm điểm lại, ngày đầu tiên sau hôm đến Đà Lạt là ngày hai bố con đi nhiều nơi nhất. Và sau khi nhận thấy rằng ngoài những nơi có dấu vết thời ấu thơ, ngôi nhà cũ, mái trường xưa, không còn gì làm anh thích thú nữa, anh bắt đầu chú tâm vào những gì đang xảy ra ngày hôm nay. Tại sao anh cứ mãi hướng về những kỷ niệm xưa, mà quên đi rằng người bạn đồng hành, Thiên, con anh, đang nhìn những gì xảy ra xung quanh như những điều hoàn toàn mới lạ, có thể rất là thú vị, hào hứng? Tại sao anh không nhìn bằng một cặp mắt mới mẻ như nó?

Những hoạt cảnh độc đáo, mà một đứa sinh ra ở một xứ vùng Bắc Mỹ như con anh, chưa bao giờ chứng kiến, hẳn vô cùng thích thú đối với nó. Cảnh chợ cá, vừa tanh vừa lầy lội, nhớp nháp, cảnh những "quán" lề đường, những xe hủ tíu, những tiệm ăn, tiệm bán hàng, cách ăn mặc ấm áp, áo len, áo dạ (trong lúc hai bố con phong phanh cái T-shirt), cảnh tượng các cô gái bịt mặt khi ra đường (biết đâu người nước ngoài không nghĩ đó là những phụ nữ Hồi giáo), cảnh sinh hoạt Internet cafe khắp nơi, với những bàn ngăn ô, những cái đầu chúi vào màn ảnh, hay đeo headphone, gợi nhớ những lớp học Anh văn Hội Việt Mỹ ngày xưa. Những hình ảnh đó chắc chắn sẽ rất đặc biệt đối với nó, và sẽ in sâu vào tâm trí nó. Khi ra đường, con thì lênh khênh, trầm lặng, pha chút ngơ ngác, bố cũng chẳng hơn gì, một bourgeois lạc lõng. Thiên kể có lần nguời ta tưởng nó không phải nguời Việt, nói với nhau sau lưng nó điều gì đó nó không hiểu, nhưng nó nghe đuợc câu "cái thằng Nhật kia"!

Những sinh hoạt ngộ nghĩnh mà hai bố con có thể chứng kiến ngay tại cái khách sạn ở gần khu Hoà Bình có lẽ còn hào hứng hơn cả những thắng cảnh mà anh và nó chỉ thờ ơ khi đi thăm. Một tối, hai bố con đang nắm chèo queo coi truyền hình trong phòng, nghe tiếng ồn ào vọng lên từ duới đường, dù cửa đóng kín, nó mở cửa ra ban công nhìn xuống đường xem chuyện gì . Một lát sau, anh cũng theo nó ra. Dưới kia, một bà quần đen, áo bà ba, giọng Quảng Nam thì phải, vang vang một dãy phố . Bà ta vừa đi vừa chửi từ đầu phố này đến đầu phố kia, không rõ ràng là về chuyện gì, nhưng có một vẻ khôi hài đủ khiến hai bố con trên này cười thích thú. Ánh đèn đường vàng vọt, hầu hết các cửa tiệm đều đã đóng cửa, chỉ trừ những sinh hoạt lề đường như bán quần áo, bày ra trên những tấm bạt to trải trên lề, hay những gánh sữa đậu nành. Bà kia đang chửi rủa thì có hai gã thanh niên chở nhau trên chiếc xe scooter chạy đến, một gã nhảy xuống có vẻ hung hăng doạ dẫm, rồi lại leo lên xe chở nhau phóng đi . Tới đầu đường, hai gã, như đổi ý, vòng trở lại chỗ người đàn bà, rồi gã ngồi sau lại nhảy xuống. Bà ta lùi lại nhưng vẫn to tiếng . Hai bên còn đang cãi cọ, bỗng nhiên một xe scooter khác, trên xe là hai người đàn ông chở nhau từ xa chạy đến và ngừng lại ngang chỗ đám cãi lộn, rồi một người nhảy xuống, tiến lại, rồi đột nhiên vung tay đấm một trong hai gã đang có thái độ hung hăng với bà già, rồi túm lấy gã vật xuống đường, miệng hằn học:

- Chúng mày muốn nàm noạn hả?

"Bộp", "Bộp"! Từ trên cao hai bố con cũng nghe được tiếng thụi! Người thứ hai cũng dựng xe, tiến lại gã còn đang ngồi trên xe, một tay túm áo, một tay vung lên bợp gã mấy cái đàng sau gáy! Thế rồi người đàn ông thứ nhất lôi gã kia đứng dậy rồi ra lệnh:

- Đi! Đi về ty!

Vừa nói, tay anh ta vừa thoi thêm mấy cái . Hai gã kia, riu ríu làm theo, một dắt xe scooter, một bị túm áo điệu về phía cuối phố, mà đàng sau khúc quanh là ty công an, anh thường đi ngang lúc ban ngày.

Từ khi trở về, mỗi khi gặp chuyện không được hài lòng, chẳng hạn những lừa đảo lặt vặt khắp nơi, khách sạn, taxi, nơi buôn bán, có sự hiện diện của Thiên, anh có thói quen đưa một tay lên hô nho nhỏ vừa đủ cho nó nghe: "Đả đảo ... ", bất kể là hai bố con đang ở ngoài phố hay ở trong khách sạn. Mỗi lần như vậy Thiên lại bật cười. Lần đầu khi nghe anh nói vậy, Thiên hỏi:

- Đả đảo tiếng English là gì hả bố?

- Là "down with..." con à! Ê nhưng mày đừng có ra ngoài đường mà nói vậy nghe mày! Big trouble nghe mày!

Anh vừa cười vừa nói với nó. Nó cũng bật cười trả lời:

- Chắc họ sẽ nói "cái thằng Nhật kia muốn nàm noạn" hả bố!

Hai bố con cùng cười vang vì câu khôi hài của nó!
Đêm hôm sau, cũng từ trên ban công, hai bố con lại chứng kiến một hoạt cảnh khác. Lần này là màn công an tịch thu hàng hoá bán trên lề đường. Hai bố con đang đứng ngó bâng quơ xuống đường thì thấy một chiếc xe giống kiểu xe pickup, hai bên có thành ngăn như hàng rào, màu rêu, mà ban ngày anh thường thấy, từ đầu phố chạy lại. Thế là các người bán hàng hốt hoảng, túm lấy bốn góc tấm bạt bó lại thành một cái bị to, kéo xềnh xệch vào sát mái hiên của cửa tiệm hay nhà đã đóng cửa gần đó. Ai có người giúp thì làm nhanh hơn trong việc dọn dẹp những hàng bán bất hợp phát trên lề đường, ai không có người giúp thì chỉ kịp kéo vào sau hơn một chút dưới mái hiên, rồi đứng chịu trận ở đó. Cũng có người may mắn, có lẽ đã dàn xếp trước với người chủ nhà hay chủ tiệm ngay cạnh đó, nên được họ mở cửa cho mang túi hàng vô dấu cấp kỳ, đợi công an đi khỏi lại ra đánh du kích, hay nói đúng hơn, bán hàng du kích! Thấy cảnh hào hứng, hai bố con xỏ dép phóng xuống đường tìm cảm giác lạ! Khi ấy công an đã chộp được bị hàng hoá to tướng của một chị bán hàng, mở tung, hàng vãi tung toé, những cái quần, cái áo được thảy lên xe bởi người tài xế mặc thường phục, dưới sự giám sát của một công an mặc đồng phục màu rêu, đội nón kết viền đỏ. Người tài xế quăng lên mớ quần áo nào, chị kia nhào đến giựt lại mớ đó! Người công an, hai tay khoanh ra sau lưng, đứng nghiêm, nhìn thẳng về phía trước như không trông thấy ai, tiếp tục quát tháo:

- Nề đường nà để cho người đi nại! Không được buôn bán ở đây!

Vừa giựt lại hàng hoá của mình, chị bán hàng vừa cố đưa ra một lý lẽ yếu ớt:

- Em đâu có bán ngoài đường! Chủ nhà này cho em nhờ nhà của họ mà!

Hai tay ôm khư khư những món hàng và túi đồ trong tay, chị cố gắng bảo vệ vốn liếng của chị. Một cảnh vừa buồn cười vừa tội nghiệp! Buôn bán như thế, phải là người kiên cường lắm mới làm được. Nỗi đe doạ bị bắt bớ gần như thường trực hiện diện, nhưng phải chấp nhận vì miếng cơm manh áo . Hai mươi chín năm trước, biết bao người vợ, người mẹ, sau cuộc đổi đời, cũng lâm vào cảnh thế này đây, khi không còn cách nào khác để sinh nhai. Cuối cùng, xe công an cũng nhượng bộ, bỏ đi, không biết chị bán rong có bị mất gì nhiều tối hôm đó hay không.

Quay về khách sạn, hai bố con thấy chị bán sữa đậu nành, với gánh hàng nóng hổi, và vài cái bàn, cái ghế nhựa thấp, trước khi công an đến còn bày ra lề đường, bây giờ đã được bê hẳn vào để nhờ trong phạm vi khách sạn, anh mua cho hai bố con mỗi người một ly. Ly sữa đậu nành thật thơm, ngon trong cái không khí lành lạnh ban đêm .

Hai hôm sau, vào lúc sáng sớm, Cát và Vũ, một người mà Cát gọi là "đệ tử", đem xe đến đón hai bố con để đi Sài Gòn. Cát để cho Vũ lái vì trước kia Vũ từng làm tài xế xe đò, nên "lái rất vững" theo lời Cát. Anh ngồi trước cạnh Vũ, Cát ngồi sau với Thiên. Chiếc Toyota trắng còn khá mới Cát đã dùng đưa hai bố con đi chơi trong những hôm trước, đã nhiều lần là phương tiện cho Cát đi đi về về giữa Sài Gòn và Đà Lạt. Cát đưa mọi người đến tiệm phở ăn sáng, và đó là lần đầu tiên kể từ khi về Việt Nam, anh ăn phở. Phở là món ăn rất dễ làm cho ngon, và lần này cũng không phải ngọai lệ. Không khí lành lạnh của buổi sáng Đà Lạt khiến cho tô phở và ly cà phê sữa nóng như ngon hơn. Những nơi đã đi qua, Đảo, Sài Gòn, Vũng Tàu, Nha Trang khí hậu đều nóng bức, anh không nhớ ra được một lần nào ăn uống dễ chịu như buổi sáng hôm đó.

Xe đi dọc theo đường Phan Đình Phùng, anh nhìn lại lần cuối những nhà cửa, những khung cảnh mà anh còn nhận ra được vài nét quen thuộc. Rạp xi nê ở chân dốc Duy Tân vẫn còn đó . Rạp hát có bà chủ rạp mặt mũi khó đăm đăm, đích thân sóat vé, vì không tin cậy những người làm cho bà ta. Anh nhìn lần chót ngôi nhà thờ Tin Lành ở quãng cuối đường Phan Đình Phùng, nằm trên vùng dốc cao, và nhớ lại thời đó ba anh còn theo đạo Tin Lành, hay đưa anh đi lễ ngày chủ nhật. Anh nhớ những lần mẹ anh dặn dò: "Nếu Ba bắt rửa tội, thì đừng rửa nghe không!" Lúc đó danh từ "rửa tội" đối với anh rất cụ thể: rửa có liên quan đến nước và xà bông, và anh hỏi lại mẹ anh tại sao không được rửa ráy ở nhà thờ, thì câu trả lời của mẹ anh cũng chẳng làm anh hiểu rõ hơn. Bây giờ nghĩ lại thì thấy mẹ mình cũng hơi bất công, đòi hỏi mình phải dự vào việc giằng co tôn giáo của hai người sinh ra mình, mà lẽ ra hai người phải tự giải quyết với nhau. Nếu ba anh có bắt anh rửa tội, anh cũng chẳng thể nào dám lên tiếng phản đối. Cũng may là mấy năm sau đó, sự giằng co chấm dứt . Ba anh đột nhiên quay trở về với đạo Phật, tức là đạo mà ông nội anh vẫn theo từ trước, quay về một cách rất thuần thành cho đến mãn đời. Hồi đó, mỗi đêm, anh phải theo khoá lễ do ba anh hay mẹ làm chủ lễ, có lúc ngủ gật, gật lên gật xuống, theo nhịp mõ, tiếng chuông.

Xe đi trên đường Đào Duy Từ, con đường xưa kia anh hàng ngày đi bộ đến trường. Con đường mang một kỷ niệm thơ dại ăn sâu trong trí nhớ một cách lạ lùng.

Huy xách cặp lầm lũi đi dưới ánh nắng trưa. Con đường Đào Duy Từ ngắn ngủi, chẳng có gì đáng để ý, trừ tiệm chè và bánh ngọt mà mẹ rất thích và cứ gọi là "tiệm xôi vò chè đường". Đi hết con đường này, chỉ một quãng nữa sau nhà thờ Tin Lành là đến trường . Ai như con bé Huy (phải, con gái gì mà cũng tên Huy) học cùng lớp đang đi phía bên kia đường . Huy nhìn qua, hai ánh mắt chạm nhau, Huy nhìn thẳng về phía trước, tiếp tục bước . Lạ thật, con bé như cười với Huy, rồi băng ngang đường đi về phía Huy. Huy đoán nó sang bên này cho đỡ nắng . Con bé nổi bật trong đám bạn gái, qua nét vui tươi trong sáng trên khuôn mặt, một cái vẻ rất "neat", thế nhưng cũng như đối với hầu hết những đứa con gái khác, Huy chưa hề nói chuyện với nó bao giờ . Con gái vẫn ... muôn đời là con gái, thọ thọ bất tương thân mà! Tụi nó là một thứ sinh vật lạ lắm, phải luôn luôn đề cao cảnh giác! Tưởng con bé sang đường để tránh nắng, nhưng không phải! Rõ ràng nó cứ nhìn Huy chăm chăm, mà còn mỉm cười nữa! Nó chặn Huy lại, vẫn nụ cười trên môi, hỏi:

- "Trò" tên Huy phải không?

Huy gật đầu, lí nhí "phải", mắt thì gườm gườm như thể "nó" sắp tung ra một đòn gì bất ngờ. Con bé tiếp tục tươi cười:

- Chiều nay được nghỉ mà .

Huy khựng lại nhớ ra lời cô giáo dặn là không có lớp chiều nay! Không sao nói cho hết được cái "quê" của mình lúc đó, Huy ngượng nghịu quay về, không biết có nhớ cám ơn người bạn gái cùng lớp, bạo dạn và tốt bụng hay không nữa!


Con đường cong dẫn qua trường cũ . Phía bên trái là những thửa ruộng, đi nữa sẽ đến trường Trần Hưng Đạo và đến cái hồ mang tên Vạn Kiếp, anh theo anh Bắc đi câu những buổi trưa hè . Hồ bây giờ cạn nước, và bị lấp gần hết, một phần trở thành ruộng dâu . Thật đúng là tang điền, thương hải . Không, thửa ruộng không biến từ biển xanh mà từ một cái hồ. Nhưng sao thật ngậm ngùi .

Chuyến trở về Sài Gòn, Vũ cũng lái xe ẩu như người tài xế xe đò lần trước. Lái nhanh không phải là vấn đề, nhưng Vũ qua mặt những xe khác ở những khúc quanh hay lúc lên dốc, khi không thể trông thấy được xe ngược chiều. Chỉ cần một xe đi ngược chiều đúng vào lúc đó, chắc chắn tai nạn thảm khốc sẽ xảy ra. Anh ngồi cạnh hắn, bực mình lắm, nhưng không muốn chạm tự ái của một kẻ háo thắng, vì nó có thể sẽ lái bừa bãi hơn. Thay vào đó anh khen Vũ:

- Vũ lái vững lắm. Sang bên Mỹ hay Canada lái xe sẽ thấy dễ lắm. Nhưng không cần phải vội vàng làm chi, đi nhanh tưởng sẽ tiết kiệm được thì giờ, nhưng nếu cứ làm một con tính sẽ thấy ngay là mình về đến Sài Gòn có lẽ chỉ sớm hơn chừng nửa tiếng chứ không nhiều đâu. Thay vì bốn tiếng rưỡi thì năm tiếng tới nơi cũng chẳng sao.

Lái xe ở Việt Nam rất giản dị, vì không có luật lệ lưu thông rắc rối gì để phải bận tâm. Luật lái xe và đi đường là "đừng có tôn trọng luật lệ gì cả". Không luật lệ gì cả chính là luật vậy. Chỉ cần biết chút căn bản lái xe, biết cầm được tay lái, là người ta cứ thế cắm đầu cắm cổ chạy, như muốn hoàn tất một xứ mạng kamikaze. Đường xá chật chội, đông đảo, xe bấm còi inh ỏi, muốn quẹo trái quẹo phải, đổi chiều, cứ làm tự nhiên, những xe khác sẽ dạt ra . Thậm chí nếu cần đi ngược đường một chiều, người ta cũng đi! Người đi bộ không bao giờ được xe nhường, dù đi ở chỗ dành cho người đi bộ. Muốn băng ngang đường mà đợi xe nhường mình ở chỗ ngã tư thì sẽ không bao giờ qua được, mà phải liều mạng bước đi, không ngưng lại giữa đường, xe cộ sẽ dạt, lách tránh mình. Ngồi cạnh Vũ, anh kể hết chuyện này sang chuyện khác với Vũ và Cát, mục đích làm cho cậu ta vui câu chuyện, bớt vội vàng . Bắt đầu là chuyện xe cộ, chuyện những chiếc xe cũ kỹ ở Việt Nam, nếu mang được sang bên Mỹ sẽ thành đồ cổ, hiếm (!), đến chuyện sinh hoạt đời sống bên Âu Mỹ. Có lúc anh đã định dành lấy tay lái để phóng nhanh cho Vũ thấy lái nhanh chẳng phải là điều khó khăn, nhưng rồi thấy cậu ta đã vui câu chuyện và thong thả hơn một chút, anh lại thôi.

Xe đi qua khu Bảo Lộc, nơi có một hàng quán khá rộng lớn cho du khách uống trà miễn phí, rồi một lần nữa xe lại đi qua đèo Ngoạn Mục, lần này đổ dốc xuống phía Sài Gòn. Khí hậu càng lúc càng nóng nực, và khi xe đến Biên Hoà, ngưỡng cửa của thành phố, cái nóng cộng thêm cảnh xe cộ ồn ào, ngược xuôi không tạo cho anh chút hứng thú nào cho viễn ảnh những ngày còn lại.

(còn tiếp)
tvk
#6 Posted : Tuesday, July 5, 2005 3:05:06 AM(UTC)
tvk

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 305
Points: 0

SÀI GÒN

(Đoạn này đáng lẽ nằm trên cùng, nhưng khi bắt đầu viết, tvk đã viết về Đảo để chiều theo ý Nhóc tì và mấy người bạn)

Chuyến bay dài từ Canada sang Việt Nam chia làm ba chặng . Chặng ngắn nhất, Toronto, chặng kế tiếp dài nhất là Tokyo, rồi đến chặng Sài Gòn. Toronto đi Tokyo là chặng quốc ngoại của Air Canada, dài khoảng hai mươi tiếng đồng hồ. Lộ trình bay, hình tượng hoá bằng một đường vẽ trên tấm bản đồ điện tử, thỉnh thoảng lại xuất hiện trên màn ảnh truyền hình lớn, xen kẽ cùng các cuốn phim giải trí. Đường vẽ như dấu vết của một con sên, chậm chạp nhích đi từng inch. Trong những giờ đầu tiên, nó di chuyển về phía Tây Canada, sau đó bò ngược lên Bắc Cực, băng qua cái chỏm băng giá của địa cầu, rồi vòng xuống lục địa Á châu, chầm chậm viền dọc ven biển Trung Hoa, rồi ngưng lại ở Tokyo. Đường vẽ ngoằn nghoèo dài tổng cộng chừng bốn mét, hoàn tất trong hai mươi tiếng đồng hồ. Tiếp viên của Air Canada là những bà đứng tuổi, phục phịch, chậm chạp và dửng dưng như một grandma của người khác. Người Mỹ khi nghĩ về Canada thường nghĩ về một xứ lạnh lẽo, môn thể thao chính là hockey, người Canada hiền lành chất phác, và nói câu nào cũng chêm vào tiếng "eh" ở cuối câu. Có lẽ cái hình ảnh đó về Canada được tạo nên qua chính những hoạt động thương mại, thông tin trên bình diện quốc tế như thế này. Một Canada chân chỉ hạt bột, mộc mạc, so sánh với cái khuynh hướng chú trọng đến ngoại hình của thế giới tây phương. Chương trình phát hình tin tức in-flight củng cố thêm cho định kiến, dù tốt dù xấu đó, về Canada. Hai ba cô ký giả truyền hình đọc tin tức với vẻ mặt dửng dưng, và nghiêm trọng cố hữu. Anh thường so sánh hai chủ trương gần như đối chọi nhau của hai hệ thống thông tin Mỹ và Canada, dù anh không biết chủ trương của mỗi hệ thống có được viết ra trên giấy trắng mực đen trong bản mission statement của họ hay không. Chỉ cần mở đài truyền hình ra người ta sẽ thấy ngay sự khác biệt rất rõ rệt giữa Canada và Mỹ. Đối với Mỹ, có tài không thôi, không đủ để làm ký giả truyền hình, mà phải có cả cái đẹp thể chất, nhất là phái nữ. Không hiếm ký giả truyền hình Mỹ đã từng là hoa hậu, người nào lên truyền hình cũng tươi đẹp và nụ cười không lúc nào ngưng. Đổi đài từ đài Mỹ sang đài của Canada, khán giả sẽ thấy ngay sự khác biệt. Các ký giả Canada mang đầy nét nghiêm trang, gần như ưu tư trên khuôn mặt, và ít người có thể gọi là đẹp, có khi ngược lại là khác. Người ta thường nói cái đẹp có thể làm khán giả phân trí, quên chú ý đến nội dung của bản tin. Tuy nhiên anh vẫn thích nhìn một Paula Zahn, một Betty Nguyễn của CNN hơn là nhìn một khuôn mặt sầu muộn của một bà nào đó, âu hay á, của CBC, cơ quan thông tin lớn nhất của Canada. Anh không bị phân trí bởi cái đẹp, mà ngược lại bị phân trí bởi cái vẻ nghiêm trang, lạnh lẽo trên khuôn mặt của người đọc tin. Anh nói với Thiên nhận xét của anh về điểm khác biệt đó về cái văn hoá tiềm ẩn sau hai hệ thống truyền thông, thằng nhóc nói là nó chẳng thèm để ý đến hình thức, mà chỉ theo dõi phần nội dung, bề ngoài của người ký giả dù đẹp hay xấu không làm nó phân trí chút nào.

Từ Tokyo, hãng hàng không Nhật All Nippon Airways tiếp tục đoạn còn lại đến Sài Gòn. Những cô những bà tiếp viên chậm chạp của Air Canada được thay thế bằng những cô Nhật tươi mát, trông ... chỉ muốn ôm. Nhìn mấy cô Nhật nhanh nhẹn, đằm thắm, ân cần, anh không thể hình dung được câu phàn nàn mà anh đọc ở đâu đó về thái độ kỳ thị của chiêu đãi viên Nhật "bọn nó khi rẻ hành khách Việt Nam".

Máy bay đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhất lúc hơn mười giờ đêm, sau hơn tám tiếng bay. Đi qua hải quan Tân Sơn Nhất êm xuôi, không có gì trở ngại. Tờ giấy vàng kê khai những hàng hóa hay tiền mang vào Việt Nam, lúc máy bay sắp đáp xuống phi trường, là bản văn kiện quan trọng, phải được gìn giữ cẩn thận, để ngày rời Việt Nam sẽ đưa cho họ xem để so sánh với những gì mình mang ra khỏi Việt Nam. Hành lý gửi của hai bố con, gồm ba cái suitcase, một cái lớn và hai cái nhỏ. Trong cái lớn, anh lồng một cái nữa cỡ trung bình, đựng quần áo và mấy món quà cho gia đình chú anh ở Vũng Tàu, và anh Hải ở Đảo. Anh lồng hai cái như vậy để khi về, nếu cần, sẽ có thêm đồ đựng. Hành lý lấy xong, hai bố con cùng đoàn người lũ lượt đi ra khu đưa đón. Trước khi ra hẳn được bên ngoài, đoàn người còn phải đi một quãng dài trước đám đông những thân nhân ra đón, được ngăn riêng với hành khách, bằng những hàng rào di động thấp, bằng sắt. Cảnh thân nhân ra đón người nhà thật độc đáo. Thiên quay qua anh nói:

- Mình giống celebrity!

Quả đúng vậy. Những cái nhìn chăm chú từ đàng sau hàng rào cản, những tấm bìa viết tên người thân của mình bằng nét chữ to đậm được khoa lên, những tiếng kêu gọi huyên náo, trong lúc hành khách đi phía bên này như đi trên thảm đỏ ngày trao giải Academy Awards, trước các fans đang chào đón xin chữ ký.

Phúc nhận ra hai bố con anh ngay vì đã có lần gặp anh ở Canada mấy năm trước. Dù chưa gặp nhau, nhận ra hai bố con đi chung với nhau trong đám đông, cũng không phải là khó. Phúc là em họ anh, từ Vũng Tàu ra đón. Mỗi khi đi Sài Gòn, Phúc thường ở nhà người bạn. Phúc mượn chiếc xe scooter của bạn chạy ra phi trường. Anh và Thiên đi taxi, Phúc đi scooter theo sau. Người tài xế taxi thấy anh có người nhà ra đón, có vẻ không vui, có lẽ vì sẽ khó làm tiền hơn. Phúc cho người tài xế địa chỉ khách sạn mà Phúc đã mướn phòng sẵn hộ anh. Người tài xế phóng xe như ma đuổi đến cái khách sạn trên đường Lê Thánh Tôn, gần chợ Bến Thành. Xe taxi và Phúc đến cùng một lúc. Anh hỏi giá, người tài xế nói với giọng khẩn khoản:

- Anh cho 100,000 ngàn.

Phúc nhận ra là anh ta không bật đồng hồ, nói:

- Anh không bật đồng hồ là bất hợp pháp, anh có thể bị phạt anh biết không?

Anh ta cười nói loanh quanh gì đó, rốt cuộc anh nghe lời Phúc bớt số tiền anh ta đòi xuống còn 80,000 vẫn còn hơn giá bình thường khoảng 30,000. Đó là kinh nghiệm đầu tiên của anh về buôn bán trao đổi ở Việt Nam, và anh cũng không ngạc nhiên gì.

Phúc và anh đi ăn mì ở chợ Bến Thành, Thiên không muốn đi vì mệt. Ăn xong quay về khách sạn, hai anh em nói chuyện với nhau một lát rồi Phúc ra về vì cũng đã khuya, hẹn hôm sau quay lại đưa hai bố con đi chơi. Anh hội ý với Phúc sẽ ở Sài Gòn hai hôm, rồi đi Vũng Tàu ăn giỗ ông nội anh, sau đó, sẽ quay lại Sài Gòn rồi từ Sai Gòn đi Đảo thăm anh Hải.

Hôm sau ngủ dậy hai bố con lang thang ra phố tìm được một tiệm ăn có máy lạnh gần đó ăn trưa, không đợi Phúc, vì Phúc sẽ đến trễ. Quay về khách sạn, anh lấy chìa khoá để mở cái suitcase lớn vì anh muốn kiểm soát lại mấy món đồ trong đó, kể cả bức tranh nhỏ cho anh Hải. Thử hai ba chìa mà không mở được, thật lạ lùng! Rồi anh chợt nhận ra cái khoá nhỏ có màu vàng thay vì màu đen như anh nhớ! Rồi cái name tag cũng lạ hoắc! Sao lại có chữ in? Anh viết tay mà! Nỗi chán nản ập đến khi anh nhận ra cái suitcase không phải của mình! Nó y hệt như cái của anh, mới mua trước chuyến đi, cùng một kiểu và cũng màu xanh! Mới ngày đầu tiên đã gặp chuyện rắc rối này, chán thật! Phản ứng đầu tiên của anh là như vậy, chán chường, bực bội. Nhưng rồi chỉ mấy phút sau, anh bình thản trở lại. Cùng lắm có bị mất cái suitcase đó thì mua cái khác, và những thứ trong đó đều có thể thay thế được, ngoài ra còn bảo hiểm mất hành lý trong lúc du lịch nữa, đâu đến nỗi nào. Có điều là phải trả lại cái suitcase cho chủ của nó, và việc đầu tiên là phôn cái số phôn trên cái suitcase lạ hoắc đó báo cho người ta biết, chắc họ cũng đang lo âu lắm.

Số phôn trên tấm bìa ghi địa chỉ là số long-distance của một tỉnh gần Sài Gòn, nên anh phải xuống front desk để nhờ họ gọi hộ. Cô nhân viên quay số xong, đưa ống nghe cho anh. Khi đầu giây bên kia có người trả lời, anh nói:

- A-lô, đây có phải nhà anh Tâm không, thưa bà?

- Hả, Tâm nào, tui hổng biết Tâm nào hết!

Anh ngạc nhiên vì câu trả lời không do dự, và khi nghe bà ta nói giọng Nam, anh cũng cố nói bằng cái giọng Nam mà sau này anh biết là giống giọng người tàu nói tiếng Việt:

- Ảnh mới ở Mỹ dề, ảnh có cái goa-li mà tui cầm lộn, tui muốn đưa lại cho ảnh!

Bà kia vẫn lắc đầu quầy quậy (anh đoán vậy):

- Tui hổng biết gì hết á!

Thật là lạ lùng! Mình trả lại đồ mà cũng không xong! Anh đành tạm bỏ cuộc. Một lát sau, anh lại xuống front desk nhờ cô thư ký gọi hộ lần nữa. Lần này, cô ta muốn nói hộ anh, và sau khi quay số, cô gặp được người chủ cái va-li nhấc phôn. Qua cách cô ta nói, anh nhận thấy cô ta có ý muốn dùng cái va-li mà anh cầm lộn như một vật trao đổi. Cô ta nói như thể người kia cũng có trong tay cái va-li của anh:

- Anh cầm lộn cái va-li của ảnh thì đem lại phi trường giùm rồi trao đổi.

Người kia có lẽ trả lời là không giữ va-li của anh, nên anh nghe cô ta nói tiếp:

- Vậy hả? Ảnh có cái va-li của anh đây, tưởng anh cũng cầm lộn cái của ảnh thì mang ra phi trường trao đổi lại.

-...

Anh ra dấu cho cô ta trao phôn cho anh rồi anh nói chuyện với người thanh niên bên kia đầu giây. Một lần nữa người thanh niên xác nhận là không cầm lộn va-li của anh. Anh hẹn gặp anh ta ở phi trường để anh giao va-li, và cũng để anh ta khai báo đã tìm thấy hành lý khai mất trước đó. Thế là hai bố con nhảy lên taxi ra phi trường. Xuống khỏi taxi, đang kéo cái va-li, anh đã thấy một thanh niên nét mặt hớn hở tiến lại tự giới thiệu là Tâm. Anh và anh ta đi vào chỗ quầy khai báo. Sau khi cô nhân viên đưa giấy tờ cho anh ta ký nhận đã tìm được món đồ, anh ta hân hoan chào anh sửa soạn kéo cái va-li đi. Anh đưa tay bắt tay anh ta nói câu xin lỗi, anh ta vui vẻ nói "không có chi" rồi quay đi. Sau đó, cô nhân viên chỉ cho anh đi ra chỗ kho chứa những hành lý chưa có người nhìn nhận, xem trong số những hành lý đó có cái va-li của anh không. Việc tìm kiếm không đem lại kết quả, anh quay lại quầy của cô ta điền giấy tờ khai báo. Anh để lại ba số phôn của những người thân, là số phôn tay của Phúc, số phôn nhà chú anh ở Vũng Tàu, và số phôn của anh Hải ở Đảo. Xong xuôi, cô nhân viên tên Dung ân cần dặn dò và cho anh số phôn và tên người tiếp xúc hôm sau, nếu anh cần biết thêm tin tức. Anh ra về và quyết định sẽ làm mọi việc như đã định trước, đó là đi Vũng Tàu cùng Phúc thăm chú anh, rồi đi Đảo thăm anh Hải theo ngày giờ đã định, còn cái va-li có tìm thấy hay không, không thành vấn đề.

oOo

Anh xuống xe taxi, một mình đi vào cái ngõ trên đường Trương Minh Giảng, Phúc và Thiên ngồi lại trên xe đợi anh. Trong cái ngõ này là căn nhà nơi anh chia tay với Phương, thằng bạn anh, hai mươi chín năm trước. Anh không ngờ đó là lần chót, vì sau đó anh rời Việt Nam. Anh tìm đến căn nhà thứ ba, phía bên phải, nơi mà xưa kia là vị trí của căn nhà gia đình ông Long, bác của Phương. Ở chỗ đó, bây giờ là một nhà cửa sắt, khác hẳn căn nhà trước kia. Anh nhìn quanh và nhận ra sự thay đổi của những nhà khác nữa, cái thì thành cửa tiệm, cái thì thành nhà lầu hai ba từng. Anh gõ cửa và hỏi người đàn bà trẻ ra mở cửa về gia đình ông Long ở đó năm 1975, nhưng chị hoàn toàn không biết, vì chị ta ở đó mới khoảng năm năm nay. Anh thất vọng, đi sang mấy nhà và cửa tiệm gần đó hỏi thì biết rằng người nào đã ở đó lâu nhất cũng chỉ chừng mười lăm năm nay. Họ chỉ đưa ra câu đoán mơ hồ là hình như gia đình ông Long đã vượt biên từ lâu rồi. Anh tự hỏi cái gì đã khiến anh nuôi một hi vọng khá mạnh là khi tìm về đó anh sẽ biết được tin tức của thằng bạn cũ? Phải, hai mươi chín năm, xa xôi lắm rồI, hai mươi chín năm như gió thoảng, nhưng đủ để bôi xoá hết những dấu vết một đoạn đời. Anh chợt nhận ra cái ngây thơ của mình. Làm sao cái ngõ năm xưa đó có thể tách hẳn ra khỏi những đổi dời của thời gian, để trở thành một time capsule nguyên vẹn đợi ngày anh về thăm, sau một góc đời người. Khung cảnh cái ngõ hẻm đó bây giờ khác hẳn với hình ảnh của cái ngõ hẻm mà anh đã có mang trong trí nhớ, trước khi tìm về. Phương ơi, giờ này mày ở đâu, em mày con bé Xuân chắc cũng đã tay bế tay mang, mọi người trong gia đình mày ra sao? Đâu hết cả rồi?

Dời con hẻm nhỏ, anh nói người tài xế đưa đến chùa Vĩnh Nghiêm, cách đó không xa. Hai bố con lên chính điện thắp hương, rồi đi vòng quanh chùa, qua những nhà ngang bên trong có những tu sĩ áo nâu ngồi chuyện trò. Anh tự hỏi không biết bây giờ việc tu tập ra sao. Xung quanh chùa cây cối xanh mát, có quán nước, có cả những người bắt chim sẻ bỏ lồng, rồi bán cho những ai muốn mua để phóng sinh mà được phước. Chỉ tội nghiệp mấy con chim sẻ hoang mang không biết tại sao cứ một người bắt, một người thả, chế độ cũ có vậy đâu.

Từ chùa Vĩnh Nghiêm, anh nói người tài xế đưa đến một địa chỉ bên Khánh Hội để thi hành sứ mạng chị Ngọc nhờ, đó là tìm đến ông thày học cũ của chị năm xưa ở Huế, cụ Giản Chi, bây giờ đã hơn một trăm tuối. Cái địa chỉ thật hiểm hóc, ba bốn cái "xuyệc, xuyệc", slash/slash, không thể tìm ra, và cuối cùng anh phải hỏi mấy người lối xóm về một "ông cụ hơn trăm tuổi", thế là người ta "à" một tiếng, dắt anh đến ngay căn nhà cửa sắt, cao ráo nằm sâu trong con hẻm ngoằn nghoèo. Sứ mạng của anh chỉ là giao lá thư thăm thày học cũ của chị Ngọc kèm thêm khoản tiền nhỏ biếu thầy.

Xong việc, trời đã tắt nắng, taxi quay về khách sạn, kết thúc một ngày loanh quanh trong phố. Ăn uống xong, Phúc, Thiên và anh thả bộ dọc đường Lê Thánh Tôn vừa ngắm phố xá, vừa tìm chỗ đổi tiền. Ba người ghé vào một tiệm vàng, và trong lúc chờ đợi anh đổi tiền, Thiên hỏi giá mấy món nữ trang có ý muốn mua cho mấy đứa bạn con gái. Phúc và anh thấy vậy, biết là giá cả thế nào cũng bị thổi phồng lên, nên chen vào mặc cả giùm nó, trong khi nó lăm le định trả liền bằng mớ tiền nó có trong túi. Còn ngây thơ, không quen với việc trả giá, nó trách nhẹ anh:

- Mình giúp người ta mà bố.

Anh nói với nó:

- Người ta inflate prices đó con à, phải trả giá chứ.

Sau cùng bớt được mấy chục đô cho hai món đeo cổ, đeo tay, mà Phúc nói vẫn còn đắt, ba người ra khỏi tiệm. Anh nói với Thiên:

- Những tiệm nữ trang này giàu lắm đó con à, họ không phải là người cần giúp đâu. Họ cố làm tiền của khách du lịch nhiều chừng nào hay chừng đó. Những người nghèo là những người buôn bán lề đường kia kìa.

Chiều hôm sau, Phúc và hai bố con ra bến tàu "cao tốc" đi Vũng Tàu. Lòng tàu khoảng sáu mét chiều ngang, tuy đã cũ, với những ô cửa sổ mờ đục nứt nẻ, nhưng cũng có máy lạnh, có ghế đệm dễ chịu. Ba người leo lên phòng hoa tiêu, chỗ cao nhất trên tàu, ngắm cảnh sông nước. Anh kể cho Thiên đây chính là cửa sông mà tàu Hải Quân 502 đã đưa gia đình anh rời Việt Nam đêm 29 rạng ngày 30 tháng Tư năm 1975. Con tàu có hai máy, nhưng chỉ có một máy còn chạy, tập tễnh trong đêm tối, ra đi bình yên không bị đạn pháo kích có thể bắn ra từ hai bên bờ sông lau xậy phủ đầy.

Đến Vũng Tàu, Phúc đưa hai bố con đi thuê khách sạn theo lời anh đề nghị, dù chú anh đã ân cần kêu anh về nhà chú ở. Anh thích khách sạn hơn để không bị gò bó. Phúc về nhà Hoa, chị Phúc và cũng là em họ anh, lấy xe hơi của Hoa quay về khách sạn đón anh và Thiên lại nhà Hoa. Sau 1975, Hoa lấy chồng công chức, nhà cửa khang trang, kín cổng cao tường. Nhà hai tầng kiến trúc khá đẹp, sân lót gạch đỏ sạch sẽ từ cổng vào đến garage. Trong nhà trần cao, nền lót đá cẩm thạch, cầu thang cong dẫn lên tầng trên, đồ đạc sang trọng. Theo tiêu chuẩn Việt Nam, sự khá giả thật rõ rệt. Sau đó Phúc đưa anh và Thiên lại nhà chú anh. Một nửa phía trước của căn phố chú anh làm văn phòng hãng du lịch, một nửa là garage và cũng là lối đi riêng vào nhà ở phía sau. Một lần nữa hai chú thím lập lại ý muốn anh lại đó ở, và đã dành phòng trên lầu cho hai bố con, nhưng anh từ chối. Sau khi ở thăm chú thím một lát, anh chào hai người rồi cùng Phúc đi về khách sạn. Trước khi đi, chú nhắc ngày hôm sau lại ăn giỗ ông nội. Tối hôm đó, Phúc đưa anh và Thiên đi ăn rồi đi thăm cô anh mà xưa kia trước 1975 ở ngoài Bắc, anh chưa gặp bao giờ, trước khi về nghỉ ngơi.

Hôm sau anh lại nhà chú anh ăn giỗ và được gặp mặt đầy đủ các người em họ, nay đã có gia đình gần hết trừ Phúc và Như, chị Phúc. Trời nóng bức và nhà không có máy lạnh, dù nhiều món ăn ngon, anh và Thiên không ăn được nhiều, trong lúc mọi người không hề quan tâm đến cái nóng, vẫn vui vẻ ăn uống dù mồ hôi toát ra. Anh nhớ lại là xưa kia khi còn ở Việt Nam anh cũng quen thuộc với cái nóng như vậy. Anh có dịp gặp lại các em họ mà anh đã không gặp từ trước 1975, vì hồi đó không ở chung thành phố. Và anh có dịp gặp lần đầu tiên hai người em họ trước kia ở ngoài Bắc, cũng như hai người chồng của hai cô em họ, hiện đang làm cho nhà nước.

(còn tiếp)
tvk
#7 Posted : Monday, October 24, 2005 12:25:01 PM(UTC)
tvk

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 305
Points: 0

Đã bao năm qua rồi, gặp lại những người có liên hệ họ hàng này của anh để nhận thấy rằng họ cũng như bao nhiêu gia đình khác, bị lôi cuốn vào vòng quay của xã hội. Họ chỉ là một bộ phận bé nhỏ của guồng máy, chỉ có thể cố gắng chạy nhanh hơn một chút, với chút dầu mỡ, chứ không thể làm cho guồng thành tối tân hơn, trong khi toàn thể guồng máy, hay ít nhất một bộ phận quan trọng của nó, cần phải được bỏ đi, thay thế bằng một guồng máy khác, mới mong có cải tiến trong đời sống. Guồng máy tiếp tục quay nghiến. Cái nếp hư hỏng rất khó sửa đổi. Biết đến bao giờ những bất công được giảm bớt để bất cứ người Việt Nam nào cũng có được những nhu cầu tối thiểu, có một ngôi nhà lành lặn, ngăn nắp để chui ra chui vào, có đủ cơm ăn, áo mặc, có đủ thuốc men và những phương tiện y tế căn bản?

Giữa bữa ăn, người nhà gọi Cường, anh của Phúc, ra có điện thoại. Một lát Cường quay vô nói cho anh biết hãng All Nippon Airways đã tìm được cái va-li của anh. Buổi chiều, Phúc đưa anh và Thiên đi vòng mấy nơi, Bãi Trước, Bãi Sau, phố xá. Có những công trình xây cất đồ sộ bị bỏ dở vì những người liên hệ hoặc bị tù tội, hoặc đã bị hành quyết vì tham nhũng. Những cảnh đó ở nơi nào cũng có, nhan nhản đến nhàm chán chứ không phải là lẻ tẻ.

Hôm sau, hai bố con anh cùng Phúc quay lại Sài Gòn, rồi chia tay nhau ở đó. Phúc đi Pháp, nơi Phúc định cư sau khi vượt biên giữa thập niên 1980. Anh và Thiên sẽ đi Đảo hôm sau.

(Chuyến đi Đảo đã kể trước tiên bên trên.)


oOo

(Tiếp theo đoạn từ Đà Lạt trở về Sài Gòn bỏ dở bên trên)

Cát, Vũ và hai bố con anh tìm được một khách sạn trên đường Lê Thánh Tôn, gần khách sạn lần trước hai bố con ở, trước khi đi Nha Trang, Đà Lạt. Cát đi thăm bệnh nhân ngay chiều hôm đó, rồi hai thày trò Cát ngủ lại đó một đêm, hôm sau Cát và Vũ sẽ trở về Đà Lạt.

Buổi sáng, trước khi Cát và Vũ chia tay với hai bố con anh, bốn người cùng đi ăn sáng ở tiệm phở "Clinton" chợ Bến Thành. Chạy lòng vòng một hồi, Vũ cũng kiếm được chỗ đậu xe. Nếu chàng biết "parallel parking" thì đỡ khổ hơn, đàng này mỗi khi muốn đậu xe trên đường phố, chàng chỉ biết tấp vào lề đường, nên tìm mãi mới may mắn kiếm được một chỗ đủ rộng cho chàng tấp xe vào. Cựu tài xế xe đò ... kinh thật, chỉ tiến chứ nhất định không lùi! Thì ra ở đây, người lái xe chỉ cần biết...lái xe, không cần biết đậu xe, không cần tôn trọng luật đi đường, không cần tôn trọng quyền của người đi bộ, mà người đi bộ cũng không dám phàn nàn khi quyền của mình bị xâm phạm, và sẵn sàng chấp nhận bị người lái xe mắng vốn nữa vì dám ngang nhiên đi trên chỗ dành cho người đi bộ!

Tiệm phở và buổi sáng cũng bình thường như mọi buổi sáng khác của Sài Gòn. Cái nóng bao bọc lấy người và sẽ bao bọc suốt ngày nếu không tìm trốn trong những nơi có máy lạnh, hay một xe taxi có máy lạnh. Làm gì cũng không thấy thích khi mà lưng áo ướt sũng mồ hôi. Nhìn những tô phở nóng cũng đoán trước được hậu quả sau khi ăn xong.

Bốn người ngồi tại một bàn sát cạnh hàng rào sắt thấp, ngăn đôi lề đường và tiệm. Người lớn, trẻ em bán hàng rong ghé lại mời mua báo, mua quạt giấy, mua vé số. Một đứa bé gái chìa xấp vé số ra mời. Thiên ngồi đối diện, nhìn anh, hỏi:

- Con hỏi nó có muốn ăn phở không nghe bố?

Anh sốt sắng gật đầu:

- Ừ, con hỏi đi!

Thiên quay sang bé gái, nhẹ nhàng và rành rọt từng chữ, hỏi bằng một câu thiếu chủ từ:

- Có muốn ăn phở không?

Con bé nhìn Thiên ngần ngại, lắc đầu. Thiên lại hỏi:

- Có muốn uống gì không?

Con bé lại lắc đầu. Anh đưa nó mấy tờ giấy bạc nhưng không nhận vé số vì xưa nay anh không hề mua vé số, hơn nữa, ở Sài Gòn, có mua xong chắc cũng ngại tìm chỗ để dò số. Sau đó, nghĩ lại anh hơi ân hận. Hẳn là đứa bé gái sẽ hãnh diện hơn nếu nó thực sự cảm thấy đã làm một công việc buôn bán, hơn là được cho không. Anh đã làm cho nó mất một cơ hội có được niềm hãnh diện đó. Trước đó, hai bố con anh đã nói chuyện với nhau về những đứa bé bán hàng rong, rồi đi đến nhận xét là nhiều đứa bị bọn người lưu manh lợi dụng, bắt đi bán rong, hay ăn xin đem tiền về cho họ, mà chưa chắc đã được chia cho một phần tiền kiếm được. Anh và Thiên đã từng thấy bên lề đường nắng chang chang, một người đàn bà ăn xin, ôm đứa bé sơ sinh, ngửa mặt lên trời, cho người qua lại thấy rõ hai mắt nó mù trắng cả hai tròng. Anh bỏ tiền vào cái lon mà trong lòng tự hỏi không biết mình đang làm việc giúp người hay hại người đây? Cặp mắt của đứa nhỏ kia mù bẩm sinh hay bị làm cho mù để trở thành dụng cụ làm tiền? Có phải người đàn bà kia mang nó ra phơi nắng, giữ cho nó đủ thoi thóp, để gợi lòng thương, hay chị ta thực sự không còn cách nào khác hơn là phải mang theo nó bên người? Thế rồi hai bố con anh hội ý với nhau là lần sau gặp đứa trẻ bán rong nào thì hỏi nó có muốn ăn không, vì những kẻ lợi dụng chúng không thể đòi chia những gì trong bụng chúng được! Chính vì vậy mà lần này Thiên đưa ra đề nghị hỏi đứa bé gái như vậy.

Chia tay với Cát và Vũ, hai bố con sẽ ở lại Sài Gòn một tuần nữa trước khi quay về Canada. Một tuần có thể rất mau và cũng có thể rất lâu, khi tự trong lòng đã không còn hứng thú gì nữa. Anh và Thiên rủ nhau đi Bình Quới, và một "amusement park" gần Biên Hoà, rồi chẳng muốn đi đâu nữa, dành mấy ngày còn lại đi loanh quanh mua quà cho Bé Duyên và quà kỷ niệm. Duyên dặn bố mua cho nó mấy xách tay Louis Vuitton ... giả vì các bạn nó có; ông Ngà, một người quen, nhờ mua bộ "Thần Điêu Đại Hiệp". Chà nhờ ai bây giờ? À được rồi, còn gặp chị Thanh lấy mấy món đồ chị ấy gửi cho con gái bên Canada, nhân tiện sẽ hỏi chị ấy chỗ mua sách và mua xách tay.

Hai bố con lại đi lòng vòng hết Thương Xá Tax đến khu buôn bán quanh đó, và chợ Bến Thành, rồi cũng mua được mấy món cho Duyên. Ba cái xách tay ba kiểu lớn nhỏ khác nhau ở ba tiệm khác nhau, và giá tiền giảm dần từ cái thứ nhất đến cái thứ ba vì mỗi lần lại mặc cả bạo hơn một chút. Việc mua sắm tự nó là một kinh nghiệm mới lạ đối với Thiên, va` no’ co`n co’ di.p nhi`n thêm tu*` những góc cạnh đặc biệt khác của sinh hoạt tại một nước nghèo nơi bố nó lớn lên. Nó được nhìn thấy tận mắt cảnh một đứa bé chỉ chừng năm tuổi, rình rập thọc tay vào túi một ông, có lẽ là du khách. So sánh Thiên bây giờ so với Thiên lúc mới tới Sài Gòn, mua mấy món nữ trang cho bạn trong tiệm kim hoàn, hẳn đã thực tế hơn va` hieu biet hon nhieu.

Sau khi anh điện thoại cho chị Thanh, chị và Tuấn, con trai chị đến khách sạn đưa gói đồ nhờ mang qua Canada cho con gái chị. Anh mời chị và Tuấn đi ăn buffet tàu trong chợ lớn. Trời tối đó mưa như trút nước, cái nhà hàng mang cái tên từ trước 1975, nằm ngay góc đường Trần Hưng Đạo và một đường khác, vậy mà người taxi đi "lạc" một hồi khá xa mới tìm ra! Ăn xong, còn sớm anh nhờ Tuấn đưa đi hát karaoke vì từ trước đến giờ chưa đi bao giờ. Tuấn nói tên quán karaoke cho người tài xế taxi, và anh ta đưa mọi người đến đó. Trước kia, anh tưởng đó là một thu phòng tra, mọi người đều vô đó, ai muốn hát thì lên hát. Thì ra không phải vậy. Mỗi nhóm khách được dành cho một phòng riêng, nhỏ dài, có thể chứa được hơn mười người. Phòng có ghế đệm bọc hình chữ U ở một đầu, đầu kia là màn máy truyền hình và hệ thống âm thanh. Nhạc và âm thanh rất mạnh, rất nổi, giá có một nhóm bạn đông, hẹn nhau từ trước, chắc sẽ vui lắm. Tuấn và anh mỗi người hát vài bài rồi ra về.

Ngày sinh nhật của Thiên vào tuần lễ đầu tháng Bảy. Hai bố con lang thang ra phố, anh mua cho nó một cái áo jacket có đủ mọi thứ túi trên dưới, trong ngoài, như áo đi rừng. Anh chọn một tiệm để bảng pizza vì thằng nhóc “nhớ” món đó. Thiên ăn ngon lành mấy orders pizza mỏng giống bánh xèo.

Chuyến du lịch tìm về chốn cũ rồi cũng kết thúc. Hai ngày cuối, hai bố con không đi đâu nữa. Bắt đầu thèm những quen thuộc của căn nhà mình ở, và những ràng buộc từ bao năm. Liệu có bao giờ anh làm được như anh Hải, một người suốt đời quen với cuộc sống đơn độc, quay về một đảo miền quê, hưởng những ngày hưu? Anh không nghĩ mình có thể làm như vậy, nếu chung quanh không có một nhóm bạn bè sống gần nhau. Dẫu sao, đó chưa phải là điều anh cần quyết định sáng mai khi thức dậy.

Quê hương của anh đó, với những rộn ràng, bon chen, những nghèo nàn, tội nghiệp, những ích kỷ dễ ghét của bọn con buôn mà cái giàu làm cho họ thêm bần tiện. Quê hương của anh đó, với những điên đảo, nhũng lạm của những kẻ có thế lực mà họ phải bảo vệ bằng mọi giá cho riêng họ cho con cháu họ.

Quê hương của anh đó, với những kẻ đi xa rồi trở về thăm như anh, để cảm thấy tội lỗi vì những tiện nghi vật chất mà mình có bên trời âu. Về thăm để rồi lại ra đi như một kẻ qua đường, ghé lại rồi đi. Bao nhiêu năm qua rồi, những kẻ đi xa, ở bên kia đại dương, đã không còn sôi nổi kêu gọi nhau trở về "khôi phục" nữa, khi mà những ràng buộc đối với cái gọi là quê hương thứ hai đã trở thành quá chặt, và những ràng buộc với nơi chôn nhau cắt rốn càng ngày càng phai nhạt, "xa mặt cách lòng". Thế hệ sau nơi xứ người không còn cảm thấy gần gũi với quê hương của cha mẹ chúng nữa, vì chúng phải có bổn phận của chúng đối với nơi chúng sinh ra và lớn lên, "ăn cây nào, rào cây nấy" như cha mẹ chúng đã được dạy xưa kia. Vai trò của chúng đối với quê hương của cha mẹ chúng, nếu có sẽ chỉ là vai trò thân hữu.

Một ngày nào đó rất xa, xa lắm trong tương lai, sẽ có một đứa trẻ của thế hệ thứ ba, thứ tư trên một xứ Bắc Mỹ xa xôi kia, lục tìm trên Internet tài liệu về nguồn gốc của nó, một xứ vùng Đông Nam Á, có cái tên gọi Việt Nam, để viết một bài luận văn phải nộp ngày mai với tựa đề "Gia phả của tôi", không biết nó có biết rằng những dòng chữ này chính là để dành cho nó, hướng về nó, dù hiện tại đã thành hư vô và hư vô đã thành hiện tại.

Hết
Users browsing this topic
Guest (8)
Forum Jump  
You cannot post new topics in this forum.
You cannot reply to topics in this forum.
You cannot delete your posts in this forum.
You cannot edit your posts in this forum.
You cannot create polls in this forum.
You cannot vote in polls in this forum.